Thứ Ba, 9 tháng 11, 2021

NGŨ ĐẠI HƯ KHÔNG TẠNG BỒ TÁT TỐC TẬT ĐẠI THẦN NGHIỆM BÍ MẬT THỨC KINH










MẬT TẠNG VIỆT NAM SỐ 18

NGŨ ĐẠI HƯ KHÔNG TẠNG BỒ TÁT
TỐC TẬT ĐẠI THẦN NGHIỆM BÍ MẬT THỨC KINH

SỐ 1194

Quyển Ba Mật Tạng
Kim Cang Trí thích nghĩa
五大虛空藏菩薩




Y theo kinh Du Dà đã nói
Đời sau bạch phước các Tỳ kheo
Tu lâu các pháp Phật bí mật
Không đươc hiện tiền các phước trí
Cùng với không quang không địa vị
Quí tánh cao nhơn nhưng bạc phước
Vì muốn hoá độ các chúng sanh

Nói ra pháp rất bí mật nầy
Ba đời chư Phật pháp thần nghiệm
Mau chóng đắc được pháp cứu cánh
Thích tôn dạy bảo các Tỳ kheo
Tuỳ lực bố thí tiền tài báu

Vì quả Bồ đề gọi chọn lựa
Truyền thọ nhớ niệm gắng tu hành
Nếu như bố thí không cung kính
Thọ đạo tu hành không cảm ứng

Muốn cho pháp nầy được đại nghiệm
Cần phải tạo lập bí mật bàn (mâm).



Cây bạch đàn, cây bá, cây quế sống trăm năm thành linh mộc, dùng tạo thiên bàn vuông vức hai tấc năm phân, hoặc ba tấc, địa bàn bốn mặt sáu tấc, hoặc bảy tấc, thiên sắc dùng màu xanh, trong viện địa màu vàng, trung viện màu xanh, ngoài viện màu đỏ, phương dưới bốn mặt hư không màu xanh, dưới màu vàng. Thiên hậu (chiều dài) một tấc ba phân, địa hậu một tấc tám phân. Mặt hướng Đông, Thiên bàn hoạ Phước Trí Hư Không Tạng Bồ tát ngồi trên hoa sen báu màu trắng, đội mão báu ngũ Phật, dùng các thứ anh lạc nghiêm sức nơi thân, tay phải thí vô uý, tay trái cầm hoa sen báu, trên hoa có chày yết ma màu vàng. Hướng Đông vẽ chữ Hồng. Hướng Nam vẽ chữ Đát lạt (trah) biến thành Bồ Tát Năng Mãn Hư Không Tạng ngồi trên hoa sen đỏ, đầu đội mão ngũ Phật trang nghiêm như trên, hình sắc màu đỏ thịt. Tay phải cầm kiếm báu, tay trái cầm hoa sen xanh, trên hoa có như ý bảo châu, quanh châu lửa cháy rực rỡ. Hướng Tây có chữ Hật rị (hrih) biến thành Bồ Tát Thí Nguyện Hư Không Tạng ngồi trên hoa sen màu tím, đầu đội mão như trên, trang nghiêm như trên, chấp tay nơi ngực, hình sắc hồng ba lợi (màu hồng). Hướng Bắc có chữ Ác (ah) biến thành Bồ Tát Vô Cấu Hư Không Tạng ngồi trên hoa sen trắng, đội mão và trang nghiêm như trên, tay trái thí vô uý, tay phải cầm hoa sen báu, trên hoa có mặt trăng tròn sắc trắng như nước. Trung ương có chữ Vam biến thành Bồ Tát Giải Thoát Hư Không Tạng đội mão và trang nghiêm như trên, ngồi trên hoa sen màu trắng vàng (vàng lợt). Tay phải thí vô ý, tay trái cầm hoa sen báu, trên hoa có chày một chia màu vàng. Ở trên đảnh của thiên bàn, vẽ hình tượng của bảy ngôi sao; địa bàn nội viện tám phương; vẽ hình tượng tám Thiên Vương, bốn góc bốn Thiên Vương như sau: Đông Phương Đế Thích, Nam phương Diêm Ma, Tây phương Phạm Thiên, Bắc phương Tỳ Sa Môn. Trung viện Nhị Thập Bát Tú. Hướng Đông vẽ bảy hình Nam màu xanh, mặc áo xanh cầm khí trượng. Nam phương màu đỏ, vẽ bảy hình nam mặc áo đỏ, cầm khí trượng. Tây phương màu trắng vẽ bảy hình Nam mặc áo trắng, cầm khí trượng. Bắc phương màu đen vẽ bảy hình nam mặc áo đen, cầm khí trượng. Ngoài viện vẽ ba sáu cầm (thú), bắt đầu giáp ất, các bộ Dạ xoa vẽ theo hình tượng tên tuổi, vẽ theo màu sắc tuỳ theo phương. Trong nội viên địa màu vàng, trung viện màu xanh, ngoài viện màu đỏ, y theo đây hoạ vẽ.



NGŨ ĐẠI HƯ KHÔNG TẠNG BỒ TÁT
THÀNH TỰU TẤT ĐỊA


Phẩm thứ Hai


Căn Bản Tối Thượng Tam Đà La Ni:

- Nam mâu a ca xá yết bà da. Úm a lợi ca ma lợi mô lợi sa phạ ha.

Đông Phương Bồ Tát Chú:

-Úm phạ nhựt ra hồng.

Nam Phương Bồ Tát Chú:

-Úm phạ nhựt ra đát lạc.

Tây Phương Bồ Tát Chú:

-Úm phạ nhựt ra hật rị.

Bắc Phương Bồ Tát Chú:

-Úm phạ nhựt ra ác.

Trung Ương Bồ Tát Chú:

-Úm phạ nhựt ra vảm.

Ấn khế như kinh Du dà nói. Người tu hành trước phải tương ưng lập đạo tràng, tuỳ chổ mà lập, cần chọn nơi thanh tịnh vắng lặng, xa lìa chổ ồn ào, dơ uế, bất tịnh, đồng nam đòng nữ, bất tín di, bần cùng, áo quần dơ dáy đựng chạm. Muốn cầu thành tựu, cần phải y pháp dâng các món cúng dường, an trí nơi Bổn tôn bàn, hướng về trước tuỳ nguyện ngày đêm ba thời tụng căn bản chú một trăm vạn biến, tức được đại trí huệ, được đại an lạc đệ nhất trong đời.

Nếu muốn tất cả đều được đại tự tại, tuỳ lực dâng các đồ cúng dường hộ ma, tất cả sở cầu đều được thành tựu. Các vật hộ ma phải tương ưng như đã nói trong các phẩm Tất Địa ( Phần này do sư khẩu truyền chọn lựa đệ tử, nếu không thì không nên trao cho).

Nếu người muốn được đại trí huệ, dùng Nam Phương Bồ Tát thêm Tỳ Sa Môn, mà cầu tức được. Nếu muốn được quốc vương thương nhớ, dùng Tây Phương Bồ Tát thêm Tỳ Sa Môn mà cầu tức được. Nếu muốn được Vương hậu, thể nữ cho đến các người nữ cao quí thương yêu, dùng tây Phương Bồ Tát thêm Tỳ Sa Môn mà cầu tức được. Nếu muốn được quan lớn thương yêu, dùng Tây Phương Bồ Tát thêm Tỳ Sa Môn mà cầu. Nếu muốn thành đại phước trưởng giả, dùng Nam Phương Bồ Tát thêm Tỳ Sa Môn mà cầu. Nếu muôn được đại quan qui y tôn trọng, dùng Đông Phương Bồ Tát Thêm Đế Thích mà cầu. Nếu muốn thắng được mọi người trong thiên hạ, được tự tại, dùng Bắc Phương Bồ Tát thêm Phạm Thiên mà cầu. Nếu muốn thành tựu mọi việc thế gian, xuất thế gian, dùng Trung Ương Bồ Tát thêm Đông Phương Thiên mà cầu. Nếu muốn được đại linh nghiệm cho người khác, dùng Nam Phương Bồ Tát thêm Tây Bắc Thiên mà cầu. Nếu muốn được đại linh nghiệm, lợi lạc tất cả chúng sanh, dùng Đông Pjương Bồ Tát thêm Tây Nam Thiên mà cầu. Nếu muốn được quan chức, dùng Đông Phương Bồ Tát thêm Tỳ Sa Môn Thiên mà cầu. Nếu muốn được tất cả mọi người thương mến , dùng Tây Phương Bồ Tát thêm Tỳ Sa môn mà cầu. Nếu muốn thắng các chỗ luận nghị , dùng Nam Phương Bồ Tát thêm Phạm Thiên mà cầu. Nếu muốn hàng phục kẻ ác, dùng Bắc Phương Bồ Tát thêm Tây nam Thiên mà cầu. Nếu muốn trừ bệnh nóng dùng Trung Ương Bồ Tát thêm Tây Bắc Thiên mà cầu. Nếu muốn trừ bệnh lao, bệnh thủng, bệnh liệt dung Bắc Phương Bồ Tát thêm Tây Nam Thiên mà cầu. Nếu muốn trừ các chướng nạn quan vị, dùng Đông Phương Bồ Tát thêm Tây Bắc Thiên mà cầu. Nếu muốn làm chủ các pháp sư, dùng Nam Phương Bồ Tát thêm Đông Nam Phương Thiên mà cầu. Nếu được chư Phật, Bồ Tát hộ niệm, dùng Trung Ưng Bồ Tát thêm Đông Nam Phương Thiên mà cầu. Nếu muốn được phú nhơn thương yêu, dùng Nam Phương Bồ Tát thêm Tỳ Sa Môn mà cầu. Nếu muốn cột trói thiên hồ địa hồ (yêu chồn), dùng Đông Phương Bồ Tát thêm Tây Nam Thiên mà cầu. Nếu muốn trừ diệt quỉ thần dựa vào, dùng Bắc Phương Bồ Tát thêm Diêm ma Thiên mà cầu. Nếu muốn diệt trừ định nghiệp, dùng Đông Phương Bồ Tát thêm Diêm Ma Thiên mà cầu. Nếu muốn diệt trừ con nít đoản mạng, được sống lâu, dùng Đông Phương Bồ Tát thêm Diêm Ma Thiên mà cầu. Nếu muốn phụ nữ mau sanh, dùng Bắc Phương Bồ Tát thêm Diêm Ma Thiên mà cầu. Nếu muốn cấm các ác quỉ ác độc không đến không đến, dùng Đông Phương Bồ Tát thêm Diêm ma Thiên mà cầu. Nếu muốn phản các ác nhơn trú trớ, dùng Bắc Phương Bồ Tát thêm Tây Nam Thiên mà cầu. Nếu muốn ngưng các nạn lửa, dùng Trung Ương Bồ Tát thêm Tây Bắc Phưong Thiên mà cầu. Nếu muốn trừ hạn hán,dùng Trung Ương Bồ Tát thêm Đế Thích Thiên mà cầu. Nếu muốn trừ các tai nạn tật bệnh lưu hành, dùng Bắc Phương Bồ Tát thêm Diêm Ma Thiên mà cầu. Nếu muốn được Cưc Lạc thượng phẩm thượng sanh, dùng Tây Phương Bồ Tát thêm Diêm Ma Thiên mà cầu. Nếu muốn cứu độ bảy đời phụ mẫu, lục thân quyến thuộc và tất cả chúng sanh đọa nơi địa ngục được vãng sanh Cực Lạc, dùng Tây Phương Bồ Tát thêm Phạm Thiên mà cầu. Nếu muốn vợ chông thương yêu, dùng Tây Phương Bồ Tát thêm Tỳ Sa Môn mà cầu (ghi tên tuổi nam nữ hoà hợp thiên địa đối nhau). Nếu muốn vợ chồng xa lìa các ác, dùng Bắc Phương Bồ tát thêm Tây Nam Thiên mà cầu. Nếu muốn phụ nữ xa lìa thương yêu trở lại, dùng Bắc Phương Bồ Tát thêm Tỳ Sa Môn mà cầu. Nếu bị trộm cướp tài vật muốn được lại, dùng Bắc Phương Bồ Tát thêm Diêm Ma Thiên mà cầu. Nếu muốn kêu gọi kẻ ở và trâu ngựa bỏ đi, dùng Nam Phương Bồ Tát thêm Phạm Thiên mà cầu (trên đây là bốn mươi bí thuật).

