Huyền Không Thiên Thượng ban kinh cho Giáo Hội Thiên Trường vào ngày 01 tháng 05 năm Canh Tí (21/06/2020), giờ Mão; ngày 09 tháng 05 năm Canh Tí (29/06/2020), giờ Tí; ngày 01 tháng 06 năm Canh Tí (20/07/2020), giờ Tí; ngày 01 tháng 07 năm Canh Tí (19/08/2020), giờ Tí. Đàn tràng Nam Thành, Tòa Đình Trung Ương Quốc Ngoại Nam California dự đàn, Hiệp Thiên Huyền Nữ Kim Ngọc Thanh Huyền tiếp điển ứng khẩu lưu xuất.
NGỌC KINH
(NGỌC HOÀNG ĐẠI ĐẾ TÂM KINH)
Phẩm Di Đà Kim Sắc Nhạn Thinh
Khai Kinh:
DIỆT TIÊU TIÊU DIỆT KIẾP NHÂN SINH
DI ĐÀ HẰNG MỞ CHUYỆN DUY LINH
RẰNG MAU TỈNH GIẤC VƯỢT MÊ BIỂN
DI ĐÀ KIM SẮC PHẨM NHẠN THINH.
[Chữ Nhạn bộ Chuy: danh từ có nghĩa là thư tín, tin tức, thông điệp.
Thinh = thanh = lời. Kim: đương lai, hiện tại. Sắc: sắc lệnh, răn bảo.]
Chánh Kinh
TĨNH TÂM phút xét suy thời loạn
TÂM TẤT THỊ PHẬT cũng kề gần
Ngày giờ giây phút bụi trần rũ
ĐẠO ĐÂU XA bởi lòng thoái sân.
Ngắm cảnh trần hoàn hợp lại tan
DI ĐÀ PHẬT TỔ vọng xa gần
Xót thương kẻ thế mãi mê muội
Cung đàn sáo nhạc mãi âm vang.
Sông mê khổ thoát lòng cầu ước
PHẬT muốn thế ni TẠNG TRÍ LƯỢC
PHẬT ĐƯƠNG THỂ GIẢI NHÂN GIAI CỌNG
KHAI TRÍ TUỆ CĂN LINH THÔNG BƯỚC.
Cứu nhân khổ nạn cõi Ta Bà
Hiện ánh mười phương diệu diệu xa
LÒNG TỪ THƯƠNG XÓT NHÂN GIAN CHÚNG
DI ĐÀ PHẬT TỔ PHÓNG QUANG TÒA.
Trần ảo vần xoay bạc ác hung
Điên đảo đảo điên độc dữ cùng
Chúng sinh u ám tối tăm loạn
Nước bể lệ tuôn đoạn thảm chung.
DI ĐÀ BI ĐẠI đời sa đắm
PHẬT TỔ hư vô hướng thiện tầm
Bụi trần phiền não oan gia nghiệp
TÂM KINH TU ĐỨC LỰC VÔ [VI] THÂM.
Sổ vàng ghi chép ác thiện toán
Nhân gian xa gần nước muôn dân
Hư không y thượng thiên sắc thế
Thiện pháp mô trì giả chúng nhân.
Túc thần túc trí nhân ái kính
Phổ độ cảm hóa bi cứu linh
Linh nhân lợi lạc phương thường kiến
PHẬT QUÁN TỪ BI THỜI HIỆN THINH.
Nhân sinh ly loạn nhân nạn dữ
Oán tất hãi kinh nhứt thiết chư
Nhận thu bất tận tu vô lượng
Diệt khổ đắc sinh phiêu phiêu như.
Tâm là quý nhứt chớ coi khinh
Đừng mê đừng loạn bởi tâm mình
DƯỠNG TÍNH AN THẦN TÂM PHẢI ĐỊNH
CHO KHIẾT CHO TỊNH MỚI AN BÌNH.
Mau tỉnh giấc nồng bớ nhân sinh
Tranh ăn tranh thứ tự giết mình
MỞ LÒNG QUẢNG ĐẠI TỪ BI CHÚNG
ÂN HỒNG NGỌC CHỈ SẮC BAN LINH.
TU mọi sự thế chính vững bền
ĐỨC TIN tính SỬA LÒNG cố tu
Làm nên biết rõ sanh kịp nền
Chuẩn phàm tục hoá thanh tao tự.
BIẾT HỐI TU TRÌ được thân nên
Hối kịp cảm tắc nam tín nữ
Ngộ đạo chí công sức lực truyền
Cải hóa trong sạch nợ trần rũ.
HÓA [THÂN] ĐỨC phúc nay đến Nước Thiên
Tránh mê kẻ thế muôn hồng tử
Dữ việc mọi đàng kiên tâm đền
THEO CHÂN ĐỨC PHẬT TÒA VÀNG NGỰ.
LÀNH NHIỆM KỲ THAY LÒNG MỘT NIỆM
Cảm hóa mai sau mọi đàng tu
Đức vẹn bền chí năng hành thiện
HÓA GIẢI BI AI ĐẠO ĐỨC TU.
Chúng sanh phiền não lộ tắc [tức thì] phiền
ĐỨC hoán thông vô thiên thủ thiên
NIỆM PHẬT PHẬT ĐỘ LINH SANH CHÚNG
HIỆN THÂN VỚT KẺ ĐỐI PHẬT TIỀN.
Muôn dân sĩ tử
BI TỪ MỞ LÒNG
MỘT LÒNG MỘ ĐẠO
Tận đạo thần tôn
Báu muôn phần quí
Một khi thoát nạn
Tiêu tan bịnh tai
Đông Tây Nam Bắc
Thời lạc tiêu tan
Ân cần niệm Phật
Thời tất ách tai
Khi nay sóng gió
Túc mô thông lực
TỈNH THỨC KIẾN PHẬT
CÓ ĐỨC CÓ NHÂN
THẾ TRẦN GIÁNG ĐỘ
Nạn khổ siết bao
Cảnh nào hẹp lối
Hại người gớm ghê
Đục mê nặng nề
Lối về chẳng rõ
Bảo cho đường lối
VIÊN HỘI NHỨT LINH
Tiền sinh trái nghiệp
Vạn kiếp oan thù
Người u ám đọa
Vạn khổ liên miên
Trần miền trầm luân.
Tầm cơ linh giác độ nhân sanh
Long Đình thị hiện THIÊN HOÀNG thành
Chiếu soi điền trụ muôn sự khó
Sắc mà sắc vẫn TRỜI ban lành.
Định tâm an lạc một lòng thành
Ngộ tâm kiên dốc não rũ thanh
TRÌ KINH TU ĐỨC BÌNH AN THỌ
ÔN NHU TỪ BI ĐẤT PHÚC LÀNH.
Rõ ràng bệnh tật tai ách lửa
Tội ác xét ghi tỉnh hồn chưa?
PHÉP TRỜI PHÂN MINH kiêu ngạo tội
Hỏi đến tiêu tan sao thớt thưa.
Dương trần nhiều nỗi thảm thương vong
Chúng sanh chẳng biết rộng Lư Bồng
Phận hiền thắc [sai lầm] cũ tựa TÙNG BÓNG
Chuyển xoay Ngươn Ba chóng BÓNG TÙNG.
TỪ BI xem trọng lòng từ chúng
Kêu một cõi đời dụng năng khai
Đà rõ ý duyên CHÁNH PHÁP hái
Dựng cảnh Thuấn Nghiêu lại thời lai.
Trẻ già tựa cánh soi gương mãi
Cao Xanh điểm hóa tại tâm căn
Nhẹ nhìn Phương Tây định thức thần
Nhựt nguyệt phi đài vẫn Khổng Thánh.
Trổ Kỳ Tam, QUỐC dạy hồi sanh
Lắng nghe nhè nhẹ thanh sử kiết
Nghiệm kim suy cổ trời đất xiết
Tương tàn tương sát thiệt tranh ao.
Nay thời tăm tối biết thế nào
Mau mau tỉnh ngộ lau Phật cảnh
Gốc tích người xưa điểm kiểm thanh [lọc]
Lòng giục ngắm nhìn tranh nhân thế.
Gió Tây lay thổi đến chiều về
GẦY DỰNG CẢNH BỐN BỀ SÁNG CHÓI
SEN ĐÀI MỌC MỤC CHỒI ĐÂM TRỖI
Chỉ [cho] [người] thiện tu hành khỏi ngẩn ngơ.
DIỆU PHÁP LIÊN HOA CHUYỂN TRẬN CỜ
RÁNG HIỂU CHO RA rộ mới vui
Thức giấc ráng lên chớ có lùi
Nhủ khuyên người đạo trui rèn luyện.
HẠNH ĐẠO RÁNG TU, GIẢI ĐẶNG LÊN
NẾU TU PHẢI MỨC NÊN GIẢI TỤC
GÌN CÂU LỤC TỰ THÂN HẠNH PHÚC
MỚI LÀ ẨN Ý LỤC [TỰ] DI ĐÀ.
Khai tâm bổn thiện nêu rõ dạ
Cố gắng tầm xem hạ cổ bài
Chỉ trong bốn bực Long Lầu giải
CHIẾC BÓNG TỪ BI TÁI HẠN KỲ.
XUẤT THẾ gian truân giải nan phỉ
KHẢ ÁI DUY TÂN lý ngộ bày
ĐẤT NAM CHÓI RẠNG TỪ BI TRẢI
DIỆU HUYỀN [THIÊN] KIM CỔ TÁI LÂM TRẦN.
PHÁP THIÊN luân chuyển đặng tánh Bồng [Lai]
BỒ TÁT TỪ BI NGÕ PHẬT THÔNG
Lái thuyền nang sóng vừng bốn vách
Duyên rộng khói lồng cảnh mục sông.
Hồng trần khó kiếm KHÁCH vào đây
NGỌN ĐUỐC TỪ BI CHIẾU SÁNG ĐẦY
Soi đường phơi trải phanh phui cạn
NHÃN QUANG THẦN NHÌN THẨM BAN MAI.
[Ý chữ "Khách" này nằm trong 4 chữ "QUỐC KHÁCH ĐẠI ĐẠO"
của Bửu Sơn Kỳ Hương đã được tiên khải và lưu giữ hơn nửa thế kỷ.
Chữ "Khách" này là chỉ "Huyền Thiên kim cổ tái lâm trần".]
BÌNH MINH sáng trong trời nắng ấm
Gom hết văn thi tỏa trông tầm
Hội Yến điển linh thân thân diệu
Tây Cung văng vẳng CỐ TRUY thầm.
[Bình Minh = Minh Thiên = Huyền Minh = Huyền Thiên.]
SÔNG [HÀ] còn biển rộng tưới thân mang
Lòng son tha giác hướng định bày
THIỆN HIỀN SỨC MỞ NGÀI PHẬT PHÁP
DIỆU PHÁP THINH ÂM MƠ THẦN XOAY.
[SÔNG = ám chỉ HÀ, kim thân của Huyền Thiên.
HÀ QUỐC = tên họ của Đức Ngài Hoàng Di Thiên.]
Ngắm nhìn bốn phía cõi trời mây
Một cõi HUYỀN THIÊN tỏa kỳ tài
Vẹt màn ngũ uẩn kỳ hồi khó
LÂM PHÀM thử thách thế nhân [có] hay?
Ráng niệm Nam Mô giải luật trần
NGƯỜI TU PHẢI RÁNG LẬP CÔNG HUÂN
KHAI CĂN MỞ TRÍ DIỆU THÂM ĐÁO
CHỮ TU CHƠN CHÁNH THOÁT VI NĂNG.
Ngày lẫn đêm MONG CẦU QUỐC ĐẠO
Cả đời hành đạo rõ âm hao
Quyết đi tới chốn non tiên cảnh
TỪ BI miệng niệm một cảnh nào.
Màu trời Hội Yến sớm qui về
Chèo cho ngay lối thoát kiếp mê
Dù cho khảo quả không lùi bước
Quyết chí tu hành dựa Bồ Đề.
Canh Tí bước sang cuối Thu tàn
Đảo lộn viễn cảnh đời chớp tan
Một khi TRỜI giáng hồi sinh tử
Ai thoát Tam Đồ khổ não nàn.
Tam Thiên Thế Giới tiêu trần cấu
NIỆM PHẬT NHỨT TÂM cảm hoá cầu
THIÊN THỦ THIÊN NHÃN từ bi cứu
Nhân thế thời tiêu định sáu câu.
Mở phút vui đầy đủ nghĩa nhân
Thâm sâu ý nặng chạy lớp màn
Năng ngộ tạo hình mở ra ý
CHỈ BÓNG TỪ BI LỘ THIÊN HOÀNG.
Khai câu ĐẠO ĐỨC chiếu khắc sâu
Rộng tình BÁC ÁI cuộc trần bâu
Kiếp người chất chứa trần ai khổ
Tìm cõi tu hiền THÍCH CA MÂU [NI].
Vô hình thấm thía cảnh lòng nhân
Sức sống đời tận sắp đến gần
Sớm không tu tĩnh chẳng yên thân
THƯỢNG CỔ DĨ LAI NGHI GIÁNG TRẦN.
Ngưỡng thượng đàn xin có phúc duyên
ẤN SẮC DI ĐÀ CHỐN ĐÀN TIỀN
Kim quang chiếu rọi hoan nhiên toại
XOAY HƯỚNG TỪ BI BỞI CAO THIÊN.
Chiết thân rõ bóng ảnh vô hình
Thần thông vận chuyển bởi tâm linh
Sắc khai nhựt nguyệt Phương Tây phản
Bộ máy thiên thiên chứa cuộc thình.
[Thiên thiên = ngày ngày. Thình = gìn giữ, như cổ ngữ “thình lòng”
có nghĩa là gìn lòng. Chiết thân = tách một phần linh quang/linh thể
xuống thế. Nhựt Nguyệt = Minh = Minh Thiên = Huyền Thiên Thượng Đế.
Phương Tây = ám chỉ Hoa Kỳ, chính xác hơn là vùng đất vàng California.]
TẠO THÍCH GIÁC THUYỀN CẨM NANG THƠ
CHÁNH PHÁP nghiêm mình một định chờ
Thao lược Đông phong tư nan lái
Chí tỏa tang bồng giải giấc mơ.
BỒ TÁT TỪ BI NGÕ PHẬT CHỜ
Phùng quang hạn mạch truyết tri cơ
TẠO THỂ HỮU VI, VÔ SẮC MỆNH
Gởi trọn Kỳ Yên đến bến bờ.
["Truyết" là chữ Nôm đồng nghĩa với chữ Triết bộ Xích chữ Hán
có nghĩa là "thấu đáo tới tận cùng/rốt ráo"]
DÒNG GIỐNG LẠC LONG CƠ ĐÁO THẾ
Trang sử QUỐC ÂN tái lập tề
Định quốc an bang chuyển dời đúng
Bỏ lỡ uổng công bậc MINH [THIÊN] về.
[Bậc Minh về = Minh Thiên giáng thế. Minh Thiên = Thiên Minh =
Huyền Minh = Huyền Thiên = Huyền Thiên Thượng Đế = Huyền Khung
Thượng Đế = Ngọc Đế = Bạch Ngọc Đế = Đại La Thiên Đế
Thái Cực Thánh Hoàng = Thiên Chúa = Đức Chúa Trời]
Thâm tình cổ bóng ẩn tùng ân
Tinh hoa kết tụ [NGỌC] ĐẾ khai thần
THẦN THÁNH PHẬT TIÊN ĐỀU HẠ THẾ
UY PHONG VÕ LÝ TUYỆT VỜI NĂNG.
Mật độ khai chốt cột nhà Nam
Ra oai xét bổ vô khuôn tầm
QUÂN KỶ TAM THANH KỲ LẬP HẠ
ĐẤT NAM CHÓI RẠNG XUẤT THẦN HÀM.
Kỳ ba Long Hội tạo vĩ mô
Thiện phước trữ nhiều ắt khôi ngô
Màu trời xoay sắp trải nâu áo
Hạng mục HUỲNH KỲ mức tựa hồ.
Dữ [và] biết BÓNG SƠN LINH HỒI ĐỊNH
BẾN CŨ ĐÒ KHAI cảnh vô hình
Mọi cọc tầm sâu nhìn rõ nét
Thuần túy [CẨM] NANG THƠ tỏa SƠN MINH.
Phẩm Di Đà Đại Lực Diễn Ngọc Kinh
Bước rõ lai trào thấu thật hư
Ngươn này chỉ một sợi chỉ TỪ
Nào ai rõ biết Thiên Cơ thế
Bước tới Cửa Thiên ánh nguyệt như.
Quang âm khai, mở cột chiều mơi
Dầu trải gió Xuân chẳng tách rời
Kiên tâm gác bỏ, lòng thử thách
Giác độ can qua phận vun bồi.
Khai ngôi, cửa mở lặng chiều mơi
Chưa định tạng ra chớ buông lơi
HUYỀN THIÊN KHAI HỘI tâm căn định
Tựa cánh bông sen rộ nở ngôi.
Chớ có phụ công cảnh THIÊN OAI
Cơ trời HÓA TẠO ý cuộc hài
Cung đàn chưa diễn âm thinh chuyển
Vô vi soi đường mở qui lai.
MỘT [NHỨT] THIÊN di ẤN GIẢ phương chi
TỪ BI tận độ ách nan trì
DI ĐÀ phóng tuệ nguyệt vân ảnh
Tư phủ tiên bang liệt giá ai.
Lai lâm trắc giáng trừ Tam Chướng
Tam Đồ Lục Đạo chúng sinh tường
QUANG MINH DI ĐÀ Kinh Đoạn Diệt
Đông Tây Nam Bắc phúc thùy trường.
DI ĐÀ ĐẠI LỰC DIỄN NGỌC KINH
Chín nhựt xuân THIÊN Nguyên Tiết MINH
Lưu truyền nhứt bộ kinh ân cú
Ân giáng trần tâm giới thinh thinh.
[Nguyên Tiết là ngày tết liên quan đến Khuất Nguyên (điển tích), tức nói tới Tiết Đoan Ngọ hay Tết Đoan Ngọ. "Chín nhựt xuân thiên Nguyên Tiết minh" có nghĩa là "ngày mùng chín Tết tiết trời Khuất Nguyên sáng lạng". Nói thẳng là "vào ngày mùng 9 tháng 5 Tết Đoan Ngọ."]
Thanh tịnh trí tuệ chúng hàm chân
Ấn diệu sáng gương nhân đắc truyền
Cảm lòng THIÊN ĐẾ, LINH ẤN hiện
Huỳnh Lâu ứng diệu điển giá đường.
Qui y tu Đức Phật hằng thương
Truyền cảm chín từng Phương Tây tỏa
Luyện Đạo chân tiên QUỐC HÀ sa
Vô vi đại điện tòa cao thượng.
["quốc hà sa" = hà sa quốc độ = cũng ngụ ý "QUỐC HÀ Sa Môn" hoặc
"QUỐC HÀ Sa Bà". QUỐC HÀ là thế danh của Đức Ngài Hoàng Di Thiên.]
PHẬT TỔ ĐẠI BI thế xót thương
Suy ra thời xấu tường chân lý
Tối tăm u ám độc sân si
Đắm sa bể khổ kỳ ma quỷ
Hút người chẳng tanh cõi thế ni
Cửa Trời đã mở qui tu đức
Tịnh xét đoán công tạo chính trực.
Bước đi thân hạnh rực sáng tâm
Khiến lộng điển linh bảo lối thầm
Tàng linh ẩn bóng lam châu chứa
Ngã Phật dạy từ tạng màn xưa
GỐC XƯA LUÂN CHUYỂN vừa chiếu hướng
MINH THIÊN vũ trụ dạ KỲ VƯƠNG.
Niệm Phật gắng công ra sức lòng
Bông sen thay sắc vô trung không
Cửu phẩm hàm linh đăng bỉ ngạn
Dĩ vô sở đắc Phật hiện đồng.
Chú dạ tâm vô tổn hoại hoán
Duyệt giáng cửu thanh chí bảo quang
Nhân bạc sinh khổ nhân giả khổ
Thuyền du tạo pháp thiên tường vân.
NGỌC CHƠN CUNG KHÁNH ĐẾ QUÂN KINH
THANH ỨNG THIÊN TÔN thùy PHÁP linh
Muôn kiếp vẹn tuyền thần sắc khí
Thượng đạo quân đạo tuyên vương bình.
[Ngọc Chơn Thanh Ứng Pháp Thiên Tôn]
Cơ thảm thay sinh cáo phả minh
Tri chiến mục đầu cạn bay thinh
Khéo léo niềm tin nông cốt cạn
Cuộc thế đổi thay Phật xoay hình.
Say kinh bổn dư âm trổi nổi
Đáo hạn Canh theo gót Tổ hồi
Thời tuy đến rồi thân say mãi
Khai điểm thời gian khát nước thời.
Khiếu khiếu đầu muôn báo ân thâm
Chẳng khoe tài giỏi giải việc tầm
Tôn hiền ngụ đức âm công đức
Đoạn tuyệt lục trần thanh khiết tâm.
Sạch rửa lòng trần tỉnh mê si
Chẳng nhớ oán thù quyết luyện đi
Đừng nói thiệt hơn gièm pha cợt
Kìa thuyền đón chở Phật hẹp chi.
Tí nguyệt Canh LINH PHẬT giá đàng
DI ĐÀ đại lực đại hiệu ban
Duyệt kinh thế xứ thông cú khể
Tất ứng tất cầu xứ xứ hưng.
[Khể bộ Mộc = mở ra ,khải]
Hư không tằng cửu hậu thế minh
Kinh văn nhứt thủ diễn NGỌC KINH
Lai lâm Nhứt Phẩm DI ĐÀ diễn
Kiên tâm tâm tất thị Phật trình.
Chiếc bóng từ bi THƯỢNG THIÊN khai
Thơm diệu ngọt bùi cảnh liên đài
Cơ Trời sửa soạn vi tiêu diệt
Tàng linh cửa mở hội anh tài.
MÔ THIÊN NHÃN THIÊN ĐẠI TỪ BI
Khổ khổ phiền não nhứt đảnh qui
Kiến Phật nhân linh thần thông lực
Giả chúng giả nhân linh nhân si.
Sắc sắc không không bao la giới
THÁI THƯỢNG KIM TINH truy định nơi
Canh Giáp đạo giá thùy đầu pháp
Ta thiệm hồn sanh rực bầu trời.
[Thiệm bộ Bối = cung cấp, cứu giúp]
Ngõ hầu ai ai biết hối tâm
Muôn sự đời bền tu đức thầm
Trời Phật Tiên Thánh mới giáng ấn
Thiết thực nhân tâm đức chuẩn làm.
Cực Lạc sen báu hiên vô biên
Phật hiện tại tâm cần cho chuyên
Tâm phải thinh thinh linh linh ấn
Chuyên tâm bất dịch đạt cửu truyền.
Mực xiết vòng tay đẹp Thiên Đình
Trọn câu Phật Pháp phỉ huy ninh
Ấn vị Kim Bàn đo lộ thước
Thuyết năng khai cảnh nhập vô hình.
Khai định kịp thời khỏi chơi vơi
Cất bước cửa thiền định chỗ ngồi
Kinh huyền mở rộng lịch lãm kỷ
Vô hình âm lai hiệp ý thời.
Một Đạo dồi trao bước thản nhiên
MINH QUÂN sáng tợ bí mật HUYỀN
Bàn cờ sắp đặt tàn quyết sửa
Nhược thủy liên đài ức vạn niên.
THIÊN đức PHẬT cho đạo an vui
GIÀ LAM thông chỗ chớ bước lùi
Mọi việc trong ngoài lực xoay chuyển
Thay thời vận chuyển rảnh ngùi ngùi.
Trái đất một phen luân
Cõi lưới căn kịp thời
Nhi tử mạng THIÊN TRỜI
Mây lòng vơi gọi gió
Đất khách một mình lộ
Gió phất phơ điển thiêng
Chạp dạ thầm THIÊN HUYỀN
Đạo lưu truyền phận sự
Hội kỳ bày định xứ
Thế trần như mênh mông
Trổi âm thinh trầm bổng
Gìn gương Khổng thiêng liêng
Khai cõi ngộ trần miền
Ức thiên niên cửu trạm
Sức sống đời bao năm
Gội thân phàm linh phục
Nên lai thảo thân túc
Kỳ đến phục diệu thâm
Tiết trời đạm mây lam
MỘT đồng TAM nhận định
Cơ trời mở OAI THINH
Bóng vô hình bóng xế
Qui tam thủ kỳ bệ
Trời bồng bế tâm tu
Vai mang đa phận sự
Xuân Hạ Thu Đông vào
Trọn tu rõ âm hao
MỞ LỰC CAO thầm lặng
Máy thiêng liêng định ấn
CUỘC PHONG THẦN thảm bề
Thúc qui hồi thủ lễ
Qui trở về tâm tu
Mở phút vui đầy đủ
Mục niệm từ vượt qua
Sống sanh cõi Ta Bà
Nhiệm kỳ ba mọi sự
Tu hành thoát cảnh hư
Diệu quả từ bi ẩn
Diệt hết sáu trần thân
Toàn bông năng lượng tính
Chiếu diệu lực âm tinh
Trổ điển linh phước đạo
Cổ lai nền tái tạo
Luân thế cao lộng mềm
Mục đề sánh bằng an
Bá tánh đang hồi khổ
Mở lực dần thiên cổ
Ứng hài lộ long châu
Lót đường phơi trải thấu
Đo cạn sâu mới hay
Nên động thủ vắn dài
Trống điển thay thời vận
Đột phá vô minh trận
Tác phi phần cõi mê
Trần xem thấy ủ ê
Hay nẻo về chiều hướng
Bỏ lở trước Phật đường
Niềm tin thượng lai cảnh
Mở rộng lục căn thanh
Qui nguyện lành đạo diễn
Tạng ra chớ tạo phiền
Thành qui nguyện LONG HOA
Chờ TỨ THÁNH thứ ba
Kim cổ ra thời đại
Âu thời vọng chuyển xoay
Cõi trời Tây tạng cổ
Âm thinh máy huyền cơ
Sửa cảnh bờ đưa đến
Chiếc bóng thuyền hoa liên
Đến trổ yên đắc đạo
Gìn mối một thể rào
Rõ lai trào hư thật.
Nhẫn nhục chơn tâm dạ như không
Thân ai như nấy thương thể đồng
Sân tâm trung hỏa thiêu công đức
Nhơn ở có nhơn tích đức phòng.
Thề cải ác theo điều Phật dạy
Giữ thân bền ngay thẳng thẳng ngay
Giận thì sanh dữ hỏa năng thiêu
Muốn theo Bồ Tát hóa BI tài.
Dựng lại Ngươn Ba cõi hồng trần
Muốn lên bền chí tu đất thân
Vô ảnh mới tạng châu mới hiện
Giờ HUYỀN mời khách thường chuyển luân.
Giáng cơ mây xanh diệu trần lâm
Nghĩa rành bởi dạ hành tu thầm
Tầm hoan đoái lại Tiên Đạo có
Độ người khỏi đọa hết mê lầm.
CHUYỂN LUÂN VƯƠNG đền tại Biển Đông
Trái đất rung cầu Nại Hà cầm
Sống lâu thác yểu đều định rõ
VUA PHONG ĐÔ đại biến hóa phong.
VĂN XƯƠNG ĐẾ QUÂN đổi sự đời
Dê quanh co đi chia sáu ngôi
Đừng mơ sự đã đến khuyên người
Tay cầm gương xá ĐẾ khoán ngôi.
Từ năm THƯỢNG ĐẾ phê chỉ chúng
Giảng mà khuyên đời chừa lỗi tùng
ĐẠI ĐẾ, THẬP PHƯƠNG THẦN THÀNH HOÀNG
Truyền cho đời biết ĐẠI ĐẾ [HUYỀN] KHUNG.
Nói lậu tên nghe ĐẠI ĐẾ KHUNG
Ta hiệu THIÊN THẦN ĐẾ VƯƠNG CUNG
Hiện báo lành dữ đời này họa
Ăn năn muộn sao kịp kiến [Cửu] Trùng.
PHONG ĐÔ ĐẠI ĐẾ cơ thần long
Ngũ hiển linh quang tuế lạp đông
TAM MAO ỨNG HÓA CHƠN QUÂN hiển
ĐẠT MA SƯ TỔ, THÁI ÂM CÔNG.
THIÊN TÀO CHƯ TỬ hạ môn quan
NGŨ NHẠC NGŨ ĐẾ giáng hạ đàn
ĐẠI ĐẾ ĐẨU THẦN quây công lực
BẮC CỰC TỬ VI ĐẠI ĐẾ phang.
ĐẠI THÀNH CHÍ THÁNH VĂN VƯƠNG tử
THÁI ẤT THIÊN TÔN thần lập xứ
VI ĐÀ QUANG NHỰT THIÊN TỬ đa
BẮC PHƯƠNG NGŨ ĐẠO ĐẾ THIÊN du.
Tiên Phật giáng hạ ngược sắc khai
THÍCH CA, CHƯ PHẬT giáng thế bày
Thiên du THƯỢNG ĐẾ lành dữ xét
Ứng báo người đời họa đời này.
THẦN CÔNG DIỆU TẾ HỨA CHƠN QUÂN
NGƯU LANG CHỨC NỮ TRUNG NGƯƠN THẦN
DIÊU TRÌ VƯƠNG MẪU NƯƠNG NƯƠNG phổ
THIÊN QUAN ĐẠI ĐẾ ngự giá trần.
THƯỢNG LÃO TƯỚNG CÔNG nhạn KHƯƠNG đồng
TAM SÁT HUYỀN ĐÀN ĐẾ hư không
CỬU ĐIỆN DOÃN CHƠN NHƠN qui ứng
THIÊN HẬU NƯƠNG NƯƠNG ẩn thần phong.
NHÃN QUANG THÁNH MẪU soi chiếu thế
THIÊN QUÂN THÁI ÚY ngũ đạo tề
HIỂN VƯƠNG PHẬT giáng, LÔI THẦN HỎA
TẢ TƯỚNG TỬ CHÂU CÔNG luật phê.
NAM CỰC ĐẠI ĐẾ tụ đêm nay
NGUYÊN SOÁI THIÊN QUÂN THÁNH lĩnh tài
Phùng chơn oai hiển nếu tu phải
HOÀNG ĐẾ VƯƠNG LINH trấn giữ ngoài.
NHỊ LANG THIÊN XU TẢ TƯỚNG QUÂN
THÁI TUẾ PHỔ AM TỔ SƯ thần
PHỤC MA PHÓ TƯỚNG TRƯƠNG VƯƠNG hiển
LÔI THINH ĐẠI ĐẾ giáng hạ trần.
NGỌC HOÀNG ĐẠI ĐẾ TÂM KINH chuyển
THƯỢNG ĐẾ CHÍ NHÂN thế phục nguyên
Những ai phụ cả ân từ đoản
Ghi nhớ đinh ninh ĐẾ NGUYỆT THIÊN.
Lời NGỌC ĐẾ ngũ niên Canh Tí
Dặn rằng dương gian chúng nghe y
Thay hồn đổi xác khó lường giữ
Lời phán NGỌC thơ phẩm KINH qui.
Ta là BẠCH KHỞI tướng mạnh TẦN
Danh thần công có thấy khương mang
Kinh thế luật rằng nhân hưởng phước
Thử lòng nhân thế truy bản năng.
[Bạch Khởi, Vương Tiễn, Liêm Pha, Lý Mục dược cho
là bốn nhà cầm quân giỏi nhất nước Tần]
QUÁN TIÊN BỘ lập bàn song cơ
Mâm cây vuông đổ cát đàn hò
QUÁN TIÊN kêu ai biết tu thiện
Phàm nhơn khấu vấn giả tốc trò.
Chẳng hay trong đời việc chi quí
Kính đạo, sĩ thầy, pháp thứ nhì
Ăn năn chừa lỗi làm lành thiện
Người coi đọc lấy biết tu trì.
NGỌC VÂN NGỌC ĐẾ chỉ dụ phê
Tích làm Bồ Tát biết nội bề
Giáp Thìn tháng Ba năm Nhâm Ngũ
Nay trở dương gian nhìn chúng mê.
Chẳng qua đời kiếp ngắn ngủi này
Trời đất không tư vị tại ai
Lành dữ rốt rồi đều trả quả
Tỉnh lại mà tu chớ mới hay.
Mau tâm phước khí tụng kinh cầu
Thiên Đường Địa Ngục có xa đâu
Tại lòng chực giữ vòng muôn kiếp
Sớm tai nghe thấu mùi đạo mầu.
Biết sự sanh đâu biết sự thác
Gẫm người vật không khác máu xương
Xin hiền lương hành chánh đạo phương
Tu Tiên Đạo tuần hườn dựng lại.
Chữ Tam Công nhắn ai qui giái
Giữ Đạo Tiên mới thấy bổn lai
Non vô ảnh muốn hy hiền phải
Đờn không dây tiếng hãy còn nghe.
Khách Tây du quá dễ năm phe
Dằn nhìn dạ thiếp mê vọng tưởng
Mở cửa lầu chói hiện quang tương
Dùng ngọn giả Tây Phương rực sáng.
Trống thùng tạm dứt điển linh hài
Canh Tí thông thạo mật cơ xoay
Tạm lui linh điển xoay chiều hướng
Cơ thần nêu rõ cực ngươn này.
[tiếp theo 20/7/2020]
Dư âm trỗi ngộ ra chơn lý
Thả lòng từ ban rải nang thi
Khấn thuyền uyên tử hồ thảm lạng
Khai ngộ cổ bài rải đàn li.
Mang sầu khối mỏi mòn kim cổ
Ký thân già HUYỀN rảo họa đồ
Cảnh héo von nguồn tắc nghẽn sâu
Giờ chưa đến HƯNG yên khai ngộ.
Nghịch giả cảnh gìn tâm thiện tánh
Thí thì phước thiện đường rõ lành
Làm lành làm phước chuộc tội lớn
Hiển vinh miên viễn hưởng công hành.
Mộng ảnh vi pháp HUYỀN ưng tác
Vô hình bất thủ bất động LẠC
LAI tâm bất khả hiện tại tâm
NHƯ điển nhứt thiết bất khả đắc.
Như Lai Giả vô sở tùng lai
Diệc vô sở khứ cố danh tài
Không vân tưởng sẽ đến đừng ước
Tu bồ đề quá khứ tâm lai.
THIÊN CHÍ TÔN NGỌC HOÀNG HUYỀN CUNG
Muôn từng trời xanh HOÀNG THIÊN KHUNG
Ao sen đỏ vàng xanh trắng rỡ
Vui thay khoái lạc phúc lành chung.
Cực ngươn này vất vả thế trần
GIẢI SẮC KHAI THẦN GIÁO CANH TÂN
Tây kim cổ công cảnh rơi mài
Điển cơ pháp xuất thần KIM OAI.
Hiệp khách trải đàng giục thúc cơ
Long lầu giải phú OAI THIÊN VÕ
Diều hâu ngưng gió bay nào lạ
Đài Minh Cảnh thâu chúng sanh khó.
TA tại Hội Nam Phương huyền bí
Mắt thấy rành soi kỹ cốt phàm
Cách đi cách đứng nữ nam
Có biết chi cớ MẸ nằm mỏi mê?
ƠN TRÁI ĐẤT nhiều bề thập tử
Kém hình hài lo đủ rõ ràng
Cớ sao chẳng hiếu song thân
Cưu mang gìn giữ mòn thân thể nào
ƠN CHA MẸ cù lao dưỡng dục
Nặng trên vai lục đục vì con
Ơn CHA nghĩa MẸ cho tròn
Chẳng khi thức tỉnh MẸ mòn CHA suy
Tội bất hiếu thể gì đền đáp
Ân chưa đền mau tập hiếu nghi
Giọt hồng CHA MẸ tôn vì
Nữ nam nam nữ mớt nghì MẸ CHA
Người thọ khổ tính ra đau thấu
Ân thâm song ân sâu muôn ngàn
Vậy mà ân dưỡng như TA
Than rằng quả thật bi lân nặng nề!
Kiếp ân trả tội kể trọng thay
BẤT HIẾU CHA MẸ thấy thảm sầu
Kiếp này nên biết sáu câu
DI ĐÀ LỤC TỰ thuộc làu yên thân.
Biển trần khổ đắm trong sinh tử
Gieo phàm nhân hối ngộ trì tu
Kim thoàn kề dựa hối sửa mình
Sống cảnh bần ngang nắng sương mù.
Ngươn tàn tơi tả đó màn cơ
Thân sanh trần tội cảnh mê mờ
Bao lâu khờ tỉnh hồi tâm sám
Công Đồng mở cửa thuyền vững chờ.
Kim thuyền trước giữa này sông hội
Nay gươm Trời bằng xử việc đời
Sám hối kịp giờ thuyền trở bước
Hoa vân HOÀNG MẪU điển xét soi.
NAM CỰC ĐẠI ĐẾ cuộc Phong Thần
Canh Tí thần long ẩn bóng lân
TÔN CHƠN NHƠN TỔ xoay chiều hướng
PHẬT TIÊN THÁNH THẦN hạ thế trần.
[Chữ lân 潾 có nghĩa là nước trong. Chữ lân 麟 có nghĩa kỳ lân. Hiểu theo nghĩa “thần long ẩn trong nước trong” hay “thần long mà giả vờ làm kỳ lân” đều đúng.]
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ đêm nay kết
HỒI LINH SƯ TỔ lược giải hết
THIÊN QUÂN CHÂU THÁI đề bất thoái
Lai lân tam hội bất giải tuyệt.
TƯỚNG CÔNG THƯỢNG LÃO chuyện Tây du
Khôi mạc đại thần thánh đại từ
LƯU HẢI THIỀM ĐẾ ngươn đạo hóa
VÔ LƯỢNG THIÊN TRIỆU CHÂN LÃO như.
[Vương Huyền Phủ truyền đạo cho Chung Li Quyền. Chung Li Quyền
truyền đạo cho Lã Động Tân và Lưu Hải Thiềm (Hải Thiềm Tử, Thanh
Thành Trượng Nhơn, tên Lưu Thao). Tất cả bốn vị này cùng Vương
Trùng Dương được gọi là Bắc Ngũ Tổ của Toàn Chân Giáo.]
DƯỢC VƯƠNG CỔ PHẬT vi không điện
Mở rộng lựct căn triệu thanh viên
Xem luật thần cơ huyền cốt ký
Chứng tam chủ cổ đình dược thiên.
THIÊN XA TẢ TƯỚNG NHỊ LANG THẦN
Bốn phương thiên hạ đắp nền nhân
Tây Kim Môn cửa thi hành luật
Thượng Ngươn đạo hóa lập cân bằng.
NAM PHƯƠNG NGŨ ĐẠO lượng âm công
Chư Tiên chư Thánh đất Nam đồng
Hiếu sinh chi đức người cảnh sắc
Hoa ngọc nụ vàng muôn ức thông.
DIÊU TRÌ VƯƠNG MẪU NƯƠNG NƯƠNG lịnh
Hội Yến lộng tàng nhược tiễn linh
Ngươn Tam kim vĩ nan tri hướng
Vùng chơn nhơn hiển ra sức mình.
HUYỀN THIÊN THƯỢNG ĐẾ LONG BÀN VŨ
Tam [Kỳ] QUỐC càn khôn cổ ly từ
Đông Tây Nam Bắc xoay chiều hướng
Trác [cao siêu] giáng lai lâm ứng khắp lưu.
LỮ TỔ THUẦN DƯƠNG công đại hữu
Thời khó tam ma thập lục thu
Pháp lực linh ứng chuyên cần niệm
Giải tục xét soi diệt tội trừ.
HẬU THỔ NƯƠNG NƯƠNG TRUNG NHẠC lễ
Tháo gỡ bước chân hội kỳ về
THANH CUNG NGUYÊN TỔ khôi mạc tĩnh
Gươm cả nền không chiếu dụ thế.
LƯU MÃNH TƯỚNG QUÂN ÔN NGUYÊN SOÁI
Thiên khai cuộc tạm sắc hoa khai
Điền đăng tác giác mức nâu thần
Không pháp xa giới chăm giũa mài.
THÔI PHỦ QUÂN KỲ MINH TẾ dự
Bóng tĩnh xoay chiều cửa Tây như
Cơ năng chỉ hướng tiến thôn nhựt
Vi danh vi tính huyết hóa từ.
ĐẠI ĐẾ LINH TỂ CHƠN QUÂN cổ
Long Châu Nam ẩn quyết kiên chờ
Sen báu hiện hình then hằng mở
Tỉnh giấc mê xuyên chúng thiệt vô.
THỦY LONG THÁNH MẪU NƯƠNG NƯƠNG giáng
Tâm hầu pháp bảo thoảng tiên nhan
Hướng chiếu công lượng thi hành luật
TĨNH ẤN CHƠN QUÂN tự THỪA QUANG.
TÁO QUÂN TƯ MẠNG thiên chư tử
Tử bạch phát thành khai xuất tu
Hiện Nhâm Ngưu ứng thị vi tính
Thượng Lão Đức Thiên chư quốc du.
NAM ĐẨU giáng hạ liệu khó bâu
Màn lớp đổi xưa chắc ý mầu
Sắc thể thay đổi bao kiếp lượt
Thay đổi nhân hình trống thúc đầu.
LÔI THINH ĐẠI ĐẾ liệu mọi phần
Ấn cơ cương bậc mở huyền năng
KIM LONG TỨ ĐẠI VƯƠNG hồng toán
Tát nước ao sen lý cảnh phân.
CHƯ PHẬT giáng thế xét lành dữ
Giáng hạ Kim Bàn bất khả như
Chủ lộng thiên kỳ phá đồ trận
Lành dữ thần hay tỉnh mà tu.
CỬU THIÊN HUYỀN NỮ phi cội mở
Môn đề phá trận ký ấn cơ
An bình Thượng Hội ĐỨC TỪ tạo
Phẩm Mùi mở cảnh vận tới chờ.
TAM MAO ỨNG HÓA CHƠN QUÂN hiện
Phàm thế cầu tu đủ vận liền
Trung phân lão chủ chuông vang tọa
Đờn khải lão khoan hữu phước duyên.
[Mao Doanh, Mao Cố, Mao Trung là Tam Mao Tổ Sư của Mao Sơn phái]
Cửu cung chơn điển TÂY VƯƠNG MẪU
Hư không dụng pháp Tí phong lâu
GIANG ĐÔNG [THẦN] NGŨ ĐIỆN [VƯƠNG] xuôi khung cảnh
Áo mão Ta Bà một cảnh mầu.
THÁI THƯỢNG LÃO QUÂN vạn trượng thiên
Càn khôn chiêu phẩm xuất kỷ nhiên
Vô Vi sắc chỉ vâng an pháp
Phi thanh tuyệt lượng Chủ Cung Huyền.
HUYỀN THIÊN THƯỢNG ĐẾ nhíp bổn lai
Cảnh lư giai bất hoàng chí khai
Duy hảo xoay cơ chiều an nghĩ
Điển thanh huệ pháp lực Phương Tây.
THÁNH PHỤ MINH CHƠN ĐẾ vô hình
Khai minh nguồn sáng Giáp mở linh
Tam Ban vào bước long kỳ cảnh
Bổn thiện chí cao Tây Trào thinh.
THIÊN QUAN ĐẠI ĐẾ lộ chữ THIÊN
Trời Âu trống thúc lộ tạng HUYỀN
Càn khôn trống lịnh oai thinh phủ
Bờ dư ngâu ngạn sắc chỉ điền.
[Thiên Quan Đại Đế = Vua Nghiêu = Thượng
Nguyên Nhứt Phẩm Tứ Phúc Thiên Quan]
DI LẠC kiên lạp lực thiên lộ
Giải không độ nhứt thanh tịnh mô
Chân thật bất hư vô tuệ ngại
Sắc bất dị không ngại cố vô.
TỬ ĐỒNG VĂN XƯƠNG kim quốc châu
Chúng nhân trong đời thệ nguyện cầu
Quán niệm cần niệm tâm chính niệm
Lộ pháp chú cam thông lực mầu.
[Tử Đồng Văn Xương = Văn Xương Đế Quân = Văn Xương Tinh.
Các sách viết rằng: Văn Xương Đế Quân vốn sinh đầu đời Chu, đã trải
73 kiếp hoá thân, từng là sĩ đại phu, cuối đời Tây Tấn ngài giáng sinh
nơi đất Thục, tên là Á họ là Trương, tự là Bái Phu, được lệnh Ngọc
Hoàng Thượng Đế cho chưởng quản Văn Xương phủ và lộc tịch
(sổ sách về quan lộc) của nhân gian. Trích wikipeadia]
ĐỊA TẠNG VƯƠNG BỒ TÁT nhân ái kính
Năng hiện giới linh thật nhiệm hình
Cứu hồn năng chế trầm luân khổ
Tam đồ khổ não cứu nhân sinh.
TRỊ NIÊN THÁI TUẾ chuyển luyện nhiên
Lịnh mở Đại Đồng thôi trần hiện
Tọa tại mãn đường kỳ bàn chính
Càn khôn phong thủy thái bình quyền.
BÌNH LINH CÔNG THÁI tân khai chuyển
Đông Tây Nam Bắc pháp xuân thiên
Một cửa cột chứa cột chắc ý
Lối đường thiên ý tới hoa liên.
KHƯU TRƯỜNG XUÂN TIÊN mở lối từ
Cuộc án liệu bâu khai vô khứ
Xuân sang qui luật đối cuộc án
Bửu điện trường sanh lục bá tư.
GIANG ĐÔNG THẦN xuất hoa sắc cảnh
Khứ bảo ky thần thành bửu danh
Vô kỳ tại đỉnh trung ương cổ
Tam điển ĐẠI ĐẾ TRƯƠNG trải lành.
NGƯU LANG CHỨC NỮ TIÊN NGỌC HIẾU
Sai nguyệt hoa liêm khúc tam triều
Tây Cung ngàn dậm liên kết khải
Phong cửa chánh Tây chuyển thúc nhiều.
LÔI TỔ THẦN HỎA hiển linh ban
Thử xem thâm thẩm lập vô thần
Kim chơn thông quyết tôi hiền lược
LÃO THÁNH NHƠN y tái đương quân.
NHỊ LANG CHÂU TỬ thuần ân trải
Định ý sông HÀ Cửu Liên Tây
Rạch mở hồng cơ kêu nghe nói
Thiện nang tàng chúng muôn thế giai.
CÁT CHƠN QUÂN TỔ một đường lai
Khó chi thần khí lưỡng cơ tài
Chúng tàng nhiên lẽ âu huyền nắm
Thời khó qui THIÊN HUYỀN giới Tây.
NGƯƠN SOÁI TRUNG NHẠC ĐẠI TRƯỜNG ĐẾ
Cơ biến kiền khôn lượt sóng bề
Thánh ngoại tôn Lão TRỜI thế giái
Quân Thiên lượng cát ngoại phương tề.
THÁI TỬ QUAN THÀNH CHÂU an bảo
Lão thượng vân đề với bộ cao
Đàm CHƠN NHƠN CHỦ QUÂN THIÊN HẠ
Mở ngõ một phen hai ức vào.
TRUNG ƯƠNG HUYỀN ĐÀN LÔI ĐÌNH KHUNG
Lão thuyết tịnh không hình thế cung
Ta hiệu QUÂN LÃO vi cứu độ
Khải đờn kêu thế chỉ rõ cùng.
NHÃN QUANG THÁNH MẪU cơ đàn chỉ
Phen này máy tạo lịnh tàng vi
Bạch vân kiếm hiệu vi huyền diệu
Bàn cẩm khí thần MẪU TÔN vi.
[Nhãn Quang Thánh Mẫu là một vị nữ thần trong Đạo giáo chuyên trị
bệnh về mắt, được coi là hóa thân của Bảo Sanh Chân Nhân Hoằng Đức
Bích Hà Nguyên Quân (gọi tắt là Thái Sơn Nương Nương, tức nữ thầnnúi Đông Nhạc). Nhãn Quang Thánh Mẫu còn gọi là Nhãn Mục Nguyên Quân, Nhãn Vương Nãi Nãi, Nhãn Quang Thánh Mẫu Huệ Chiếu Minh Mục Nguyên Quân v.v…]
HOA NGHIÊM BỒ TÁT bất tại nơi
HẬU THIÊN LONG MẪU linh điển thời
LINH SƠN NGỌC lạc tề thủ phước
Lưu sử giả đàng Long Huê ngồi.
[Linh Sơn Ngọc là một vị Thánh Mẫu trong văn hóa Mường, đền thờ tại
Lạc Thủy, Hòa Bình, và trong truyền thống đạo tam tứ phủ]
CỬU LIÊN BỒ TÁT chư linh độ
Đảo hướng phong di đại phát thu
Tất khí tiên cung đình kỳ phiến
LINH QUANG NGŨ HIỂN cứu chúng mô.
ĐẠT MA SƯ TỔ cơ giáng tái
Chống ghe dục hải chuyển đàng khai
Đức tài điểm trống lịnh hồi ký
Sư Tổ phương điển khí thể hài.
ĐẠI THÀNH CHÍ THÁNH [VĂN] TUYÊN KHỔNG TỬ
Giải mười phương chí đảo đường như
Mộc tại trường xuân Tây Nam Bắc
Ân thượng bộ danh Vương Khổng Từ.
NHIÊN ĐĂNG CỔ PHẬT khứ vị an
Tam xuân túc tế hoạt tại đàng
Phổ kinh thuyết biểu vạn thiên hóa
Niên lai phong tại tác ý thoàn.
THIÊN LONG TỨ ĐẠI THIÊN VƯƠNG bản
Phật mở vạn linh hữu túc màn
Tây Huyền phong bảng oai nghi lịnh
Đời tạm mượn tuồng cảnh mục sang.
Vụng nghênh linh đáo giám kim chương
THANH CUNG VÔ CỰC THƯỢNG THÁNH VƯƠNG
Huyền Tôn Chơn Cảnh rểu uy chủ
Vạn Thiên Chư Phật một cảnh đường.
Nghe cảm tâm chuyển hóa vô biên
Cửu Trùng quyết đã tâm quang hiền
Kỳ linh ứng diệu pháp bảo đắc
THƯỢNG ĐẾ CHÍ NHÂN TẠO ĐẠI THIÊN.
Tỏ lý thành không thế giới hư
Hoàng viên nhân đắc khoái lạc từ
Nước Trời trong sạch vui cảnh Phật
Tâm là cội rễ thật quang hư.
Mau tỉnh lại khấu thủ qui y
Cảnh Phật vẻ vang khá tu trì
Cảm lòng đất Phật mau mau bước
Chi trần lụy cấu cố bước đi.
DI LẠC PHẬT VƯƠNG niệm một tràng
BÁT ĐIỆN BÌNH VƯƠNG hạ lưu sang
QUAN ĐẾ MINH THÁNH thông chính giác
Cửa then hằng mở phóng đại quang.
THÁI DƯƠNG MINH THÁNH vĩnh mạng hề
Cứu độ tiên linh thoát chúng mê
Đón kẻ quyết kiên Tây Lạc Quốc
Cảm ứng nhiệm mầu sở nguyện về.
DIỆU TẾ CHƠN QUÂN QUẢNG HÀNH VƯƠNG
TÂY NHẠC ĐẠI ĐẾ vọng thiên tường
Tâm niệm lục tự hồng danh đức
ĐỊA QUANG ĐẠI ĐẾ chói cạnh tường.
[Diệu Tế Chơn Quân là hiệu của tổ thứ 21 của Thiên Sư Đạo tên Trương
Chính Tuỳ, tự là Bảo Thần. Năm 1016, Tống Chân Tông mời vào cung và lập
Thụ Lục Viện và ban hiệu là Chân Tĩnh Tiên Sinh. Năm Nguyên Chí Chính
thứ 13 (1341) được ban hiệu Thanh Hư Quảng Giáo Diệu Tế Chơn Quân.]
THÁI ÂM HOÀNG HẬU sen vàng chói
LỤC VẠN CỬU THIÊN hiệu đa thời
LÔI ĐÌNH THIÊN QUÂN ngụ đồng Bắc
TỐNG ĐẾ VƯƠNG TAM [ĐIỆN] tạng kế ngôi.
QUAN ÂM PHỔ MÔN cứu khổ hạn
Chiếu kiến ngũ uẩn bất diệt nan
Diệc Đạo vô trí diệc vô sắc
QUÁN ÂM BỒ TÁT tỉ thiệt can.
Báo ân CHƠN VÕ HUYỀN THIÊN ĐẾ
Long lân qui phụng hào sắc đề
Xuất Tây Trào giáo thay đón nhận
THIÊN QUAN ĐẠI ĐẾ sở vân huê.
[Thiên Quan Tử Vi Đại Đế là một trong Tam Quan Đại Đế. Tam Quan Đại Đế gồm ba vị là Thượng Nguyên Tứ Phước Thiên Quan Tử Vi Đại Đế, Trung Nguyên Xá Tội Địa Quan Thanh Hư Đại Đế, Hạ Nguyên Giải Ách Thủy Quan Động Âm Đại Đế. Nếu gọi đầy đủ thì là Tam Nguyên Tam Phẩm Tam Quan Đại Đế. Trong Đạo giáo, địa vị của ba vị nầy gần với Ngọc Hoàng Thượng Đế. Đạo giáo cho rằng ba vị nầy có trách nhiệm về ba yếu tố: ban phúc, xá tội và giải trừ tai ách cho con người.]
DIÊM LA VƯƠNG, THÁI SƠN VƯƠNG điển
NGŨ ĐIỆN GIANG ĐÔNG đệ nhị nguyên
DI LẠC TÔN CHƠN HUYỀN KINH NGỌC
Bổn nguyện bảo sanh Tây du thuyền.
THÁI THƯỢNG LÃO QUÂN tầm bờ dư
NGUYÊN SOÁI ĐỘ TƯỚNG NHƠN DOÃN tư
THIÊN SƯ HỨA oai hiển Vương Tây
THÁI TUẾ NIÊN TRỊ khương hiệp trừ.
[Doãn Hỉ, tự Quan Doãn, hiệu Văn Thủy Tiên Sinh, Văn Thủy Chân Nhân, còn gọi là Doãn Tử. Quan Doãn là quan viên thời Xuân Thu trong lịch sử Trung Quốc. Quan Doãn giữ chức lệnh đóng giữ cửa ải phía tây thời Chu Chiêu Vương. Một hôm thấy được tử khí đông lai, lúc sau Lão Tử cưỡi trâu xanh từ phía đông đến, Quan Doãn ngăn lại cầu học. Lão Tử truyền lại hơn 5.000 chữ, sau soạn thành cuốn Đạo Đức Kinh. Quan Doãn để lại tác phẩm Quan Doãn Tử 9 thiên, được nhắc đến trong mục Nghệ văn chí của Hán thư, nay đã thất truyền.]
[Tứ Đại Thiên sư là bốn vị tiên có vai trò đón tiếp như các vị sứ giả trên Thiên Đình trong Đạo Giáo Trung Hoa. Gồm Trương Đạo Lăng Thiên Sư, Hứa Tinh Dương Chân Nhân Thiên Sư (Hứa Tốn, tự Kính Chi), Khâu Hoằng Tế Chân Nhân Thiên Sư, Cát Tiên Ông Cát Hồng Thiên Sư. Đây là bốn vị đạo sĩ có thật, đã từng tu luyện theo Đạo giáo và được tôn lên như là những vị chân nhân, thiên sư.]
HỮU THÁNH CHƠN QUÂN vô số ức
Chính nhân chính giác DI ĐÀ luật
Hiển ảnh mười phương Phật vô lượng
Hoa sen khai sắc Nước Phật lực.
NGƯU LANG CHỨC NỮ lưu khải thình
Tướng chơn thượng tướng hạo thiên lình
Cảm ứng tánh trung thay sanh hảo
TRUNG NHẠC THỦ QUÂN cựu chánh nghiêm.
[thình 盛 = gìn, chỉnh đốn. Lình 令 = linh, lịnh]
ÔN SOÁI NGUYÊN TÂY phùng KỴ TRƯƠNG
CHUNG SAN CÔNG TƯỚNG chuyển khai hướng
CHÂU TỬ NHỊ LANG THẦN tốc NHỊ
TẢ TƯỚNG truyền long phụng đáo phương.
[Ôn Nguyên Soái là một trong bốn vị thần tướng canh giữ Thiên Đình gồm: 1) Mã Nguyên Soái, còn gọi là Mã Nguyên Quân, Hoa Quang Thiên Vương; 2) Hoa Quang Đại Đế Triệu Nguyên Soái, tức là Vũ Tài Thần Triệu Công Minh; 3) Triệu Huyền Đàn Ôn Nguyên Soái, tức là Ôn Quỳnh, Đông Nhạc Đế bộ tướng; 4) Khang Nguyên Soái, tức là Khang Thiên Quân, Nhơn Thánh Nguyên Soái.]
CHUẨN ĐỀ VƯƠNG BỒ TÁT oai linh ứng
CỬU ĐIỂN HUYỀN THIÊN KINH NGỌC cung
ĐẠI ĐẾ NAM CỰC LỤC ĐIỆN minh
THÁNH MẪU TÂY TRÀO chiếu lạc phùng.
Thiên điển phùng Chơn Phụ Minh tương
Trung Ương Huyền Đàn Cửu Tây trường
Ngọc Tòa lôi phục triều ngươn các
LƯU THẦN BẮC CỰC THÁNH VĂN VƯƠNG.
NAM ĐẨU giáng hạ Liên Hoa Thượng
Vương hầu anh tế vụ càn đương
Lộc nhơn tuồng giải DI ĐÀ QUỐC
THÍCH CA MÂU NI thiện chí vương.
PHÓ TƯỚNG PHỤC MA HIÊN VIÊN thủ
Táo mậu THÁI ÂM xoay linh như
Chư Phật Niết Bàn phước lâm hội
Phước họa đời này tỉnh mà tu.
NHIÊN ĐĂNG CỔ PHẬT vô tự khai
Phong Đô vạn xứ thuận thảo ngay
Di Đà thủy khí án quân phủ
Huỳnh Lâu kim sắc hóa âm thay.
THƯỢNG NGƯƠN THẦN CHÁNH LƯU MÃNH QUÂN
Ngoại vĩnh ân kỳ GIANG ĐÔNG THẦN
CHÂU [DO] trận tử đồng GIA CÁT TƯỚNG
LINH CHƠN LÃO THƯỢNG đăng trụ hoàn.
Chốn non xanh Tam Thừa cam diễn
Lượng tổ đường NHƯ LAI PHẬT hiện
MỘC LIÊN HOA trải hạnh chúng sinh
VĂN XƯƠNG bổn bất kỳ siêu hiện.
Canh [Tí] ngũ niên nhứt nhị cửu diên
THƯỢNG ĐẾ chỉ dụ tại điện đào
Đạo nhơn lời bạc đạm suy tôn
Giáp Thìn Nhâm ngũ THƯỢNG ĐẾ vào.
PHONG ĐÔ ĐẠI ĐẾ đề chữ tên
Uổng Tử Thành vâng tấu lực nền
Cơ thần Ngũ Đạo nhân lai tác
Đại giác khuyến quân người vật chuyển.
ĐỨC THÁNH KHỔNG TỬ bất năng dịch
Tử rằng Phật nói Tử khả tích
Nghe thấu nghĩa chi KHỔNG TỬ cầu
HUỲNH LONG minh đạo MÂU NI THÍCH.
Vân vân đạt viễn NGỌC KINH THƠ
LỮ TỔ dựa bàn truyền chỉ đồ
Lời Thần Tiên Phật Tiên Thánh chỉ
THƯỢNG ĐẾ THÀNH HOÀNG soi xét vô.
Ngó thấy cơ tự đặng phước thầm
Tây Phương an bảo với lạc tâm
Khải phong nghiêm văn tấn sĩ minh
Liên trì ai cáo tả kinh văn
Phùng lư đương thủ lưỡng các tầng
Hoàng bổn tôn vi phục sơ kỳ
Cương xích bổ chỉ hạ linh quang.
Chín phẩm sen vàng khai thấy thật
Có duyên gặp TAM KỲ TIÊN PHẬT
Chiếu hiển vinh THIÊN tỏa HUYỀN cơ
MÂU NI NGỌC KINH truyền cửa bát.
HUYỀN sai ông LỮ cùng tạo ra
Bát nhã thuyền linh nước Ma Ha
NHƯ LAI VÔ THƯỢNG thậm thâm hiện
THIÊN giao Thái Pháp HUYỀN hộ ra.
DI LẠC, THIÊN QUAN ĐẠI ĐẾ Thần
THÍCH CA NHƯ LAI Thượng Ngươn Ba
THƯỢNG LÃO cảm ứng Phụ Thánh Truyền
VƯƠNG LINH THẦN HỎA THƯỢNG TƯỚNG QUÂN.
[Vương Linh Quan Thiên Quân là Thiên Lôi (Lôi Công, Linh Quan). Kinh Minh Thánh tả: "Kim tinh châu phát. Hiệu tam ngũ hỏa xa Lôi Công. Phụng chủy ngân nha. Thống bách vạn tỳ hưu thần tướng. Phi đằng vân vụ, hiệu lịnh lôi đình. Giáng vũ khai tình, khu tà trị bịnh." Dịch: Mắt vàng tóc đỏ. Hiệu là Lôi Công coi ba mươi lăm xe lửa. Miệng nhọn như mỏ chim phượng, răng bạc. Chỉ huy một trăm vạn thần tướng dũng mãnh. Lướt mây cưỡi mù, lịnh ban sấm sét. Tuôn mưa làm nắng, đuổi tà trị bịnh.]
NAM CỰC ĐẠI ĐẾ, MINH CHƠN ĐẾ
TRUNG ƯƠNG CỬU ĐIỂN HUYỀN MINH ĐẾ
DI ĐÀ QUANG NHỰT THIÊN TỬ liên
ĐÔNG HOÀNG ứng hóa hư tịnh huê.
Phân tư nan lái ngõ Phật Trời
DI ĐÀ chí tỏa giấc mơ cơi
Mở rộng nang cẩm Sơn Linh định
Vân du phong vạn tạm cảnh ngơi.
Bồng Lai cõi chuyến NHỊ tử THIÊN
HUYỀN khai cơ pháp lập Canh niên
LÔI ÂM PHẬT TỔ định cửa thiền
Một nang thuyền bước đến hoa liên.
THIÊN Ý trắc ẩn
THIÊN QUÂN vương lâm
Cõi Nam rộng mở
Non vô ảnh mới
Người thời bỉ thử
Thanh sử Ngươn Ba
Thì đọa luân khổ
Năm hồ thú lạ
Trẫm đà truyền trao
Thích Đạo, Tam Giáo
Cảnh nào cũng vậy
Xét thay dung đời
Khôn thời gì khó
Trăng lờ bị khổ
Tỉnh lo một tha
Muôn ngoa nên sửa
Vào tựa Phật y
Qui y Thích Đạo
Tam Giáo một lòng
Mới thông đường cả
Phải trả buổi này
Kim khai luân pháp
Đừng lấp nghe khuyên
Hoàng Tiên nêu mãi
Mười hai huyền hộ
Gần tỏ trước sau
Cửa lầu chói hiện
Lòng riêng mới gọi
Thấy cõi tục thân
Vương Quân chi hạ
Nói ra tai ương
Bồ Đề Ca Thích
Vân mịch tiên phong
Phẩm công luyện chính
Mãn kinh phục lôi
Ấy mới nương phép
Chẳng hẹp còn nghe
Hoàng phê bạch tự
Huyền phú nêu danh
Tam Thanh thấy PHẬT
DI LẠC NGỌC HOÀNG
TÂY BANG PHẬT TỔ
Điện đô Như Lai
DIÊU TÂY VƯƠNG MẪU.
Gió Tây lai thổi dứt điểm Canh
Một huê bông trổ trở cung thành
Sen mọc đâm chồi ai hướng lấy
Tạm điển thiên hành hướng liên thanh.
ĐÔNG HOÀNG ĐẠI ĐẾ
DIỆU TẾ CHƠN QUÂN
SỞ GIANG VƯƠNG KHẢI
ĐIỆN THÁI SƠN VƯƠNG
CHÂU TƯỚNG NHƠN THÁNH
ĐÔ THÀNH HOÀNG NAM
THÁI ÂM HOÀNG HẬU
Cung tấu DIÊU TRÌ
ĐIỆN NHỊ SỞ GIANG
ĐẾ QUÂN VĂN XƯƠNG
THÁI THƯỢNG NGUYÊN SOÁI
DINH ĐẠI LÔI TƯỚNG
THIÊN THƯỢNG HUYỀN KHÔNG
LƯ BỒNG CHƠN VÕ
LỮ TỔ THIÊN QUÂN
THÀNH HOÀNG ĐẠI ĐẾ
NGÔI BỆ HUYỀN THIÊN
THẤT ĐIỆN ĐÔNG NHẠC
HỘ PHÁP VI ĐÀ
ĐẠT MA SƯ TỔ
PHẬT TỔ THÍCH CA
DI ĐÀ giáng hạ.
Thập Hội Cửu Liên đáo hạn kỳ
NHIÊN ĐĂNG CỔ PHẬT hiện cửu vi
HUYỀN THIÊN THƯỢNG ĐẾ MINH CHƠN ĐẾ
THÍCH CA PHẬT TỔ di lập nghi.
Đêm thanh tịnh tiếng đàn hồi vọng
Bởi chơn đài ngày lẫn đêm mong
Cơ mầu máy tạo huyền thâm phép
Dứt điển TÔN CHƠN chuyện Tây Đông.
[tiếp theo 19/8/2020]
PHẨM HUYỀN THIÊN THƯỢNG TỪ ÂN KINH
Lý Thiên Tây Trúc bộ hoá ngôi
Khảo trần nhân loại cải cốt mới
ĐẠI THƯỢNG VẠN TUẾ ĐỨC tái sanh
Cung khấu DI ĐỨC ĐẾ HOÀNG hồi.
Một mối bước lên Thánh Tòa Liên
Qui căn nguyên dịch thủ như điền
Phàm tại cơ phong hữu cầu biết
Hiển hiển năng dĩ nhứt nhập thiền.
ĐỨC HUYỀN THIÊN THƯỢNG ĐẾ CAO MINH
NHÃN KINH NGỌC PHÁP TRUYỀN CHỈ THINH
Quân cơ Canh lực kinh biến kế
Xuất phát trục thâu tọa hạ đình
VI HUYỀN THIÊN THƯỢNG TỪ ÂN KINH
Giáng cơ giải gấp giác tánh mình
Trong ngoài biến dậy tư bề thế
Cõi thế trần na định giờ thình.
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ THỂ đáo lâm
NGỌC ĐẾ loan dư truyền đối tầm
THÁNH CHỦ THIÊN THƯỢNG thiên thượng hóa
NGỌC KINH HUYỀN THÂM PHI ĐÀNG TRẦN.
THIÊN QUAN ĐẠI ĐẾ thu nhiếp linh
Đừng mê đừng loạn tỉnh thức mình
Cho thiết cho tỉnh thân ta một
Thái Thượng Cao Vương ấn hiện thinh.
CHƠN VÕ HUYỀN THIÊN THƯỢNG ĐẾ KINH
Sắc mà không sắc ấn diệu linh
Cội rễ một khi tăm tối hiển
BAN PHÁP ĐẮC TRUYỀN NGỌC MINH KINH.
CHUẨN ĐỀ BỒ TÁT THÁI SƠN VƯƠNG
NAM ĐẨU BẢO THIÊN điểm trống đường
THÍCH CA NHƯ LAI thiện hướng đỉnh
LÔI ĐÌNH THIÊN QUÂN xuất chiếu đương.
QUAN THÁI TỬ kỳ quờn phùng lộ
QUAN ĐẾ giáng sanh thế sanh vô
NAM CỰC TIÊN ÔNG tọa điền xuất
DIỆU TẾ CHƠN QUÂN khả dĩ mô.
DIÊU TRÌ VƯƠNG MẪU Tây Thành hiển
Xuất nhập nhập xuất không tí xuyên
Vô hình xuất tỏa vô kỳ bảo
Sắc nhãn Thiên Cung cảnh lai duyên.
Tàn Canh hoảng khắp dựng bức tranh
Cơn nạn phát xô điều chẳng lành
Phụng chỉ THẾ TÔN ai lương thiện
Khai triển chí hầu một lòng thành.
LỮ TỔ giáng cơ ĐỨC ĐẾ toan
Bồ đề bất khả trí khôn ngoan
Chớp nhoáng đều không bền lâu đó
Dạy phép KHÔNG tâm đạo khắp trần.
Hoa sen trong lửa cơn nguy giới
Cuộc đớn đau nguy thời bầu linh
Muôn phương xao động điểm hình
Tam Kỳ mây rẽ phép linh Lạc Đồ.
Cửu Thiên tư coi sổ một kỳ
Năm Canh ngũ tư vị thần minh
Phụng khiếu loan ca thinh thinh
Gọt mài thấm dạ Ngọc Đình hòa âm.
Dương pháp kinh luật phạm lầm sai
ĐẾ MINH DIÊU HẬU mài thúc linh
Phục hồi bảo ấn giai đình
Lời kinh đạo rộng thinh thinh Tây Trào.
Bảy ngôi Chúa Thánh hậu lai di
Thế gian động càng thế gian suy
Tầm định thực diễn vạn kỳ như
NGỌC MINH kỷ sự trận đài kỳ.
Thời mạt hậu tu hiền ẩn đạm
Luật hiền trao ân phước đức lâm
Tam đàn điểm xích luật Thiên vi
Địa cơ sanh hóa nhữ khởi tầm.
Xuân Tây vô vĩ hoản mục công
LẠC DI qui bổ chủ mục đồng
Ngoại ngoại Tây Bắc Đông Nam đoái
Tam Kỳ Phổ Độ đến Hoa Long.
Cơ đạo trở lại thiếu tân toại
Xoay vận đất căn vĩ triêu lai
Hai bốn từ phổ châu đường giáo
Không thị tất thị khứ tư hài.
Đứng chờ khai đuốc đạo cả thành
Phong vân ngoại bả ứng chung thanh
Thời khắc giai sử từ vọng pháp
Phật Thánh Tiên Thần giữa niên Canh.
Vô vi vô thị không sạch lòng
Thông đạo lý lành thiện hữu công
Đồng thiện đồng thần khai thiên phước
Hóa đạo hóa nhơn đoái ân đồng.
Quản khuyến quản hành khuyên người phải
Tương thân tương mục phân việc giải
Bất khí bất dõng không phạm khiêm
Nghĩa thủ nhẫn đoan giảm mọi ngày.
MINH THÁNH QUANG ĐẾ DIỆU TẾ CHƠN
THÍCH CA NHƯ LAI CHUẨN ĐỀ hườn
TIÊN ÔNG NAM CỰC VĂN XƯƠNG ĐẾ
DIÊU TRÌ VƯƠNG MẪU khiết Tây Sơn.
Khuyên người noi đạo trọn ân
Công cha nghĩa mẹ mười phần trời cao
Chỉ nẻo giải việc cù lao
Thuận hòa yêu mến đạo vào lời ra
Khuyên người biết xét dung tha
Sang hèn giàu có dung hòa khuyên nhau
Không phân người trước kẻ sau
Tu thân nhẫn nhịn giúp nhau chung cùng
Khuyên người tu niệm yêu dùng
Bữa cơm bát nước rán dùng khó chi
Giàu sang một bữa chay thi
Lòng chay khó lắm khó chi miệng ngoài
Đời thong thả từ bi cảm ứng
Đảnh an cư nơi dựng mở mang
Nhắn những ai khuyên buổi canh tàn
Chịu cay đắng mới rằng canh cải
Ngươn Ba tuần hoàn xây dựng lại
Tu Đạo Tiên với ai quy giái
Buổi nghịch này trời đất vần xoay
Một phen khổ buổi này phải trả
Đời quá tệ đức tu cải họa
Cõi thế nhân đâu mà chi đức
Việc tu hành câu rằng tâm lực
Phải suy mùi đạo MỤC DIỆN LAI
HUYỀN CHUYỂN PHÁP MỚI chuyện huệ mài
Giảng thông tứ thế giai mùi đạo
Tâm mới hãn Như Lai cơ đáo
Sau là phải môn nào thường chuyển
Đừng gián đoạn hào quang chói hiển
PHỤC LÔI THIÊN XUỐNG BIỂN RỒNG KIA
Núi Linh San không đổi không lìa
Phải bồi đức thuyền kia sang rước
Người trăm năm này sóng cao trược
Nặng năm giây bọt nước chốc tan
Cõi bờ nay sóng bủa điêu tàn
Trải Lôi Âm cho rạng phải soi
Cầu chung đãi Lôi Âm mới tới
Biết giả chơn nên mười chưa đặng
Qua đời này lấy đó mà răn
Trời rộng mở sáu vạn thu dư
Kinh bạch tự chuông linh kêu giữ
Đờn không dây khải thử khó nghe
Tịch tịch tang vô phước không dè
Ngâm chỉ sợi ông vè thoái thoát
Kiếp duyên tàn Diêm Phù kiếp thác
Trống đại hùng khai mạt buồn xem
Oan duyên nặng quỹ cha tưởng liệm
Mắc nạn rồi linh kém phải toan
Chữ A DI lòng niệm tâm nhàn
Cửa bác nhã sen vàng thấy Phật
Chín phẩm khai bồng tháp Tiên Phật
Đây huyền cơ sên đất bồ đề.
Đàn kêu khổ ải mà qua
Tu hành cho rạng Long Hoa cửa lầu
Đàn kêu trần độc hang sâu
Tiếng đờn tai lóng nghe câu đạo mùi
Đàn kêu chớ cớ bước lui
Ngựa không bóng xước nằm chui sải bày
Đàn kêu phải trả buổi này
Một phen đời khổ lọc thải năm ba
Đàn kêu ách nạn gần xa
Phù huê ngắm cuộc phong ba hủy tàn
Đàn kêu bảy phần tan hoang
Lọc sàng sảy mãi rả tan vật người
Đàn kêu xét lại mà coi
Câu rằng bất phải hẳn hồi lộ ra
Đàn kêu hai bốn tiết đề
Chỉ mành căng rộng gần kề làm ngơ
Đàn kêu hờn một cội cờ
Tất thảo đồng thịnh nam mô bước vào
Đàn kêu phục xuất nan thao
Xương Kỳ khởi đáo cơ nào Lưu lai
Đàn kêu Càn vọng âm giai
Tốc kỳ tan hóa phản sai động Càn
Đàn kêu hai bãi bầu tan
Liên hoa sửa đổi hoa quang lượng kỳ
Đàn kêu vang dội nổi qui
Thất bề trần lụy đói kỳ phân ly
Đàn kêu tam lục chỉ cư
Tiết vào Thu lãm dụng từ sắc ân
Đàn kêu cấp thiểm thiêu tan
Cơn phong mây rẽ nạn trần loạn ly
Đàn kêu bể sắc chiếu vi
Tam Thiên thương xót trần ni cuộc nàn
Đàn kêu hồi cứ Linh San
Cửu Cung lâm giáng bảo toàn thế nhân
Đàn kêu ai trí khôn ngoan
Tiên Ông Nam Cực giáng đàng độ khai
Đàn kêu nguy kiếp trần hài
Tam Kỳ điên đảo mới hay tục trần
Đàn kêu Canh Ngọc [Đế] xa gần
Chúng dân biết sự điêu tàn lánh xa
Đàn kêu phổ độ hồi ba
Phong vân hữu tiết Thiên Tòa ngoại xuyên
Đàn kêu ba tiếng tiêu biền
Ngọc kỳ hành dễ tu hiền giác an
Đàn kêu ba sáu cung đàn
Dụng đàn khải tấu tam quan xử biền
Đàn kêu khấu thủ Thượng Thiên
Phong xuân khứ lộ ban yên phú thành
Đàn kêu nhân loại chúng sanh
Thiên Khai phước hữu quần sanh an nhàn
Đàn kêu đổi xác lập thoàn
Nhà Tiên liệu bước khai bàn qui căn
Đàn kêu hai tám giáo năm
Phàm tại ký nhựt hành ban Bửu Huỳnh
Đàn kêu vọng tiếng phen kinh
Biến hình chuyển xoáy thình lình chia phân
Đàn kêu xa chạy hóa thần
Kíp mau bước đến Phật ân hội này
Đàn kêu Nam Bắc Đông Tây
Thỉnh cầu Phật Đạo phước may sanh hườn.
QUAN ÂM BỐ TÁT giáng hạ đô
ĐẠI ĐẾ thập phương chiếu dụ cồ
QUAN ÂM ĐỨC pháp lòng thanh tịnh
Khuyên giải độ người niệm nam mô.
Tu hành bạt tiếng tiêu nạn khổ
Vâng chỉ THƯỢNG ĐẾ niệm nam mô
THƯỢNG ĐẾ phê chỉ rồi đây hiểu
Thuật lý thích mình biết sự vô.
TRỜI biết lòng nghe hiểu nhơn hình
Ngực ta năng sự vấn di binh
Thùy hóa Canh giáng tợ cách tiếng
Nhân cầu suy mãn phục lư đình.
Tháng Giêng DI LẠC thiên lạp trời [thiên lạp = mùng 1 tháng Giêng]
Phục lư ngoại tác hạ canh khôi
TÔN CHƠN NHƠN TỔ cấp hủy biến
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ phục khứ hồi.
GIANG ĐÔNG MÃNH TƯỚNG QUÂN nhữ huyễn
Vận cách tiêu suy ngộ cảnh Thiên
THIÊN QUAN ĐẠI ĐẾ hựu khánh ấn
Định chơn PHẬT OAI phong ký niên.
Trăng Hai THÁI THƯỢNG LÃO QUÂN ứng
Thánh phủ minh Chơn Đế thiết khung
THỦY LONG THÁNH MẪU NƯƠNG NƯƠNG cát
Khai sanh tử tôn TRƯỜNG CHƠN CUNG
QUAN ĐẾ VƯƠNG LINH QUAN THÁI ÚY
THÁNH MẪU HUYỀN ĐÀN TRUNG ƯƠNG KỲ
CHUẨN ĐỀ THƯỢNG LÃO ĐẠI THẾ CHÍ
Tăng phước THẦN TÀI THÁI TUẾ y.
DIÊU TRÌ TÂY VƯƠNG MẪU NƯƠNG NƯƠNG
Nửa cảnh không còn dập dìu ương
Hảo nguyệt phân tác lai như bất
Khấu thủ khấu thủ LÃO MẪU VƯƠNG.
HUYỀN THIÊN THƯỢNG ĐẾ TRUNG ƯƠNG ĐẾ
LÔI ĐÌNH NGŨ ĐẠO chương thiên đề
NHIÊN ĐĂNG CỔ PHẬT ĐÔNG HOÀNG TUẾ
NGŨ ĐẾ giáng hạ hội lập tề.
Phục thỉnh HOÀNG MINH TÔN
Giai biến khôn vô biến
Nhứt nhứt kiền cầu Phật
Thập đạo tất thị giai
Tánh khả mài thành Phật
Đại từ lực từ bi
Nhứt tâm trì kim bảo
Trực tánh hảo nhu hòa
Khéo giải đạo hạnh chơn
Ba pháp hườn sáng suốt
Thiện Thệ được đời này
Kiến Như Lai Đức Phật
Làm lành Phật pháp theo
Xa đời neo một kệ
Đạo Bồ Đề an lạc
Vóc sáng phát trí vô
Tiêu trừ khổ thường đói
Học nhiều giỏi đúng pháp
Thánh Đế lập khó ai
Mong rằng tài rộng lớn
Đạm bạc khôn ngoan hòa
Tựu Long Hoa hạnh phúc
Thiên giới thực hư không
Đẹp ý lòng cẩn thận.
Thiên cơ cửu phẩm trổi phụng cơ
NGŨ ĐẾ TAM HOÀNG chuyển sắp giờ
Bát Quái Đài hòa Đông Nam Bắc
Hòa chặt âm dương ĐẾ khai bờ.
Thiên Khai địa mở rõ tám mười
Càn khôn định cấu Long Hoa khôi
Thánh Phật Thần Tiên mười phương tỏa
Khởi ánh long diêu chín phẩm ngôi.
Ngày đêm thời khắc rõ tường âu
Mở ra tâm trí điển linh hầu
HOÀNG MẪU phóng quang chơn nguyên mở
Thánh Thần Tiên Phật giải bờ sâu.
Có duyên định lực MẸ dìu sang
An lạc hỉ xả hộ pháp gần
Muôn đường hoa nở mau cất bước
Tịnh thủy ma ha rải mát thân.
Vô hình rành dạy chuyển hóa linh
Ngày về đã hẹn hướng Thượng Đình
Thức tâm tinh tấn từ bi diệu
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ VÔ CỰC MINH.
DIÊU TRÌ HOÀNG MẪU tỏa diệu âm
Chín cõi trời hòa khí khai mầm
Lâm triều bát bửu vạn năng khiếu
Nhiệm ý Long Hoa triệu tiên tầm.
Chư Phật chư Thánh chư Tiên hiện
Trực kiến MẪU HOÀNG DIỆU HOA LIÊN
Ban vui cứu khổ thi hành hạnh
Bát nhã thuyền từ nay thời Thiên.
Tạo càn khôn phụng rồng hiển Thánh
Mở cõi đường LONG LẠC QUÂN sanh
ÂU CƠ phụng trổi đầy Tiên Thánh
Buổi hạ màn xoay chuyển Tam Thanh.
ĐỨC HỒNG QUÂN oai thinh khai giải
Tửu chung linh nhiều bận đổi thay
Chín hai ức số truyền mật ý
DI LẠC về Nam điểm đức tài.
Điển vô vi chơn tình hấp thụ
Muốn giao hòa phải lọc lý dư
MẪU án công hòa địa dưới trên
Nhứt tâm đảnh trí khởi lậu từ.
Nay danh sắc KIM TRÌ HOÀNG MẪU
Hạ đáo trần tụ đỉnh một bầu
Mở lục hòa hô hấp ngoài trong
Nguyên chơn tử chớ ngại thủ khấu.
THẦY ĐÂY MỞ ĐẠO KỲ BA
Trò trung phụng tá giác tha đưa người
Thầy đây năng tại vị thời
Trò từ lộng chữ vọng nơi cơ hàn
Thầy đây phút cuối rạng tầm
Trò vai hiển thị trí thâm tái kỳ
Thầy đây tạm xác thế ni
Trò qua cơ thấu từ bi lực cầu
Thầy đây tầm rõ quán sâu
Trò hành thiên lịnh đối đầu nghiệp thân
Thầy đây xoay thấu khắp đàng
Trò thiện tín hiệp chẳng màng khổ nhơn
Thầy đây vô khóa Thánh quờn
Trò học nhơn thiện xác ngươn thoát đời
Thầy đây hiện ẩn chí bồi
Trò cùng trì bảo biết hồi tỉnh tu
Thầy đây thay lực vô từ
Trò công tâm sách xuất từ mệnh Thiên
Thầy đây khấu chỉ khai truyền
Trò về Thiên cửa ức nguyên phục hồi.
Mê tâm loạn tánh ngạ quỷ gần
Từ bi nhẫn nhục bỏ tham sân
Gieo tình thương giúp người giúp bạn
Đoạn ly trần CHÂN MỸ THIỆN căn.
Điểm hóa khai quang nhãn tinh tường
Ngưỡng tòa ĐẠI ĐẠO lộng lầu chương
Rõ trong vô ảnh chiêm bao đẹp
Có đủ hay chưa giấc ngũ trường.
LINH SƠN TỔ MẪU mở trí hùng
Long Hoa sáng rực phụng xòe ân
Ngất ngây điển lành đất Kim Trì
LỤC CUNG THÁNH MẪU trấn bảo an.
Kho tàng NGỌC lộ đuốc mà soi
Nay trần muôn cảnh lạc tâm người
Chớ mong vọng tưởng tên lừng lẫy
Tám chữ vàng chân điển khí trời.
Tạm tiếng hồi lâm giá khung khâu
Cung Trì hườn phản nguyên giáo đầu
Ngọc Khung bàn cũ lui tạm thế
Thống lược cờ đồ hiển khương bầu.
TĨNH TÂM phút xét suy thời loạn
TÂM TẤT THỊ PHẬT cũng kề gần
Ngày giờ giây phút bụi trần rũ
ĐẠO ĐÂU XA bởi lòng thoái sân.
Ngắm cảnh trần hoàn hợp lại tan
DI ĐÀ PHẬT TỔ vọng xa gần
Xót thương kẻ thế mãi mê muội
Cung đàn sáo nhạc mãi âm vang.
Sông mê khổ thoát lòng cầu ước
PHẬT muốn thế ni TẠNG TRÍ LƯỢC
PHẬT ĐƯƠNG THỂ GIẢI NHÂN GIAI CỌNG
KHAI TRÍ TUỆ CĂN LINH THÔNG BƯỚC.
Cứu nhân khổ nạn cõi Ta Bà
Hiện ánh mười phương diệu diệu xa
LÒNG TỪ THƯƠNG XÓT NHÂN GIAN CHÚNG
DI ĐÀ PHẬT TỔ PHÓNG QUANG TÒA.
Trần ảo vần xoay bạc ác hung
Điên đảo đảo điên độc dữ cùng
Chúng sinh u ám tối tăm loạn
Nước bể lệ tuôn đoạn thảm chung.
DI ĐÀ BI ĐẠI đời sa đắm
PHẬT TỔ hư vô hướng thiện tầm
Bụi trần phiền não oan gia nghiệp
TÂM KINH TU ĐỨC LỰC VÔ [VI] THÂM.
Sổ vàng ghi chép ác thiện toán
Nhân gian xa gần nước muôn dân
Hư không y thượng thiên sắc thế
Thiện pháp mô trì giả chúng nhân.
Túc thần túc trí nhân ái kính
Phổ độ cảm hóa bi cứu linh
Linh nhân lợi lạc phương thường kiến
PHẬT QUÁN TỪ BI THỜI HIỆN THINH.
Nhân sinh ly loạn nhân nạn dữ
Oán tất hãi kinh nhứt thiết chư
Nhận thu bất tận tu vô lượng
Diệt khổ đắc sinh phiêu phiêu như.
Tâm là quý nhứt chớ coi khinh
Đừng mê đừng loạn bởi tâm mình
DƯỠNG TÍNH AN THẦN TÂM PHẢI ĐỊNH
CHO KHIẾT CHO TỊNH MỚI AN BÌNH.
Mau tỉnh giấc nồng bớ nhân sinh
Tranh ăn tranh thứ tự giết mình
MỞ LÒNG QUẢNG ĐẠI TỪ BI CHÚNG
ÂN HỒNG NGỌC CHỈ SẮC BAN LINH.
TU mọi sự thế chính vững bền
ĐỨC TIN tính SỬA LÒNG cố tu
Làm nên biết rõ sanh kịp nền
Chuẩn phàm tục hoá thanh tao tự.
BIẾT HỐI TU TRÌ được thân nên
Hối kịp cảm tắc nam tín nữ
Ngộ đạo chí công sức lực truyền
Cải hóa trong sạch nợ trần rũ.
HÓA [THÂN] ĐỨC phúc nay đến Nước Thiên
Tránh mê kẻ thế muôn hồng tử
Dữ việc mọi đàng kiên tâm đền
THEO CHÂN ĐỨC PHẬT TÒA VÀNG NGỰ.
LÀNH NHIỆM KỲ THAY LÒNG MỘT NIỆM
Cảm hóa mai sau mọi đàng tu
Đức vẹn bền chí năng hành thiện
HÓA GIẢI BI AI ĐẠO ĐỨC TU.
Chúng sanh phiền não lộ tắc [tức thì] phiền
ĐỨC hoán thông vô thiên thủ thiên
NIỆM PHẬT PHẬT ĐỘ LINH SANH CHÚNG
HIỆN THÂN VỚT KẺ ĐỐI PHẬT TIỀN.
Muôn dân sĩ tử
BI TỪ MỞ LÒNG
MỘT LÒNG MỘ ĐẠO
Tận đạo thần tôn
Báu muôn phần quí
Một khi thoát nạn
Tiêu tan bịnh tai
Đông Tây Nam Bắc
Thời lạc tiêu tan
Ân cần niệm Phật
Thời tất ách tai
Khi nay sóng gió
Túc mô thông lực
TỈNH THỨC KIẾN PHẬT
CÓ ĐỨC CÓ NHÂN
THẾ TRẦN GIÁNG ĐỘ
Nạn khổ siết bao
Cảnh nào hẹp lối
Hại người gớm ghê
Đục mê nặng nề
Lối về chẳng rõ
Bảo cho đường lối
VIÊN HỘI NHỨT LINH
Tiền sinh trái nghiệp
Vạn kiếp oan thù
Người u ám đọa
Vạn khổ liên miên
Trần miền trầm luân.
Tầm cơ linh giác độ nhân sanh
Long Đình thị hiện THIÊN HOÀNG thành
Chiếu soi điền trụ muôn sự khó
Sắc mà sắc vẫn TRỜI ban lành.
Định tâm an lạc một lòng thành
Ngộ tâm kiên dốc não rũ thanh
TRÌ KINH TU ĐỨC BÌNH AN THỌ
ÔN NHU TỪ BI ĐẤT PHÚC LÀNH.
Rõ ràng bệnh tật tai ách lửa
Tội ác xét ghi tỉnh hồn chưa?
PHÉP TRỜI PHÂN MINH kiêu ngạo tội
Hỏi đến tiêu tan sao thớt thưa.
Dương trần nhiều nỗi thảm thương vong
Chúng sanh chẳng biết rộng Lư Bồng
Phận hiền thắc [sai lầm] cũ tựa TÙNG BÓNG
Chuyển xoay Ngươn Ba chóng BÓNG TÙNG.
TỪ BI xem trọng lòng từ chúng
Kêu một cõi đời dụng năng khai
Đà rõ ý duyên CHÁNH PHÁP hái
Dựng cảnh Thuấn Nghiêu lại thời lai.
Trẻ già tựa cánh soi gương mãi
Cao Xanh điểm hóa tại tâm căn
Nhẹ nhìn Phương Tây định thức thần
Nhựt nguyệt phi đài vẫn Khổng Thánh.
Trổ Kỳ Tam, QUỐC dạy hồi sanh
Lắng nghe nhè nhẹ thanh sử kiết
Nghiệm kim suy cổ trời đất xiết
Tương tàn tương sát thiệt tranh ao.
Nay thời tăm tối biết thế nào
Mau mau tỉnh ngộ lau Phật cảnh
Gốc tích người xưa điểm kiểm thanh [lọc]
Lòng giục ngắm nhìn tranh nhân thế.
Gió Tây lay thổi đến chiều về
GẦY DỰNG CẢNH BỐN BỀ SÁNG CHÓI
SEN ĐÀI MỌC MỤC CHỒI ĐÂM TRỖI
Chỉ [cho] [người] thiện tu hành khỏi ngẩn ngơ.
DIỆU PHÁP LIÊN HOA CHUYỂN TRẬN CỜ
RÁNG HIỂU CHO RA rộ mới vui
Thức giấc ráng lên chớ có lùi
Nhủ khuyên người đạo trui rèn luyện.
HẠNH ĐẠO RÁNG TU, GIẢI ĐẶNG LÊN
NẾU TU PHẢI MỨC NÊN GIẢI TỤC
GÌN CÂU LỤC TỰ THÂN HẠNH PHÚC
MỚI LÀ ẨN Ý LỤC [TỰ] DI ĐÀ.
Khai tâm bổn thiện nêu rõ dạ
Cố gắng tầm xem hạ cổ bài
Chỉ trong bốn bực Long Lầu giải
CHIẾC BÓNG TỪ BI TÁI HẠN KỲ.
XUẤT THẾ gian truân giải nan phỉ
KHẢ ÁI DUY TÂN lý ngộ bày
ĐẤT NAM CHÓI RẠNG TỪ BI TRẢI
DIỆU HUYỀN [THIÊN] KIM CỔ TÁI LÂM TRẦN.
PHÁP THIÊN luân chuyển đặng tánh Bồng [Lai]
BỒ TÁT TỪ BI NGÕ PHẬT THÔNG
Lái thuyền nang sóng vừng bốn vách
Duyên rộng khói lồng cảnh mục sông.
Hồng trần khó kiếm KHÁCH vào đây
NGỌN ĐUỐC TỪ BI CHIẾU SÁNG ĐẦY
Soi đường phơi trải phanh phui cạn
NHÃN QUANG THẦN NHÌN THẨM BAN MAI.
[Ý chữ "Khách" này nằm trong 4 chữ "QUỐC KHÁCH ĐẠI ĐẠO"
của Bửu Sơn Kỳ Hương đã được tiên khải và lưu giữ hơn nửa thế kỷ.
Chữ "Khách" này là chỉ "Huyền Thiên kim cổ tái lâm trần".]
BÌNH MINH sáng trong trời nắng ấm
Gom hết văn thi tỏa trông tầm
Hội Yến điển linh thân thân diệu
Tây Cung văng vẳng CỐ TRUY thầm.
[Bình Minh = Minh Thiên = Huyền Minh = Huyền Thiên.]
SÔNG [HÀ] còn biển rộng tưới thân mang
Lòng son tha giác hướng định bày
THIỆN HIỀN SỨC MỞ NGÀI PHẬT PHÁP
DIỆU PHÁP THINH ÂM MƠ THẦN XOAY.
[SÔNG = ám chỉ HÀ, kim thân của Huyền Thiên.
HÀ QUỐC = tên họ của Đức Ngài Hoàng Di Thiên.]
Ngắm nhìn bốn phía cõi trời mây
Một cõi HUYỀN THIÊN tỏa kỳ tài
Vẹt màn ngũ uẩn kỳ hồi khó
LÂM PHÀM thử thách thế nhân [có] hay?
Ráng niệm Nam Mô giải luật trần
NGƯỜI TU PHẢI RÁNG LẬP CÔNG HUÂN
KHAI CĂN MỞ TRÍ DIỆU THÂM ĐÁO
CHỮ TU CHƠN CHÁNH THOÁT VI NĂNG.
Ngày lẫn đêm MONG CẦU QUỐC ĐẠO
Cả đời hành đạo rõ âm hao
Quyết đi tới chốn non tiên cảnh
TỪ BI miệng niệm một cảnh nào.
Màu trời Hội Yến sớm qui về
Chèo cho ngay lối thoát kiếp mê
Dù cho khảo quả không lùi bước
Quyết chí tu hành dựa Bồ Đề.
Canh Tí bước sang cuối Thu tàn
Đảo lộn viễn cảnh đời chớp tan
Một khi TRỜI giáng hồi sinh tử
Ai thoát Tam Đồ khổ não nàn.
Tam Thiên Thế Giới tiêu trần cấu
NIỆM PHẬT NHỨT TÂM cảm hoá cầu
THIÊN THỦ THIÊN NHÃN từ bi cứu
Nhân thế thời tiêu định sáu câu.
Mở phút vui đầy đủ nghĩa nhân
Thâm sâu ý nặng chạy lớp màn
Năng ngộ tạo hình mở ra ý
CHỈ BÓNG TỪ BI LỘ THIÊN HOÀNG.
Khai câu ĐẠO ĐỨC chiếu khắc sâu
Rộng tình BÁC ÁI cuộc trần bâu
Kiếp người chất chứa trần ai khổ
Tìm cõi tu hiền THÍCH CA MÂU [NI].
Vô hình thấm thía cảnh lòng nhân
Sức sống đời tận sắp đến gần
Sớm không tu tĩnh chẳng yên thân
THƯỢNG CỔ DĨ LAI NGHI GIÁNG TRẦN.
Ngưỡng thượng đàn xin có phúc duyên
ẤN SẮC DI ĐÀ CHỐN ĐÀN TIỀN
Kim quang chiếu rọi hoan nhiên toại
XOAY HƯỚNG TỪ BI BỞI CAO THIÊN.
Chiết thân rõ bóng ảnh vô hình
Thần thông vận chuyển bởi tâm linh
Sắc khai nhựt nguyệt Phương Tây phản
Bộ máy thiên thiên chứa cuộc thình.
[Thiên thiên = ngày ngày. Thình = gìn giữ, như cổ ngữ “thình lòng”
có nghĩa là gìn lòng. Chiết thân = tách một phần linh quang/linh thể
xuống thế. Nhựt Nguyệt = Minh = Minh Thiên = Huyền Thiên Thượng Đế.
Phương Tây = ám chỉ Hoa Kỳ, chính xác hơn là vùng đất vàng California.]
TẠO THÍCH GIÁC THUYỀN CẨM NANG THƠ
CHÁNH PHÁP nghiêm mình một định chờ
Thao lược Đông phong tư nan lái
Chí tỏa tang bồng giải giấc mơ.
BỒ TÁT TỪ BI NGÕ PHẬT CHỜ
Phùng quang hạn mạch truyết tri cơ
TẠO THỂ HỮU VI, VÔ SẮC MỆNH
Gởi trọn Kỳ Yên đến bến bờ.
["Truyết" là chữ Nôm đồng nghĩa với chữ Triết bộ Xích chữ Hán
có nghĩa là "thấu đáo tới tận cùng/rốt ráo"]
DÒNG GIỐNG LẠC LONG CƠ ĐÁO THẾ
Trang sử QUỐC ÂN tái lập tề
Định quốc an bang chuyển dời đúng
Bỏ lỡ uổng công bậc MINH [THIÊN] về.
[Bậc Minh về = Minh Thiên giáng thế. Minh Thiên = Thiên Minh =
Huyền Minh = Huyền Thiên = Huyền Thiên Thượng Đế = Huyền Khung
Thượng Đế = Ngọc Đế = Bạch Ngọc Đế = Đại La Thiên Đế
Thái Cực Thánh Hoàng = Thiên Chúa = Đức Chúa Trời]
Thâm tình cổ bóng ẩn tùng ân
Tinh hoa kết tụ [NGỌC] ĐẾ khai thần
THẦN THÁNH PHẬT TIÊN ĐỀU HẠ THẾ
UY PHONG VÕ LÝ TUYỆT VỜI NĂNG.
Mật độ khai chốt cột nhà Nam
Ra oai xét bổ vô khuôn tầm
QUÂN KỶ TAM THANH KỲ LẬP HẠ
ĐẤT NAM CHÓI RẠNG XUẤT THẦN HÀM.
Kỳ ba Long Hội tạo vĩ mô
Thiện phước trữ nhiều ắt khôi ngô
Màu trời xoay sắp trải nâu áo
Hạng mục HUỲNH KỲ mức tựa hồ.
Dữ [và] biết BÓNG SƠN LINH HỒI ĐỊNH
BẾN CŨ ĐÒ KHAI cảnh vô hình
Mọi cọc tầm sâu nhìn rõ nét
Thuần túy [CẨM] NANG THƠ tỏa SƠN MINH.
Phẩm Di Đà Đại Lực Diễn Ngọc Kinh
Bước rõ lai trào thấu thật hư
Ngươn này chỉ một sợi chỉ TỪ
Nào ai rõ biết Thiên Cơ thế
Bước tới Cửa Thiên ánh nguyệt như.
Quang âm khai, mở cột chiều mơi
Dầu trải gió Xuân chẳng tách rời
Kiên tâm gác bỏ, lòng thử thách
Giác độ can qua phận vun bồi.
Khai ngôi, cửa mở lặng chiều mơi
Chưa định tạng ra chớ buông lơi
HUYỀN THIÊN KHAI HỘI tâm căn định
Tựa cánh bông sen rộ nở ngôi.
Chớ có phụ công cảnh THIÊN OAI
Cơ trời HÓA TẠO ý cuộc hài
Cung đàn chưa diễn âm thinh chuyển
Vô vi soi đường mở qui lai.
MỘT [NHỨT] THIÊN di ẤN GIẢ phương chi
TỪ BI tận độ ách nan trì
DI ĐÀ phóng tuệ nguyệt vân ảnh
Tư phủ tiên bang liệt giá ai.
Lai lâm trắc giáng trừ Tam Chướng
Tam Đồ Lục Đạo chúng sinh tường
QUANG MINH DI ĐÀ Kinh Đoạn Diệt
Đông Tây Nam Bắc phúc thùy trường.
DI ĐÀ ĐẠI LỰC DIỄN NGỌC KINH
Chín nhựt xuân THIÊN Nguyên Tiết MINH
Lưu truyền nhứt bộ kinh ân cú
Ân giáng trần tâm giới thinh thinh.
[Nguyên Tiết là ngày tết liên quan đến Khuất Nguyên (điển tích), tức nói tới Tiết Đoan Ngọ hay Tết Đoan Ngọ. "Chín nhựt xuân thiên Nguyên Tiết minh" có nghĩa là "ngày mùng chín Tết tiết trời Khuất Nguyên sáng lạng". Nói thẳng là "vào ngày mùng 9 tháng 5 Tết Đoan Ngọ."]
Thanh tịnh trí tuệ chúng hàm chân
Ấn diệu sáng gương nhân đắc truyền
Cảm lòng THIÊN ĐẾ, LINH ẤN hiện
Huỳnh Lâu ứng diệu điển giá đường.
Qui y tu Đức Phật hằng thương
Truyền cảm chín từng Phương Tây tỏa
Luyện Đạo chân tiên QUỐC HÀ sa
Vô vi đại điện tòa cao thượng.
["quốc hà sa" = hà sa quốc độ = cũng ngụ ý "QUỐC HÀ Sa Môn" hoặc
"QUỐC HÀ Sa Bà". QUỐC HÀ là thế danh của Đức Ngài Hoàng Di Thiên.]
PHẬT TỔ ĐẠI BI thế xót thương
Suy ra thời xấu tường chân lý
Tối tăm u ám độc sân si
Đắm sa bể khổ kỳ ma quỷ
Hút người chẳng tanh cõi thế ni
Cửa Trời đã mở qui tu đức
Tịnh xét đoán công tạo chính trực.
Bước đi thân hạnh rực sáng tâm
Khiến lộng điển linh bảo lối thầm
Tàng linh ẩn bóng lam châu chứa
Ngã Phật dạy từ tạng màn xưa
GỐC XƯA LUÂN CHUYỂN vừa chiếu hướng
MINH THIÊN vũ trụ dạ KỲ VƯƠNG.
Niệm Phật gắng công ra sức lòng
Bông sen thay sắc vô trung không
Cửu phẩm hàm linh đăng bỉ ngạn
Dĩ vô sở đắc Phật hiện đồng.
Chú dạ tâm vô tổn hoại hoán
Duyệt giáng cửu thanh chí bảo quang
Nhân bạc sinh khổ nhân giả khổ
Thuyền du tạo pháp thiên tường vân.
NGỌC CHƠN CUNG KHÁNH ĐẾ QUÂN KINH
THANH ỨNG THIÊN TÔN thùy PHÁP linh
Muôn kiếp vẹn tuyền thần sắc khí
Thượng đạo quân đạo tuyên vương bình.
[Ngọc Chơn Thanh Ứng Pháp Thiên Tôn]
Cơ thảm thay sinh cáo phả minh
Tri chiến mục đầu cạn bay thinh
Khéo léo niềm tin nông cốt cạn
Cuộc thế đổi thay Phật xoay hình.
Say kinh bổn dư âm trổi nổi
Đáo hạn Canh theo gót Tổ hồi
Thời tuy đến rồi thân say mãi
Khai điểm thời gian khát nước thời.
Khiếu khiếu đầu muôn báo ân thâm
Chẳng khoe tài giỏi giải việc tầm
Tôn hiền ngụ đức âm công đức
Đoạn tuyệt lục trần thanh khiết tâm.
Sạch rửa lòng trần tỉnh mê si
Chẳng nhớ oán thù quyết luyện đi
Đừng nói thiệt hơn gièm pha cợt
Kìa thuyền đón chở Phật hẹp chi.
Tí nguyệt Canh LINH PHẬT giá đàng
DI ĐÀ đại lực đại hiệu ban
Duyệt kinh thế xứ thông cú khể
Tất ứng tất cầu xứ xứ hưng.
[Khể bộ Mộc = mở ra ,khải]
Hư không tằng cửu hậu thế minh
Kinh văn nhứt thủ diễn NGỌC KINH
Lai lâm Nhứt Phẩm DI ĐÀ diễn
Kiên tâm tâm tất thị Phật trình.
Chiếc bóng từ bi THƯỢNG THIÊN khai
Thơm diệu ngọt bùi cảnh liên đài
Cơ Trời sửa soạn vi tiêu diệt
Tàng linh cửa mở hội anh tài.
MÔ THIÊN NHÃN THIÊN ĐẠI TỪ BI
Khổ khổ phiền não nhứt đảnh qui
Kiến Phật nhân linh thần thông lực
Giả chúng giả nhân linh nhân si.
Sắc sắc không không bao la giới
THÁI THƯỢNG KIM TINH truy định nơi
Canh Giáp đạo giá thùy đầu pháp
Ta thiệm hồn sanh rực bầu trời.
[Thiệm bộ Bối = cung cấp, cứu giúp]
Ngõ hầu ai ai biết hối tâm
Muôn sự đời bền tu đức thầm
Trời Phật Tiên Thánh mới giáng ấn
Thiết thực nhân tâm đức chuẩn làm.
Cực Lạc sen báu hiên vô biên
Phật hiện tại tâm cần cho chuyên
Tâm phải thinh thinh linh linh ấn
Chuyên tâm bất dịch đạt cửu truyền.
Mực xiết vòng tay đẹp Thiên Đình
Trọn câu Phật Pháp phỉ huy ninh
Ấn vị Kim Bàn đo lộ thước
Thuyết năng khai cảnh nhập vô hình.
Khai định kịp thời khỏi chơi vơi
Cất bước cửa thiền định chỗ ngồi
Kinh huyền mở rộng lịch lãm kỷ
Vô hình âm lai hiệp ý thời.
Một Đạo dồi trao bước thản nhiên
MINH QUÂN sáng tợ bí mật HUYỀN
Bàn cờ sắp đặt tàn quyết sửa
Nhược thủy liên đài ức vạn niên.
THIÊN đức PHẬT cho đạo an vui
GIÀ LAM thông chỗ chớ bước lùi
Mọi việc trong ngoài lực xoay chuyển
Thay thời vận chuyển rảnh ngùi ngùi.
Trái đất một phen luân
Cõi lưới căn kịp thời
Nhi tử mạng THIÊN TRỜI
Mây lòng vơi gọi gió
Đất khách một mình lộ
Gió phất phơ điển thiêng
Chạp dạ thầm THIÊN HUYỀN
Đạo lưu truyền phận sự
Hội kỳ bày định xứ
Thế trần như mênh mông
Trổi âm thinh trầm bổng
Gìn gương Khổng thiêng liêng
Khai cõi ngộ trần miền
Ức thiên niên cửu trạm
Sức sống đời bao năm
Gội thân phàm linh phục
Nên lai thảo thân túc
Kỳ đến phục diệu thâm
Tiết trời đạm mây lam
MỘT đồng TAM nhận định
Cơ trời mở OAI THINH
Bóng vô hình bóng xế
Qui tam thủ kỳ bệ
Trời bồng bế tâm tu
Vai mang đa phận sự
Xuân Hạ Thu Đông vào
Trọn tu rõ âm hao
MỞ LỰC CAO thầm lặng
Máy thiêng liêng định ấn
CUỘC PHONG THẦN thảm bề
Thúc qui hồi thủ lễ
Qui trở về tâm tu
Mở phút vui đầy đủ
Mục niệm từ vượt qua
Sống sanh cõi Ta Bà
Nhiệm kỳ ba mọi sự
Tu hành thoát cảnh hư
Diệu quả từ bi ẩn
Diệt hết sáu trần thân
Toàn bông năng lượng tính
Chiếu diệu lực âm tinh
Trổ điển linh phước đạo
Cổ lai nền tái tạo
Luân thế cao lộng mềm
Mục đề sánh bằng an
Bá tánh đang hồi khổ
Mở lực dần thiên cổ
Ứng hài lộ long châu
Lót đường phơi trải thấu
Đo cạn sâu mới hay
Nên động thủ vắn dài
Trống điển thay thời vận
Đột phá vô minh trận
Tác phi phần cõi mê
Trần xem thấy ủ ê
Hay nẻo về chiều hướng
Bỏ lở trước Phật đường
Niềm tin thượng lai cảnh
Mở rộng lục căn thanh
Qui nguyện lành đạo diễn
Tạng ra chớ tạo phiền
Thành qui nguyện LONG HOA
Chờ TỨ THÁNH thứ ba
Kim cổ ra thời đại
Âu thời vọng chuyển xoay
Cõi trời Tây tạng cổ
Âm thinh máy huyền cơ
Sửa cảnh bờ đưa đến
Chiếc bóng thuyền hoa liên
Đến trổ yên đắc đạo
Gìn mối một thể rào
Rõ lai trào hư thật.
Nhẫn nhục chơn tâm dạ như không
Thân ai như nấy thương thể đồng
Sân tâm trung hỏa thiêu công đức
Nhơn ở có nhơn tích đức phòng.
Thề cải ác theo điều Phật dạy
Giữ thân bền ngay thẳng thẳng ngay
Giận thì sanh dữ hỏa năng thiêu
Muốn theo Bồ Tát hóa BI tài.
Dựng lại Ngươn Ba cõi hồng trần
Muốn lên bền chí tu đất thân
Vô ảnh mới tạng châu mới hiện
Giờ HUYỀN mời khách thường chuyển luân.
Giáng cơ mây xanh diệu trần lâm
Nghĩa rành bởi dạ hành tu thầm
Tầm hoan đoái lại Tiên Đạo có
Độ người khỏi đọa hết mê lầm.
CHUYỂN LUÂN VƯƠNG đền tại Biển Đông
Trái đất rung cầu Nại Hà cầm
Sống lâu thác yểu đều định rõ
VUA PHONG ĐÔ đại biến hóa phong.
VĂN XƯƠNG ĐẾ QUÂN đổi sự đời
Dê quanh co đi chia sáu ngôi
Đừng mơ sự đã đến khuyên người
Tay cầm gương xá ĐẾ khoán ngôi.
Từ năm THƯỢNG ĐẾ phê chỉ chúng
Giảng mà khuyên đời chừa lỗi tùng
ĐẠI ĐẾ, THẬP PHƯƠNG THẦN THÀNH HOÀNG
Truyền cho đời biết ĐẠI ĐẾ [HUYỀN] KHUNG.
Nói lậu tên nghe ĐẠI ĐẾ KHUNG
Ta hiệu THIÊN THẦN ĐẾ VƯƠNG CUNG
Hiện báo lành dữ đời này họa
Ăn năn muộn sao kịp kiến [Cửu] Trùng.
PHONG ĐÔ ĐẠI ĐẾ cơ thần long
Ngũ hiển linh quang tuế lạp đông
TAM MAO ỨNG HÓA CHƠN QUÂN hiển
ĐẠT MA SƯ TỔ, THÁI ÂM CÔNG.
THIÊN TÀO CHƯ TỬ hạ môn quan
NGŨ NHẠC NGŨ ĐẾ giáng hạ đàn
ĐẠI ĐẾ ĐẨU THẦN quây công lực
BẮC CỰC TỬ VI ĐẠI ĐẾ phang.
ĐẠI THÀNH CHÍ THÁNH VĂN VƯƠNG tử
THÁI ẤT THIÊN TÔN thần lập xứ
VI ĐÀ QUANG NHỰT THIÊN TỬ đa
BẮC PHƯƠNG NGŨ ĐẠO ĐẾ THIÊN du.
Tiên Phật giáng hạ ngược sắc khai
THÍCH CA, CHƯ PHẬT giáng thế bày
Thiên du THƯỢNG ĐẾ lành dữ xét
Ứng báo người đời họa đời này.
THẦN CÔNG DIỆU TẾ HỨA CHƠN QUÂN
NGƯU LANG CHỨC NỮ TRUNG NGƯƠN THẦN
DIÊU TRÌ VƯƠNG MẪU NƯƠNG NƯƠNG phổ
THIÊN QUAN ĐẠI ĐẾ ngự giá trần.
THƯỢNG LÃO TƯỚNG CÔNG nhạn KHƯƠNG đồng
TAM SÁT HUYỀN ĐÀN ĐẾ hư không
CỬU ĐIỆN DOÃN CHƠN NHƠN qui ứng
THIÊN HẬU NƯƠNG NƯƠNG ẩn thần phong.
NHÃN QUANG THÁNH MẪU soi chiếu thế
THIÊN QUÂN THÁI ÚY ngũ đạo tề
HIỂN VƯƠNG PHẬT giáng, LÔI THẦN HỎA
TẢ TƯỚNG TỬ CHÂU CÔNG luật phê.
NAM CỰC ĐẠI ĐẾ tụ đêm nay
NGUYÊN SOÁI THIÊN QUÂN THÁNH lĩnh tài
Phùng chơn oai hiển nếu tu phải
HOÀNG ĐẾ VƯƠNG LINH trấn giữ ngoài.
NHỊ LANG THIÊN XU TẢ TƯỚNG QUÂN
THÁI TUẾ PHỔ AM TỔ SƯ thần
PHỤC MA PHÓ TƯỚNG TRƯƠNG VƯƠNG hiển
LÔI THINH ĐẠI ĐẾ giáng hạ trần.
NGỌC HOÀNG ĐẠI ĐẾ TÂM KINH chuyển
THƯỢNG ĐẾ CHÍ NHÂN thế phục nguyên
Những ai phụ cả ân từ đoản
Ghi nhớ đinh ninh ĐẾ NGUYỆT THIÊN.
Lời NGỌC ĐẾ ngũ niên Canh Tí
Dặn rằng dương gian chúng nghe y
Thay hồn đổi xác khó lường giữ
Lời phán NGỌC thơ phẩm KINH qui.
Ta là BẠCH KHỞI tướng mạnh TẦN
Danh thần công có thấy khương mang
Kinh thế luật rằng nhân hưởng phước
Thử lòng nhân thế truy bản năng.
[Bạch Khởi, Vương Tiễn, Liêm Pha, Lý Mục dược cho
là bốn nhà cầm quân giỏi nhất nước Tần]
QUÁN TIÊN BỘ lập bàn song cơ
Mâm cây vuông đổ cát đàn hò
QUÁN TIÊN kêu ai biết tu thiện
Phàm nhơn khấu vấn giả tốc trò.
Chẳng hay trong đời việc chi quí
Kính đạo, sĩ thầy, pháp thứ nhì
Ăn năn chừa lỗi làm lành thiện
Người coi đọc lấy biết tu trì.
NGỌC VÂN NGỌC ĐẾ chỉ dụ phê
Tích làm Bồ Tát biết nội bề
Giáp Thìn tháng Ba năm Nhâm Ngũ
Nay trở dương gian nhìn chúng mê.
Chẳng qua đời kiếp ngắn ngủi này
Trời đất không tư vị tại ai
Lành dữ rốt rồi đều trả quả
Tỉnh lại mà tu chớ mới hay.
Mau tâm phước khí tụng kinh cầu
Thiên Đường Địa Ngục có xa đâu
Tại lòng chực giữ vòng muôn kiếp
Sớm tai nghe thấu mùi đạo mầu.
Biết sự sanh đâu biết sự thác
Gẫm người vật không khác máu xương
Xin hiền lương hành chánh đạo phương
Tu Tiên Đạo tuần hườn dựng lại.
Chữ Tam Công nhắn ai qui giái
Giữ Đạo Tiên mới thấy bổn lai
Non vô ảnh muốn hy hiền phải
Đờn không dây tiếng hãy còn nghe.
Khách Tây du quá dễ năm phe
Dằn nhìn dạ thiếp mê vọng tưởng
Mở cửa lầu chói hiện quang tương
Dùng ngọn giả Tây Phương rực sáng.
Trống thùng tạm dứt điển linh hài
Canh Tí thông thạo mật cơ xoay
Tạm lui linh điển xoay chiều hướng
Cơ thần nêu rõ cực ngươn này.
[tiếp theo 20/7/2020]
Dư âm trỗi ngộ ra chơn lý
Thả lòng từ ban rải nang thi
Khấn thuyền uyên tử hồ thảm lạng
Khai ngộ cổ bài rải đàn li.
Mang sầu khối mỏi mòn kim cổ
Ký thân già HUYỀN rảo họa đồ
Cảnh héo von nguồn tắc nghẽn sâu
Giờ chưa đến HƯNG yên khai ngộ.
Nghịch giả cảnh gìn tâm thiện tánh
Thí thì phước thiện đường rõ lành
Làm lành làm phước chuộc tội lớn
Hiển vinh miên viễn hưởng công hành.
Mộng ảnh vi pháp HUYỀN ưng tác
Vô hình bất thủ bất động LẠC
LAI tâm bất khả hiện tại tâm
NHƯ điển nhứt thiết bất khả đắc.
Như Lai Giả vô sở tùng lai
Diệc vô sở khứ cố danh tài
Không vân tưởng sẽ đến đừng ước
Tu bồ đề quá khứ tâm lai.
THIÊN CHÍ TÔN NGỌC HOÀNG HUYỀN CUNG
Muôn từng trời xanh HOÀNG THIÊN KHUNG
Ao sen đỏ vàng xanh trắng rỡ
Vui thay khoái lạc phúc lành chung.
Cực ngươn này vất vả thế trần
GIẢI SẮC KHAI THẦN GIÁO CANH TÂN
Tây kim cổ công cảnh rơi mài
Điển cơ pháp xuất thần KIM OAI.
Hiệp khách trải đàng giục thúc cơ
Long lầu giải phú OAI THIÊN VÕ
Diều hâu ngưng gió bay nào lạ
Đài Minh Cảnh thâu chúng sanh khó.
TA tại Hội Nam Phương huyền bí
Mắt thấy rành soi kỹ cốt phàm
Cách đi cách đứng nữ nam
Có biết chi cớ MẸ nằm mỏi mê?
ƠN TRÁI ĐẤT nhiều bề thập tử
Kém hình hài lo đủ rõ ràng
Cớ sao chẳng hiếu song thân
Cưu mang gìn giữ mòn thân thể nào
ƠN CHA MẸ cù lao dưỡng dục
Nặng trên vai lục đục vì con
Ơn CHA nghĩa MẸ cho tròn
Chẳng khi thức tỉnh MẸ mòn CHA suy
Tội bất hiếu thể gì đền đáp
Ân chưa đền mau tập hiếu nghi
Giọt hồng CHA MẸ tôn vì
Nữ nam nam nữ mớt nghì MẸ CHA
Người thọ khổ tính ra đau thấu
Ân thâm song ân sâu muôn ngàn
Vậy mà ân dưỡng như TA
Than rằng quả thật bi lân nặng nề!
Kiếp ân trả tội kể trọng thay
BẤT HIẾU CHA MẸ thấy thảm sầu
Kiếp này nên biết sáu câu
DI ĐÀ LỤC TỰ thuộc làu yên thân.
Biển trần khổ đắm trong sinh tử
Gieo phàm nhân hối ngộ trì tu
Kim thoàn kề dựa hối sửa mình
Sống cảnh bần ngang nắng sương mù.
Ngươn tàn tơi tả đó màn cơ
Thân sanh trần tội cảnh mê mờ
Bao lâu khờ tỉnh hồi tâm sám
Công Đồng mở cửa thuyền vững chờ.
Kim thuyền trước giữa này sông hội
Nay gươm Trời bằng xử việc đời
Sám hối kịp giờ thuyền trở bước
Hoa vân HOÀNG MẪU điển xét soi.
NAM CỰC ĐẠI ĐẾ cuộc Phong Thần
Canh Tí thần long ẩn bóng lân
TÔN CHƠN NHƠN TỔ xoay chiều hướng
PHẬT TIÊN THÁNH THẦN hạ thế trần.
[Chữ lân 潾 có nghĩa là nước trong. Chữ lân 麟 có nghĩa kỳ lân. Hiểu theo nghĩa “thần long ẩn trong nước trong” hay “thần long mà giả vờ làm kỳ lân” đều đúng.]
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ đêm nay kết
HỒI LINH SƯ TỔ lược giải hết
THIÊN QUÂN CHÂU THÁI đề bất thoái
Lai lân tam hội bất giải tuyệt.
TƯỚNG CÔNG THƯỢNG LÃO chuyện Tây du
Khôi mạc đại thần thánh đại từ
LƯU HẢI THIỀM ĐẾ ngươn đạo hóa
VÔ LƯỢNG THIÊN TRIỆU CHÂN LÃO như.
[Vương Huyền Phủ truyền đạo cho Chung Li Quyền. Chung Li Quyền
truyền đạo cho Lã Động Tân và Lưu Hải Thiềm (Hải Thiềm Tử, Thanh
Thành Trượng Nhơn, tên Lưu Thao). Tất cả bốn vị này cùng Vương
Trùng Dương được gọi là Bắc Ngũ Tổ của Toàn Chân Giáo.]
DƯỢC VƯƠNG CỔ PHẬT vi không điện
Mở rộng lựct căn triệu thanh viên
Xem luật thần cơ huyền cốt ký
Chứng tam chủ cổ đình dược thiên.
THIÊN XA TẢ TƯỚNG NHỊ LANG THẦN
Bốn phương thiên hạ đắp nền nhân
Tây Kim Môn cửa thi hành luật
Thượng Ngươn đạo hóa lập cân bằng.
NAM PHƯƠNG NGŨ ĐẠO lượng âm công
Chư Tiên chư Thánh đất Nam đồng
Hiếu sinh chi đức người cảnh sắc
Hoa ngọc nụ vàng muôn ức thông.
DIÊU TRÌ VƯƠNG MẪU NƯƠNG NƯƠNG lịnh
Hội Yến lộng tàng nhược tiễn linh
Ngươn Tam kim vĩ nan tri hướng
Vùng chơn nhơn hiển ra sức mình.
HUYỀN THIÊN THƯỢNG ĐẾ LONG BÀN VŨ
Tam [Kỳ] QUỐC càn khôn cổ ly từ
Đông Tây Nam Bắc xoay chiều hướng
Trác [cao siêu] giáng lai lâm ứng khắp lưu.
LỮ TỔ THUẦN DƯƠNG công đại hữu
Thời khó tam ma thập lục thu
Pháp lực linh ứng chuyên cần niệm
Giải tục xét soi diệt tội trừ.
HẬU THỔ NƯƠNG NƯƠNG TRUNG NHẠC lễ
Tháo gỡ bước chân hội kỳ về
THANH CUNG NGUYÊN TỔ khôi mạc tĩnh
Gươm cả nền không chiếu dụ thế.
LƯU MÃNH TƯỚNG QUÂN ÔN NGUYÊN SOÁI
Thiên khai cuộc tạm sắc hoa khai
Điền đăng tác giác mức nâu thần
Không pháp xa giới chăm giũa mài.
THÔI PHỦ QUÂN KỲ MINH TẾ dự
Bóng tĩnh xoay chiều cửa Tây như
Cơ năng chỉ hướng tiến thôn nhựt
Vi danh vi tính huyết hóa từ.
ĐẠI ĐẾ LINH TỂ CHƠN QUÂN cổ
Long Châu Nam ẩn quyết kiên chờ
Sen báu hiện hình then hằng mở
Tỉnh giấc mê xuyên chúng thiệt vô.
THỦY LONG THÁNH MẪU NƯƠNG NƯƠNG giáng
Tâm hầu pháp bảo thoảng tiên nhan
Hướng chiếu công lượng thi hành luật
TĨNH ẤN CHƠN QUÂN tự THỪA QUANG.
TÁO QUÂN TƯ MẠNG thiên chư tử
Tử bạch phát thành khai xuất tu
Hiện Nhâm Ngưu ứng thị vi tính
Thượng Lão Đức Thiên chư quốc du.
NAM ĐẨU giáng hạ liệu khó bâu
Màn lớp đổi xưa chắc ý mầu
Sắc thể thay đổi bao kiếp lượt
Thay đổi nhân hình trống thúc đầu.
LÔI THINH ĐẠI ĐẾ liệu mọi phần
Ấn cơ cương bậc mở huyền năng
KIM LONG TỨ ĐẠI VƯƠNG hồng toán
Tát nước ao sen lý cảnh phân.
CHƯ PHẬT giáng thế xét lành dữ
Giáng hạ Kim Bàn bất khả như
Chủ lộng thiên kỳ phá đồ trận
Lành dữ thần hay tỉnh mà tu.
CỬU THIÊN HUYỀN NỮ phi cội mở
Môn đề phá trận ký ấn cơ
An bình Thượng Hội ĐỨC TỪ tạo
Phẩm Mùi mở cảnh vận tới chờ.
TAM MAO ỨNG HÓA CHƠN QUÂN hiện
Phàm thế cầu tu đủ vận liền
Trung phân lão chủ chuông vang tọa
Đờn khải lão khoan hữu phước duyên.
[Mao Doanh, Mao Cố, Mao Trung là Tam Mao Tổ Sư của Mao Sơn phái]
Cửu cung chơn điển TÂY VƯƠNG MẪU
Hư không dụng pháp Tí phong lâu
GIANG ĐÔNG [THẦN] NGŨ ĐIỆN [VƯƠNG] xuôi khung cảnh
Áo mão Ta Bà một cảnh mầu.
THÁI THƯỢNG LÃO QUÂN vạn trượng thiên
Càn khôn chiêu phẩm xuất kỷ nhiên
Vô Vi sắc chỉ vâng an pháp
Phi thanh tuyệt lượng Chủ Cung Huyền.
HUYỀN THIÊN THƯỢNG ĐẾ nhíp bổn lai
Cảnh lư giai bất hoàng chí khai
Duy hảo xoay cơ chiều an nghĩ
Điển thanh huệ pháp lực Phương Tây.
THÁNH PHỤ MINH CHƠN ĐẾ vô hình
Khai minh nguồn sáng Giáp mở linh
Tam Ban vào bước long kỳ cảnh
Bổn thiện chí cao Tây Trào thinh.
THIÊN QUAN ĐẠI ĐẾ lộ chữ THIÊN
Trời Âu trống thúc lộ tạng HUYỀN
Càn khôn trống lịnh oai thinh phủ
Bờ dư ngâu ngạn sắc chỉ điền.
[Thiên Quan Đại Đế = Vua Nghiêu = Thượng
Nguyên Nhứt Phẩm Tứ Phúc Thiên Quan]
DI LẠC kiên lạp lực thiên lộ
Giải không độ nhứt thanh tịnh mô
Chân thật bất hư vô tuệ ngại
Sắc bất dị không ngại cố vô.
TỬ ĐỒNG VĂN XƯƠNG kim quốc châu
Chúng nhân trong đời thệ nguyện cầu
Quán niệm cần niệm tâm chính niệm
Lộ pháp chú cam thông lực mầu.
[Tử Đồng Văn Xương = Văn Xương Đế Quân = Văn Xương Tinh.
Các sách viết rằng: Văn Xương Đế Quân vốn sinh đầu đời Chu, đã trải
73 kiếp hoá thân, từng là sĩ đại phu, cuối đời Tây Tấn ngài giáng sinh
nơi đất Thục, tên là Á họ là Trương, tự là Bái Phu, được lệnh Ngọc
Hoàng Thượng Đế cho chưởng quản Văn Xương phủ và lộc tịch
(sổ sách về quan lộc) của nhân gian. Trích wikipeadia]
ĐỊA TẠNG VƯƠNG BỒ TÁT nhân ái kính
Năng hiện giới linh thật nhiệm hình
Cứu hồn năng chế trầm luân khổ
Tam đồ khổ não cứu nhân sinh.
TRỊ NIÊN THÁI TUẾ chuyển luyện nhiên
Lịnh mở Đại Đồng thôi trần hiện
Tọa tại mãn đường kỳ bàn chính
Càn khôn phong thủy thái bình quyền.
BÌNH LINH CÔNG THÁI tân khai chuyển
Đông Tây Nam Bắc pháp xuân thiên
Một cửa cột chứa cột chắc ý
Lối đường thiên ý tới hoa liên.
KHƯU TRƯỜNG XUÂN TIÊN mở lối từ
Cuộc án liệu bâu khai vô khứ
Xuân sang qui luật đối cuộc án
Bửu điện trường sanh lục bá tư.
GIANG ĐÔNG THẦN xuất hoa sắc cảnh
Khứ bảo ky thần thành bửu danh
Vô kỳ tại đỉnh trung ương cổ
Tam điển ĐẠI ĐẾ TRƯƠNG trải lành.
NGƯU LANG CHỨC NỮ TIÊN NGỌC HIẾU
Sai nguyệt hoa liêm khúc tam triều
Tây Cung ngàn dậm liên kết khải
Phong cửa chánh Tây chuyển thúc nhiều.
LÔI TỔ THẦN HỎA hiển linh ban
Thử xem thâm thẩm lập vô thần
Kim chơn thông quyết tôi hiền lược
LÃO THÁNH NHƠN y tái đương quân.
NHỊ LANG CHÂU TỬ thuần ân trải
Định ý sông HÀ Cửu Liên Tây
Rạch mở hồng cơ kêu nghe nói
Thiện nang tàng chúng muôn thế giai.
CÁT CHƠN QUÂN TỔ một đường lai
Khó chi thần khí lưỡng cơ tài
Chúng tàng nhiên lẽ âu huyền nắm
Thời khó qui THIÊN HUYỀN giới Tây.
NGƯƠN SOÁI TRUNG NHẠC ĐẠI TRƯỜNG ĐẾ
Cơ biến kiền khôn lượt sóng bề
Thánh ngoại tôn Lão TRỜI thế giái
Quân Thiên lượng cát ngoại phương tề.
THÁI TỬ QUAN THÀNH CHÂU an bảo
Lão thượng vân đề với bộ cao
Đàm CHƠN NHƠN CHỦ QUÂN THIÊN HẠ
Mở ngõ một phen hai ức vào.
TRUNG ƯƠNG HUYỀN ĐÀN LÔI ĐÌNH KHUNG
Lão thuyết tịnh không hình thế cung
Ta hiệu QUÂN LÃO vi cứu độ
Khải đờn kêu thế chỉ rõ cùng.
NHÃN QUANG THÁNH MẪU cơ đàn chỉ
Phen này máy tạo lịnh tàng vi
Bạch vân kiếm hiệu vi huyền diệu
Bàn cẩm khí thần MẪU TÔN vi.
[Nhãn Quang Thánh Mẫu là một vị nữ thần trong Đạo giáo chuyên trị
bệnh về mắt, được coi là hóa thân của Bảo Sanh Chân Nhân Hoằng Đức
Bích Hà Nguyên Quân (gọi tắt là Thái Sơn Nương Nương, tức nữ thầnnúi Đông Nhạc). Nhãn Quang Thánh Mẫu còn gọi là Nhãn Mục Nguyên Quân, Nhãn Vương Nãi Nãi, Nhãn Quang Thánh Mẫu Huệ Chiếu Minh Mục Nguyên Quân v.v…]
HOA NGHIÊM BỒ TÁT bất tại nơi
HẬU THIÊN LONG MẪU linh điển thời
LINH SƠN NGỌC lạc tề thủ phước
Lưu sử giả đàng Long Huê ngồi.
[Linh Sơn Ngọc là một vị Thánh Mẫu trong văn hóa Mường, đền thờ tại
Lạc Thủy, Hòa Bình, và trong truyền thống đạo tam tứ phủ]
CỬU LIÊN BỒ TÁT chư linh độ
Đảo hướng phong di đại phát thu
Tất khí tiên cung đình kỳ phiến
LINH QUANG NGŨ HIỂN cứu chúng mô.
ĐẠT MA SƯ TỔ cơ giáng tái
Chống ghe dục hải chuyển đàng khai
Đức tài điểm trống lịnh hồi ký
Sư Tổ phương điển khí thể hài.
ĐẠI THÀNH CHÍ THÁNH [VĂN] TUYÊN KHỔNG TỬ
Giải mười phương chí đảo đường như
Mộc tại trường xuân Tây Nam Bắc
Ân thượng bộ danh Vương Khổng Từ.
NHIÊN ĐĂNG CỔ PHẬT khứ vị an
Tam xuân túc tế hoạt tại đàng
Phổ kinh thuyết biểu vạn thiên hóa
Niên lai phong tại tác ý thoàn.
THIÊN LONG TỨ ĐẠI THIÊN VƯƠNG bản
Phật mở vạn linh hữu túc màn
Tây Huyền phong bảng oai nghi lịnh
Đời tạm mượn tuồng cảnh mục sang.
Vụng nghênh linh đáo giám kim chương
THANH CUNG VÔ CỰC THƯỢNG THÁNH VƯƠNG
Huyền Tôn Chơn Cảnh rểu uy chủ
Vạn Thiên Chư Phật một cảnh đường.
Nghe cảm tâm chuyển hóa vô biên
Cửu Trùng quyết đã tâm quang hiền
Kỳ linh ứng diệu pháp bảo đắc
THƯỢNG ĐẾ CHÍ NHÂN TẠO ĐẠI THIÊN.
Tỏ lý thành không thế giới hư
Hoàng viên nhân đắc khoái lạc từ
Nước Trời trong sạch vui cảnh Phật
Tâm là cội rễ thật quang hư.
Mau tỉnh lại khấu thủ qui y
Cảnh Phật vẻ vang khá tu trì
Cảm lòng đất Phật mau mau bước
Chi trần lụy cấu cố bước đi.
DI LẠC PHẬT VƯƠNG niệm một tràng
BÁT ĐIỆN BÌNH VƯƠNG hạ lưu sang
QUAN ĐẾ MINH THÁNH thông chính giác
Cửa then hằng mở phóng đại quang.
THÁI DƯƠNG MINH THÁNH vĩnh mạng hề
Cứu độ tiên linh thoát chúng mê
Đón kẻ quyết kiên Tây Lạc Quốc
Cảm ứng nhiệm mầu sở nguyện về.
DIỆU TẾ CHƠN QUÂN QUẢNG HÀNH VƯƠNG
TÂY NHẠC ĐẠI ĐẾ vọng thiên tường
Tâm niệm lục tự hồng danh đức
ĐỊA QUANG ĐẠI ĐẾ chói cạnh tường.
[Diệu Tế Chơn Quân là hiệu của tổ thứ 21 của Thiên Sư Đạo tên Trương
Chính Tuỳ, tự là Bảo Thần. Năm 1016, Tống Chân Tông mời vào cung và lập
Thụ Lục Viện và ban hiệu là Chân Tĩnh Tiên Sinh. Năm Nguyên Chí Chính
thứ 13 (1341) được ban hiệu Thanh Hư Quảng Giáo Diệu Tế Chơn Quân.]
THÁI ÂM HOÀNG HẬU sen vàng chói
LỤC VẠN CỬU THIÊN hiệu đa thời
LÔI ĐÌNH THIÊN QUÂN ngụ đồng Bắc
TỐNG ĐẾ VƯƠNG TAM [ĐIỆN] tạng kế ngôi.
QUAN ÂM PHỔ MÔN cứu khổ hạn
Chiếu kiến ngũ uẩn bất diệt nan
Diệc Đạo vô trí diệc vô sắc
QUÁN ÂM BỒ TÁT tỉ thiệt can.
Báo ân CHƠN VÕ HUYỀN THIÊN ĐẾ
Long lân qui phụng hào sắc đề
Xuất Tây Trào giáo thay đón nhận
THIÊN QUAN ĐẠI ĐẾ sở vân huê.
[Thiên Quan Tử Vi Đại Đế là một trong Tam Quan Đại Đế. Tam Quan Đại Đế gồm ba vị là Thượng Nguyên Tứ Phước Thiên Quan Tử Vi Đại Đế, Trung Nguyên Xá Tội Địa Quan Thanh Hư Đại Đế, Hạ Nguyên Giải Ách Thủy Quan Động Âm Đại Đế. Nếu gọi đầy đủ thì là Tam Nguyên Tam Phẩm Tam Quan Đại Đế. Trong Đạo giáo, địa vị của ba vị nầy gần với Ngọc Hoàng Thượng Đế. Đạo giáo cho rằng ba vị nầy có trách nhiệm về ba yếu tố: ban phúc, xá tội và giải trừ tai ách cho con người.]
DIÊM LA VƯƠNG, THÁI SƠN VƯƠNG điển
NGŨ ĐIỆN GIANG ĐÔNG đệ nhị nguyên
DI LẠC TÔN CHƠN HUYỀN KINH NGỌC
Bổn nguyện bảo sanh Tây du thuyền.
THÁI THƯỢNG LÃO QUÂN tầm bờ dư
NGUYÊN SOÁI ĐỘ TƯỚNG NHƠN DOÃN tư
THIÊN SƯ HỨA oai hiển Vương Tây
THÁI TUẾ NIÊN TRỊ khương hiệp trừ.
[Doãn Hỉ, tự Quan Doãn, hiệu Văn Thủy Tiên Sinh, Văn Thủy Chân Nhân, còn gọi là Doãn Tử. Quan Doãn là quan viên thời Xuân Thu trong lịch sử Trung Quốc. Quan Doãn giữ chức lệnh đóng giữ cửa ải phía tây thời Chu Chiêu Vương. Một hôm thấy được tử khí đông lai, lúc sau Lão Tử cưỡi trâu xanh từ phía đông đến, Quan Doãn ngăn lại cầu học. Lão Tử truyền lại hơn 5.000 chữ, sau soạn thành cuốn Đạo Đức Kinh. Quan Doãn để lại tác phẩm Quan Doãn Tử 9 thiên, được nhắc đến trong mục Nghệ văn chí của Hán thư, nay đã thất truyền.]
[Tứ Đại Thiên sư là bốn vị tiên có vai trò đón tiếp như các vị sứ giả trên Thiên Đình trong Đạo Giáo Trung Hoa. Gồm Trương Đạo Lăng Thiên Sư, Hứa Tinh Dương Chân Nhân Thiên Sư (Hứa Tốn, tự Kính Chi), Khâu Hoằng Tế Chân Nhân Thiên Sư, Cát Tiên Ông Cát Hồng Thiên Sư. Đây là bốn vị đạo sĩ có thật, đã từng tu luyện theo Đạo giáo và được tôn lên như là những vị chân nhân, thiên sư.]
HỮU THÁNH CHƠN QUÂN vô số ức
Chính nhân chính giác DI ĐÀ luật
Hiển ảnh mười phương Phật vô lượng
Hoa sen khai sắc Nước Phật lực.
NGƯU LANG CHỨC NỮ lưu khải thình
Tướng chơn thượng tướng hạo thiên lình
Cảm ứng tánh trung thay sanh hảo
TRUNG NHẠC THỦ QUÂN cựu chánh nghiêm.
[thình 盛 = gìn, chỉnh đốn. Lình 令 = linh, lịnh]
ÔN SOÁI NGUYÊN TÂY phùng KỴ TRƯƠNG
CHUNG SAN CÔNG TƯỚNG chuyển khai hướng
CHÂU TỬ NHỊ LANG THẦN tốc NHỊ
TẢ TƯỚNG truyền long phụng đáo phương.
[Ôn Nguyên Soái là một trong bốn vị thần tướng canh giữ Thiên Đình gồm: 1) Mã Nguyên Soái, còn gọi là Mã Nguyên Quân, Hoa Quang Thiên Vương; 2) Hoa Quang Đại Đế Triệu Nguyên Soái, tức là Vũ Tài Thần Triệu Công Minh; 3) Triệu Huyền Đàn Ôn Nguyên Soái, tức là Ôn Quỳnh, Đông Nhạc Đế bộ tướng; 4) Khang Nguyên Soái, tức là Khang Thiên Quân, Nhơn Thánh Nguyên Soái.]
CHUẨN ĐỀ VƯƠNG BỒ TÁT oai linh ứng
CỬU ĐIỂN HUYỀN THIÊN KINH NGỌC cung
ĐẠI ĐẾ NAM CỰC LỤC ĐIỆN minh
THÁNH MẪU TÂY TRÀO chiếu lạc phùng.
Thiên điển phùng Chơn Phụ Minh tương
Trung Ương Huyền Đàn Cửu Tây trường
Ngọc Tòa lôi phục triều ngươn các
LƯU THẦN BẮC CỰC THÁNH VĂN VƯƠNG.
NAM ĐẨU giáng hạ Liên Hoa Thượng
Vương hầu anh tế vụ càn đương
Lộc nhơn tuồng giải DI ĐÀ QUỐC
THÍCH CA MÂU NI thiện chí vương.
PHÓ TƯỚNG PHỤC MA HIÊN VIÊN thủ
Táo mậu THÁI ÂM xoay linh như
Chư Phật Niết Bàn phước lâm hội
Phước họa đời này tỉnh mà tu.
NHIÊN ĐĂNG CỔ PHẬT vô tự khai
Phong Đô vạn xứ thuận thảo ngay
Di Đà thủy khí án quân phủ
Huỳnh Lâu kim sắc hóa âm thay.
THƯỢNG NGƯƠN THẦN CHÁNH LƯU MÃNH QUÂN
Ngoại vĩnh ân kỳ GIANG ĐÔNG THẦN
CHÂU [DO] trận tử đồng GIA CÁT TƯỚNG
LINH CHƠN LÃO THƯỢNG đăng trụ hoàn.
Chốn non xanh Tam Thừa cam diễn
Lượng tổ đường NHƯ LAI PHẬT hiện
MỘC LIÊN HOA trải hạnh chúng sinh
VĂN XƯƠNG bổn bất kỳ siêu hiện.
Canh [Tí] ngũ niên nhứt nhị cửu diên
THƯỢNG ĐẾ chỉ dụ tại điện đào
Đạo nhơn lời bạc đạm suy tôn
Giáp Thìn Nhâm ngũ THƯỢNG ĐẾ vào.
PHONG ĐÔ ĐẠI ĐẾ đề chữ tên
Uổng Tử Thành vâng tấu lực nền
Cơ thần Ngũ Đạo nhân lai tác
Đại giác khuyến quân người vật chuyển.
ĐỨC THÁNH KHỔNG TỬ bất năng dịch
Tử rằng Phật nói Tử khả tích
Nghe thấu nghĩa chi KHỔNG TỬ cầu
HUỲNH LONG minh đạo MÂU NI THÍCH.
Vân vân đạt viễn NGỌC KINH THƠ
LỮ TỔ dựa bàn truyền chỉ đồ
Lời Thần Tiên Phật Tiên Thánh chỉ
THƯỢNG ĐẾ THÀNH HOÀNG soi xét vô.
Ngó thấy cơ tự đặng phước thầm
Tây Phương an bảo với lạc tâm
Khải phong nghiêm văn tấn sĩ minh
Liên trì ai cáo tả kinh văn
Phùng lư đương thủ lưỡng các tầng
Hoàng bổn tôn vi phục sơ kỳ
Cương xích bổ chỉ hạ linh quang.
Chín phẩm sen vàng khai thấy thật
Có duyên gặp TAM KỲ TIÊN PHẬT
Chiếu hiển vinh THIÊN tỏa HUYỀN cơ
MÂU NI NGỌC KINH truyền cửa bát.
HUYỀN sai ông LỮ cùng tạo ra
Bát nhã thuyền linh nước Ma Ha
NHƯ LAI VÔ THƯỢNG thậm thâm hiện
THIÊN giao Thái Pháp HUYỀN hộ ra.
DI LẠC, THIÊN QUAN ĐẠI ĐẾ Thần
THÍCH CA NHƯ LAI Thượng Ngươn Ba
THƯỢNG LÃO cảm ứng Phụ Thánh Truyền
VƯƠNG LINH THẦN HỎA THƯỢNG TƯỚNG QUÂN.
[Vương Linh Quan Thiên Quân là Thiên Lôi (Lôi Công, Linh Quan). Kinh Minh Thánh tả: "Kim tinh châu phát. Hiệu tam ngũ hỏa xa Lôi Công. Phụng chủy ngân nha. Thống bách vạn tỳ hưu thần tướng. Phi đằng vân vụ, hiệu lịnh lôi đình. Giáng vũ khai tình, khu tà trị bịnh." Dịch: Mắt vàng tóc đỏ. Hiệu là Lôi Công coi ba mươi lăm xe lửa. Miệng nhọn như mỏ chim phượng, răng bạc. Chỉ huy một trăm vạn thần tướng dũng mãnh. Lướt mây cưỡi mù, lịnh ban sấm sét. Tuôn mưa làm nắng, đuổi tà trị bịnh.]
NAM CỰC ĐẠI ĐẾ, MINH CHƠN ĐẾ
TRUNG ƯƠNG CỬU ĐIỂN HUYỀN MINH ĐẾ
DI ĐÀ QUANG NHỰT THIÊN TỬ liên
ĐÔNG HOÀNG ứng hóa hư tịnh huê.
Phân tư nan lái ngõ Phật Trời
DI ĐÀ chí tỏa giấc mơ cơi
Mở rộng nang cẩm Sơn Linh định
Vân du phong vạn tạm cảnh ngơi.
Bồng Lai cõi chuyến NHỊ tử THIÊN
HUYỀN khai cơ pháp lập Canh niên
LÔI ÂM PHẬT TỔ định cửa thiền
Một nang thuyền bước đến hoa liên.
THIÊN Ý trắc ẩn
THIÊN QUÂN vương lâm
Cõi Nam rộng mở
Non vô ảnh mới
Người thời bỉ thử
Thanh sử Ngươn Ba
Thì đọa luân khổ
Năm hồ thú lạ
Trẫm đà truyền trao
Thích Đạo, Tam Giáo
Cảnh nào cũng vậy
Xét thay dung đời
Khôn thời gì khó
Trăng lờ bị khổ
Tỉnh lo một tha
Muôn ngoa nên sửa
Vào tựa Phật y
Qui y Thích Đạo
Tam Giáo một lòng
Mới thông đường cả
Phải trả buổi này
Kim khai luân pháp
Đừng lấp nghe khuyên
Hoàng Tiên nêu mãi
Mười hai huyền hộ
Gần tỏ trước sau
Cửa lầu chói hiện
Lòng riêng mới gọi
Thấy cõi tục thân
Vương Quân chi hạ
Nói ra tai ương
Bồ Đề Ca Thích
Vân mịch tiên phong
Phẩm công luyện chính
Mãn kinh phục lôi
Ấy mới nương phép
Chẳng hẹp còn nghe
Hoàng phê bạch tự
Huyền phú nêu danh
Tam Thanh thấy PHẬT
DI LẠC NGỌC HOÀNG
TÂY BANG PHẬT TỔ
Điện đô Như Lai
DIÊU TÂY VƯƠNG MẪU.
Gió Tây lai thổi dứt điểm Canh
Một huê bông trổ trở cung thành
Sen mọc đâm chồi ai hướng lấy
Tạm điển thiên hành hướng liên thanh.
ĐÔNG HOÀNG ĐẠI ĐẾ
DIỆU TẾ CHƠN QUÂN
SỞ GIANG VƯƠNG KHẢI
ĐIỆN THÁI SƠN VƯƠNG
CHÂU TƯỚNG NHƠN THÁNH
ĐÔ THÀNH HOÀNG NAM
THÁI ÂM HOÀNG HẬU
Cung tấu DIÊU TRÌ
ĐIỆN NHỊ SỞ GIANG
ĐẾ QUÂN VĂN XƯƠNG
THÁI THƯỢNG NGUYÊN SOÁI
DINH ĐẠI LÔI TƯỚNG
THIÊN THƯỢNG HUYỀN KHÔNG
LƯ BỒNG CHƠN VÕ
LỮ TỔ THIÊN QUÂN
THÀNH HOÀNG ĐẠI ĐẾ
NGÔI BỆ HUYỀN THIÊN
THẤT ĐIỆN ĐÔNG NHẠC
HỘ PHÁP VI ĐÀ
ĐẠT MA SƯ TỔ
PHẬT TỔ THÍCH CA
DI ĐÀ giáng hạ.
Thập Hội Cửu Liên đáo hạn kỳ
NHIÊN ĐĂNG CỔ PHẬT hiện cửu vi
HUYỀN THIÊN THƯỢNG ĐẾ MINH CHƠN ĐẾ
THÍCH CA PHẬT TỔ di lập nghi.
Đêm thanh tịnh tiếng đàn hồi vọng
Bởi chơn đài ngày lẫn đêm mong
Cơ mầu máy tạo huyền thâm phép
Dứt điển TÔN CHƠN chuyện Tây Đông.
[tiếp theo 19/8/2020]
PHẨM HUYỀN THIÊN THƯỢNG TỪ ÂN KINH
Lý Thiên Tây Trúc bộ hoá ngôi
Khảo trần nhân loại cải cốt mới
ĐẠI THƯỢNG VẠN TUẾ ĐỨC tái sanh
Cung khấu DI ĐỨC ĐẾ HOÀNG hồi.
Một mối bước lên Thánh Tòa Liên
Qui căn nguyên dịch thủ như điền
Phàm tại cơ phong hữu cầu biết
Hiển hiển năng dĩ nhứt nhập thiền.
ĐỨC HUYỀN THIÊN THƯỢNG ĐẾ CAO MINH
NHÃN KINH NGỌC PHÁP TRUYỀN CHỈ THINH
Quân cơ Canh lực kinh biến kế
Xuất phát trục thâu tọa hạ đình
VI HUYỀN THIÊN THƯỢNG TỪ ÂN KINH
Giáng cơ giải gấp giác tánh mình
Trong ngoài biến dậy tư bề thế
Cõi thế trần na định giờ thình.
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ THỂ đáo lâm
NGỌC ĐẾ loan dư truyền đối tầm
THÁNH CHỦ THIÊN THƯỢNG thiên thượng hóa
NGỌC KINH HUYỀN THÂM PHI ĐÀNG TRẦN.
THIÊN QUAN ĐẠI ĐẾ thu nhiếp linh
Đừng mê đừng loạn tỉnh thức mình
Cho thiết cho tỉnh thân ta một
Thái Thượng Cao Vương ấn hiện thinh.
CHƠN VÕ HUYỀN THIÊN THƯỢNG ĐẾ KINH
Sắc mà không sắc ấn diệu linh
Cội rễ một khi tăm tối hiển
BAN PHÁP ĐẮC TRUYỀN NGỌC MINH KINH.
CHUẨN ĐỀ BỒ TÁT THÁI SƠN VƯƠNG
NAM ĐẨU BẢO THIÊN điểm trống đường
THÍCH CA NHƯ LAI thiện hướng đỉnh
LÔI ĐÌNH THIÊN QUÂN xuất chiếu đương.
QUAN THÁI TỬ kỳ quờn phùng lộ
QUAN ĐẾ giáng sanh thế sanh vô
NAM CỰC TIÊN ÔNG tọa điền xuất
DIỆU TẾ CHƠN QUÂN khả dĩ mô.
DIÊU TRÌ VƯƠNG MẪU Tây Thành hiển
Xuất nhập nhập xuất không tí xuyên
Vô hình xuất tỏa vô kỳ bảo
Sắc nhãn Thiên Cung cảnh lai duyên.
Tàn Canh hoảng khắp dựng bức tranh
Cơn nạn phát xô điều chẳng lành
Phụng chỉ THẾ TÔN ai lương thiện
Khai triển chí hầu một lòng thành.
LỮ TỔ giáng cơ ĐỨC ĐẾ toan
Bồ đề bất khả trí khôn ngoan
Chớp nhoáng đều không bền lâu đó
Dạy phép KHÔNG tâm đạo khắp trần.
Hoa sen trong lửa cơn nguy giới
Cuộc đớn đau nguy thời bầu linh
Muôn phương xao động điểm hình
Tam Kỳ mây rẽ phép linh Lạc Đồ.
Cửu Thiên tư coi sổ một kỳ
Năm Canh ngũ tư vị thần minh
Phụng khiếu loan ca thinh thinh
Gọt mài thấm dạ Ngọc Đình hòa âm.
Dương pháp kinh luật phạm lầm sai
ĐẾ MINH DIÊU HẬU mài thúc linh
Phục hồi bảo ấn giai đình
Lời kinh đạo rộng thinh thinh Tây Trào.
Bảy ngôi Chúa Thánh hậu lai di
Thế gian động càng thế gian suy
Tầm định thực diễn vạn kỳ như
NGỌC MINH kỷ sự trận đài kỳ.
Thời mạt hậu tu hiền ẩn đạm
Luật hiền trao ân phước đức lâm
Tam đàn điểm xích luật Thiên vi
Địa cơ sanh hóa nhữ khởi tầm.
Xuân Tây vô vĩ hoản mục công
LẠC DI qui bổ chủ mục đồng
Ngoại ngoại Tây Bắc Đông Nam đoái
Tam Kỳ Phổ Độ đến Hoa Long.
Cơ đạo trở lại thiếu tân toại
Xoay vận đất căn vĩ triêu lai
Hai bốn từ phổ châu đường giáo
Không thị tất thị khứ tư hài.
Đứng chờ khai đuốc đạo cả thành
Phong vân ngoại bả ứng chung thanh
Thời khắc giai sử từ vọng pháp
Phật Thánh Tiên Thần giữa niên Canh.
Vô vi vô thị không sạch lòng
Thông đạo lý lành thiện hữu công
Đồng thiện đồng thần khai thiên phước
Hóa đạo hóa nhơn đoái ân đồng.
Quản khuyến quản hành khuyên người phải
Tương thân tương mục phân việc giải
Bất khí bất dõng không phạm khiêm
Nghĩa thủ nhẫn đoan giảm mọi ngày.
MINH THÁNH QUANG ĐẾ DIỆU TẾ CHƠN
THÍCH CA NHƯ LAI CHUẨN ĐỀ hườn
TIÊN ÔNG NAM CỰC VĂN XƯƠNG ĐẾ
DIÊU TRÌ VƯƠNG MẪU khiết Tây Sơn.
Khuyên người noi đạo trọn ân
Công cha nghĩa mẹ mười phần trời cao
Chỉ nẻo giải việc cù lao
Thuận hòa yêu mến đạo vào lời ra
Khuyên người biết xét dung tha
Sang hèn giàu có dung hòa khuyên nhau
Không phân người trước kẻ sau
Tu thân nhẫn nhịn giúp nhau chung cùng
Khuyên người tu niệm yêu dùng
Bữa cơm bát nước rán dùng khó chi
Giàu sang một bữa chay thi
Lòng chay khó lắm khó chi miệng ngoài
Đời thong thả từ bi cảm ứng
Đảnh an cư nơi dựng mở mang
Nhắn những ai khuyên buổi canh tàn
Chịu cay đắng mới rằng canh cải
Ngươn Ba tuần hoàn xây dựng lại
Tu Đạo Tiên với ai quy giái
Buổi nghịch này trời đất vần xoay
Một phen khổ buổi này phải trả
Đời quá tệ đức tu cải họa
Cõi thế nhân đâu mà chi đức
Việc tu hành câu rằng tâm lực
Phải suy mùi đạo MỤC DIỆN LAI
HUYỀN CHUYỂN PHÁP MỚI chuyện huệ mài
Giảng thông tứ thế giai mùi đạo
Tâm mới hãn Như Lai cơ đáo
Sau là phải môn nào thường chuyển
Đừng gián đoạn hào quang chói hiển
PHỤC LÔI THIÊN XUỐNG BIỂN RỒNG KIA
Núi Linh San không đổi không lìa
Phải bồi đức thuyền kia sang rước
Người trăm năm này sóng cao trược
Nặng năm giây bọt nước chốc tan
Cõi bờ nay sóng bủa điêu tàn
Trải Lôi Âm cho rạng phải soi
Cầu chung đãi Lôi Âm mới tới
Biết giả chơn nên mười chưa đặng
Qua đời này lấy đó mà răn
Trời rộng mở sáu vạn thu dư
Kinh bạch tự chuông linh kêu giữ
Đờn không dây khải thử khó nghe
Tịch tịch tang vô phước không dè
Ngâm chỉ sợi ông vè thoái thoát
Kiếp duyên tàn Diêm Phù kiếp thác
Trống đại hùng khai mạt buồn xem
Oan duyên nặng quỹ cha tưởng liệm
Mắc nạn rồi linh kém phải toan
Chữ A DI lòng niệm tâm nhàn
Cửa bác nhã sen vàng thấy Phật
Chín phẩm khai bồng tháp Tiên Phật
Đây huyền cơ sên đất bồ đề.
Đàn kêu khổ ải mà qua
Tu hành cho rạng Long Hoa cửa lầu
Đàn kêu trần độc hang sâu
Tiếng đờn tai lóng nghe câu đạo mùi
Đàn kêu chớ cớ bước lui
Ngựa không bóng xước nằm chui sải bày
Đàn kêu phải trả buổi này
Một phen đời khổ lọc thải năm ba
Đàn kêu ách nạn gần xa
Phù huê ngắm cuộc phong ba hủy tàn
Đàn kêu bảy phần tan hoang
Lọc sàng sảy mãi rả tan vật người
Đàn kêu xét lại mà coi
Câu rằng bất phải hẳn hồi lộ ra
Đàn kêu hai bốn tiết đề
Chỉ mành căng rộng gần kề làm ngơ
Đàn kêu hờn một cội cờ
Tất thảo đồng thịnh nam mô bước vào
Đàn kêu phục xuất nan thao
Xương Kỳ khởi đáo cơ nào Lưu lai
Đàn kêu Càn vọng âm giai
Tốc kỳ tan hóa phản sai động Càn
Đàn kêu hai bãi bầu tan
Liên hoa sửa đổi hoa quang lượng kỳ
Đàn kêu vang dội nổi qui
Thất bề trần lụy đói kỳ phân ly
Đàn kêu tam lục chỉ cư
Tiết vào Thu lãm dụng từ sắc ân
Đàn kêu cấp thiểm thiêu tan
Cơn phong mây rẽ nạn trần loạn ly
Đàn kêu bể sắc chiếu vi
Tam Thiên thương xót trần ni cuộc nàn
Đàn kêu hồi cứ Linh San
Cửu Cung lâm giáng bảo toàn thế nhân
Đàn kêu ai trí khôn ngoan
Tiên Ông Nam Cực giáng đàng độ khai
Đàn kêu nguy kiếp trần hài
Tam Kỳ điên đảo mới hay tục trần
Đàn kêu Canh Ngọc [Đế] xa gần
Chúng dân biết sự điêu tàn lánh xa
Đàn kêu phổ độ hồi ba
Phong vân hữu tiết Thiên Tòa ngoại xuyên
Đàn kêu ba tiếng tiêu biền
Ngọc kỳ hành dễ tu hiền giác an
Đàn kêu ba sáu cung đàn
Dụng đàn khải tấu tam quan xử biền
Đàn kêu khấu thủ Thượng Thiên
Phong xuân khứ lộ ban yên phú thành
Đàn kêu nhân loại chúng sanh
Thiên Khai phước hữu quần sanh an nhàn
Đàn kêu đổi xác lập thoàn
Nhà Tiên liệu bước khai bàn qui căn
Đàn kêu hai tám giáo năm
Phàm tại ký nhựt hành ban Bửu Huỳnh
Đàn kêu vọng tiếng phen kinh
Biến hình chuyển xoáy thình lình chia phân
Đàn kêu xa chạy hóa thần
Kíp mau bước đến Phật ân hội này
Đàn kêu Nam Bắc Đông Tây
Thỉnh cầu Phật Đạo phước may sanh hườn.
QUAN ÂM BỐ TÁT giáng hạ đô
ĐẠI ĐẾ thập phương chiếu dụ cồ
QUAN ÂM ĐỨC pháp lòng thanh tịnh
Khuyên giải độ người niệm nam mô.
Tu hành bạt tiếng tiêu nạn khổ
Vâng chỉ THƯỢNG ĐẾ niệm nam mô
THƯỢNG ĐẾ phê chỉ rồi đây hiểu
Thuật lý thích mình biết sự vô.
TRỜI biết lòng nghe hiểu nhơn hình
Ngực ta năng sự vấn di binh
Thùy hóa Canh giáng tợ cách tiếng
Nhân cầu suy mãn phục lư đình.
Tháng Giêng DI LẠC thiên lạp trời [thiên lạp = mùng 1 tháng Giêng]
Phục lư ngoại tác hạ canh khôi
TÔN CHƠN NHƠN TỔ cấp hủy biến
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ phục khứ hồi.
GIANG ĐÔNG MÃNH TƯỚNG QUÂN nhữ huyễn
Vận cách tiêu suy ngộ cảnh Thiên
THIÊN QUAN ĐẠI ĐẾ hựu khánh ấn
Định chơn PHẬT OAI phong ký niên.
Trăng Hai THÁI THƯỢNG LÃO QUÂN ứng
Thánh phủ minh Chơn Đế thiết khung
THỦY LONG THÁNH MẪU NƯƠNG NƯƠNG cát
Khai sanh tử tôn TRƯỜNG CHƠN CUNG
QUAN ĐẾ VƯƠNG LINH QUAN THÁI ÚY
THÁNH MẪU HUYỀN ĐÀN TRUNG ƯƠNG KỲ
CHUẨN ĐỀ THƯỢNG LÃO ĐẠI THẾ CHÍ
Tăng phước THẦN TÀI THÁI TUẾ y.
DIÊU TRÌ TÂY VƯƠNG MẪU NƯƠNG NƯƠNG
Nửa cảnh không còn dập dìu ương
Hảo nguyệt phân tác lai như bất
Khấu thủ khấu thủ LÃO MẪU VƯƠNG.
HUYỀN THIÊN THƯỢNG ĐẾ TRUNG ƯƠNG ĐẾ
LÔI ĐÌNH NGŨ ĐẠO chương thiên đề
NHIÊN ĐĂNG CỔ PHẬT ĐÔNG HOÀNG TUẾ
NGŨ ĐẾ giáng hạ hội lập tề.
Phục thỉnh HOÀNG MINH TÔN
Giai biến khôn vô biến
Nhứt nhứt kiền cầu Phật
Thập đạo tất thị giai
Tánh khả mài thành Phật
Đại từ lực từ bi
Nhứt tâm trì kim bảo
Trực tánh hảo nhu hòa
Khéo giải đạo hạnh chơn
Ba pháp hườn sáng suốt
Thiện Thệ được đời này
Kiến Như Lai Đức Phật
Làm lành Phật pháp theo
Xa đời neo một kệ
Đạo Bồ Đề an lạc
Vóc sáng phát trí vô
Tiêu trừ khổ thường đói
Học nhiều giỏi đúng pháp
Thánh Đế lập khó ai
Mong rằng tài rộng lớn
Đạm bạc khôn ngoan hòa
Tựu Long Hoa hạnh phúc
Thiên giới thực hư không
Đẹp ý lòng cẩn thận.
Thiên cơ cửu phẩm trổi phụng cơ
NGŨ ĐẾ TAM HOÀNG chuyển sắp giờ
Bát Quái Đài hòa Đông Nam Bắc
Hòa chặt âm dương ĐẾ khai bờ.
Thiên Khai địa mở rõ tám mười
Càn khôn định cấu Long Hoa khôi
Thánh Phật Thần Tiên mười phương tỏa
Khởi ánh long diêu chín phẩm ngôi.
Ngày đêm thời khắc rõ tường âu
Mở ra tâm trí điển linh hầu
HOÀNG MẪU phóng quang chơn nguyên mở
Thánh Thần Tiên Phật giải bờ sâu.
Có duyên định lực MẸ dìu sang
An lạc hỉ xả hộ pháp gần
Muôn đường hoa nở mau cất bước
Tịnh thủy ma ha rải mát thân.
Vô hình rành dạy chuyển hóa linh
Ngày về đã hẹn hướng Thượng Đình
Thức tâm tinh tấn từ bi diệu
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ VÔ CỰC MINH.
DIÊU TRÌ HOÀNG MẪU tỏa diệu âm
Chín cõi trời hòa khí khai mầm
Lâm triều bát bửu vạn năng khiếu
Nhiệm ý Long Hoa triệu tiên tầm.
Chư Phật chư Thánh chư Tiên hiện
Trực kiến MẪU HOÀNG DIỆU HOA LIÊN
Ban vui cứu khổ thi hành hạnh
Bát nhã thuyền từ nay thời Thiên.
Tạo càn khôn phụng rồng hiển Thánh
Mở cõi đường LONG LẠC QUÂN sanh
ÂU CƠ phụng trổi đầy Tiên Thánh
Buổi hạ màn xoay chuyển Tam Thanh.
ĐỨC HỒNG QUÂN oai thinh khai giải
Tửu chung linh nhiều bận đổi thay
Chín hai ức số truyền mật ý
DI LẠC về Nam điểm đức tài.
Điển vô vi chơn tình hấp thụ
Muốn giao hòa phải lọc lý dư
MẪU án công hòa địa dưới trên
Nhứt tâm đảnh trí khởi lậu từ.
Nay danh sắc KIM TRÌ HOÀNG MẪU
Hạ đáo trần tụ đỉnh một bầu
Mở lục hòa hô hấp ngoài trong
Nguyên chơn tử chớ ngại thủ khấu.
THẦY ĐÂY MỞ ĐẠO KỲ BA
Trò trung phụng tá giác tha đưa người
Thầy đây năng tại vị thời
Trò từ lộng chữ vọng nơi cơ hàn
Thầy đây phút cuối rạng tầm
Trò vai hiển thị trí thâm tái kỳ
Thầy đây tạm xác thế ni
Trò qua cơ thấu từ bi lực cầu
Thầy đây tầm rõ quán sâu
Trò hành thiên lịnh đối đầu nghiệp thân
Thầy đây xoay thấu khắp đàng
Trò thiện tín hiệp chẳng màng khổ nhơn
Thầy đây vô khóa Thánh quờn
Trò học nhơn thiện xác ngươn thoát đời
Thầy đây hiện ẩn chí bồi
Trò cùng trì bảo biết hồi tỉnh tu
Thầy đây thay lực vô từ
Trò công tâm sách xuất từ mệnh Thiên
Thầy đây khấu chỉ khai truyền
Trò về Thiên cửa ức nguyên phục hồi.
Mê tâm loạn tánh ngạ quỷ gần
Từ bi nhẫn nhục bỏ tham sân
Gieo tình thương giúp người giúp bạn
Đoạn ly trần CHÂN MỸ THIỆN căn.
Điểm hóa khai quang nhãn tinh tường
Ngưỡng tòa ĐẠI ĐẠO lộng lầu chương
Rõ trong vô ảnh chiêm bao đẹp
Có đủ hay chưa giấc ngũ trường.
LINH SƠN TỔ MẪU mở trí hùng
Long Hoa sáng rực phụng xòe ân
Ngất ngây điển lành đất Kim Trì
LỤC CUNG THÁNH MẪU trấn bảo an.
Kho tàng NGỌC lộ đuốc mà soi
Nay trần muôn cảnh lạc tâm người
Chớ mong vọng tưởng tên lừng lẫy
Tám chữ vàng chân điển khí trời.
Tạm tiếng hồi lâm giá khung khâu
Cung Trì hườn phản nguyên giáo đầu
Ngọc Khung bàn cũ lui tạm thế
Thống lược cờ đồ hiển khương bầu.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét