Địa
Tạng Vương Bồ Tát là một vị Bồ Tát chuyên cứu độ sinh linh trong Địa
ngục và trẻ con yểu tử. Có khi Địa Tạng cũng là người được xem là chuyên cứu
giúp lữ hành phương xa.
Đó là vị Bồ Tát duy
nhất được diễn tả với Bạch Hào (lông trắng xoáy nằm giữa hai mắt) trên trán, một
trong ba mươi hai tướng tốt của một vị Phật.
Địa Tạng
hay cầm Như ý châu và Tích trượng có sáu vòng, biểu hiện của sự cứu độ chúng
sinh của Bồ Tát trong Lục đạo.
Địa Tạng
được xem là một trong bốn vị Đại Bồ Tát :
Đại Trí
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát,
Đại Hạnh
Phổ Hiền Bồ Tát,
Đại Bi
Quán Thế Âm Bồ Tát,
Đại Nguyện
Địa Tạng Vương Bồ Tát.
Đây là bốn
vị đại Bồ Tát, tượng trưng cho Trí Tuệ, Hạnh Nguyện, Bi Nguyện và Nguyện Lực
trong tinh thần nhập thế của Đại Thừa giáo hải.) Địa Tạng Vương Bồ Tát chuyên cứu độ những người bị sa vào địa ngục.
Đại Bi
Quán Thế Âm Bồ Tát và Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát là hai vị Bồ Tát có ảnh
hưởng sâu rộng nhất trong đời sống , văn hóa tinh thần của người Đông Phương,
người Đông Phương khi còn sống gặp khổ nạn thì cầu mẹ hiền Quán Âm cứu khổ, khi
mất rồi, thì trông cậy vào sự phổ độ của giáo chủ cõi U Minh Địa Tạng Từ Tôn.
Quán Thế
Âm Bồ Tát vì cứu độ chúng sanh mà phải hóa hiện vô lượng vô số hóa thân để ứng
duyên cứu độ.
Địa Tạng
Bồ Tát cũng vậy vì duyên trần cảnh khổ nên Ngài cũng không ngại “trục loại tùy
hình, ứng hiện sắc thân”.
Trong
Kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo quyển thượng có chép: “Địa Tạng Bồ Tát do
tâm đại bi phát đại nguyện lực trong thời quá khứ, cho nên Ngài hiện thân trời
Đại Phạm Vương, hiện thân Đế Thích, hiện thân Thanh Văn, hiện thân Diêm La
Vương, Ngài còn hiện thân Voi, Sư tử, Hổ, Báo, Trâu, Ngựa, cho đến hiện thân La
Sát, Địa Ngục.v.v...vô lượng vô số các thân tướng khác nhau, để giáo hóa chúng
sanh...”. Tất cả chư tướng trang nghiêm tốt đẹp của chư Phật Bồ Tát đều do hạnh
nguyện và bi tâm, cộng với công đức tu hành của quý Ngài mà hình thành.
Bồ tát Địa
Tạng sơ phát nguyện độ sanh cũng vì hiếu hạnh muốn cứu độ cha mẹ thoát khỏi sự
khổ đau, nhưng không dừng ở đó, Ngài lập thệ nguyện độ tận và giải trừ tất cả
những nỗi khổ đau, chẳng những cho cha mẹ mình mà còn cho hết thảy chúng sanh.
Bồ Tát Địa
Tạng thường theo nguyện lực của mình ứng hiện vào thế giới Ta bà bằng vô số
hình tướng khác nhau để tùy duyên hóa độ.
Tuy nhiên
đa phần chúng ta biết đến Ngài qua hình ảnh một vị Tỳ Kheo thân tướng trang
nghiêm, tay phải cầm tích trượng, tay trái cầm hạt minh châu, đầu trần hoặc đội
mũ Tỳ lô, đứng trên hoa sen, hoặc ngồi trên thân con chó trắng tên là Thiện
Thính (Đế Thính) đi khắp nơi tìm chốn thanh tịnh để tĩnh tu.
Hiện tướng
Tỳ Kheo, trong hàm ý muốn độ tận chúng sanh điều trước tiên tự mình phải thoát
khỏi sự ràng buộc của sanh tử, mà muốn như vậy quả vị A La Hán không thể không
chứng đắc.
Tay phải
cầm tích trượng, trên đầu tích trượng có mười hai khoen tượng trưng cho Thập Nhị
Nhân Duyên, tám khoen tượng trưng cho Bát Chánh Đạo, sáu khoen tượng trưng cho
pháp Lục Độ, bốn khoen tượng trưng cho Tứ Thánh Đế.
Nếu một vị
hành Đại Thừa Bồ Tát mà thiếu một trong các pháp này thì khó có thể thành tựu đạo
Bồ Đề.
Tay trái
Bồ tát cầm hạt minh châu biểu thị trí tuệ. Biểu thị Bồ tát ngoài tâm đại bi ra
cần phải cụ túc trí tuệ, vì trí tuệ là ánh sáng quang minh nhất, đủ công đức và
oai lực soi sáng tất cả khắp chốn u minh khiến cho chúng sanh hiện đang bị giam
cầm trong ngục tối trông thấy ánh sáng trí tuệ đều được thoát khỏi khổ đau.
Đức Địa Tạng
đội mão Tỳ lô, biểu thị Bồ tát thể nhập Pháp Giới Tạng Thân, thập phương cụ tướng,
không nơi nào trong pháp giới mà không có hình tướng của Ngài, trong tất cả mười
phương không nơi nào có chúng sanh khổ mà Ngài không đến. Mão Tỳ lô hay còn gọi
là mão Ngũ Phật. Trong Kinh Chư Phật Cảnh Giới Nhiếp Chân Thật Quyển Trung
chép: “Ngũ Phật Bảo Quan còn gọi là mão Ngũ Phật, mão Ngũ Trí, mão Ngũ Bảo
Thiên Quan hay là Mão Quyền Đảnh Bảo Quan, đây là mão báu của Đức Đại Nhựt Như
Lai, Bồ tát Kim Cang Tát Đỏa, Ngài Hư Không Tạng Bồ Tát đội trên đầu, trên
chính giữa mão báu có để hình tượng Ngũ Phương Ngũ Phật dùng để biểu thị đức tướng
của Ngũ Trí viên mãn”.
Bồ tát cỡi
con chó trắng tên là Thiện Thính (Đế Thính), Đế Thính là con linh thú tương
truyền rằng hồn của nó ở trong đất, là linh vật của U Minh Giới nên hiểu được
Tâm chúng sinh, khi nằm mọp xuống đất trong giây lát thì biết rõ tất cả sự vật
trong trời đất. Biểu trưng cho ý niệm “Nhơn Tâm sanh nhất niệm, Thiên Địa tất
giai tri”. Khi lòng người khởi một niệm thì Trời Đất Quỷ Thần đều hay biết. Đây
là chỉ cho Bồ Tát là vị đã nhiếp tâm thanh tịnh, an trụ trong chánh pháp, thành
tựu cảnh giới thiền định, nhiếp phục được tâm mình không còn bị vọng tâm hay
thú tánh vật dục làm cho phiền não. Cho nên, tâm của Ngài thông suốt vạn pháp.
Bởi vì tất vạn pháp đều từ tâm sanh, tâm tịnh thì pháp tịnh, tâm nhiễm thì pháp
nhiễm.
Bồ tát Địa
Tạng ngồi trên lưng con Đế Thính thể hiện Căn Bản Trí của Ngài hiển bày cụ túc
thanh tịnh. Nên có thể nghe được tất cả âm thanh khổ đau trong địa ngục mà phát
tâm tế độ, đúng theo sự phó chúc của đức Phật trong kinh Địa Tạng: “Nếu có
chúng sanh nào sắp đoạ địa ngục khi vừa đến cửa ngục có thể niệm một danh hiệu
Phật hay Bồ tát, thời Ông nên dùng thần lực phá tan địa ngục ấy chớ để cho họ ở
trong địa ngục một phút giây nào cả. Huống là để cho họ phải chịu khổ đau trong
ngàn muôn ức kiếp?”.
Hình tượng
của Bồ tát Địa Tạng còn hiện thân để bảo vệ trẻ em bị ngược đãi, bạo hành trong
gia đình và xã hội. Với những trẻ thơ bất hạnh yểu mạng, Ngài thường đến bên bờ
sông Nại Hà, dòng sông mà tín ngưỡng dân gian Á Đông tin là linh hồn phải đi
qua trước khi vào điện Diêm La nghe Diêm vương phán xét tội hình, an ủi và che
chở các em. Nhiều người tin rằng, những trẻ em yểu mạng, vì thương nhớ cha mẹ
và người thân, linh hồn các em thường ở lại bên bờ Nại Hà nhặt những viên đá cuội
xây lâu đài và thành quách để tưởng đến người thân. Các em rất khổ sở vì nhớ
cha, nhớ mẹ và nhớ anh chị, Bồ tát Địa Tạng thường đến bên các em vỗ về, an ủi
và cùng các em nhặt đá xây thành, giúp các em tích tạo công đức, và đưa các em
qua sông Nại Hà.
Nhiều người
khác lại tin rằng, các em có tội bất hiếu vì khiến cha mẹ và người thân đau buồn,
nên các em bị hình phạt bên bờ Nại Hà, bị qủy dữ hiếp đáp, và Bồ-tát Địa Tạng
thường hiện thân cứu giúp các em, đưa các em qua dòng sông Nại Hà.
Vì tôn thờ
Bồ tát Địa Tạng là vị Bồ tát bảo vệ trẻ em, nên phần lớn tranh tượng của Ngài
thường biểu hiện giống và liên quan đến trẻ thơ. Có tranh tượng, khuôn mặt Ngài
trông giống trẻ em, rất ngây thơ, hồn nhiên. Có tranh tượng, trên tay Ngài bồng
một em bé, dưới chân lại có vài ba em bé khác đang níu kéo Tăng bào và thiền
trượng của Ngài. Và tượng Ngài thường được tôn thờ bên những dòng sông, con suối.
Nguyện lực
của Ngài thật là không có ngôn từ có thể diễn tả cho hết, hình tướng của Bồ Tát
đâu đâu cũng cụ túc hàm ý cũng như bi nguyện, chúng con chỉ có thể dùng hai câu
kệ trong bài tán phật để thể hiện tâm ý cũng như sự kính ngưỡng đối với ngài:
“Xưng dương nhược tán thán, ức kiếp mạc năng tận”. Ngưỡng nguyện Bồ Tát thùy từ
chứng giám.
Nam Mô
Chúng Sanh Độ Tận Phương Chứng Bồ Đề, Địa Ngục Vị Không Thệ Bất Thành Phật, Đại
Bi Đại Nguyện Đại Thánh Đại Từ Bổn Tôn Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét