Thứ Ba, 26 tháng 11, 2019

Đức Sivali





NGÀI SĪVALI - VỊ THÁNH TĂNG ĐỆ NHẤT TÀI LỘC


VŨ ĐÌNH LÂM





Đã có lúc nào ta thắc mắc thực ra ai là thần tài? Tại sao lại được gọi là thần tài nhỉ? Đạo Phật có một Ngài “thần tài” do thiện nghiệp của Ngài trong quá khứ đúng thời trổ quả nên sự hanh thông, tài lộc lan tỏa tới tất cả đại chúng xung quanh.
Ngài Đại đức có tên gọi “Sīvali” nghĩa là: dập tắt mọi nóng nảy, lo sợ của những người thân yêu, đem lại sự mát mẻ, an vui cho mọi chúng sinh.
Ngài Đại đức Sīvali là con của bà công chúa Suppavasa thường được mọi người đem lễ vật đến dâng nhiều vô số kể. Để thử biết quả phước thiện của bà công chúa Suppavasa, người ta đem hạt giống đến nhờ bà đụng tay vào. Những hạt giống đó đem về gieo trồng thì kết quả thu hoạch thật là phi thường: gấp trăm ngàn vạn lần! Khi thu hoạch xong, đem đổ vào kho, rồi mời bà công chúa Suppavasa đụng tay vào cửa kho, thì lúa dù được đổ vào ít, nhưng vẫn tràn đầy kho ngay. Khi lấy lúa ra khỏi kho, nếu được công chúa Suppavasa đụng tay vào kho, thì dù lúa lấy ra bao nhiêu đi nữa, kho lúa vẫn không hề giảm bớt. Khi nấu cơm để phân phát cho mọi người, nếu được bà công chúa Suppavasa đụng tay vào vành nồi cơm thì cơm xới ra phân phát cho bao nhiêu người cũng vẫn đủ, cơm vẫn không vơi trong nồi, cho đến khi bà công chúa Suppavasa bỏ tay ra khỏi vành nồi cơm.
Mọi người nhìn thấy quả phước thiện phi thường của bà công chúa Suppavasa trong thời gian bà mang thai Ngài Đại đức Sīvali. Sự thực bà công chúa Suppavasa chỉ là người chịu ảnh hưởng quả phước thiện của thai nhi: Ngài Đại đức Sīvali đang nằm trong bụng mẹ.
NGÀI SĪVALI Ở TRONG BỤNG MẸ SUỐT 7 NĂM 7 NGÀY
Thông thường, sau khi thọ thai, khoảng chín hoặc mười tháng, thì người mẹ sinh con. Nhưng khi công chúa Suppavasa mang thai Ngài Đại đức Sīvali thì đã qua tháng thứ 10, tháng thứ 11, rồi tròn một năm mà vẫn chưa sinh. Mặc cho mọi người trong hoàng tộc và dân chúng xứ Koliya nóng lòng trông chờ sự ra đời của đứa trẻ phi thường.
Ngày tháng cứ trôi qua, trong sự mong chờ đến nóng nảy của mọi người. Ngày này qua ngày khác, tháng này đến tháng khác của năm thứ hai đã trôi qua, mà đứa con phi thường trong bụng bà công chúa Suppavasa vẫn chưa ra đời. Cứ như vậy qua năm thứ ba, rồi… thứ tư, thứ năm, thứ sáu, cho đến năm thứ bảy đã trôi qua, mà người ta vẫn chưa thấy bà công chúa Suppavasa sinh con. Thật là một điều lạ thường, chưa từng nghe, chưa từng thấy bao giờ! Đặc biệt, thai nhi nằm trong bụng mẹ lâu như vậy, mà vẫn không làm cho bà công chúa Suppavasa thấy khó chịu một chút nào, bà công chúa vẫn sống an vui, tự nhiên và quả phước thiện mỗi ngày vẫn tăng trưởng phi thường.
NGÀI SĪVALI RA ĐỜI
Bà công chúa Suppavasa mang thai tròn đủ bảy năm vẫn bình an, nhưng bước sang bảy ngày kế tiếp, thì bà phải chịu đựng một sự đau khổ đến cùng cực từ thai nhi. Vốn là người cận sự nữ, có đức tin trong sạch nơi tam bảo, bà công chúa Suppavasa muốn được chiêm bái Đức Phật trước khi chết. Với mong muốn thiết tha đó, bà bày tỏ với hoàng tử Mahāli:
- Thưa phu quân, xin hãy vì thiếp và đứa con trong bụng thiếp, mà đi thỉnh Đức Phật cùng chư Đại đức Tăng về đây cho thiếp được chiêm bái và cúng dường.
- Đang nóng lòng vì thời gian mang thai của ái thiếp quá lâu, cùng với những hiện tượng phi thường mà mọi người đều thấy nơi bà công chúa Suppavasa, nghe lời thỉnh cầu của ái thiếp, hoàng tử Mahali liền đến bạch với Đức Phật theo nguyện vọng của phu nhân.
Bằng nhãn thông, Đức Thế Tôn thấy rõ quả báo ác nghiệp của thai nhi và người mẹ đã mãn. Ngài truyền dạy lời chúc lành đến bà công chúa Suppavasa và thai nhi rằng:
“Sukhinī vata hotu Suppavasa,
Koliyadhitā sukhinī arogā
Arogam puttam vāyatu”
“Công chúa Suppavasa xứ Koliya.
Được sự khỏe mạnh và an lành hạ sinh đứa con khỏe mạnh”.
Khi Đức Thế Tôn chúc lành xong, tại cung điện, công chúa Suppavasa hạ sinh đứa con trai dễ dàng như nước từ trong bình đỗ ra, trước khi hoàng tử Mahāli trở về. Bà công chúa Suppavasa nhìn thấy đứa con trai mặt mày khôi ngô tuấn tú, quả phước thiện tròn đủ, thì vô cùng vui mừng sung sướng.
Sự ra đời của hài nhi làm cho hoàng tộc cũng như dân chúng thành Koliya dập tắt được mọi sự nóng lòng lo sợ cho công chúa Suppavasa và công tử, đem lại sự mát mẻ an vui cho tất cả mọi người, nên đứa bé được đặt tên là Sīvali (Mát mẻ, an vui).
Trên đường trở về cung điện, nhìn thấy mọi người đều vui mừng, hoan hỷ, hoàng tử Mahāli biết rằng điều tốt lành đã đến với công chúa Suppavasa phu nhân và đứa con của mình. Về tới cung điện, ông lập tức vào thăm phu nhân và thuật lại lời chúc phúc của Đức Phật đến công chúa Suppavasa và đứa con trai., công chúa Suppavasa sẵn có đức tin trong sạch nơi Đức Phật, Đức Pháp, Đức Tăng, đồng thời vô cùng hoan hỷ nhìn thấy đứa con đại phước mới ra đời, bèn tâu với phu quân:
- Xin cho thiếp được thỉnh Đức Phật cùng 500 chư Tỳ-khưu tăng, ngày mai đến cung điện cho thiếp được làm phước thiện suốt 7 ngày gọi là “Vayamangala” (hạnh phúc sinh con).
Công tử Sīvali mới sinh ra đã mau lớn lạ thường, biết đi, đứng, ngồi, nằm… biết ăn uống, nói chuyện và có trí tuệ hiểu biết thật phi thường!
Đức Phật cùng chư Đại đức Tăng ngự đến cung điện của công chúa Suppavasa và hoàng tử Mahāli dự lễ làm phước “Hạnh phúc sinh con”, suốt 7 ngày.
Đến ngày thứ 7, Đức Thế Tôn truyền dạy Ngài Đại đức Sariputta thuyết pháp. Ngài Đại đức Sariputta thuyết bài pháp về sự khổ sinh, sự tái sinh là khổ. Công tử Sīvali lắng nghe và thấu hiểu một cách rất sâu sắc về sự khổ sinh, vì chính công tử đã phải chịu khổ nằm trong bụng mẹ suốt 7 năm lẻ 7 ngày: đó là những gì mà công tử đã trải qua.
Khi ấy, Ngài Đại đức Sariputta bèn hỏi công tử rằng:
- Này con, con nằm trong bụng mẹ lâu đến 7 năm lẻ 7 ngày, con đã cảm thọ sự khổ nhiều phải không?
- Kính bạch Ngài Đại đức, con đã cảm thọ khổ nhiều!
- Như vậy, con có muốn xuất gia để giải thoát khổ sinh hay không?
- Kính bạch Ngài Đại đức, nếu cha mẹ con cho phép, con sẽ xuất gia.
Công chúa Suppavasa nhìn thấy con trai của mình đang nói chuyện với Ngài Đại đức Sariputta, trong tâm vô cùng hoan hỷ, muốn biết con mình đang nói gì với Ngài Đại đức Sariputta. Bà công chúa Suppavasa đến hầu gần chỗ Ngài Đại đức, rồi bạch rằng:
- Bạch Ngài Đại đức, con của đệ tử đang nói chuyện gì với Ngài?
Ngài Đại đức Sariputta thuật lại rằng:
- Công tử Sīvali nói rằng: Con đã chịu bao nhiêu nỗi khổ khi còn đang nằm trong bụng mẹ, nếu cha mẹ con cho phép, con sẽ xuất gia để giải thoát khổ sinh”.
Nghe xong, công chúa Suppavasa vô cùng hoan hỷ bạch rằng:
- Kính Bạch Ngài Đại đức, Sādhu! Sādhu! Lành thay! Lành thay! Con kính xin Ngài từ bi tế độ đứa con của đệ tử được xuất gia.
- Ngài Đại đức Sariputta dẫn công tử Sīvali về chùa. Ngài dạy giới tử Sīvali về đề mục thiền định căn bản “Năm thể trược trong thân” (tóc, lông, móng, răng, da). Ngài còn dạy giới tử Sīvali tiến hành thiền tuệ thấy rõ, biết rõ khổ sinh, mà Sīvali đã cảm thọ suốt 7 năm lẻ 7 ngày trong bụng mẹ. Giới tử Sīvali liền thấu hiểu rõ mục đích xuất gia là để giải thoát khỏi khổ tái sinh.
CÔNG TỬ SĪVALI XUẤT GIA SA DI
Công tử Sīvali sau khi thọ giáo lời dạy của vị thầy tế độ là Ngài Đại đức Sariputta, liền được Ngài Đại đức Moggallāna cạo tóc. Trong khi cạo tóc, giới tử Sīvali tiến hành thiền định căn bản, năm thể trược ở trong thân, và tiến hành thiền tuệ biết rõ khổ của sự tái sinh của danh pháp, sắc pháp. Khi Ngài Đại đ ức Moggallana vừa đặt dao cạo tóc, giới tử Sīvali liền chứng ngộ chân lý tứ thánh đế, chứng đắc nhập lưu thánh đạo, nhập lưu thánh quả. Cạo đường tóc thứ nhất, giới tử Sīvali chứng ngộ chân lý tứ thánh đế, chứng đắc Nhất lai thánh đạo, Nhất lai thánh quả. Cạo đường tóc thứ hai, giới tử Sīvali chứng ngộ chân lý tứ thánh đế, chứng đắc Bất lai thánh đạo, Bất lai thánh quả. Cạo tóc vừa xong, đồng thời giới tử Sīvali chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc A la hán thánh đạo, A la hán thánh quả, trở thành Bậc thánh Arahán tột cùng, cao thượng trong Phật giáo.
Kể từ ngày Đại đức Sīvali xuất gia làm Sadi, hằng ngày không chỉ có hàng cận sự nam, cận sự nữ đem 4 món vật dụng: Y phục, vật thực, chỗ ở, thuốc men trị bệnh đến dâng cúng Ngài Đại đức và chư Tỳ-khưu Tăng, ngày càng đầy đủ, dồi dào sung túc, mà trước đây chưa từng có.
QUẢ ÁC NGHIỆP CỦA NGÀI SIVALI
Một hôm, nhóm Tỳ-khưu đang ngồi bàn luận về Ngài Đại đức Sīvali là Bậc Đại trí. Ngài đã chứng đắc từ bậc Thánh nhập lưu đến Bậc Thánh A la hán trong khoảng thời gian cạo tóc xong. Ngài còn là Bậc Đại Phước, kể từ khi Ngài xuất gia thành Sadi, 4 món vật dụng đã phát sinh, không chỉ đến cho Ngài Đại đức Sīvali, mà còn đến tất cả chư Tỳ-khưu Tăng một cách đầy đủ, dồi dào sung túc mà trước đây chưa từng có. Vậy do quả ác nghiệp nào khiến cho Ngài phải nằm trong bụng mẹ chịu khổ suốt 7 năm lẻ 7 ngày?
Lúc ấy, Đức Thế Tôn vừa ngự đến bèn hỏi rằng: Này chư Tỳ- khưu, các con đang bàn luận về chuyện gì vậy?
Nhóm Tỳ-khưu bạch Đức Thế Tôn rõ, họ đang bàn luận về Ngài Đại đức Sīvali, Đức Thế Tôn bèn dạy rằng: - Này chư Tỳ- Khưu, Sīvali chịu khổ do quả ác nghiệp đã tạo ở kiếp quá khứ.
Trong quá khứ, tiền kiếp của Sīvali là Thái tử con của đức vua trị vì ở kinh thành Baranasi. Khi phụ vương băng hà, thái tử lên ngôi vua. Lúc ấy, có vị vua của nước láng giềng mưu toan kéo quân chiếm kinh thành Baranasi. Trên đường tiến quân, vị vua này lập doanh trại cho quân lính nghỉ đêm.
Đức vua ở kinh thành Baranasi hay tin bèn bàn tính với bà Hoàng Thái hậu, tìm cách ngăn cản đội quân xâm lược, rồi đem quân vây quanh bốn cửa doanh trại suốt 7 ngày đêm không cho một ai ra vào.
Lúc ấy, chư Phật Độc giác đang ngự ở chùa Migadayavihara thuyết giảng dạy về pháp thiện, pháp ác, khuyên bảo mọi người không nên gây nghiệp ác, mà hãy cố gắng tạo nghiệp thiện. Đức vua ở kinh thành Baranasi, sau khi nghe pháp hiểu rõ nghiệp thiện, nghiệp ác, liền truyền lệnh mở vòng vây 4 cửa doanh trại quân địch, thả cho vị Vua láng giềng và quân lính trốn thoát chạy về nước.
Do quả ác của nghiệp vây hãm doanh trại suốt 7 ngày đêm ấy, Đức vua kinh thành Baranasi sau khi chết đọa địa ngục, chịu khổ suốt thời gian lâu dài. Nay đến kiếp hiện tại này, được tái sinh vào lòng bà công chúa Suppavasa, là hậu thân của bà Hoàng Thái hậu ở tiền kiếp, đã đồng tình với Vương nhi vây hãm doanh trại kẻ thù. Do quả của ác nghiệp ở thời quá khứ còn dư lại, nên khiến cho Ngài Đại đức Sīvali và công chúa Suppavasa cùng chịu khổ trong suốt 7 năm lẻ 7 ngày.
SADI SĪVALI TRỞ THÀNH TỲ-KHƯU
Ngài Đại đức Sīvali tròn 20 tuổi. Ngài thọ Cụ Túc Giới, trở thành Tỳ-khưu, bốn món vật dụng lại càng phát sinh dồi dào hơn đến chư Tỳ-khưu Tăng. Hễ mỗi khi Chư Tỳ-khưu Tăng đông đảo phải đi vân du trên đường qua những vùng hẻo lánh, dân cư thưa thớt, ít ỏi, nhưng nếu có Ngài Đại đức Sīvali đi cùng, thì 4 món vật dụng, phát sinh đầy đủ sung túc đến chư Tỳ-khưu Tăng, do nhờ oai lực quả phước thiện của Ngài Đại đức Sīvali, chư thiên đã hóa ra xóm làng, thị thành và dân cư đông đúc để dâng cúng y phục, vật thực, chỗ ở và thuốc men chữa bệnh đến đoàn chư Tỳ-khưu Tăng. Khi đoàn chư Tỳ-khưu Tăng đã đi qua khỏi nơi ấy, thì xóm làng, kinh thành đó liền biến mất.
Một thuở nọ, Đức Phật cùng đoàn chư Tỳ-khưu Tăng đông đảo đến ngự đến khu rừng, nơi ở của Ngài Đại đức Revata. Khi Đức Phật cùng đoàn chư Tỳ-khưu Tăng đi đến đoạn đường có lối rẽ. Ngài Đại đức Ananda bạch với Đức Phật rằng:
- Kính bạch Đức Thế Tôn, có hai con đường, Đức Thế Tôn nên ngự đi con đường nào trong hai con đường này:
- Một con đường dài 30 do tuần, đầy nguy hiểm và có nhiều phi nhân, không có nơi khất thực và chỗ ở.
- Một con đường dài 60 do tuần, được an toàn, vì có làng xóm, chỗ ở và khất thực dễ dàng.
Đức Thế Tôn dạy: - Này Ananda, Sīvali có đi trong đoàn Tỳ-khưu phải không?
- Bạch Đức Thế Tôn, có Ngài Đại đức Sīvali cùng đi trong đoàn.
Đức Thế Tôn dạy:
- Như vậy, chư Tỳ-khưu nên đi theo con đường dài 30 do tuần. Để biết rõ được quả phước thiện của Sīvali.
Đức Phật cùng đoàn Tỳ-khưu Tăng đông đảo ngự theo con đường dài 30 do tuần. Tất cả chư thiên hay tin Đức Phật cùng đoàn Tỳ-khưu Tăng đông đảo, trong đó có Ngài Đại đức Sīvali kính yêu của họ, đang ngự dọc theo con đường này, nên vô cùng hoan hỷ. Cứ mỗi do tuần, chư thiên lại hóa ra một kinh thành trù phú có dân chúng đông đúc, có những ngôi chùa lớn, trong mỗi ngôi chùa, lại hóa ra một cái cốc lớn dành cho Đức Phật và những cốc nhỏ dành cho những vị Tỳ-khưu. Trong các cốc đó có đầy đủ những vật dụng cần thiết của bậc xuất gia, để tiếp đón Đức Phật và đoàn Tỳ-khưu Tăng.
Khi Đức Phật cùng chư Tỳ-khưu Tăng đi đến đâu chư thiên lại hóa ra các cận sự nam, cận sự nữ có đức tin trong sạch nơi Tam bảo, hộ độ cúng dường 4 món vật dụng đầy đủ sung túc.
Tất cả chư thiên đến hầu đảnh lễ Đức Phật xong, bạch Đức Thế Tôn rằng:
- Kính bạch Đức Thế Tôn, Ngài Đại đức Sīvali của chúng con ở đâu?
Khi gặp được Ngài Đại đức Sīvali, tất cả chư thiên vô cùng hoan hỷ, cho nên các món vật dụng y phục, vật thực, chỗ ở và thuốc men chữa bịnh phát sanh đến chư Tỳ-khưu Tăng dồi dào, sung túc cho đến khi đức Phật và đoàn chư Tỳ-khưu Tăng rời khỏi nơi ấy.
Đức Phật cùng đoàn chư Tỳ-khưu Tăng mỗi ngày đi được 1 do tuần, cứ mỗi do tuần chư thiên hóa ra các kinh thành trù phú, dân cư đông đúc như vậy để hộ độ Đức Phật và đoàn chư Tỳ-khưu Tăng, trên suốt quảng đường dài 30 do tuần, cho đến khu rừng, nơi trú ngụ của Ngài Đại đứcRevata.
Ngài Đại đức Revata hay được tin Đức Phật cùng đoàn chư Tỳ-khưu Tăng đông đảo đến thăm, Ngài dùng thần thông hóa ra ngôi chùa lớn để Đức Phật thuyết pháp và là nơi hội họp của chư Tỳ-khưu Tăng; hóa ra cốc Gandhakuti đầy đủ tiện nghi dâng lên Đức Phật, và những cốc nhỏ khác cho những vị Tỳ-khưu. Cũng bằng thần thông, Ngài Đại đức Revata hóa ra một con đường lớn và xinh đẹp để đón rước Đức Phật và chư Tỳ-khưu Tăng. Đức Phật cùng đoàn chư Tỳ-khưu Tăng ngự đi trên con đường đó đến ngôi chùa lớn, rồi Đức Phật ngự tới cốc Gandhakuti, tất cả chư Tỳ-khưu mỗi vị vào nghỉ một cốc nhỏ đã hóa sẵn.
Chư thiên ở trong rùng vô cùng hoan hỷ đón rườc Đức Phật và Chư Tỳ-khưu Tăng, trong đó có Ngài Đại đức Sīvali vô cùng kính yêu của họ. Chư thiên cũng hóa thành những cận sự nam, cận sự nữ biết được đã quá giờ thọ thực nên họ chỉ làm nước trái cây dâng lên Đức Phật cùng chư Tỳ-khưu Tăng. Mỗi ngày, chư thiên hoan hỷ cúng dường 4 món vật dụng đến đức Phật và chư Tỳ-khưu Tăng. Rất đầy đủ sung túc. Do quả phước thiện của Ngài Đại đức Sīvali, suốt nửa tháng đức Phật cùng đoàn chư Tỳ-khưu Tăng ngự ở khu rừng luôn được chư thiên kính yêu và dâng lên các món y phục, vật thực, chỗ ở và thuốc chữa bệnh một cách đầy đủ, dồi dào sung túc chưa từng có bao giờ.
Một hôm, chư Tỳ-khưu hội họp bàn về chuyện Ngài Đại đức Sīvali có nhiều quả báu phước thiện đặc biệt nhất, không chỉ phát sinh 4 món vật dụng đến Ngài Đại đức Sīvali mà còn đến cả chư Tỳ-khưu Tăng dù bao nhiêu cũng vẫn sung túc đầy đủ. Thật là điều phi thường! Không chỉ có các hàng cận sự nam cận sự nữ đem 4 món vật dụng đến cúng dường Ngài Đại đức Sīvali và chư Tỳ-khưu Tăng, mà còn có cả chư thiên, Long Vương… cũng đem 4 món vật dụng lên dâng cúng Ngài Đại đức Sīvali và chư Tỳ-khưu Tăng nữa. Các Tỳ-khưu đang bàn luận, khi ấy Đức Thế Tôn ngự đến bèn hỏi:
- Này chư Tỳ-khưu, các con đang bàn về chuyện gì thế?
Chư Tỳ-khưu bạch Đức Thế Tôn rằng:
- Kính bạch Đức Thế Tôn, chúng con đang bàn về quả phước thiện đặc biệt nhất của Ngài Đại đức Sīvali đã làm cho phát sinh 4 món vật dụng đến Ngài Đại đức và Chư Tỳ-khưu Tăng dù nhiều bao nhiêu cũng vẫn đầy đủ sung túc.
Nhân dịp ấy, Đức Thế Tôn chủ trì một buổi hội chư Đại đức Thánh Tăng. Đức Thế Tôn tuyên dương cho toàn thể các hàng đệ tử biết rằng:
“Etadaggam bhikkhave mama sāvakānam labhinam yadidam Sīvali”.
- Này chư Tỳ-khưu, Sīvali là bậc Thánh Thanh văn đại Đệ tử có tài lộc bậc nhất trong các hàng Thánh Thanh văn đệ tử của Như Lai.
Đức Thế Tôn dạy rằng:
- Này chư Tỳ-khưu, Sīvali có tài lộc nhiều là do nhờ quả báo của phước thiện đã tạo ở những kiếp quá khứ.
KỆ CẦU TÀI LỘC - SĪVALI GĀTHĀ
1.”Sīvali ca mahanamam,
Sabbalabhaṃ bhavissati
Therassa anubhavena,
Sabbe hontu piyam mama”.
Ngài Đại đức Sīvali bậc đại danh
Cầu xin tất cả tài lộc sẽ phát sanh
Do nhờ oai lực của Ngài Đại đức,
Tất cả chúng sanh, chư thiên, nhân loại,
Đều có tâm từ thương mến con.
2. “Sīvali ca mahalabham,
Sabbalabham bhavissati
Therassa anubhavena
Sada hontu piyaṃ mama”.
Ngài Đại đức Sīvali bậc đại tài lộc
Cầu xin tất cả tài lộc sẽ phát sanh,
Do nhờ oai lực của Ngài Đại đức,
Cầu xin Chư thiên, nhân loại luôn luôn yêu mến con.
3. “Sīvali ca mahathero,
mama sise thapetvana,
Mantitena jāyomantam,
aham vandami Sabbada”.
Ngài Đại đức Sīvali bậc cao thượng,
Con tôn kính Ngài ở trên đầu con.
Con xin tán dương ca tụng ân đức của Ngài
Con luôn luôn kính đảnh lễ Ngài.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét