Thứ Bảy, 30 tháng 10, 2021

KINH ĐẠI BẢO TÍCH




KINH ĐẠI BẢO TÍCH : BỘ 9 TẬP




LỜI NÓI ĐẦU CỦA DỊCH GIẢ

Trong khế kinh, Đức Phật nói: "Chỉ vì đại sự nhơn duyên duy nhất mà Đức Phật xuất hiện thế gian, đó là muốn mọi người, mọi chúng sanh đều thành Phật đồng như Đức Phật".

Lời Đức Phật thật đơn giản, mà ý nghĩa lại tột cùng sâu rộng. Trong lời đó có nghĩa cứu cánh bình đẳng. Phật và chúng sanh không có sai khác. Còn có nghĩa là hiện tại mỗi chúng sanh đều có đủ tánh đức đồng như Phật. Cũng có nghĩa là nếu chúng sanh có lòng tin thanh tịnh, y giáo phụng hành thì quyết sẽ thành Phật, như trong đại thừa, kinh thường có câu, chính Đức Phật dạy: "Các người là Phật sẽ thành, còn chư Phật là Phật đã thành."

Vì thấy rõ tất cả chúng sanh đều có khả năng thành Phật nên Đức Phật ra đời, dùng thân khẩu truyền cho đời những phương cách, nhập pháp môn làm điều kiện cụ thể để bước lên đường Phật, để rồi đến quả Phật. Những phương pháp cụ thể đó gọi là Phật pháp.

Vì các chúng sanh căn không đồng nhau, tánh không đồng nhau, ý thích cùng sự mong muốn, vân vân... cũng không đồng nhau, nên Đức Phật phải theo cơ mà dạy rất nhiều pháp môn, nhiều nên phải dùng từ "Vô lượng pháp môn”. Dầu là vô lượng nhưng nếu mỗi chúng sanh y theo một pháp môn, đúng với căn tánh thích muốn của chính mình rồi, quyết tâm hiểu rõ hành trì thật đúng, thật bền, thật sâu, thì nhất định đạt thành đạo quả.

Như trên nói mọi chúng sanh đều có đủ đức tính đồng như Phật chỉ vì điên đảo vọng tưởng hư vọng phân biệt, dục tham phiền não che chướng nên những tánh đức trong sáng sẵn có ấy không hiện thật. Tất cả pháp môn của Đức Phật dạy, những phương pháp mà Đức Phật, lúc hành đạo, đã thật hành, đã hiểu rõ, đã kinh nghiệm và do đó đã đạt kết quả cứu cánh, nay đem truyền dạy lại cho mọi người, đều nhằm vào việc phải trừ những đảo tưởng phân biệt, dục tham phiền não, để cho tánh đức sẵn có phát hiện tác dụng. Vì đó là sẵn có nên Đức Phật tự nói. "Ta không có một chút pháp gì để thành vô thượng bồ đề cả”. Phật pháp là phương tiện đưa người vào đạo, liều thuốc chữa trị bịnh hư vọng phiền não, là cách thức rửa lau những đảo tưởng như lau bụi trên mặt gương, mà tuyệt đối không có chút gì là có, là được, vì đạo là tánh đức sẵn đủ vậy.

Phật pháp vô lượng môn cô đọng lại trong ba môn vô lậu: Giới, Định và Huệ. Vô lậu giới để phòng ngừa, để ngăn đảo vọng. Vô lậu định để chận đứng, để đối trị "đảo vọng". Vô lậu huệ dứt sạch đảo vọng. Và tùy theo giai đoạn mà đảo vọng từng phần được dứt trừ, thì tánh đức sẵn có của hành giả cũng từng phần thể hiện, đó là các bực Hiền, các bực Thánh, các bực Bồ Tát. Cho đến lúc tất cả đảo vọng sạch trọn vẹn, thì tánh đức thể hiện trọn vẹn, đó là quả Phật, là thành Phật.

Trong bộ Kinh Đại Bảo Tích nầy, nội dung không ngoài những điều đã nêu ở trên, dầu là rất nhiều, rất rộng.

Trong thập niên năm mươi, tôi được đọc tụng bộ Kinh nầy từ bản phương sách của Bắc bộ Việt Nam ta, bản Hán văn, tôi đã có hoài bão phiên dịch ra Việt văn để được thông dụng theo thời đại. Mãi đến năm 1979 mới hoàn thành bộ Việt văn, và đến nay ngót mười năm mới có đủ duyên để được đem ra ấn hành lần đầu tiên. Mong rằng sự ấn loát và lưu hành đều tốt đẹp như ý muốn.

Cầu nguyện tất cả mọi người, mọi thí chủ, hoặc thiện chí hoặc công sức hoặc tịnh tài, đều tròn đầy phước lạc.

Viết tại chùa Vạn Đức, Thủ Đức
Mùa An Cư, ngày 12-7-1987
Phật Lịch 2531

Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh



KINH ĐẠI BẢO TÍCH

Hán dịch: Nhiều tác giả
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh

Mục Lục Chi Tiết

Lời nói đầu của dịch giả

Tập 1

01 Pháp Hội Tam Tự Luật Nghi
02 Pháp Hội Vô Biên Trang Nghiêm
03 Pháp Hội Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ
04 Pháp Hội Tịnh Cư Thiên Tử
05 Pháp Hội Vô Lượng Thọ Như Lai

Tập 2

06 Pháp Hội Bất Động Như Lai
07 Pháp Hội Mặc Giáp Trang Nghiêm
08 Pháp Hội Pháp Giới Thể Tánh Vô Phân Biệt
09 Pháp Hội Đại Thừa Thập Pháp
10 Pháp Hội Văn Thù Sư Lợi Phổ Môn
11 Pháp Hội Xuất Hiện Quang Minh

Tập 3

12. Pháp Hội Bồ Tát Tạng

12.01 Phẩm Khai Hóa Trưởng Giả
12.02 Phẩm Kim Tỳ La Thiên Thọ Ký
12.03 Phẩm Thí Nghiệm Bồ Tát
12.04 Phẩm Như Lai Bất Nghị Tánh
12.05 Phẩm Tứ Vô Lượng
12.06 Phẩm Đàn Na Ba La Mật
12.07 Phẩm Thi La Ba La Mật
12.08 Phẩm Sằn Đề Ba La Mật
12.09 Phẩm Tỳ Lê Gia Ba La Mật
12.10 Phẩm Tỉnh Lự Ba La Mật
12.11 Phẩm Bát Nhã Ba La Mật
12.12 Phẩm Đại Tự Tại Thiên Thọ Ký

Tập 4

13 Pháp Hội Phật Thuyết Nhơn Xử Thai
14 Pháp Hội Phật Thuyết Nhập Thai Tạng
15 Pháp Hội Văn Thù Sư Lợi Thọ Ký

16. Pháp Hội Bồ Tát Kiến Thiệt

16.01 Phẩm Tự
16.02 Phẩm Tịnh Phạn Vương Đến Phật
16.03 Phẩm A Tu La Vương Thọ Ký
16.04 Phẩm Bổn Sự
16.05 Phẩm Ca Lâu La Vương Thọ Ký
16.06 Phẩm Long Nữ Thọ Ký
16.07 Phẩm Long Vương Thọ Ký
16.08 Phẩm Cưu Bàn Trà Thọ Ký
16.09 Phẩm Càn Thát Bà Thọ Ký
16.10 Phẩm Dạ Xoa Thọ Ký
16.11 Phẩm Khẩn Na La Vương Thọ Ký
16.12 Phẩm Hư Không Hành Thiên Thọ Ký
16.13 Phẩm Tứ Thiên Vương Thọ Ký
16.14 Phẩm Tam Thập Tam Thiên Thọ Ký
16.15 Phẩm Dạ Ma Thiên Thọ Ký
16.16 Phẩm Đâu Suất Đà Thiên Thọ Ký
16.17 Phẩm Hóa Lạc Thiên Thọ Ký
16.18 Phẩm Tha Hoá Tự Tại Thiên Thọ Ký
16.19 Phẩm Chư Phạm Thiên Thọ Ký
16.20 Phẩm Quang Âm Thiên Thọ Ký
16.21 Phẩm Biến Tịnh Thiên Thọ Ký
16.22 Phẩm Quảng Quả Thiên Thọ Ký
16.23 Phẩm Tịnh Cư Thiên Tử Tán Kệ
16.24 Phẩm Giá-La-Ca-Ba-Lợi-Bà-La-Xà-Ca Ngoại Đạo
16.25 Phẩm Lục Giới Sai Biệt
16.26 Phẩm Tứ Chuyển Luân Vương

Tập 5

17 Pháp Hội Phú Lâu Na
18 Pháp Hội Hộ Quốc Bồ Tát
19 Pháp Hội Úc Già Trưởng Lão
20 Pháp Hội Vô Tận Phục Tạng
21 Pháp Hội Thọ Ký Ảo Sư Bạt Đà La
22 Pháp Hội Đại Thần Biến
23 Pháp Hội Ma Ha Ca Diếp
24 Pháp Hội Ưu Ba Ly
25 Pháp Hội Phát Thắng Chí Nguyện

Tập 6

26 Pháp Hội Thiện Tý Bồ Tát
27 Pháp Hội Thiện Thuận Bồ Tát
28 Pháp Hội Dũng Mãnh Thọ Trưởng Giả
29 Pháp Hội Ưu Đà Diên Vương
30 Pháp Hội Diệu Huệ Đồng Nữ
31 Pháp Hội Hằng Hà Thượng Ưu Bà Di
32 Pháp Hội Vô Úy Đức Bồ Tát
33 Pháp Hội Vô Cấu Thí Bồ Tát Ứng Biện
34 Pháp Hội Công Đức Bữu Hoa Phu Bồ Tát
35 Pháp Hội Thiện Đức Thiên Tử

36. Pháp Hội Thiện Trụ Ý Thiên Tử

36.01 Phẩm Duyên Khởi
36.02 Phẩm Khai Thiệt Nghĩa
36.03 Phẩm Văn Thù Thần Biến
36.04 Phẩm Phá Ma
36.05 Phẩm Bồ Tát Thân Hành
36.06 Phẩm Phá Bồ Tát Tướng
36.07 Phẩm Phá Nhị Thừa Tướng
36.08 Phẩm Phá Phàm Phu Tướng
36.09 Phẩm Thần Thông Chứng Thuyết
36.10 Phẩm Xưng Tán Phó Pháp

37 Pháp Hội A Xà Thế Vương Tử
38 Pháp Hội Đại Thừa Phương Tiện
39 Pháp Hội Hiền Hộ Trưởng Giả
40 Pháp Hội Tịnh Tính Đồng Nữ

Tập 7

41 Pháp Hội Di Lặc Bồ Tát Vấn Bát Pháp
42 Pháp Hội Di Lặc Bồ Tát Sở Vấn
43 Pháp Hội Phổ Minh Bồ Tát
44. Pháp Hội Bửu Lương Tụ

44.01 Phẩm Sa Môn
44.02 Phẩm Tỳ Kheo
44.03 Phẩm Chiên Đà La Sa Môn
44.04 Phẩm Doanh Sự Tỳ Kheo
44.05 Phẩm A Lan Nhã Tỳ Kheo
44.06 Phẩm Tỳ Kheo Khất Thực
44.07 Phẩm Phất Tảo Y Tỳ Kheo

45 Pháp Hội Vô Tận Huệ Bồ Tát
46 Pháp Hội Văn Thù Thuyết Bát Nhã
47 Pháp Hội Bửu Kế Bồ Tát
48 Pháp Hội Thăng Man Phu Nhân
49 Pháp Hội Quảng Bác Tiên Nhân
50 Pháp Hội Nhập Phật Cảnh Giới Trí Quang Minh Trang Nghiêm
51 Pháp Hội Tự Tại Vương Bồ Tát

Tập 8

52 Pháp Hội Bửu Nữ
53 Pháp Hội Bất Thuấn Bồ Tát
54 Pháp Hội Hải Huệ Bồ Tát
55 Pháp Hội Hư Không Tạng Bồ Tát
56 Pháp Hội Vô Ngôn Bồ Tát

Tập 9

57 Pháp Hội Bất Khả Thuyết Bồ Tát
58 Pháp Hội Bửu Tràng
59 Pháp Hội Hư Không Mục
60 Pháp Hội Nhựt Mật Bồ Tát
61 Pháp Hội Vô Tận Ý Bồ Tát
62 Pháp Hội Quán Vô Lượng Thọ Phật

Lời nói sau cùng của dịch giả








Kinh Đại Bảo Tích

Bộ từ điển: Chú Thích Phật Học - Pháp Thí Hội

● (Mahā-Ratnakūta-Sūtra hay Bảo Tích) gồm có 49 hội, 120 quyển.Thật ra là bộ tổng tập các kinh liên quan đến những phương pháp tu hành, thọ ký, thành Phật của các Bồ Tát, do ngài Bồ Đề Lưu Chí đời Đường và nhiều vị khác dịch. Theo Khai Nguyên Thích Giáo Lục, bộ kinh Đại Bảo Tích gồm có hai phần, một phần gọi là “tân dịch” (gồm 26 hội, 39 quyển) là do ngài Bồ Đề Lưu Chí dịch vào đời Đường; còn phần kia gọi là “cựu dịch” (gồm 23 hội, 81 quyển), do nhiều vị dịch sư khác đã dịch từ trước trong các đời Ngụy, Tấn, Nam-Bắc-triều v.v… Như vậy, bộ kinh này là một tập hợp của 49 kinh; tuy nhiên, về hình thức, hai phần tân và cựu dịch ấy không phải đã được sắp xếp riêng biệt, mà các hội ấy xen kẽ nhau. Cũng theo Khai Nguyên Thích Giáo Lục, nguyên bản Phạn văn của toàn bộ kinh Đại Bảo Tích gồm 49 hội (tức 49 kinh) đã được pháp sư Huyền Trang mang về từ Ấn-độ. Tháng Giêng năm Trinh-quán thứ 19 (năm 645 TL), ngài đã từ Ấn-độ về đến Trường-an, được vua Đường Thái-tông mời cư trú tại chùa Hoằng-phúc. Tại đây ngài đã lập đạo tràng phiên dịch đầu tiên. Tháng Năm năm ấy thì công việc dịch kinh bắt đầu, và bộ kinh đầu tiên đã được ngài Huyền Trang dịch chính là kinh Đại Bồ Tát Tạng (tức hội 12 của bộ kinh Đại Bảo Tích này), gồm có 20 quyển. Rồi 19 năm sau (năm 663), ở chùa Ngọc-hoa (vốn là cung Ngọchoa), sau khi phiên dịch hoàn tất bộ kinh Đại Bát Nhã, chư tăng đã thành khẩn xin ngài dịch tiếp bộ kinh Đại Bảo Tích; vì thương xót tâm thành của đại chúng, ngài đã mở bộ kinh nguyên bản Phạn văn ra, nhưng lúc đó đã sức cùng lực kiệt, ngài chỉ gắng gượng dịch được một ít, rồi thì buông bút, không thể tiếp tục công việc được nữa. Ngài đành cho đem bộ kinh cất lại vào kho, từ đó dứt tuyệt việc cầm bút, chỉ chuyên việc tu trì, cho đến ngày viên tịch.

Năm 706, ngài Bồ Đề Lưu Chí (người Nam Ấn-độ, đến Trung-quốc từ năm 693 đời nữ hoàng Võ Tắc Thiên, được mời ở chùa Phật-thọ-kí tại Đông đô Lạc-dương để tùng sự dịch kinh) theo vua Đường Trungtông (705-710) từ Đông-đô (Lạc-dương) trở về Tây-đô (Trường-an), cư trú tại chùa Sùng-phúc. Tại đây, nhà vua đã thỉnh cầu ngài tiếp tục công việc bỏ dở của pháp sư Huyền Trang, phiên dịch bộ kinh Đại Bảo Tích. Vâng mệnh vua, ngài Bồ Đề Lưu Chí cho đem bộ kinh nguyên bản Phạn văn từ chùa Ngọc-hoa sang chùa Sùng-phúc. Theo Khai Nguyên Thích Giáo Lục, trước khi ngài Huyền Trang mang toàn bộ nguyên bản Phạn văn của bộ kinh Đại Bảo Tích từ Ấn-độ đem về, thì ở Trung-quốc đã có các bản kinh lẻ tẻ (thuộc bộ kinh ấy) được truyền nhập và đã được dịch rải rác qua các thời đại Hậu-Hán, Tam-quốc, Tấn, Nam-Bắc-triều v.v… Bởi vậy, công việc đầu tiên là ngài cho sưu tập các bản kinh đã dịch ấy (cựu dịch), lựa riêng ra các bản “đơn dịch” (chỉ có một bản dịch cho một nguyên bản) rồi xem xét, đánh giá, sau đó chọn lấy các bản dịch hoàn hảo để làm thành một phần của bộ kinh Đại Bửu Tích, ví dụ: Hội 4, Tịnh Cư Thiên Tử, ngài Trúc Pháp Hộ đời Tây-Tấn dịch; Hội 8, Pháp Giới Thể Tánh Vô Phân Biệt, ngài Mạn Đà La Tiên đời Lương dịch; Hội 17, Phú Lâu Na, ngài Cưu Ma La Thập đời Hậu-Tần dịch; v.v…, loại này gồm có 8 hội (tức các hội 4, 8, 14, 17, 23, 26, 41, và 44).

Thứ đến ngài xem xét, đánh giá các bản “trùng dịch” (nhiều bản dịch khác nhau của cùng một nguyên bản) trong nhóm cựu dịch, chọn lấy bản hoàn hảo nhất của mỗi hội để làm thành một phần khác của bộ kinh Đại Bảo Tích, ví dụ: Hội 3, Mật Tích Kim Cương Lực Sĩ, do ngài Trúc Pháp Hộ đời Tây-Tấn dịch, được chọn (sau đó, ngài Pháp Hộ đời Bắc-Tống cũng dịch kinh này với tên “Như Lai Bất Tư Nghị Bí Mật Đại Thừa Kinh”, nhưng không được chọn); Hội 9, Đại Thừa Thập Pháp, do ngài Phật Đà Phiến Đa đời Bắc-Ngụy dịch, được chọn (sau đó, ngài Tăng Già Bà La đời Lương cũng dịch kinh này với tên “Đại Thừa Thập Pháp Kinh”, nhưng không được chọn); Hội 38, Đại Thừa Phương Tiện, do ngài Trúc Nan Đề đời Đông-Tấn dịch, được chọn (trước đó, ngài Trúc Pháp Hộ đời Tây-Tấn đã dịch kinh này với tên “Tuệ Thượng ồ Tát Vấn Đại Thiện Quyền Kinh”, và sau đó, ngài Thi Hộ đời Bắc-Tống cũng dịch kinh này với tên “Đại Phương Quảng Thiện Xảo Phương Tiện Kinh”, đều không được chọn); v.v…, loại này gồm có 15 hội (tức các hội 3, 9, 12, 15, 16, 18, 19, 32, 33, 36, 38, 39, 43, 46, và 47). Cả hai loại trên gồm có 23 hội, làm thành phần “cựu dịch” của bộ kinh Đại Bảo Tích.

Kế tiếp, cũng từ trong số các bản kinh đã dịch cũ ấy, bản nào thấy không hài lòng thì chính ngài dịch mới lại, ví dụ: Hội 1, Tam Luật Nghi, trước đây ngài Đàm Vô Sấm đời Bắc-Lương đã dịch với tên “Đại Phương Quảng Tam Giới Kinh”, nay ngài dịch mới lại; Hội 5, Vô Lượng Thọ Như Lai, trước đây ngài Chi Lâu Ca Sấm đời Hậu-Hán đã dịch với tên “Vô Lượng Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh”, rồi ngài Khương Tăng Khải đời Tào- Ngụy cũng đã dịch với tên “Vô Lượng Thọ Kinh”, đồng thời ngài Chi Khiêm ở đời Ngô cũng dịch với tên “A Di Đà Tam Da Tam Phật Tát Lâu Phật Đàn Quá Độ Nhân Đạo Kinh”, tiếp đó ngài Pháp Hiền đời Bắc-Tống cũng lại dịch với tên “Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Kinh”, nay ngài dịch mới lại; Hội 42, Di Lặc Bồ Tát Sở Vấn, trước kia ngài An Thế Cao đời Hậu-Hán đã dịch với tên “Đại Thừa Phương Quảng Yếu Tuệ Kinh”, tiếp đó ngài Trúc Pháp Hộ đời Tây-Tấn cũng đã dịch với tên “Di Lặc Bồ Tát Sở Vấn Bản Nguyện Kinh”, nay ngài dịch mới lại; v.v…. loại này gồm có 18 hội (tức các Hội 1, 5, 6, 10, 13, 21, 24, 25, 27, 28, 29, 30, 35, 37, 42, 45, 48, và 49). Thực ra, 18 hội này cũng thuộc về loại “trùng dịch”, nhưng vì do chính ngài dịch lại, hơn nữa, để phân biệt với nhóm “cựu dịch” trên kia, những hội này đã được xếp chung vào nhóm “tân dịch” (tức là do chính ngài Bồ Đề Lưu Chí dịch).

Sau hết, 8 hội còn lại (tức các hội 2, 7, 11, 20, 22, 31, 34, và 40) là do ngài mới dịch lần đầu tiên. Cả hai loại sau (do ngài Bồ Đề Lưu Chí dịch lại và mới dịch lần đầu) gồm có 23 hội, làm thành phần “tân dịch” của bộ kinh Đại Bảo Tích.

Công việc này đã được khởi sự từ năm 706 (đời vua Trung-tông), đến năm 713 (đời vua Huyền-tông) thì hoàn mãn. Từ sau khi dịch xong bộ kinh Đại Bảo Tích này, ngài Bồ Đề Lưu Chí cũng chấm dứt sự nghiệp phiên dịch của mình, chuyên tập thiền quán, sớm tối trì tụng, kinh hành, trưởng dưỡng bồ đề tâm; cho đến năm 727 thì ngài viên tịch, thế thọ 156 tuổi.

Bộ kinh Đại Bảo Tích được thu vào Tạng Đại Chánh, quyển 11, mang số 310; có ghi rõ tên vị dịch sư của từng kinh (hội), như: Hội 1, Tam Luật Nghi (quyển 1-3), Bồ Đề Lưu Chí đời Đường dịch; Hội 4, Tịnh Cư Thiên Tử (tức Bồ Tát Thuyết Mộng Kinh, 2 quyển, 15-16), Trúc Pháp Hộ đời Tây-Tấn dịch; Hội 12, Bồ Tát Tạng (tức Đại Bồ Tát Tạng Kinh, 20 quyển, 35-54), Huyền Trang đời Đường dịch; Hội 19, Úc Già Trưởng Giả (tức Úc Già Trưởng Giả Sở Vấn Kinh, quyển 82), Khương Tăng Khải đời Tào-Ngụy dịch; v.v…

Về nội dung, kinh Đại Bảo Tích chứa đựng đủ các pháp môn chủ yếu của giáo pháp đại thừa, phạm vi thật là rộng rãi. Kinh gồm 49 hội, mà mỗi hội là một bộ kinh, với một chủ đề riêng. Ví dụ: Hội 3, Mật Tích Kim Cương Lực Sĩ (tức Mật Tích Kim Cương Lực Sĩ Kinh, ngài Trúc Pháp Hộ đời Tây-Tấn dịch), xiển dương giáo nghĩa Mật giáo; Hội 5, Vô Lượng Thọ Như Lai (ngài Bồ Đề Lưu Chí đời Đường dịch), tuyên thuyết về tín ngưỡng Di Đà Tịnh Độ; Hội 46, Văn Thù Thuyết Bát Nhã (tức Văn Thù Sư Lợi Sở Thuyết Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Kinh, ngài Mạn Đà La Tiên đời Lương dịch), nêu lên tư tưởng bát nhã tánh không; v.v… Mặt khác, cả 49 hội đó cũng thuộc nhiều bộ loại khác nhau, như: Hội 1 (Tam Luật Nghi) và Hội 23 (Ma Ha Ca Diếp) thuộc về Luật bộ; Hội 14 (Phật Thuyết Nhập Thai Tạng) thuộc Tiểu Thừa bộ; Hội 46 (Văn Thù Thuyết Bát Nhã) thuộc Bát Nhã bộ; Hội 47 (Bảo Kết Bồ Tát) thuộc Đại Tập bộ; v.v… Bởi vậy, nếu xét về toàn thể thì kinh Đại Bảo Tích không có một nội dung nhất quán.

Bộ kinh này đã được hòa thượng Thích Trí Tịnh dịch ra Việt văn với tên “Kinh Đại Bảo Tích”, gồm có 9 tập, in lần đầu tiên từ năm 1987, đến năm 1989 thì xong; và in lần thứ nhì từ năm 1993, đến năm 1999 thì xong. Đặc biệt, bản dịch Việt ngữ này, ngoài 49 hội của bộ kinh Đại Bảo Tích Hán văn, hòa thượng dịch giả còn sưu tầm trong Đại Tạng để dịch thêm 13 hội nữa, thành ra, bộ kinh Đại Bảo Tích, bản Việt dịch của hòa thượng Thích Trí Tịnh có đến 62 hội. Về điều này, chính hòa thượng dịch giả đã cho biết: “Nội dung bộ Đại Bửu Tích Hán văn đến pháp hội Quảng Bác Tiên Nhơn là hết, nhưng hết với nửa chừng. Trong bộ Việt văn nầy, tôi sưu tầm trong Đại tạng, bổ sung phần cuối trọn vẹn cho pháp hội nầy. Và cũng từ Đại tạng tôi dịch thêm pháp hội Diệu Cát Tường Bồ Tát. Tiếp theo đó, nếu các pháp hữu thấy pháp hội nào có câu đức Phật ngự tại giữa khoảng cõi Dục và cõi Sắc trong Đại Bửu Phường Đình thì đó chính là kinh Đại Tập. Cũng từ trong Đại Tạng, tôi phiên dịch thêm pháp hội Vô Tận Ý Bồ Tát nối sau bộ kinh Đại Tập Hán văn đã lưu hành và để kết thúc toàn bộ kinh Đại Bửu Tích Việt văn, tôi đặt pháp hội Quán Vô Lượng Thọ Phật.” (Kinh Đại Bảo Tích, tập 9, Hòa thượng Thích Trí Tịnh dịch, bản in năm 1999, trang 809.)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét