Thứ Tư, 30 tháng 6, 2021
Ý nghĩa Kinh Hoa Nghiêm
Mở đề Kinh Hoa Nghiêm :
Bộ Kinh Hoa Nghiêm nầy còn gọi là Kinh Pháp Giới, cũng gọi là Kinh Hư Không, tận hư không khắp pháp giới, chẳng có một nơi nào mà chẳng có Kinh Hoa Nghiêm ở đó. Chỗ ở của Kinh Hoa Nghiêm tức cũng là chỗ ở của Phật, cũng là chỗ ở của Pháp, cũng là chỗ ở của Hiền Thánh Tăng. Cho nên khi Phật vừa mới thành chánh giác, thì nói bộ Kinh Hoa Nghiêm nầy, để giáo hoá tất cả pháp thân Ðại Sĩ . Vì bộ Kinh nầy là Kinh vi diệu không thể nghĩ bàn, do đó bộ Kinh nầy được bảo tồn ở dưới Long cung, do Long Vương bảo hộ giữ gìn. Về sau do Ngài Bồ Tát Long Thọ, xuống dưới Long cung đọc thuộc lòng và ghi nhớ bộ Kinh nầy, sau đó lưu truyền trên thế gian.
Bộ Kinh Hoa Nghiêm nầy, cũng như vầng mây cát tường ở trong hư không, chiếu khắp ba ngàn đại thiên thế giới, như mưa pháp cam lồ, thấm nhuần hết thảy tất cả chúng sinh. Bộ Kinh Hoa Nghiêm nầy, cũng như ánh sáng mặt trời, chiếu khắp đại thiên thế giới, khiến cho tất cả chúng sinh đều được ấm áp. Kinh Hoa Nghiêm nầy cũng như đại địa, làm sinh trưởng tất cả vạn vật. Cho nên, có Kinh Hoa Nghiêm tồn tại, thì có thể nói là thời kỳ chánh pháp trụ lâu dài. Mỗi ngày chúng ta giảng giải Kinh Hoa Nghiêm, nghiên cứu Kinh Hoa Nghiêm, quan trọng là phải y chiếu nghĩa lý Kinh điển mà tu hành, phải dùng Kinh để đối trị bệnh tật của thân tâm chúng ta. Tự thân chúng ta có tâm tham, khi nghe được Kinh Hoa Nghiêm, thì nên trừ khử tâm tham; có tâm sân, khi nghe được Kinh Hoa Nghiêm, thì nên trừ khử tâm sân; có tâm ngu si, khi nghe được Kinh Hoa Nghiêm, thì nên trừ khử tâm ngu si.
Ðạo lý của bộ Kinh nầy, là đối trị tập khí mao bệnh của chúng ta. Ðừng cho rằng những gì nói trong Kinh, chỉ vì Bồ Tát mà nói, đối với chúng ta chẳng có quan hệ gì, hoặc là pháp nói cho các bậc A La Hán, đối với chúng ta chẳng có quan hệ gì, chúng ta phàm phu nghe bộ Kinh nầy chỉ là nghe thôi, tự biết làm không được cảnh giới của các bậc Thánh nhân. Nếu bạn nghĩ như thế thì, đó là tự hại mình, tự vứt đi, tự dứt tuyệt nơi Thánh nhân.
Mỗi câu Kinh Hoa Nghiêm đều là Pháp Bảo vô thượng, nếu chúng ta cung hành thực tiễn, y chiếu nghĩa lý Kinh văn tu hành, thì nhất định sẽ thành Phật. Cho nên, Kinh Hoa Nghiêm cũng có thể nói là mẹ của chư Phật. Kinh Hoa Nghiêm là pháp thân của chư Phật. Ðức Phật tán thán Kinh Kim Cang rằng : “Phàm là chỗ nào có Kinh điển thì chỗ đó có Phật”. Chỗ nào có bộ Kinh Hoa Nghiêm nầy thì có Phật tại chỗ đó, bất quá nghiệp chướng của bạn quá sâu nặng, đối diện mà cũng chẳng thấy Phật, do đó có câu :”Ðối diện bất thức Quán Thế Âm” (Ðối diện chẳng nhận ra Bồ Tát Quán Thế Âm). Các bạn thấy vị Bồ Tát Quán Thế Âm nầy, ngàn tay ngàn mắt, luôn luôn phóng ra quang minh vô ngại, chiếu khắp tất cả chúng sinh có duyên trong ba ngàn đại thiên thế giới. Thế mà chúng ta hằng ngày lễ Phật tại đây, niệm Phật, lạy Bồ Tát Quán Âm, niệm Bồ Tát Quán Âm, cũng chẳng thấy Bồ Tát Quán Âm, mà thành ra bắt chước, tức là họ lạy, ta cũng lạy theo, họ niệm ta cũng niệm theo, đó là cảnh giới chuyển theo người, mà chẳng chân chánh trở về trong thâm tâm của mình.
Hằng ngày ta lạy Bồ Tát Quán Thế Âm, niệm Bồ Tát Quán Thế Âm, ta nên làm như thế nào ? Phải chăng ta có nhiều sân hận ? Phải chăng chứng tật cũ ta không sửa đổi ? Như thế thì bạn lạy đến hết thuở vị lai, bạn cũng chẳng thấy được Bồ Tát Quán Thế Âm. Nếu bạn cải ác hướng thiện, chân chánh trừ khử tập khí mao bệnh, sửa lỗi làm con người mới, thì nhất định Bồ Tát Quán Thế Âm sẽ gia bị cho bạn. Cho nên có người tu rất nhiều năm, một chút trí huệ cũng không khai mở, có người tu hành chẳng bao lâu thì khai mở trí huệ, đắc được biện tài vô ngại. Do đó, chúng ta là người xuất gia, phải siêng tu giới định huệ, diệt trừ tham sân si, cử chi hành động đều phải hồi quang phản chiếu, tu hành như thế mới có tiến bộ.
Chúng ta giảng Kinh Hoa Nghiêm, nghe Kinh Hoa Nghiêm, lạy Kinh Hoa Nghiêm, tụng Kinh Hoa Nghiêm, nhưng không y chiếu đạo lý Kinh Hoa Nghiêm mà thực hành thì Kinh là Kinh, bạn là bạn, ta là ta, chẳng có chút nào hợp mà làm một. Chúng ta phải hợp với Kinh điển mà làm một, chiếu theo đạo lý trong Kinh điển mà thực hành, tức là hợp mà làm một; bạn không chiếu theo Kinh điển mà thực hành thì tâm từ bi cũng chẳng đủ, tâm hỷ xả cũng không nhiều, chỉ có vô minh phiền não theo mình, đó là chẳng hiểu được Kinh, cũng chẳng nghe được Kinh. Nghe được Kinh câu nào thì nghĩ xem : ta làm thế nào để thực hành ? Phải chăng ta chạy theo thói hư tật xấu ? Hay là chiếu theo Kinh điển mà tu hành ? Thường thường tự hỏi mình thì chắc chắn sẽ đắc được lợi ích. Tại sao chẳng đắc được lợi ích lớn ? Vì bạn xem Kinh là Kinh, đối với ta chẳng có quan hệ gì. Thật ra, lúc ban đầu đức Phật nói Kinh Hoa Nghiêm cũng vì bạn, tôi và tất cả chúng sinh mà nói, đó là Phật đối với chúng ta mà nói. Chúng ta nghe Kinh văn nầy, cũng như chính tai chúng ta nghe đức Phật nói đạo lý nầy, dạy chúng ta y chiếu theo pháp môn nầy mà tu hành.
Bất cứ pháp gì, cũng đều không ra khỏi tự tánh của mỗi chúng ta. Tự tánh của chúng ta, cũng là tận hư không khắp pháp giới. Cho nên, nếu bạn phóng tâm lượng rộng lớn, thì bạn sẽ hợp với Kinh Hoa Nghiêm mà làm một, song, hai mà chẳng phải hai. Ai ai cũng đều y theo cảnh giới Hoa Nghiêm làm cảnh giới của mình, lấy đạo lý vô lượng vô biên, trí huệ vô lượng vô biên của Kinh Hoa Nghiêm, thu nhiếp làm trí huệ của mình. Bạn xem ! Như vậy rộng lớn biết dường nào !
GIỚI THIỆU KINH HOA NGHIÊM
Hoà Thượng Thích Trí Quảng
I. Lịch sử kinh Hoa Nghiêm
1- Khái niệm về lịch sử kinh Hoa Nghiêm
Về mặt học thuật, chúng ta học lịch sử phần lớn căn cứ vào dữ liệu mà người trước đã ghi lại để đánh giá. Nhưng đứng ở lãnh vực tôn giáo để quan sát, chúng ta lại có nhận thức về lịch sử khác hơn là những điều được các nhà học thuật ghi nhận.
Từ hiểu biết theo học thuật thông thường, tiến lên một bước nữa để hiểu lịch sử Đại thừa Phật giáo theo tinh thần của người tu có niềm tin, có trí tuệ. Và bước sang lịch sử kinh Hoa Nghiêm, chúng ta phải phát Bồ đề tâm. Có thể nói, chúng ta học Đại thừa bằng Bồ đề tâm của chính mình, không học bằng vọng thức, nghĩa là tiếp nhận tinh ba của giáo nghĩa bằng tâm hồn thanh tịnh, không phải chỉ dừng lại ở phân tích, học hiểu theo văn tự, ngữ ngôn.
Kinh Hoa Nghiêm có ba bộ: Bộ thứ nhất gọi là Đại Hoa Nghiêm do Pháp thân Tỳ Lô Giá Na chuyển. Bộ thứ hai là Trung Hoa Nghiêm do Báo thân Lô Xá Na chuyển và bộ thứ ba do -ng thân Thích Ca Mâu Ni Phật thuyết.
Như vậy, kinh Hoa Nghiêm có cái nhìn về Đức Phật khác hơn các hệ tư tưởng khác và đương nhiên cũng khác với lịch sử thông thường mà chúng ta học.
Cả ba bộ kinh này đều ở cung rồng Ta Kiệt La. Nhưng hai bộ đại kinh và trung kinh quá đồ sộ, không thể mang về, nên ngài Long Thọ Bồ tát chỉ thỉnh được bộ Tiểu Hoa Nghiêm gồm có 100.000 bài kệ. Và mang về nhân gian, Ngài lọc lại, chỉ còn một nửa là 45.000 bài kệ.
Bộ Tiểu Hoa Nghiêm mà ngài Long Thọ đem về, rồi truyền sang Trung Hoa, được dịch ra tiếng Trung Hoa, còn lại ngày nay hai bộ. Bộ Hoa Nghiêm 60 quyển do ngài Giác Hiền dịch đời Tấn và bộ 80 quyển dịch ở đời Đường, dưới sự bảo trợ của Tắc Thiên hoàng đế, quen gọi là Võ hậu.
Bộ kinh Hoa Nghiêm mà chúng ta tu học chủ yếu nương theo bộ kinh đời Đường. Kinh Hoa Nghiêm do Báo thân viên mãn Lô Xá Na và kinh do Pháp thân Tỳ Lô Giá Na Phật chuyển thì chúng ta không thấy được Báo thân và Pháp thân Phật, nên không thể nghe, không thể đọc và không hiểu được.
Điều này gợi cho chúng ta ý thức rằng khi học Phật pháp, nhất là học Đại thừa, đòi hỏi quá trình thiết thân thể nghiệm pháp trong cuộc sống.
Hiểu kinh Hoa Nghiêm là từ văn tự đi vào tư duy, vào thiền định, phát sinh được trí tuệ và dùng trí tuệ quán sát mọi sự, mọi vật. Nói cách khác, kinh Hoa Nghiêm dẫn chúng ta vào pháp giới hay nhìn thế giới chân thật. Và biết được việc ở dạng chân thật, thì ta không còn lỗi lầm trên sinh hoạt hiện tượng của cuộc đời. Kinh Hoa Nghiêm muốn dạy ta cốt lõi ấy.
Theo phán giáo của ngài Trí Giả, Đức Phật nói kinh Hoa Nghiêm 21 ngày. Chỉ có 21 ngày ngắn ngủi, làm sao Phật nói được vô lượng bài kệ gọi là vi trần? Trong khi các bộ kinh khác, Đức Phật nói trong thời gian dài hơn mà lại không nhiều.
Phật nói Hoa Nghiêm 21 ngày trong thiền định. 21 ngày của cuộc sống vật chất theo đời thường tất nhiên quá ngắn ngủi. Nhưng 21 ngày tư duy thiền định thiết nghĩ thật lớn lao không thể tính được. Ai không hành đạo, không công phu tu tập không thể nào biết được điều này.
Một niệm tâm trong thiền định, Bồ tát cứu độ được vô số chúng sanh. Ngài Thiên Thai chứng được 3.000 pháp biến dịch trong một niệm tâm. Và 3.000 pháp này tác động lẫn nhau, tạo thành trùng trùng duyên khởi theo Hoa Nghiêm.
21 ngày Phật tư duy dưới cội bồ đề lại càng lớn không thể tưởng, vì hoạt động dưới dạng Pháp thân, trở thành đại tự nhiên. Tư duy bằng vọng niệm chẳng là bao. Nhưng tư duy dưới cội bồ đề nghĩa là ở dạng bản thể của sự vật, ở chơn như tâm thì Phật, chúng sanh và tâm, tuy ba nhưng thông làm một.
Từ bồ đề đạo tràng, Phật thuyết kinh Hoa Nghiêm 21 ngày, nhưng thuyết được tất cả. Thuyết tất cả, nghĩa là thuyết những gì xảy ra từ khi Ngài phát tâm Bồ đề và giáo hóa chúng sanh cho đến ngày thành Phật. Và hiện giờ, Ngài đang tiếp tục giáo hóa. Tất cả mọi người trên khắp năm châu bốn biển vẫn đang tiếp tục học pháp với Tỳ Lô Giá Na Phật, là ý nghĩa quan trọng nhất của lịch sử kinh Hoa Nghiêm theo tinh thần Đại thừa.
Thật vậy, Đức Phật vẫn còn giáo hóa và hộ niệm cho chúng ta, nên chúng ta mới tu học được. Nếu không có lực gia trì đó, Phật pháp không thể tồn tại đến ngày nay.
Thái độ của người học Phật giáo Đại thừa nói chung và lịch sử kinh Hoa Nghiêm nói riêng, là phải thấy cái bao la vô cùng tận, còn cái chúng ta hiểu được giống như con muỗi uống nước biển. Tôi thấm thía ý này trong kinh Pháp Hoa dạy rằng khi nào tu tròn hạnh Bồ tát, thành Phật mới hiểu được Phật. Vì vậy, cho rằng học hết giáo lý là xong, quả là sai lầm lớn.
Trên tinh thần bao la vô tận của Phật pháp, chúng ta phải nhận ra thọ mạng Phật pháp tồn tại thường hằng miên viễn ở dạng Pháp thân vĩnh hằng bất tử. Đức Phật chỉ phương tiện hiện Niết bàn, nhưng kỳ thực Ngài vẫn hiện hữu ở khắp mọi nơi, ở bên cạnh chúng ta trong từng niệm tâm vậy.
2- Lịch sử truyền thừa và phát triển kinh Hoa Nghiêm
Kinh Hoa Nghiêm phát xuất từ Ấn Độ, nhưng được phát triển mạnh ở Trung Quốc, Nhật Bản. Thật vậy, theo sự nghiên cứu, kinh Hoa Nghiêm chỉ còn tìm thấy rải rác trong vài tác phẩm ở Ấn Độ. Đó là bộ Đại Trí Độ luận của ngài Long Thọ có dẫn dụng kinh Hoa Nghiêm và những tác phẩm chú sớ như Thập Trụ Tỳ Bà Sa luận, hoặc Thập địa kinh luận giải thích về hai phẩm: Thập trụ, Thập địa của kinh. Như vậy, chỉ có một phần nhỏ của kinh được truyền thừa. Còn toàn bộ kinh Hoa Nghiêm không có.
Tuy nhiên về sau, kinh Hoa Nghiêm được truyền sang Trung Quốc có 3 bộ, nhưng đều phát xuất từ nước Vu Điền của Trung Á (ngày nay thuộc khu tự trị của Trung Quốc).
Kinh Hoa Nghiêm mang về Trường An, đến đời Tấn thì ngài Phật Đà Bạt Đà La (Giác Hiền) là người đầu tiên dịch sang tiếng Trung Quốc bộ lục thập Hoa Nghiêm, gồm có 60 quyển, thường gọi là bộ cựu dịch.
Cách 200 năm sau, đến đời Đường, ngài Thập Sa Nan Đà dịch, chia thành 80 quyển, gọi là bát thập Hoa Nghiêm hay bộ tân dịch.
Và cũng ở đời Đường, ngài Bát Nhã dịch riêng phẩm Nhập pháp giới, gọi là tứ thập Hoa Nghiêm, gồm 40 quyển.
Kinh Hoa Nghiêm phát triển mạnh ở Trung Quốc, tiến đến thành lập tông Hoa Nghiêm. Sơ tổ của tông này là ngài Đỗ Thuận (557-640), nhưng đến ngài Trí Nghiêm (602-668) là Nhị tổ mới chính thức thành lập tông Hoa Nghiêm.
Và Tổ thứ ba của tông này rất nổi tiếng, đó là ngài Pháp Tạng (Hiền Thủ, 643-712). Phải nói là đến thời của ngài Pháp Tạng mới luận giải kinh Hoa Nghiêm và giảng kinh này cho Tắc Thiên hoàng hậu.
Ngài Đỗ Thuận và Trí Nghiêm cùng giảng giải kinh theo bộ lục thập Hoa Nghiêm. Nhưng ngài Đỗ Thuận chịu ảnh hưởng của hệ Bát Nhã, vì lúc ấy pháp tánh học thịnh hành. Còn ngài Trí Nghiêm chịu ảnh hưởng của Duy thức, tức pháp tướng học do ngài Huyền Trang xương minh và theo đó mà phát triển Hoa Nghiêm.
Ngài Pháp Tạng lý giải theo bộ bát thập Hoa Nghiêm. Ngài giảng giải đầy đủ hơn, vì đã tổng hợp được hai hệ tư tưởng Bát Nhã và Duy Thức của Sơ tổ và Nhị tổ, kết hợp thành bộ Hoa Nghiêm sớ. Đây là cốt lõi của tông Hoa Nghiêm, làm cho Phật pháp thịnh hành ở thời này.
Hai vị Đỗ Thuận và Trí Nghiêm đều là người Hán. Riêng ngài Pháp Tạng sanh ở Trung Quốc mà gốc người Trung Á. Vì vậy, Ngài thừa hưởng được tư tưởng triết học Êẽn Độ và văn minh Trung Quốc; đồng thời tổng hợp được tinh ba của hai luồng tư tưởng vĩ đại này, tạo thành nét đặc thù nổi bật của tông Hoa Nghiêm, khiến cho giới trí thức đời Đường bấy giờ phải thán phục.
Có thể nói tông Hoa Nghiêm phát triển mạnh ở Trung Quốc vì tư tưởng kinh Hoa Nghiêm thích hợp với người Trung Quốc. Trước khi kinh này được truyền sang, tư tưởng Lão Trang thịnh hành ở Trung Quốc, có cái nhìn về vũ trụ gần giống với tinh thần Hoa Nghiêm, nên người trí thức đương thời dễ tiếp thu được tư tưởng Hoa Nghiêm.
Tuy nhiên, cần khẳng định rằng, kinh Hoa Nghiêm phát triển được là nhờ các vị cao đức thông suốt được áo nghĩa Hoa Nghiêm và biết kết hợp với tinh thần Lão Trang để triển khai thành tư tưởng chỉ đạo của tông Hoa Nghiêm.
Tư tưởng Lão Trang quan niệm mọi sinh hoạt của vũ trụ vận hành theo lý "Tự nhiên", tự nhiên là "Vô", và tính chất của "Vô" là bản thể của vũ trụ. Và theo Trang tử: "Đạo không chỗ nào không có, ở chỗ con kiến, con dế, ở chỗ cỏ Đế, cỏ Bại, ở chỗ gạch ngói, ở chỗ phân tiểu...".
Người trí thức chịu ảnh hưởng Lão Trang có thể thấy vấn đề nói trên của họ sáng hơn khi tiếp thu tư tưởng Hoa Nghiêm do các vị cao tăng lý giải; theo đó, mọi sự, mọi vật đều bình đẳng, trong tốt có xấu, trong xấu có tốt. Tất cả sinh hoạt tương quan tương duyên chằng chịt trong pháp giới.
Người chứng đạo thấy rõ sự tác động của mối tương quan sâu xa ấy, mà thuật ngữ gọi là lý sự vô ngại pháp giới, thì sẽ hóa giải được tất cả. Còn chướng ngại, vướng mắc, không dung thông thì trở thành đối nghịch, đối đầu, từ đó phiền não trùng trùng duyên khởi.
Thực chất của sự hành trì theo yếu nghĩa Hoa Nghiêm là thiện ác đều do chính ta tạo nên, kinh gọi là muôn pháp duy tâm tạp. Liễu ngộ Hoa Nghiêm thì tất cả viên dung vô ngại vì mọi loài trong pháp giới cho đến con ong, cái kiến, cỏ cây, hoa lá đều là pháp âm của Tỳ Lô Giá Na Phật.
Kinh Hoa Nghiêm chuyên chở một tư tưởng quá lớn lao, người bình thường không tiếp thu nổi, không hiểu thì làm sao ứng dụng được. Vì thế, dù là tư tưởng siêu tuyệt như vậy, vẫn bị mai một.
Phải có những bậc danh đức ngộ đạo hiện hữu, như ngài Đỗ Thuận, Trí Nghiêm, Pháp Tạng nắm trọn được tinh yếu của Hoa Nghiêm và lý giải cũng như thể hiện trong cuộc sống, mới có thể phát triển tư tưởng này sáng chói lên. Nhưng về sau, không có người thừa kế đủ khả năng tiếp nối đạo nghiệp, nên ngọn đèn Hoa Nghiêm cũng phải tàn lụn.
Tiếp theo, kinh Hoa Nghiêm được một nhà sư Trung Hoa mang sang Nhật Bản, nhưng không thuyết giảng. Đến đời Thánh Vũ thiên hoàng, ngài Thẩm Tường là nhà sư Triều Tiên sang Nhật Bản, kinh này mới được Ngài giảng giải và tông Hoa Nghiêm ra đời ở Nhật.
Đặc biệt là nhờ công đức thuyết pháp của ngài Thẩm Tường khiến cho Thánh Vũ thiên hoàng phát tâm xây dựng ở Nara tượng Tỳ Lô Giá Na bằng đồng lớn nhất thế giới. Có điều kỳ lạ cần nhắc lại, theo truyền thuyết, người ta chỉ đúc được pho tượng này tới cổ, vì phần đầu của tượng quá lớn, đường kính của mặt tượng Tỳ Lô Giá Na rộng đến 5 thước, nên rót đồng vô chảy xuống đến cổ là bị rã.
Sau đó, nhà sư Phật Triết từ Giao Châu, Việt Nam, đóng bè tre sang Nhật Bản. Ngài Hạnh Cơ Bồ tát ra đón ngài Phật Triết ở bờ biển về để chỉ dạy phương cách đúc tượng.
Pho tượng được hoàn thành một cách hoàn hảo, nên Thánh Vũ thiên hoàng thỉnh ngài Phật Triết về chủ lễ điểm nhãn tượng. Và Ngài soạn ra nghi thức cúng dường khai quang, còn truyền tụng đến ngày nay.
Như đã nói, tư tưởng Hoa Nghiêm quá trác tuyệt, khó tiếp thu. Vì vậy, công đức hoằng truyền kinh Hoa Nghiêm mà ngài Thẩm Tường đã tu tạo, không có người tiếp nối đạo mạch. Những gì tiêu biểu còn lưu lại dấu vết như tông Hoa Nghiêm, chùa Đông Đại và tượng Tỳ Lô Giá Na, thì ngày nay chỉ còn hiện hữu như một kỷ niệm mà thôi.
Tóm lại, kinh Hoa Nghiêm phát xuất từ Ấn Độ, nhưng vì quá cao siêu nên hiếm người tiếp thu được và tất nhiên việc phát triển càng khó hơn nữa. Phải đợi đến khi truyền sang Trung Quốc hay Nhật Bản và gặp được những vị vua chúa có phước báo và quyền thế phát tâm mới đủ điều kiện hỗ trợ cho công việc phiên dịch, truyền bá kinh, cũng như xây dựng chùa chiền, đúc tượng được thành công.
Riêng ở Việt Nam, Phật giáo đương nhiên cũng có phần ảnh hưởng tinh thần Hoa Nghiêm. Một số vị cao tăng cũng thọ trì kinh này, ứng dụng được phần nào tinh ba của kinh trong cuộc sống. Tuy nhiên, nói chung, bộ kinh này không phát triển mạnh được ở Việt Nam.
II. Nội dung kinh Hoa Nghiêm
Theo phán giáo của Thiên Thai Trí Giả đại sư, sau khi Đức Phật thành đạo, Ngài thuyết kinh Hoa Nghiêm trong 21 ngày và sau đó Ngài đến Lộc Uyển độ 5 anh em Kiều Trần Như, bắt đầu lập giáo khai tông. Trên đường hoằng truyền chánh pháp, Đức Phật giảng kinh Phương Đẳng, Bát Nhã, Pháp Hoa, Niết Bàn.
Cách phán giáo của Trí Giả đại sư được Phật giáo Đại thừa tán đồng. Phật giáo Nguyên thủy cũng ghi nhận giống ở điểm sau khi thành đạo, Đức Phật ngồi tư duy ở Bồ đề đạo tràng trong 21 ngày. Theo kiến giải của Phật giáo Đại thừa, trong 21 ngày tư duy ấy, Ngài thuyết kinh Hoa Nghiêm trong thiền định.
Thiết lập pháp hội Hoa Nghiêm với hội chúng, hội trường có điểm khác lạ. Theo kinh Hoa Nghiêm lục thập quyển thì có 8 hội, nhưng kinh Hoa Nghiêm bát thập quyển ghi nhận có 9 hội. Đến phần kết của hội Hoa Nghiêm vẫn có mặt Xá Lợi Phật, Mục Kiền Liên, A Nan, nhưng các Ngài không nghe được. Ý này được kinh diễn tả rằng chúng Thanh văn như người mù, người điếc dự hội.
Vì khó hiểu như vậy, một số người cho rằng kinh Hoa Nghiêm có tính cách giả tưởng. Ngày nay, chúng ta có thể hiểu ý này qua thực tế như vấn đề trình bày trong cuộc hội thảo dành cho các nhà bác học thì người có trình độ đại học trở xuống có tham dự cũng không thể nào hiểu được.
Pháp Phật nói cho Bồ tát, hàng nhị thừa không thể biết, huống chi là phàm phu. Cần hiểu rằng không riêng gì Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên... mà kể cả chúng ta cũng hiện diện trong hội Hoa Nghiêm, nhưng không thấy, không nghe vì bị ngũ ấm ngăn che, vướng mắc sắc ấm. Đức Phật nói kinh Hoa Nghiêm trong thiền định, dùng tâm chuyển vật. Chúng ta chưa thấy tâm, làm sao thấy được sự chuyển vật.
Tinh thần Đại thừa đặt nền tảng trên sinh hoạt của tâm là chính. Nếu tâm thực sự tốt sẽ kết thành quả tốt, dù cho hành động bề ngoài không tốt. Sức mạnh phi thường của tâm chi phối, khiến việc thành tựu, không cần phải cử thân động niệm, kinh gọi là vô tác diệu lực. Đó là ý chính mà kinh Hoa Nghiêm muốn đề cập đến.
Khi Đức Phật đắc quả Vô thượng giác ở Bồ đề đạo tràng, không còn lệ thuộc ngũ ấm thân, Ngài phát hiện ra con người thật bên trong là chơn tâm hay Tỳ Lô Giá Na Pháp thân và thấy Bồ tát vi trần. Phật pháp thân ấy nói với các vị Bồ tát trong thiền định, không phải là người bằng xương bằng thịt nói và cũng không nói cho người nhân gian. Vì vậy, người nhân gian làm thế nào biết được và tạng kinh Hoa Nghiêm phải đợi đến Long Thọ Bồ tát kiết tập.
Đến pháp hội thứ hai, đi vào thế giới Quang Minh điện của Phật, nghĩa là ánh quang Phật thuyết pháp. Ánh quang này chiếu đến Trời Phạm Thiên, nên vị Đại Phạm Thiên vương xuống Bồ đề đạo tràng thỉnh Phật thuyết pháp.
Ở pháp hội một, thuyết trong thiền định dành cho người trụ định mới nghe được. Đến pháp hội thứ hai, Phật thuyết bằng ánh quang, đòi hỏi người có trí tuệ, nghe bằng Bồ đề tâm, huệ giải thoát mới thâm nhập được. Lúc ấy, người tu ngộ đạo nhìn sông núi, cá chim đều là Phật thuyết pháp.
Sau đó, Phật thuyết ở Trời Đao Lợi, đến Dạ Ma thiên, Đâu Suất thiên, Tha Hóa Tự Tại. Đến đây, Ngài giảng thập hồi hướng, thập địa nhằm chỉ cho biết đối tượng của pháp cao sâu này phải là Bồ tát, là người có đầy đủ phương tiện giáo hóa chúng sanh.
Bồ tát pháp trong kinh Hoa Nghiêm rất cao sâu. Hàng thấp nhất là Bồ tát sơ địa cũng phải có khả năng làm vua một cõi, tức tiểu vương mới có thể hành đạo tự tại. Bồ tát nhị địa phải là Chuyển luân Thánh vương cai quản bốn phương thiên hạ, ai nghe đến danh cũng phải kính nể. Bồ tát đệ tam địa phải làm vua Trời Đao Lợi, cai quản 33 tầng trời. Cứ như vậy lần lên cõi Trời Dục cao nhất là Tha Hóa Tự Tại.
Đức Phật giảng cho các vị trời, đồng nghĩa với nhắc nhở những người có phước báo, quyền uy ở trần gian nên phát tâm làm Phật sự, dễ tu tạo công đức lớn lao. Nếu không, hưởng hết phước rồi đọa, lúc đó không còn điều kiện tạo công đức, như vua Tần Bà Sa La bị A Xà Thế nhốt vô ngục rồi mới phát tâm.
Từ cõi Trời Tha Hóa Tự Tại, Đức Phật trở lại Phổ Quang đường thuyết thập nhẫn, thập định. Cuối cùng, Ngài trở lại thực tế cuộc sống ở rừng Thệ Đa nói phẩm Nhập pháp giới.
III. Quan niệm về đạo Phật theo kinh Hoa Nghiêm
Kinh Pháp Hoa và Hoa Nghiêm là hai bộ kinh nòng cốt của Phật giáo Đại thừa. Kinh Pháp Hoa đặt nặng về pháp, trong khi kinh Hoa Nghiêm triển khai về Phật là vị có đầy đủ tư cách để tuyên thuyết diệu pháp.
Quan niệm về Đức Phật theo kinh Hoa Nghiêm tất nhiên cũng khởi đầu từ Phật nguyên thủy là Đức Thích Ca. Ngài cũng mang thân tứ đại giống như chúng ta và trải qua quá trình tu hành, đắc quả Vô thượng Bồ đề.
Quan điểm cho rằng Phật là người giống như ta và tiến tu thành bậc Chánh giác, được xét lại trong thời Phật giáo Phát triển. Vì câu hỏi được đặt ra là tại sao người đều giống nhau, nhưng chỉ duy nhất có Phật thành tựu quả vị toàn giác, còn những vị tu hành khác thì có người thành Tổ, có người làm trụ trì hoặc người chẳng đạt được quả vị nào.
Từ đó, Phật giáo Phát triển bắt đầu mở tầm nhìn về chiều sâu, nhìn bên trong cái thực của con người, tức chân linh, để định giá trị khác nhau của mỗi người. Theo tinh thần ấy, kinh Bổn Sanh, Bổn Sự được hình thành, nói về vô số tiền kiếp của Phật đã xả thân hành Bồ tát đạo. Thân xác giống như chiếc áo mặc cho chân linh. Đó là quan niệm mới của Phật giáo Phát triển bắt đầu quán sát người ở hai mặt: mặt bề ngoài là sanh thân hay thân mạng hữu hình và thân mạng vô hình bên trong là Báo thân.
Theo Đại thừa, Báo thân là phước đức, trí tuệ của Phật. Ngài giáo hóa thành tựu dễ dàng vì lời nói, hành động, việc làm đều phát xuất từ trí tuệ siêu tuyệt và đạo đức hoàn toàn thánh thiện.
Như vậy, Đại thừa nhìn Phật qua tri thức và đức hạnh của Ngài và triển khai Báo thân. Suy nghĩ về Báo thân, nương Báo thân Phật tu hành nhằm mục tiêu phát triển Báo thân của chính mình. Nói cách khác, trên bước đường tu, chúng ta xem Phật, Tổ, Bồ tát làm gì, ta cũng làm vậy để nuôi lớn Báo thân của riêng mình.
Đức Phật dạy rằng ai cũng có thể thành Phật nếu tu tập cho đầy đủ tâm đại bi, viên mãn hạnh Bồ tát. Vô lượng kiếp qua khứ, Phật, Hiền Thánh đều trải thân hành Bồ tát đạo, làm lợi ích chúng hữu tình, mới đạt đến Vô thượng Đẳng giác. Ngày nay, muốn thành tựu quả vị như Phật, chúng ta cũng phải phát tâm Bồ đề, dấn thân tu Bồ tát đạo. Đó là tư tưởng nòng cốt của Phật giáo Đại thừa.
Tiến đến đỉnh cao của hệ tư tưởng này là kinh Hoa Nghiêm. Kinh Hoa Nghiêm giới thiệu Đức Phật và cách tu thế nào để thành Phật, tức Bồ tát pháp.
Tinh thần Hoa Nghiêm cho chúng ta ý niệm về Đức Phật hoàn toàn mới, khác hẳn các bộ kinh Đại thừa khác. Đức Phật không bị giới hạn trong một loại hình cố định nào.
Thật vậy, Hoa Nghiêm mở ra cho chúng ta tầm nhìn phóng khoáng, theo đó không có gì không phải là Phật, đó mới là Đức Phật chân thật. Phật này là Phật huệ, nên trí tuệ Phật hiện vô thân đồng nữ thì đồng nữ đó là Phật, hiện trong thân trưởng lão thì trưởng lão là Phật.
Tư tưởng đặc biệt của Hoa Nghiêm về sự hiện hữu vĩnh hằng của một Đức Phật toàn diện đòi hỏi chúng ta phải đạt đến trình độ nhất định nào đó mới có thể hiểu, sống và hành đạo như vậy.
Đứng trên lập trường bao quát, thấy Phật là tất cả, là pháp giới, được kinh Hoa Nghiêm tiêu biểu qua hình ảnh Phật với 10 loại thân: Ngũ ấm thân, Quốc độ thân, Chúng sanh thân, Thanh văn thân, Duyên giác thân, Bồ tát thân, Như Lai thân, Trí thân, Pháp thân, Hư không thân. Hay có thể nói 10 loại hình này là diễn tiến sự sống từ thấp nhất tiến đến quả vị Phật và từ Phật giới chi phối ngược xuống toàn bộ các loài hữu tình, vô tình.
Theo Hoa Nghiêm, trước tiên lấy ngũ ấm làm căn bản, vì tất cả muôn vật đều phát xuất từ ngũ ấm: sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Đức Phật cũng hiện hữu từ ngũ ấm, nhưng Ngài tiến đến quả vị toàn giác vì Ngài không bị ngũ ấm chi phối. Trong khi chúng sanh cũng mang thân ngũ ấm, nhưng do bị ràng buộc triệt để, nên luôn gánh chịu khổ đau sanh tử.
Đức Phật khẳng định rằng ngũ ấm cấu tạo nên con người và con người bị lệ thuộc nó. Chính vì còn kẹt vào thân vật chất, tức sắc uẩn, nên chúng ta còn bị 4 thứ: đói, khát, nóng, lạnh hành hạ. Hương vị giải thoát đầu tiên của người đắc được sơ quả là xa lìa được đói khát, nóng lạnh. Vì vậy, chúng ta thấy các Thiền sư trong lúc nhập định không cần ăn uống, ngủ nghỉ mà không cảm giác đói khát, mệt mỏi, vì họ đang sống với chân linh, vượt ngoài sự chi phối của thân xác.
Thân của Đức Phật khởi đầu cũng phát xuất từ thân ngũ ấm như chúng ta và Ngài cũng sử dụng nó. Nhưng chính yếu là Phật điều khiển được thân hoàn toàn theo mục tiêu mà Ngài đặt ra.
Đối với Phật, Ngài mang thân ngũ ấm trang nghiêm bằng 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp, thành Vô thượng Đẳng giác để giáo hóa chúng sanh. Khi việc đáng làm đã làm, người đáng độ đã độ, Ngài rời bỏ thân một cách nhẹ nhàng. Đức Phật khác hơn chúng sanh là như vậy.
Chúng sanh thì bị thân ngũ uẩn dày xéo, hành hạ, sống khổ với thân, chết cũng không yên với nó. Đức Phật thì tự tại hoàn toàn vì biến đổi được ngũ uẩn thành Pháp thân mà kinh diễn tả là: "Nhược năng chuyển vật tức đồng Như Lai".
Đức Phật sử dụng, biến ngũ uẩn thành ngũ phần Pháp thân, nên ngũ uẩn được kinh Hoa Nghiêm coi là một trong 10 thân Phật Tỳ Lô Giá Na.
Từ ngũ uẩn làm gốc, nảy sinh ra sự sống, hiện thân thứ hai là quốc độ thân, chỉ cho sơn hà đại địa. Nói chung, sự sống đơn bào tiến lên đa bào, phát triển lần đến các sinh vật hữu tình và vô tình.
Theo tinh thần Hoa Nghiêm, nhìn sông núi hùng vĩ, ngắm dòng suối chảy, nụ hoa mơn mởn, cá bơi chim liệng hay thấy tượng Phật trang nghiêm, cảnh chùa thanh tịnh, khiến ta phát tâm, đó là vô tình thuyết pháp.
Nói cách khác, thân Tỳ Lô Giá Na đã tác động vào cảnh quan, tạo thành lực hấp dẫn đưa ta đến với Phật đạo. Trong kinh thường diễn tả quá trình hành Bồ tát đạo, Phật hiện thân trong tất cả các loài, không riêng gì loài người, Ngài đã từng làm nai, chim, sư tử... Vì vậy, trong vũ trụ, cỏ cây hoa lá cho đến động vật đều có Tỳ Lô Giá Na ảnh hưởng đến và trong các hữu tình chúng sanh thuộc tứ sanh lục đạo cũng chịu lực chi phối của Tỳ Lô Giá Na để tồn tại.
Như vậy, loại thân hình thứ hai của thân Phật Tỳ Lô Giá na là trải thân ra làm đất đai, làm cây cỏ, làm núi sông để che chở, nuôi sống, dung nhiếp muôn loài.
Không loài nào mà tâm đại bi Phật không tác động đến, thể hiện sự hiện hữu loại thân thứ ba của Phật gọi là chúng sanh thân.
Dưới mắt người hành đạo theo tinh thần Hoa Nghiêm, con ong, cái kiến cho đến cọng cỏ, bụi gai, không cái gì mà không dễ thương, không phải là Phật. Ngược lại, mọi sự vật trên cuộc đời đều chướng tai gai mắt với phàm phu, ràng buộc làm họ khổ đau.
Trên tinh thần tất cả đều đẹp, người thật dạ tu hành ở bên phiến đá, cạnh dòng suối trong núi rừng, nhưng có cảm nghĩ nơi đó hiện diện ba đời mười phương Phật, nên họ dễ dàng tiến tu giải thoát. Nhưng khởi vọng tâm đòi hỏi phải ở chỗ này mới tu được, ở chỗ kia buồn khổ, thì không thể nào sống trong thiền môn.
Bước theo lộ trình Hoa Nghiêm, chúng ta cũng tập sống theo tinh thần rộng lớn như vậy, tập làm những việc bao dung, giúp đỡ người phát triển. Đó là con đường đưa chúng ta đến quả vị toàn giác trong tương lai.
Từ trong chúng sanh thân, nhận ra cuộc đời không bền chắc, nên khởi tâm đi tìm hằng hữu. Từ bỏ đời sống thế nhân, đi theo lộ trình Phật đạo, mang thân tu sĩ trắc nghiệm 37 phẩm trợ đạo giữa lòng cuộc đời, được coi như là Pháp thân của Đức Phật hay Thanh văn thân là một phần trong tổng thân của Phật Thích Ca.
Kế đến là hàng Duyên giác thuộc tầng lớp trí thức, tinh thần rất bén nhạy. Họ quán nhân duyên để thấy được mối quan hệ giữa mọi người với nhau trong xã hội. Và theo lời Phật dạy, người nào thấy nhân duyên thì thấy được pháp chân thật, đó là điều tiên quyết để tiến đến quả vị toàn giác.
Vì vậy, hàng Duyên giác hay Bích chi Phật ẩn tu, thâm nhập thiền định, nhận chân được mối quan hệ của chúng sanh trong tứ sanh lục đạo và hành xử theo đúng với lý nhân duyên ấy, thì họ vẫn được coi là một hiện thân của Phật trên cuộc đời.
Thanh văn tu hành tập thể và Duyên giác hay Độc giác ẩn tu quán sát các pháp. Tổng hợp hai cách tu này, chúng ta có mẫu người thứ ba vừa có đạo đức, vừa có tri thức, đi vào đời độ sanh gọi là Bồ tát.
Bồ tát hay bậc giác hữu tình, tức người đem ánh sáng giác ngộ đến các loài hữu tình. Họ phát tâm Bồ đề, khởi niệm thương chúng sanh và đến giúp đỡ, cũng là do Phật lực chi phối đến.
Trên tinh thần hành đạo cứu đời vì tiếp nhận được lực Tỳ Lô Giá Na, nên Bồ tát thân cũng là thân của Phật.
Khi người tu tròn đủ hạnh Bồ tát và tâm đại bi thì đạt quả vị Phật, tức Như Lai thân. Với thân Như Lai, không còn phải dấn thân vào đời để cứu độ như Bồ tát, không phải ẩn tu như hàng Duyên giác, cũng không cần sống trong tập thể để trao đổi sách tấn nhau tu hành như Thanh văn.
Vì Như Lai thân không từ đâu tới và cũng không đi về đâu. Chính thân đó tác động đến các loài chúng sanh và giáo hóa được tất cả mà không cần cử thân động niệm.
Từ ngũ ấm thân, trải qua quá trình tu hành tiến lên quốc độ thân, chúng sanh thân, Thanh văn, Duyên giác, Bồ tát thân và Như Lai thân là thân thứ 7.
Bấy giờ, ở quả vị Như Lai, không cần làm như trước nữa, nhưng các loài hữu tình chúng sanh tự phát tâm tu và tự giải thoát. Đó là đặc biệt của sự giáo hóa bằng Như Lai thân, không cần cứu độ mà mọi loài được nương nhờ, tự tôn kính, quy ngưỡng Phật.
Trên bước đường tu, sử dụng thân của từng giai đoạn tu khác nhau, thành đạt đến vị trí Như Lai. Lúc ấy, như như bất động mà vẫn hóa độ được chúng sanh, nên hoạt động chính của Như Lai không phải bằng thân xác vật chất, bằng ngôn ngữ bình thường, nhưng bằng trí tuệ, nên gọi là trí thân (thân thứ 8).
Dùng trí thân, tức dùng trí tuệ Như Lai tác động chúng sanh, khiến họ phát tâm Bồ đề. Chúng sanh chịu sự chi phối của trí thân gồm cả hữu tình và vô tình chúng sanh, tức nhứt thiết pháp. Tất cả pháp không có pháp nào mà trí tuệ Như Lai không chiếu tới.
Trí Như Lai chiếu tới đâu thì biến các pháp ấy thành Pháp thân của Đức Phật. Đó là điểm then chốt của kinh Hoa Nghiêm quan niệm về Đức Phật. Trí tuệ Phật chiếu vào một tu sĩ hay cư sĩ, tác động họ phát tâm, chiếu vào tất cả sự vật thì làm vật đó biến chuyển thành pháp của Phật.
Ví dụ trí tuệ Như Lai tác động vào chúng ta, khiến chúng ta phát nguyện đi theo Phật đạo và cũng tác động qua các pháp, biến gạch ngói, đất đá thành chùa chiền. Tu sĩ, tín đồ, chùa, cảnh vật, pháp khí hiện hữu để Phật pháp tồn tại, phát triển, thì tất cả đều là Pháp thân của Đức Phật (thân thứ 9).
Quang cảnh thiền môn tuy không phát ra âm thanh, nhưng tác động cho người hình dung ra Phật, liên tưởng đến cách sống của Ngài và họ phát tâm tu theo, tức Pháp thân của Phật đã thuyết pháp.
Như vậy, Pháp thân Phật theo tinh thần Hoa Nghiêm được triển khai rộng hơn ý niệm Pháp thân của Phật giáo Nguyên thủy chỉ hạn hẹp trong giáo pháp Phật còn lưu lại.
Kinh Hoa Nghiêm quan niệm tất cả pháp, kể cả sơn hà đại địa đều nhận lực chi phối của huệ Như Lai, đều là Pháp thân Phật. Từ căn bản ấy, tất cả mọi sự vật trên cuộc đời đều biến thành Phật pháp nếu có huệ Như Lai rọi vào. Một miếng gỗ, cục đá hay đồng chì đều biến thành Phật khi người tạo ra nó, hoặc chiêm ngưỡng, kính lễ nhận được huệ Như Lai, có ý niệm về Phật.
Trái lại, không có huệ Như Lai đầu tư vào, thì đất đá vẫn là đất đá. Triển khai mạnh về ý nghĩa này, kinh Hoa Nghiêm chủ trương bằng mọi cách phát huy được Như Lai huệ để chiếu sáng vào lòng cuộc đời, vào vũ trụ, biến tất cả thành Phật pháp.
Tiến theo lộ trình Hoa Nghiêm, đạt đến đỉnh cao nhất là Hư không thân hay Tỳ Lô Giá Na thân. Tỳ Lô Giá Na dịch là phổ quang minh chiếu, chỉ cho trí tuệ rọi vô pháp, biến pháp thành Pháp thân. Lúc ấy, trí và lý bất nhị, kết hợp thành một. Thiết nghĩ, đây là loại hình của thế giới tu chứng, khó diễn tả bằng ngôn ngữ bình thường.
Mười thân Phật nói trên là một tổng thân của Tỳ Lô Giá Na Phật, kết hợp giữa chân lý và trí tuệ, chi phối ngược xuống 9 loại hình, từ hàng Thánh giả đến người thường trên cuộc đời và cả loài hữu tình, vô tình.
Trong vô hình, lực Tỳ Lô Giá Na chi phối xuống hữu tình chúng sanh và vô tình khí thế giới, khiến cho tất cả phát tâm Bồ đề, tiến tu đạo nghiệp, kết hợp thành pháp giới.
Đó là thế giới huyền môn của đạo Phật dành cho những người tiến bước theo Bồ tát đạo, đạt đến bằng sự tu chứng thật sự, nằm ngoài lạm bàn của phàm phu điên đảo vọng tưởng.
Ý nghĩa Kinh Hoa Nghiêm
1- Khái niệm về lịch sử kinh Hoa Nghiêm
Về mặt học thuật, chúng ta học lịch sử phần lớn căn cứ vào dữ liệu mà người trước đã ghi lại để đánh giá. Nhưng đứng ở lãnh vực tôn giáo để quan sát, chúng ta lại có nhận thức về lịch sử khác hơn là những điều được các nhà học thuật ghi nhận.
Từ hiểu biết theo học thuật thông thường, tiến lên một bước nữa để hiểu lịch sử Đại thừa Phật giáo theo tinh thần của người tu có niềm tin, có trí tuệ. Và bước sang lịch sử kinh Hoa Nghiêm, chúng ta phải phát Bồ đề tâm. Có thể nói, chúng ta học Đại thừa bằng Bồ đề tâm của chính mình, không học bằng vọng thức, nghĩa là tiếp nhận tinh ba của giáo nghĩa bằng tâm hồn thanh tịnh, không phải chỉ dừng lại ở phân tích, học hiểu theo văn tự, ngữ ngôn.
Kinh Hoa Nghiêm có ba bộ: Bộ thứ nhất gọi là Đại Hoa Nghiêm do Pháp thân Tỳ Lô Giá Na chuyển. Bộ thứ hai là Trung Hoa Nghiêm do Báo thân Lô Xá Na chuyển và bộ thứ ba do -ng thân Thích Ca Mâu Ni Phật thuyết.
Như vậy, kinh Hoa Nghiêm có cái nhìn về Đức Phật khác hơn các hệ tư tưởng khác và đương nhiên cũng khác với lịch sử thông thường mà chúng ta học.
Cả ba bộ kinh này đều ở cung rồng Ta Kiệt La. Nhưng hai bộ đại kinh và trung kinh quá đồ sộ, không thể mang về, nên ngài Long Thọ Bồ tát chỉ thỉnh được bộ Tiểu Hoa Nghiêm gồm có 100.000 bài kệ. Và mang về nhân gian, Ngài lọc lại, chỉ còn một nửa là 45.000 bài kệ.
Bộ Tiểu Hoa Nghiêm mà ngài Long Thọ đem về, rồi truyền sang Trung Hoa, được dịch ra tiếng Trung Hoa, còn lại ngày nay hai bộ. Bộ Hoa Nghiêm 60 quyển do ngài Giác Hiền dịch đời Tấn và bộ 80 quyển dịch ở đời Đường, dưới sự bảo trợ của Tắc Thiên hoàng đế, quen gọi là Võ hậu.
Bộ kinh Hoa Nghiêm mà chúng ta tu học chủ yếu nương theo bộ kinh đời Đường. Kinh Hoa Nghiêm do Báo thân viên mãn Lô Xá Na và kinh do Pháp thân Tỳ Lô Giá Na Phật chuyển thì chúng ta không thấy được Báo thân và Pháp thân Phật, nên không thể nghe, không thể đọc và không hiểu được.
Điều này gợi cho chúng ta ý thức rằng khi học Phật pháp, nhất là học Đại thừa, đòi hỏi quá trình thiết thân thể nghiệm pháp trong cuộc sống.
Hiểu kinh Hoa Nghiêm là từ văn tự đi vào tư duy, vào thiền định, phát sinh được trí tuệ và dùng trí tuệ quán sát mọi sự, mọi vật. Nói cách khác, kinh Hoa Nghiêm dẫn chúng ta vào pháp giới hay nhìn thế giới chân thật. Và biết được việc ở dạng chân thật, thì ta không còn lỗi lầm trên sinh hoạt hiện tượng của cuộc đời. Kinh Hoa Nghiêm muốn dạy ta cốt lõi ấy.
Theo phán giáo của ngài Trí Giả, Đức Phật nói kinh Hoa Nghiêm 21 ngày. Chỉ có 21 ngày ngắn ngủi, làm sao Phật nói được vô lượng bài kệ gọi là vi trần? Trong khi các bộ kinh khác, Đức Phật nói trong thời gian dài hơn mà lại không nhiều.
Phật nói Hoa Nghiêm 21 ngày trong thiền định. 21 ngày của cuộc sống vật chất theo đời thường tất nhiên quá ngắn ngủi. Nhưng 21 ngày tư duy thiền định thiết nghĩ thật lớn lao không thể tính được. Ai không hành đạo, không công phu tu tập không thể nào biết được điều này.
Một niệm tâm trong thiền định, Bồ tát cứu độ được vô số chúng sanh. Ngài Thiên Thai chứng được 3.000 pháp biến dịch trong một niệm tâm. Và 3.000 pháp này tác động lẫn nhau, tạo thành trùng trùng duyên khởi theo Hoa Nghiêm.
21 ngày Phật tư duy dưới cội bồ đề lại càng lớn không thể tưởng, vì hoạt động dưới dạng Pháp thân, trở thành đại tự nhiên. Tư duy bằng vọng niệm chẳng là bao. Nhưng tư duy dưới cội bồ đề nghĩa là ở dạng bản thể của sự vật, ở chơn như tâm thì Phật, chúng sanh và tâm, tuy ba nhưng thông làm một.
Từ bồ đề đạo tràng, Phật thuyết kinh Hoa Nghiêm 21 ngày, nhưng thuyết được tất cả. Thuyết tất cả, nghĩa là thuyết những gì xảy ra từ khi Ngài phát tâm Bồ đề và giáo hóa chúng sanh cho đến ngày thành Phật. Và hiện giờ, Ngài đang tiếp tục giáo hóa. Tất cả mọi người trên khắp năm châu bốn biển vẫn đang tiếp tục học pháp với Tỳ Lô Giá Na Phật, là ý nghĩa quan trọng nhất của lịch sử kinh Hoa Nghiêm theo tinh thần Đại thừa.
Thật vậy, Đức Phật vẫn còn giáo hóa và hộ niệm cho chúng ta, nên chúng ta mới tu học được. Nếu không có lực gia trì đó, Phật pháp không thể tồn tại đến ngày nay.
Thái độ của người học Phật giáo Đại thừa nói chung và lịch sử kinh Hoa Nghiêm nói riêng, là phải thấy cái bao la vô cùng tận, còn cái chúng ta hiểu được giống như con muỗi uống nước biển. Tôi thấm thía ý này trong kinh Pháp Hoa dạy rằng khi nào tu tròn hạnh Bồ tát, thành Phật mới hiểu được Phật. Vì vậy, cho rằng học hết giáo lý là xong, quả là sai lầm lớn.
Trên tinh thần bao la vô tận của Phật pháp, chúng ta phải nhận ra thọ mạng Phật pháp tồn tại thường hằng miên viễn ở dạng Pháp thân vĩnh hằng bất tử. Đức Phật chỉ phương tiện hiện Niết bàn, nhưng kỳ thực Ngài vẫn hiện hữu ở khắp mọi nơi, ở bên cạnh chúng ta trong từng niệm tâm vậy.
2- Lịch sử truyền thừa và phát triển kinh Hoa Nghiêm
Kinh Hoa Nghiêm phát xuất từ Ấn Độ, nhưng được phát triển mạnh ở Trung Quốc, Nhật Bản. Thật vậy, theo sự nghiên cứu, kinh Hoa Nghiêm chỉ còn tìm thấy rải rác trong vài tác phẩm ở Ấn Độ. Đó là bộ Đại Trí Độ luận của ngài Long Thọ có dẫn dụng kinh Hoa Nghiêm và những tác phẩm chú sớ như Thập Trụ Tỳ Bà Sa luận, hoặc Thập địa kinh luận giải thích về hai phẩm: Thập trụ, Thập địa của kinh. Như vậy, chỉ có một phần nhỏ của kinh được truyền thừa. Còn toàn bộ kinh Hoa Nghiêm không có.
Tuy nhiên về sau, kinh Hoa Nghiêm được truyền sang Trung Quốc có 3 bộ, nhưng đều phát xuất từ nước Vu Điền của Trung Á (ngày nay thuộc khu tự trị của Trung Quốc).
Kinh Hoa Nghiêm mang về Trường An, đến đời Tấn thì ngài Phật Đà Bạt Đà La (Giác Hiền) là người đầu tiên dịch sang tiếng Trung Quốc bộ lục thập Hoa Nghiêm, gồm có 60 quyển, thường gọi là bộ cựu dịch.
Cách 200 năm sau, đến đời Đường, ngài Thập Sa Nan Đà dịch, chia thành 80 quyển, gọi là bát thập Hoa Nghiêm hay bộ tân dịch.
Và cũng ở đời Đường, ngài Bát Nhã dịch riêng phẩm Nhập pháp giới, gọi là tứ thập Hoa Nghiêm, gồm 40 quyển.
Kinh Hoa Nghiêm phát triển mạnh ở Trung Quốc, tiến đến thành lập tông Hoa Nghiêm. Sơ tổ của tông này là ngài Đỗ Thuận (557-640), nhưng đến ngài Trí Nghiêm (602-668) là Nhị tổ mới chính thức thành lập tông Hoa Nghiêm.
Và Tổ thứ ba của tông này rất nổi tiếng, đó là ngài Pháp Tạng (Hiền Thủ, 643-712). Phải nói là đến thời của ngài Pháp Tạng mới luận giải kinh Hoa Nghiêm và giảng kinh này cho Tắc Thiên hoàng hậu.
Ngài Đỗ Thuận và Trí Nghiêm cùng giảng giải kinh theo bộ lục thập Hoa Nghiêm. Nhưng ngài Đỗ Thuận chịu ảnh hưởng của hệ Bát Nhã, vì lúc ấy pháp tánh học thịnh hành. Còn ngài Trí Nghiêm chịu ảnh hưởng của Duy thức, tức pháp tướng học do ngài Huyền Trang xương minh và theo đó mà phát triển Hoa Nghiêm.
Ngài Pháp Tạng lý giải theo bộ bát thập Hoa Nghiêm. Ngài giảng giải đầy đủ hơn, vì đã tổng hợp được hai hệ tư tưởng Bát Nhã và Duy Thức của Sơ tổ và Nhị tổ, kết hợp thành bộ Hoa Nghiêm sớ. Đây là cốt lõi của tông Hoa Nghiêm, làm cho Phật pháp thịnh hành ở thời này.
Hai vị Đỗ Thuận và Trí Nghiêm đều là người Hán. Riêng ngài Pháp Tạng sanh ở Trung Quốc mà gốc người Trung Á. Vì vậy, Ngài thừa hưởng được tư tưởng triết học Êẽn Độ và văn minh Trung Quốc; đồng thời tổng hợp được tinh ba của hai luồng tư tưởng vĩ đại này, tạo thành nét đặc thù nổi bật của tông Hoa Nghiêm, khiến cho giới trí thức đời Đường bấy giờ phải thán phục.
Có thể nói tông Hoa Nghiêm phát triển mạnh ở Trung Quốc vì tư tưởng kinh Hoa Nghiêm thích hợp với người Trung Quốc. Trước khi kinh này được truyền sang, tư tưởng Lão Trang thịnh hành ở Trung Quốc, có cái nhìn về vũ trụ gần giống với tinh thần Hoa Nghiêm, nên người trí thức đương thời dễ tiếp thu được tư tưởng Hoa Nghiêm.
Tuy nhiên, cần khẳng định rằng, kinh Hoa Nghiêm phát triển được là nhờ các vị cao đức thông suốt được áo nghĩa Hoa Nghiêm và biết kết hợp với tinh thần Lão Trang để triển khai thành tư tưởng chỉ đạo của tông Hoa Nghiêm.
Tư tưởng Lão Trang quan niệm mọi sinh hoạt của vũ trụ vận hành theo lý "Tự nhiên", tự nhiên là "Vô", và tính chất của "Vô" là bản thể của vũ trụ. Và theo Trang tử: "Đạo không chỗ nào không có, ở chỗ con kiến, con dế, ở chỗ cỏ Đế, cỏ Bại, ở chỗ gạch ngói, ở chỗ phân tiểu...".
Người trí thức chịu ảnh hưởng Lão Trang có thể thấy vấn đề nói trên của họ sáng hơn khi tiếp thu tư tưởng Hoa Nghiêm do các vị cao tăng lý giải; theo đó, mọi sự, mọi vật đều bình đẳng, trong tốt có xấu, trong xấu có tốt. Tất cả sinh hoạt tương quan tương duyên chằng chịt trong pháp giới.
Người chứng đạo thấy rõ sự tác động của mối tương quan sâu xa ấy, mà thuật ngữ gọi là lý sự vô ngại pháp giới, thì sẽ hóa giải được tất cả. Còn chướng ngại, vướng mắc, không dung thông thì trở thành đối nghịch, đối đầu, từ đó phiền não trùng trùng duyên khởi.
Thực chất của sự hành trì theo yếu nghĩa Hoa Nghiêm là thiện ác đều do chính ta tạo nên, kinh gọi là muôn pháp duy tâm tạp. Liễu ngộ Hoa Nghiêm thì tất cả viên dung vô ngại vì mọi loài trong pháp giới cho đến con ong, cái kiến, cỏ cây, hoa lá đều là pháp âm của Tỳ Lô Giá Na Phật.
Kinh Hoa Nghiêm chuyên chở một tư tưởng quá lớn lao, người bình thường không tiếp thu nổi, không hiểu thì làm sao ứng dụng được. Vì thế, dù là tư tưởng siêu tuyệt như vậy, vẫn bị mai một.
Phải có những bậc danh đức ngộ đạo hiện hữu, như ngài Đỗ Thuận, Trí Nghiêm, Pháp Tạng nắm trọn được tinh yếu của Hoa Nghiêm và lý giải cũng như thể hiện trong cuộc sống, mới có thể phát triển tư tưởng này sáng chói lên. Nhưng về sau, không có người thừa kế đủ khả năng tiếp nối đạo nghiệp, nên ngọn đèn Hoa Nghiêm cũng phải tàn lụn.
Tiếp theo, kinh Hoa Nghiêm được một nhà sư Trung Hoa mang sang Nhật Bản, nhưng không thuyết giảng. Đến đời Thánh Vũ thiên hoàng, ngài Thẩm Tường là nhà sư Triều Tiên sang Nhật Bản, kinh này mới được Ngài giảng giải và tông Hoa Nghiêm ra đời ở Nhật.
Đặc biệt là nhờ công đức thuyết pháp của ngài Thẩm Tường khiến cho Thánh Vũ thiên hoàng phát tâm xây dựng ở Nara tượng Tỳ Lô Giá Na bằng đồng lớn nhất thế giới. Có điều kỳ lạ cần nhắc lại, theo truyền thuyết, người ta chỉ đúc được pho tượng này tới cổ, vì phần đầu của tượng quá lớn, đường kính của mặt tượng Tỳ Lô Giá Na rộng đến 5 thước, nên rót đồng vô chảy xuống đến cổ là bị rã.
Sau đó, nhà sư Phật Triết từ Giao Châu, Việt Nam, đóng bè tre sang Nhật Bản. Ngài Hạnh Cơ Bồ tát ra đón ngài Phật Triết ở bờ biển về để chỉ dạy phương cách đúc tượng.
Pho tượng được hoàn thành một cách hoàn hảo, nên Thánh Vũ thiên hoàng thỉnh ngài Phật Triết về chủ lễ điểm nhãn tượng. Và Ngài soạn ra nghi thức cúng dường khai quang, còn truyền tụng đến ngày nay.
Như đã nói, tư tưởng Hoa Nghiêm quá trác tuyệt, khó tiếp thu. Vì vậy, công đức hoằng truyền kinh Hoa Nghiêm mà ngài Thẩm Tường đã tu tạo, không có người tiếp nối đạo mạch. Những gì tiêu biểu còn lưu lại dấu vết như tông Hoa Nghiêm, chùa Đông Đại và tượng Tỳ Lô Giá Na, thì ngày nay chỉ còn hiện hữu như một kỷ niệm mà thôi.
Tóm lại, kinh Hoa Nghiêm phát xuất từ Ấn Độ, nhưng vì quá cao siêu nên hiếm người tiếp thu được và tất nhiên việc phát triển càng khó hơn nữa. Phải đợi đến khi truyền sang Trung Quốc hay Nhật Bản và gặp được những vị vua chúa có phước báo và quyền thế phát tâm mới đủ điều kiện hỗ trợ cho công việc phiên dịch, truyền bá kinh, cũng như xây dựng chùa chiền, đúc tượng được thành công.
Riêng ở Việt Nam, Phật giáo đương nhiên cũng có phần ảnh hưởng tinh thần Hoa Nghiêm. Một số vị cao tăng cũng thọ trì kinh này, ứng dụng được phần nào tinh ba của kinh trong cuộc sống. Tuy nhiên, nói chung, bộ kinh này không phát triển mạnh được ở Việt Nam.
II. Nội dung kinh Hoa Nghiêm
Theo phán giáo của Thiên Thai Trí Giả đại sư, sau khi Đức Phật thành đạo, Ngài thuyết kinh Hoa Nghiêm trong 21 ngày và sau đó Ngài đến Lộc Uyển độ 5 anh em Kiều Trần Như, bắt đầu lập giáo khai tông. Trên đường hoằng truyền chánh pháp, Đức Phật giảng kinh Phương Đẳng, Bát Nhã, Pháp Hoa, Niết Bàn.
Cách phán giáo của Trí Giả đại sư được Phật giáo Đại thừa tán đồng. Phật giáo Nguyên thủy cũng ghi nhận giống ở điểm sau khi thành đạo, Đức Phật ngồi tư duy ở Bồ đề đạo tràng trong 21 ngày. Theo kiến giải của Phật giáo Đại thừa, trong 21 ngày tư duy ấy, Ngài thuyết kinh Hoa Nghiêm trong thiền định.
Thiết lập pháp hội Hoa Nghiêm với hội chúng, hội trường có điểm khác lạ. Theo kinh Hoa Nghiêm lục thập quyển thì có 8 hội, nhưng kinh Hoa Nghiêm bát thập quyển ghi nhận có 9 hội. Đến phần kết của hội Hoa Nghiêm vẫn có mặt Xá Lợi Phật, Mục Kiền Liên, A Nan, nhưng các Ngài không nghe được. Ý này được kinh diễn tả rằng chúng Thanh văn như người mù, người điếc dự hội.
Vì khó hiểu như vậy, một số người cho rằng kinh Hoa Nghiêm có tính cách giả tưởng. Ngày nay, chúng ta có thể hiểu ý này qua thực tế như vấn đề trình bày trong cuộc hội thảo dành cho các nhà bác học thì người có trình độ đại học trở xuống có tham dự cũng không thể nào hiểu được.
Pháp Phật nói cho Bồ tát, hàng nhị thừa không thể biết, huống chi là phàm phu. Cần hiểu rằng không riêng gì Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên... mà kể cả chúng ta cũng hiện diện trong hội Hoa Nghiêm, nhưng không thấy, không nghe vì bị ngũ ấm ngăn che, vướng mắc sắc ấm. Đức Phật nói kinh Hoa Nghiêm trong thiền định, dùng tâm chuyển vật. Chúng ta chưa thấy tâm, làm sao thấy được sự chuyển vật.
Tinh thần Đại thừa đặt nền tảng trên sinh hoạt của tâm là chính. Nếu tâm thực sự tốt sẽ kết thành quả tốt, dù cho hành động bề ngoài không tốt. Sức mạnh phi thường của tâm chi phối, khiến việc thành tựu, không cần phải cử thân động niệm, kinh gọi là vô tác diệu lực. Đó là ý chính mà kinh Hoa Nghiêm muốn đề cập đến.
Khi Đức Phật đắc quả Vô thượng giác ở Bồ đề đạo tràng, không còn lệ thuộc ngũ ấm thân, Ngài phát hiện ra con người thật bên trong là chơn tâm hay Tỳ Lô Giá Na Pháp thân và thấy Bồ tát vi trần. Phật pháp thân ấy nói với các vị Bồ tát trong thiền định, không phải là người bằng xương bằng thịt nói và cũng không nói cho người nhân gian. Vì vậy, người nhân gian làm thế nào biết được và tạng kinh Hoa Nghiêm phải đợi đến Long Thọ Bồ tát kiết tập.
Đến pháp hội thứ hai, đi vào thế giới Quang Minh điện của Phật, nghĩa là ánh quang Phật thuyết pháp. Ánh quang này chiếu đến Trời Phạm Thiên, nên vị Đại Phạm Thiên vương xuống Bồ đề đạo tràng thỉnh Phật thuyết pháp.
Ở pháp hội một, thuyết trong thiền định dành cho người trụ định mới nghe được. Đến pháp hội thứ hai, Phật thuyết bằng ánh quang, đòi hỏi người có trí tuệ, nghe bằng Bồ đề tâm, huệ giải thoát mới thâm nhập được. Lúc ấy, người tu ngộ đạo nhìn sông núi, cá chim đều là Phật thuyết pháp.
Sau đó, Phật thuyết ở Trời Đao Lợi, đến Dạ Ma thiên, Đâu Suất thiên, Tha Hóa Tự Tại. Đến đây, Ngài giảng thập hồi hướng, thập địa nhằm chỉ cho biết đối tượng của pháp cao sâu này phải là Bồ tát, là người có đầy đủ phương tiện giáo hóa chúng sanh.
Bồ tát pháp trong kinh Hoa Nghiêm rất cao sâu. Hàng thấp nhất là Bồ tát sơ địa cũng phải có khả năng làm vua một cõi, tức tiểu vương mới có thể hành đạo tự tại. Bồ tát nhị địa phải là Chuyển luân Thánh vương cai quản bốn phương thiên hạ, ai nghe đến danh cũng phải kính nể. Bồ tát đệ tam địa phải làm vua Trời Đao Lợi, cai quản 33 tầng trời. Cứ như vậy lần lên cõi Trời Dục cao nhất là Tha Hóa Tự Tại.
Đức Phật giảng cho các vị trời, đồng nghĩa với nhắc nhở những người có phước báo, quyền uy ở trần gian nên phát tâm làm Phật sự, dễ tu tạo công đức lớn lao. Nếu không, hưởng hết phước rồi đọa, lúc đó không còn điều kiện tạo công đức, như vua Tần Bà Sa La bị A Xà Thế nhốt vô ngục rồi mới phát tâm.
Từ cõi Trời Tha Hóa Tự Tại, Đức Phật trở lại Phổ Quang đường thuyết thập nhẫn, thập định. Cuối cùng, Ngài trở lại thực tế cuộc sống ở rừng Thệ Đa nói phẩm Nhập pháp giới.
III. Quan niệm về đạo Phật theo kinh Hoa Nghiêm
Kinh Pháp Hoa và Hoa Nghiêm là hai bộ kinh nòng cốt của Phật giáo Đại thừa. Kinh Pháp Hoa đặt nặng về pháp, trong khi kinh Hoa Nghiêm triển khai về Phật là vị có đầy đủ tư cách để tuyên thuyết diệu pháp.
Quan niệm về Đức Phật theo kinh Hoa Nghiêm tất nhiên cũng khởi đầu từ Phật nguyên thủy là Đức Thích Ca. Ngài cũng mang thân tứ đại giống như chúng ta và trải qua quá trình tu hành, đắc quả Vô thượng Bồ đề.
Quan điểm cho rằng Phật là người giống như ta và tiến tu thành bậc Chánh giác, được xét lại trong thời Phật giáo Phát triển. Vì câu hỏi được đặt ra là tại sao người đều giống nhau, nhưng chỉ duy nhất có Phật thành tựu quả vị toàn giác, còn những vị tu hành khác thì có người thành Tổ, có người làm trụ trì hoặc người chẳng đạt được quả vị nào.
Từ đó, Phật giáo Phát triển bắt đầu mở tầm nhìn về chiều sâu, nhìn bên trong cái thực của con người, tức chân linh, để định giá trị khác nhau của mỗi người. Theo tinh thần ấy, kinh Bổn Sanh, Bổn Sự được hình thành, nói về vô số tiền kiếp của Phật đã xả thân hành Bồ tát đạo. Thân xác giống như chiếc áo mặc cho chân linh. Đó là quan niệm mới của Phật giáo Phát triển bắt đầu quán sát người ở hai mặt: mặt bề ngoài là sanh thân hay thân mạng hữu hình và thân mạng vô hình bên trong là Báo thân.
Theo Đại thừa, Báo thân là phước đức, trí tuệ của Phật. Ngài giáo hóa thành tựu dễ dàng vì lời nói, hành động, việc làm đều phát xuất từ trí tuệ siêu tuyệt và đạo đức hoàn toàn thánh thiện.
Như vậy, Đại thừa nhìn Phật qua tri thức và đức hạnh của Ngài và triển khai Báo thân. Suy nghĩ về Báo thân, nương Báo thân Phật tu hành nhằm mục tiêu phát triển Báo thân của chính mình. Nói cách khác, trên bước đường tu, chúng ta xem Phật, Tổ, Bồ tát làm gì, ta cũng làm vậy để nuôi lớn Báo thân của riêng mình.
Đức Phật dạy rằng ai cũng có thể thành Phật nếu tu tập cho đầy đủ tâm đại bi, viên mãn hạnh Bồ tát. Vô lượng kiếp qua khứ, Phật, Hiền Thánh đều trải thân hành Bồ tát đạo, làm lợi ích chúng hữu tình, mới đạt đến Vô thượng Đẳng giác. Ngày nay, muốn thành tựu quả vị như Phật, chúng ta cũng phải phát tâm Bồ đề, dấn thân tu Bồ tát đạo. Đó là tư tưởng nòng cốt của Phật giáo Đại thừa.
Tiến đến đỉnh cao của hệ tư tưởng này là kinh Hoa Nghiêm. Kinh Hoa Nghiêm giới thiệu Đức Phật và cách tu thế nào để thành Phật, tức Bồ tát pháp.
Tinh thần Hoa Nghiêm cho chúng ta ý niệm về Đức Phật hoàn toàn mới, khác hẳn các bộ kinh Đại thừa khác. Đức Phật không bị giới hạn trong một loại hình cố định nào.
Thật vậy, Hoa Nghiêm mở ra cho chúng ta tầm nhìn phóng khoáng, theo đó không có gì không phải là Phật, đó mới là Đức Phật chân thật. Phật này là Phật huệ, nên trí tuệ Phật hiện vô thân đồng nữ thì đồng nữ đó là Phật, hiện trong thân trưởng lão thì trưởng lão là Phật.
Tư tưởng đặc biệt của Hoa Nghiêm về sự hiện hữu vĩnh hằng của một Đức Phật toàn diện đòi hỏi chúng ta phải đạt đến trình độ nhất định nào đó mới có thể hiểu, sống và hành đạo như vậy.
Đứng trên lập trường bao quát, thấy Phật là tất cả, là pháp giới, được kinh Hoa Nghiêm tiêu biểu qua hình ảnh Phật với 10 loại thân: Ngũ ấm thân, Quốc độ thân, Chúng sanh thân, Thanh văn thân, Duyên giác thân, Bồ tát thân, Như Lai thân, Trí thân, Pháp thân, Hư không thân. Hay có thể nói 10 loại hình này là diễn tiến sự sống từ thấp nhất tiến đến quả vị Phật và từ Phật giới chi phối ngược xuống toàn bộ các loài hữu tình, vô tình.
Theo Hoa Nghiêm, trước tiên lấy ngũ ấm làm căn bản, vì tất cả muôn vật đều phát xuất từ ngũ ấm: sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Đức Phật cũng hiện hữu từ ngũ ấm, nhưng Ngài tiến đến quả vị toàn giác vì Ngài không bị ngũ ấm chi phối. Trong khi chúng sanh cũng mang thân ngũ ấm, nhưng do bị ràng buộc triệt để, nên luôn gánh chịu khổ đau sanh tử.
Đức Phật khẳng định rằng ngũ ấm cấu tạo nên con người và con người bị lệ thuộc nó. Chính vì còn kẹt vào thân vật chất, tức sắc uẩn, nên chúng ta còn bị 4 thứ: đói, khát, nóng, lạnh hành hạ. Hương vị giải thoát đầu tiên của người đắc được sơ quả là xa lìa được đói khát, nóng lạnh. Vì vậy, chúng ta thấy các Thiền sư trong lúc nhập định không cần ăn uống, ngủ nghỉ mà không cảm giác đói khát, mệt mỏi, vì họ đang sống với chân linh, vượt ngoài sự chi phối của thân xác.
Thân của Đức Phật khởi đầu cũng phát xuất từ thân ngũ ấm như chúng ta và Ngài cũng sử dụng nó. Nhưng chính yếu là Phật điều khiển được thân hoàn toàn theo mục tiêu mà Ngài đặt ra.
Đối với Phật, Ngài mang thân ngũ ấm trang nghiêm bằng 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp, thành Vô thượng Đẳng giác để giáo hóa chúng sanh. Khi việc đáng làm đã làm, người đáng độ đã độ, Ngài rời bỏ thân một cách nhẹ nhàng. Đức Phật khác hơn chúng sanh là như vậy.
Chúng sanh thì bị thân ngũ uẩn dày xéo, hành hạ, sống khổ với thân, chết cũng không yên với nó. Đức Phật thì tự tại hoàn toàn vì biến đổi được ngũ uẩn thành Pháp thân mà kinh diễn tả là: "Nhược năng chuyển vật tức đồng Như Lai".
Đức Phật sử dụng, biến ngũ uẩn thành ngũ phần Pháp thân, nên ngũ uẩn được kinh Hoa Nghiêm coi là một trong 10 thân Phật Tỳ Lô Giá Na.
Từ ngũ uẩn làm gốc, nảy sinh ra sự sống, hiện thân thứ hai là quốc độ thân, chỉ cho sơn hà đại địa. Nói chung, sự sống đơn bào tiến lên đa bào, phát triển lần đến các sinh vật hữu tình và vô tình.
Theo tinh thần Hoa Nghiêm, nhìn sông núi hùng vĩ, ngắm dòng suối chảy, nụ hoa mơn mởn, cá bơi chim liệng hay thấy tượng Phật trang nghiêm, cảnh chùa thanh tịnh, khiến ta phát tâm, đó là vô tình thuyết pháp.
Nói cách khác, thân Tỳ Lô Giá Na đã tác động vào cảnh quan, tạo thành lực hấp dẫn đưa ta đến với Phật đạo. Trong kinh thường diễn tả quá trình hành Bồ tát đạo, Phật hiện thân trong tất cả các loài, không riêng gì loài người, Ngài đã từng làm nai, chim, sư tử... Vì vậy, trong vũ trụ, cỏ cây hoa lá cho đến động vật đều có Tỳ Lô Giá Na ảnh hưởng đến và trong các hữu tình chúng sanh thuộc tứ sanh lục đạo cũng chịu lực chi phối của Tỳ Lô Giá Na để tồn tại.
Như vậy, loại thân hình thứ hai của thân Phật Tỳ Lô Giá na là trải thân ra làm đất đai, làm cây cỏ, làm núi sông để che chở, nuôi sống, dung nhiếp muôn loài.
Không loài nào mà tâm đại bi Phật không tác động đến, thể hiện sự hiện hữu loại thân thứ ba của Phật gọi là chúng sanh thân.
Dưới mắt người hành đạo theo tinh thần Hoa Nghiêm, con ong, cái kiến cho đến cọng cỏ, bụi gai, không cái gì mà không dễ thương, không phải là Phật. Ngược lại, mọi sự vật trên cuộc đời đều chướng tai gai mắt với phàm phu, ràng buộc làm họ khổ đau.
Trên tinh thần tất cả đều đẹp, người thật dạ tu hành ở bên phiến đá, cạnh dòng suối trong núi rừng, nhưng có cảm nghĩ nơi đó hiện diện ba đời mười phương Phật, nên họ dễ dàng tiến tu giải thoát. Nhưng khởi vọng tâm đòi hỏi phải ở chỗ này mới tu được, ở chỗ kia buồn khổ, thì không thể nào sống trong thiền môn.
Bước theo lộ trình Hoa Nghiêm, chúng ta cũng tập sống theo tinh thần rộng lớn như vậy, tập làm những việc bao dung, giúp đỡ người phát triển. Đó là con đường đưa chúng ta đến quả vị toàn giác trong tương lai.
Từ trong chúng sanh thân, nhận ra cuộc đời không bền chắc, nên khởi tâm đi tìm hằng hữu. Từ bỏ đời sống thế nhân, đi theo lộ trình Phật đạo, mang thân tu sĩ trắc nghiệm 37 phẩm trợ đạo giữa lòng cuộc đời, được coi như là Pháp thân của Đức Phật hay Thanh văn thân là một phần trong tổng thân của Phật Thích Ca.
Kế đến là hàng Duyên giác thuộc tầng lớp trí thức, tinh thần rất bén nhạy. Họ quán nhân duyên để thấy được mối quan hệ giữa mọi người với nhau trong xã hội. Và theo lời Phật dạy, người nào thấy nhân duyên thì thấy được pháp chân thật, đó là điều tiên quyết để tiến đến quả vị toàn giác.
Vì vậy, hàng Duyên giác hay Bích chi Phật ẩn tu, thâm nhập thiền định, nhận chân được mối quan hệ của chúng sanh trong tứ sanh lục đạo và hành xử theo đúng với lý nhân duyên ấy, thì họ vẫn được coi là một hiện thân của Phật trên cuộc đời.
Thanh văn tu hành tập thể và Duyên giác hay Độc giác ẩn tu quán sát các pháp. Tổng hợp hai cách tu này, chúng ta có mẫu người thứ ba vừa có đạo đức, vừa có tri thức, đi vào đời độ sanh gọi là Bồ tát.
Bồ tát hay bậc giác hữu tình, tức người đem ánh sáng giác ngộ đến các loài hữu tình. Họ phát tâm Bồ đề, khởi niệm thương chúng sanh và đến giúp đỡ, cũng là do Phật lực chi phối đến.
Trên tinh thần hành đạo cứu đời vì tiếp nhận được lực Tỳ Lô Giá Na, nên Bồ tát thân cũng là thân của Phật.
Khi người tu tròn đủ hạnh Bồ tát và tâm đại bi thì đạt quả vị Phật, tức Như Lai thân. Với thân Như Lai, không còn phải dấn thân vào đời để cứu độ như Bồ tát, không phải ẩn tu như hàng Duyên giác, cũng không cần sống trong tập thể để trao đổi sách tấn nhau tu hành như Thanh văn.
Vì Như Lai thân không từ đâu tới và cũng không đi về đâu. Chính thân đó tác động đến các loài chúng sanh và giáo hóa được tất cả mà không cần cử thân động niệm.
Từ ngũ ấm thân, trải qua quá trình tu hành tiến lên quốc độ thân, chúng sanh thân, Thanh văn, Duyên giác, Bồ tát thân và Như Lai thân là thân thứ 7.
Bấy giờ, ở quả vị Như Lai, không cần làm như trước nữa, nhưng các loài hữu tình chúng sanh tự phát tâm tu và tự giải thoát. Đó là đặc biệt của sự giáo hóa bằng Như Lai thân, không cần cứu độ mà mọi loài được nương nhờ, tự tôn kính, quy ngưỡng Phật.
Trên bước đường tu, sử dụng thân của từng giai đoạn tu khác nhau, thành đạt đến vị trí Như Lai. Lúc ấy, như như bất động mà vẫn hóa độ được chúng sanh, nên hoạt động chính của Như Lai không phải bằng thân xác vật chất, bằng ngôn ngữ bình thường, nhưng bằng trí tuệ, nên gọi là trí thân (thân thứ 8).
Dùng trí thân, tức dùng trí tuệ Như Lai tác động chúng sanh, khiến họ phát tâm Bồ đề. Chúng sanh chịu sự chi phối của trí thân gồm cả hữu tình và vô tình chúng sanh, tức nhứt thiết pháp. Tất cả pháp không có pháp nào mà trí tuệ Như Lai không chiếu tới.
Trí Như Lai chiếu tới đâu thì biến các pháp ấy thành Pháp thân của Đức Phật. Đó là điểm then chốt của kinh Hoa Nghiêm quan niệm về Đức Phật. Trí tuệ Phật chiếu vào một tu sĩ hay cư sĩ, tác động họ phát tâm, chiếu vào tất cả sự vật thì làm vật đó biến chuyển thành pháp của Phật.
Ví dụ trí tuệ Như Lai tác động vào chúng ta, khiến chúng ta phát nguyện đi theo Phật đạo và cũng tác động qua các pháp, biến gạch ngói, đất đá thành chùa chiền. Tu sĩ, tín đồ, chùa, cảnh vật, pháp khí hiện hữu để Phật pháp tồn tại, phát triển, thì tất cả đều là Pháp thân của Đức Phật (thân thứ 9).
Quang cảnh thiền môn tuy không phát ra âm thanh, nhưng tác động cho người hình dung ra Phật, liên tưởng đến cách sống của Ngài và họ phát tâm tu theo, tức Pháp thân của Phật đã thuyết pháp.
Như vậy, Pháp thân Phật theo tinh thần Hoa Nghiêm được triển khai rộng hơn ý niệm Pháp thân của Phật giáo Nguyên thủy chỉ hạn hẹp trong giáo pháp Phật còn lưu lại.
Kinh Hoa Nghiêm quan niệm tất cả pháp, kể cả sơn hà đại địa đều nhận lực chi phối của huệ Như Lai, đều là Pháp thân Phật. Từ căn bản ấy, tất cả mọi sự vật trên cuộc đời đều biến thành Phật pháp nếu có huệ Như Lai rọi vào. Một miếng gỗ, cục đá hay đồng chì đều biến thành Phật khi người tạo ra nó, hoặc chiêm ngưỡng, kính lễ nhận được huệ Như Lai, có ý niệm về Phật.
Trái lại, không có huệ Như Lai đầu tư vào, thì đất đá vẫn là đất đá. Triển khai mạnh về ý nghĩa này, kinh Hoa Nghiêm chủ trương bằng mọi cách phát huy được Như Lai huệ để chiếu sáng vào lòng cuộc đời, vào vũ trụ, biến tất cả thành Phật pháp.
Tiến theo lộ trình Hoa Nghiêm, đạt đến đỉnh cao nhất là Hư không thân hay Tỳ Lô Giá Na thân. Tỳ Lô Giá Na dịch là phổ quang minh chiếu, chỉ cho trí tuệ rọi vô pháp, biến pháp thành Pháp thân. Lúc ấy, trí và lý bất nhị, kết hợp thành một. Thiết nghĩ, đây là loại hình của thế giới tu chứng, khó diễn tả bằng ngôn ngữ bình thường.
Mười thân Phật nói trên là một tổng thân của Tỳ Lô Giá Na Phật, kết hợp giữa chân lý và trí tuệ, chi phối ngược xuống 9 loại hình, từ hàng Thánh giả đến người thường trên cuộc đời và cả loài hữu tình, vô tình.
Trong vô hình, lực Tỳ Lô Giá Na chi phối xuống hữu tình chúng sanh và vô tình khí thế giới, khiến cho tất cả phát tâm Bồ đề, tiến tu đạo nghiệp, kết hợp thành pháp giới.
Đó là thế giới huyền môn của đạo Phật dành cho những người tiến bước theo Bồ tát đạo, đạt đến bằng sự tu chứng thật sự, nằm ngoài lạm bàn của phàm phu điên đảo vọng tưởng.
Ý nghĩa Kinh Hoa Nghiêm
Kinh Hoa Nghiêm là bộ kinh đại thừa, với nội dung siêu việt tuyệt luân hùng vĩ, tráng lệ nguy nga, thể hiện pháp thân, tư tưởng và tâm nguyện của Phật.
Tư tưởng Hoa Nghiêm trình bày vạn pháp do tâm sinh. Tâm là thực thể của vạn pháp. Tâm vọng thì vạn pháp hoạt hiện sai biệt hình hình sắc sắc, trùng trùng duyên khởi, cái này có cái kia có và ngược lại, như lưới đế châu. Tâm chân thì pháp giới tính với Tâm là một, vạn pháp đồng nhất thể. Tâm thanh tịnh thì thấu đạt chân lý Phật tính, suốt thông pháp giới vô ngại, thể nhập bất tư nghì giải thoát hạnh môn. Kinh Hoa Nghiêm, Ðức Phật chỉ cho chúng sinh thấu rõ cội nguồn của xum la vạn tượng do mê thức vọng tưởng nghiệp duyên hình thành, các pháp hiện hành trong vũ trụ là huyễn hóa, như hoa trong gương, như trăng trong nước. Tất cả vạn pháp trong pháp giới đều từ tâm sinh. Tâm trùm khắp cả pháp giới. Tất cả vạn hữu vũ trụ có thể nằm gọn trong hạt cải. Hạt cải có thể thâu nhiếp tất cả vũ trụ vạn pháp. Thể tính của Tâm nhiếp thâu tất cả. Tất cả là một, một là tất cả. Ðó là bản tính vô ngại của Tâm. Bản tính chân tâm suốt thâu vạn pháp hữu tình và vô tình; lấy toàn thể pháp giới tính làm lượng; lấy xứng tính bất tư nghì vô ngại giải thoát làm thể. Ðó là ý nghĩa căn cốt của Kinh Hoa Nghiêm.
Bởi thế, nếu Kinh Ðại Bát Nhã tiêu biểu cho tư tưởng Phật Pháp đại thừa về lý chân không vô ngại, thì Kinh Hoa Nghiêm đại biểu cho tư tưởng Phật Pháp đại thừa về lý hữu hóa duyên sinh của vạn pháp.
Ngoài ra Kinh Hoa Nghiêm còn là một thông điệp, một bài học phong phú sinh động muôn đời, trao gởi cho hành giả có tâm hướng thượng đại thừa, tu là cần phải học phải hành qua hình ảnh Thiện Tài đồng tử tham bái cầu học đạo với năm mươi ba vị thiện tri thức, là bằng chứng cho ta thấy rằng tu học đạo bồ đề điều tiên quyết cần phải khắc phục nội tâm cống cao ngã mạn, dục vọng loạn tưởng; ngoài thân khiêm cung cầu tiến hành trì phương pháp Hoa Nghiêm tuyệt đỉnh, tìm chân sư liễu ngộ mới mong hiển lộ được Phật tính chân tâm của mình.
Ý nghĩa của Kinh Hoa Nghiêm là khai mở quang lộ trở về bản tính chân tâm thanh tịnh sáng suốt thường nhiên; là biết được tự thể của các pháp hiện hành trong thế giới vũ trụ; là thấu suốt cội nguồn sinh sinh hóa hóa của hữu tình và vô tình chúng sinh; là quán chiếu bí yếu mật nghĩa viên dung tương quan của tâm và cảnh, để rồi từ đó có thể thống triệt lý viên dung vô ngại chủ và khách của vạn pháp, hiện hành sinh hóa, tương duyên tương nhân quả, tương sinh tương diệt. Tất cả vạn pháp toàn triệt ảnh hiện trên đài gương chân như thể tính. Thế nên, thọ trì Kinh Hoa Nghiêm là bước vào cửa phương tiện cầu tu học đạo, là nhân tố đặc thù hy hữu ly vọng hoàn chân.
Bởi công đức đặc thù nhiệm mầu vi diệu của Kinh Hoa Nghiêm như thế, nên người có thiện duyên thấy Kinh Hoa Nghiêm mà biết phát tâm thành kính tin sâu, thì như chính mình được thấy Phật. Người thành tâm đọc Kinh Hoa Nghiêm như trực tiếp nghe Phật khai thị. Người chí thành phụng thờ Kinh Hoa Nghiêm như chính mình trực tiếp phụng thờ Phật. Người phát tâm bồ đề ấn tống Kinh Hoa Nghiêm có công đức như được cúng dường Phật, như được thỉnh Phật trụ thế chuyển pháp luân, như được dự vào sự nghiệp hoằng pháp lợi sinh của chư Phật. Kinh Hoa Nghiêm cao sâu, nhiệm mầu vi diệu như thế, nên những ai thành kính phát tâm ấn tống thọ trì kinh này, thì phải biết rằng người đó nhiều đời gieo thiện duyên bồ đề, đã từng làm sứ giả của Phật và đã từng ở trong ngôi nhà chánh pháp.
Kinh Hoa Nghiêm là gì? Ý nghĩa của Kinh Hoa Nghiêm
Kinh Hoa Nghiêm là bộ kinh Đại thừa, nhấn mạnh tới tính "vô ngại" của mọi sự vật hiện tượng, rằng tâm con người là vũ trụ và đồng thể với tâm Phật.
NỘI DUNG BÀI VIẾT
- Kinh Hoa Nghiêm là gì?
- Xuất xứ của Kinh Hoa Nghiêm
- Ý nghĩa Kinh Hoa Nghiêm
- Ý nghĩa thành đạo trong Kinh Hoa Nghiêm
- Cách trì tụng Kinh Hoa Nghiêm
Kinh Hoa Nghiêm là gì?
Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm (hay còn gọi sa. buddhāvataṃsaka-mahāvaipulyasūtra) còn được biết đến là Kinh Hoa Nghiêm, là bộ kinh Đại thừa, là giáo lý căn bản của Hoa Nghiêm tông. Đây là bộ kinh nhất mạnh tới tính "vô ngại" của sự vật hiện tượng, với chủ trương rằng tâm con người là vũ trụ và đồng thể với tâm Phật.
Kinh Hoa Nghiêm trong tiếng Phạn là avataṃsakasūtra, có nghĩa rằng đây là đóa hoa thanh khiết đẹp nhất trần gian, tỏa hương ngát khắp mười phương cõi giới. Đây là bộ kinh có nội dung siêu việt, tuyệt luận, tráng lệ nguy nga, thể hiện được pháp thân, tư tưởng cũng như tâm nguyện Phật.
Kinh Hoa Nghiêm thuộc bộ kinh hệ Phương đẳng, là bộ kinh gồm 81 quyển trong đó phần dài nhất là Hoa nghiêm. Phẩm Hoa nghiêm (sa. gaṇḍavyūha) tương đương với bộ 40 quyển của Bát Nhã, do đó cũng được gọi là Tứ thập hoa nghiêm. Kinh Hoa Nghiêm được tìm thấy dưới dạng chữ Hán và chữ Tây Tạng, là đại diện tiêu biểu cho tư tưởng Phật pháp Đại thừa về tính hữu hóa duyên sinh của vạn pháp. Tương truyền rằng giáo pháp trong kinh này là các phát biểu của dạng xuất hiện Pháp thân (Tam thân), rất khó hiểu, chỉ những vị Đại Bồ tát mới có thể lĩnh hội.
Kinh Hoa Nghiêm là phẩm dài nhất và quan trọng nhất của bộ kinh, Phật Thích Ca đã thuyết tại thành Xá Vệ (śrāvastī), tả cảnh đồng tử Thiện Tài (sudhana) đi tìm đạo dưới hướng dẫn của Văn thù sư lợi (mañjuśrī). Thiện Tài đồng tử tham vấn 53 vị Thánh nhân, bao gồm cả Di Lặc là vị Phật tương lai. Sau cùng, Thiện Tài gặp được Phổ Hiền (samantabhadra) - tức Phổ Hiền Bồ tát, vị Bồ tát Đẳng giác có năng lực hiện thân ở mười phương pháp giới, được vị này giáo hóa và đạt Bồ đề. Cuối phẩm là mười đại nguyện của Phổ Hiền, là cơ sở một đời sống Bồ Tát, sau đó đã trở thành giáo lý căn bản với Hoa Nghiêm tông.
Xuất xứ của Kinh Hoa Nghiêm
Tìm hiểu về xuất xứ của bộ kinh này, tồn tại nhiều giả thuyết khác nhau nhưng chung quy chỉ có 3 giả thuyết là được lưu lại rõ ràng trong sử sách.
Giả thuyết thứ 1, theo quyển "Kinh Hoa Nghiêm" do Hòa thượng Thích Trí Tịnh dịch, Đức Thích Ca Mâu Ni khi thành đạo Vô thượng Chánh giác cũng pháp thân Tỳ Lô Giá Na và chư đại Bồ tát chứng đạo giải thoát, thuyết giảng bộ kinh này ở Bồ đề đạo tràng. Tuy nhiên do bộ kinh này khá khó hiểu, chúng sanh căn tu thấp kém, Đức Thế Tôn đã giảng kinh A hàm và các giáo lý khác để chúng sanh dễ hiểu hơn.
Sau khi Đức Phật nhập diệt, khoảng 600 năm sau khi ngài Long Thụ Bồ tát (còn gọi Long Thọ - nāgārjuna) tác động tới tư tưởng Đại thừa thì bộ kinh này mới được lưu truyền. Khi đó, Kinh Hoa Nghiêm viết bằng chữ Phạn, có tới 100.000 bài kệ, chia làm 48 phẩm. Tuy nhiên, sau này chỉ được dịch sang tiếng Hán khoảng 39 phẩm, còn lại từ phẩm "Thế Chủ Diệu Nghiêm" tới "Nhập Pháp Giới" có 36.000 bài kệ chưa được dịch. Sau đó, sư Bát Nhã dịch thêm phẩm thứ 40 "Phổ Hiền Hạnh Nguyện" và tiếp tục lưu truyền.
Giả thuyết thứ 2 theo Từ điển Phật học của Đoàn Trung Còn, khoảng 600 năm sau khi Đức Phật Thích Ca Mâu Ni Niết bàn, ngài Long Thọ tới Long Cung thì thấy 3 bộ Hoa Nghiêm. Bộ đầu tiên có vô số bài kệ, nhiều như nguyên tử trong mười phương giới, bộ thứ hai có 498.800 bài kệ, bộ sau cùng có 100.000 bài kệ, phân làm 48 chương. Do chỉ có bộ sau cùng là có thể vừa tầm hiểu biết của con người, có thể lưu truyền nên bộ thứ 3 vẫn còn được lưu giữ và truyền bá tới ngày nay.
Giả thuyết thứ ba cũng trong Từ điển Phật học, thì ngài Long Thọ là sơ tổ của Hoa Nghiêm tông ở Ấn Độ, ngài đã sáng tác 24 tác phẩm khác nhau, trong đó có nhiều bộ có một số điểm trùng hợp với nội dung kinh Hoa Nghiêm.
Ý nghĩa Kinh Hoa Nghiêm
Tương truyền rằng, trong kinh này, cáo giáo pháp không phải do Phật trực tiếp truyền dạy, mà Phật nói rất ít, các giáo pháp là phát biểu của dạng xuất hiện Pháp thân (Tam thân). Sự lặng im của Phật là biểu hiện cho tính Không, sự truyền dạy giáo pháp tựa Chân như, xuất hiện để con người hiểu được.
Tư tưởng Hoa Nghiêm trình bày rằng, vạn pháp là do tâm sinh, tâm là thực thể của vạn pháp. Tâm vọng thì vạn pháp hiện sai biệt hình hình sắc sắc, trùng trùng duyên khởi. Tâm chân thì pháp giới với Tâm là một, vạn pháp đồng nhất. Tâm thanh tịnh thì thấu đạt chân lý, thông suốt pháp giới, thể nhập bất tử, giải thoát hạnh mông.
Trong Kinh Hoa Nghiêm, Đức Phật chỉ cho chúng sinh thấu rõ cội nguồn của mọi sự vật hiện tượng, rằng là do mê muội vọng tưởng nghiệp duyên mà thành, các pháp hiện hành là huyễn hóa, tất cả vạn pháp pháp giới đều do tâm sinh.
Tâm trùm khắp pháp giới, vạn vật vũ trụ có thể nằm trong hạt cải, hạt cải có thể thâu tóm tất cả vạn pháp vũ trụ. Thể tính của Tâm là nhiếp thấu mọi sự, tất cả là một, một là tất cả, đó là tính vô ngại của Tâm. Chân tâm suốt thâu vạn pháp cả hữu tình và vô tình, lấy toàn thể pháp giới tính là lượng, xứng tính bất từ nghì vô ngại giải thoát là thể, đó chính là ý nghĩa căn cốt Kinh Hoa Nghiêm.
Kinh Hoa Nghiêm còn là một thông điệp, bài học phong phú, giúp cho hành giả có tâm hướng thượng đại thừa, biết rằng tu là phải học hành qua hình ảnh Thiện Tài đồng tử, tham bái học đạo với 53 vị thiện tri thức. Đó là bằng chứng rằng tu học đạo bồ đề là thứ tiên quyết, phải khắc phục tâm ngạo mạn, dục vọng mê muội; ngoài thân khiêm cung cầu tiến hành trì Hoa Nghiêm, tìm chân sư liễu ngộ thì mới có thể hiển lộ Phật tính chân tâm.
Kinh Hoa Nghiêm cũng có ý nghĩa là khai mở quang lộ bản tính chân tâm thanh tịnh, là biết được tự thế các pháp hiện hành trong vũ trụ, là thấu suốt cội nguồn sinh sinh - hóa hóa của chúng sinh hữu tình và vô tình; là quán chiếu bí mật nghĩa viên dung tương quan với tâm và cảnh, thống triệt lý viên dung vô ngại chủ và khách của vạn pháp, hiện hành sinh hóa, tương duyên, tương nhân quả, tương sinh, tương diệt. Vạn pháp toàn triệt hiện trên đài gương chân như thể tính, bởi vậy mới nói thọ trì Kinh Hoa Nghiêm là bước vào cửa cầu tu học đạo, là nhân tố đặc thù hoàn chân.
Cũng bởi công đức nhiệm màu, vi diệu của Kinh Hoa Nghiêm mà người có thiện duyên thấy Kinh Hoa Nghiêm, phát tâm thành kính tin tưởng thì như chính mình thấy Phật. Người thành tâm đọc kinh tựa trực tiếp nghe Phật khai thị, người chí thành phụng thờ kinh tựa chính mình phụng thờ Phật. Người phát tâm bồ đề Kinh Hoa Nghiêm có công đức tựa như được cùng dường Phật, được thỉnh Phật trụ thế, chuyển pháp.
Kinh Hoa Nghiêm cao sâu vời vợi, màu nhiệm đến thế nên ai thành kính phát tâm ấn tống, thọ trì kinh này thì là người nhiều kiếp gieo thiện duyên bồ đề, từng là sứ giả nhà Phật, từng ở trong ngôi nhà chánh pháp.
Kinh Hoa Nghiêm thuộc lãnh vực xứng tánh bất từ nghì giải thoát, mỗi lời đều lấy toàn thế pháp giới tính làm lượng. Cũng vì thế mà toàn bộ Giáo - Lý - Hạnh - Quả nơi đây đều dung thông vô ngại, nên cũng gọi là Vô ngại pháp giới.
Ý nghĩa thành đạo trong Kinh Hoa Nghiêm
Theo bộ kinh này, Đức Phật ngồi Bồ đề đạo tràng đi sâu vào đại Thiền định, chứng đắc Tam Minh. Ngài biết được toàn bộ kiếp mình trong quá khứ, thấy sự tiến hóa của pháp là bắt nguồn từ ngũ ấm, tiến tới quốc độ, tạo thành chúng sanh. Từ thân con người, Ngài từng trải qua nếp sống tu khổ hạnh Thanh Văn, rồi tới tu hành quán pháp nhân duyên theo Duyên Giác.
Sau cùng, Ngài hành Bồ tát đạo, cứu độ chúng sinh, chứng Như Lai thân viên mãn bừng sáng trí tuệ, tức là Trí thân. Phật sử dụng Trí thân để quan sát muôn pháp, thấy chúng sinh đều chung gốc ngũ uẩn mà sinh ra, trong đó có Ngài với trí tuệ thấu tỏ cội nguồn các pháp. Vậy nên, với Phật, pháp giới chính là mình, kinh là Pháp thân, là bao hàm muôn loài và điều khiển vạn vật theo trí giác viên mãn, thường gọi là Phổ Quang Minh Chiếu.
Đức Phật thành đạo, đạt đến quả Vô Thượng Đẳng Giác, trang nghiêm bằng Trí thân, Pháp thân, nên với ngoại giới Ngài không bị thiên nhiên xã hội chi phối, với nội giới thì Ngài cũng không bị lệ thuộc bởi tham vọng, tình cảm. Ngài hoàn toàn tự tại, giải thoát trước mọi sự.
Cũng theo kinh Hoa Nghiêm, mọi Bồ tát hành đạo từ phát tâm tu, đi theo lộ trình là thập tín, thập trụ, thập hạnh, thập hồi hướng, thập địa, thập nhẫn, thập định, thập thông. Cụ thể hóa qua hình ảnh Thiện Tài đồng tử trải qua gian nan sóng gió, vượt qua 52 chặng đường cầu thiện tri thức. Đó cũng có thể hiểu là đường giáo hóa độ sanh của Đức Phật, Ngài đã vượt qua mọi chướng duyên, đã tiếp xúc với tất cả thành phần trong xã hội khi hành Bồ tát đạo.
Nhờ vậy, Ngài học hết mọi việc hay dở của chúng sinh, thấu hiểu mọi nguồn sự việc, thành bậc Toàn Giác. Với trí tuệ vô thượng, Ngài thấy biết mọi sự rõ ràng như trong lòng bàn tay, tùy người tùy chỗ tùy lúc mà dìu dắt người gieo nhân duyên căn lành với ngài. Những ai được Phật tiếp độ và tu tâm, dưỡng tính, sống theo lời chỉ dạy của Phật đều lần lượt an lạc, giải thoát.
Cách trì tụng Kinh Hoa Nghiêm
Kinh Hoa Nghiêm là bộ kinh dài, gồm 40 phẩm đã được dịch ra tiếng Việt, là đại diện cho tư tưởng Phật pháp đại thừa về lý hữu hóa duyên sinh của vạn pháp. Trước khi tụng Kinh, người tu tập cần thực hiện nghi thức sám hối trước khi tụng kinh, sau đó tiếp tục Nghi thức trì tụng Kinh Hoa Nghiêm. Xin giản lược phần Nghi thức trì tụng Kinh Hoa Nghiêm trước khi tụng kinh như sau:
BÀI TÁN LƯ HƯƠNG
Lư hương vừa ngún chiên đàn
Khói thơm ngào ngạt muôn ngàn cõi xa
Lòng con kính ngưỡng thiết tha
Ngửa mong chư Phật thương mà chứng minh.
Nam mô Hương Vân Cái Bồ Tát Ma Ha Tát (3 lần)
CHƠN NGÔN TỊNH PHÁP GIỚI
Án Lam (7 lần)
CHƠN NGÔN TỊNH KHẨU NGHIỆP
Tu rị Tu rị ma ha tu rị tu tu rị ta bà ha (3 lần)
CHƠN NGÔN TỊNH BA NGHIỆP
Án ta phạ bà phạ thuật đà ta phạ, đạt mạ ta phạ bà phạ thuật độ ham (3 lần)
CHƠN, NGÔN PHỔ CÚNG DƯỜNG
Án nga nga nẳng tam bà phạ phiệt nhựt ra hồng (3 lần)
BÀI VĂN PHÁT NGUYỆN
Nam mô thập phương thường trụ Tam Bảo (3 lần)
Lậy đấng tam giới Tôn
Quy mạng mười phương Phật
Nay con phát nguyện lớn
Trì tụng Kinh Hoa Nghiêm
Trên đền bốn ơn nặng
Dưới cứu khổ tam đồ
Nếu có ai thấy nghe
Ðều phát bồ đề tâm
Khi mãn báo thân này
Sanh qua cõi Cực Lạc.
Nam mô Bản Sư Thích Ca Mâu Ni Phật (3 lần)
BÀI KỆ KHAI KINH
Phật pháp rộng sâu rất nhiệm mầu
Trăm nghìn muôn kiếp khó tìm cầu
Nay con nghe thấy chuyên trì tụng
Nguyện tỏ Như Lai nghĩa nhiệm mầu
Nam mô Hoa Nghiêm Hội Thượng Phật Bồ Tát Ma Ha Tát (3 lần)
Thứ Hai, 21 tháng 6, 2021
TỨ PHỦ THÁNH CÔ
TỨ PHỦ THÁNH CÔ
Bài viết này nói về thân thế của các Thánh Cô trong Tứ Phủ Thánh Cô. Tứ Phủ Thánh Cô gồm Thập Nhị Thánh Cô (Mười hai cô). Trong Đạo Mẫu, Tứ Phủ Thánh Cô đứng sau Ngũ Vị Tôn Ông, Tứ Phủ Chầu bà, Tứ Phủ Quan Hoàng, đứng trên Tứ Phủ Thánh Cậu.
1. Cô Đệ Nhất Thượng Thiên
- Cô Nhất Thượng Thiên. Cô cũng vốn là con Vua Cha dưới Thủy Tề dưới Thoải Cung, được phong là Thiên Cung Công Chúa trên Thiên Đình.
- Có người nói rằng cô cũng với Cô Chín hầu cận bên cạnh Mẫu Đệ Nhất Thiên Tiên (tức Mẫu Liễu Hạnh) lại có nơi quan niệm cô là Tiên Cô kề cận, tay biên tay chép kề bên Chầu Đệ Nhất Thượng Thiên (tuy nhiên do có quan niệm là Mẫu Đệ Nhất cũng chính là chầu cho nên hai ý kiến này hầu như là thống nhất với nhau).
- Cô giá ngự trong cung tòa, cận bên Mẫu cho nên khi đến các đền phủ người ta thường có lời tấu để cô kêu thay lạy đỡ trước cửa Vua Mẫu Đình Thần Tứ Phủ. Khi thanh nhàn cô cưỡi gió cưỡi mây rong chơi khắp chốn, từ Hà Nội, Hải Phòng, Bắc Ninh, Nghệ An, Thanh Hóa cho đến tận Quảng Bình, Quảng Trị, Bình Định, Gia Định...
- Cô là tiên cô thần thông lục trí, cô chấm đồng người nết na thảo hiền rồi đem về tiến Mẫu trong Đền Mẫu Sòng Sơn. Cô Nhất khá ít khi ngự đồng, chỉ những người sát căn cô mới hay hầu cô hoặc trong các dịp khai đàn mở phủ Cô Nhất về chứng đồng tân lính mới. Khi ngự về Cô Nhất mặc áo màu đỏ (áo gấm hoặc áo lụa thêu phượng), đầu đội khăn đóng (khăn vành dây), thắt khăn và vỉ lét đỏ. Cô làm lễ khai cuông rồi múa quạt. Cô Nhất thường được thờ vào ban Tứ Phủ Thánh Cô ở trong các bản đền.
2.Cô Đôi Thượng Ngàn
- Cô Đôi Thượng Ngàn vốn là con Vua Đế Thích trên Thiên Cung, được phong là Sơn Tinh Công Chúa. Sau cô giáng sinh xuống đất Ninh Bình làm con gái nhà một chúa đất ở chốn sơn lâm.
- Thần tích về Cô Đôi Thượng Ngàn: Khi ấy tỉnh Ninh Bình có một vị quan lang họ Hà người Mường, ông nổi tiếng khắp vùng về nhân đức, phát tâm thiện nguyện, cứu giúp dân nghèo. Hai ông bà đã vào chạc ngũ tuần, nhưng vẫn chưa có một mụn con cho vui cửa vui nhà. Hai ông bà bèn lập đàn tế trời, cầu khẩn. Ngọc Hoàng trên thiên giới cảm cách mà nghe được những lời này mới sai cô xuống hạ giới, đầu thai làm con ông bà để thưởng cho cái đức độ, tiết tháo của ông. Mười hai tháng sau bà bẩm thụ thiên khí mà có thai, sinh ra cô. Khi cô sinh hạ có một đôi chim khách đến đậu trước cửa nhà cô mà hót mãi không thôi, như mừng đấng tiên nữ giáng sinh phàm trần. Năm cô lên bốn tuổi, gia định vị quan lang chuyển tới làm quan ở Huyện Cao Phong, châu Mai Đà, tỉnh Hưng Hóa. Ở trên vùng cao, nước sinh hoạt thiếu thốn, dưới chân núi Đầu Rồng lại có con suối nước thần, nước trong mát quanh năm, người dân ở đó thường ra suối gánh nước về dùng, cô cũng thường ra đó gánh nước về giúp đỡ ông bà.
- Thời gian thấm thoát đã trôi qua, năm đó cô mười hai tuổi mà đã xinh đẹp tuyệt trần da trắng, tóc mượt, mặt tròn, lưng ong thon thả. Đức Mẫu Thượng Ngàn muốn thử lòng người trần gian, độ cho người có tâm, bèn hóa thành một bà lão đói khát, bệnh tật nằm lả ở gốc cây đa dưới chân núi Rồng. Bà nằm đó kêu rên từng tiếng khó nhọc, cầu mong sự giúp đỡ của mọi người qua lại, thế nhưng chẳng ai chịu ra tay cứu giúp bà. Đúng vừa lúc cô ra suối gánh nước thấy bà lão đáng thương, cô động lòng thương cảm bèn quỳ xuống vực bà ngồi dậy, cho bà uống nước. Bất chợt tự nhiên trời đất tối xầm, mây đen kéo tới, gió bụi cuốn lên mù mịt bà lão hiện thành Tiên Chúa Thượng Ngàn và nói với cô: "Ta là đức Diệu Tín Thiền Sư Lê Mại Đại Vương (tức Mẫu Thượng Ngàn), thấy con là người ngoan ngoãn, hiền lành, đức độ. Kiếp trước con là tiên nữ trên tiên giới, nghe lệnh Ngọc Hoàng mà hạ phàm báo ân cha mẹ. Nay ta độ cho con thành tiên trở về bên hầu cận bên cạnh ta, để cứu giúp nhân gian". Đoạn Thánh Mẫu rút cây gậy khắc đầu rồng bên mình ra trao cho cô. Cô nhận cây gậy rồi trở về nhà, bốn ngày sau thì hóa.
Đền chính của Cô Đôi Thượng Ngàn
Nổi lên trên cả là hai ngôi đền thờ cô thuộc địa phận Nho Quan, tỉnh Ninh Bình và huyện Cao Phong, tỉnh Hòa Bình) gắn với truyền thuyết sinh hóa của Cô. Đền Bồng Lai (còn gọi là đền Bồng Lai Hạ) ở Nho Quan, Ninh Bình là nơi Cô được giáng sinh và Đền Bồng Lai Thượng ở Cao Phong, Hòa Bình là nơi Cô hóa.
Cô Đôi Thượng Ngàn còn được thờ tại Đền Cô cách đền Mẫu Đông Cuông khoảng 500m. Ngôi đền này được xây dựng với quan niệm rằng cô là tỳ nữ bên cạnh Mẫu Thượng Ngàn. Khu du lịch tâm linh Hàn Sơn - Thanh Hóa cũng có một ngôi đền thờ Cô. Ngoài ra, Cô Đôi Thượng Ngàn chủ yếu được phối thờ tại các cung Tứ Phủ Thánh Cô hoặc một ban riêng ở các đền phủ.
Truyền thuyết khác về Cô Đôi Thượng Ngàn
Sau này Cô Đôi quyết chí đi theo hầu Đức Diệu Tín Thuyền Sư Lê Mại Đại Vương (chính là Mẫu Thượng Ngàn, Bà Chúa Sơn Trang) học đạo phép để giúp dân. Rồi khi về thiên, cô được theo hầu cận ngay bên cạnh Mẫu Thượng Ngàn Đông Cuông Tuần Quán được Mẫu Bà truyền cho vạn phép, giao cho cô dạy người rừng biết thống nhất về ngôn ngữ (nên có khi còn gọi là Cô Đôi Đông Cuông), cũng có người cho rằng cô về theo hầu cận Chầu Đệ Nhị. Lúc thanh nhàn Cô Đôi Thượng Ngàn về ngự cảnh sơn lâm núi rừng ở đất Ninh Bình quê nhà, trong ba gian đền mát, cô cùng các bạn tiên nàng ca hát vui thú tháng ngày trên sườn dốc Bò, có khi cô biến hiện ra người thiếu nữ xinh đẹp, luận đàm văn thơ cùng các bậc danh sĩ, tương truyền cô cũng rất giỏi văn thơ, làm biết bao kẻ phải mến phục.
Cô Đôi Thượng Ngàn cũng là tiên cô cai quản kho lộc Sơn Lâm Sơn Trang, người trần gian ai nhất tâm thì thường được Cô Đôi ban thưởng, nhược bằng có nợ mà không mau trả lễ cô lại bắt đền nặng hơn. Cô Đôi Thượng Ngàn rất hay ngự về đồng, vì danh tiếng cô lừng lẫy ai ai cũng biết đến, đệ tử cô đông vô số và cô cũng hay bắt đồng.
Khi cô về ngự thường mặc áo lá xanh hoặc quầy đen và áo xanh (ngắn đến hông), trên đầu có dùng khăn (khăn von hoặc khăn vấn) kết thành hình đóa hoa, cũng có một số nơi dâng cô áo xanh, đội khăn đóng (khăn vành dây) và thắt lét xanh, hai bên có cài hai đóa hoa. Cô về đồng thường khai cuông rồi múa mồi, múa tay tiên hái tài hái lộc cho đồng tử.
3. Cô Ba Thoải Cung (Cô Bơ Bông)
Cô Bơ Bông ( hay còn gọi là Cô Ba Thoải Cung) vốn là con Thủy Tề ở dưới Thoải Cung, được phong là Thoải Cung Công Chúa. Có người còn nói rằng, Cô Bơ Bông là con gái vua Long Vương rất xinh đẹp nết na nên được Đức Vương Mẫu (có người cho rằng đó là Mẫu Cửu Trùng Thiên) cho theo hầu cận, chầu chực trong cung cấm.
Sau này Cô Bơ Thoải giáng sinh vào thời Lê Trung Hưng, tương truyền sự tích như sau: Đức Thái Bà nằm mộng thấy có người con gái xinh đẹp, dáng ngọc thướt tha, tóc mượt mắt sáng, má hồng, môi đỏ, cổ cao ba ngấn, mặc áo trắng đến trước sập nằm dâng lên người một viên minh châu rồi nói rằng mình vốn là Thủy Cung Tiên Nữ, nay vâng lệnh cao minh lên phàm trần đầu thai vào nhà đó, sau này để giúp vua giúp nước, thì Thái Bà thụ thai.
Đến ngày 2/8 thì bỗng trên trời mây xanh uốn lượn, nơi Thủy Cung nhã nhạc vang lên, đúng lúc đó, Thái Bà hạ sinh ra được một người con gái, xem ra thì nhan sắc mười phần đúng như trước kia đã thấy chiêm bao. Thấy sự lạ kì vậy nên bà chắc hẳn con mình là bậc thần nữ giáng hạ, sau này sẽ ra tay phù đời nên hết lòng nuôi nấng dạy dỗ bảo ban. Cô lớn lên trở thành người thiếu nữ xinh đẹp, tưởng như ví với các bậc tài nữ từ ngàn xưa, lại giỏi văn thơ đàn hát. Đến khi cô vừa độ trăng tròn thì cũng là lúc nước nhà phải chịu ách đô hộ của giặc Minh, cô cùng thân mẫu lánh vào phía sâu vùng Hà Trung Thanh Hóa, nơi ngã ba bến Đò Lèn, Phong Mục. Trong cuộc kháng chiến chống quân Minh, cô đã có công giúp vua Lê trong những năm đầu kháng chiến (và có nơi còn nói rằng cô cũng hiển ứng giúp nhà Lê trong công cuộc “Phù Lê Dẹp Mạc” sau này).
Trong dân gian vẫn còn lưu truyền lại câu chuyện sau: Vào những năm đầu khởi nghĩa, quân ta (ý nói nghĩa quân do vua Lê Lợi chỉ huy) vẫn còn yếu về lực lượng, thường xuyên bị địch truy đuổi, một lần Lê Lợi (có sách nói là Lê Lai) bị địch đuổi đến ngã ba sông Thác Hàn ở Hà Trung thì gặp Cô Bơ đang tỉa ngô liền xin cô giúp đỡ, cô bảo người lấy quần áo nông dân mặc vào, còn áo bào thì đem vùi xuống dưới ruộng ngô rồi cũng cô xuống ruộng giả như đang tỉa ngô. Vừa lúc đó thì quân giặc kéo đến, chúng hỏi cô có thấy ai chạy qua đo không thì cô bảo rằng chỉ có cô và anh trai (do Lê Lợi đóng giả) đang tỉa ngô, thấy vậy quân giặc bỏ đi. Lê Lợi rất biết ơn cô, hẹn ngày sau đại thắng khải hoàn sẽ rước cô về Triều Đình phong công và phong cô làm phi tử. Sau đó cô cũng không quản gian nguy, bí mật chèo thuyền trên ngã ba sông, chở quân sĩ qua sông, có khi là chở cả quân nhu quân lương. Có thể nói trong kháng chiến chống Minh thì công lao của cô là không nhỏ. Đến ngày khúc hát khải hoàn cất lên thì vua Lê mới nhớ đến người thiếu nữ năm xưa ở đất Hà Trung, liền sai quân đến đón, nhưng đến nơi thì cô đã thác tự bao giờ, còn nghe các bô lão kể lại là ngày qua ngày cô đã một lòng đợi chờ, không chịu kết duyên cùng ai, cho đến khi thác hóa vẫn một lòng kiên trinh.
Người ta cho rằng, Cô Bơ được lệnh Vua Cha giáng trần để giúp vua, đến chí kì mãn hạn thì có xe loan lên đón rước cô về Thủy Cung. Sau đó cô hiển linh giúp dân chúng ở vùng ngã ba sông, độ cho thuyền bè qua lại được thuận buồm xuôi gió vậy nên cô còn có danh hiệu là Cô Bơ Bông (do tích cô giáng ở ngã ba sông) hay Cô Bơ Thác Hàn (theo tên gọi ở nơi quê nhà). Ai hữu sự đến kêu van cửa cô đều được như ý nên danh tiếng cô vang lừng khắp nơi nơi Cô Bơ luôn giá ngự về đồng, già trẻ, từ đồng tân đến đồng cựu, hầu như ai cũng hầu về Cô Bơ Bông. Khi cô giáng vào ai, dù già hay trẻ thì sắc mặt đều trở nên hồng hào tươi tốt, đẹp đẽ lạ thường. Khi cô ngự đồng, cô thường mặc áo trắng, đầu đội khăn đóng (khăn vành dây) có thắt lét trắng (có khi dùng thắt dải lưng hồng) rồi cô cầm đôi mái chèo, bẻ lái dạo chơi khắp nơi. Lúc chèo thuyền có khi có còn khoác thêm chiếc áo choàng trắng, trên khăn có cài ba nén hương, bên hông có dắt tiền đò, rồi khi chèo thuyền xong, cô lại cầm dải lụa để đi đo gió đo nước đo mây. Lúc cô an tọa người ta thường xin cô thuốc để trị bệnh, vậy nên Cô Bơ ngự về thường hay làm phép “thần phù” để ban thuốc chữa bệnh. Vì theo quan niệm nguyên xưa Cô Bơ Bông hầu cận Mẫu Thoải, lại theo sự tích nơi quê nhà cô là ở đất Hà Trung, Thanh Hóa, ngã ba Bông bến đò Lèn nên đền cô được lập ở đó, gần đền Mẫu Thác Hàn (chính là Mẫu Thoải), gọi tên là Đền Cô Bơ Bông thuộc xã Hà Sơn, huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa, trước đây đường đi vào rất khó khăn, nhưng hiện giờ đã được tu sửa nên giao thông đã dễ dàng hơn
Đền Cô Bơ là nơi thắng cảnh “trên bến dưới thuyền”, nơi giao của Ngũ huyện kê: “Một tiếng gà gáy năm huyện đều nghe” cũng với danh tiếng anh linh của tiên cô nên khách thập phương đến chiêm bái, cầu xin nhân duyên, khoa cử, làm ăn rất đông đúc. Thuyền bè dưới bến sông qua lại đều phải đốt vàng mã kêu cô, rồi những người đến kêu cầu đều dâng cô nón trắng hài cườm, võng lụa thuyền rồng.
Một thần tích khác về Cô Bơ Bông
Theo cuốn "Lê Triều Thần Phả Ngoại Biên" được lưu giữ tại Thái Miếu họ Lê có ghi chép về thần tích cô Bơ Bông tóm tắt như sau:
Vào khoảng năm 1432, vua Lê Lợi có một đêm mộng thấy một nữ thủy thần báo mộng: "Ta là con gái vua Thủy tề đây. Nhà vua còn nhớ là nợ ta một lời hẹn ước hay không? Bây giờ nghiệp đế vương đã thành sao chưa thấy trả". Vua Lê Lợi giật mình tỉnh dậy mới nhớ lại chuyện cũ. Ngày xưa, vào những năm đầu khởi nghĩa, Lê Lợi bị địch đuổi đến ngã ba sông Thác Hàn ở Hà Trung thì gặp cô gái xinh đẹp, đoan trang đang tỉa ngô được cô cứu thoát.
Vua Lê Lợi để tỏ biết ơn cô, có nói với cô rằng: " Ta có một cháu trai tuấn tú, khôi ngô, văn võ song toàn. Sau này kháng chiến thành công ta sẽ gả cháu ta cho cô." Người mà Lê Lợi nhắc đến chính là tướng quân Lê Khôi, cháu trai của Lê Lợi (Tướng Lê Khôi chính là một trong các hiện thân của Quan Hoàng Mười được thờ tại đền Củi ngày nay). Cô gái ấy chính là hiện thân của Cô Bơ.
Tương truyền rằng, sau thắng lợi, Vua Lê Lợi có quay lại tìm cô gái nhưng không thấy. Như vậy lời hứa gả cô cho tướng Lê Khôi đã không được thực hiện.
Sau giấc mơ, biết cô gái tỉa ngô nơi xưa chính là con gái vua thủy tề, hiện thân lên cõi trần để giúp vua xây dựng nghiệp lớn, vua Lê Lợi đã phong cô là "Thượng Đằng Thần" và cho xây dựng đền Cô, để tưởng nhớ công lao của Cô.
4. Cô Tư Ỷ La, Cô Tư Địa Phủ
Cô Tư Ỷ La cũng vốn là con vua Đế Thích chính cung. Theo lệnh vua cha, cô theo hầu Mẫu Thượng Ngàn tại đất Tuyên Quang. Về sau, nơi Mẫu giá ngự đó, người ta lập đền Mẫu Ỷ La nên cô cũng được gọi là Cô Tư Ỷ La. Tương truyền rằng, Mẫu bà rất yêu quý, thường cho Cô Tư kề cận bên mình. Vậy nên đúng như các tư liệu ghi lại thì chính xác là Cô Tư hầu cận Mẫu Thượng Ngàn chứ không phải cô hầu cận Chầu Bà Đệ Tứ Khâm Sai như chúng ta vẫn thường nghĩ. Ngoài ra Cô Tư còn có một danh hiệu khác là Cô Tư Tứ Tổng Tây Hồ. Qua ước đoán, có thể suy ra rằng danh hiệu này là do Cô Tư đã từng giáng hiện tại đất Tây Hồ, Hà Nội rong chơi, và điển hình nhất là hiện nay vẫn có ban thờ Cô Tư tại đình Tứ Liên; một ngôi đình cổ nằm ở gần Phủ Tây Hồ, Hà Nội.
Trong hàng Tứ Phủ Tiên Cô, Cô Tư Ỷ La thường hiếm khi thấy ngự về đồng nên nếu nói về y phục cũng như cung cách khi hầu giá Cô Tư hiện giờ là rất khó. Tuy nhiên theo phỏng đoán của người viết thì có thể khi hầu giá Cô Tư Ỷ La thường mặc xiêm áo màu vàng nhạt, cô có thể khai cuông và múa mồi hầu Mẫu (đây chỉ là ý kiến cá nhân đưa ra để mọi người tham khảo). Hiện nay Cô Tư vẫn được coi là thờ chính cung hầu Mẫu Thượng Ngàn trong đền Mẫu Ỷ La thuộc thị xã Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang. Ngoài ra, như đã nói ở trên, Cô Tư còn được thờ vọng trong Đình Tứ Liên ( xưa gọi là Đình làng Ngoại Châu), phường Tứ Liên, quận Tây Hồ, Hà Nội. Khi các thanh đồng hầu tráng mạn đến giá Cô Tư,
5. Cô Năm Suối Lân
Cô Năm Suối Lân vốn là tiên nữ trên trời, theo lệnh cô giáng trần là người thiếu nữ dân tộc Nùng ở xứ Lạng. Có tích lại kể rằng Cô Năm là người thị nữ thân cận bên Chầu Năm Suối Lân ( lúc sinh thời khi chầu còn là công chúa) nên cô cũng được tôn hiệu là Cô Năm Suối Lân hay Cô Năm Sông Hoá. Sau này được sắc phong hiển thánh, Cô Năm vẫn được coi là tiên cô kề cận bên cửa Chầu Năm, cô được coi là tiên cô trông giữ bản đền Suối Lân. Ngoài ra cô còn được coi là vị thánh trấn tại cửa rừng Suối Lân (cung rừng này một cửa vào là cửa Suối Lân do Cô Năm Suối Lân trấn giữ, cửa ra là cửa Thất Khê do Cô Bé Đèo Kẻng trấn giữ), vậy nên, ai đi chiêm bái trên đất Lạng đều phải qua bái yết cửa Chầu Năm và Cô Năm Suối Lân. Dòng Suối Lân do Cô Năm cai quản bốn mùa trong xanh, nước thông về sông Hoá, tương truyền rằng đây là dòng suối thiêng của cô, nước suối xanh mát bốn mùa không bao giờ cạn, nếu ai có bệnh tật đến xin nước suối cửa cô, uống vào sẽ thuyên giảm, nhược bằng, người nào không biết mà xuống suối tắm hay rửa chân tay, làm ô uế dòng suối của cô sẽ bị cô hành cho sốt nóng mê sảng. Phép anh linh của Cô Năm Suối Lân còn được biết qua việc nếu có kẻ nào báng nhạo cô sẽ “xát lá han” làm cho kẻ đó luôn ngứa ngáy không yên, rồi cô cho đi lạc đường rừng.
Trong hàng thánh cô, thường thấy Cô Năm Suối Lân ít khi ngự đồng hơn Cô Sáu Lục Cung, thường chỉ người nào có sát căn quả về cửa Cô Năm hoặc khi về đền Suối Lân thì có thấy thỉnh bóng Cô Năm ngự đồng. Khi hầu về giá Cô Năm Suối Lân, thường người ta mặc xiêm y như màu áo của Chầu Năm (nhưng là áo ngắn vạt), đó có thể là màu xanh thiên thanh hoặc xanh lá cây, cô chít khăn củ ấu, bên mình có túi vóc, dao quai. Ngự đồng cô khai cuông rồi múa mồi. Hiện nay Cô Năm Suối Lân được phụng thờ là thánh cô trấn giữ cửa Suối Lân Sông Hoá, cung thờ cô được đặt cạnh ngay đền chính của cửa Chầu Năm Suối Lân (huyện Hữu Lũng, Lạng Sơn).
6. Cô Sáu Lục Cung, Cô Sáu Sơn Trang
Cô Sáu Lục Cung cũng vốn là thánh cô nguyên tích là người Nùng ở đất Hữu Lũng, Lạng Sơn. Có thuyết thì nói rằng Cô Sáu là tiên cô kề cận bên cửa Chúa Thượng Ngàn ở đất Trang Châu (chưa xác định rõ), còn lại đa phần đều thống nhất rằng Cô Sáu là người kề cận Chầu Lục Cung Nương nên cô mới được gọi là Cô Sáu Lục Cung hay còn có danh khác là Cô Sáu Sơn Trang. Khi nhân dân lập đền thờ phụng Chầu Bà, vẫn thỉnh Cô Sáu là cô trấn bản đền Lục Cung. Ngoài ra, theo một số tích cũ kể lại, Cô Sáu Lục Cung sinh thời là người con gái xinh đẹp nết na, lại có tài chữa bệnh, cô thường đi khắp rừng sâu núi thẳm để hái thuốc cứu người vậy nên khi hiển thánh, Cô Sáu vẫn thường được muôn dân tôn là tiên cô có tài chữa bệnh cứu người, dân chúng khắp nơi về cửa cô để xin thuốc tiên trị bệnh. Cô Sáu Sơn Trang cũng nổi tiếng đành hanh trên đời, nghiêm khắc trừng trị kẻ nào nhạo báng cửa cô.
Trong hàng Tứ Phủ Thánh Cô, Cô Sáu Lục Cung rất hay về ngự đồng. Các thanh đồng đạo quan thường thỉnh bóng Cô Sáu Sơn Trang ngự đồng không chỉ có khi về đền Lục Cung, về đất Lạng Sơn mà cả khi khai đàn mở phủ hay trong cả những dịp hầu vui, đón tiệc tiên thánh. Cô Sáu ngự đồng thường mặc áo lam hoặc áo tím chàm (ngắn vạt rộng tay). Cô ngự đồng khai cuông rồi múa mồi như các tiên cô trên Thượng Ngàn khác. Hiện nay Cô Sáu Lục Cung chính là thánh cô trấn giữ bản đền Lục Cung Chín Tư, cung thờ cô được xây ngay cạnh chính cung đền Chầu Lục Cung Nương (Chín Tư, Hữu Lũng, Lạng Sơn).
(Mời các bạn click vào đường link này Đền Cô Sáu Lục Cung để xem thêm về Cô Sáu Lục Cung)
7. Cô Bảy Tân La, Cô Bảy Kim Giao, Cô Bảy Mỏ Bạch
Cô Bảy Kim Giao còn gọi là Cô Bảy Mỏ Bạch. Cô vốn cũng là một tiên cô người dân tộc Mọi ở đền Kim Giao, Mỏ Bạch, Thái Nguyên. Theo một số tích nói rằng cô cũng là người kề cận bên Chầu Bảy nên cũng được gọi là Cô Bảy Kim Giao hay còn có hiệu khác là Cô Bảy Tân La ( khi cô được theo hầu cận Chầu Bảy tại đền Tân La). Tương truyền rằng cô cũng là vị thánh cô có công giúp người dân Mọi biết trồng trọt chăn nuôi rồi cô cũng có công trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược phương Bắc. Vậy theo một số tài liệu thì chính xác Cô Bảy là Cô Bảy Kim Giao hay Cô Bảy Tân La (theo hầu Chầu Bảy Kim Giao) chứ không phải là Cô Bảy Tân An (theo hầu Ông Bảy Bảo Hà ) như một số người vẫn nói. Còn có sự tích nói rằng, đêm đêm cô thường hội họp cùng các bạn tiên nàng, mắc võng đào giữa hai cây kim giao rồi cùng đàn hát.
Trong hội đồng Thánh Cô, Cô Bảy Kim Giao là một trong số các cô ít khi ngự đồng nếu không nói là hầu như không thấy. Vậy nên nếu để nói đến y phục và cung cách hầu giá Cô Bảy là rất khó, theo phỏng đoán của người viết thì có thể giá Cô Bảy Kim Giao mặc áo tím hoặc chàm xanh, cô ngự đồng khai cuông rồi múa mồi. Hiện nay, Cô Bảy vẫn được thờ làm cô bản đền tại chính cung Đền Kim Giao (Thanh Liên, Mỏ Bạch, Thái Nguyên) và còn cả tại đền Tân La ( Dốc Lã, Bảo Khê, Hưng Yên). Khi hầu tráng mạn đến giá Cô Bảy Kim Giao
8. Cô Tám Đồi Chè
Có một số ý kiến thống nhất rằng: Cô Tám Đồi Chè giáng sinh dưới thời Lê Thái Tổ dấy binh khởi nghĩa, cô là người thiếu nữ trồng hái búp chè tại vùng Phong Mục, Hà Trung, Thanh Hoá. Cô cũng có công giúp vua trong công cuộc đánh đuổi giặc ngoại xâm nên khi thác hoá về trời, cô được phong công lập đền thờ, trấn giữ một bên bến song Đò Lèn, Phong Mục. Cô sinh thời là người con gái đảm đang nết na tần tảo, hái búp chè xanh trên đồi thường dung làm thuốc chữa bệnh nên mọi người thường tôn hiệu là Cô Tám Đồi Chè. Khi thanh nhàn, cô thường đủng đỉnh dạo chơi khắp vùng Hà Trung, Thanh Hoá, cũng có khi cô hiện hình bẻ lái con thuyền độc mộc trên dòng sông Mã.
Trong hàng Tứ Phủ Thánh Cô, Cô Tám Đồi Chè hiếm khi về ngự đồng, chỉ có người nào sát về Cô Tám hoặc khi hầu đón tiệc tháng 6 tại các đền ở vùng Thanh Hoá. Cô Tám Đồi Chè ngự đồng thường mặc áo xanh quầy đen ( có nơi là áo tím hoa cà ) . Cô Tám cũng khai quang sau đó múa mồi, sau đó thường là múa tay tiên các điệu như người đi hái chè trên non. Hiện nay đền thờ Cô Tám Đồi Chè được thờ riêng tại đền cô thuộc đất Phong Mục, huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hoá, nếu đi từ đền Cô Bơ sang thì qua đò Lèn, đền cô rất khang trang nhưng ít người biết tới.
9. Cô Chín Sòng Sơn, Cô Chín Thượng Ngàn
Đền Cô Chín Sòng Sơn tại Phường Bắc Sơn, thị xã Bỉm Sơn. Nếu từ Hà Nội về Thanh Hóa thì đền Mẫu Sòng nằm ở bên phải đường thì đền Cô Chín Sòng nằm bên trái. Hai đền chỉ cách nhau khoảng 500 m.
Tương truyền, Cô Chín là hầu cận của Chầu Cửu, Mẫu Cửu. Có tài liệu cho rằng Cô Chín là hầu cận của Mẫu Thoải.
Theo truyền thuyêt, Cô Chín Sòng Sơn vốn là một tiên nữ trên Thiên Đình, có một lần vô tình đánh vỡ một chén ngọc nên Ngọc Hoàng giáng xuống hạ giới để theo hầu Mẫu Liễu Hạnh. Khi được giáng trần Cô đã bôn ba bốn phương khắp ngả trời Nam, sau về đến đất Thanh Hóa thấy cảnh lạ vô biên, cô hài lòng liền hội họp thần nữ năm ba bạn cát, lấy gỗ cây sung làm nhà, còn cây si mắc võng. Nhân dân cầu đảo linh ứng liền lập đền thờ. Có lẽ vì vậy, người ta sau này hay dâng Cô Chín võng đào.
Hiện chưa thấy tài liệu nào là cô giáng sinh vào một nhân vật nào trên trần gian. Như vậy, thân thế của Cô nghiêng về phía thiên thần.
Cô Chín Sòng Sơn là một thánh cô có nhiều quyền phép. Những người có căn Cô Chín thường có khả năng xem bói, chữa bệnh và gọi hồn. Tuy nhiên, trong khi giáng hầu Cô Chín chỉ hay cho thuốc chữa bênh.
Cô Chín rất hay ngự đồng. Hết các thanh đồng khi Hầu Thánh đều có hầu giá Cô Chín. Khi giáng hầu Cô Chín thường mặc áo hồng phơn phớt màu đào phai và cô múa quạt tiến Mẫu. Đôi khi Cô cũng múa cờ tiến Vua, cũng có khi cô thêu hoa dệt lụa, rồi lại múa cánh tiên. Ai cầu đảo cô đều sắm sửa lễ vật: Nón đỏ, hài hoa, vòng hồng hay võng đào.
Có lẽ Cô Chín là một Thánh Cô nổi tiếng nhất trong các Thánh Cô nên hầu hết các đền, phủ đều có thờ Cô. Tại các đền phủ, Cô Chín có thể có ban thờ riêng hoặc thờ chung với Cô Bơ hoặc thờ chung trong Cung Tứ Phủ Thánh Cô; hoặc Cô được thờ ở một Lầu Cô riêng biệt: Cung Cô Chín đền Mẫu Sòng Sơn, cung Cô Chín Phủ Quảng Cung.
Cô Chín ngoài thờ chính tại Đền Cô Chín Sòng Sơn còn có các đền Cô Chín Thượng Bắc Giang, Đền Cô Chín Suối Rồng, đền Cô Chín Tây Thiên....
10. Cô Mười Mỏ Ba ( hay Cô Mười Đồng Mỏ)
Cô Mười Đồng Mỏ theo hầu Chầu Mười Mỏ Ba, giúp vua đánh giặc Ngô, khi ngự về cô mặc áo vàng cầm cung kiếm cưỡi trên mình ngựa theo chầu bà xông pha trận mạc, sau này cô cũng được thờ tại đền Chầu Mười.
Thần tích về Cô Mười hiện nay hầu như không có. Người viết chưa sưu tầm được thêm.
11. Cô Bé Thượng Ngàn
Cô Bé Thượng Ngàn là Tiên Cô mà tên gọi thường được đặt theo tên các địa danh, các đền thờ. Các vị cô bé đều là những bộ nàng trên Tòa Sơn Trang, hầu Mẫu Thượng Ngàn, có rất nhiều cô bé trên khắp các cửa rừng lớn nhỏ. Các cô về mặc quần áo thổ cẩm, chân quấn xà cạp, đeo kiềng bạc, tay cầm ô, vai đeo gùi. Các cô bé gồm:
Cô Bé Thượng Ngàn (Thị Xã Lạng Sơn)
Đây là nơi thờ chính cung của Cô bé Thượng Ngàn. Ngôi đền nằm ngay sát sông Kỳ Cùng.
Cô Bé Suối Ngang (Hữu Lũng)
Đây là ngôi đền nằm trong rừng thuộc xã Phố Vị, huyện Hữu Lũng. Hiện chưa tìm được thần tích của Cô.
Cô Bé Đông Cuông (Yên Bái)
Đây là ngôi đền nằm ngay đường vào đền Mẫu Đông Cuông, chỉ cách đền Mẫu khoảng vài trăm mét. Thần tích của Cô chưa rõ ràng lắm. Tuy nhiên theo văn hầu của Cô thì:
Đông Cuông chính là nơi chôn rau, cắt rốn của Cô:
Đông Cuông chính quán quê nhà
Thiên thai cảnh đẹp 1 tòa Sơn Trang
Mặc dù cô xuất thân từ một gia đình danh gia vọng tộc:
Vốn dòng đài các trâm oanh
Ra tay giáo hoá Cứu người giúp dân
Nhưng sinh thời và sau khi hiển thánh, cô là một cô bé nhu mì, thùy mị,đảm đang và hay đàn, hay hát:
Mẫu khen cô bé nhu mì
Nết na thùy mị dịu dàng đảm đang
.......
Ngồi trên đỉnh núi ngắm trăng
Tay cô gảy khúc cung ngâm dịu dàng
Tuy vậy, cô làm việc lại hết sức rõ ràng, phân minh nhưng cũng rất quảng đại. Có tội cô xử, nhưng biết tội, cô tha. Nếu sống nhân, bất nghĩa cô sẽ trừng phạt liền:
Ai mà độc ác bất nhân
Cô liền hóa phép cho thời khốn thay
Biết ra phải tới kêu ngay
Cô cho nước thánh thuốc tiên khỏi liền
Cứu người nửa dại nửa điên
Hiếu thuận thảo hiền cô mới độ cho
Cô hầu cận Mẫu Đông Cuông và luôn tấu đối với Mẫu để ban tài, ban lộc cho các thanh đồng và con nhang, đệ tử
Ban tài tiếp lộc cho đồng
Cô về tấu đối Thánh Bà Đông Cuông
Lộc tài vượng tiến công danh
Lộc cô vô số trên kho thượng ngàn
Cô Bé Chí Mìu:
Đền Cô Bé Chí Mìu nằm ở bản Chí Mìu, xã Hương Sơn, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang. Cô bé Chí Mìu là Cô Bé Thượng Ngàn, do đền Cô nằm ở bản Chí Mìu nên mọi người đều gọi cô theo tên địa danh của đền là Cô Bé Chí Mìu. Cô Bé Chí Mìu được coi là một Cô Bé Thượng Ngàn nổi tiếng nhất tron các cô bé Thượng Ngàn.
Cô Bé Tân An (Lào Cai): Từ rất xa xưa, bên bờ sông Hồng tại thôn Tân An 2 thuộc xã Tân An, huyện Văn Bàn, tỉnh Lào Cai, đã có một ngôi Đền gọi là Đền Cô Tân An (còn gọi là Đền Cô Bé Thượng Ngàn), là nơi thờ tự một nữ chúa có tên húy là Hoàng Bà Xa, tương truyền đã cùng cha là đức quan ngài Hoàng Bảy, có công chinh phạt giặc ác, giữ yên bờ cõi, được cư dân vùng Bảo Hà và Khau Ban (địa danh Văn Bàn cổ xưa) suy tôn là vị Thánh Mẫu. Đối diện bên kia sông là đền Bảo Hà (huyện Bảo Yên, tỉnh Lào Cai)- thờ Đức quan ngài Hoàng Bảy. Vì Nguyễn Hoàng Bà Xa là con gái Quan Hoàng Bảy được thờ ở Tân An nên Cô còn được gọi là Cô Bảy Tân An.
Cô Bé Cây Xanh (Bắc Giang)
Cô Bé Cây Xanh theo hầu Mẫu Thượng Ngàn với hiện thân là Quế Mỵ Nương Công chúa. Mỵ Nương Công Chúa là hiện thân của Mẫu Thượng Ngàn tại vùng Suối Mỡ. Hiện chưa tìm được thần tích về Cô Bé Cây Xanh ở đây.
Để xem chi tiết về cô bé Cây Xanh Bắc Giang các bạn click vào đường link dưới đây:
Cô Bé cây Xanh - Bắc Giang
Cô Bé Cây Xanh ( Tuyên Quang)
Cô Bé Cây Xanh là người hầu cận mẫu Thượng Ngàn tại bản đền Cây Xanh Tuyên quang. Ngôi đền này còn có tên là Đề Cảnh Xanh. Đền thờ chính của Mẫu Thượng Ngàn. Hiện chưa phát hiện được thần tích về Cô.
Để xem chi tiết về cô bé Cây Xanh Tuyên Quang các bạn click vào đường link dưới đây: Cô Bé cây Xanh Tuyên Quang
Cô Bé Nguyệt Hồ (Bắc Giang)
Cô bé Nguyệt Hồ được thờ tại cung cô tại Đền Nguyệt Hồ. Hiện chưa phát hiện được thần tích về Cô, chỉ biết Cô là hầu cận của Chúa Nguyệt Hồ.
Cô Bé Minh Lương (Tuyên Quang)
Truyền thuyết kể rằng, vào thời nhà Trần (thế kỷ XV), ở tổng Minh Lương, thuộc xã Lang Quán ngày nay có hai vợ chồng, ông chồng là người Dao, bà vợ là người Mường tuổi đã cao mà chưa có con. Ngày ngày ông bà ra ngòi Lịch xúc tôm tép sống lần hồi. Một hôm, ông ở nhà, bà đi xúc tép như mọi ngày, nhưng xúc mãi không được con gì mà chỉ được hai quả trứng lạ. Bực mình, bà xuống hạ nguồn rồi lên tận thượng nguồn ngòi Lịch xúc vẫn chỉ được hai quả trứng ấy. Bà đành mang về thả vào chum nước dưới cầu thang. Ít lâu sau, bà mang thai và sinh ra một cô bé bụ bẫm, đặt tên là Minh Lương. Cùng lúc đó, hai quả trứng thả trong chum nước dưới cầu thang nở ra hai con rắn. Hai con rắn và Cô bé Minh Lương cùng lớn lên, quấn quýt làm bạn với nhau.
Một buổi chiều, ông bà đi làm về và nhìn thấy hai con rắn quấn chết cô bé. Sẵn con dao rựa đeo bên người, ông tức giận rút dao vừa chém, vừa nói “Mày hại tao à”. Hai con rắn sợ quá chạy trốn, nhưng một con chậm hơn đã bị chém đứt đuôi. Ông đuổi hai con rắn và nói: “Cụt đi hang Mang, Khoang đi hang Đồng”.
Ông bà xót thương cô bé, không nỡ chôn, nên đặt cô nằm ở trên sàn. Đến sáng đã thấy mối đùn lên đắp mộ cho cô bé. Dân làng thấy vậy đều cho là cô đã linh hoá nên lập miếu thờ. Thời kỳ giặc Cờ đen, cô bé Minh Lương đã hiển linh giúp quan quân triều đình thoát khỏi rừng rậm, sau đó dũng mãnh dẹp sạch giặc Cờ đen. Sau đó Cô còn hiển linh bốc thuốc, giúp dân chữa bệnh thoát cơn hiểm nghèo.
Cô Bé Thác Bờ (Hòa Bình)
Cô bé Thác Bờ được thờ ở đền Chúa Thác Bờ Vầy Nưa, Đà Bắc, Hòa Bình. Cô bé Thác Bờ tương truyền là hầu cận của Chúa Thác Bờ. Hiện chưa tìm được thần tích về Cô bé nơi đây.
Cô Bé Sóc (Miền Nam)
Còn gọi là Cô Bé Đen, mặc khăn áo đen và hồng. Về đồng múa mồi, dùng nhang chữa bệnh. Cô đánh phấn màu đen, phấn đỏ cô để ban khen cho thanh đông cô. Hay về đồng tại Miền Nam.
Cô Bé Mỏ Than( Tuyên Quang)
Truyện chuyền miệng kể rằng : Thần Kim Quy thấy mỏ quý của vua cha mẫu mẹ tại đền Mỏ Than. Đã rủ cá Kình ở biển Đông về cùng nhau mang hết mỏ quý ra vùng Nam Hải khi đất ở đây chỉ còn là giữa núi và biển, cá Kình đứng gác bên ngoài, thần Kim Quy xuống hang và khi lên tới gần miệng hang thì ông Cóc (ở gần miếu Sơn Thần) đã nghiến răng báo lên thiên đình cho Ngọc Hoàng Thượng Đế, Ngọc Hoàng củ cô Mười xuống. Cô bé cưỡi trên lưng hai con rồng bay xuống thấy khoảng trời u ám có khí lạnh bay lên. Cô nhảy vội xuống với hai vết chân chẹn lên thần Kim Quy, vết chân phải trượt gót mờ, bàn chân trái đè oằn cổ rùa. Bắt rùa hoá đá (Bách gia trăm họ gọi là quy trị bản đền) thần Kim Quy hoá đá thì cà Kình ở biển Đông cũng hoá đá. (Tất cả các cảnh quan của đền quay về nơi phật ngự phương tây riêng có cá Kình quay về phía Đông Bắc). Nhờ Cô Bé Mỏ mà bách gia trăm họ vẫn còn “mỏ tụ đồng” xưa. Đến Pháp tìm ra mỏ than hay còn gọi là vàng đen của đất nước. Hiện nay còn nuôi dưỡng mỏ kim cương non. Cho nên ở chính nơi đây còn tồn tại truyền thuyết Cô Bé Mỏ Than (hay Cô Bé Mỏ Cây Xanh). Cô bắt ông Ba Mươi phủ phục bên mình, cô xin vua cha mẫu mẹ cho cây xanh bao bọc lấy mỏ và bốn mùa toả bóng mát cho cô hoàn thành việc cha việc mẹ. Ngoài ra cô còn chữa bệnh cho bách gia trăm họ. Nhất là những người dở dại dở điên. Những lúc thư nhàn cô gọi đàn chim ngũ sắc về vây quanh ca hát, lúc đi lúc về cổ thường mang sắc thái màu vàng với âm thanh của tiếng chim vàng anh báo biến, báo hiện. Khi cô đi xa cô thường để lại đôi dải thắt lưng màu đen ở lại (đôi long xà có mào) để giữ đền giữ phủ. Người ta truyền rằng ai nhìn thấy ông rắn có mào là người đó được lên danh lên giá. Nhưng người đó phải là người thực tâm không có tâm tà. Xưa những người đàn bà bụng mang dạ chửa phải đi vòng qua cửa cô cách nữa dặm. bất kể ai qua nơi cô ngự đều phải bỏ nón mũ xin cô thực tâm cô phù hộ. Tà tâm cô cho náo loạn gia trung.
12. Cô Bé Thoải Cung
Cô ngự ở dưới tòa Thoải Cung, Cô rất xinh đẹp, tài giỏi, có thể hô mưa gọi gió... Thần tích về cô hiện chưa sưu tầm được và cũng rõ những nơi nào thờ cô.
Hệ thống thần linh Tứ Phủ: danh hiệu và hàng vị
Hệ thống thần linh Tứ Phủ: danh hiệu và hàng vị
Tín ngưỡng Tứ Phủ là tín ngưỡng dân gian thuần Việt đã có lịch sử hình thành, phát triển hơn nghìn năm tại Việt Nam. Tục thờ hệ thống thần linh Tứ Phủ thể hiện đặc sắc đời sống tâm linh của người Việt xưa và nay, là một nét đẹp văn hóa tinh thần đặc trưng riêng có của dân tộc. Để có cái nhìn toàn diện và chi tiết về tín ngưỡng tâm linh phủ khắp đời sống nhân dân đất Việt, sau đây Oản Cô Tâm sẽ hệ thống toàn bộ các vị thần linh Tứ Phủ bao gồm hàng vị và vai trò của từng vị thánh.
“Tín ngưỡng thờ Mẫu” và “Tín ngưỡng Tam Tứ Phủ” có giống nhau?
Theo quan điểm của tác giả cuốn sách “Tín ngưỡng Tam Tứ Phủ và thờ thánh ở Việt Nam”, rất nhiều người thường hay nhầm lẫn về hai khái niệm này. Về cơ bản “Tín ngưỡng thờ Mẫu” và “Tín ngưỡng Tam Tứ Phủ” có phần giống nhau nhưng, tín ngưỡng thờ Mẫu có phần rộng hơn.
Cụ thể, lớp tín ngưỡng thờ Mẫu phủ rộng khắp miền Bắc Trung Nam Việt Nam, tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau.
Tại miền Bắc, bắt nguồn từ tục thờ Nữ thần có nguồn gốc xa xưa từ thời tiền sử, tới thời phong kiến một số nữ thần được cung đình hóa và lịch sử hóa để trở thành các Mẫu thần tương ứng thế kỷ 15 trở về trước với việc phong thần của triều đình phong kiến với danh xưng như Quốc Mẫu, Vương Mẫu, Thánh Mẫu,…
Từ thế kỷ 15 trở đi, hình thức thờ mẫu Tam Tứ Phủ được định hình và phát triển với sự xuất hiện của thánh mẫu Liễu Hạnh, mẫu Thượng Ngàn, Mẫu Thoải, … cùng các vị thánh khác thuộc hệ thống thần linh Tứ Phủ.
Ở Trung Bộ, hình thức thờ Mẫu thể hiện qua hình thức thờ Nữ thần và mẫu thần như Tứ Vị Thánh Nương, Bà Ngũ Hành, Thiên Y A Na.
Ở Nam Bộ, tục thờ Mẫu thần và Nữ thần ít rõ ràng hơn với các vị thần được thờ phụng như Bà Ngũ Hành, Tứ Vị Thánh Nương, Bà Chúa Lộc, Bà Tổ Cô, …
Ngoài ra, không giống tín ngưỡng thờ Mẫu, tín ngưỡng Tam Tứ Phủ còn thờ các nam thần khác như các vị vua cha, ông hoàng, quan hoàng, thánh cậu, … Sự xen kẽ số lượng nam thần với số lượng nữ thần đồng đều cho thấy Tam Tứ Phủ có sự đồng đều, hài hòa về âm và dương.
Như vậy, với hệ thống các vị thần linh được thờ tự tại thần điện Việt Nam, gọi là Tín ngưỡng Tam Tứ Phủ hay Tứ Phủ có phần chính xác hơn.
Vậy cụ thể hệ thống các vị thần linh bao gồm những ai? Bạn đọc cùng theo dõi trong nội dung sau đây.
1. Bồ Tát
Nhiều người thường cho rằng Tứ Phủ Vạn Linh hoàn toàn không liên quan đến Đạo Phật. Trái ngược lại, Đạo Phật lại có vị trí quan trọng trong hệ thống Tứ Phủ. Thường thấy tại các ngôi đền thuộc Tứ Phủ thường đặt tượng thờ Bồ Tát thờ tự, cung kính. Ngoài ra trong các bài văn khấn Tứ Phủ cũng thỉnh đến Bồ Tát.
Khi dâng lễ Bồ Tát nên chuẩn bị thức lễ chay, nếu có hoa thì nên là những loại hoa có màu sắc trang nhã như hoa huệ, hoa sen, …
2. Đức Vua Cha
Đức Vua Cha là những vị thần đứng đầu bốn miền: Trời – Đất – Núi – Nước trong vũ trụ. Các ngài có quyền năng tối linh, ra lệnh cho các vị thần khác. Các ngài có đền thờ riêng. Tại các ngôi đền khác, ngài có ban thờ riêng nhưng không phải tại vị trí cao nhất. Bởi vị trí cao nhất, theo quan niệm thờ tự tại đền điện Việt Nam, thì vị trí này là hậu cung luôn là nơi thờ Tam tòa Thánh Mẫu.
Các vị Đức Vua Cha đại thánh bao gồm:
Vua Cha Thiên Phủ (vùng trời) – Danh hiệu: Ngọc Hoàng Thượng Đế – Màu sắc đại điện: màu vàng
Vua Cha Thủy Phủ (vùng sông nước) – Danh hiệu: Vua Cha Thủy Quốc Động Đình – Màu sắc đại diện: màu trắng.
Vua Cha Nhạc Phủ (vùng rừng núi) – Danh hiệu: Đức Thánh Tản Viên, Tản Viên Sơn Thánh – Màu sắc đại diện: màu xanh.
Vua Cha Địa Phủ (vùng đất): hiện chưa có tài liệu nào ghi chép về vị thánh nắm giữ ngôi vị này trong tín ngưỡng Tứ Phủ.
3. Thánh Mẫu
Thánh Mẫu bao gồm 4 vị thánh mẫu có quyền phép tối cao theo Tứ Phủ Vạn Linh và 3 vị thánh mẫu hay Tam Tòa Thánh Mẫu theo Công đồng Tam Phủ. Giống như Đức Vua Cha, mỗi vị thánh mẫu mang quyền phép phụ trách mỗi vùng riêng biệt gồm vùng trời, núi rừng, vùng nước và vùng đất. Tại các ngôi đền trên đất Bắc, Tam Tòa Thánh Mẫu được thờ tự phổ biến và được đặt tại vị trí cao nhất và cung kính nhất tại cấm cung hay hậu cung. Các mẫu thường có có các thánh cô theo hầu và giúp việc (Tứ Phủ Thánh Cô sẽ được nêu ở mục sau). Nếu dâng lễ hay hầu thánh mẫu thường có nhiều quy tắc phức tạp hơn những vị thánh khác. Bạn đọc tham khảo cụ thể tại mỗi bài đọc viết chi tiết về mỗi vị thánh mẫu.
Tứ Phủ Thánh Mẫu bao gồm các vị:
- Mẫu Đệ Nhất Thiên Tiên (Thiên Phủ) – Danh hiệu: Thanh Vân Công Chúa – Màu sắc: màu xanh hoặc màu đỏ, màu hồng.
- Mẫu Đệ Nhị Địa Tiên (Địa phủ) – Danh hiệu: Liễu Hạnh Công Chúa – Màu sắc: màu đỏ
- Mẫu Đệ Tam Thủy Cung (Thoải phủ) – Danh hiệu: Xích Lân Công Chúa – Màu sắc: màu trắng
- Mẫu Đệ Tứ Nhạc Tiên (Nhạc Phủ) – Danh hiệu: Sơn Lâm Công Chúa – Màu sắc: màu xanh
Tam Tòa Thánh Mẫu là 3 trong 4 vị thánh mẫu trên gồm:
- Mẫu Đệ Nhất Thượng Thiên (Thiên Phủ) – Danh hiệu: Liễu Hạnh Công Chúa – Màu sắc: màu đỏ
- Mẫu Đệ Nhị Thượng Ngàn (Nhạc Phủ) – Danh hiệu: La Bình Công Chúa – Màu sắc: màu xanh
- Mẫu Đệ Tam Thoải Phủ (Thoải Phủ) – Danh hiệu: Xích Lân Công Chúa – Màu sắc: màu trắng
4. Hội đồng Quan Lớn
“Năm dinh quan lớn, mười dinh các quan” là câu văn khấn để thỉnh hội đồng quan lớn bao gồm 10 vị tôn quan có công giúp Vua Cha Bát Hải Động Đình đánh giặc ngoại xâm thời vua Hùng Vương thứ 18. Các ngài thay mặt Mẫu cai quản 4 cõi Thiên Địa Thủy Nhạc.
Tuy nhiên, trong hệ thống thần linh Tam Tứ Phủ lại chia ra các vị thuộc Ngũ Vị Tôn Quan và các vị thuộc Lục Phủ Tôn Ông. Có thể bởi tại một số bản thần tích nói rằng Ngũ Vị Tôn Ông là con của Ngọc Hoàng Thượng Đế giáng hạ cùng một lúc vào nước Nam làm 5 trong 10 vị tướng của Vua Cha Bát Hải Động Đình để giúp Vua Cha đánh thắng giặc ngoại xâm trên 8 cửa biển thời Hùng Vương thứ 18.
Còn 5 vị tướng còn lại của Vua Cha Bát Hải Động Đình được xếp vào hàng Lục Phủ Tôn Ông, từ quan đệ Lục đến Quan Đệ Thập và ít được thờ tại các đền thờ thuộc Tứ Phủ. Trong đó, Quan Điều Thất và Quan Triệu Tường thường hay được thỉnh về đồng sau hàng Ngũ Vị Tôn Quan.
4.1 Ngũ Vị Tôn Quan
1. Đệ Nhất Tôn Quan quyền cai Thiên Phủ – Danh hiệu: Quan Lớn Đệ Nhất Thượng Thiên, Đệ Nhất Tôn Ông, Đức Thánh Cả – Màu sắc đại diện: Màu đỏ
2. Đệ Nhị Tôn Quan quyền cai rừng núi Lâm Cung – Danh hiệu: Quan Thanh Tra Giám Sát, Quan Lớn Đệ Nhị Thượng Ngàn – Màu sắc đại điện: màu xanh lá.
3. Đệ Tam Tôn Quan quản cai miền sông nước – Danh hiệu: Quan Lớn Đệ Tam – Màu sắc đại điện: màu trắng.
4. Đệ Tứ Tôn Quan quyền cai đất bằng – Danh hiệu: Quan Đệ Tứ Khâm Sai quyền cai Tứ Phủ – Màu sắc đại diện: màu vàng.
5. Đệ Ngũ Tôn Quan quản cai Sông Tranh – Danh hiệu Quan Lớn Tuần Tranh – Màu sắc đại diện: màu lam, xanh nhạt hoặc tím than.
4.2 Lục Phủ Tôn Ông
6. Quan Lớn Đệ Lục – Màu sắc đại diện: màu đỏ.
7. Quan Lớn Đệ Thất – Danh hiệu: Quan Điều Thất – Màu sắc đại diện: màu đỏ
8. Quan Lớn Đệ Bát Đồng Bằng Sông Diêm – Màu sắc đại diện: màu vàng.
9. Quan Lớn Đệ Thập Triệu Tường – Danh hiệu: Quan Hoàng Triệu – Màu sắc đại diện: màu vàng.
5. Quan Nam Tào – Bắc Đẩu
Quan Nam Tào – Bắc Đẩu là các vị thần trông coi các ngôi sao trong hai chòm sao Nam Tào và Bắc Đẩu. Các ngài không xuất hiện trong nghi thức hầu đồng và cũng không có đền thờ riêng. Tuy nhiên, các ngài được phối thờ tại nhiều đền điện thuộc hệ thống thần linh Tứ Phủ và hiện chưa có màu sắc đại diện.
1. Quan Nam Tào
2. Quan Bắc Đẩu
6. Nhị Vị Quỳnh Quế Công Chúa
Quỳnh Hoa Công Chúa và Quế Hoa Công Chúa là hai vị hầu cận Mẫu Thượng Thiên hay Tam Tòa thánh mẫu được gọi chung là Nhị vị Quỳnh Quế Công Chúa.
“Ban cho chúa ở chầu bà Liễu tiên
Vâng lệnh truyền sớm trưa chầu trực”
Tuy nhiên, trong nghi thức hầu đồng hiện nay không có các giá Chầu Quỳnh Chầu Quế.
7. Thập Nhị Vị Chầu Bà
Thập nhị vị Chầu Bà còn được nhân gian gọi là thập nhị Tiên nương. Đây là hàng vị gồm mười hai vị chầu bà cai quản khắp vùng bốn phương tám hướng trải từ vùng rừng đến vùng nước. Các vị đều được coi là hóa thân, người phục vụ trực tiếp của Tứ Vị Thánh Mẫu. Nhân dân thường coi Tứ Vị Chầu Bà là đại diện cho thần linh Tứ Phủ. Dù vậy, số lượng các vị thánh mẫu tăng lên con số 12.
Một số vị Chầu Bà thường về giáng đồng nên được con nhang đệ tử biết rõ về thần tích, rõ ràng về nơi thờ tự riêng. Một số Chầu Bà thì bị hạn chế về mặt thông tin tìm hiểu.
Hệ thống Thập Nhị Vị Chầu Bà gồm:
- Chầu Đệ Nhất Thượng Thiên (Thiên phủ) – Màu sắc đại diện: màu đỏ
- Chầu Đệ Nhị Thượng Ngàn (Nhạc Phủ) – Danh hiệu: Ngôi Kiều Công Chúa – Màu sắc đại diện: màu xanh
- Chầu Đệ Tam Thoải Phủ (Thoải Phủ) – Danh hiệu: Thủy Điện Công Chúa – Màu sắc đại diện: màu trắng.
- Chầu Đệ Tứ Khâm Sai (Địa phủ) – Danh hiệu: Chiêu Dung Công Chúa – Màu sắc đại diện: màu vàng.
- Chầu Năm Suối Lân (Nhạc Phủ) – Danh hiệu: Suối Lân Công Chúa – Màu sắc đại diện: màu xanh lam hoặc xanh thiên thanh.
- Chầu Lục Cung Nương (Nhạc Phủ) – Danh hiệu: Lục Cung Công Chúa – Màu sắc đại diện: màu lam.
- Chầu Bảy Kim Giao (Nhạc Phủ) – Danh hiệu: Tân La Công Chúa. Màu sắc đại diện: màu tím hoặc xanh.
- Chầu Tám Bát Nàn (Nhạc Phủ) – Danh hiệu: Nữ Tướng Bát Nàn – Màu sắc đại diện: màu vàng.
- Chầu Chín Cửu Tỉnh – Màu sắc đại diện: màu đỏ (một số nơi là màu hồng)
- Chầu Mười Đồng Mỏ (Nhạc Phủ) – Danh hiệu: Nữ Tướng Đồng Mỏ Chi Lăng – Màu sắc đại diện: màu vàng.
- Chầu Bé Bắc Lệ (Nhạc Phủ) – Danh hiệu: Bắc Lệ Công Chúa – Màu sắc đại diện: màu đen hoặc xanh chàm.
- Chầu Bản Đền – Danh hiệu: Thủ Điện Công Chúa – Màu sắc đại diện: màu hồng, màu xanh hoặc màu trắng.
8. Thập Vị Ông Hoàng
Dưới hàng Chầu Bà là Thập Vị Ông Hoàng. Thập vị Ông Hoàng đều có gốc tích là con trai Vua Cha Bát Hải Động Đình, tuy nhiên các thần tích Thập Vị Ông Hoàng thường được địa phương hóa mà gắn với một nhân vật lịch sử thường là các danh tướng có công dẹp loạn cứu nước, đóng góp vào công cuộc khai sáng, mở mang đất nước, giúp đỡ nhân dân ổn định cuộc sống. Trong số 10 ông thì có ba ông thường về giáng đồng gồm Ông Hoàng Bơ, Ông Hoàng Bẩy, Ông Hoàng Mười. Bởi vậy, đây cũng là ba ông hoàng được nhân dân biết đến nhiều hơn cả so với các Ông Hoàng còn lại.
Dưới hàng Chầu Bà là Thập Vị Ông Hoàng. Thập vị Ông Hoàng đều có gốc tích là con trai Vua Cha Bát Hải Động Đình, tuy nhiên các thần tích Thập Vị Ông Hoàng thường được địa phương hóa mà gắn với một nhân vật lịch sử thường là các danh tướng có công dẹp loạn cứu nước, đóng góp vào công cuộc khai sáng, mở mang đất nước, giúp đỡ nhân dân ổn định cuộc sống. Trong số 10 ông thì có ba ông thường về giáng đồng gồm Ông Hoàng Bơ, Ông Hoàng Bẩy, Ông Hoàng Mười. Bởi vậy, đây cũng là ba ông hoàng được nhân dân biết đến nhiều hơn cả so với các Ông Hoàng còn lại.
- Ông Hoàng Cả (Thiên Phủ) – Danh hiệu Ông Hoàng Quận/ Lê Lợi – Màu sắc đại diện: màu đỏ.
- Ông Hoàng Đôi (Nhạc Phủ) – Màu sắc đại diện: màu xanh lá.
- Ông Hoàng Bơ (Thoải Phủ) – Màu sắc đại diện: màu trắng.
- Ông Hoàng Tư (Địa Phủ) – Danh hiệu: Ông Hoàng Khâm Sai – Màu sắc đại diện: màu vàng.
- Ông Hoàng Năm – Màu sắc đại diện: màu xanh ngọc
- Ông Hoàng Lục – Màu sắc đại diện: màu đỏ, hoặc đen hoặc xanh.
- Ông Hoàng Bảy (Nhạc Phủ) – Danh hiệu: Ông Bảo Hà, Ông Hoàng Bảy Bảo Hà – Màu sắc đại diện: màu lam hoặc tím chàm.
- Ông Hoàng Bát (Thoải Phủ) – Bao gồm 2 vị là Ông Hoàng Bắc Quốc mặc áo vest kiểu Tàu và Ông Hoàng Bát Nùng mặc áo vàng khi ngự đồng.
- Ông Hoàng Chín (Thiên Phủ) – Danh hiệu: Ông Chín Cờn Môn hoặc Ông Chín Thượng Ngàn – Màu sắc đại diện: Ông Chín Cờn Môn – màu đen, Ông Chín Thượng Ngàn – màu xanh đỏ xen kẽ.
- Ông Hoàng Mười (Địa Phủ) – Danh hiệu: Ông Nghệ An – Màu sắc đại diện: màu vàng.
- Ông Hoàng Báo Đông Cuông – Màu sắc đại diện: màu vàng.
9. Bát Bộ Sơn Trang
Bát Bộ Sơn Trang là 8 vị tướng Sơn Trang hầu cận mẫu Thượng Ngàn. Con số 8 đại diện cho 8 phương trời đất. Chúa Sơn Trang ngự ở giữa tám vị đại diện cho vị thánh mẫu ở trung tâm trời đất.
Tương truyền, các vị này là 8 vị tướng phù giúp An Dương Vương giữ nước. Đồng thời các vị cũng hiển linh giúp Hai Bà Trưng và các đời vua sau này.
10. Tứ Phủ Thánh Cô
Tứ Phủ Thánh Cô là những vị thánh cô hầu cận các vị Thánh mẫu hoặc các Chầu. Người ta thường có lời tấu để cô kêu thay lạy đỡ trước cửa Thánh Mẫu để Mẫu chứng cho lòng thành của con nhang đệ tử.
- Cô Đệ Nhất Thượng Thiên (Thiên Phủ) – Màu sắc đại diện: màu đỏ.
- Cô Đôi Thượng Ngàn (Nhạc Phủ) – Màu sắc đại diện: màu xanh lá.
- Cô Bơ (Thoải Phủ) – Danh hiệu: Cô Bơ Thoải Phủ, Cô Bơ Bông, Cô Bơ Hàn Sơn, Cô Ba Tây Hồ – Màu sắc đại diện: màu trắng.
- Cô Tư Tây Hồ (Địa Phủ) – Màu sắc đại diện: màu vàng
- Cô Năm Suối Lân (Nhạc Phủ) – Màu sắc đại diện: màu xanh thiên thanh hoặc xanh lá.
- Cô Sáu Sơn Trang (Nhạc Phủ) – Màu sắc đại diện: màu xanh lam hoặc tím chàm.
- Cô Bảy Kim Giao (Nhạc Phủ) – Màu sắc đại diện: màu tím hoặc chàm xanh.
- Cô Tám Đồi Chè (Nhạc Phủ) – Màu sắc đại diện: màu xanh, có nơi là tím hoa cà.
- Cô Chín Sòng Sơn (Thiên Phủ) – Màu sắc đại diện: màu hồng.
- Cô Mười Mỏ Ba (Nhạc Phủ) hoặc Cô Mười Đồng Mỏ – Màu sắc đại diện: màu vàng
- Cô Bé Thượng Ngàn (Nhạc Phủ) với màu áo ngự về đồng họa tiết thổ cẩm
- Cô Bé Đông Cuông (Nhạc Phủ) – Màu sắc đại diện: màu xanh
- Cô Bé Thoải Phủ (Thoải Phủ) – Màu sắc đại diện: màu trắng
10.1 Cô Bản Đền Bản Cảnh
Cô Bản Đền Bản Cảnh là tiên cô không thuộc hàng chính thống trong hệ thống thần linh Tứ Phủ. Tại mỗi đền, người ta thường có ban thờ cô (cô bé bản đền). Danh xưng cô sẽ được đặt theo tên của ngôi đền đó. Cô được hầu đồng sau giá cô bé, y phục phụ thuộc vào từng vùng.
Cô Bản Đền Bản Cảnh là tiên cô không thuộc hàng chính thống trong hệ thống thần linh Tứ Phủ. Tại mỗi đền, người ta thường có ban thờ cô (cô bé bản đền). Danh xưng cô sẽ được đặt theo tên của ngôi đền đó. Cô được hầu đồng sau giá cô bé, y phục phụ thuộc vào từng vùng.
- Cô Nhất Vân Đình là tiên cô bản địa vùng đất Ứng Hòa
- Cô Cả Bắc Ninh với màu áo tứ thân màu nâu khi ngự về đồng
- Cô Đôi Cam Đường với màu áo tứ thân màu xanh khi ngự về đồng
- Cô Bé Sapa
- Cô Bé Minh Lương
- Cô Bé Thạch Bàn
- Cô Bé Chín Tư – Cô Bé Lục Cung
- Cô Bé Cây Xanh
- Cô Bé Tân An
- Cô Bé Xương Rồng – Cô Bé Xương Long
- Cô Bé Cấm Sơn
- Cô Bé Bắc Nga
- Cô Bé Mỏ Than
- Cô Bé Đen với màu áo ngự về đồng là màu đen hồng
- Cô Bé Đèo Kẻng
- Cô Bé Nguyệt Hồ
- Cô Bé Đồng Đăng
11. Thập Nhị Cô Sơn Trang
Thập nhị cô sơn trang gồm 12 thánh cô theo hầu cận mẫu Thượng Ngàn. Danh xưng các cô được nhân dân gọi theo tên của từng địa phương như Cô Cả Núi Dùm, Cô Đôi Bắc Lệ, Cô Bơ Thượng Ngàn, … tất cả đều liên quan đến những vùng đất có núi non trùng điệp. Đôi khi các cô vẫn giá ngự trong các nghi thức hầu đồng và có y phục khác nhau.
- Cô Cả Núi Dùm với màu áo ngự về đồng là màu xanh lá và khăn áo giống với Cô Đôi Cam Đường
- Cô Đôi Bắc Lệ
- Cô Bơ Thượng Ngàn
- Cô Tư Ỷ La với màu áo về đồng là màu vàng nhạt hoặc màu xanh
- Cô Năm Đồng Tiền
- Cô Sáu Đồi Ngang
- Cô Bảy Tuyên Quang
- Cô Tám Thượng Ngàn
- Cô Chín Thượng Ngàn với màu áo về đồng là màu xanh lá
- Cô Mười Suối Ngang với màu áo ngự về đồng là màu xanh lam
- Cô Mười Một Đồng Nhân
- Cô Mười Hai Thượng Ngàn
12. Tứ Phủ Thánh Cậu
Tứ Phủ Thánh Cậu là các phụ tá của các Ông Hoàng. Các cậu là những người chết trẻ, từ 1 – 9 tuổi và hiển linh thành các bé Thánh. Trong các vị Thánh Cậu thì chỉ có 4 vị được cắt cử đi chấm linh nhận đồng và loan giá ngự đồng gồm Cậu Cả Thượng Thiên, Cậu Đôi Thượng Ngàn, Cậu Bơ Thoải Cung và Cậu Bé. Cậu Bơ và Cậu Bé là hai thánh cậu thường xuất hiện tại tất cả các buổi hầu đồng.
- Cậu Hoàng Cả (Thiên Phủ) – Màu sắc đại diện: màu đỏ
- Cậu Hoàng Đôi (Nhạc Phủ) – Màu sắc đại diện: màu xanh lá
- Cậu Hoàng Bơ (Thoải Phủ) – Màu sắc đại diện: màu trắng.
- Cậu Hoàng Tư – Màu sắc đại diện: màu vàng
- Cậu Quận Đồi Ngang – Màu sắc đại diện: màu đỏ
- Cậu Bé Bản Đền (Nhạc Phủ) – Màu sắc đại diện: màu xanh.
13. Hạ Ban
Hạ Ban gồm các vị thánh là Quan Ngũ Hổ và Xà Thần. Các vị được đặt ban thờ ở phía dưới điện thờ Mẫu. Quan Ngũ Hổ và Xà Thần cũng có giá hầu nhưng phải những thầy đồng cựu có căn thật mới hầu được.
- Quan Ngũ Hổ
- Xà Thần
14. Hệ thống các vị Thánh phối thờ cùng Tứ Phủ
14.1 Hệ thống Mẫu Thần
- Mẫu Thần là những vị mẫu bà được nhân dân tôn xưng, thờ phụng, lập đền thờ do có công lao lớn đối với việc cải thiện đời sống nhân dân.
- Mẫu Đầm Đa – Danh hiệu: Quốc Mẫu Âu Cơ
- Tứ Vị Vua Bà – Danh hiệu: Tứ vị Thánh Nương
- Mẫu Thiên Y A Na – Nguồn gốc: nữ thần Po Nagar của người Chăm – Danh xưng: Thiên Y A Na hoặc Bà Chúa Ngọc
- Quốc Mẫu Hoàng Thái Hậu Ỷ La – Danh hiệu: Nguyên Phi Ỷ Lan
14.2 Công đồng Trần Triều
Tín ngưỡng thờ Công Đồng Trần Triều, đứng đầu là Đức Thánh Trần, là tín ngưỡng dân gian của người Việt, được hình thành qua quá trình thánh hóa, thần hóa các nhân vật lịch sử có thật thời nhà Trần. Những người có công lớn trong cuộc kháng chiến 3 lần chống quân Nguyên Mông, giữ yên nước nhà. Trong đó, người được nhân dân ghi nhớ công ơn nhất và tôn sùng nhất đó chính là Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn. Trong tâm thức người dân, ông là người phù hộ cho sự nghiệp chống giặc ngoại xâm, bảo vệ đất nước, thời bình, ông bảo hệ quốc thái dân an, giúp nhân dân diệt trừ tà ma, chữa bệnh, ban tài phát lộc.
Công đồng Trần Triều gồm các vị thánh:
1. Đức Đại Vương Trần Triều – Danh hiệu: Đức Thánh Trần, Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn – Màu đại diện: màu đỏ
2. Vương Phụ – An Sinh Vương Trần Liễu.
3. Vương Mẫu – Thuận Thiên Hoàng Hậu và Thiên Đạo Quốc Mẫu
4. Phu nhân – Thiên Thành Công Chúa/ Nguyên Từ Quốc Mẫu
5. Tứ Vị Vương Tử – con trai Đức Thánh Trần – Màu đại diện: màu đỏ – gồm các vị thánh:
+ Đức Thánh Cả+ Đức Thánh Phó+ Đức Thánh Tam+ Đức Thánh Tứ
6. Nhị Vị Vương Cô
+ Vương Cô Đệ Nhất – Màu đại diện:màu đỏ+ Vương Cô Đệ Nhị – Màu đại diện: màu vàng hoặc xanh lá
7. Lục Tướng Trần Triều – Màu sắc đại diện: màu đỏ
+ Phạm Ngũ Lão+ Yết Kiêu+ Dã Tượng+ Nghĩa Xuyên tướng quân+ Hùng Thắng tướng quân+ Huyền Quang tướng quân+ Đức Ông Tả Hữu
8. Vương Tôn
+ Cô Bé Cửa Suốt – Màu sắc đại diện: màu trắng+ Cậu Bé Cửa Đông – Màu sắc đại diện: màu vàng hoặc trắng
9. Ngũ Hổ Đại Tướng: gần tương tự hạ ban trong hệ thống thần linh Tứ Phủ
14.3 Hệ thống Nữ Thần
Giống với Tứ Phủ Ông Hoàng, hay hệ thống Mẫu thần, các vị nữ thần được phối thờ cùng Tứ Phủ là những vị chúa bà xuất thân từ nhân dân nhưng sau này trở thành nhân vật lớn, có công lao đóng góp cho đất nước, thường góp công trong các trận chiến dẹp giặc xâm lăng tại các đời vua khác nhau được nhân dân biết ơn, cung kính và lập đền thờ cung phụng mãi về sau.
- Chúa Đệ Nhất Tây Thiên – Danh hiệu: Tây Thiên Quốc Mẫu, Chúa Bói Đệ Nhất – Màu đại diện: màu đỏ.
- Chúa Đệ Nhị Nguyệt Hồ – Danh hiệu: Chúa Bói Đệ Nhị, Chúa Nguyệt Hồ – Màu sắc đại diện: màu xanh lá.
- Chúa Đệ Tam Lâm Thao – Danh hiệu: Chúa Lâm Thao, Chúa Bói Đệ Tam – Màu sắc đại diện: màu trắng.
- Chúa Thác Bờ Hòa Bình – Danh hiệu: Chúa Thác Bờ – Màu sắc đại diện: màu trắng.
- Chúa Long Giao
- Bà Chúa Cà Phê – Màu sắc đại diện: màu đen, một số ít nơi là màu xanh hoặc vàng.
- Chúa Ba Nàng – Màu sắc đại diện màu chàm
- Bà Chúa Tộc Mọi – Màu sắc đại diện: màu đen hoặc chàm
- Chúa Bà Ngũ Phương – Danh hiệu: Vũ Quận Bạch Hoa Công Chúa, Đức Vũ Quận Quyến Hoa Công Chúa – Màu sắc đại diện: thường là màu trắng.
- Chùa Bà Đá Đen
- Bà Chúa Kho – Màu sắc đại diện: màu đỏ
- Bà lớn Tuần – Danh hiệu: Lẫm Sơn Công Chúa, Lẫm Sơn Công Chúa Khâm Sai – Màu sắc đại diện: màu đỏ
- Nữ Tướng Lê Chân
- Công chúa Ngọc Hân
- Lộc Hoa Công Chúa – Danh hiệu: Bà Chúa Lộc
- Bà Chúa Vực
- Công Chúa Lân Ngọc
- Chúa Bà Thiên Thiên Uy Linh Công Chúa – Màu sắc đại diện: màu xanh
- Chúa Bà Ngũ Hành – Danh hiệu: Ngũ Hành Nương Nương, 5 mẹ ngũ hành – Màu sắc: 5 màu gồm xanh, đỏ, vàng, trắng, đen.
- Quế Nương và Thị Nương
- Chúa Bà Thừa Thiên Công Chúa
14.4 Hệ thống Nam Thần
Hệ thống Nam thần gồm các vị thần có thần tích nghiêng nhiều yếu tố huyền huyễn thể hiện ước mơ, khao khát sức mạnh chống lại thiên tai, lũ lụt, bảo vệ cuộc sống bình yên, êm ấm của nhân dân địa phương.
- Thần Bạch Hạc
- Thần Độc Cước
- Linh Lang Đại Vương
- Thần Long Đỗ
- Huyền Thiên Trấn Vũ
- Hỏa Thần
- Thần Phổ Tế và Nam Hải
- Ông Bảy Đá Thiên
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)