Thứ Hai, 1 tháng 7, 2019

Đức Phật Tỳ Lô Giá Na



Đức Phật Tỳ Lô Giá Na

Đức Phật Tỳ Lô Giá Na (Phạn: वैरोचन, Vairochana, hoặc Maha-Vairochana), Tỳ Lô Giá Na có nghĩa là “tỏa sáng”, là ánh sáng chiếu rực rỡ khắp mọi nơi (quang minh biến chiếu). Ngài là Đức Phật ở trung tâm, một trong những vị Phật của Ngũ Phương (Năm Phương). Màu của thân Ngài là màu trắng. Ngài ngồi chính giữa trên một đài sen do tám con sư tử lớn hợp thành. Ngài có thể diệt trừ si độc của ngũ độc, si độc của chúng sanh và có thể chuyển thức A Đà Na ( thức “duy trì”) thành Pháp Giới Thể Tánh Trí. Trong năm bộ của Chú Lăng Nghiêm thì Ngài thuộc Phật Bộ Trung Ương.

Pháp Sư Thật Xoa Nan Đà (Siksananda) vào triều đại nhà Đường đã dùng cách dịch danh hiệu này trong bản dịch Kinh Hoa Nghiêm tám mươi quyển (Bát Thập Hoa Nghiêm) của ngài. Trong quyển 12, “Phẩm Như Lai Danh Hiệu” có nói rằng, “Chư Phật-tử ! Ðức Như-Lai ở trong tứ châu thiên hạ này, hoặc có danh hiệu Nhứt Thiết Nghĩa Thành, hoặc danh hiệu Viên Mãn Nguyệt, hoặc danh hiệu Sư Tử Hống, hoặc danh hiệu Thích Ca Mâu Ni, hoặc danh hiệu Ðệ Thất Tiên, hoặc danh hiệu Tỳ Lô Giá Na, hoặc danh hiệu Cù Ðàm Thị, hoặc danh hiệu Ðại Sa Môn, hoặc danh hiệu Tối Thắng, hoặc danh hiệu Ðạo Sư, có mười ngàn hiệu như vậy, khiến chúng sanh thấy biết riêng khác.”

Còn Pháp Sư Phật Đà Bạt Đà La (Buddhabhadra) vào triều đại Đông Tấn trong bản dịch Kinh Hoa Nghiêm sáu mươi quyển (Lục Thập Hoa Nghiêm) của ngài đã dịch chữ Phạn Vairochana sang tiếng Trung Hoa là Lô Xá Na (Rocana).





Chú Lăng Nghiêm Cú Kệ Sơ Giải

Hòa Thượng Tuyên Hóa lược giảng



50. Đa tha dà đa câu ra da.

Kệ:



Trung ương Phật bộ Tỳ Lô tôn
Như Lai chủng tộc hoá quần luân
Phổ tu vạn hạnh Ba La Mật
Chư pháp vô ngã chứng viên thông.

Tạm dịch:


Phật bộ Tỳ Lô tại trung tâm
Dòng tộc Như Lai dạy chúng sanh
Tu khắp vạn hạnh Ba La Mật
Các pháp vô ngã chứng viên thông.

Giảng giải:
Đa tha dà đa dịch là “Như Lai”, cũng chính là Phật Bộ. Chú Lăng Nghiêm có năm bộ, chia ra năm hướng. Chính giữa là Phât Bộ, có Đức Phật Tỳ Lô Giá Na là giáo chủ. Phương tây là Liên Hoa Bộ, có Phật A Di Ðà là giáo chủ. Phương đông là Kim Cang Bộ, có Phật A Súc là giáo chủ, tức là Phật Tiêu Tai Diên Thọ Dược Sư. Phương nam là Bảo Sanh Bộ, Phật Bảo Sanh là giáo chủ. Phương bắc là Yết Ma Bộ, Phật Thành Tựu là giáo chủ. Cọng lại là năm bộ. Thế gian này là do giáo chủ của năm bộ quản lý và trấn áp năm đại ma quân thì năm đại ma quân mới tuân theo quy củ, tuy dù tuân theo quy củ nhưng chúng cứ nghĩ đến việc làm cho thế giới này từ từ rối loạn hư hỏng. Thế giới này sanh ra đủ thứ tai nạn là do thiên ma ngoại đạo làm ra. Thiên ma ngoại đạo chỉ sợ là thiên hạ không có loạn, chỉ sợ thế gian này không hư hoại nhanh chóng, nhưng do có năm phương Phật này trấn áp tại đây nên chúng lén lút phá hoại, không dám ngang ngược làm ác. Trên thế gian thì ma và Phật đối lập với nhau. Phật thì giáo hóa chúng sanh sớm thành Phật đạo, ma thì giáo hóa chúng sanh sớm thành ma đạo. Nhưng Phật là nhờ ma giúp Ngài tu thành tựu, do đó ma chính là thiện trí thức của người tu đạo Phật. Người tu đạo khi cảnh nghịch đến thì thuận theo thọ nhận, nên nhin phía mặt trái để biết được chỗ tốt. Chúng ta cần nên cung kính Phật, nhưng cũng không phản đối ma vương, xem kẻ oán người thân đều bình đẳng, Phật ma đều như một, cần phải như thế thì không ghét cũng không thương, không thiện cũng không ác. Cảnh giới như thế không khác biệt nhiều. Năm Bộ chú Lăng Nghiêm này sau sẽ giảng lại đầy đủ.

Câu Ra Gia là chủng tộc của Phật, là chủng tánh của Như Lai, tức là đệ tử Phật giáo tin Phật.

‘’Phật bộ Tỳ Lô tại trung tâm.’’ Chính giữa là Phật bộ, thuộc về thổ (đất). Ðất sanh ra vạn vật, đất thịnh vượng cả bốn mùa, một năm bốn mùa đất đều thịnh vượng, Xuân hạ thu đông. Mùa xuân thì mộc thịnh vượng, mùa hạ thì hỏa thịnh vượng, mùa thu thì kim thịnh vượng, mùa đông thì thủy thịnh vượng. Một năm chỉ có bốn mùa, nhưng lại có ngũ hành, thì sắp xếp như thế nào ? Vì thổ là ở chính giữa, kim mộc thủy hỏa là bốn bên, cho nên xuân hạ thu đông là bốn mùa. Mùa xuân thì mộc thịnh vượng, mùa hạ thì hỏa thịnh vượng, mùa thu thì kim thịnh vượng, mùa đông thì thủy thịnh vượng. Quý vị xem, mùa đông nơi đây thì ẩm ướt, không chỉ là một chút xíu, người Quảng Đông gọi là “Hồi Nam” có nghĩa là mùa ẩm ướt.

Nếu Thổ không có trong bốn mùa thì như thế nào ? Thổ thịnh vượng trong cả bốn mùa, mùa xuân ba tháng, trong ba tháng có chín mươi ngày, có thổ thì có thể sanh sôi nảy nở. Mùa hạ, mùa thu, mùa đông, đều có thổ. Cho nên ở chính giữa là Mậu Kỷ thuộc thổ, phương đông là Giáp Ất thuộc mộc, phương nam là Bính Ðinh thuộc hỏa, phương tây là Canh Tân thuộc kim, phương bắc là Nhâm Quý thuộc thủy. Ðây là ngũ hành tương sanh tương khắc.

“Phật bộ Tỳ Lô tại trung tâm” Tỳ Lô là Tỳ Lô Giá Na là tiếng Phạn, dịch là “biến nhất thiết xứ”.

“Dòng tộc Như Lai dạy chúng sanh’’ Chính giữa là Phật Bộ. Chủng tộc của Phật đến giáo hóa tất cả chúng sanh.

‘Tu khắp vạn hạnh Ba La Mật.’’ Tu khắp vạn hạnh, lục độ vạn hạnh, thập độ vạn hạnh, tu pháp Ba La Mật đến bờ bên kia.

‘’Các pháp vô ngã chứng viên thông’’ đắc được các pháp vô ngã, các pháp vô thường, chứng được diệu lý viên thông, tất cả đều viên thông, thông dung vô ngại.







Nam Mô Giáo Chủ Mật Giáo Tý Lô Giá Na Mâu Ni Thế Tôn

  • Ngài Tỳ Lô là một Pháp Thân. Trên đảnh của các Đức Phật khác thì chỉ có một cái cục thịt gọi là đảnh, nhưng chỉ riêng Ngài thì lại có tới... ba cái cục thịt lận, cái này chồng lên cái kia.

Ngài bắt ấn Trí Quyền.

Toàn thân màu xanh và cũng phát hào quang màu xanh da trời.

Hào quang tỏa sáng rất là mãnh liệt và khi đối diện với Ngài thì mọi người đều có nhận xét rằng: “Không hề có cái bóng tối” do vậy mà Ngài còn được gọi là Đại Nhật Quang Như Lai (cái mặt trời lớn, mặt trời của mình là nhỏ vì còn có bóng tối).

Ngài coi cái Liên Hoa Tạng, ở đây các vi trần thế giới tạo thành từng đám y như đám mây vậy. Những đám mây này có hình dáng to lớn như những hòn núi và được đặt tên là núi Tu Di. Những sinh vật ở đây đều có tầm cỡ rất là lớn.

Một ví dụ về cái tầm cỡ xa và rộng của nó: Những vị Bồ Tát, tuy là rất là xa với nhau, nhưng trong cái tầm nhìn của người vào được Liên Hoa Tạng thì lại thấy rằng các Ngài lại rất gần với nhau và tạo thành một cái biển, cái biển này được đề cập đến trong công thức tụng niệm hằng ngày:

Nam Mô Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát.

  • Và trong cảnh mênh mông bát ngát này thì nếu nhìn kỹ thì sẽ nhận thấy rằng trong những cái núi này lại có một núi cao hơn những núi khác. Đây là trung tâm của Liên Hoa Tạng.Trong đây là nơi cư ngụ của Pháp Thân. Trong đảnh của Ngài lại có kinh Kim Cang Đảnh là một bộ kinh bàn về các thần lực của các Chư Phật và Bồ Tát. 

  • Vào tới đây và dùng công thức: “Phản Bổn Hoàn Nguyên” có nghĩa là thực chứng cái chuyện:“Phật ở trong ta, ta ở trong Phật” qua tiếng nổ kinh hồn “SuBham” của năm chày kim cang đụng nhau và cùng lúc ấy năm pháp thân (A Di Đà, Quan Thế Âm, Hộ Pháp Kim Cang Vương và chính hành giả cùng với Ngài Tỳ Lô) đại diện cho Ngũ Uẩn đều hoà tan với nhau trong ánh sáng của sự Tịch và Chiếu. 

  • Như vậy, Ngài có cái điểm rất là đặc biệt là khuyến khích chuyện dùng “Tướng để thấy Tánh” và đặc điểm này sẽ chấm dứt trong công thức vừa nói ở trên.


  • Tâm chú của Ngài lại là tâm chú của Đức Đại Trí Văn Thù Sư Lợi đó là “Ah” và có hình dáng như là số 31 ở trên vài cái nóc chùa.

  • Ngài phát Hào Quang màu trắng xanh y như tia hồ quang. Và khi nhìn kỹ thì thấy cáiĐảnh của Ngài gồm ba cái chồng lên nhau, trong khi đó các Đức Phật khác thì chỉ có một cục mà thôi. Vì nhận ra cái khác biệt này, nên mình cũng muốn vào đó (cái đảnh của Ngài) để coi có gì lạ. Thế là Ngài cầm mình và trong một cái duỗi tay, mình vào trong đó thì cũng là những cảnh tiếp độ của những Đức Phật và Bồ Tát sống lẫn lộn với nhau. Và trong cái trung tâm của cái biển người này có một cuốn kinh đó là Vi Diệu Kinh.

  • Cuốn Kinh này dạy mình cách nhận dạng các Đức Phật và các vị Bồ Tát. Đệ nhận thấy rằng ở đây cái sự yên lặng nó có trọng lượng hơn khi đệ chưa vào Liên Hoa Tạng. Bộ kinh được Ngài Tỳ Lô Giá Na... mã hoá bằng ánh sáng và nhét vô đảnh của đệ. Sau khi xuất định, đệ nặng đầu cả mấy ngày lận. Đi tới cõi Tịnh Độ nào thì đệ cũng đọc lại lời Đại Nguyện. Thì ở đây khi đọc lời Đại Nguyện thì một linh ảnh bỗng nhiên xuất hiện: Tọa độ gốc của cái Thấy là từ dưới nhìn lên và ở ngay trung tâm một cái khoảng trống như một xa lộ khổng lồ: trên cùng và ở cuối cái xa lộ là Ngài Tỳ Lô Giá Na với ấn Tỳ Lô (hay Trí Quyền Ấn) đó là tay phải chồng lên bàn tay trái và nắm ngón tay trỏ của bàn này. 

  • Bên Trái của Ngài là những Bồ Tát được xếp hàng như là ghế trong rạp xi nê vậy đó. Các Ngài đều ngồi trên hoa sen năm cánh màu vàng. Vì là bên trái và theo Vi Diệu Kinh thì đây là những Bồ Tát nghiêng về "Trí Tuệ". Ở giữa là một phần trống trải và rộng lớn như là một xa lộ khổng lồ như đã trình bày ở trên. Khi cái "Thấy" chú ý về phía bên phải của Ngài Tỳ Lô Giá Na thì cũng thấy cảnh như vậy: Các vị Bồ Tát cũng ngồi trên các hoa sen, năm cánh màu vàng. Và theo kinh Vi Diệu thì đây là tập đoàn Bồ Tát nghiêng về "Thực Hành". Và như vậy các Ngài ngồi thành từng hàng và hàng gần nhất của cái "Thấy" là các vị Bồ Tát ở cõi Sơ Thiền (cõi này gồm ba tầng, ở đây là hàng) rồi tới các vị ở Nhị Thiền (cũng gồm ba tầng/hàng) và Tam... rồi Tứ... Và cái "Thấy" cũng nhận ra một Bồ Tát trên đầu lại phát ra những hào quang có đủ bảy màu, ông ta ngồi ngoài bìa của từng Tiểu Quang Thiên, (từng chót bẹt của Nhị Thiền) và khi nhìn kỹ thì đây là... đệ. 

  • Khi nhận dạng ra được như vậy thì một tư tưởng phát từ Ngài Tỳ Lô Giá Na vào cái "Thấy" như sau: Đây là tư thế tối ưu của ông khi độ. Vì ảnh hưởng của Đàn Pháp sáu mặt của Om Mani Padme Hùm mình cũng thấy Ngài Tỳ Lô cũng gồm sáu mặt: 

1. Mặt trước là... Tỳ Lô với Trí Quyền Ấn,

2. Mặt sau là Con Người: Vào đây thì mình hiểu rằng, chỉ khi là tu sĩ ở Con Người thì cơ hội vào Liên Hoa Tạng là cao nhất.

3. Hình bên Trái của Ngài là: pháp hội bàn về Trí.

4. Hình bên Phải của Ngài là pháp hội bàn về Hành.

5. Ở dưới là các cõi Tịnh Độ. Và cuối cùng,

6. Ở phía trên đầu Ngài là A Tỳ Địa Ngục.

Và nguyên tắc chung để di chuyển từ hình ảnh này qua hình ảnh khác mà không bị trở ngại là phải tạo nhiều phước báu trong các công việc "quên mình cứu người" khi sinh hoạt bình thường.





SuBham - Nó Là Như Vậy





Đại Nhật Như Lai

  • Đại Nhật Như Lai (sa.: Vairocana, Mahavairocana; zh.: 大日如来, 毘盧遮那佛), Tỳ Lư Xá Na hay Tỳ Lô Giá Na Phật (do phiên âm từ Vairocana) chính là Pháp thân của Phật Thích Ca. Trong Mạn Đà La của Mật giáo thì Đại Nhật Như Lai ở vị trí trung tâm. Ngài là biểu hiện của ánh sáng Trí Tuệ chiếu soi và diệt trừ bóng tối của vô minh.

Ý nghĩa Pháp thân Đại Nhật Như Lai

Theo quan điểm Đại Thừa thì Đức Phật có ba Thân: Pháp thân, Báo thân, Hóa thân. Sở dĩ có ba Thân là do chỗ dụng khác nhau. Phật Thích Ca, là Đức Phật lịch sử đã đản sinh và nhập diệt trên quả địa cầu này, chính là Hóa thân của Phật. Trong khi đó, thân mà Phật Thích Ca đã chứng ngộ gọi là Pháp thân, là Chân Như và đó là Đại Nhật Như Lai. Ý nghĩa Pháp thân này vượt ngoài sự luận bàn của ngôn từ và chỉ có sự chứng ngộ thành Phật mới có thể biết.


Đại Nhật Như Lai trong Mạn Đà La

  • Trong Kim Cương Giới Mạn Đà La, Đại Nhật Như Lai đại biểu cho Thức uẩn của Ngũ uẩn, Không đại của Ngũ đại, Pháp giới thể tính trí của Ngũ trí, và có chủng tử tự là VAṂ.

  • Trong Thai Tạng Giới Mạn Đà La, phần Trung Đài Bát Diệp Viện có hình tượng hoa sen Bi Tâm tám cánh, thì Đại Nhật Như Lai là nhụy sen biểu tượng cho căn bản của sự tu tập giải thoát cần phải lấy Đại Bi làm gốc. Ngài đại biểu cho tâm viên mãn, tối thắng của hoa sen trắng tinh khiết, trang nghiêm, thanh tịnh. Chủng tử tự là ĀḤ.


Ý nghĩa tên gọi Đại Nhật Như Lai


  • Đại Nhật Như Lai được dịch từ Vairocana, theo tiếng Phạn có nghĩa là "biến chiếu". Trong Đại Nhật Kinh Nghĩa Thích do sư Nhất Hạnh thuật ký giải thích: "Chữ Tỳ Lô Giá Na (vairocana) là mặt trời, có nghĩa là soi sáng cùng khắp, diệt trừ mọi chỗ u ám. Tuy nhiên đối mặt trời của thế gian, sự chiếu sáng có phương phận, chiếu sáng bên ngoài mà chẳng chiếu sáng bên trong, chiếu sáng bên này, chẳng đến bên kia, lại chỉ sáng ban ngày, còn ban đêm không thấy chiếu. Huệ Nhật của Như Lai không như thế. Trí sáng của Phật chiếu khắp mọi nơi, chẳng kể trong ngoài, không phân phương hướng, góc cạnh, đêm ngày."




THẦN CHÚ :


Đức Phật Tỳ Lô Giá Na bảo rằng:
"Ta nhớ khi xưa mới phát Đạo Ý vì không có Trí nên tâm không an định, các Pháp không hiện tiền, các thứ vọng tưởng nổi lên đầy dẫy. Do vậy bị các Quỷ Thần gây não hại, lạc vào Ma cảnh cho là Phật Pháp, sanh tâm tham ái cho là cứu cánh, không hay không biết. Trải qua vô số kiếp bị Ma làm hại, sau đó bỗng nhớ được Bản Tâm mới biết đó là việc Ma không phải là Phật Pháp. Tuy biết là vậy mà không có cách gì trừ được, mới la lớn lên với chư Phật rằng: "Phật có Huệ Nhãn, vì sao lại không thấy con bị Ma gây não hại!...."
Tức thời trong hư không có vô số Hóa Phật bảo Ta rằng: "Lành thay Bồ Tát! Ngươi hãy lắng nghe! Ta vì ngươi nói phương pháp đuổi Ma. Có thần chú tên là Tâm Địa Chú Pháp, nếu có người trì tụng tức mau được Nhất Thiết Chủng Trí, không bị Ma sai khiến"
Sau khi ta nghe được rồi, nhớ giữ không quên, tức thời Ma bỏ chạy. Ngay lúc đó ta được Vô Sanh Pháp Nhẫn, Đạo lớn Bồ Đề tự nhiên đầy đủ.
Bấy giờ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni cùng tất cả Đại chúng cúi đầu bạch rằng:"Mong Đức Thế Tôn nói cho"
Thời Đức Phật Tỳ Lô Giá Na nói "Tâm Địa Thần Chú" cho Phật Thích Ca Mâu Ni.

Tức nói Chú rằng:

"Úm, tô để sắt tra, phộc chiết la"
Nói xong trời tuôn mưa hoa báu. Mười phương thế giới, hết thảy các hương hoa tốt đẹp cùng các loại âm nhạc đều vân tập mà cúng dường, chư Thiên trỗi nhạc đầy khắp hư không, tất cả Trời Rồng đều nói chưa từng có như vậy.
Bấy giờ Đức Phật Tỳ Lô Giá Na nói Chú này xong, đột nhiên chẳng hiện, nhập vào nơi Pháp Giới Thanh Tịnh, đồng nội thân biến mười phương cõi như đại hư không, ngang bằng không có sai khác. Lúc đó Đức Phật Thích Ca Mâu Ni y theo Đức Phật Tỳ Lô Giá Na nhập vào Pháp Giới đồng một Chân Thể, tất cả chúng hội đều không thể thấy.
Thời Văn Thù, Phổ Hiền, Quan Âm, Di Lặc, Kim Cang Tạng, năm vị đại bồ tát theo hầu Đức Phật Thích Ca Mâu Ni nhập vào Pháp Giới nghe Đức Phật Tỳ Lô Giá Na nói Môn Tâm Địa Pháp Yếu, cảnh giới thâm sâu.



  • Theo quan điểm Đại Thừa thì Đức Phật có ba Thân: Pháp thân, Báo thân, Hóa thân. Sở dĩ có ba Thân là do chỗ dụng khác nhau. Phật Thích Ca, là Đức Phật lịch sử đã đản sinh và nhập diệt trên quả địa cầu này. Chính là Hóa thân của Phật. Tượng Phật Đại Nhật Tỳ Lô Giá Na

  • Trong khi đó, thân mà Phật Thích Ca đã chứng ngộ gọi là Pháp thân. Là Chân Như và đó là Đại Nhật Như Lai. Ý nghĩa Pháp thân này vượt ngoài sự luận bàn của ngôn từ và chỉ có sự chứng ngộ thành Phật mới có thể biết. Tượng Phật Đại Nhật Tỳ Lô Giá Na

“Chữ Tỳ Lô Giá Na (vairocana) là mặt trời, có nghĩa là soi sáng cùng khắp, diệt trừ mọi chỗ u ám. Tuy nhiên đối mặt trời của thế gian, sự chiếu sáng có phương phận. Chiếu sáng bên ngoài mà chẳng chiếu sáng bên trong, chiếu sáng bên này, chẳng đến bên kia. Tượng Phật Đại Nhật Tỳ Lô Giá Na

Lại chỉ sáng ban ngày, còn ban đêm không thấy chiếu. Huệ Nhật của Như Lai không như thế. Trí sáng của Phật chiếu khắp mọi nơi, chẳng kể trong ngoài, không phân phương hướng, góc cạnh, đêm ngày.”

Tỳ Lô Giá Na Phật tức là Pháp Thân Tự Tánh.

Hoa Tạng Thế Giới cũng tức là Như Lai Tạng Tánh.

Muốn gặp Tỳ Lô Giá Na Phật vào ở thế giới Hoa Tạng thì phải minh tâm kiến tánh.

Kiến tánh tức là gặp Tỳ Lô Giá Na Phật
Sống thực với Tánh Giác đó là thường ở Tịnh Độ, thường ở Hoa Tạng Thế Giới.

Hoa Tạng là Tự Tánh, Tự Tánh là Hoa Tạng.
Tỳ Lô Giá Na là Tự Tánh, Tự Tánh là Tỳ Lô Giá Na.

Chúng ta thờ Thầy thì chính là chúng ta phải nghe lời Thầy dạy dỗ. Thầy dạy chúng ta thế nào thì chúng ta thành thật y giáo phụng hành, thật làm, thật sự áp dụng lời dạy của Ngài vào cuộc sống, chính là Phụng sự sư trưởng. Thầy dạy chúng ta Hiếu dưỡng Phụ mẫu, thì việc đầu tiên chúng ta phải làm trong cuộc sống này chính là làm thế nào để tận Hiếu với cha mẹ, làm thế nào để cha mẹ luôn an lòng, thì cha mẹ sẽ hoan hỉ cho chúng ta theo Thầy học đạo.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét