TRÊN CON ĐƯỜNG TIẾN HOÁ CẦN PHẢI TỈNH THỨC ĐỂ NHẬN RÕ SỨ MỆNH, BÁM SÁT NỘI DUNG CỦA CON ĐƯỜNG TU TẬP MÀ MÌNH SẼ PHẢI ĐI QUA, TỪ ĐÓ THẲNG TIẾN, XÔNG PHA ĐI THẲNG QUYẾT CHÍ 1 LÒNG THỰC HÀNH CHẠM VÀO NÓ ĐỂ GỘT RỬA HẾT NHỮNG NGHIỆP QUẢ, TIẾN LÊN HOA SEN CỬU PHẨM
Thứ Bảy, 30 tháng 9, 2023
SƠ ĐỒ SƯỜN BÀI TU HỌC
TRÊN CON ĐƯỜNG TIẾN HOÁ CẦN PHẢI TỈNH THỨC ĐỂ NHẬN RÕ SỨ MỆNH, BÁM SÁT NỘI DUNG CỦA CON ĐƯỜNG TU TẬP MÀ MÌNH SẼ PHẢI ĐI QUA, TỪ ĐÓ THẲNG TIẾN, XÔNG PHA ĐI THẲNG QUYẾT CHÍ 1 LÒNG THỰC HÀNH CHẠM VÀO NÓ ĐỂ GỘT RỬA HẾT NHỮNG NGHIỆP QUẢ, TIẾN LÊN HOA SEN CỬU PHẨM
Thứ Hai, 18 tháng 9, 2023
KINH VUA RỒNG
PHẬT THUYẾT ĐỨC PHẬT VÌ
VUA RỒNG TA KIỆT LA
GIẢNG NÓI ĐẠI THỪA
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Thi Hộ, Đời Tống
Tôi nghe như vậy!
Một thuở Đức Phật ở tại Đạo Tràng trang nghiêm của Cung Điện Vua Rồng Ta Già La trong biển lớn cùng với đại chúng Tỳ Kheo gồm bảy ngàn năm trăm người và các vị Đại Bồ Tát được đại trí tuệ.
Lại có hàng trăm ngàn câu đê na do tha Phạm Vương, Đế Thích, Trời Hộ Thế v.v... và Trời, Rồng, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già v.v... từ mười phương thế giới đều đến hội họp.
Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn thấy tất cả đại chúng đã tập họp rồi, bảo Vua Rồng Ta Già La rằng: Này Vua Rồng! Ông hãy quan sát đủ thứ hành nghiệp của thế gian này đều từ hư vọng khởi lên, đủ thứ tâm pháp phải cảm thụ đủ thứ quả báo. Nếu chẳng biết những điều đó thì sẽ sinh ra đủ thứ thú hướng.
Này Vua Rồng! Ông hãy quan sát mọi loài trong biển lớn này! Ông sẽ thấy chúng được tạo ra đủ thứ sắc tướng sĩ phu.
Này Chúa Rồng! Tất cả sắc tướng đó đều do tất cả nghiệp của thân, miệng, ý thiện hay ác. Tâm của mỗi mỗi sắc tướng đó biến hóa đủ thứ. Nhưng tâm pháp này tuy là sắc tướng mà giống như huyễn hóa không thể thủ lấy được.
Này Chúa Rồng! Sắc tướng tất cả các pháp này vốn không sở sinh cũng không chủ tể, lại không có ngã, cũng không ngăn ngại. Như vậy, nghiệp đã tạo tác đủ thứ mà tự tính các pháp đều là tướng huyễn hóa chẳng thể nghĩ bàn.
Này Chúa Rồng! Nếu có Bồ Tát biết tất cả pháp không sinh không diệt không sắc không tướng, biết đúng như thật rồi tạo tác, tu hành tất cả nghiệp thiện mà không tu hành tạo tác sắc tướng sở hữu và uẩn, xứ, giới, tất cả sinh pháp đều không có cái để thấy. Bồ Tát đó nếu quả thật được cái thấy đó rồi thì phải lại quan sát sắc tướng thù diệu.
Này Chúa Rồng! Sắc tướng thù diệu quan sát ra sao?
Phải quan sát thân tướng của Như Lai. Thân của Như Lai là thân sinh ra từ hàng trăm ngàn câu đê na do tha phước đức.
Lại nữa, thân tướng như vậy phải nghiêm trì những gì?
Cung tín ra sao?
Thì sẽ được thân tướng như vậy?
Lại được không bệnh không chết của trên Trời và nhân gian?
Lại được mười trăm ngàn thân Trời Tha Hóa Tự Tại?
Cho đến thân Trời Đại Phạm?
Những cái được này đều do tâm chẳng tán loạn, chuyên chú quán tưởng, chiêm ngưỡng thân tướng tối diệu của Như Lai, biết một cách chân thật tất cả sắc tướng thù diệu trang nghiêm của thân này đều từ sự tập hợp của nghiệp thiện mà được.
Vua Chúa Rồng! Như Cung Điện ông đang ở, tất cả sự trang nghiêm cũng là sự sinh ra của phước đức đến cả của Phạm Vương, Đế Thích và Hộ Thế v.v... cho đến tất cả sự trang nghiêm sở hữu của Trời, Rồng, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Ma Hầu La Già, Người, chẳng phải người v.v... cũng đều là sự sinh ra của phước đức.
Này Chúa Rồng! Lại nữa, đủ chủng loại chúng sinh sở hữu trong biển lớn này, hoặc có loài to rộng, hoặc có loài nhỏ nhoi, phần nhiễu xấu xí... tất cả thân của chúng đều do sự biến hóa của đủ thứ tâm mà ra.
Này Chúa Rồng! Vậy nên nói rằng, tùy theo sở đắc của nghiệp thân, miệng, ý.
Này Chúa Rồng! Quả báo như vậy là do nghiệp làm nhân, nghiệp làm chúa tể. Ông phải khiến cho các chúng sinh khởi lên tâm trí tuệ, việc tạo tác, việc tu hành phải theo học nghiệp thiện, đối với các tà kiến chẳng tạo tác chẳng an trụ, biết tà kiến đó chẳng phải là cứu cánh.
Biết như vậy rồi thì tất cả chúng sinh sẽ cầu ông làm thầy, đều đến cúng dường, đồng thời được trên Trời, nhân gian theo về, tin tưởng cúng dường.
Này Chúa Rồng! Có một pháp có thể khiến cho chúng sinh đoạn dứt nghiệp của tất cả đường ác.
Sao gọi là một pháp?
Đó gọi là quan sát thiện pháp! Mà thiện pháp đó quan sát thế nào?
Phải quan sát tự thân! Ở trong ngày đêm, ta đi đứng ngồi nằm mà tâm ý khởi lên thì không gì chẳng liên quan đến những hành động đó. Xét hiểu như vậy thì làm cho những pháp bất thiện chẳng được phát sinh trong bốn oai nghi.
Như vậy là đoạn trừ hết những pháp bất thiện và sẽ khiến cho thiện pháp được đầy đủ, lại còn khiến cho tất cả chúng sinh đồng thiện đều sẽ được Thanh Văn, Bích Chi Phật và Bồ Tát v.v... cho đến quả vị Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác.
Này Chúa Rồng! Sao gọi là thiện pháp?
Ta hôm nay giảng nói pháp đó! Pháp đó gọi là mười nghiệp thiện!
Đó là tất cả sự an trụ căn bản. Đó là sự an trụ căn bản để sinh lên Trời và nhân gian, sự an trụ căn bản của pháp thiện thù thắng thế gian và xuất thế gian, sự an trụ căn bản của Thanh Văn, Bích Chi Phật và Bồ Tát, sự an trụ căn bản của Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác.
Những gì là sự an trụ căn bản đó?
Đó là mười nghiệp đạo thiện! Nếu có thể xa lìa sát sinh, trộm cắp, tà dâm, vọng ngữ nói dối, ỷ ngữ lời thêu dệt, ác khẩu lời ác, lưỡng thiệt lời hai lưỡi cho đến tham, sân, tà kiến v.v... nếu có thể xa lìa như vậy thì gọi là mười nghiệp đạo thiện, mới chính là sự an trụ căn bản của thế gian và xuất thế gian.
Này Chúa Rồng! Bậc Sĩ Phu Bổ đặc già la xa lìa sát sinh thu được mười thứ thiện pháp.
Những gì là mười pháp?
Đó là:
Được vô úy thí thì tất cả chúng sinh khác được trụ ở từ tâm.
Được chính hạnh thì được chẳng khởi lên ý niệm về tội lỗi của tất cả chúng sinh.
Được niềm vui ít bệnh hoạn.
Được thọ mạng lâu dài.
Được đủ chủng loại không phải người ủng hộ. Ở trong giấc ngủ hay lúc thức dậy đều được yên ổn.
Lại được Bậc Hiền Thánh thủ hộ, lòng chẳng chán bỏ. Ở trong giấc mơ chẳng thấy sự khổ não của nghiệp ác. Tự được chẳng sợ tất cả đường ác. Sau khi mạng chung được sinh lên Trời.
Này Chúa Rồng! Bậc sĩ phu Bổ đặc già la thu được mười thứ pháp lành như vậy mà làm đạo Bồ Tát thì được trụ thiện tâm, căn lành thành thục thì sẽ được Vô Thượng, Chánh Đẳng bồ đề.
Này Chúa Rồng! Bậc sĩ phu Bổ đặc già la xa lìa trộm cắp thì thu được mười pháp y chỉ.
Những gì là mười?
Đó là:
Được giàu to tự tại.
Được khỏi nạn của Vua, được khỏi nạn nước lửa, đạo tặc, oan gia.
Được nhiều bà con khéo thuận, hòa mục, được nhiều người ưa thích, không làm khổ não nhau. Phàm lời nói ra được tất cả tin chắc chắn.
Được vô lượng của báu đều tụ tập lại.
Được tất cả sự xưng tán của phương này và phương khác, ở tất cả chỗ đi qua không sợ sệt.
Được người khác xưng danh tốt, khen ngợi trí tuệ.
Lại được sắc lực thọ mạng, lời nói biện tài tương ứng. Đối với người thân, người chẳng phải thân, lòng không phân biệt, chẳng phát sinh ý não hại. Sau khi mạng chung được sinh lên Cõi Trời.
Này Chúa Rồng! Bậc sĩ phu Bổ đặc già la xa lìa trộm cắp thu hoạch được mười pháp y chỉ như vậy mà đem căn lành đó đến với các Phật pháp, tự có thể chứng biết thì sẽ được Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác.
Này Chúa Rồng! Bậc sĩ phu Bổ đặc già la xa lìa tà dâm được bốn pháp thiện trí tuệ.
Những gì là bốn?
Đó là: Hàng phục các căn. Lìa khỏi tán loạn. Được tất cả thế gian xưng tán. Lại được người đi theo nhiều không lường.
Này Chúa Rồng! Bậc sĩ phu Bổ đặc già la lìa khỏi tà dâm thu được bốn pháp thiện trí tuệ như vậy. Nhờ căn lành này sẽ được Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác, lại còn chứng được tướng âm tàng ẩn mật của bâc đại trượng phu.
Này Chúa Rồng! Bậc sĩ phu Bổ đặc già la xa lìa vọng ngữ thu được tám thứ pháp thiện của trên Trời và nhân gian.
Những gì là tám?
Đó là:
Được miệng luôn thanh tịnh như mùi thơm hoa sen xanh. Lại được tất cả chánh kiến của thế gian.
Được tất cả sự yêu thích của trên Trời và nhân gian.
Được thân, miệng, ý thanh tịnh giáo hóa tất cả hữu tình khiến cho chúng trụ ở hạnh ba nghiệp thanh tịnh.
Được thanh tịnh rồi đều vui mừng.
Được lời nói chân thật nhất định thành tín.
Được biện tài hơn người, luận biện ra lời nói đều có phương tiện. Ở trên Trời và nhân gian lìa khỏi các tội lỗi.
Này Chúa Rồng! Bậc sĩ phu Bổ đặc già la xa lìa vọng ngữ thu được tám thứ pháp thiện của trên Trời và nhân gian, thiện căn đó thu được nghiệp miệng thanh tịnh thành thật chính hạnh thì sẽ được Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác.
Này Chúa Rồng! Bậc sĩ phu Bổ đặc già la xa lìa ỷ ngữ sẽ được ba thứ pháp một hướng.
Những gì là ba thứ?
Đó là: Được biết pháp thì một hướng yêu thích. Được một hướng chân thật. Lại phát sinh trí tuệ được một hướng làm thầy Trời, người. Tất cả trên Trời và nhân gian đều tin ưa.
Này Chúa Rồng! Bậc sĩ phu Bổ đặc già la xa lìa ỷ ngữ được ba thứ pháp nhất hướng như vậy. Đem thiện căn này hồi hướng bồ đề thì được tất cả các Đức Như Lai thọ ký, sẽ chứng Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác.
Này Chúa Rồng! Bậc sĩ phu Bổ đặc già la xa lìa ác khẩu thu được tám thứ thanh tịnh của lỗi miệng mà được tám thứ thiện pháp.
Những gì là tám?
Đó là:
Lời nói thật.
Lời nói yêu mến.
Lời nói nương theo nghĩa.
Lời nói nhu nhuyến.
Lời nói lìa khỏi thủ giữ.
Lời nói nhiều người yêu thích.
Lời nói thiện.
Lời nói có nghĩa lợi.
Này Chúa Rồng! Bậc sĩ phu Bổ đặc già la xa lìa ác khẩu thu được tám thứ nghiệp miệng thanh tịnh như vậy. Đem thiện căn này hồi hướng bồ đề thì đương lai sẽ chứng được Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác, lại còn được Phạm Âm thanh tịnh tối thượng.
Này Chúa Rồng! Bậc sĩ phu Bổ đặc già la xa lìa lưỡng thiệt sẽ được năm thứ kiên cố.
Những gì là năm?
Đó là:
Được thân kiên cố thì sẽ được xa lìa tất cả nạn sợ hãi.
Được quyến thuộc kiên cố thì chẳng bị sự tham lam của người khác.
Được niềm tin kiên cố thì thu được quả báo của tín nghiệp.
Được pháp kiên cố thì thu được quả chứng bền chắc.
Được bạn lành kiên cố thì thường được lời nói yêu mến nhiếp thọ.
Này Chúa Rồng! Bậc sĩ phu Bổ đặc già la xa lìa lưỡng thiệt thu được năm thứ kiên cố như vậy. Đem thiện căn đó hồi hướng bồ đề thì sẽ chứng Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác, khiến cho tất cả ngoại đạo Ma Vương v.v... đều chẳng thể phá hoại vị sĩ phu đó được.
Này Chúa Rồng! Bậc sĩ phu Bổ đặc già la xa lìa tham độc thu được tám thứ pháp thiện.
Những gì là tám?
Đó là:
Được tiêu trừ lòng tham.
Được chẳng phát sinh lòng sát sinh.
Được chẳng phát sinh lòng ganh ghét.
Được ưa sinh lòng của dòng họ Thánh, được Thánh Nhân tôn trọng.
Được lòng từ, do nghiệp lành làm lợi ích cho tất cả chúng sinh.
Được thân đoan chính.
Được nhiều người tôn trọng.
Được sinh vào Phạm Thế.
Này Chúa Rồng! Bậc sĩ phu Bổ đặc già la xa lìa tham độc thu được tám thứ thiện pháp như vậy. Đem thiện pháp này hồi hướng tâm bồ đề chẳng thoái chuyển thì sẽ chứng Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác.
Này Chúa Rồng! Bậc sĩ phu Bổ đặc già la xa lìa sân độc sẽ được năm thứ thắng nguyện viên mãn.
Những gì là năm?
Tu thân miệng, ý chẳng thoái chuyển, các căn chẳng loạn, sẽ được viên mãn tất cả thì sự giàu có rộng lớn.
Được oan gia theo hàng phục thì được viên mãn tất cả phước đức rộng lớn.
Được thọ sự cúng dường tối thượng của người Trời thì được viên mãn công đức rộng lớn.
Đối với sự thọ dụng tối thượng thì sở dục trong lòng đều được viên mãn.
Như vì giàu sang mà phát trăm ngàn thắng nguyện tối thượng thì được viên mãn đúng như nguyện.
Này Chúa Rồng! Bậc sĩ phu Bổ đặc già la xa lìa sân độc thu được năm thứ viên mãn như vậy. Đem thiện căn này hồi hướng bồ đề thì chứng được Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác được sự tôn kính của ba cõi.
Này Chúa Rồng! Bậc sĩ phu Bổ đặc già la xa lìa tà kiến thu được mười thứ pháp công đức.
Những gì là mười?
Đó là:
Được lòng mình an lành và bạn lành đồng hành tin sâu nhân quả.
Được chẳng vì thân mạng tạo tác tội nghiệp.
Chẳng bao lâu thu được địa vị Hiền Thánh.
Được chẳng mê lầm thiện pháp, tu hạnh Trời người.
Chẳng rơi vào bàng sinh và Cõi Diệm Ma.
Tu hành Đạo Thánh được phước tối thượng.
Được lìa khỏi tất cả tà pháp.
Được lìa khỏi thân kiến.
Được thấy tính của tất cả tội đều rỗng không.
Được chánh hạnh của nhân gian và trên Trời chẳng khiếm khuyết.
Này Chúa Rồng! Bậc sĩ phu Bổ đặc già la xa lìa tà kiến thu được mười thứ công đức như vậy. Đem thiện căn này hồi hướng bồ đề thì mau chóng có thể chứng rõ tất cả Phật Pháp, sẽ được Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác.
Này Chúa Rồng! Lại nữa, quan sát đến hành động vi tế của mười pháp bất thiện thì phần nhiều bị đọa vào đường địa ngục, ngã quỷ, súc sinh.
Này Chúa Rồng! Quan sát chúng sinh đó, nếu họ lại sát sinh thì sẽ bị đọa vào cõi địa ngục, súc sinh, Diệm Ma v.v... Sau khi được sinh lên nhân gian, do dư nghiệp nên bị hai thứ quả báo, một là mạng sống ngắn ngủi, hai là khổ não.
Nếu họ lại trộm cắp thì sẽ bị đọa vào cõi địa ngục, súc sinh, Diệm Ma v.v... Sau khi được sinh lên nhân gian, do dư nghiệp nên bị hai thứ quả báo, một là tự ở chỗ bần tiện nghèo hèn, hai là chẳng được của báu người khác.
Nếu họ lại tà nhiễm thì sẽ bị đọa vào cõi địa ngục, súc sinh và Diệm Ma v.v... Sau khi sinh lên nhân gian, do dư nghiệp nên bị hai thứ quả báo, một là ngu si, hai là vợ chẳng trinh chính.
Nếu họ lại vọng ngữ thì sẽ đọa vào địa ngục, súc sinh, và cõi Diệm Ma v.v... Sau khi sinh lên nhân gian, do dư nghiệp nên bị hai thứ quả báo, một là lời nói chẳng thành thật, hai là người chẳng tín phụng.
Nếu họ lại ỷ ngữ thì sẽ bị đọa vào địa ngục, súc sinh và cõi Diệm Ma v.v... Sau khi sinh lên nhân gian, do dư nghiệp nên bị hai thứ quả báo, một là chẳng chân chính hai là lời nói không định.
Nếu họ lại ác khẩu thì sẽ đọa vào địa ngục, súc sinh và cõi Diệm Ma. Sau khi sinh lên nhân gian, do dư nghiệp nên bị hai thứ quả báo, một là lời nói nhiều đấu tranh, hai là người đời chẳng tôn trọng.
Nếu họ lại lưỡng thiệt thì sẽ đọa vào địa ngục, súc sinh và cõi Diệm Ma. Sau khi sinh lên làm người, do dư nghiệp nên bị hai thứ quả báo, một là được loại bà con hèn hạ, hai là cảm nhận cảnh bà con chia lìa.
Nếu họ lại nhiều tham thì sẽ rơi vào địa ngục, súc sinh và cõi Diệm Ma. Sau khi sinh lên làm người, do dư nghiệp nên bị hai thứ quả báo, một là chẳng thể làm lợi ích cho người khác, hai là thường bị người khác xâm hại.
Nếu họ lại nhiều sân thì sẽ rơi vào địa ngục, súc sinh và cõi Diệm Ma. Sau khi sinh lên cõi người, do dư nghiệp nên bị hai thứ quả báo, một là lòng thường chẳng vui, hai là nhiều việc chẳng vừa ý.
Nếu họ lại tà kiến thì sẽ rơi vào địa ngục, súc sinh và cõi Diệm Ma. Sau khi sinh lên cõi người, do dư nghiệp nên bị hai thứ quả báo, một là tà kiến, hai là giải đãi.
Này Chúa Rồng! Nếu có người làm mười pháp bất thiện như vậy thì nhất định thu hoạch những quả báo như vậy. Họ lại còn bị vô biên những khổ uẩn lớn.
Này Chúa Rồng! Nếu Bồ Tát lại xa lìa sát sinh, tu đạo Bồ Tát thi hành bố thí thì thường được giàu to và vô lượng phước, được lìa khỏi nỗi sợ hãi của tất cả sự xâm đoạt kẻ khác.
Này Chúa Rồng! Nếu Bồ Tát lại xa lìa trộm cắp, tu đạo Bồ Tát thi hành bố thí thì được giàu to và vô lượng phước, mà đối với tất cả lòng không tiếc lận thì sẽ chứng được thâm trí và lời nói pháp nghĩa vô thượng của các Đức Phật.
Này Chúa Rồng! Nếu Bồ Tát lại xa lìa tà nhiễm, tu đạo Bồ Tát thi hành bố thí thì được đại phú quý, thu được vô lượng phước, cảm hóa quyến thuộc tốt, cha mẹ, vợ con đều không ác kiến.
Này Chúa Rồng! Nếu Bồ Tát lại xa lìa vọng ngữ, tu đạo Bồ Tát thi hành bố thí thì được đại phú quý, thu được phước không lường, sẽ cảm hóa lời nói sở hữu, tất cả đều khéo léo nhu nhuyến, hễ khởi lên ý nguyện chân thành thì bền vững chẳng lùi.
Này Chúa Rồng! Nếu Bồ Tát lại xa lìa ỷ ngữ, tu đạo Bồ Tát thi hành bố thí thì được đại phú quý, thu hoạch phước không lường, lời nói chân thật, người nghe tín thọ. Phàm có lời nói ra thì đoạn dứt mọi nghi ngờ.
Này Chúa Rồng! Nếu Bồ Tát lại xa lìa ác khẩu, tu đạo Bồ Tát thi hành bố thí thì được đại phú quý thu hoạch phước không lường, lời nói có thể thủ lấy, người nghe không chối bỏ, ở trong các chúng không có lỗi với họ.
Này Chúa Rồng! Nếu Bồ Tát lại xa lìa lưỡng thiệt, tu đạo Bồ Tát thi hành bố thí thì được đại phú quý, thu hoạch phước không lường. Đối với các quyến thuộc, lòng trụ ở bình đẳng, yêu thương họ như mình, không có ly tán.
Này Chúa Rồng! Nếu Bồ Tát lại xa lìa tham độc, tu đạo Bồ Tát thi hành bố thí thì được đại phú quý, thu hoạch phước không lường, được thân đoan chính, các căn đầy đủ, người nhìn thấy đều yêu thích, lòng không chán bỏ.
Này Chúa Rồng! Nếu Bồ Tát lại xa lìa sân độc, tu đạo Bồ Tát thi hành bố thí thì được đại phú quý, thu hoạch phước không lường, được sự không khởi lên lòng cừu hận, oán thù, nghe pháp yếu của Phật có thể sinh lòng tín.
Này Chúa Rồng! Nếu Bồ Tát lại xa lìa tà kiến, tu đạo Bồ Tát thi hành bố thí thì được đại phú quý, thu hoạch phước không lường, đối với Tam Bảo, đủ chánh kiến, thường gần với Phật, được nghe Diệu pháp, cúng dường chúng tăng. Thường không giải đãi, thoái lui, giáo hóa chúng sinh khiến cho họ phát tâm bồ đề.
Này Chúa Rồng! Nếu có thể tu mười nghiệp thiện này, làm đạo Bồ Tát, đầu tiên lấy bố thí trang nghiêm thì quả báo viên mãn, được đại phú quý.
Nếu dùng trì giới mà trang nghiêm thì quả báo viên mãn, được tất cả Phật pháp, thỏa nguyện đầy đủ.
Nếu dùng nhẫn nhục trang nghiêm thì quả báo viên mãn, được ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp của Phật bồ đề, lại còn được Phạm âm đầy đủ.
Nếu dùng tinh tấn trang nghiêm thì quả báo viên mãn, sẽ có thể hàng phục thiên ma, ngoại đạo, dùng pháp của Chư Phật mà cứu độ họ.
Nếu dùng thiền định trang nghiêm thì quả báo viên mãn, sẽ được chánh niệm thanh tịnh, pháp hạnh đầy đủ.
Nếu dùng trí tuệ trang nghiêm thì quả báo viên mãn, sẽ được vĩnh viễn đoạn trừ tất cả tà kiến.
Nếu dùng đại từ trang nghiêm thì quả báo viên mãn có thể khiến cho tất cả chúng sinh hàng phục được tất cả phiền não vi tế.
Nếu dùng đại bi trang nghiêm thì quả báo viên mãn, sẽ được lòng của tất cả chúng sinh, họ chẳng chán bỏ.
Nếu dùng đại hỷ trang nghiêm thì quả báo viên mãn, sẽ được nhất tâm không tán loạn.
Nếu dùng đại xả trang nghiêm thì quả báo viên mãn sẽ được sự diệt trừ hết phiền não vi tế.
Này Chúa Rồng! Cho đến dùng Bốn nhiếp pháp trang nghiêm khi quả báo viên mãn sẽ được tất cả chúng sinh thuận theo sự dẫn đường giáo hóa.
Nếu dùng bốn niệm xứ trang nghiêm thì đối với thân thọ tâm pháp đều có thể giải rõ hết.
Nếu dùng bốn chánh đoạn trang nghiêm thì có thể khiến cho tất cả pháp bất thiện đều đoạn diệt hết, được viên mãn tất cả thiện pháp.
Nếu dùng bốn thần túc trang nghiêm thì có thể được thân tâm đều thu hoạch ích lợi nhẹ nhàng.
Nếu dùng năm căn trang nghiêm thì sẽ được tín, tấn chẳng thoái, lòng không mê hoặc, rõ các nghiệp nhân, diệt vĩnh viễn phiền não.
Nếu dùng năm lực trang nghiêm thì sẽ được chẳng ngu, chẳng si và vĩnh viễn đoạn được tội lỗi bần cùng.
Nếu dùng bảy giác chi trang nghiêm thì sẽ được giác ngộ tất cả pháp như thật.
Nếu dùng tám chánh đạo trang nghiêm thì sẽ có thể chứng được chánh trí.
Nếu dùng Xa Ma Tha trang nghiêm thì sẽ được đoạn dứt tất cả phiền não.
Nếu dùng Vĩ Bát Xá nẵng trang nghiêm thì sẽ được liễu ngộ trí tuệ của tất cả pháp.
Nếu dùng chánh đạo trang nghiêm thì sẽ đối với tất cả phương tiện hữu vi và vô vi đều có thể rõ biết.
Này Chúa Rồng! Ta nay lược nói về mười pháp thiện có trang nghiêm, đến cả với mười lực, bốn trí và mười tám pháp bất cộng.... cho đến tất cả pháp phần của Như Lai đều được viên mãn.
Này Chúa Rồng! Cho đến giải nói rộng lớn việc trang nghiêm mười nghiệp đạo thiện này là sẽ khiến cho các ông tu học.
Này Chúa Rồng! Ví như Đại Địa có thể ban cho cõi người chỗ an trụ của tất cả Quốc Thành, tụ lạc cho đến rừng cây và thảo dược v.v...
Lại nữa, các nghiệp đều có chủng tử hạt giống. Hạt giống đã nhờ bốn đại mà thành, giống như gieo trồng lúa, từ lúc sơ sinh nảy mầm, thành thân cho đến khi thành thục chín đều nương vào đất.
Này Chúa Rồng! Mười nghiệp đạo thiện này có thể làm chỗ an trụ thắng diệu cho tất cả loài hữu tình trên Trời và nhân gian, có thể khiến cho tất cả hữu vi và vô vi được quả báo trí tuệ.
Tất cả Thanh Văn và Bích Chi Phật cho đến Bồ Tát Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác lấy đó mà an trụ. Nó cũng lại là chỗ an trụ căn bản của tất cả Phật Pháp.
Này Chúa Rồng! Lời nói này của Ta, tất cả các ông phải dùng chính tâm mà phát sinh tín giải.
Lúc bấy giờ, Vua Rồng Ta Già La cùng các Đại Bồ Tát, tất cả Thanh Văn và Trời, Người, A Tu La, Càn Thát Bà v.v... ở tại đại hội, tất cả đại chúng, nghe lời nói của Đức Phật, hoan hỷ phụng hành.
***
Thứ Năm, 14 tháng 9, 2023
Thứ Tư, 13 tháng 9, 2023
KINH HOA NGHIÊM NGUỒN GỐC
Kinh Hoa Nghiêm là bộ kinh đại thừa, là vua trong các kinh, với nội dung siêu việt tuyệt luân hùng vĩ, tráng lệ nguy nga, thể hiện pháp thân, tư tưởng và tâm nguyện của Phật.
Nguồn gốc Kinh Hoa Nghiêm
Theo đại sư Trí Khải (538-597) và cũng là truyền thuyết của đại thừa Phật giáo thì, sau khi thành đạo Vô thượng bồ đề, Đức Phật Thích Ca liền nhập đại định "Hải ấn tam muội" giảng Kinh Hoa Nghiêm trong 21 ngày để hóa độ hàng thượng thừa Bồ tát. Điều này đã được ghi rõ trong Kinh Hoa Nghiêm: "Ví như mặt trời mới mọc, ánh sáng chiếu soi các đỉnh núi trước, rồi mới rải xuống những thung lũng đồng sâu. Ánh dương quang tỏa chiếu sáng ngời, lần lượt soi từ cao đến thấp. Đức như Lai cũng làm như thế. Khi đã chứng ngộ chân lý, Phật dùng trí tuệ bát nhã phóng hào quang đến các Bồ tát trước, rồi đến hàng nhị thừa, sau mới tới hết thảy chúng sinh".
Vì chân lý của bộ kinh này quá cao siêu huyền diệu, bậc nhị thửa không thể lĩnh hội được, nên Đức như Lai phải hạ thấp giáo lý xuống cho khế hợp với trình độ căn cơ của chúng sinh, do đó, cũng vẫn theo đại sư Trí Khải.
Kinh điển trong suốt một đời thuyết pháp của Đức Thế Tôn được chia làm 5 thời là:
- Thời Hoa Nghiêm: 21 ngày, Đức Phật giảng về huyền nghĩa "Nhất Tâm Chân Như, Pháp Giới Duyên Khởi", tức thuyết minh về sự hình thành vũ trụ vạn hữu để hóa độ cho hàng thượng thừa Bồ tát.
- Thời Lộc Uyển (cũng gọi là thời A Hàm): 12 năm, Đức Phật giảng các bộ kinh A Hàm, thuyết về các pháp môn Tứ Diệu Đế, Thập nhị Nhân Duyên, 10 Độ, 37 Đạo Phẩm để độ cho hàng nhị thừa: Thanh Văn, Duyên giác.
- Thời Phương Đẳng: 8 năm, Đức Phật giảng các kinh Duy Ma Cật, Lăng Già, Lăng Nghiêm, Kim Quang Minh, Thắng Man... xiển dương giáo nghĩa Tính Không (Duy Ma Cật) Như Lai tạng (Lăng già), Diệu Chân Như Tính (Lăng Nghiêm) để độ cho hàng đại thừa sơ cơ phát tâm Bồ tát.
- Thời Bát Nhã: 22 năm, Đức Phật giảng các bộ kinh Bát Nhã và Kim Cương, tức thuyết minh về chân lý "Không" của vạn Pháp để độ cho hàng quyền thừa Bồ tát.
- Thời Pháp Hoa và Niết Bàn: 8 năm, Đức phật giảng các bộ kinh Pháp Hoa - Niết bàn, xác định giá trị Phật tính của tất cả chúnhg sinh vốn sẳn có và sẽ thành Phật trong tương lai, để độ (không chỉ riêng) cho hàng thượng thừa Bồ tát mà cũng (chung) cho hết thảy trời, người, chúng sinh, kể cả hàng xiển đề (Icchantika).
Dưới đây là 9 hội giảng kinh Hoa Nghiêm tại 7 địa điểm khác nhau:
- Hội thứ nhất: Diễn ra tại Bồ Đề Đạo Tràng, do Bồ tát Phổ Hiền là chủ hội, giảng về Y Báo và Chính Báo của Như Lai, trọn 11 quyển, 6 phẩm (1.Thế Chủ Diệu nghiêm 2. Như Lai Hiện Tướng, 3. Phổ Hiền Tam Muội, 4. Thế Giới Thành Tựu, 5. Hoa Tạng Thế Giới, 6. Tỳ Lô Giá Na).
- Hội thứ hai: Diễn ra tại điện Phổ Quang Minh, do Bồ tát Văn Thù là hội chủ, giảng về pháp môn Thập Tín, gồm 4 quyển, 6 phẩm (1. Như Lai Danh Hiệu, 2. Tứ Thánh Đế, 3 .Quang Minh Giác, 4. Bồ Tát Vấn Minh, 5. Tịnh Hạnh, 6 .Hiền Thủ)
- Hội thứ ba: Diễn ra tại cung trời Đao Lợi, do Bồ tát Pháp Tuệlà hội chủ, giảng về Thập Trụ, gồm 3 quyển, 6 phẩm (1. Thăng Tu Di Đỉnh, 2. Tu Di Đỉnh Thượng Kệ Tán, 3. Thập Trụ, 4. Phạm Hạnh, 5. Sơ Phát Tâm Công Đức, 6. Minh Pháp)
- Hội thứ tư: Diễn ra tại cung trời Dạ Ma, do Bồ tát Công Đức Lâm là hội chủ, giảng về Thập Hành, gồm 3 quyển, 4 phẩm (1. Thăng Dạ Ma Thiên, 2. Dạ Ma Trung Cung Kệ Tán, 3. Thập Hạnh, 4. Thập Vô Tận Tạng ).
- Hội thứ năm: Diễn ra tại cung trời Đâu Suất, do Bồ tát Kim Cương Tràng là hội chủ, giảng về Thập Hồi Hướng, gồm 12 quyển, 3 phẩm (1. Thăng Đâu Suất Thiên, 2. Đâu Suất Trung Cung Kệ Tán, 3. Thập Hồi Hướng).
- Hội thứ sáu: Diễn ra tại cung trời Tha Hóa, do Bồ tát Kim Cương Tạng là hội chủ, giảng về Thập Địa, gồm 6 quyển, 1 phẩm là phẩm Thập Địa.
- Hội thứ bảy: Diễn ra tại điện Phổ Quang Minh, do Đức Như Lai là hội chủ giảng về pháp môn Đẳng Giác_Diệu Giác, gồm 13 quyển,11 phẩm (1. Thập Định, 2. Thập thông, 3. Thập Nhẫn, 4. A Tăng Kỳ, 5. Thọ Lượng, 6. Chư Bồ Tát Trụ Xứ, 7. Phật Bất Tư Nghị Pháp, 8. Như Lai thập thân Tướng Hải, 9. Như Lai Tùy Hảo Quang Minh Công Đức, 10. Phổ hiền Hạnh, 11. Như Lai Xuất Hiện).
- Hội thứ tám: Tái diễn tại điện tại Phổ Quang Minh, do Bồ tát Phổ Hiền là hội chủ, giảng về 2.000 Hạnh Môn, gồm 7 quyển 1 phẩm, là phẩm Ly Thế Gian.
- Hội thứ chín: Diễn ra tại rừng Thệ Đa, do Như Lai và thiện hữu đều là hội chủ, giảng về Quả Pháp giới, gồm 21 quyển, 1 phẩm, là phẩm Nhập Pháp Giới.
Kinh Hoa Nghiêm là bộ kinh đại thừa, là vua trong các kinh, với nội dung siêu việt tuyệt luân hùng vĩ, tráng lệ nguy nga, thể hiện pháp thân, tư tưởng và tâm nguyện của Phật.
Hoa Nghiêm tiếng Phạn là Avatamsaka, có nghĩa là đóa hoa thanh khiết tuyệt đẹp nhất trần gian, ngát hương khắp mười phương các cõi pháp giới.
Tư tưởng Hoa Nghiêm trình bày vạn pháp do tâm sanh. Tâm là thực thể của vạn pháp. Tâm vọng thì vạn pháp hoạt hiện sai biệt hình hình sắc sắc, trùng trùng duyên khởi, cái này có cái kia có và ngược lại, như lưới đế châu. Tâm chơn thì pháp giới tánh với Tâm là một, vạn pháp đồng nhất thể. Tâm thanh tịnh thì thấu đạt chơn lý Phật tánh, suốt thông pháp giới vô ngại, thể nhập bất tư nghì giải thoát hạnh môn. Kinh Hoa Nghiêm, đức Phật chỉ cho chúng-sanh thấu rõ cội nguồn của xum la vạn tượng do mê thức vọng tưởng nghiệp duyên hình thành, các pháp hiện hành trong vũ trụ là huyễn hóa, như hoa trong gương, như trăng trong nước. Tất cả vạn pháp trong pháp giới đều từ tâm sanh. Tâm trùm khắp cả pháp giới. Tất cả vạn hữu vũ trụ có thể nằm gọn trong hạt cải. Hạt cải có thể thâu nhiếp tất cả vũ trụ vạn pháp. Thể tánh của Tâm nhiếp thâu tất cả. Tất cả là một, một là tất cả. Đó là bản tánh vô ngại của Tâm. Bản tánh chơn tâm suốt thâu vạn pháp hữu tình và vô tình; lấy toàn thể pháp giới tánh làm lượng; lấy xứng tánh bất tư nghì vô ngại giải thoát làm thể. Đó là ý nghĩa căn cốt của Kinh Hoa Nghiêm.
Bởi thế, nếu Kinh Đại Bát Nhã tiêu biểu cho tư tưởng Phật Pháp đại thừa về lý chơn không vô ngại, thì Kinh Hoa Nghiêm đại biểu cho tư tưởng Phật Pháp đại-thừa về lý hữu hóa duyên sanh của vạn pháp.
Ngoài ra Kinh Hoa Nghiêm còn là một thông điệp, một bài học phong phú sinh động muôn đời, trao gởi cho hành giả có tâm hướng thượng đại-thừa, tu là cần phải học phải hành qua hình ảnh Thiện Tài đồng tử tham bái cầu học đạo với năm mươi ba vị thiện tri thức, là bằng chứng cho ta thấy rằng tu học đạo bồ-đề điều tiên quyết cần phải khắc phục nội tâm cống cao ngã mạn, dục vọng loạn tưởng; ngoài thân khiêm cung cầu tiến hành trì phương pháp Hoa Nghiêm tuyệt đỉnh, tìm chân sư liễu ngộ mới mong hiển lộ được Phật tánh chơn tâm của mình.
Nên nghiên tầm ý nghĩa của Kinh Hoa Nghiêm là khai mở quang lộ trở về bản tánh chơn tâm thanh tịnh sáng suốt thường nhiên ; là biết được tự thể của các pháp hiện hành trong thế giới vũ trụ; là thấu suốt cội nguồn sanh sanh hóa hóa của hữu tình và vô tình chúng-sanh; là quán chiếu bí yếu mật nghĩa viên dung tương quan của tâm và cảnh, để rồi từ đó có thể thống triệt lý viên dung vô ngại chủ và khách của vạn pháp, hiện hành sanh hóa, tương duyên tương nhơn quả, tương sanh tương diệt. Tất cả vạn pháp toàn triệt ảnh hiện trên đài gương chơn như thể tánh. Thế nên, thọ trì Kinh Hoa Nghiêm là bước vào cửa phương tiện cầu tu học đạo, là nhân tố đặc thù hy hữu ly vọng hoàn chơn.
Nội dung cơ bản Kinh Hoa Nghiêm
Về nội dung: Theo ngài quốc sư Thanh Lương thì bộ Bát Thập Hoa Nghiêm được chia làm 3 phần:
* Phần Tự: 5 quyển
* Phần Chính Tông: 55 quyển 5.
* Phần Lưu Thông: 19 quyển 5, gồm 4 yếu lý: Tín, Giải, Hành, Chứng và 5 chu:
*Tín nhân quả chu: 11 quyển 6 phẩm.
Sai biệt nhân quả chu: 41 quyển
* Giải:
* Bình đẳng nhân quả chu: 31 phẩm
* Hành nhân quả chu: 7 quyển 1 phẩm
* Chứng nhân quả chu: 21 quyển 1 phẩm.
TÍN: Tin giáo lý của Phật dẫn trong kinh là chân lý tuyệt đối.
GIẢI: Giải rõ chân lý đó.
HÀNH: Dùng phương pháp để thực hành hầu đạt tới chân lý đó.
CHỨNG: Chứng ngộ chân lý đó.
Về triết lý gồm những điểm then chốt như sau:
1. Nhất Thiết Duy Tâm Tạo.
2. Nhất Tâm Chân Như, Pháp Giới Duyên Khởi
* Từ Bản thể Chân như của vũ trụ phát sinh các hình tướng sai biệt trong hiện tượng giới.
Từ tuyệt đối thể vô biên, dời sang thế giới tương đối hữu thể, để biện minh cho cái Chân tướng vô tướngcủa vạn pháp và chân lý tối cao,bất diệt là :mọi sự vật trên trần gian đều do từ "Chân Không Diệu Hữu" mà phát sinh. Từ một mảy lân hư trần cho đến sơn hà,trăng sao và mọi sinh vật đều phải nương tựa lẫn nhau, làm nhân làm duyên cho nhau mà biến dịch,sinh tồn trong mối tương quan của Lý: Pháp giới trùng trùng duyên khởi
Pháp giới duyên khởi là tên gọi khác của Thập Nhị Nhân Duyên vẫn có từ vô thủy đến nay, không phải đợi đến lúc Phật ra đời rồi mới có. 12 nhân duyên là giáo lý (do đó) mà Đức Thích Ca thành đạo. Sau khi đã hoàn thành chứng ngộ, Phật căn cứ vào lý duyên khởi của Khổ giới mà lần lượt nói ra sự quan hệ nhân quả giữa 12 chi, đưa ra nguồn gốc căn bản của khổ não và Vô Minh, và những gì được gọi là Pháp hữu vi, là sự sự, vật vật hay vạn Pháp trong thế giới duyên sinh trùng trùng điệp điệp này. Với chân lý "Nhân Quả" và "Duyên Sinh", với chân lý "Bất nhị" cùng "lý, Sự và Sự Sự Vô Ngại Pháp Giới", kinh Hoa Nghiêm đã xác nhận mọi hành động về thân, khẩu, ý của con người, đều tạo nghiệp quả cho mình và cho tha nhân đồng phải gánh chịu trong cái thế liên hoàn trùng trùng điệp điệp. Một là tất cả và tất cả là một.
Kinh Hoa Nghiêm – Mở Đề
Kinh Hoa Nghiêm – Mở Đề
Kinh Hoa Nghiêm
Đại Phương Quảng Phật
giảng giải
Hòa Thượng TUYÊN HÓA
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Minh Ðịnh
Giới thiệu sơ lược về bảy nơi, chín hội, ba mươi chín phẩm. Bộ Kinh nầy gồm có 45 phẩm Kinh văn, nhưng chỉ dịch ra được 39 phẩm, gồm 80 quyển.
Hội thứ nhất thì nói về “tin nhân quả”.
Từ hội thứ hai đến hội thứ sáu thì nói về “sai biệt nhân quả”.
Hội thứ bảy thì nói “bình đẳng nhân quả”.
Hội thứ tám thì nói “thành hạnh nhân quả”.
Hội thứ chín thì nói “chứng nhập nhân quả”.
Hội thứ nhất có 11 quyển là: Cử quả hoan lạc sinh tín phần. Từ hội thứ hai đến hội thứ bảy cộng lại có 41 quyển là: Tu nhân khế quả sinh giải phần. Hội thứ tám có 7 quyển là: Thác pháp tiến tu thành hạnh phần. Hội thứ chín có 21 quyển là: Y nhân chứng nhập thành đức phần.
Hội thứ nhất tại Bồ Ðề Ðạo Tràng. Hội nầy nói sáu phẩm:
1. Phẩm Thế Chủ Diệu Nghiêm.
2. Phẩm Như Lai Hiện Tướng.
3. Phẩm Phổ Hiền Tam Muội.
4. Phẩm Thế Giới Thành Tựu.
5. Phẩm Thế Giới Hoa Tạng.
6. PhẩmTỳ Lô Giá Na.
Hội thứ nhì ở tại Ðiện Phổ Quang Minh. Hội nầy nói sáu phẩm:
7. Phẩm Danh Hiệu Như Lai.
8. Phẩm Bốn Thánh Ðế.
9. Phẩm Quang Minh Giác.
10. Phẩm Bồ Tát Vấn Minh.
11. Phẩm Tịnh Hạnh.
12. Phẩm Hiền Thủ.
Trên đây là mười hai phẩm diệu pháp nói ở tại nhân gian.
Hội thứ ba ở tại Ðiện Diệu Thắng trên cung trời Ðao Lợi. Hội nầy cũng nói sáu phẩm.
13. Phẩm Thăng Lên Ðỉnh Tu Di.
14. Phẩm Kệ Tán Tu Di.
15. Phẩm Thập Trụ.
16. Phẩm Phạm Hạnh.
17. Phẩm Công Ðức Ban Ðầu Phát Tâm.
18. Phẩm Minh Pháp.
Hội thứ tư ở tại Ðiện Bảo Trang Nghiêm, cung trời Dạ Ma. Hội nầy nói bốn phẩm.
19. Phẩm Thăng Lên Trời Dạ Ma.
20. Phẩm Kệ Tán Dạ Ma.
21. Phẩm Thập Hạnh.
22. PhẩmThập Vô Tận Tạng.
Hội thứ năm ở tại Ðiện Nhất Thiết Diệu Bảo Trang Nghiêm, cung trời Ðâu Suất. Hội nầy nói ba phẩm.
23. Phẩm Thăng Lên Trời Ðâu Suất.
24. Phẩm Kệ Tán Ðâu Suất.
25. Phẩm Thập Hồi Hướng.
Hội thứ sáu ở tại Ðiện Ma Ni Bảo Tạng, cung trời Tha Hoá Tự Tại. Hội nầy chỉ nói một phẩm.
26. Phẩm Thập Ðịa.
Trên đây là mười bốn phẩm diệu pháp nói ở trên Thiên cung.
Hội thứ bảy ở tại Ðiện Phổ Quang Minh. Hội nầy nói mười một phẩm:
27. Phẩm Thập Ðịnh.
28. Phẩm Thập Thông.
29. Phẩm Thập Nhẫn.
30. Phẩm A Tăng Kỳ.
31. Phẩm Thọ Lượng.
32. Phẩm Bồ Tát Trụ Xứ.
33. Phẩm Phật Bất Tư Nghị Pháp
34. Phẩm Thập Thân Tướng Hải.
35. Phẩm Tuỳ Hảo Quang Minh.
36. Phẩm Hạnh Phổ Hiền.
37. Phẩm Như Lai Xuất Hiện.
Hội thứ tám tại Ðiện Phổ Quang Minh. Hội nầy chỉ nói một phẩm
38. Phẩm Lìa Thế Gian.
Hội thứ chín ở tại Rừng Thệ Ða. Hội nầy chỉ nói một phẩm:
39. Phẩm Vào Pháp Giới.
Mở Đề
Bộ Kinh Hoa Nghiêm nầy còn gọi là Kinh Pháp Giới, cũng gọi là Kinh Hư Không, tận hư không khắp pháp giới, chẳng có một nơi nào mà chẳng có Kinh Hoa Nghiêm ở đó. Chỗ ở của Kinh Hoa Nghiêm tức cũng là chỗ ở của Phật, cũng là chỗ ở của Pháp, cũng là chỗ ở của Hiền Thánh Tăng. Cho nên khi Phật vừa mới thành chánh giác, thì nói bộ Kinh Hoa Nghiêm nầy, để giáo hoá tất cả pháp thân Ðại Sĩ . Vì bộ Kinh nầy là Kinh vi diệu không thể nghĩ bàn, do đó bộ Kinh nầy được bảo tồn ở dưới Long cung, do Long Vương bảo hộ giữ gìn. Về sau do Ngài Bồ Tát Long Thọ, xuống dưới Long cung đọc thuộc lòng và ghi nhớ bộ Kinh nầy, sau đó lưu truyền trên thế gian.
Bộ Kinh Hoa Nghiêm nầy, cũng như vầng mây cát tường ở trong hư không, chiếu khắp ba ngàn đại thiên thế giới, như mưa pháp cam lồ, thấm nhuần hết thảy tất cả chúng sinh. Bộ Kinh Hoa Nghiêm nầy, cũng như ánh sáng mặt trời, chiếu khắp đại thiên thế giới, khiến cho tất cả chúng sinh đều được ấm áp. Kinh Hoa Nghiêm nầy cũng như đại địa, làm sinh trưởng tất cả vạn vật. Cho nên, có Kinh Hoa Nghiêm tồn tại, thì có thể nói là thời kỳ chánh pháp trụ lâu dài. Mỗi ngày chúng ta giảng giải Kinh Hoa Nghiêm, nghiên cứu Kinh Hoa Nghiêm, quan trọng là phải y chiếu nghĩa lý Kinh điển mà tu hành, phải dùng Kinh để đối trị bệnh tật của thân tâm chúng ta. Tự thân chúng ta có tâm tham, khi nghe được Kinh Hoa Nghiêm, thì nên trừ khử tâm tham; có tâm sân, khi nghe được Kinh Hoa Nghiêm, thì nên trừ khử tâm sân; có tâm ngu si, khi nghe được Kinh Hoa Nghiêm, thì nên trừ khử tâm ngu si.
Ðạo lý của bộ Kinh nầy, là đối trị tập khí mao bệnh của chúng ta. Ðừng cho rằng những gì nói trong Kinh, chỉ vì Bồ Tát mà nói, đối với chúng ta chẳng có quan hệ gì, hoặc là pháp nói cho các bậc A La Hán, đối với chúng ta chẳng có quan hệ gì, chúng ta phàm phu nghe bộ Kinh nầy chỉ là nghe thôi, tự biết làm không được cảnh giới của các bậc Thánh nhân. Nếu bạn nghĩ như thế thì, đó là tự hại mình, tự vứt đi, tự dứt tuyệt nơi Thánh nhân.
Mỗi câu Kinh Hoa Nghiêm đều là Pháp Bảo vô thượng, nếu chúng ta cung hành thực tiễn, y chiếu nghĩa lý Kinh văn tu hành, thì nhất định sẽ thành Phật. Cho nên, Kinh Hoa Nghiêm cũng có thể nói là mẹ của chư Phật. Kinh Hoa Nghiêm là pháp thân của chư Phật. Ðức Phật tán thán Kinh Kim Cang rằng: “Phàm là chỗ nào có Kinh điển thì chỗ đó có Phật”. Chỗ nào có bộ Kinh Hoa Nghiêm nầy thì có Phật tại chỗ đó, bất quá nghiệp chướng của bạn quá sâu nặng, đối diện mà cũng chẳng thấy Phật, do đó có câu:”Ðối diện bất thức Quán Thế Âm” (Ðối diện chẳng nhận ra Bồ Tát Quán Thế Âm). Các bạn thấy vị Bồ Tát Quán Thế Âm nầy, ngàn tay ngàn mắt, luôn luôn phóng ra quang minh vô ngại, chiếu khắp tất cả chúng sinh có duyên trong ba ngàn đại thiên thế giới. Thế mà chúng ta hằng ngày lễ Phật tại đây, niệm Phật, lạy Bồ Tát Quán Âm, niệm Bồ Tát Quán Âm, cũng chẳng thấy Bồ Tát Quán Âm, mà thành ra bắt chước, tức là họ lạy, ta cũng lạy theo, họ niệm ta cũng niệm theo, đó là cảnh giới chuyển theo người, mà chẳng chân chánh trở về trong thâm tâm của mình.
Hằng ngày ta lạy Bồ Tát Quán Thế Âm, niệm Bồ Tát Quán Thế Âm, ta nên làm như thế nào? Phải chăng ta có nhiều sân hận? Phải chăng chứng tật cũ ta không sửa đổi? Như thế thì bạn lạy đến hết thuở vị lai, bạn cũng chẳng thấy được Bồ Tát Quán Thế Âm. Nếu bạn cải ác hướng thiện, chân chánh trừ khử tập khí mao bệnh, sửa lỗi làm con người mới, thì nhất định Bồ Tát Quán Thế Âm sẽ gia bị cho bạn. Cho nên có người tu rất nhiều năm, một chút trí huệ cũng không khai mở, có người tu hành chẳng bao lâu thì khai mở trí huệ, đắc được biện tài vô ngại. Do đó, chúng ta là người xuất gia, phải siêng tu giới định huệ, diệt trừ tham sân si, cử chi hành động đều phải hồi quang phản chiếu, tu hành như thế mới có tiến bộ.
Chúng ta giảng Kinh Hoa Nghiêm, nghe Kinh Hoa Nghiêm, lạy Kinh Hoa Nghiêm, tụng Kinh Hoa Nghiêm, nhưng không y chiếu đạo lý Kinh Hoa Nghiêm mà thực hành thì Kinh là Kinh, bạn là bạn, ta là ta, chẳng có chút nào hợp mà làm một. Chúng ta phải hợp với Kinh điển mà làm một, chiếu theo đạo lý trong Kinh điển mà thực hành, tức là hợp mà làm một; bạn không chiếu theo Kinh điển mà thực hành thì tâm từ bi cũng chẳng đủ, tâm hỷ xả cũng không nhiều, chỉ có vô minh phiền não theo mình, đó là chẳng hiểu được Kinh, cũng chẳng nghe được Kinh. Nghe được Kinh câu nào thì nghĩ xem: ta làm thế nào để thực hành? Phải chăng ta chạy theo thói hư tật xấu? Hay là chiếu theo Kinh điển mà tu hành? Thường thường tự hỏi mình thì chắc chắn sẽ đắc được lợi ích. Tại sao chẳng đắc được lợi ích lớn? Vì bạn xem Kinh là Kinh, đối với ta chẳng có quan hệ gì. Thật ra, lúc ban đầu đức Phật nói Kinh Hoa Nghiêm cũng vì bạn, tôi và tất cả chúng sinh mà nói, đó là Phật đối với chúng ta mà nói. Chúng ta nghe Kinh văn nầy, cũng như chính tai chúng ta nghe đức Phật nói đạo lý nầy, dạy chúng ta y chiếu theo pháp môn nầy mà tu hành.
Bất cứ pháp gì, cũng đều không ra khỏi tự tánh của mỗi chúng ta. Tự tánh của chúng ta, cũng là tận hư không khắp pháp giới. Cho nên, nếu bạn phóng tâm lượng rộng lớn, thì bạn sẽ hợp với Kinh Hoa Nghiêm mà làm một, song, hai mà chẳng phải hai. Ai ai cũng đều y theo cảnh giới Hoa Nghiêm làm cảnh giới của mình, lấy đạo lý vô lượng vô biên, trí huệ vô lượng vô biên của Kinh Hoa Nghiêm, thu nhiếp làm trí huệ của mình. Bạn xem ! Như vậy rộng lớn biết dường nào !
Dẫn Nhập
Bộ Kinh Hoa Nghiêm Ðại Phương Quảng Phật nầy, khi đức Phật Thích Ca Mâu Ni ngồi dưới cội bồ đề, vừa mới thành chánh giác, không rời khỏi toà ngồi mà ở trong định đến bảy nơi (ba nơi tại nhân gian, bốn nơi ở tại Thiên cung), vì các bậc đại thiện căn viên đốn, mà nói tự thân chứng được pháp môn viên đốn, đi thẳng vào đạo lý pháp giới, trải qua chín hội trong vòng hai mươi mốt ngày, thì nói xong bộ Kinh không thể nghĩ bàn nầy. Bộ Kinh nầy gồm có 45 phẩm Kinh văn, nhưng chỉ dịch ra được 39 phẩm, gồm 80 quyển. Trong mỗi hội Ðức Phật đều phóng quang, đại biểu nói Hoa Nghiêm pháp lớn. Quang minh là biểu thị cho trí huệ, gia bị cho tất cả chúng sinh, đều đắc được lợi ích Phật Pháp.
Bộ Kinh Hoa Nghiêm nầy từ đầu cho đến cuối, đều nói đạo lý năm vòng nhân quả.
Hội thứ nhất thì nói về “tin nhân quả”.
Từ hội thứ hai đến hội thứ sáu thì nói về “sai biệt nhân quả”.
Hội thứ bảy thì nói “bình đẳng nhân quả”.
Hội thứ tám thì nói “thành hạnh nhân quả”.
Hội thứ chín thì nói “chứng nhập nhân quả”.
Ngài Thanh Lương Quốc Sư đem hết toàn bộ Kinh 80 quyển phân làm bốn phần. Hội thứ nhất có 11 quyển là: Cử quả hoan lạc sinh tín phần. Từ hội thứ hai đến hội thứ bảy cộng lại có 41 quyển là: Tu nhân khế quả sinh giải phần. Hội thứ tám có 7 quyển là: Thác pháp tiến tu thành hạnh phần. Hội thứ chín có 21 quyển là: Y nhân chứng nhập thành đức phần.
Hội thứ nhất tại Bồ Ðề Ðạo Tràng, vị trí ở hướng tây cách thành Vương Xá nước Ma Kiệt Ðà khoảng hai trăm dặm, nay tức là Bodh Gaya. Hội nầy Ðức Phật phóng quang minh giữa lông mày, biểu thị quang minh của Phật chiếu khắp hết thảy mọi nơi, khiến cho tất cả chúng sinh đến nghe pháp lớn. Lại phóng quang minh ở răng, biểu thị khiến cho chúng sinh nếm được pháp vị. Bộ Kinh nầy là mười phương chư Phật đều nói, cho nên trong các hội, phần nhiều là mười phương chư Phật gia bị cho Bồ Tát nói. Hội nầy là mười phương chư Phật gia trì cho Bồ Tát Phổ Hiền nói, Bồ Tát Phổ Hiền làm chủ đại hội, Ngài nương thần lực của Ðức Phật mà nói: y, chánh hai báo trang nghiêm Phật quả, phát triệt tâm tín ngưỡng của chúng sinh.
Hội nầy nói sáu phẩm:
1. Phẩm Thế Chủ Diệu Nghiêm.
2. Phẩm Như Lai Hiện Tướng.
3. Phẩm Phổ Hiền Tam Muội.
4. Phẩm Thế Giới Thành Tựu.
5. Phẩm Thế Giới Hoa Tạng.
6. PhẩmTỳ Lô Giá Na.
Sáu phẩm nầy là vòng tin nhân quả, là “quả cử hoan lạc sinh tín phần”.
Hội thứ nhì ở tại Ðiện Phổ Quang Minh. Hội nầy ở phía đông nam cây bồ đề, khoảng ba dặm trong khúc eo sông Ni Liên Thiền, là do các Long Vương vì Ðức Phật mà tạo nên. Ðức Phật phóng quang chiếu khắp mười phương vô biên thế giới, nên tên là Ðiện Phổ Quang Minh. Trong hội nầy Ðức Phật phóng quang dưới hai bàn chân, biểu thị khiến cho chúng sinh y pháp tu hành. Hội nầy Bồ Tát Văn Thù làm chủ đại hội, Ngài nương thần lực của Ðức Phật, mà nói đạo lý pháp môn Thập Tín mỹ đức,
Hội nầy nói sáu phẩm:
7. Phẩm Danh Hiệu Như Lai.
8. Phẩm Bốn Thánh Ðế.
9. Phẩm Quang Minh Giác.
10. Phẩm Bồ Tát Vấn Minh.
11. Phẩm Tịnh Hạnh.
12. Phẩm Hiền Thủ.
Sáu phẩm nầy là vòng sai biệt nhân quả, là “tu nhân khế quả sinh giải phần”. Trên đây là mười hai phẩm diệu pháp nói ở tại nhân gian.
Hội thứ ba ở tại Ðiện Diệu Thắng trên cung trời Ðao Lợi. Hội nầy ở đỉnh núi Tu Di, là “địa cư thiên”, tức cũng là tầng trời thứ hai của dục giới. Ðức Phật nói Kinh Hoa Nghiêm là pháp thân nói, pháp thân thì tận hư không khắp pháp giới, vô tại vô bất tại, vô sở bất tại (không có chỗ nào mà không có). Cho nên, có thể đến bất cứ nơi nào giảng Kinh thuyết pháp. Trong hội nầy Ðức Phật phóng quang ở ngón chân, biểu thị pháp là từ chỗ thấp mà sinh ra, khiến cho chúng sinh từ cơ bản mà học lên. Hội nầy Bồ Tát Pháp Huệ làm chủ đại hội, Ngài nương thần lực của Phật mà nói đạo lý Thập Trụ.
Hội nầy cũng nói sáu phẩm.
13. Phẩm Thăng Lên Ðỉnh Tu Di.
14. Phẩm Kệ Tán Tu Di.
15. Phẩm Thập Trụ.
16. Phẩm Phạm Hạnh.
17. Phẩm Công Ðức Ban Ðầu Phát Tâm.
18. Phẩm Minh Pháp.
Sáu Phẩm nầy cũng là vòng sai biệt nhân quả, là “tu nhân khế quả sinh giải phần”.
Hội thứ tư ở tại Ðiện Bảo Trang Nghiêm, cung trời Dạ Ma. Hội nầy ở trên không đỉnh núi Tu Di, là “không cư thiên” (cõi trời ở trên không), tức cũng là tầng trời thứ ba của dục giới. Trong hội nầy Ðức Phật phóng quang ở mu hai bàn chân, biểu thị pháp là từ dưới mà lên, khiến cho chúng sinh y theo thứ lớp mà học lên. Hội nầy Bồ Tát Công Ðức Lâm làm chủ đại hội, Ngài nương thần lực của Phật mà nói đạo lý pháp môn Thập Hạnh.
Hội nầy nói bốn phẩm.
19. Phẩm Thăng Lên Trời Dạ Ma.
20. Phẩm Kệ Tán Dạ Ma.
21. Phẩm Thập Hạnh.
22. PhẩmThập Vô Tận Tạng.
Bốn phẩm nầy cũng là vòng sai biệt nhân quả, là “tu nhân khế quả sinh giải phần”.
Hội thứ năm ở tại Ðiện Nhất Thiết Diệu Bảo Trang Nghiêm, cung trời Ðâu Suất. Hội nầy ở phía trên trời Dạ Ma, tức cũng là tầng trời thứ tư của dục giới. Trong hội nầy Ðức Phật phóng quang hai đầu gối, biểu thị hồi hướng, khiến cho chúng sinh: hồi sự hướng lý, hồi nhân hướng quả, hồi tự hướng tha. Hội nầy Bồ Tát Kim Cang Tràng làm chủ đại hội, Ngài nương thần lực của Ðức Phật mà nói đạo lý pháp môn Thập Hồi Hướng.
Hội nầy nói ba phẩm.
23. Phẩm Thăng Lên Trời Ðâu Suất.
24. Phẩm Kệ Tán Ðâu Suất.
25. Phẩm Thập Hồi Hướng.
Ba phẩm nầy cũng là vòng sai biệt nhân quả, là “tu nhân khế quả sinh giải phần”.
Hội thứ sáu ở tại Ðiện Ma Ni Bảo Tạng, cung trời Tha Hoá Tự Tại. Hội nầy là tầng trời thứ sáu của dục giới, cũng là trời cao nhất của dục giới. Hội nầy Ðức Phật phóng quang minh ở giữa lông mày, hội nầy Bồ Tát Kim Cang Tạng làm chủ đại hội, Ngài nương thần lực của Phật mà nói đạo lý pháp môn Thập Ðịa. Hội nầy chỉ nói một phẩm.Phẩm Thập Ðịa.
Phẩm nầy cũng là vòng sai biệt nhân quả, là “tu nhân khế quả sinh giải phần”. Trên đây là mười bốn phẩm diệu pháp nói ở trên Thiên cung.
Hội thứ bảy ở tại Ðiện Phổ Quang Minh. Ðức Phật lại từ trên trời trở về nhân gian. Hội nầy Ðức Phật phóng quang minh giữa lông mày và quang minh ở miệng, quang minh ở miệng là biểu thị, tất cả Phật tử từ trong miệng của Phật hoá sinh. Hội nầy Bồ Tát Phổ Hiền làm chủ đại hội, Ngài nương thần lực của Phật mà nói pháp Ðẳng giác và Diệu giác, tức cũng là pháp môn nhân tròn quả đầy, sáu phẩm trước nói nhân tròn, năm phẩm sau nói quả đầy.
Hội nầy nói mười một phẩm:
27. Phẩm Thập Ðịnh.
28. Phẩm Thập Thông.
29. Phẩm Thập Nhẫn.
30. Phẩm A Tăng Kỳ.
31. Phẩm Thọ Lượng.
32. Phẩm Bồ Tát Trụ Xứ.
33. Phẩm Thập Thân Tướng Hải.
34. Phẩm Tuỳ Hảo Quang Minh.
35. Phẩm Hạnh Phổ Hiền.
36. Phẩm Như Lai Xuất Hiện.
Mười một phẩm nầy là vòng nhân quả bình đẳng, là “tu nhân khế quả sinh giải phần”.
Hội thứ tám tại Ðiện Phổ Quang Minh. Trong hội nầy Ðức Phật không phóng quang minh, vì tại trọng xứ. Hội nầy cũng là Bồ Tát Phổ Hiền làm chủ đại hội, vì Bồ Tát Phổ Hiền là chủ Hoa Nghiêm Hải Hội, Ngài nương thần lực của Ðức Phật, mà nói pháp hai ngàn hạnh môn. Có vị Bồ Tát Phổ Huệ hỏi Bồ Tát Phổ Hiền: Những gì là pháp nương tựa của Bồ Tát? Những gì là pháp thực hành của Bồ Tát? .v.v., có hai trăm câu hỏi. Bồ Tát Phổ Hiền giải đáp thành hai nghìn câu trả lời.
Hội nầy chỉ nói một phẩmPhẩm Lìa Thế Gian.
Phẩm nầy là vòng thành hạnh nhân quả, là “thác pháp tiến tu thành hạnh phần”.
Hội thứ chín ở tại Rừng Thệ Ða. Ðịa điểm ở trong thành Xá Vệ, tức cũng là vườn ông Cấp Cô Ðộc, cây của thái tử Kỳ Ðà, còn gọi là Tinh Xá Kỳ Hoàn, còn gọi là Trọng Các Giảng Ðường. Khi Ðức Phật thành chánh giác thì chưa có giảng đường nầy, sau này mới thành lập. Song, không có Trọng Các Giảng Ðường, vậy Ðức Phật làm thế nào thuyết pháp tại đây? Ðó là cảnh giới diệu không thể nghĩ bàn. Ðức Phật có thể đem vô lượng kiếp quá khứ dời đến hiện tại, cũng có thể đem vô lượng kiếp vị lai dời đến hiện tại. Cho nên chẳng có phân biệt quá khứ, hiện tại và vị lai, là viên dung vô ngại. Giống như trong Kinh Kim Cang có nói:”Tam tâm bất khả đắc” (ba tâm không thể đắc được), cùng đạo lý ấy, nghĩa là: tâm quá khứ không thể nắm bắt, tâm hiện tại không thể nắm bắt, tâm vị lai cũng không thể nắm bắt.
Tại sao? Bạn nói có quá khứ tức là chấp trước, có hiện tại là chấp trước, có vị lai cũng là chấp trước. Vì quá khứ đã qua rồi, hiện lại không dừng lại, còn vị lai thì chưa đến, đó là phá chấp. Tại hội nầy Ðức Phật phóng luồng hào quang trắng, biểu thị chiếu khắp ba ngàn đại thiên, khiến cho tất cả chúng sinh được thấm nhuần mưa pháp, sinh ra căn lành. Hội nầy phân làm hội chính và hội phụ. Hội chính là Phật Thích Ca Mâu Ni làm hội chủ, nhập vào Tam muội Sư Tử Tần Thân, thị hiện mà nói diệu pháp, khiến cho đại chúng “đốn chứng pháp giới”. Hội phụ là các Bồ Tát làm hội chủ, Bồ Tát Phổ Hiền, Bồ Tát Văn Thù và các vị thiện tri thức vì Thiện Tài Ðồng Tử mà nói rõ “tiệm chứng pháp giới”. Hội nầy chỉ nói một phẩm:
39. Phẩm Vào Pháp Giới.
Nhưng có hai mươi mốt quyển. Hội nầy là vòng chứng nhập nhân quả, là “y nhân chứng nhập thành đức phần”. Phần trên là mười ba phẩm diệu pháp nói ở tại nhân gian.
Nay giới thiệu sơ lược về bảy nơi, chín hội, ba mươi chín phẩm, hy vọng mọi người ghi nhớ, đợi khi giảng đến phẩm nào thì biết được phẩm đó nói tại đâu, vị Bồ Tát nào nói, có khái niệm như thế thì mới thấu hiểu được.
Bộ Kinh Hoa Nghiêm nầy là pháp đại thừa, vì pháp thân Bồ Tát mà nói, hoàn toàn là tu bồ đề tâm, hành bồ đề đạo, do đó người tiểu thừa, tuy nhiên đồng ở trong pháp hội, nhưng như điếc như mù, “có mắt chẳng thấy được Lô Xá Na, có tai chẳng nghe được pháp viên đốn”. Vì khi họ ở tại nhân gian thì không tu pháp đại thừa, cho nên không có duyên đắc được lợi ích lớn. Vậy tức nhiên chúng ta chẳng phải là Bồ Tát, lại chẳng phải là A La Hán, tại sao lại nghe được tên Kinh Hoa Nghiêm Ðại Phương Quảng Phật, mà còn được nghe diệu pháp Kinh Hoa Nghiêm? Ðó là vì trong quá khứ chúng ta đã gieo căn lành với pháp đại thừa, cho nên hôm nay có duyên được đến nghe pháp, bằng không cũng giống như người tiểu thừa, như điết như mù. Ðây là cơ hội ngàn kiếp khó gặp. Hy vọng mọi người tinh tấn càng tinh tấn, nỗ lực càng nỗ lực, đến nghiên cứu diệu lý của bộ Kinh nầy. Tuy nhiên chỉ dịch ra được bốn vạn năm nghìn bài kệ, nhưng nếu nhớ được một bài kệ thì có diệu dụng vô lượng.
Vào đời đường có vị xuất gia tên là Vương Minh Cán. Vị đó tuy xuất gia làm hoà thượng, nhưng không tu hành. Một ngày nọ, bị quỷ vô thường bắt đi, vị đó gặp Bồ Tát Ðịa Tạng, dạy vị đó một bài kệ Kinh Hoa Nghiêm:
“Nhược nhân dục liễu tri
Tam thế nhất thiết Phật
Ưng quán pháp giới tánh
Nhất thiết duy tâm tạo”.
Nghĩa là:
“Nếu ai muốn biết rõ
Tất cả Phật ba đời
Hãy quán tánh pháp giới
Hết thảy do tâm tạo”.
Vị đó thấy vua Diêm Vương thì đọc ra bài kệ nầy, do đó được phóng thích. Bài kệ nầy không những cứu được sinh mạng của vị đó, mà cũng cứu được chúng sinh thọ khổ dưới địa ngục. Các bạn thấy đó ! Bài kệ nầy có diệu dụng như thế, cho nên phải tụng Kinh Hoa Nghiêm, phải lạy Kinh Hoa Nghiêm, phải ấn tống Kinh Hoa Nghiêm, thì nhất định có công đức vô lượng.
LỜI NÓI ĐẦU
Tôi tin đây là lần đầu tiên bộ Kinh Hoa Nghiêm này được giảng tại nước Mỹ và các vị cũng là lần đầu tiên được nghe giảng. Hiện tại do thời gian có hạn nên không thể giảng giải chi tiết. Vì sao? Vì nếu giảng quá chi li thì e rằng trong sáu tuần lễ chỉ giảng cái tựa thôi cũng còn chưa xong, vì thế mà nay chỉ có thể giảng một cách sơ lược. Đầu tiên tôi sẽ giảng về xuất xứ của bộ kinh này.
Trong kinh điển nhà Phật thì Kinh Hoa Nghiêm này là vua của các kinh, cũng là vua trong các vua. Kinh Diệu Pháp Liên Hoa cũng là vua trong các kinh nhưng không thể xưng là vua trong các vua được. Bộ Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm này được tôn là vua của các vua, là bộ kinh thuộc hệ Đại thừa dài nhất mà Đức Phật đã thuyết, nhưng thời gian Phật thuyết kinh lại không dài lắm, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói bộ đại Hoa Nghiêm này chỉ vỏn vẹn trong vòng hai mươi mốt ngày.
Bộ Kinh này có tám mươi mốt quyển, cũng có chỗ chỉ có bốn mươi quyển hay sáu mươi quyển, nhưng tất cả đều không đầy đủ lắm. Ngay cả bộ tám mươi mốt quyển này cũng vậy, chẳng qua là có đủ cả ba phần Tựa, Chính tông và Lưu thông.
Sau khi Đức Phật Thích-ca-mâu-ni nói xong Kinh Hoa Nghiêm thì bộ kinh này không hề được lưu truyền trên thế gian, ngay cả Ấn Độ cũng không có bộ kinh này. Vậy thì bộ kinh này đã bị ai thỉnh đi? Bị Long Vương thỉnh về Long cung để ngày ngày cúng dường lễ bái.
Sau khi Đức Phật Thích-Ca-Mâu-Ni diệt độ sáu trăm năm, có một vị Bồ-tát tên Long Thọ, thông minh tuyệt đỉnh, không ai sánh kịp. Ngài đã đọc hết tất cả những áng văn chương, luận nghị, kinh điển có trên thế gian, do đó Bồ tát khởi tâm muốn đến Long cung xem tạng Kinh và Ngài đã tìm được bộ Kinh Hoa Nghiêm này trong cung rồng. Kinh Hoa Nghiêm có ba bản: thượng, trung và hạ. Bản thượng có mười tam thiên đại thiên thế giới vi trần số bài kệ. Quý vị xem là bao nhiêu? Số vi trần của một thế giới đã là vô lượng vô biên rồi, số vi trần của đại thiên thế giới lại càng nhiều hơn.
Sao gọi là đại thiên thế giới? Một núi Tu-di, một mặt trời, một mặt trăng là một thế giới; một nghìn núi Tu-di, một nghìn mặt trời, một nghìn mặt trăng hợp lại làm thành một tiểu thiên thế giới; hợp một nghìn tiểu thiên thế giới lại gọi là một trung thiên thế giới; hợp một nghìn trung thiên thế giới lại gọi là một đại thiên thế giới. Số vi trần trong một đại thiên thế giới là một con số vô cực không thể tính kể. Nay số kệ tụng lại nhiều như số vi trần trong mười tam thiên đại thiên thế giới thì càng không thể đếm xuể.
Bản thượng Kinh Hoa Nghiêm có bao nhiêu phẩm? Bản thượng có số phẩm bằng số vi trần của một tứ thiên hạ. “Một tứ thiên hạ” nghĩa là: “một” tức một ngọn núi Tu-di, “tứ” là bốn châu lớn (Đông Thắng Thần châu, Nam Thiệm Bộ châu, Tây Ngưu Hóa châu, Bắc Câu-lô châu), hợp lại gọi là một tứ thiên hạ. Số phẩm của bản thượng Kinh Hoa Nghiêm nhiều bằng số vi trần của một tứ thiên hạ, quý vị nói xem là bao nhiêu? Tôi cũng không tính được. Bản trung Kinh Hoa Nghiêm có bốn trăm mười chín vạn tám nghìn tám trăm bài kệ, phân làm một nghìn hai trăm phẩm. Bản hạ Kinh Hoa Nghiêm có tám vạn bài kệ, chia làm bốn mươi tám phẩm. Khả năng ghi nhớ của Bồ-tát Long Thọ rất phi thường, Ngài đọc thuộc lòng bản hạ Kinh Hoa Nghiêm và sau khi trở về Ấn Độ đã sao chép ra toàn bộ, sau lại từ Ấn Độ truyền sang Trung Hoa. Bản kinh truyền sang Trung Hoa chỉ có tám mươi quyển, ba mươi chín phẩm, còn lại chín phẩm vẫn chưa được truyền sang.
Đức Thích-ca-mâu-ni Phật giảng Kinh Hoa Nghiêm tại bảy chỗ khác nhau, tổng cộng có chín pháp hội. Nếu quý vị có thể hiểu rõ được nghĩa lý trong bộ Kinh Hoa Nghiêm này thì xem như thấy được toàn thân Phật; nếu quý vị thông suốt được Kinh Lăng Nghiêm là thấy được đỉnh nhục kế của Phật; nếu quý vị thông suốt được Kinh Pháp Hoa thì thấy được thân Phật, nhưng chưa trọn vẹn; nếu quý vị có thể thông suốt được đạo lý trong Kinh Hoa Nghiêm thì sẽ thấy rõ được toàn thân và tuệ mạng của Ngài.
Bộ Kinh Hoa Nghiêm này ví như biển lớn, còn những kinh khác giống như những dòng sông nhỏ. Những dòng sông nhỏ không thể sánh với biển lớn. Hiện tại trên thế giới, người có thể giảng được Kinh Hoa Nghiêm không phải không có, nhưng số đó đã ít lại càng ít. Nếu nói không có thì nay chẳng phải chúng ta đang giảng đó sao? Thế sao lại có thể nói là không có người! Thậm chí có người học Phật Pháp, học cả một đời mà ngay đến tên Kinh Hoa Nghiêm cũng chưa hề nghe qua, quý vị nói xem người đó đáng thương biết nhường nào! Bộ Kinh Hoa Nghiêm này đừng nói là giảng mà chỉ đọc qua thôi cũng rất ít người đọc qua được một lần. Đọc qua một lần nhanh nhất cũng phải mất hai mươi mốt ngày. Vì thế, bộ kinh này rất khó gặp.
Nói về “thất xứ cửu hội” của bộ kinh này, có một bài kệ như vầy:
Rời cội bồ-đề cửu-Thệ-đa
Ba, bốn Đao-lợi cùng Dạ-ma
Điện Phổ Quang Minh hai, bảy, tám
Tha Hóa, Đâu Suất năm, sáu qua.
Phật thành đạo ở Bồ-đề đạo tràng, tức là ở cội bồ-đề mà nói Kinh Hoa Nghiêm lần đầu tiên, gồm sáu phẩm, mười một quyển; hội thứ hai ở điện Phổ Quang Minh nói được sáu phẩm, bốn quyển; hội thứ ba tại cung trời Đao-lợi nói được sáu phẩm, ba quyển; hội thứ tư ở cõi trời Dạ-ma nói được bốn phẩm, ba quyển; hội thứ năm ở cõi trời Đâu Suất nói được ba phẩm, mười hai quyển; hội thứ sáu ở cõi trời Tha Hóa nói được một phẩm, sáu quyển; hội thứ bảy lại trở về điện Phổ Quang Minh nói được mười một phẩm, mười ba quyển; hội thứ tám cũng ở tại điện Phổ Quang Minh nói được một phẩm, bảy quyển; hội thứ chín ở rừng Thệ-đa nói được một phẩm hai mươi mốt quyển. Rừng Thệ-đa, hiện nay có thể gọi là khu mộ phần, nơi an trí xương cốt người chết. Đó là nói về “thất xứ cửu hội” của bản hạ.
Bản hạ Kinh này ban đầu có ba mươi chín phẩm, bốn mươi bốn vạn năm nghìn bài kệ, về sau truyền vào Trung Hoa, nhưng có chín phẩm, năm vạn năm nghìn bài kệ vẫn chưa được truyền vào. Bộ Kinh này tuy chưa đầy đủ nhưng cũng hoàn bị các phần Tựa, Chính tông và Lưu thông, do vậy mà Quốc sư Thanh Lương đời Đường khi hoằng dương Kinh Hoa Nghiêm đã cho rằng bộ kinh này có thể nói là tạm hoàn bị.
Quốc sư Thanh Lương chính là hóa thân của Bồ-tát Hoa Nghiêm, vì sao nói Ngài là hóa thân của Bồ-tát Hoa Nghiêm? Vì Ngài chuyên giảng Kinh Hoa Nghiêm, không giảng những kinh khác. Quốc sư Thanh Lương tên Trừng Quán, tự Đại Hưu, người Cối Kê, họ Hạ Hầu. Sinh vào thời vua Đường Huyền Tông, niên hiệu Khai Nguyên (713-741) năm Mậu Dần (738). Thân ngài cao chín thước bốn tấc, hai tay dài quá đầu gối và có bốn mươi cái răng. Thông thường răng của chúng ta có ba mươi mấy cái thôi, còn răng có bốn mươi cái là bậc quý nhân, người được như thế rất ít. Răng của Đức Phật có bốn mươi hai cái, còn Quốc sư Thanh Lương thì có bốn mươi cái; trong bóng tối nhìn mắt của Ngài như có luồn sáng, mắt phát ra ánh sáng, còn ban ngày thì giống như những người bình thường, chỉ khác là tròng mắt của Ngài luôn đứng yên không động. Năm thứ tư, niên hiệu Kiến Trung, Ngài đã viết xong bộ Hoa Nghiêm Sớ Sao; bộ sớ sao này là bản chú giải cho Kinh Hoa Nghiêm nổi tiếng nhất.
Trước khi viết bộ Sớ Sao, ngài cầu nguyện chư Bồ-tát trong Hoa Nghiêm Hải Hội gia bị. “Gia bị” chính là giúp đỡ ngài. Có một tối, ngài nằm mộng thấy trên đỉnh núi đều biến thành màu vàng kim. Khi tỉnh mộng, Ngài biết đó là quang minh biến chiếu. Từ đó về sau, ngài viết Hoa Nghiêm Sớ Sao vô cùng thuận lợi, chẳng cần phải nỗ lực suy tư gì cả. Thông thường khi viết văn, phần nhiều chúng ta phải suy nghĩ để viết từng câu từng lời. Còn Ngài không cần phải suy nghĩ, viết nhanh tựa như chép bài vậy. Trải qua bốn năm, Ngài đã chú giải hoàn toàn bộ Kinh Hoa Nghiêm. Sau khi viết xong ngài lại nằm mộng, cũng không quyết chắc có phải là mộng hay không, nhưng Ngài đã thấy một cảnh giới như vầy nên có thể tạm gọi là mộng. Ngài mộng thấy mình biến thành một con rồng, rồi từ con rồng ấy lại biến thành nghìn nghìn, vạn vạn, vô lượng vô biên con rồng như thế, bay đến những thế giới khác. Đó là Ngài đã thấy được cảnh giới Hoa Nghiêm. Mọi người đều cho rằng đó là biểu trưng cho ý nghĩa của sự lưu thông.
Quốc sư Thanh Lương sống qua hai đời nhà Tùy và Đường với chín triều đại, làm thầy của bảy vị hoàng đế. Sau khi Quốc sư viên tịch, có một vị Tăng Ấn Độ đến Trung Hoa, giữa đường vị ấy gặp hai đồng tử áo xanh, vị Tăng này là người đã chứng quả A-la-hán, Ngài bèn chặn hai đồng tử ở trên hư không lại hỏi:
– Hai vị đi đâu vậy?
Đồng tử đáp:
– Chúng tôi đến Trung Hoa thỉnh răng cấm của Bồ-tát Hoa Nghiêm về điện Văn Thù ở Ấn Độ cúng dường.
Vị La-hán sau khi đến Trung Hoa đã kể cho vua về chuyện hai đồng tử đến thỉnh răng cấm của Bồ-tát Hoa Nghiêm, hình như là chỉ cho Quốc sư Thanh Lương. Thế là vua cho khai tháp của Quốc sư thì quả nhiên phát hiện Quốc sư bị mất một chiếc răng cấm. Những hiện tượng trên thật mầu nhiệm không thể nghĩ bàn. Quý vị xem! Bồ-tát Hoa Nghiêm đã đến Trung Hoa, cho nên Quốc sư Thanh Lương mới có tướng mạo đặc thù như thế.
Căn cứ vào sự phân chia của Quốc sư Thanh Lương về Kinh Hoa Nghiêm thì năm quyển đầu là phần Tựa, năm mươi lăm quyển rưỡi ở giữa là phần Chính tông, mười chín quyển rưỡi sau là phần Lưu thông. Bộ kinh này tuy không được phiên dịch trọn vẹn ra Hán văn, nhưng phần Tựa, phần Lưu thông, phần Chính tông đều có đầy đủ. Những người hoằng truyền Kinh Hoa Nghiêm ở Trung Hoa đều là những vị Đại Bồ-tát, nếu như chẳng phải là cảnh giới của Bồ-tát thì các vị ấy chẳng thể giảng được Kinh Hoa Nghiêm. Cảnh giới Hoa Nghiêm vi diệu mầu nhiệm vô cùng, là sự vi diệu trong vi diệu, là sự nhiệm mầu trong nhiệm mầu.
LONG VƯƠNG DẠY ĐẠO
CHÚNG CON NHỮNG NGƯỜI CON HỌ THIÊN, QUY Y THIÊN TÂM ĐẠO XIN BÁY TỎ LÒNG TRI ÂN ĐẾN ĐỨC NGÀI THIÊN TUẤN KIỆT VỊ THÁI TỬ MANG SỨ MỆNH LẬP ĐẠO KHAI TRUYỀN NỀN ĐẠO TRỜI PHÁP PHẬT CHO MỌI NGƯỜI HƯỚNG VỀ CHA NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ VÀ ĐỨC PHẬT MẪU DIÊU TRÌ. NAM MÔ NHẤT THIÊN THIÊN NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ NAM MÔ NHẤT NHẤT HOÀNG THIÊN ĐẠI THÁNH MẪU. NAM MÔ LONG VƯƠNG CUNG HỘI THƯỢNG PHẬT BỒ TÁT. NAM MÔ BỒ TÁT LONG THỌ. CHÚNG CON HỌC ĐẠO VÀ THAM CỨU BỘ KINH HOA NGHIÊM, MỘT BỘ KINH QUÝ BÁU ĐƯỢC LƯU GIỮ TẠI LONG CUNG, NƠI CÁC VỊ VUA RỒNG NGỰ TOẠ. KINH HOA NGHIÊM LÀ BỘ KINH ĐẠI THỪA VỚI NỘI DUNG SIÊU VIỆT TUYỆT LUÂN HÙNG VĨ, TRÁNG LỆ NGUY NGA, THỂ HIỆN. PHÁP THÂN, TƯ TƯỞNG VÀ TÂM NGUYỆN CỦA CHƯ PHẬT. KINH HOA NGHIÊM TRỰC CHỈ BẢN TÁNH CHƠN TÂM THANH TỊNH SÁNG SUỐT THƯỜNG NHIÊN ; LÀ BIẾT TỰ THỂ CỦA CÁC PHÁP HIỆN HÀNH TRONG THẾ GIỚI VŨ TRỤ; LÀ THẤU SUỐT CỘI NGUỒN SANH SANH HOÁ HOÁ CỦA HỮU TÌNH VÀ VÔ TÌNH CHÚNG SANH; LÀ QUÁN CHIẾU BÍ YẾU MẬT NGHĨA VIÊN DUNG TƯƠNG QUAN CỦA TÂM VÀ CẢNH, ĐỂ RỒI TỪ ĐÓ CÓ THỂ THỐNG TRIỆT LÝ VIÊN DUNG VÔ NGẠI CHỦ VÀ KHÁCH CỦA VẠN PHÁP, HIỆN HÀNH SANH HOÁ, TƯƠNG DUYÊN TRONG NHƠN QUẢ, TƯƠNG SANH TƯƠNG DIỆT, TẤT CẢ VẠN PHÁP TOÀN TRIỆT ẢNH HIỆN TRÊN ĐÀI GƯƠNG CHƠN NHƯ THỂ TÁNH. THẾ NÊN, THỌ TRÌ KINH HOA NGHIÊM LÀ BƯỚC VÀO CỬA PHƯƠNG TIÊN CẦU TU HỌC ĐẠO, LÀ NHÂN TỐ ĐẶC THÙ HY HỮU LY VỌNG HOÀN CHƠN. BỘ KINH HOA NGHIÊM ĐƯỢC PHẬT THUYẾT KHI NHẬP ĐẠI ĐỊNH "HẢI ẤN TAM MUỘI" GIẢNG KINH HOA NGHIÊM TRONG 21 NGÀY ĐỂ HOÁ ĐỘ HÀNG THƯỢNG THỪA BỒ TÁT. KINH HOA NGHIÊM ĐƯỢC BẢO TỒN Ở DƯỚI LONG CUNG, DO LONG VƯƠNG BẢO HỘ GIỮ GÌN, VỀ SAU DO NGÀI BỒ TÁT LONG THỌ, NHẬP THIỀN ĐỊNH VÀO BIỂN TÁNH TỲ LÔ GIÁ NA, NGÀI XUỐNG DƯỚI LONG CUNG , ĐỌC VÀ HỌC THUỘC LÒNG KINH, GHI NHỚ BỘ KINH NÀY ,SAU ĐÓ LƯU TRUYỀN TRÊN THẾ GIAN CHO CON NGƯỜI Ở CÕI TA BÀ NÀY HỌC ĐẠO ĐỂ MAU CHỨNG ĐẮC VỀ PHẬT QUẢ, VÔ THƯỢNG BỒ ĐỀ. KINH HOA NGHIÊM NHƯ VẦNG MÂY CÁT TƯỜNG Ở TRONG HƯ KHÔNG, CHIẾU KHẮP BA NGÀN ĐẠI THIÊN THẾ GIỚI, NHƯ MƯA PHÁP CAM LỒ, THẤM NHUẦN HẾT THẢY TẤT CẢ CHÚNG SINH. NHƯ ÁNH SÁNG MẶT TRỜI CHIẾU KHẮP ĐẠI THIÊN THẾ GIỚI, KHIẾN TẤT CẢ CHÚNG SINH ĐỀU ĐƯỢC ẤM ÁP. KINH HOA NGHIÊM NÀY CŨNG NHƯ ĐẠI ĐỊA, LÀM SINH TRƯỞNG TẤT CẢ VẠN VẬT. THIÊN TÂM ĐẠO, PHỤC HƯNG CHÁNH PHÁP CỦA CHƯ PHẬT LƯU TRUYỀN TRONG THẾ GIAN, XIỂN DƯƠNG NỀN ĐẠO TRỜI TỒN TẠI TRONG VŨ TRỤ QUAN, TỪ THUỞ HỒNG HOANG BAN SƠ KHỞI NGUYÊN CHO ĐẾN HÔM NAY. NAM MÔ ĐẠI VỊ THUỶ CUNG, LONG CUNG, LONG VƯƠNG, LONG MẪU, NGŨ VỊ THÁNH MẪU NGŨ CHÂU CHỨNG MINH .