Gia trì bỏ mật tác pháp như trong cầu văn trì nghi quỉ đã nói. Kiện pháp nước Thiên Trúc Bồ đề truyền. Không cần nhiều thứ, nhiều người làm rất nghiệm ghi lại, gia trì cúng vật dùng Mã Đầu Minh Vương ấn chơn ngôn:

- Úm a mật lật đổ nạp bà phạ hồng phấn tra sa phạ ha.

Đại luân đàn ấn: Hai tay nắm thành quyền, địa phong câu nhau, để nơi ngực, tụng chú ba biến. Lại gia trì đàn, dùng ấn để nơi miệng.

- Um a phạ nhựt ra chước yết ra nhạ hồng vãm hô.

Niệm Châu gia trì chơn ngôn:

- Úm tỳ lô giá na mạ lệ ta phạ ha.

Lại tụng Thí chuyển niệm châu:

- Úm phạ nhựt ra ngục hê da nhạ bát sam ma duệ hồng.

Kiết tường Thiên tiểu chú:

- Úm ma ha chi lợi duệ sa bà ha.

Thiên Vương Phạm tự chú:

- Úm tỳ trí tu đa ca tất dã ta bà ha.

Tứ Thiên Vương thang chú:

- Úm tự bà la sa diễm đà la dạ sa bà ha.

Sứ giả chú:

- Úm đậu lưu đậu lưu địa lợi địa lợi độ lộ độ lộ ca tha da sa bà ha.

Đại tam ma gia ấn chơn ngôn: Hai tay kết Kim Cang quyền, dựa lưng nhau, thẳng hai phong đầu dính nhau, dùng ấn đưa từ tim lên đảnh ba lần, tán ấn nơi đảnh.

- Năng mồ tam mãn đà một đà nẫm đạt ma đà da tát phạ bà phạ câu hàm.

Quảng Đại Bất Không Ma Ni Phổ cúng dường ấn:

Hai tay Kim Cang hợp chưởng, đầu hai ngón trỏ vịn như hình bảo, thẳng hai ngón cái tức thành, tụng Bất Không Ma ni cúng dường chơn ngôn.

- Úm a mộ dà bố nhạ ma ni bạt nạp ma phạ nhựt lệ đát tha nghiệt đa vĩ lộ chỉ đế tam mãn đa bát ra tát ra hồng.

Cầm độc cổ (chày một chia), tay trái nắm thành quyền để nơi hông trái, tụng Kim Cang chùy chơn ngôn ba biến, dùng chày xoay phải trái mỗi bên ba lần, đưa lên ba lần, gia trì năm chỗ để nơi vú phải, tay trái cầm linh tụng chơn ngôn ba biến, năm lần đưa lên môi, tay trái hai lần đưa ngang môi hai lần lại dùng chày xoay phải trái ba lần, gia trì năm chỗ đem chùy linh để lại chỗ cũ

Chùy chơn ngôn:

- Úm phạ nhựt ra bá nể hồng.

Linh chơn ngôn

- Úm phạ nhựt ra kim tra đổ sử dả hô.

Phụng hiến ứ già ấn minh. Hư không tạng bốn phương kết. Kim Cang võng. Sái địa chơn ngôn.




***
NGŨ ĐẠI HƯ KHÔNG TẠN NGHI QUỈ
Thích Quảng Trí dịch ra Việt – Mùa Đông Bính Tý 1996

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét