Thứ Tư, 29 tháng 5, 2019

Ngày vía Phật Mẫu 18 tháng 10






Diêu Trì Kim Mẫu - Phật Mẫu Diêu Trì - Diêu Trì Địa Mẫu

Nhớ Xưa Mười Tám Tháng Mười

Là Ngày Phân Định Đất Trời Hai Ngôi


Nhân ngày 18 tháng Mười âm lịch, ngày tạo Thiên lập Địa, chúng ta cùng tìm hiểu về sự tích Đức Diêu Trì Địa Mẫu (Phật Mẫu Diêu Trì). Ngài từ đâu đến, xuất xứ các danh hiệu, và quyền năng của ngài. Vì sao nơi thờ phụng Ngài lại gọi là Điện mà không gọi là Đền, cùng nhiều sự tích lý thú khác.

Diêu Trì Kim Mẫu - Phật Mẫu Diêu Trì (Diêu Trì Địa Mẫu).

Kim Mẫu: là từ nói tắt của danh hiệu: Kim Bàn Phật Mẫu, nghĩa là Đức Phật Mẫu chưởng quản Kim Bàn nơi Diêu Trì Cung. Kim Bàn hay Kim Bồn là nơi Đức Phật Mẫu chứa các nguyên chất để tạo ra chơn thần cho vạn linh.



* Diêu Trì Kim Mẫu là Đức Phật Mẫu chưởng quản Kim Bàn nơi Diêu Trì Cung.

* Phật Mẫu Diêu Trì là Đức Phật Mẫu ở Diêu Trì Cung.

Đây là hai danh hiệu của Đức Phật Mẫu.


I. Đức Phật Mẫu là ai?

Theo Vũ Trụ quan khi chưa có Trời Đất, còn trong thời kỳ Hỗn Mang, trong vũ trụ chỉ có một chất khí hỗn độn, mờ mờ mịt mịt, lặng lẽ vô vi, thanh trược hỗn hợp, nhưng vô cùng huyền diệu, gọi là khí Hư Vô (còn gọi là Tiên Thiên Hư Vô Chi Khí).



Khí Hư Vô ấy lần lần ngưng kết rồi nổ ra một tiếng thật lớn, sanh ra một khối Đại Linh Quang, cũng gọi là Thái Cực, trọn lành trọn tốt, toàn tri toàn năng, thiên biến vạn hóa, vô tận vô cùng.



Vũ trụ từ đây bắt đầu có một ngôi Thái Cực duy nhứt, là Đại Hồn của một Đấng duy nhứt được gọi là Ngọc Hoàng Thượng Đế mà chúng ta thường gọi là Đức Chí Tôn.



Đức Chí Tôn phân Thái Cực ra Lưỡng Nghi: Dương Quang và Âm Quang. Đức Chí Tôn chưởng quản Khí Dương Quang, còn Khí Âm Quang chưa có ai chưởng quản, vì Càn khôn Vũ trụ lúc bấy giờ chỉ có một mình Đức Chí Tôn mà thôi. Đức Chí Tôn mới hóa thân ra Đức Phật Mẫu để chưởng quản Khí Âm Quang.



Vậy, nguồn gốc của Đức Phật Mẫu là một hóa thân đầu tiên của Đức Chí Tôn để làm chủ Khí Âm Quang, cầm phân nửa quyền lực của Đức Chí Tôn và luôn luôn tùng theo mạng lịnh của Đức Chí Tôn. (Khi Đức Chí Tôn tạo dựng ra Càn khôn Vũ trụ tới đâu thì Đức Chí Tôn tiếp tục hóa thân ra các Đấng khác để chưởng quản tới đó).



Vũ trụ tới đây đã có 2 khối chất khí vĩ đại là Dương Quang và Âm Quang, và có 2 Đấng đầu tiên cầm quyền Càn khôn



Vũ trụ là Đức Chí Tôn và Đức Phật Mẫu.



Sau đó, Đức Phật Mẫu vâng lịnh Đức Chí Tôn, thâu lằn sanh quang của ngôi Thái Cực, rồi đem Âm Quang phối hợp với Dương Quang để tạo hóa ra các tầng Trời, các quả Tinh Cầu và các Địa Cầu, tạo thành Càn khôn Vũ trụ.



Tiếp theo, Đức Phật Mẫu tạo hóa ra Vạn Linh nơi cõi Thiêng Liêng vô hình. (Vạn Linh gồm đủ Bát Hồn: Kim Thạch Hồn, Thảo Mộc Hồn, Thú Cầm Hồn, Nhơn Hồn, Thần Hồn, Thánh Hồn, Tiên Hồn, Phật Hồn).



Rồi Đức Phật Mẫu lại cho Vạn Linh đầu kiếp xuống các Địa Cầu tạo thành Vạn Vật, tức là Chúng Sanh. (Chúng sanh gồm: Kim Thạch, Thảo Mộc, Thú Cầm, Nhơn Loại).


Phật Mẫu Chơn Kinh:

Bát Hồn vận chuyển hóa thành Chúng Sanh.




* Mỗi một người nơi cõi thiêng liêng đều có 2 thể:
Một Chơn Linh, tức là Linh Hồn, do Đức Chí Tôn ban cho. Chơn Linh nầy chỉ là một điểm Linh Quang do Đức Chí Tôn chiết ra từ khối Đại Linh Quang của Ngài, ban cho mỗi người để con người có được Tánh Linh, có được sự sống và biết gìn giữ sự sống ấy.
Một Chơn Thần, tức là một Xác Thân thiêng liêng hay Hình Hài thiêng liêng, do Đức Phật Mẫu tạo ra và ban cho để làm hình thể vô vi, bao bọc Chơn Linh.

  • Do đó, con người nơi cõi thiêng liêng gọi Đức Chí Tôn là Đại Từ Phụ, gọi Đức Phật Mẫu là Đại Từ Mẫu. Ấy là 2 Đấng CHA MẸ chung thiêng liêng vĩ đại nơi cõi Hư Linh.

  • Khi con người ấy đầu kiếp xuống cõi Phàm Trần thì Chơn Linh và Chơn Thần của người ấy liền nhập vào thai nhi ngay lúc được sanh ra từ trong bụng bà mẹ phàm trần. Vậy:



* Một con người nơi cõi phàm trần có 3 thể:

  • Chơn Linh (đã giải nghĩa ở trên) do Đức Chí Tôn ban cho. 

  • Chơn Thần (đã giải nghĩa ở trên) do Đức Phật Mẫu tạo ra. 

  • Xác Thân phàm trần do cha mẹ phàm trần tạo ra. 

Như thế, một con người nơi cõi Phàm Trần, ngoài hai Đấng CHA MẸ Chung Thiêng Liêng, còn có thêm Hai Vị Cha Mẹ Phàm Trần nữa.



  • Tóm lại, toàn cả chúng sanh trong Càn Khôn Vũ Trụ hay toàn cả Vạn Linh, đều là con cái của Đức Chí Tôn và Đức Phật Mẫu, dầu cho đó là những vị Phật cao siêu như Đức Phật Thích Ca, Đức Phật Di-Lạc, Đức Lão Tử, Đức Khổng Tử, Đức Chúa Jésus, v.v. TẤT CẢ ĐỀU LÀ CON CÁI CỦA ĐỨC CHÍ TÔN VÀ PHẬT MẪU.



  • Hiện nay, Đức Phật Mẫu ngự tại Cung Diêu Trì, ở tầng Trời Tạo Hóa Thiên, là tầng Trời thứ 9 trong Cửu Trùng Thiên.



  • Theo Di Lặc Chân Kinh, Đức Phật Mẫu cùng các vị Phật: Quảng Sanh Phật, Dưỡng Dục Phật, Chưởng Hậu Phật, Thủ Luân Phật, với Cửu Vị Nữ Phật, và hằng hà sa số chư Phật khác, thường đi đến các cõi trần để dưỡng dục chúng sanh qui nguyên Phật Vị.


  • Đức Phật Mẫu được nhơn loại tôn xưng bằng nhiều danh hiệu khác nhau, tùy theo tín ngưỡng tôn giáo, dân tộc và địa phương, kể ra như sau đây:
  • Phật Mẫu, vì là MẸ thiêng liêng của toàn Vạn Linh và Chúng Sanh. 
  • Diêu Trì Kim Mẫu, vì Đức Phật Mẫu ngự tại Diêu Trì Cung. 
  • Kim Bàn Phật Mẫu, vì Đức Phật Mẫu chưởng quản Kim Bàn nơi Diêu Trì Cung. 
  • Cửu Thiên Huyền Nữ, vì Đức Phật Mẫu rất huyền diệu, ngự tại tầng Trời Tạo Hóa Thiên là tầng thứ 9 trong Cửu Trùng Thiên. 
  • Đức MẸ thiêng liêng,
  • Đại Từ Mẫu,
  • Thiên Hậu,
  • Địa Mẫu,
  • MẸ sanh.

Đức Phật Mẫu là tôn thờ NGÔI ÂM, tức là Ngôi Thứ Nhì; còn NGÔI DƯƠNG là Đức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Đế, tức Ngôi Thứ Nhất.

Đây là một Triết lý hết sức mới mẻ và đúng đắn mà từ trước tới nay các Tôn Giáo chưa từng có. Họ chỉ biết thờ Ngôi Dương mà thôi.



II. Quyền năng của Đức Phật Mẫu:

Quyền năng to lớn của Đức Phật Mẫu được cho biết trong hai bài kinh: Phật Mẫu Chơn Kinh và Tán Tụng Công Đức Diêu Trì Kim Mẫu, và trong các bài Thánh Ngôn của Đức Phật Mẫu giáng cơ ban cho (Thánh Ngôn của Đức Diêu Trì Kim Mẫu có chép trong phần sau).

Một số quyền năng của Đức Phật Mẫu được biết kể ra như sau:



■ 1. Chủ Âm Quang:

Đức Chí Tôn làm chủ Dương Quang, Đức Phật Mẫu làm chủ Âm Quang, nghĩa là Đức Chí Tôn giao cho Đức Phật Mẫu làm chủ phần Âm trong toàn cả Càn Khôn Vũ Trụ.


Phật Mẫu Chân Kinh:

Chủ Âm Quang thường tùng Thiên Mạng.




■ 2. Chưởng quản Kim Bàn:

Kim Bàn hay Kim Bồn là nơi Đức Phật Mẫu dùng chứa các nguyên chất để tạo Chơn Thần (Xác thân thiêng liêng) cho con người nơi cõi Thiêng Liêng.


Kinh đệ cửu cửu:

Nơi Kim Bồn vàn vàn nguơn chất,
Tạo hình hài các bậc nguyên nhân.




■ 3. Chưởng quản Vườn Đào Tiên:

Đức Phật Mẫu lập ra Vườn Đào Tiên và dùng các quả Đào Tiên ban thưởng cho các Chơn linh tu hành đắc đạo khi trở về cõi Thiêng Liêng Hằng Sống.


Phật Mẫu Chân Kinh:

Chưởng Đào Tiên thủ giải trường tồn.


Kinh Đệ nhị cửu:

Tây Vương Mẫu vườn Đào ươm chín,
Chén Trường Sanh có lịnh ngự ban.
Tiệc Hồng đã dọn sẵn sàng,
Chơn Thần khá đến hội hàng Chư Linh.


Hằng năm, đến kỳ Đào Tiên chín, Đức Phật Mẫu mở Hội Yến Bàn Đào nơi Diêu Trì Cung, dùng các quả Đào Tiên và Tiên Tửu, đãi các Đấng Tiên Phật nơi cõi Thiêng Liêng.



■ 4. Tận độ nhơn sanh:

Toàn cả nhơn loại, nhất là 92 ức nguyên nhân đang còn trầm luân nơi Cõi Trần, đều là con cái thương yêu của Đức Phật Mẫu. Đức Phật Mẫu tận dụng các hình thức giáo hóa để cứu độ tất cả con cái của Ngài, đem trở về cõi Thiêng Liêng, giao cho Đức Chí Tôn phán định phẩm tước và ngôi vị.


Phật Mẫu Chân Kinh:

Nghiệp hồng vận tử hồi môn,
Chí Công định vị vĩnh tồn Thiên Cung.




■ 5. Chưởng quản Tạo Hóa Thiên:

Tạo Hóa Thiên là tầng Trời rất huyền diệu, cao nhất trong Cửu Trùng Thiên.

Theo Di Lặc Chân Kinh: "Tạo Hóa Huyền Thiên Hữu: Quảng Sanh Phật, Dưỡng Dục Phật, Chưởng Hậu Phật, Thủ Luân Phật, Dữ Cửu vị Nữ Phật, như thị đẳng hằng hà sa số Chư Phật, tùng lịnh Kim Bàn Phật Mẫu, năng tạo năng hóa Vạn Linh, năng du Ta-bà Thế giới, dưỡng dục quần sanh, qui nguyên Phật Vị.



Nhược hữu thiện nam tử, thiện nữ nhân, Thính Ngã Dục Tu phát nguyện: Nam mô Kim Bàn Phật Mẫu dưỡng dục quần linh; nhược hữu sanh, nhược vị sanh, nhược hữu kiếp, nhược vô kiếp, nhược hữu tội, nhược vô tội, nhược hữu niệm, nhược vô niệm, huờn hư thi hình đắc A-Nậu Đa-La Tam-Miệu Tam-Bồ-Đề xá lợi tử qui nguyên Phật Vị, tất đắc giải thoát."



Nghĩa là: Tầng Trời Tạo Hóa Thiên huyền diệu có: Quảng Sanh Phật, Dưỡng Dục Phật, Chưởng Hậu Phật, Thủ Luân Phật, cùng với Chín vị Nữ Phật, như các cấp vô số Phật, tuân theo mạng lịnh của Đức Phật Mẫu chưởng quản Kim Bàn, có khả năng tạo hóa tất cả Chơn Linh, có khả năng đi đây đi đó đến các cõi trần, nuôi nấng chăm sóc chúng sanh, trở về nguồn cội là ngôi vị Phật.



Nếu như có người nam lành, người nữ lành, nghe theo lời Ta, muốn tu hành thì phát ra lời nguyện:Nam mô Kim Bàn



Phật Mẫu nuôi nấng chăm sóc tất cả các Chơn linh ; nếu như có sanh ra, nếu như chưa sanh ra, nếu như có kiếp sống, nếu như không có kiếp sống, nếu như có tội, nếu như không tội, nếu như có lòng tưởng niệm, nếu như không có lòng tưởng niệm, trở lại cõi Hư Vô, thi hành đúng theo khuôn phép, được phẩm vị Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, Chơn Thần trở về nguồn cội là ngôi vị Phật, ắt được giải thoát.



Sự tích: Vua Hớn Võ Đế rước Đức Phật Mẫu Diêu Trì:

  • Vua Hớn Võ Đế hay Hán Vũ Đế (141-87 trước Tây lịch) là vị vua thứ 5 của nhà Hớn (Hán) bên Tàu, có hùng tài đại lược, nhưng cũng rất tín ngưỡng Trời Phật.



  • Khi Hớn Võ Đế mới lên ngôi, Ngài có phát nguyện lập một cảnh chùa thật tráng lệ gọi là HOA ĐIỆN để sùng bái Trời Phật. Gọi là Hoa Điện, vì chùa nầy được chạm khắc hình các thứ hoa trên các vật liệu xây dựng, nên mới trông vào thấy như là một Cung Điện toàn bằng hoa.



  • Ngôi chùa lớn lao cực kỳ xinh đẹp như thế, nhưng nhà vua chưa quyết định thờ Đấng nào, chỉ để trống, chủ tâm là chờ đợi đến chừng nào nhà vua thấy được sự huyền diệu hiện ra thì nhà vua mới sùng bái.



  • Đến năm Hớn Võ Đế được 61 tuổi, nhà vua tổ chức một Lễ Khánh Thọ Đáo Tuế long trọng, Ngài có sở vọng cầu khẩn thế nào cho có Đức Phật Mẫu giáng xuống chứng lễ, nên nhà vua lập bàn hương án trước sân chùa cầu khẩn ngày đêm, mà không biết Đức Phật Mẫu ngự ở nơi nào và có thấu biết chăng?



  • Lúc bấy giờ có Ông Đông Phương Sóc, tu đắc đạo thành Tiên, mà trước kia Ông có làm quan trong triều đình của Hớn Võ Đế, sau về núi tu luyện, đang ngồi tịnh, chợt động tâm, liền đoán biết hiểu rõ mọi việc của Võ Đế nơi triều đình. Ông liền xuống núi, đi đến kinh đô, vào triều đình yết kiến Võ Đế.



  • Vua Hớn Võ Đế gặp Đông Phương Sóc thì rất mừng rỡ, thuật hết mọi việc cho Đông Phương Sóc nghe và nói rõ ước vọng của nhà vua nhân cuộc Lễ Khánh Thọ Đáo Tuế là sở cầu Đức Phật Mẫu đến chứng lễ, mà không biết Đức Phật Mẫu ở nơi nào, và nhờ ai đi thỉnh, may mắn có Đông Phương Sóc tới, vậy nhờ khanh giúp trẫm đi thỉnh Đức Phật Mẫu được chăng?



  • Ông Đông Phương Sóc tâu rằng: - Bệ Hạ đã định thì hạ thần phục mạng, dầu khổ nhọc thế nào, hạ thần cũng đến Diêu Trì Cung thỉnh Đức Phật Mẫu, nhưng kết quả được cùng chăng là do lòng thành cầu nguyện của Bệ Hạ. Vậy xin Bệ Hạ ban chiếu chỉ cho Thần đi thỉnh.



  • Đoạn Đông Phương Sóc lãnh chiếu chỉ ra đi.



  • Ông dùng huyền diệu Tiên Gia, chỉ trong chốc lát, Đông Phương Sóc đã đến được Diêu Trì Cung nơi cõi Tạo Hóa Thiên.



  • Đông Phương Sóc xin vào yết kiến Đức Phật Mẫu và tâu bày hết các việc của vua Hớn Võ Đế khẩn cầu.



  • Đức Phật Mẫu cảm động và phán: 

- Phật Mẫu sẽ giáng phàm vào đêm Trung Thu chứng lễ Khánh Thọ của Hớn Võ Đế theo sự khẩn cầu, sẽ đem theo 4 Tiên Đồng Nữ Nhạc đờn ngâm bài chúc thọ, và tặng 4 quả Đào Tiên. Khi Phật Mẫu đến có Thanh Loan báo tin trước.



  • Phương Sóc rất vui mừng, bái tạ Đức Phật Mẫu, rồi cấp tốc trở lại trần gian, tâu bày các việc cho Vua Võ Đế biết.



  • Nhà Vua rất vui mừng và hỏi: - Thanh loan là gì?



  • Đông Phương Sóc đáp: 
- Thanh Loan là Con Chim Loan Màu Xanh, đó là con Chim Lịnh của Đức Phật Mẫu, dùng để chở Đức Phật Mẫu du hành khắp nơi. Xin Bệ Hạ chỉnh trang cho long trọng, trang nghiêm, tinh khiết để nghinh tiếp Đức Phật Mẫu, phải lập bàn hương án bên trong và bên ngoài, xông hương khử trược.



  • Đêm rằm Trung Thu năm đó, trăng sáng vằng vặc, đầu giờ Tý, Hớn Võ Đế quì trước Hoa Điện, thành tâm cầu khẩn.



  • Xảy thấy một con chim Thanh Loan đáp xuống sân Hoa Điện. Liền khi đó, Đức Phật Mẫu cùng Cửu Vị Tiên Nương và bốn Tiên Đồng Nữ Nhạc giáng lâm trước Hoa Điện.



  • Hớn Võ Đế cung nghinh Đức Phật Mẫu vào ngự nơi Chánh Điện của Hoa Điện.



  • Đức Phật Mẫu dạy bốn Tiên Đồng Nữ Nhạc trao tặng cho Hớn Võ Đế 4 quả Đào Tiên và ca ngâm bài chúc thọ. Ông Đông Phương Sóc quì, hai tay nâng cái dĩa lên để rước lộc (rước 4 quả Đào Tiên).



  • Bốn vị Tiên Đồng Nữ Nhạc ấy có tên là: Hứa Phi Yến, An Phát Trinh, Đổng Song Thành và Vương Tử Phá.



  • Sau khi chứng lễ Đáo Tuế của Vua Hớn Võ Đế xong, Đức Phật Mẫu cùng Cửu vị Tiên Nương và 4 Tiên Đồng Nữ Nhạc cỡi chim Thanh Loan trở về Diêu Trì Cung nơi cõi Thiêng liêng.



  • Vua Hớn Võ Đế ghi nhớ hình ảnh của Đức Phật Mẫu và Chín vị Nữ Tiên, cho thợ khéo, tạc hình Đức Phật Mẫu và Chín vị Nữ Tiên nơi Hoa Điện để ghi nhớ sự tích và phụng thờ Đức Phật Mẫu.



Sự tích nầy được truyền tụng đến ngày nay.

Do đó, nơi thờ Đức Phật Mẫu được gọi là ĐIỆN chớ không gọi là ĐỀN.



  • Nguyên căn của Hớn Võ Đế là chơn linh Hớn Chung Ly trong Bát Tiên giáng phàm. Nay là thời Hạ Nguơn Tam Chuyển, bước qua Thượng Nguơn Tứ Chuyển, Bát Tiên lãnh lịnh giáng phàm làm tướng soái cho Đức Chí Tôn mở Đạo.



Sau đây là 1 bài thơ được giáng cơ về Đức Phật Diêu Trì Kim Mẫu để đời sau ghi nhớ và phụng thờ:

Nhớ ghi công đức siêu quần,
Xưa kia Kim Mẫu chính cung toàn quyền;
Mười phương phân định trung kiên,
Tám hướng Mẹ dẫn chơn truyềndiệu thâm;
Tháng năm ngày luận giờ lần,
Mười phần Mẹ đất ân cần bồi tô.



Là con là cháu nghĩ sao?
Ngày mà Địa Mẫu phân trao Đất Trời,
Phân ra bốn hướng tám nơi,
Định căn định kiếp, định thời âm dương;
Đất chao, khí quyển phi thường,
Trời thanh yên tịnh khí dương nhẹ nhàng.
Hai bên Thiên Địa vẻ vang,
Ngôi Vua Vị chúa hoàn toàn kỷ cương,

Diêu Cung Mẹ đã lo lường,
Trì Tâm ương chủng lối đường hóa sanh.
Kim Chi ngọc bích trâm anh,
Mẫu Thân Chơn Pháp cội cành huyền linh;
Phân ra tứ hướng phân trình,
Rồi đem nhị khí, rồi sinh hiệp hòa.


Lưỡng toàn Niên Luật Tiên Gia,
Nghi sanh hỏa lộc thượng tòa quang minh,
Nhị Cung tiếp dẫn công trình,
Khí Quang rạng rỡ hóa sinh nhân loài.
Tô Bằng Bửu Pháp cung soi,
Bồi Bằng báu vật trong ngoài vĩnh an;
Địa sanh thảo mộc kiện toàn,
Thiên Nhơn hiệp ý, Thánh Hoàng hiệp dân.



Đến ngày qui pháp đẩu vân,
Nay ta tri nghiệm đức ân điệp trùng.
Huynh Đệ một thịt tín trung,
Đệ là cốt nhục, hiệp tùng ý nhau ;
Tự nhiên tươi thắm muôn màu,
Điền viên sản nghiệp cùng nhau bảo toàn.



Nhớ khi cầu khẩn Mẫu Hoàng,
Ngày giờ tâm niệm, ý thoàn tâm tu,
Kỷ cương quảng pháp Văn Thù,
Niệm tình Mẫu Tử thiên thu ai hoài.
Pháp cao cơ tạo đổi thay,
Quyền uy Trời Đất thâm dày biết bao,
Tâm tuồng minh mẫn thanh cao,
Phong quan phong sắc hoàng trào chiếu phê.



Cổ ai rồi cũng trở về,
Kim thời tu luyện, hậu về Phật Tiên;
Nung là ý chí trung kiên,
Nấu toàn thánh dược trị yên bệnh loàn.
Tận tình tu sữa chỉnh trang,
Lòng yên trí vững khai hoang trí tài,



Đức cao sắc phẩm Như Lai,
Ân sâu sẽ được Cửu Đài chứng tri.
Kim thân nhẹ sắc Diêu Trì,
Mẫu ban chánh pháp hiệp quy đạo đời,
Sắc son ghi tạc muôn nơi,
Phong hòa võ thuận Đất Trời trợ ân,
Tinh quang nhựt nguyệt thánh thần,
Tường tri nhân vật đức âm Diêu Trì.

Diêu Trì Địa Mẫu ứng thơ



DIÊU TRÌ KIM MẪU, ĐỊA MẪU NGƯƠN QUÂN

VÔ CỰC ĐẠI TỪ TÔN ĐẠI THIÊN TÔN



Diêu Cung Mẹ gởi xuống miền

Bảo con cố gắng làm hiền hồi quy

Lời Vàng mẹ đã ra đi

Dặn con cố gắng từng đi bước đường

Sao con dại khinh thường lời Mẹ

Sắp phong ba con trẻ điêu tàn:

Nghe trên phán lệnh Phụ Hoàng

Chắc rằng tiêu diệt trần gian không còn!

Mẹ nghe khổ thon von nước mắt

Sai thơ đồng dẫn dắt con qua

Con Mẹ trai gái xa hoa

Mê giàu mê có mê nhà cao sang

Quên bà Mẹ Mẫu Hoàng Vô Cực

Cứu chúng con bể vực hố sâu

Con ơi lòng Mẹ đỉnh đầu

Tạo ra đầy đủ thiếu đâu bớ trần

Mẹ hóa thân đủ phần con hưởng

Nào chức ngôi dung dưỡng xa xuê

Cửa nhà đẹp đẽ sẵn bề

Món ăn đủ chất con mê nhiễm trần

Quên Bà Mẹ hối thân vất vả

Sợ chúng con tan rã tiêu hồn

Đó là Vô Cực Càn Khôn

Mẹ Già lưu loát trường tồn khuyến răn

Phải nghe lệnh mẹ xưa kia quay bước

Lên thuyền Trời về được hồi quy

Con ơi Đức Mẹ Diêu Trì

Mắt Trời rơi lệ vậy thời không ngưng

Con khờ dại vui mừng cảnh giả

Đâu biết rằng Mẹ đã than van

Nghe Cha phán lệnh phạt tràng

Mẹ Già bỏ chạy lâm đàng xuống đây

Để dạy trẻ sửa xây cho kịp

Nếu không thì mất kiếp ra tro

Bao năm Mẹ xuống đưa đò

Rước con về được chuyện trò Diêu Cung

Sai con xuống đoạn cùng con dặn

Nơi trần gian bể vắng tanh hôi

Xuống đây mê chức mê ngôi

Quên lời Mẹ dặn đảnh đồi quê xưa

Giờ đã cận mây mưa gần kéo

Màn Trời ra ắt kẻo cận kề

Dù con ba lớp bốn bề

Cũng không tránh nổi nặng nề đâu con

Sắp khổ sở hao mòn khắp cả

Chốn Hoàn Cầu Mẹ đã chuyển xoay

Càn Khôn Vũ Trụ giờ này

Cũng do Mẹ sắp một giây rã rời

Chắc tiêu diệt lập đời trở lại

Mẹ sanh con có gái có trai

Chia ba rẽ bảy nhân lai

Đánh nhau cấu xé dạn dày dữ hung

Tròn nhiệt huyết trong Bầu có Một

Con không lo chí cốt nhiệt tình

Quên lời Bà Mẹ cứu tinh

Bao la biển khổ rộng thinh diệu vời

Nếu con cái Mẹ lu mờ tan hoang

Trẻ khờ dại theo đàng Ma Quái

Không lo thân còn cãi Mẹ Hiền

Mê cao sang cả của tiền

Quên Bà Mẹ khổ Kiền Thiền Từ Tôn

Ba bước nữa hồn con tiêu hủy

Nghe lệnh phân thế kỷ Phụ Vương

Con ơi trăm mối nghìn đường

Chắc rằng cát bụi tan thương điêu tàn

Trời thâu hết trần gian khắc khổ

Thâu nhân loại không chỗ mà nương

Thâu nhân, thâu vật, thâu đường

Tất cả thâu hết trăm phương nghìn trùng

Con quên Mẹ chập chùng hình bóng

Thương chúng con mơ mộng từng cơn

Thấy con còn mãi tranh hờn

Lòng Già rơi lệ trong cơn thuyết trình

Thuyền của Mẹ linh đinh sóng bủa

Xuống nơi đây nhơ nhớp biển trần

Rước con về ngự Các Lân

Con quên mẹ dặn toàn phần làm sao!?

Các cấp bậc ngôi cao chỉ Một

Cũng trong Bầu Chí Cốt mà thôi

Dù con tài chức cao ngôi

Cũng trong lòng Mẹ chớ hồi thoát đâu!

Quên Bà Mẹ rồi sầu rồi thấy

Con phải xa cạm bẫy tới nơi

Từ đây do lệnh của Trời

Nói cho con biết vậy thời đôi câu

Rồi các nước Ngũ Châu cũng rụi

Nay mai đây gặp buổi nguy nan

Làm sao tránh khỏi thở than

Thâu về lập lại Đại bàn chúng sanh

Thôi con chớ mạnh tranh chi nữa

Trời Thiên bang mở cửa hạ phàm

Cho nên khổ sở Kỳ Tam

Diêu Trì Hoàng Mẫu luận đàm chút thi

Thôi con trẻ Lưu ly ẩn núp

Mẹ trao lời đặng giúp chúng con

Kỳ Ba thác đổ từ hòn

Con nghe lời Mẹ thì còn hồi hương



Nam Mô A Di Đà Phật

Diêu Trì Kim Mẫu, Địa Mẫu Ngươn Quân Vô Cực Đại Từ Tôn Đại Thiên Tôn.

Công đức trì Kinh Địa Mẫu




Công đức thọ trì, phổ thông Kinh Địa Mẫu

  • Kêu cùng Thiện Nam Tín nữ, như ai có lòng ấn tống phổ thông ra cho người đời, thì Mẫu bảo hộ cho đặng khang minh trường cửu. Còn như người nào dốc lòng tiếp dẫn nhơn sanh khắp cả, cho ngộ được đời thượng ngươn thạnh trị. Thì phải hết lòng chỉ giáo cho nhơn sanh khắp cùng thế giới. Hãy ráng trì niệm kinh Địa Mẫu thì sẽ được đắc thành sở nguyện chẳng sai. 

  • Như ai sanh lòng ác cảm, bác bỏ chê bai kinh Địa này rằng mờ ám. Đến giờ lâm chung thì hồn kẻ ấy sẽ bị cầm cố nơi ngục A Tỳ mãi mãi. Còn như ai sanh tâm khi dể nhạo báng kinh Địa này nữa. Thì cũng như người ấy, tạo gây thêm nhiều tội ácnghiệt thẩm sâu như đáy biển cả kia vậy. 

  • Chẳng đợi người lớn, con nít nhà ai từ 9 tuổi trở lên mà biết thọ trì kinh nầy.Dầu cho cha mẹ, anh em cốt nhục của nó, có cách bức chia lìa bao lâu đi nữa.Mẫu cũng sẽ cho tái hiệp trùng phùng trong buổi chung cuộc cuối cùng này chẳng sai. Chẳng luận giai cấp sang hèn, ai ai cũng đặng trọn quyền ấn tống phổ thông kinh này ra hết. Truyền ra cho khắp thiên hạ, từ già chí trẻ đừng cho sơ sótmột ai. Phổ thông ra như vậy mà người đời họ còn miễn cưỡng, chẳng khứng thọ trì kinh của Lão Mẫu này nữa thì họ chớ khá trách sao Mẫu này chẳng nhiêu dung tánh mạng của họ ra khỏi vòng thiên tai sắp sảy đến này được. 

  • Ấy các con lớn bé hãy ráng nhớ lời Mẫu dặn cuối cùng này đây. Hãy hết lòng thọtrì kinh này, và học cho suốt thông nghĩa lý. Nói mau mau thuyết nghĩa ra, và truyền kinh lại cho người đời học với cho kịp thời tiết. Thì nội trong năm phổ độ đầu tiên ấy, chúng sẽ thấy mùa màng trúng hoài trở lại lớn hột đầy rẫy trước con mắt chẳng sai lầm. 

  • Còn như đáo lệ kinh Mẫu, nếu chúng con dâng đèn bằng sáp thiệt lên cho Mẫu thì sẽ được hạnh phúc nhiều nhiều. 

  • Những người nào đứng tuyên truyền phổ thông kinh Địa Mẫu này đầy đủ nghĩa lý.Mẫu sẽ sai các vị Thiên Thần và Gia Thần đồng theo ủng hộ kẻ ấy cho đặng annhàn mãi. Trên thiên đình cũng nhỏ phước lành xuống cho nội ngôi nhà người ấy,sẽ được thạnh phát vinh hoa tột bực cấp kỳ. Đòng thời Thần Thanh Long và Thần Bạch Hổ cũng giáng xuống phò tá kẻ hiền ấy. 

  • Nhà nào mà hay thường hành trì kinh Địa Mẫu này thì người ở trong nhà ấy sẽ được đắc quả chẳng sai, không lầm. Mẫu cho chúng con biết rằng : Kinh Địa Mẫu là một quyển kinh quí báu độc nhất, chẳng nên khinh dễ. Chính vì người đời hãycòn mê muội dốt nát, chẳng biết thức tý tầm nguyên rất uổng. Nếu ai ngộ tỉnh,thọ trì ròng rã quyển kinh này thì tiêu tội được một ngàn muôn kiếp. Được công đức nhiều hơn thọ trì kinh của các chư Phật ngàn muôn quyển... 

  • Nhược bằng ai có nghe thuyết kinh này rồi mà bỏ qua, chẳng khứng thọ trì.Thì chẳng những một mình người ấy bị khép vào phỉ báng Kinh Luật của Phật màthôi, toàn gia đồng phạm tội liên can, mắc kẹt trong vòng đại kiếp sạch trội.Dân sự nào mà chẳng biểu đồng, chẳng tuân lời của Mẫu trong kinh này. Thì sẽ lâm vào trong vòng đại kiếp Thủy Hỏa, Phong ba mà chết rụi hết chẳng còn.



















Nghi thức trì Kinh Địa Mẫu Chơn Kinh




ÐỊA MẪU CHƠN KINH


THÔNG LÝ NGHI THỨC

TÂM NGUYỆN

của


ÐỒNG TỬ - MÔN ÐỆ - ÐỆ MUỘI 


CHÚNG SANH XA GẦN


(Thường Niệm)


TÂM NIỆM NGUYỆN CẦU - NIỆM HƯƠNG




  • Hằng đêm sau khi lo việc đời sống xong, các Ðồng tử, Môn đệ, Ðệ muội và chúng sanh xa gần nên dành khoảng thời gian để nguyện cầu lời sau đây: trước cho bản thân, gia đình, và cửu huyền thất tổ, sau là cho bá tánh được thanh tâm an lạc, âm siêu dương thoát, sớm tâm ÐẠO HẠNH QUẢ NHIÊN TRỌN LÀNH về Thế giới Thiên Tiên vô nhiễm.

  • Trường hợp tối không thuận tiện có thể vào buổi sáng. 


Chuẩn bị:

  • Thắp nhang đèn
  • Ðốt hương trầm
  • Ðiểm 3 hồi chuông dài - lại 3 tiếng



Tất cả đứng ngay ngắn chắp tay để ngang ngực, mật niệm:

(Ðối với các Ðồng tử, Môn đệ, Ðệ muội đã được ban ấn pháp Thiên Tiên thì áp dụng ấn pháp)

NIỆM CHÚ:

TỊNH PHÁP GIỚI CHƠN NGÔN:

(Bắt ấn Tam Muội)

ÁN LAM XÓA HA (3 lần)



TỊNH TAM NGHIỆP CHƠN NGÔN:

(Bắt ấn Tam muội)

ÁN TA PHẠ BÀ PHẠ, TRUẬT ÐÀ TA PHẠ,

ÐẠT MẠ TA PHẠ, BÀ PHẠ TRUẬT ÐỘ HÁM (3 lần)

(Chủ lễ hay người nguyện cầu thắp ba nén nhang quỳ ngay thẳng, cung nhang trước trán niệm bài cúng hương)




CÚNG HƯƠNG TÁN PHẬT



Nguyện thử diệu hương vân

Biến mãn thập phương giới

Cúng dường Nhứt thế Phật

Tôn pháp chư Bồ Tát

Vô biên Thanh Văn chúng

Cập nhứt thế Thánh Hiền

Duyên khởi quang minh đài

Xứng tánh tác Phật sự

Phổ huân chư chúng sanh

Giai phát Bồ Ðề tâm

Viễn ly chư vọng nghiệp

Viên thành Vô Thượng Ðạo.



(Xá 3 xá, rồi đọc tiếp bài Kỳ Nguyện)





KỲ NGUYỆN

..... Quốc

..... Thành phố (Tỉnh, Tiểu bang)

..... Quận

..... Phường (xã ),..... Thôn

..... Số hiệu,..... Ðường (lộ)

Hôm nay là ngày ..... tháng ..... năm .....

Kiết thời, kiết nhựt thời

Ðồng tử (Ðệ tử) ....., Pháp danh.....

Thành tâm nguyện Thập Phương Thường Trú Tam Bảo, Bổn-Sư Thích-Ca Mâu-Ni Phật, Ðại Bi Hội Thượng Phật Bồ-Tát, từ bi gia hộ Ðồng tử (Ðệ tử) cùng gia đạo và bá tánh phiền não đoạn diệt, nghiệp chướng tiêu trừ, thường hoạch kiết tường, vĩnh ly khổ ách.

Phổ nguyện: Âm siêu dương thới, hải yến hà thanh, pháp giới chúng sanh, tề thành Phật đạo.

(Ðứng dậy, cắm nhang lên lư hương, chắp tay đứng thẳng, niệm lớn)





TÁN PHẬT



Pháp vương vô thượng tôn

Tam giới vô luân thất

Thiên nhơn chi đạo sư

Tứ sanh chi từ phụ

Ư nhứt niệm quy y

Năng diệt tam kỳ nghiệp

Xưng dương nhược tán thán

Ức kiếp mạc năng tận.





QUÁN TƯỞNG



Năng lễ, sở lễ tánh không tịch

Cảm ứng đạo giao nan tư nghì,

Ngã thử đạo tràng như Ðế Châu

Thập Phương chư Phật ảnh hiện trung

Ngã thân ảnh hiện chư Phật tiền

Ðầu diện tiếp túc quy mạng lễ.





Chí tâm đảnh lễ:

- NAM MÔ NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ VÔ CỰC ÐẠI THIÊN TÔN (1 lạy)

Chí tâm đảnh lễ:

- NAM MÔ HOÀNG MẪU DIÊU TRÌ VÔ CỰC ÐẠI TỪ TÔN (1 lạy)

Chí tâm đảnh lễ:

- NAM MÔ THẬP PHƯƠNG CHƯ PHẬT, TÔN PHÁP, HIỀN THÁNH TIÊN THƯỜNG TRÚ TAM BẢO (1 lạy)

Chí tâm đảnh lễ:

- NAM MÔ TRUNG THIÊN ÐIỀU NGỰ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT, ÐƯƠNG LAI HẠ SANH DI LẶC TÔN PHẬT, ÐẠI TRÍ VĂN THÙ SƯ LỢI BỒ TÁT, ÐẠI HẠNH PHỔ HIỀN BỒ TÁT, HỘ PHÁP CHƯ TÔN BỒ TÁT, LINH SƠN HỘI THƯỢNG PHẬT BỒ TÁT (1 lạy)

Chí tâm đảnh lễ:

- NAM MÔ TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC THẾ GIỚI ÐẠI TỪ ÐẠI BI A DI ÐÀ PHẬT, ÐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT, ÐẠI THẾ CHÍ BỒ TÁT, ÐẠI NGUYỆN ÐỊA TẠNG VƯƠNG BỒ TÁT, THANH TỊNH ÐẠI HẢI CHÚNG BỒ TÁT (1 lạy)

Chí tâm đảnh lễ:

- NAM MÔ CHƯ ÐẠI BỒ TÁT MA HA TÁT

- NAM MÔ ÐẠI TIÊN ÔNG BỒ TÁT

- NAM MÔ ÐẠI TIÊN NỮ BỒ TÁT

- NAM MÔ ÐẠI TIÊN BẮC PHƯƠNG PHẬT BỒ TÁT (1 lạy)

Chí tâm đảnh lễ:

- NAM MÔ TIÊN NỮ HỒNG ÐÀO TỌA THIẾT THIỀN MÔN BỒ TÁT, QUANG PHƯỚC TIÊN BỒ TÁT, DƯỢC LINH THẢO TIÊN BỒ TÁT, HUỆ VƯƠNG TIÊN NỮ BỒ TÁT, BẠCH Y TIÊN NỮ BỒ TÁT, NỮ CHÚA TIÊN BỒ TÁT (1 lạy)

Chí tâm đảnh lễ:

- NAM MÔ TIÊN SƯ TÔN SƯ ÐẠI THÁNH SƯ QUẢNG ÐẠI BỒ TÁT MA HA TÁT (1 lạy)

Chí tâm đảnh lễ:

- NAM MÔ THIÊN TIÊN THƯỢNG GIỚI ÐẠI THẦN HỶ BỒ TÁT MA HA TÁT (1 lạy)

Chí tâm đảnh lễ:

- NAM MÔ CHƯ THIÊN ÐỊA QUẦN THẦN TỨ THÁNH ÐỒNG ÐẠO (1 lạy)

Chí tâm đảnh lễ:

- NAM MÔ ..... (niệm danh Ngài duyên nhựt)

ÐỒNG TÁT ÐẠI CHỨNG MINH (1 lạy)

(Quỳ hoặc ngồi xuống, vô chuông mõ, bắt đầu tụng niệm)





TÁN LƯ HƯƠNG



Lư hương sạ nhiệt

Pháp giới mông huân

Chư Phật hải hội tất diêu văn

Tùy xứ kiết tường vân,

Thành ý phương ân,

Chư Phật hiện toàn thân.

NAM MÔ HƯƠNG VÂN CÁI BỒ TÁT MA HA TÁT (3 lần)





CHÚ ÐẠI BI

NAM MÔ ÐẠI BI HỘI THƯỢNG PHẬT BỒ TÁT (3 lần)

Thiên Thủ Thiên nhãn vô ngại đại bi tâm đà-la-ni.

Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da. Nam mô a rị da, bà lô yết đế, thướt bát ra da, bồ đề tát đỏa bà da, ma ha tát đỏa bà da, ma ha ca lô ni ca da. Án tát bàn ra phạt duệ, số đát na đát tỏa. Nam mô tất kiết lật đỏa, y mông a rị da, bà lô kiết đế, thất Phật ra lăng đà bà.

Nam mô na ra cẩn trì hê rị, ma ha bàn đa sa mế, tát bà a tha đậu du bằng, a thệ dựng, tát bà tát đa, na ma bà dà, ma phạt đạt đậu, đát điệt tha. Án a bà lô hê, lô ca đế, ca ra đế, di hê rị, ma ha bồ đề tát đỏa, tát bà tát bà, ma ra ma ra, ma hê ma hê, rị đà dựng, cu lô cu lô kiết mông, độ lô độ lô, phạt xà da đế, ma ha phạt xà da đế, đà ra đà ra, địa rị ni, thất Phật ra da, dá ra dá ra. Mạ mạ phạt ma ra, mục đế lệ, y hê di hê, thất na thất na a ra sâm Phật ra xá lợi, phạt sa phạt sâm, Phật ra xá da, hô lô hô lô ma ra, hô lô hô lô hê rị, ta ra ta ra, tất rị tất rị, tô rô tô rô, bồ đề dạ bồ đề dạ, bồ đà dạ, bồ đà dạ, di đế rị dạ, na ra cẩn trì địa rị sắc ni na, ba dạ ma na ta bà ha. Tất đà dạ ta bà ha. Ma ha tất đà dạ ta bà ha. Tất đà du nghệ thất bàn ra dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì, ta bà ha. Ma ra na ra ta bà ha. Tất ra tăng a mục khê da, ta bà ha. Ta bà ma ha, a tất đà dạ, ta bà ha. Giả kiết ra a tất đà dạ, ta bà ha. Ba đà ma yết tất đà dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì bàn đà ra dạ, ta bà ha. Ma bà lỵ thắng yết ra dạ, ta bà ha.

Nam mô hắc ra đát na, đa ra dạ da. Nam mô a rị da, bà lô yết đế, thước bàn ra dạ, ta bà ha.

Án tất điện đô, mạn đa ra, bạt đà dạ, ta bà ha. (3 lần)

NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT (3 lần)





KHAI KINH KỆ



Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp,

Bá thiên vạn kiếp nan tao ngộ,

Ngã kim kiến văn đắc thọ trì,

Nguyện giải Như Lai chơn thiệt nghĩa.





TÂM NGUYỆN DÂNG 

CỦA CHÚNG SANH LÊN MẪU



Nhớ ơn Ðịa Mẫu thâm ân,

Chúng con cầu nguyện chuyên cần Mẫu ban.

Chúng con quỳ trước hai hàng,

Cùng dâng tâm nguyện Mẫu ban độ trì,

Kính lạy Mẹ từ cõi vô vi,

Mưa nhuần bốn bể Mẹ vì chúng sanh.

Chúng con lạc nẻo tu hành,

Bơ vơ trần lạc, thác ghềnh chông gai.

Từ thuở bé tấm thân lạc lõng,

Sống giữa trần ô trược đa đoan.

Mẫu ơi! Xin Mẫu đôi hàng,

Tâm nguyền! Con đã chứa chan khẩn cầu.

Vì trần tục, nương dâu cồn cát,

Cuộc trần mê xô xát đắng cay.

Mẫu ơi! Mẫu có nào hay,

Tấm thân con trẻ an bày đau thương...

Mẫu - Mẫu - Mẫu...

Con dâng tâm nguyền!...

Xin Mẫu hiền ban phước chúng con

Từ nay Mẫu nhớ điểm con giấc nồng

Kính lạy Mẫu, Mẫu trong nhân thế!

Bước cuồng si chúng con nguyện từ nay

Xin Mẫu chứng cho lòng con thanh thoát

Hôm nay đây, chúng con tâm thành đạm bạt

Nén hương thơm gởi Mẫu mười phương

Xin Mẫu chứng cho lòng con ngưỡng vọng

Ðể độ trì cho nhân thế siêu căn

Mẫu ơi! Lòng con nguyện với sách đèn

Tu trì con được giải căn nghiệp trần

Từ ngày Mẫu đã giáng lâm

Chúng sanh bốn cõi an tâm đời đời!...



Kính bái Mẫu 





BÁI NIỆM



Nhớ ơn Mẫu nguyện cầu thường nhựt

Chúng con nguyền tâm thức nguyện cầu

Dù trong muôn cảnh đâu đâu

Nguyện xin Mẫu giáng, độ cầu chứng tri

Mẫu từ cõi vô vi

Thâm ân Mẫu đã, chứng tri phép mầu

Lễ thường nhựt, tâm thành nhớ Mẫu

Trước Phật Trời, xin Mẫu chứng tri

Cầu xin Mẫu chứng, vô vi con nguyền

Mẫu từ cõi thượng thiên giáng độ

Cứu quần sanh bao cảnh si mê

Mẫu ơi! Con luống tràn trề

Niềm riêng! Con luống Mẫu về bên con

Nay thường nhựt, lòng con xin nguyện

Nguyện cầu bá tánh an vui

Cỏ cây tươi thắm, xanh tươi bạt ngàn

Cầu xin gia đạo đôi đàng

Tốt tươi an hưởng, suối vàng yên thân

Cúi xin Mẫu thân này tự tại

Nghĩa áo cơm con gởi từ tâm

Nguyện cầu Mẫu điểm linh sơn

Ngàn năm cầu nguyện công ơn Mẫu tày.

Tây Thiên! Mẫu chứng lời này

Nguyện xin Mẫu giáng phước này cho con

Từ nay con nguyện vuông tròn

Tu nguyền, hướng thiện lòng con phụng thờ...



(Cúi lạy Mẫu 5 lạy)

Nhớ ơn Tây Thiên Bá Mẫu thâm ân





MẸ TỪ BI

(THÁNH TÂM THI TẬP)



Con cúi đầu đảnh lễ

Lạy Mẹ Phật DIÊU-TRÌ

Rực ánh mâu-ni bao trùm Thánh thể

Mẹ từ bi ơn nhuần bốn bể

Sắc thiên nhiên thắm đượm khắp năm Châu

Mẹ ban ánh Ðạo mầu,

Lòng bác ái dệt thành hoa vạn thức

Thoi nhựt nguyệt lại qua đường dạ chức

Kiếp phù sinh ai đã được trăm năm

Mẹ hiền QUÁN-THẾ-ÂM

Trên tay Mẹ suối Cam Lồ tiếp dẫn

Nhành Dương Chi nhẹ phất hết ưu tư

Mẹ vô biên đại hạnh,

Dập tắt lửa lò cừ

Cho thế sự khỏi tang điền thương hải



*

* *



Lòng con thường tự tại

Con cảm hiện phong luân

Nhiệm trì ơn cứu rỗi

Mẹ đưa đường chỉ lối

Cho con báu Ma-Ni

Lạy Mẹ Phật DIÊU-TRÌ,

Mẹ rước con lên cõi TRỜI ÐÂU-SUẤT

Linh quang ngời chín bực

Mây quang minh che chở nhụy tràng hương

Mẹ cho con xem thế giới hải mười phương

Ôi tuyệt diệu! Bao la Trời Phật Sát



*

* *



Tầm thinh ơn Bồ-Tát

Cứu nạn Quán-Thế-Âm

Vườn hoa cùng hương lâm

Cây lành chim đậu hót

Tiếng chim càng thánh thót

Chào đón MẸ TỪ BI

Tâm phàm định tịnh lố huyền vi

Cúi lạy Mẹ, Mẹ Ðại Từ đã đến.



Thánh Tâm giáng bút





SÁM KINH ÐỊA-MẪU




DÂNG ÐĂNG



Dâng đuốc thiêng thành tâm kính Mẫu

Ngọn linh đăng soi thấu mười phương

Ðiển quang tỏa ánh chiêu dương

Cầu xin Từ Mẫu Tây Phương chứng đàn

Mẹ giáng thế độ an non nước

Chuyển huyền linh ban phước vạn dân

Nguồn thương sầu đọng bâng khuâng

Nhìn đăng lòng tưởng Mẹ gần bên con

Xưa Mẫu ngự chim Loan tại miểu

Tỉnh Thiểm-Tây huyền diệu ứng linh

Bút cơ Mẹ thảo tâm kinh

Lời châu chép lại tâm tình Mẫu thương

Nhìn biển cả trùng dương nước biếc

Tiếng khổ sầu tha thiết lòng đau

Mẹ trông từng lượn sóng ào

Bao nhiêu sóng lượn nghẹn ngào bấy nhiêu

Cảnh dương trần gặp nhiều gian khổ

Mẹ sáng khai hóa độ khắp nơi

Núi sông vũ trụ đất trời

Chính do Hoàng-Mẫu tạo đời an vui

Con trẻ nguyện sớm chiều tu niệm

Ngày lẫn đêm lo kiểm hạnh con

Dâng đăng Mẹ chứng lòng son

Vạn dân bá tánh nước non thanh bình.



NAM MÔ VÔ THƯỢNG HƯ KHÔNG ÐỊA MẪU DƯỠNG SANH BẢO MẠNG CHƠN KINH

(3 lạy)





DÂNG HƯƠNG



Ngày kỷ niệm trăng mười thập bát

Gió đông về ngào ngạt nguồn thương

Chốn trần trẻ dại dâng hương

Thỉnh cầu Từ-Mẫu Tây-Phương chứng đàn

Dâng nén hương lời vàng cung kỉnh

Tiếng trẻ thơ nguyện thỉnh Mẹ hiền

Lạy cầu vọng thấu cung Tiên

Nơi Tây-Vương Mẫu diệu huyền chứng minh

Mẹ thương con thâm tình muôn thuở

Ðạo hoằng khai truyền mở khắp nơi

Gắng tu thoát tục xa đời,

Quê Tiên chốn cũ là nơi trở về

Nhìn quang cảnh sơn khê non nước

Cõi giới ba hưởng phước Mẹ ban

Chính do Hoàng-Mẫu chỉnh an

Ðộ cho sanh chúng một đàng chánh tu.

Làn khói bạc ngút mù bay tỏa

Tâm hương thành hiện rõ Diêu Cung

Ðài hương Mẹ ngự không trung

Thức tâm kẻ thế soi chung gương hiền

Tam nhựt Mậu cố siêng bái Mẫu

Tiếng chuông ngân gợi nỗi nhớ thương

Con quỳ dâng nén tâm hương

Lạy Mẹ phủ đức thập phương an lành



NAM MÔ VÔ THƯỢNG HƯ KHÔNG ÐỊA MẪU DƯỠNG SANH BẢO MẠNG CHƠN KINH

(3 lạy)





DÂNG TRẦM



Nhìn làn khói trầm hương bay tỏa

Nhớ Mẫu hiền lệ nhỏ dòng châu

Ðàn con tha thiết nguyện cầu

Mẫu-Từ phủ điển nhiệm mầu chứng minh.

Chốn trần miền cung nghinh đại lễ

Kỷ niệm ngày giáng thế Từ Tôn

Thượng tầng Mẹ phủ Càn Khôn

Chuyển khai hoằng Ðạo pháp môn hạnh từ

Ðọc kinh Mẫu lòng như xao xuyến

Gởi tâm thành thăm viếng Mẫu thân

Chuông chùa vang tiếng xa ngân

Chạnh lòng con trẻ tuôn dần lệ sa.

Khói hương trầm thiết tha theo gió

Áng mây lành hiện rõ huyền vi

Con nguyền kiếp kiếp tu trì

Nương về theo bóng từ bi Mẫu-Hoàng

Cầu linh Mẹ chỉnh an non nước

Ðiển Mẫu-Từ ban phước chúng sanh

Trần gian biết nẻo tu hành

Nhờ đèn trí huệ phúc lành Mẹ ban

Tầm chánh giáo đạo vàng rực rỡ

Hạt bồ đề nẩy nở rừng cây

Am tiền nối nhịp thang mây

Ðiển thiêng Mẹ chứng nhựt nay kỉnh đàn.



NAM MÔ VÔ THƯỢNG HƯ KHÔNG ÐỊA MẪU DƯỠNG SANH BẢO MẠNG CHƠN KINH

(3 lạy)





DÂNG HOA 



Hoa tươi thắm kính dâng Từ-Mẫu

Gió hương lành nhẹ thổi mười phương

Dập đầu lạy Mẹ xót thương

Chứng lòng con trẻ cúng dường dâng hoa.

Lời vàng cầu thiết tha ai oán

Chốn dương trần tợ áng phù vân

Chúng sanh đau khổ vô ngần

Thành tâm lạy Mẹ gội lần tội xưa.

Ngày Kỵ Mậu sớm trưa bái Mẫu

Tiếng chân thành vọng thấu Diêu Cung

Gắng tu noi chí bá tùng

Bồ Đề hạnh nguyện thơm chung hương lành.

Ðiểm huyền linh phủ quanh bao khắp

Nhớ Mẫu hiền con chắp tay cầu

Lạy Mẹ độ hết năm Châu

Cầu xin sanh chúng sớm hầu Diêu Cung.

Người chốn thế hiếu trung trọn giữ

Hội Long-Hoa Mẫu-Tử tương phùng

Hương lành thơm ngát lạ lùng

Bồ Ðề rộ nở tại Cung Diêu Trì.

Hoa thơm ngát con quỳ dâng lễ

Lạy Mẫu thương giáng thế chứng minh

Tay ngà dâng đóa hoa xinh

Thỉnh cầu Mẹ giáng điển linh chứng đàn.



NAM MÔ VÔ THƯỢNG HƯ KHÔNG ÐỊA MẪU DƯỠNG SANH BẢO MẠNG CHƠN KINH

(3 lạy)





DÂNG QUẢ 



Quả tươi xanh tâm thành cung kỉnh

Tiếng trẻ khờ nguyện thỉnh Từ-Tôn

Ðiển linh phủ khắp Càn Khôn

Chuyển khai đại đạo tiếng đồn vang xa.

Tụng kinh Mẫu gia gia an ổn

Mẹ giáng trần hỗn độn sơ khai

Lời châu ghi lại trần ai

Là do huyết mạch phi tài Từ-Tôn.

Oai linh Mẫu bao gồm vũ trụ

Dưỡng nuôi con hấp thụ điển thiêng

Phước tài lộc thọ triền miên

Dân lành nước thạnh nhà yên thanh bình.

Tam nhựt Mậu trì kinh Ðịa Mẫu

Chúng sanh đều số đổi nhàn thanh

Mùa màng sung túc tươi xanh

Quả thơm thơm ngát hương lành từ bi.

Thâm ân Mẹ khắc ghi xanh sử

Kỷ niệm ngày Mẹ ngự không trung

Dập đầu bái tạ Vương Cung

Ðộ an sanh chúng tao phùng Long-Hoa.

Kính lạy Mẫu thiết tha lời trẻ

Dâng quả tươi thỉnh Mẹ chứng tri

Dập đầu lạy Ðức Diêu-Trì

Ðiển linh Mẹ phủ cứu nguy dân lành.



NAM MÔ VÔ THƯỢNG HƯ KHÔNG ÐỊA MẪU DƯỠNG SANH BẢO MẠNG CHƠN KINH

(3 lần)





DÂNG THỦY



Cung kỉnh dâng thủy thanh thơm ngát

Nhớ trăng mười thập bát hằng niên

Ðúng ngày giáng thế Mẫu hiền

Thủy thanh bát ngọc khẩn nguyền cung nghinh.

Ðàn con trẻ quỳ xin Mẹ chứng

Ðộ dân lành bền vững tâm tu

Sơn khê rảo bước ngao du

Vào nơi biển Thánh rừng nhu tu hiền.

Dâng thủy thơm kiền thiền vọng bái

Ðiển Mẫu-Từ phủ rải khắp nơi

Mẹ thương dưỡng dục khuyên đời

Ngự nơi thượng cõi ban lời ngọc châu.

Mẹ truyền pháp nhiệm mầu phản chiếu

Cứu đàn con tận hiếu tận trung

Nguồn thương Mẹ phủ ngàn trùng

Suối lòng ngào ngạt ban chung con lành.

Chính Mẹ tạo non xanh tươi thắm

Biển sông sâu thăm thẳm trùng khơi

Hoằng khai đại đạo khắp nơi

Kể từ vô-thỉ đến đời hậu thiên.

Tâm kinh Mẫu lời khuyên lai láng

Ðiển huyền linh tỏa sáng mười phương

Tay dâng bát ngọc trà hương

Thành tâm lạy Mẹ xót thương chứng đàn.



NAM MÔ VÔ THƯỢNG HƯ KHÔNG ÐỊA MẪU DƯỠNG SANH BẢO MẠNG CHƠN KINH

(3 lạy)




SÁM KINH ÐỊA-MẪU


ÐỊA-MẪU KINH



Phủ Hớn-Trung nơi huyện Thành-Cổ

Tỉnh Thiểm-Tây miếu cổ ứng linh

Thượng tầng tỏa ánh quang minh

Chim Loan Mẫu ngự truyền kinh răn đời.

Kim ngôn Mẹ đây lời mạch huyết

Ðức Từ-Tôn tha thiết khuyên con

Hiếu trung giữ vẹn cho tròn

Mẹ hiền phủ điển bảo toàn chúng sanh.

Tam nhựt Mậu tâm thành kỉnh Mẫu

Tấm lòng son vọng thấu Diêu Cung

Gia gia sum họp trùng phùng

Dân an Quốc thới hưởng chung thanh bình.

Mùa màng được tươi xinh sung túc

Mẹ độ con từng phút từng giây

Núi sông vũ trụ đó đây

Chính do Hoàng-Mẫu dựng gầy tạo nên.

Linh điển Mẹ dưới trên phân rõ

Tam chơn kinh Mẹ tỏ lời châu

Hoằng khai đại đạo nhiệm mầu

Hóa sanh bốn biển năm Châu tươi nhuần.

Phật Mẫu ngự thượng từng độ thế

Ðiển chơn linh phước huệ rải ban

Tâm kinh Mẫu dạy rõ ràng

Con lành hiếu thảo đàn tràng cung nghinh.

Phước Lộc Thọ hiển vinh do Mẫu

Trọn đủ thời Kỵ-Mậu hằng niên

Dân an nước thạnh nhà yên

Lời châu Mẫu dạy gắng chuyên tu trì.

Thơ thâm diệu huyền vi cơ bút

Mẹ truyền Kinh dưỡng dục chúng sanh

Xưa vua Bàn-Cổ phong danh

Diêu-Trì Phật Mẫu hóa sanh muôn loài.

Chơn linh Mẫu xét soi vũ trụ

Ðiển âm dương kết tự anh-nhi

Thượng tầng Mẫu ngự phương phi

Phân ra Thiên Ðịa trị vì chúng sinh.

Ðịa-Mẫu truyền chơn Kinh tâm huyết

Khí âm dương hội hiệp cùng nhau

Mưa hòa gió thuận tươi màu

Hóa sanh nhơn loại ngạt ngào chơn thân.

Vậy ai mới bước lần đường đạo

Phải giữ lòng hiếu thảo trì Kinh

Lời châu Mẹ dạy huyền linh

Hoàng-Thiên xá tội hiển vinh thanh nhàn.

Cầu lịnh Mẹ bảo toàn sanh chúng

Ðộ nhân sanh giữ đúng hạnh Tiên

Từ đây Thiên Ðịa phân riêng

Âm dương chơn khí linh nguyên chẳng rời.

Nhựt Nguyệt Tinh phương trời sáng tỏa

Máy huyền vi hiện rõ thần thông

Mẹ phân nam bắc tây đông

Bốn phương tám hướng bao vòng Càn Khôn

Ðiển Thiêng Mẹ bảo tồn vĩnh cửu

Chốn trung ương Mẹ thủ địa châu

Linh quang chiếu sáng nhiệm mầu

Thiên Tiên bảo dưỡng gồm thâu nhơn lành.

Phu quân Mẫu trường sanh bất lão

Tài cao minh sáng tạo huyền vi

Thiên lung địa á diệu kỳ

Tri âm phối hợp phục quy Diêu-Ðài.

Thiên Ðịa lập âm lai dương khứ

Khí thần giao giờ giữ điển linh

Ðất trời do tạo-hóa sinh

Pháp-luân-thường-chuyển siêu hình căn nguyên.

Chính Mẹ tạo tôi hiền chúa thánh

Phủ điển linh chơn tánh tâm thanh

Chẳng ngừng hóa hóa sanh sanh

Thiên-Can thường chuyển vận hành địa-chi.

Thần với khí tựu thì thai thánh

Mẹ cưu mang canh cánh thập niên

Tình thâm mẫu tử thiêng liêng

Mười thu đúng nhựt chia riêng quẻ hào

Trong bát quái phân vào tám hướng

Tám quẻ do mỗi hướng định ra

Sáu hào một quẻ đó là

Ba trăm tám bốn tẻ ra các hào.

Trúc cơ mãn nguyệt vào giờ đúng

Thập niên trường chuyển dụng Thánh thai.

Minh quân xuất thế trần ai

Sáu vì Thiên tử phi tài huyền quang.

Mẹ phân vua Thiên-Hoàng con trưởng

Ðến Ðịa-Hoàng Mẹ thưởng thứ hai

Nhơn-Hoàng tam đệ thiên tài

Còn ba vị nữa phân rày sau đây:

Vua Phục-Hy, ngài hay biến hóa

Bát quái phân phát họa hiển linh

Chỉ rành tám hướng thinh thinh

Âm dương vũ trụ quang minh phân bày.

Vua Thần-Nông phi tài ngũ cốc

Sắc lịnh gieo châu ngọc khắp nơi

Ðó là hạt giống của Trời

Sanh ra lúa gạo giúp đời an khang.

Vua Hiên-Viên tạo ban y phục

Ðem ấm no hạnh phúc vạn dân

Lưu truyền cơm áo chốn trần

Ðể cho người thế tâm thân thanh nhàn.

Vũ trụ do Mẫu-Hoàng xuất phát

Mẫu tạo ra Bồ-Tát, Thần, Tiên

Thượng từng bao phủ điển thiêng

Chẳng rời xa khỏi Mẫu hiền dưỡng sanh.

Nhìn biển cả trời thanh nước biếc

Khắp bốn mùa tám tiết trở xây

Gió ngàn tỏa lượn tầng mây

Hóa sanh nhơn loại cỏ cây thú cầm.

Có ngũ nhạc bổng trầm ngân trỗi

Khắp muôn nước Từ mẫu dưỡng sanh

Các đời vương đế đại danh

Từ trong thân Mẫu trưởng thành mà ra.

Danh lam có năm tòa thắng cảnh

Chốn lâm sơn tuyết lạnh sương rơi

Có cây cổ thụ sống đời

Sắc dân trăm họ do nơi Mẫu thành

Năm giống lúa tươi xanh vun dưỡng

Sáu thứ gạo dành thưởng nhơn sinh

Nhân dân no ấm hiển vinh

Sống nhờ điển Mẹ huyền linh phủ đầy

Khi lìa thế gởi thây thân Mẫu

Sự hóa sanh dời đổi vô thường

Thân Mẹ là chỗ tựa nương

Từ-Tôn Ðịa-Mẫu nguồn thương ngập tràn

Nào châu, quận, thôn, làng, tỉnh, huyện

Kìa lâu đài cung điện nguy nga

Am, chùa, quán xá lập ra

Hiền, Thần, Tiên, Thánh Mẹ đà thưởng phân

Chư Phật đắc kim thân do Mẫu

Cả trân châu ngọc bửu đó đây

Thiếu chi kẻ ước việc này

Lòng tham mơ tưởng mấy ai đạt thành.

Loại kim khí bạc vàng quí báu

Tất cả do Mẫu tạo xuất ra

Vương hầu vạn quốc gia gia

Cũng do lịnh Mẹ ban ra tôn sùng.

Người chốn thế hiếu trung hưởng phước

Bao huyền linh sau trước Mẹ ban

Dân an quốc thới thanh nhàn

Ðế-Vương cung kỉnh Mẫu-Hoàng Từ-Tôn

Nước nào bị dập dồn chinh chiến

Cũng do nơi Mẫu chuyển phạt hành

Vậy ai nào biết đến danh

Huyền linh quang điển Mẹ dành đó đây.

Có tạo lảnh the đầy lụa vải

Cùng quả hoa rau cải trái cây

Nào là chua ngọt đắng cay

Lúa ăn thuốc uống rừng cây ai tường.

Hành, ớt, hẹ, gừng, đường, tiêu, tỏi

Khắp nhơn sinh ai khỏi bệnh đâu

Hóa sanh linh dược nhiệm mầu

Cao lương mỹ vị thiếu đâu vật nào.

Lại có dấm, chanh, dầu, tương, muối

Suối nào bằng nguồn suối tình thương

Mẹ ban trăm vạn mùi hương

Lao tâm tổn huyết đoạn trường vì con.

Công lao Mẹ bút son khó tả

Tình bao la biển cả khó hơn

Khổ đau Từ-Mẫu chẳng sờn

Nỡ nào quên dứt nghĩa ơn cho đành.

Vật ăn uống Mẹ dành con đó

Sản phẩm do Mẹ hóa tạo ra

Cân đai áo mão phù hoa

Bạc tiền vật dụng biến ra hằng ngày.

Mẹ chẳng thấy một ai lòng tưởng

Thân Mẫu sanh ban thưởng khắp nơi

Vật chi chẳng sót trên đời

Mẫu không nghe có một lời nhớ thương.

Trong vũ trụ tuần huờn tạo hóa

Do Mẫu sanh ra quả địa cầu

Biến dành sáu ngã luân hồi

Biết bao sản vật hoa màu tốt xinh.

Kẻ thế đâu rõ tình thâm Mẫu

Dầu Hoàng-Thiên khó nỗi sánh hơn

Trên trời mưa đổ từng cơn

Dưới đất Mẹ hóa huyền chơn phép mầu

Giòng mưa tuôn ngọt ngào cam-lộ

Ngũ cốc dành hóa độ nhơn sanh

Cỏ cây tươi tốt hương thanh

Ðịa châu thấm giọt mưa lành phì nhiêu.

Chính hơi nước thâu nhiều mạch huyết

Bao tinh vi sương tuyết giá băng

Ðài mây gom tựu phủ giăng

Gặp luồng quang điển biến tan mây liền.

Mưa tuôn xuống trần miền tỏa khắp

Cù-rồng kia trốn nấp ngàn sông

Lãnh phần vận chuyển gió giông

Mẹ truyền hoán võ hô phong ứng hầu.

Cù-rồng ở xứ nào chẳng có

Ẩn biển sâu làm gió chuyển mây

Ðều do lịnh Mẹ phán bày

Ơn trên chiếu triệu dám rày cãi đâu.

Muôn thu vẫn nằm sâu lòng đất

Mẹ dưỡng nuôi âm chất hoằng khai

Nhọc nhằn nào quản đắng cay

Ðiển quang huyền diệu đêm ngày dưỡng sanh.

Chốn dương trần con lành tọa hưởng

Bao nhiệm mầu Mẹ thưởng hồng ân

Tất cả do lịnh Mẫu phân

Công dày chẳng thấy người trần ghi tâm.

Mẹ thương con dạ thầm đau thắt

Chẳng bao giờ nhắm mắt nghỉ đâu

Ðiển quang nếu Mẹ rút thâu

Càn Khôn, vũ trụ, địa cầu tiêu tan.

Khi cá ngao trở ngang vùng vẫy

Thiên địa đành chịu phải rã đôi

Dương trần như thể bèo trôi

Cảnh đời trống rỗng thảm sầu nạn tai.

Ngoại Càn Khôn Như-Lai tạm ẩn

Chư Bồ-Tát tàn lẩn biệt tin

Từ vua chúa đến quân binh

Sẽ đều tận diệt nhơn sinh điêu tàn.

Phương hướng đành tiêu tan tất cả

Như ở trong lò hỏa bị thiêu

Muôn loài vạn vật bao nhiêu.

Phải đành chịu cảnh quạnh hiu khổ sầu.

Mẹ phán truyền lời châu cao quý

Ai sưu tầm diệu lý quang-minh

Thành tâm khảo sát chơn kinh

Thọ trì giảng nói chúng sinh hiểu rành.

Từ-Tôn chiếu điển lành ban phước

Sắc lịnh phê người được hiển vinh

Phi tài huyền diệu cao minh

Mẫu-Từ giáng bút ngọc-linh-chi truyền

Nhập vào tâm kẻ hiền sáng suốt

Chơn khí như ánh đuốc thiên nhiên

Mẫu cho phần bổn huờn nguyên

Chơn thần đúng ngoạt xuất liền chẳng sai

Tinh khí hiệp cho ai dưỡng tánh

Gắng tâm tu hưởng cảnh thượng đài

Khai tâm rung chuyển đạo ngay

Lý chơn thông hiểu chớ rày bỏ qua

Cần quán tưởng sâu xa kinh Mẫu

Chớ khoe tài nông nỗi mà chi

Chơn kinh lịnh Mẹ khó bì

Quần thần văn võ chẳng khi lời vàng

Ðại Từ-Tôn Mẫu-Hoàng cao cả

Ân đức dày vong ngã đành sao

Tao nhân mặc khách anh hào

Nông, thương, công, sĩ nỡ nào lãng ngơ

Không đền đáp tôn thờ cung kính

Nỡ vô tâm chẳng kính Mẫu hiền

Thâm sâu nghĩa cả thiêng liêng

Ðành lòng bội bạc chơn truyền lời châu

Chánh pháp đạo nhiệm mầu ai rõ

Giả đò như chẳng tỏ ngộ chi

Phụ ân Từ-Mẫu Diêu-Trì

Ðọa đày muôn kiếp chẳng thì tái sanh

Muốn biết rõ tánh danh Phật Mẫu

Hãy lắng nghe lời Mẫu phân rành

Lão-Bà Hỗn-Ðộn hóa sanh

Thuở còn mờ mịt trược thanh chưa tường

Thiên-Ðịa chia âm dương chơn khí

Thập nhị muôn niên kỷ giáng lâm

Tuổi thọ chín ngàn sáu trăm

Thời gian xuất thế khổ tâm nhọc nhằn

Muôn ngàn năm khuyên răn dạy dỗ

Ngày biệt ly diệt độ chẳng ngờ

Mẫu-Hoàng từ giã con thơ

Hóa thân chớp nhoáng phút giờ chia tay

Hư không ngự mây đài thượng cõi

Ðiển quang-minh chiếu rọi khắp nơi

Huyền vi biến hóa chuyển dời

Truyền kinh châu ngọc bao lời thiết tha

Chẳng thấy ai lệ sa nhớ Mẫu

Chốn trường giang gợi nỗi nhớ thương

Ngự thuyền lướt sóng trùng-dương

Nào ai để dạ vấn vương lòng sầu

Mẹ thương con chẳng câu phiền trách

Lòng ước mong huyết mạch trùng phùng

Sớm về điện ngọc Diêu-Cung

Con lành cố gắng hiếu trung tu hiền

Hội Tý Sửu khai Thiên tịch Ðịa

Vạn sự thành hiếu nghĩa vi tiên

Chơn kinh Phật Mẫu diệu huyền

Hơn trăm tám chục câu khuyên răn đời

Mỗi câu mỗi ý lời Mẹ thuyết

Cùng từ nguồn mạch huyết chảy ra

Gồm bao lời ngọc thiết tha

Chẳng phải lầm lạc đâu mà ngờ nghi

Khắp gia gia đều trì niệm mãi

Thì mùa màng cây trái hoằng sai

Ấm no hưởng lạc trần ai

Cuộc đời chẳng bị nạn tai dập dồn

Ðiển quang Mẹ bảo tồn trường cửu

Ðộ con thơ hội đủ Diêu-Cung

Nếu ai chẳng tín bất tùng

Mùa màng ruộng rẫy sâu trùng bọ ăn

Cuộc sống đành khó khăn đau khổ

Nhân sinh lâm vào chỗ hiểm nguy

Không mong sống sót được gì

Ðại kiếp thủy hỏa phong phi ngập tràn

Ðại Từ-Tôn Mẫu-Hoàng cho biết

Ðúng trăng mười vào tiết trời đông

Mẫu-Từ xuất hiện thần thông

Vào ngày thập bát trần hồng giáng sinh

Mẹ phủ hết điển linh quảng đại

Tâm huyết thư để lại chơn kinh

Kim ngôn siêu thoát quang minh

Từ-Tôn bảo dưỡng chúng sinh an toàn

Là con hiếu đàn tràng cung kỉnh

Mỗi hàng niên nguyện thỉnh Mẫu-Từ

Ðúng ngày thập bát trăng mười

Gia gia tụng niệm người người trì kinh

Lập đại lễ hoa xinh, trà, quả

Dâng hương đăng tất cả khiết tinh

Cùng nhau hội hiệp trì kinh

Sớ dâng Từ-Mẫu chứng minh con lành

Nếu như có nhơn danh hiền sĩ

Truyền bá kinh nghĩa lý đủ đầy

Từ-Tôn đài thọ ân dầy

Cháu con hiền sĩ từ đây huy hoàng

Hưởng lộc thọ vinh sang phú quí

Hạng phu nhơn bần sĩ hiền thần

Truyền kinh phổ biến xa gần

Gia gia vui hưởng muôn phần ấm no

Mẫu hứa sẽ ban cho con thảo

Năm trai lành kế tạo lửa hương

Hai gái hiếu đạo thuần lương

Ðời đời nối dõi tổ đường tông môn

Nam nữ nào sùng tôn kính Mẫu

Kỉnh lễ ngày Kỵ-Mậu thành tâm

Mẹ ban phước lộc cao thâm

Thiên Xuân vạn đại hưởng âm-đức dầy

Xứ phương nào hằng ngày cúng vía

Ðàn tràng cầu bốn phía an ninh

Bảo toàn tánh mạng chúng sinh

Mẫu-Hoàng phủ điển ứng linh lời nguyền

Quốc dân nào kiền thiền vọng bái

Thọ trì kinh nhớ mãi thâm ân

Mẫu-Từ cho xuất Thánh nhân

Thông minh xuất chúng muôn phần huyền-linh

Công đức Mẫu vô hình khó tả

Dầu lâm sơn biển cả khó hơn

Ai mà đáp nghĩa đền ơn

Phải sùng am-tự, họa sơn tượng hình

Rồi dâng lên hương linh thờ phượng

Tạo lập thành tâm, tưởng, bái, tôn

Diêu-Trì Phật Mẹ linh hồn

Hiếu tử làm đặng y ngôn-kim truyền

Mẹ sẽ nhận con hiền dâu thảo

Gắng sức xây tái tạo mau đi

Tùy gia phương-tiện hữu vi

Chẳng cần tiền bạc nhiều chi đâu nào

Mẫu chứng lòng thanh cao tâm hảo

Sẽ ghi tên con thảo danh đề

Thẻ ngọc Mẹ chuyển bút phê

Tâm phàm phủi sạch trở về Diêu-Cung

Bởi vì con tận trung tận hiếu

Ðắc quả cao cửu khiếu khai minh

Con hiền thọ hưởng trường sinh

Nhờ lòng quảng đại quang minh tâm lành

Mẹ sắc tứ phong danh muôn thuở

Chánh quả thành dứt nợ trần ai

Ban cho cửu phẩm liên đài

Trung ương thượng quốc về ngay đền vàng

Thành Ðại-La nghiêm trang quý báu

Phu phụ đồng đắc đạo kim thân

Mẹ ban thọ hưởng hồng ân

Lưu danh bửu điện muôn phần vẻ vang

Ðức Từ-Tôn Mẫu-Hoàng bảo dưỡng

Trải hết tâm vô lượng vô biên

Ngự nơi cõi thượng thiêng liêng

Ðộ cho quốc thới dân yên thanh bình.



NAM MÔ VÔ THƯỢNG HƯ KHÔNG ÐỊA MẪU DƯỠNG SANH BẢO MẠNG CHƠN KINH

(3 lạy)





ÐỊA MẪU DIỆU KINH



Phật Mẫu tuy vô hình vô tướng

Mẹ cầm quyền phạt thưởng nhơn sinh

Ban ra lời ngọc chơn kinh

Khảo sát đạo lý khai minh địa cầu

Thuở hỗn độn một bầu không khí

Còn mịt mù vô thỉ biết đâu

Phật Mẫu đã ngự đó rồi

Phân ra Thiên Ðịa hoàn cầu chuyển xây

Mẹ đứng ra làm thầy trước nhất

Ðạo hoằng khai lời thật huyền linh

Phổ thông truyền bá chơn kinh

Phán bày phong tục nhơn sinh sáng ngời

Chốn phàm trần đến đời ngươn hạ

Mẹ giáng cơ bút tả chơn kinh

Ai truyền ấn tống phổ in

Mẫu-Hoàng bảo hộ khương ninh cửu trường

Người nào đầy lòng thương tiếp dẫn

Giúp chúng sanh ngộ nhận đạo chơn

Dựng đời thạnh trị thượng ngươn

Hết lòng chỉ giáo linh nhơn tỏ tường

Khắp thế giới thập phương cung kỉnh

Ráng niệm trì nguyện thỉnh lời châu

Ðắc thành sở nguyện mong cầu

Vậy mà chẳng thấy người nào lưu tâm

Hoặc gia gia tháng năm ghi nhớ

Lưu truyền kinh từ thuở ban hành

Kẻ nào rụng niệm chơn thành

Thánh Tiên đắc đạo rạng danh lâu rồi

Ai chẳng tin bất cầu ác cảm

Chê bai rằng mờ ám không tùng

Ðến khi vào lúc lâm chung

Hồn linh kẻ ấy vô cùng khổ đau

Ngục A-tỳ sa vào miên viễn

Ðọa đày người lắm tiếng dễ khinh

Sanh lòng nhạo báng lý kinh

Tội như biển cả mông minh thảm sầu

Gây nhiều lỗi thâm sâu đại hải

Mẹ chẳng phiền phải trái chi đâu

Xét ra khắp cả hoàn cầu

Ðều do lịnh Mẹ pháp mầu chuyển ra

Mẹ thương con vị tha tất cả

Nào thấy ai để dạ xót thương

Ðắng cay khổ nhọc ai tường

Rõ thông nỗi khổ đoạn trường biết bao

Trang nữ kiệt anh hào chí hiếu

Bố cáo cho người hiểu rõ ràng

Ðứng ra giải đáp lời vàng

Cho người trần thế dương gian tri tường

Khắp thiên hạ thập phương chung cảnh

Nạn thiên tai phải quạnh hiu sầu

Dập dồn nhiều cảnh khổ đau

Họa tai trước mắt tránh đâu bây giờ

Mẹ thương con đề thơ phân tỏ

Lại chẳng nghe ghi rõ lời châu

Cuộc đời thế sự bể dâu

Mẹ đà tường tận đoán rồi tiên tri

Dầu khó khăn việc chi nguy khốn

Mẹ bình trị chỉnh đốn khắp nơi

Phán truyền bày tỏ bao lời

Hóa sanh hoằng đạo khai đời dưỡng sanh

Phật Mẫu có phân rành tất cả

Bảy mươi hai vị đã lãnh phần

Ðương kim hành sự xa gần

Vị nào cũng có Thánh Thần hợp chung

Duy mình Mẫu chẳng cùng ai cả

Khắp ở trong thiên hạ xứ nào

Lập chùa, tạo miễu, đền cao

Phụng thờ Thần Thánh ra vào cung nghinh

Còn Mẫu đây riêng mình ai nhớ

Ðến tánh danh cũng chớ tường tri

Cõi trần chẳng có chi chi

Một ngôi miếu nhỏ vậy thì cũng không.

Bởi chúng sanh bạc lòng chẳng nghĩ

Nên cam đành khổ lụy sầu bi

Quanh năm bao cảnh loạn ly

Trời mưa không thuận đất thì không sanh

Mẹ thương con chẳng đành đoạn dứt

Tình thiêng liêng bút mực ghi rằng

Các con lớn nhỏ nghe chăng

Thọ trì kinh Mẫu khó khăn cũng lành

Khắp nhơn sanh điều hành tâm đạo

Giúp cho đời cải tạo ăn năn

Chẳng luận cao thấp ngang bằng

Dầu cho trẻ nhỏ lòng hằng trì kinh.

Chín tuổi biết cung nghinh đọc tụng

Ðiển huyền vi hữu dụng Mẹ ban

Cốt nhục xa cách lạc đàng

Mẹ cho tái hợp bình an sum vầy

Vui trong cảnh bao ngày cách biệt

Dầu chia tay cũng hiệp cùng nhau

Không phân hai bậc thấp cao

Ai ai cũng được truyền trao kinh này

Khắp non nước đông tây nam bắc

Phổ biến kinh để nhắc nhở lòng

Thập phương bá tánh rõ thông

Nếu chẳng khứng thọ chắc không sanh tồn

Bao nguy khổ dập dồn đau xiết

Nạn thiên tai thủy kiệt sơn băng

Chúng sanh ngã gục nhào lăn

Lâm vòng đại nạn thoát chăng được nào

Hiện bây giờ ốm đau bệnh tật

Sinh ra nhiều chứng thật gớm ghê

Khắp trong tất cả thành quê

Thảy đều thọ nạn ê chề khổ thân

Bị nắng hạn mưa dầm ngập hết

Thổ sản này ngã chết chẳng còn

Ðói lòng quằn quại các con

Vậy khuyên ráng nhớ lời son Mẫu-Từ

Mẹ khuyên con tâm thư lời cuối

Gắng công tu thông suốt lý kinh

Truyền trao giải nghĩa phổ in

Cho người trì tụng hiểu kinh kịp thời

Chúng con sẽ thấy đời hết khổ

Nội trong năm phổ độ đầu tiên

Mưa hòa gió thuận khắp miền

Mùa màng sung túc thấy liền chẳng sai

Còn như đáo lệ ngày Kỵ-Mậu

Lập tràng đàn bái Mẫu trì kinh

Dâng đèn sáp thiết quang minh

Từ-Tôn phủ điển nhơn sinh phúc dày

Mỗi trăng có ba ngày Mậu Kỵ

Hãy thành tâm bền chí cúng dường

Kỉnh đàn, đăng, thủy, hoa, hương

Ngoài ra tất cả ngày thường khỏi lo

Việc cúng kiến phải cho tinh khiết

Cố gắng tu tha thiết cần chuyên

Lo tròn phận sự hằng niên

Ba mươi sáu nhựt kiền thiền trì kinh

Sắm lễ vật cung nghinh Từ-Mẫu

Trong các ngày Kỵ-Mậu lập đàn

Gồm có các ngọn đăng quang

Quả hoa tươi thắm hương phàn năm cây

Sáu chung nước lọc đầy đủ lễ

Cùng chung nhau hợp để kỉnh đàn

Thuyết kinh giải lý rõ ràng

Mỗi người đều định tâm an thọ trì

Ai xứ nào làm y lời dạy

Ðịnh tinh thần tụng bảy biến kinh

Tiêu bao nghiệp chướng tội mình

Hưởng đời ngươn thượng huyền linh sanh tồn

Ai cố gắng sớm hôm trì tụng

Thêm hai thời chuyển dụng tâm thành

Mẹ ban huyền diệu điển thanh

Tự tay cứu chữa mạnh lành nội gia

Ðức Từ-Tôn truyền ra cho biết

Các con cần tha thiết ghi lòng

Lúc mạch gần chín đầy đồng

Hiện ra móng Bạch hư không rõ ràng

Gió từ đâu thổi sang rất mạnh

Trong niên này gặp cảnh phong ba

Khổ sầu từ trẻ tới già

Chúng sanh phải chịu thiết tha cơ hàn

Nạn đói lạnh lầm than đau xiết

Là điềm trời ứng thiệt rõ ràng

Thiên đình thâu hạt lúa vàng

Thần linh ngũ cốc lịnh ban về Trời

Gieo họa cho cảnh đời khốn khổ

Tuy vậy mà có chỗ cũng chừa

Nơi nào kỉnh Mẹ sớm trưa

Trì kinh ÐỊA-MẪU phước nhà bình an

Mẹ bảo hộ vững vàng nơi đó

Ðược trúng mùa mưa gió thuận hòa

Ai từng phổ biến gia gia

Tuyên truyền kinh Mẫu đứng ra giải bày

Phổ thông in đủ đầy nghĩa lý

Mẫu sẽ sai các vị Thiên Thần

Gia thần ủng hộ ân cần

Ðồng theo độ kẻ xa gần thành tâm

Ðược phúc lành tháng năm no ấm

Trên Thiên Ðình ghi chấm phước ban

Nội gia kẻ đó thanh nhàn

Sẽ được thạnh phát vinh quang muôn phần

Thanh-Long, Bạch-Hổ Thần cũng giáng

Phò tá người xứng đáng con lành

Từ-Tôn cho biết rõ rành

Trăng mười thập bát giáng sanh trần miền

Ðến giờ Ngọ kiền thiền kỉnh Mẫu

Chẳng có nên dời đổi thời gian

Sửu, Mùi, Thìn, Tuất không an

Ðúng giờ nhất định lập đàn trì kinh

Cầu lịnh Mẹ thương tình cứu khổ

Phủ điển linh phổ độ chúng sanh

Các con tựu họp tâm thành

Ðược ban mầu nhiệm phúc lành khắp nơi

Mẹ hiển Thánh xuống đời tri chứng

Phương hướng nào bền vững chí tâm

Thường hành kinh Mẫu diệu thâm

Ngày đêm thành kỉnh tháng năm thanh nhàn

Còn lo chi mùa màng chẳng trúng

Gia nào hay trì tụng kinh này

Phước lành sẽ được hưởng ngay

Thăng thiên đắc quả chẳng sai chẳng lầm

Hưởng quý tế cao thâm lộc cả

Thọ hương đăng trà quả vinh sang

Chơn Kinh của đức Mẫu-Hoàng

Gồm ba diệu lý lời vàng ngọc châu

Kinh Ðịa Mẫu đứng vào bậc nhứt

Chẳng tường phân ý thức suy tầm

Người đời còn bởi mê tâm

Chẳng nên kinh dễ lỗi lầm tội mang

Ai tỉnh ngộ lập đàn cung kỉnh

Thọ trì kinh nghiêm chỉnh cúng dường

Nạn tai nghiệp chướng lỡ vương

Một ngàn muôn kiếp thoát đường trầm luân

Kinh Ðịa-Mẫu thấm nhuần đạo lý

Gắng cần chuyên nghiệm kỹ lời khuyên

Hằng ngày ròng rã khẩn nguyền

Ðược nhiều công đức tội liền tiêu tan

Kinh Mẫu hơn muôn ngàn kinh khác

Ai chí tâm hiển đạt phúc lành

Rõ thông từng chữ hiểu rành

Người đó sẽ được Mẹ dành hồng ân

Ðiển huyền linh xa gần chiếu tỏa

Phóng hào quang khắp cả bầu trời

Thưởng người hiểu rõ từng lời

Tâm tư kẻ đó sáng ngời minh châu

Ai thông đạt từng câu nghiệm kỹ

Ðã tri tường nghĩa lý diệu kinh

Có thể gội sạch tội mình

Bao nhiêu nghiệp chướng oan tình tiêu tan

Như ai rõ từng hàng Mẫu dạy

Qua nạn tai sắp xảy đến mình

Lại còn hưởng được phước vinh

Tam tài lộc thọ khương ninh thanh nhàn

Nếu ai hiểu được toàn kinh quyển

Thì đích danh Mẫu chuyển điển quang

Luôn được phước lộc bình an

Ðời đời kiếp kiếp Mẹ ban phúc dầy

Như nghe thuyết kinh này chẳng tưởng

Lại bỏ qua không lượng tường tri

Mà lòng chẳng khứng thọ trì

Bị khép vào tội khinh khi Phật Trời

Tội phỉ báng bao lời xúc phạm

Lâm vào cảnh khóc thảm sầu than

Ngày ấy chẳng có kêu oan

Phải đành vướng tội gian nan ngục hình

Dân nước nào chẳng tin lời Mẫu

Sẽ lâm vào bao nỗi thiết tha

Ðại kiếp thủy hỏa phong ba

Thảy đều chết rụi đâu mà còn chi

Lòng Từ-Mẫu nghĩ suy đau xiết

Muốn hủy hoại đại kiếp phong ba

Nạn thủy hỏa sắp xảy ra

Thương cho sanh chúng phải xa cảnh sầu

Ngặt chúng chẳng quay đầu trở lại

Tuân theo lời Mẫu dạy trong kinh

Mẹ muốn bỏ sổ tử hình

Vì thấy số phận chúng sinh chết nhiều

Mẹ tính mãi bao điều phương kế

Chẳng đành lòng bỏ phế lãng ngơ

Tình thương vô bến vô bờ

Làm sao cứu được con thơ trở về

Mẹ dùng chước mầu phê sắc lịnh

Phán phân rằng chỉ định thế này

Truyền Thần Thiện, Ác đến đây

Chia làm hai phái lướt mây xuống trần

Người hung dữ Ác Thần dẫn dắt

Nhập cùng chung kẻ bất lương tâm

Ðộc ác, tàn nhẫn, đa dâm

Chia ra tất cả chẳng lầm lộn chi

Bậc hiền lương phương-phi quân-tử

Thiện Thần gom lại giữ một nơi

Ðưa vào chánh giác kịp thời

Ngày đêm tu niệm quên đời gian nan

Chờ đến ngày hạ màn chung cuộc

Mẫu sẽ vãi ra một cái chài

Dẫu cho thiện, ác phân hai

Tóm thâu tất cả một chài nhốt chung

Liên lụy kẻ tận trung hiếu thảo

Người tu hành học đạo kinh tâm

Chừng đó mới thấy diệu thâm

Mẫu-Từ sẽ chuyển huệ tâm trẻ lành

Ðược sống sót nhàn thanh đủ trí

Biết tường phân chánh lý đường tà

Thiện gần ác lại tránh xa

Từ đó các Ðạo mở ra khai hoằng

Ðồng xuôi lòng ăn năn quy tựu

Chánh Ðạo Mẫu hội đủ đêm về

Chẳng còn chia rẽ khen chê

Phân ra nhiều mối khó bề tường phân

Hình tướng chài phép Thần mầu nhiệm

Mẫu tả ra những điểm rất cần

Nhị Thập Bát Tú phân thân

Phủ vây chánh Bắc giáp gần chánh Nam

Còn phương hướng Tây Nam, Tây Bắc

Các vị thần giáp mặc bông bào

Gồm sáu mươi vị tài cao

Mẫu-Từ phán lịnh truyền trao lời vàng

Tuân lời dạy Thiên-Cang mười vị

Thập Nhị Thần định chỉ Ðịa-Chi

Tất cả Tinh-Tú các vì

Ủng hộ Hoàng-Ðế Thái-Vi hoàn toàn

Ðức Từ-Tôn Mẫu-Hoàng điều khiển

Thần Lôi-công, Lôi-điển tám phương

Phân thân trấn thủ phi thường

Sáu mươi bốn quẻ tỏ tường diệu thâm

Hiện nguyên hình tay cầm binh khí
Ðứng dàn ra trực chỉ đó đây

Khắp trong thiên hạ đủ đầy

Trận đồ của Mẫu lập xây hạ miền

Cõi Trời Nam từ niên Ðinh Hợi

Ðến niên Thân Dậu mới thiệt rồi

Biết bao huyền bí nhiệm mầu

Tại nơi hạ giới thảm sầu thiết tha

Mẫu-Từ bủa Thiên-la, Ðịa võng

Sức đại hùng vang động kinh hồn

Làm cho Thiên ám, Ðịa hôn

Thần sầu Quỷ khóc vong hồn thảm thương

Còn Tứ Ðại Thiên Vương tiếp lịnh

Bốn cửa trận Mẫu định trấn an

Tám vị Thần lực Kim-Cang

Xông vào trận hóa pháp đàn thần thông

Làm Trời Ðất hư không nghiêng ngã

Nhựt Nguyệt Tinh châu hỏa đảo xây

Cũng như chong chóng lăn quay

Thế rồi lặn mất không ngày hiện ra

Mẫu thâu lại yêu tà lăng mỵ

Kẻ bất lương phải bị ngục hình

Hô phong hoán võ lôi đình

Làm cho sấm nổ nước minh mông tràn

Lửa dậy khắp dương gian nguy khổ

Trận cuồng phong bảo tố khắp vùng

Mẫu tận diệt đứa bất trung

Xử người bất nghĩa chẳng dung tha nào

Ðến chừng đó vàng thau mới rõ

Mẫu thâu xong ngày đó bình an

Nước rút, sóng lặng, gió tan

Sẽ thấy vũ trụ dương gian tươi nhuần

Chỉ còn người hiền lương sống sót

Kẻ thiện lương được thoát khỏi vòng

Thế là Mẫu dụng huyền công

Diệu pháp hóa biến thần thông lẹ làng

Kinh đô có sen vàng đua nở

Bốn phía vòng khắp ở thị thành

Các con hiếu thảo hiền lành

Ðến chừng khi đó Mẫu dành hồng ân

Ðược đổi xác Kim-Thân bất hoại

Chẳng tử sanh thoát khỏi nghiệp duyên

Chứng đặng Ðại-La Tiên-Thiên

Bởi nhờ cố gắng tu hiền thành công

Hội Bàn-đào thưởng đồng tất cả

Các con nào đắc quả dự vào

Thế rồi vĩnh viễn về sau

Chẳng còn chuyển kiếp khổ đau trần miền

Chúng con được niên niên bất tử

Khoái lạc tiêu diêu ngự cảnh nhàn

Giống cảnh Diêu-Ðiện Mẫu-Hoàng

Luôn hưởng lộc thọ phước an cửu trường

Phật Mẫu ngự trên thượng tầng cõi

Hoằng khai dưỡng nhơn loại bảo toàn

Hết lòng quảng đại sắc son

Hóa sanh dạy dỗ các con phản hồi.



NAM MÔ VÔ THƯỢNG HƯ KHÔNG ÐỊA MẪU DƯỠNG SANH BẢO MẠNG CHƠN KINH

(4 lạy)





Nam mô Vô-Thượng Hư-Không Ðịa-Mẫu Huyền-Hóa Dưỡng-Sanh Bảo-Mạng Từ-Tôn Ðại-Từ-Tôn.

(24 lạy)





Nguyện dĩ thử công đức,

Phổ cập ư nhứt thiết,

Kiền thiền kinh Ðịa-Mẫu,

Vĩnh tạo hưởng phước trạch.



Nam mô Vô-Thượng Hư-Không Ðịa-Mẫu Huyền-Hóa Dưỡng-Sanh Bảo-Mạng Chơn Kinh





TÁN DƯƠNG CÔNG ÐỨC MẪU



Mỗi trăng tam nhựt Mậu

Chí tâm trì kinh Mẫu

Tha thiết nguyện chúng sanh

Ðoạn dứt bao nghiệp tội

Lời châu Ðịa-Mẫu kinh

Tâm huyết thư lịnh Mẹ

Hoằng bao la mầu nhiệm

Ðộ dân an quốc thới

Mùa màng được sung túc

Dưỡng dục độ chúng sanh

Tiêu tai tứ phước thọ

Cải tội miễn oan khiên

Nhứt quyển tiêu vạn kiếp

Ðịa-Mẫu bảo an ninh

Vĩnh bất sanh phàm hạ

Tình Mẹ thương lai láng

Nhân đức vô cùng tận

Mẹ bảo hộ nhơn dân

Ðược an nhàn trường cửu

Xin đem mọi công đức

Dâng lễ Ðịa-Mẫu kinh

Hồi hướng cho nhân loại

Lợi ích khắp chúng sinh

Ở mười phương pháp giới

Ðều dứt mê khai ngộ

Thoát khỏi sanh, lão, tử

Nương nhờ linh điển Mẹ

Chứng đặng quả Bồ-đề

Sớm trở về đất Phật.



NAM MÔ VÔ THƯỢNG HƯ KHÔNG ÐỊA MẪU DƯỠNG SANH BẢO MẠNG CHƠN KINH

(3 lạy)





TỤNG KINH XONG TIẾP TỤNG BÀI NGUYỆN NẦY



Kiền thiền vọng bái Mẫu-Hoàng,

Chấn chỉnh Ðạo giáo sắp an dân tình.

Ðộ người khỏi chốn u-minh,

Vọng cầu bái Mẹ nhờ tình xót thương.

Chúng dân tai họa đa vương,

Lạy Mẹ dạy dỗ mới tường thiên cơ.

Vô-cực Từ-tôn Tây-Thiên Bá-Chủ

Vương Cung Tây-Mẫu đê đầu lạy tạ từ ân,

Hào quang rọi xuống hương lân tỉnh thành.

Khắp trong dân chúng làm lành,

Thương yêu đùm giúp chẳng đành bỏ nhau.

Mây lành rọi tỏ năm màu,

Cỏ cây tươi tốt làu làu Thái-dương.

Yên vui bốn bể mới tường,

Cơ Trời sắp đặt luân thường vẻ vang.

Diêu-Trì chấn chỉnh sửa sang,

Bao nguồn về cội một đàng chánh quy.

Kiền thiền vọng bái Từ-Tôn,

Chuẩn y tam giáo mới tồn lý cao.

Ơn trên Cam-lộ rào rào,

Chúng con nguyện vọng ước ao thái bình.

Lạy cầu Mẹ ở Thiên-đình,

Ðộ an dân chúng, pháp linh tỏ tường.





MA-HA BÁT-NHÃ BA-LA MẬT-ÐA TÂM-KINH



Quán-Tự-Tại Bồ-Tát hành thâm Bát-Nhã Ba-La Mật-Ða thời, chiếu kiến ngũ-uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách.



Xá-Lợi-Tử! Sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc, thọ, tưởng, hành, thức, diệc phục như thị.



Xá-Lợi-Tử! Thị chư pháp không tướng, bất sanh bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm. Thị cố không trung, vô sắc, vô thọ, tưởng, hành, thức, vô nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý; vô sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp; vô nhãn giới, nãi chí vô ý-thức-giới, vô vô-minh diệc, vô vô-minh tận, nãi chí vô lão-tử diệc, vô lão-tử tận; vô khổ, tập, diệt, đạo; vô trí diệc vô đắc.



Dĩ vô sở đắc cố, Bồ-Ðề Tát-Ðỏa y Bát-Nhã Ba-La Mật-Ða cố, tâm vô quái ngại; vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng, cứu cánh Niết-bàn. Tam thế, chư Phật y Bát-Nhã Ba-La Mật-Ða cố, đắc A-Nậu-Ða-La tam miệu Tam-Bồ-Ðề.



Cố tri Bát-Nhã Ba-La Mật-Ða, thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú, năng trừ nhứt thiết khổ, chơn thiệt bất hư.



Cố thuyết Bát-Nhã Ba-La Mật-Ða chú, tức thuyết chú viết:



Yết-đế yết-đế, ba-la yết-đế, ba-la tăng yết đế, bồ-đề tát bà ha. (3 lần)



Ma-Ha Bát-Nhã Ba-La Mật-Ða







VÃNG SANH QUYẾT ÐỊNH CHƠN-NGÔN



Nam mô a di đa bà dạ,

Ða tha dà đa dạ, đa địa dạ tha,

A di rị đô bà tỳ,

A di rị đa tất đam bà tỳ,

A di rị đa tỳ ca lan đế,

A di rị đa, tỳ ca lan đa,

Dà di rị dà dà na,

Chỉ đa ca lệ ta bà ha.

(3 lần)







TÁN PHẬT



A-DI-ÐÀ PHẬT thân kim sắc

Tướng hảo quang minh vô đẳng luân

Bạch hào uyển chuyển ngũ Tu-Di

Cám mục trừng thanh tứ đại hải,

Quang trung hóa Phật vô số ức

Hóa Bồ-tát chúng diệc vô biên,

Tứ thập bát nguyện độ chúng sanh,

Cửu phẩm hàm linh đăng bỉ ngạn.



NAM MÔ TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC THẾ GIỚI ÐẠI TỪ ÐẠI BI A-DI-ÐÀ PHẬT



- NAM-MÔ A-DI-ÐÀ PHẬT (niệm nhiều ít tùy ý)

- NAM-MÔ ÐẠI BI QUÁN-THẾ-ÂM BỒ-TÁT (3 lần)

- NAM-MÔ ÐẠI-THẾ-CHÍ BỒ-TÁT (3 lần)

- NAM-MÔ ÐỊA-TẠNG VƯƠNG BỒ-TÁT (3 lần)

- NAM-MÔ THANH-TỊNH ÐẠI-HẢI-CHÚNG BỒ-TÁT (3 lần)





HỒI HƯỚNG KINH ÐỊA-MẪU



ÐỊA-MẪU công đức thù thắng hạnh,

Vô biên thắng phước giai hồi hướng,

Phổ nguyện pháp giới chư chúng sanh,

Tốc vãng vô lượng quang Phật Sát.

Nguyện tiêu tam chướng trừ phiền não,

Nguyện đắc trí huệ chơn minh liễu,

Phổ nguyện tội chướng tất tiêu trừ.

Thế thế thường hành Bồ-Tát đạo.

Nguyện sanh Tây-Phương Tịnh-Ðộ trung,

Cửu phẩm Liên-Hoa vi phụ mẫu,

Hoa khai kiến Phật ngộ vô sanh,

Bất thối Bồ-Tát vi bạn lữ.

Nguyện dĩ thử công đức,

Phổ cập ư nhất thiết,

Ngã đẳng dữ chúng sanh

Giai cộng thành Phật đạo.





PHỤC NGUYỆN

(Hoặc muốn phục nguyện bài khác cũng được)



Nam mô A-Di-Ðà Phật

Phục nguyện,

Quán-Âm thị hiện,

Thuyết pháp độ sanh,

Lâm nạn xưng danh,

Tầm thinh cứu khổ,

Hiện tiền đệ tử.....

Pháp danh.....

Cập nhứt thiết hàm linh,

Thừa tư công đức,

Hồi hướng Tây-Phương,

Trang nghiêm Tịnh-Ðộ,

Thượng báo tứ trọng ân,

Hạ tế tam-đồ khổ

Từ thuyền phổ độ,

Phước đức vô biên,

Ðồng hóa hữu duyên

Tề thành Phật Ðạo.



NAM-MÔ A-DI-ÐÀ PHẬT

(Ðồng niệm)





TAM QUY-Y



- Tự quy-y Phật, đương nguyện chúng sanh thể giải đại đạo, phát vô thượng tâm. (1 lạy)



- Tự quy-y Pháp, đương nguyện chúng sanh, thâm nhập kinh tạng, trí huệ như hải. (1 lạy)



- Tự quy-y Tăng (Tiên), đương nguyện chúng sanh, thống lý đại chúng, nhứt thiết vô ngại. (1 lạy)



Nguyện đem công đức này,

Hướng về khắp tất cả,

Ðệ tử và chúng sanh,

Ðều trọn thành Phật đạo.





NAM-MÔ A-DI-ÐÀ PHẬT







QUYỂN CHUNG



  • Cúi xin quý Ông Bà cùng nội hải ngoại thiện tín, như muốn tụng kinh nầy cầu cho ruộng vườn xung, nhà an nước thạnh, trên dưới thuận hòa, thì trước khi tụng phải súc miệng, rửa tay, rửa mặt, bàn ghế cho sạch sẽ, mỗi việc đều tinh tấn, coi như luật nhà Phật mà y theo, thì cầu chi đặng nấy là: Sở nguyện sở cầu giai toại ý. Không sai.



Có bài kệ rằng:


  • Tri thân là khổ phải trau thân,
  • Huyện Châu cùng ở cõi phàm trần.
  • Hàm linh cán đức nhờ Kinh Chú
  • Quyển tập hằng xem thấy sáng trân.
  • Ấn rao Ngũ-Cốc cầu trăm họ.
  • Tống truyền Ðịa-Mẫu chúa muôn dân.
  • Linh hiển rõ ràng đừng khinh dễ,
  • Kinh văn rực rỡ giữ lòng tuân.



- CHUNG - 







HỒI HƯỚNG CÔNG ÐỨC



  • Nguyện đem công đức ấn tống KINH ÐỊA-MẪU này hồi hướng cho Cửu Huyền Thất Tổ quá vãng được siêu sanh tịnh độ, hiện tiền được hưởng huệ phước THIÊN TIÊN VÔ NHIỄM và cầu cho:



THIỆN-PHƯỚC THIÊN NIÊN

HIỆP HÒA ÐẮC ÐẠO