Thứ Hai, 29 tháng 1, 2018

Bài Thài Hội Yến Diêu Trì Cung





HỘI YẾN DIÊU TRÌ CUNG

và giảng nghĩa 10 bài thài





Hội Yến là một tiệc rượu long trọng để đãi các vị khách quí. Hội Yến Diêu Trì Cung là tiệc long trọng của các tín đồ Cao Đài đãi Đức Phật Mẫu và Cửu vị Tiên Nương.



Hằng năm, vào đêm rằm Trung Thu (15 tháng 8 âm lịch), tại Báo Ân Từ, Đền Thờ tạm Đức Phật Mẫu trong Nội Ô Tòa Thánh Tây Ninh, Hội Thánh có tổ chức một buổi lễ long trọng gọi là Hội Yến Diêu Trì Cung, trong đó có buổi tiệc dâng Tam Bửu : Hoa Quả, Rượu, Trà lên Đức Phật Mẫu và Cửu vị Tiên Nương.



I. Gốc tích Lễ Hội Yến Diêu Trì Cung

Cuộc Lễ Hội Yến Diêu Trì Cung được tổ chức theo sự tích có từ năm Ất Sửu (1925), khi chưa Khai Đạo. Đức Chí Tôn lúc đó còn ẩn danh, chỉ xưng là Đấng A Ă Â, dạy 3 ông : Cao quỳnh Cư, Phạm công Tắc, Cao hoài Sang, làm một cái tiệc chay đãi 10 Đấng Vô hình ở Diêu Trì Cung là : Đức Phật Mẫu và Cửu vị Tiên Nương.



SỰ TÍCH ấy như sau:



Nguyên vào thượng tuần tháng 8 âm lịch năm Ất Sửu (1925), 3 ông Cư, Tắc, Sang được Thất Nương tiết lộ cho biết chút ít về Diêu Trì Cung ở từng Trời Tạo Hóa Thiên nơi cõi thiêng liêng : Trên hết có Cửu Thiên Nương Nương cai quản, dưới có Cửu vị Tiên Nương phụ tá, mà Cô đứng hàng thứ 7, gọi là Thất Nương, Hớn Liên Bạch là Bát Nương, vv ... Ba ông xin Cô cho biết cách cầu Cửu Thiên Nương Nương.



Thất Nương bảo : Ba Anh muốn cầu Nương Nương thì phải ăn chay trước 3 ngày và tìm cho đặng Ngọc cơ thì cầu Lịnh Bà mới được. Ba ông không biết Ngọc cơ là chi. Cô mới mô tả Ngọc cơ, giải thích rõ căn cội buổi xưa lấy hình dạng chùm sao Bắc đẩu mà tạo thành, lại dạy cho cách phò cơ. Thất Nương cũng dặn mỗi vị làm sẵn một bài thơ đón mừng Cửu Thiên Nương Nương.



Ba ông không biết tìm Ngọc cơ ở đâu, nhưng như có linh tính xúi giục, ông Cư qua nhà một người bạn lối xóm là ông Phán Tý hỏi thăm. Ông Tý liền cho biết ông có một cây Ngọc cơ hiện đang cho ông Âu Kích Chùa Tam Tông Miếu mượn, để ông lấy về cho ông Cư mượn mà cầu các Đấng, chớ lối Xây bàn của ông Cư đang áp dụng, tiếp nhận được một bài văn của các Đấng thì tốn nhiều thì giờ quá. Ba ông rất mừng rỡ, chuẩn bị ăn chay cho đủ 3 ngày để cầu Cửu Thiên Nương Nương vào ngày Trung Thu sắp tới.



Đêm ấy có Đấng A Ă Â giáng bàn, bảo 3 Ông nhơn dịp đó mà làm một cái tiệc chay để đãi 10 Đấng Vô hình nơi Diêu Trì Cung là : Cửu Thiên Nương Nương và 9 vị Tiên Nương. Đấng A Ă Â còn dạy cách sắp đặt bàn ghế và trang hoàng nhà cửa. Ông Cao Huệ Chương, con của Ngài Bảo Văn Pháp Quân Cao quỳnh Diêu, thuở ấy còn là thanh niên, có theo Ngài Diêu và Ngài Cư để xây bàn. (Ông Cao Huệ Chương gọi ông Cư là Chú Tư, gọi ông Tắc là Chú Tám, gọi ông Sang là Anh Sang). Ông Huệ Chương có tham dự vào việc chưng dọn và đứng hầu trong buổi lễ ấy, thuật lại trong quyển sách "Đại Đạo Truy Nguyên", chép ra sau đây :



" Qua đến ngày thứ ba, là buổi hẹn hò, lại nhằm tiết Trung Thu, đúng đêm 14 rạng mặt 15 tháng 8, ngoài trời thì trăng thanh gió mát, trong nhà Chú Tư tôi lại dọn dẹp trang hoàng, xem vào có vẻ tinh khiết lắm. Đúng giờ Tý, cả thảy đều đủ mặt, tôi thấy Chú Tư tôi đã sắp đặt dọn bàn dài, rải bông lá xung quanh, phía trong bàn, ngay chính giữa, để một bộ đồ trà, còn 9 vị Tiên Cô, mỗi người một cái tách , sắp vòng theo bàn, hàng giữa dọn những trái cây tươi tốt, ngó vào rất lịch sự, tựa hình như đãi tiệc, vì chung quanh có để 9 cái ghế mây.



Cuộc cúng nầy, mấy ổng gọi là Phó Yến Diêu Trì, đến ngày nay hãy còn noi dấu lễ kỷ niệm nầy. Đoạn Chú Tư tôi đốt hương đèn lên, cả thảy đều quì lạy khấn vái, rồi đem Ngọc cơ ra cầu. Thật quả có Lịnh Cửu Thiên Nương Nương đến, và đủ 9 vị Tiên Cô, mỗi vị đều có giáng cơ chào mừng mấy ổng. Khi ấy, Thất Nương xin 3 ông đờn, rồi mỗi người ngâm bài thi của mình làm đặng hiến lễ, còn Lịnh Bà và Cửu Cô an vị mà nghe.



Chừng nhập tiệc, Thất Nương lại mời 3 ông ngồi chung vào cho vui. Cũng tội nghiệp cho mấy ổng, vì e thất lễ, nên không dám ngồi, rốt việc vì ép uổng quá, mấy ổng liệu thế khó chối từ, mới đem thêm 3 cái ghế sắp sau lưng 9 cái ghế nọ, ba ông xá rồi ngồi xuống. Tôi dòm thấy mấy ổng, cũng bắt tức cười, nhưng không dám nhích mép, cứ đứng khoanh tay hầu mà thôi. Cách chừng nửa giờ, Chú Tư tôi lại tái cầu. Lịnh Nương Nương và 9 vị Tiên Cô để lời cảm tạ chẳng cùng, lại hứa rằng : " Từ đây đã có Ngọc cơ rồi thì tiện cho Diêu Trì Cung Cửu Cô đến dạy việc." Đêm ấy, mấy ổng thức tới 3 giờ khuya mới nghỉ.".



Đức Phạm Hộ Pháp, trong buổi thuyết đạo tại Đền Thánh ngày 15-8-Kỷ Sửu [dl 6-10-1949] cũng có thuật lại buổi đó như sau : " Tuy buổi ban sơ mà dường như khối óc đã thâm nhiễm nhiều rồi, nên Đức Chí Tôn mới ra lịnh biểu làm một cái tiệc. Ngài dạy sắp đặt cái tiệc ấy để đãi 10 Đấng Vô hình : Đức Phật Mẫu và Cửu vị Tiên Nương.



Phần hữu hình có 3 người (Thượng Sanh, Thượng Phẩm và Hộ Pháp). Sắp đặt tiệc ấy do tay Bà Nữ Chánh Phối Sư Hương Hiếu, vâng mạng lịnh tạo thành một cái tiệc, trên là bàn thờ Đức Phật Mẫu, ở dưới sắp 9 cái ghế như có người ngồi vậy. Chén đủa, muỗng dĩa, bất kỳ cái gì cũng giống như đãi người hữu hình vậy, duy có 3 người xác thịt là Thượng Sanh, Thượng Phẩm, Hộ Pháp. Bần đạo mới hỏi, tiệc nầy là tiệc gì ? Ngài nói là : - Hội Yến Diêu Trì.



Bần đạo nghe nói vậy thì hay vậy chớ không biết giá trị Hội Yến là gì cả. Nghĩ chắc cũng có ảnh hưởng gì cần yếu đến tương lai của Đạo mà vâng lịnh thôi, chớ không hiểu nghĩa lý cho cùng cạn hết. Ba người sống đồng ngồi ăn, còn Bà Chánh Phối Sư Hương Hiếu gắp đồ ăn để vào chén cho 9 vị và trên bàn thờ cho Đức Phật Mẫu cũng như người sống vậy. Chừng Hội Yến Diêu Trì rồi, các Đấng Thiêng liêng từ giã (thăng), kế Đức Chí Tôn đến nhập cơ. Thượng Phẩm và Bần đạo tọc mạch hỏi :


- Khi nãy Diêu Trì Cung đến, có Ngài đến ở đó không?

Đức Chí Tôn trả lời :

- Có chớ, Ta ở đây từ khi ban sơ tới giờ.

- Ngài có thấy Diêu Trì Cung đến không ?

- Có chứ, chính mình Ta tiếp đãi.

Cao Thượng Phẩm hỏi :

- Diêu Trì Cung ngó thấy Ngài không ?

- Không ngó thấy.

Cao Thượng Phẩm hỏi : - Sao vậy ?

Ngài trả lời : - Ta dùng phép ẩn thân.

Bần đạo tọc mạch hỏi tiếp :

- Như đứa em của tôi là Thất Nương Diêu Trì Cung có thể đạt Đạo đặng

- Đạt đặng chớ.

Cao Thượng Phẩm hỏi : - Phải làm sao ?

Ngài đáp :

- Phải tu, bằng không tu thì chẳng đạt đặng.

Bần đạo hỏi :

- Tu chừng bao lâu mới đạt đặng ?

Cái đó Ngài làm thinh. Bần đạo hỏi 1 năm, 5 năm, một ngàn năm, mười ngàn năm, một trăm ngàn năm, Ngài cũng làm thinh, rồi thôi không hơi sức nào hỏi nữa, không biết chừng nào mới đạt đặng, nghe vậy hay vậy. Các vị Nữ phái rán nhớ, Bần đạo đã giải nghĩa Hội Yến Diêu Trì là gì rồi đó."



Như trên đã trình bày, sau khi đãi tiệc Hội Yến Diêu Trì xong, Đức Phật Mẫu và Cửu vị Tiên Nương giáng cơ cám ơn 3 ông : Tắc (Đức Hộ Pháp), Cư (Đức thượng Phẩm), Sang (Đức Thượng Sanh), và sau đó mỗi vị cho một bài thi 4 câu để làm kỷ niệm buổi Hội Yến đầu tiên ấy. Xin chép 10 bài thi ấy ra sau đây :


CỬU THIÊN NƯƠNG NƯƠNG

Cửu kiếp Hiên Viên thọ sắc Thiên,

Thiên Thiên Cửu phẩm đắc cao huyền.

Huyền hư tác thế Thần Tiên Nữ,

Nư õ hảo thiện căn đoạt Cửu Thiên.



NHỨT NƯƠNG :

HOA thu ủ như màu thẹn nguyệt,

Giữa thu ba e tuyết đông về.

Non sông trải cánh Tiên lòe,

Mượn câu thi hứng vui đề chào nhau.



NHỊ NƯƠNG :

CẨM tú văn chương hà khách đạo ?

Thi Thần tửu Thánh vấn thùy nhân ?

Tuy mang lấy tiếng hồng quần,

Cảnh Tiên còn mến, cõi trần anh thư.



TAM NƯƠNG :

TUYẾN đức năng thành đạo,

Quảng trí đắc cao huyền.

Biển mê lắt lẻo con thuyền,

Chở che khách tục, Cửu tuyền ngăn sông.



TỨ NƯƠNG :

GẤM lót ngõ chưa vừa gót ngọc,

Vàng treo nhà ít học không ưa.

Đợi trông nho sĩ tài vừa,

Đằng giao khởi phụng khó ngừa Tiên thi.



NGŨ NƯƠNG :

LIỄU yểu điệu còn ghen nét đẹp,

Tuyết trong ngần khó phép so thân.

Hiu hiu nhẹ gót phong trần,

Đài sen mấy lượt gió thần đưa hương.



LỤC NƯƠNG :

HUỆ ngào ngạt đưa hơi vò dịu,

Đứng tài ba chẳng thiếu tư phong.

Nương mây như thả cánh hồng,

Tiêu Diêu phất phướn, cõi tòng đưa Tiên.



THẤT NƯƠNG :

LỄ bái thường hành tâm đạo khởi,

Nhân từ tái thế tử vô ưu.

Ngày xuân gọi thế hảo cừu,

Trăm duyên phước tục khó bù buồn Tiên.



BÁT NƯƠNG :

HỒ HỚN HOA SEN TRẮNG nở ngày,

Càng gần hơi đẹp lại càng say.

Trêu trăng hằng thói dấu mày,

Cợt mây tranh chức Phật đài thêm hoa.



CỬU NƯƠNG :

KHIẾT sạch duyên trần vẹn giữ,

Bạc Liêu ngôi cũ còn lời.

Chính chuyên buồn chẳng trọn đời, Thương người noi Đạo, Phật Trời cũng thương

II. Bí Pháp Hội Yến Diêu Trì Cung

Bí Pháp của Hội Yến Diêu Trì Cung được Đức Phạm Hộ Pháp giảng giải nhiều lần trong các Bài Thuyết đạo, xin lần lượt chép ra sau đây, theo thứ tự thời gian :



- Ngày 30-1-Đinh Hợi ( dl 20-2-1947) : " Hội Yến Diêu Trì là cơ quan đắc đạo tại thế. Đức Diêu Trì Kim Mẫu cùng Cửu vị Nữ Phật đã giáng trần hội yến với chư Chức sắc, xướng họa thi phú và dạy Đạo. Ấy là Hội chư Tiên tại thế. Đức Chí Tôn thuộc về Phật, Đức Diêu Trì Kim Mẫu thuộc về Pháp. Nếu có Đức Chí Tôn mà không có Đức Diêu Trì Kim Mẫu thì trong vũ trụ nầy không có chi về mặt hữu vi, còn Nhơn loại là Tăng.



Ta nhìn có Đức Chí Tôn khai hóa, nhưng cơ sanh hóa Càn khôn cũng như cơ sản xuất nhơn loại tại thế do nơi Âm Dương tương hiệp mới phát khởi vạn vật, cho nên con người gọi Đức Chí Tôn và Đức Diêu Trì Kim Mẫu là 2 Đấng Đại Từ Phụ và Đại Từ Mẫu, và con người là Tiểu Thiên Địa."



- Tại Đền Thánh, ngày 15-8-Kỷ Sửu (dl 6-10-1949) : " Hôm nay là ngày Kỷ niệm Bí Pháp Hội Yến Diêu Trì, Đức Chí Tôn đã lập trong nền Chơn giáo của Ngài. Bần đạo thừa dịp nên thuyết minh cho toàn cả con cái Đức Chí Tôn hiểu rõ cái huyền vi bí mật ấy, bởi có ảnh hưởng với cơ quan đạt đạo của chúng ta tại mặt thế nầy. Hơn nữa, Bần đạo có phương tiện tỏ ra một đức tin dị thường nơi một Đấng yêu ái, một Đấng tạo Càn khôn Vũ trụ, Đấng tự hữu hằng hữu, Đấng quyền năng vô tận vô biên, cốt để cho con cái của Ngài thấu đáo cái thâm tình của Ngài đối vơi ta và ta đối với Ngài dường nào.



Toàn thể Thánh thể của Đức Chí Tôn là con cái của Ngài rán để ý cho lắm. Từ khi Đạo bị bế, Ngọc Hư Cung bác luật, Cực Lạc Thế giới thì đóng cửa, nên chúng sanh toàn cả Càn khôn Vũ trụ có tu mà thành rất ít, bởi phương pháp khó khăn lắm, muốn đạt pháp thì không phải dễ.



Cổ pháp định cho các chơn hồn về nơi Diêu Trì Cung hưởng được Hội Yến Bàn Đào, tức nhiên hưởng được Hội Yến Diêu Trì , ăn được quả Đào Tiên, uống được Tiên tửu, mới nhập vô cảnh Thiêng liêng Hằng sống gọi là Nhập Tịch. Ôi thôi ! Từ thử đến giờ có ai đặng hưởng, nếu có đặng hưởng thì cũng một phần rất ít. Giờ phút nầy, Đức Chí Tôn quyết định tận độ con cái của Ngài, thay vì Bí Pháp ấy độ con cái của Ngài về nơi Kim Bàn Phật Mẫu đặng hưởng đặc ân thiêng liêng của Đức Chí Tôn. Đức Chí Tôn buộc Phật Mẫu phải đến tại thế gian nầy để Bí Pháp Hội Yến Diêu Trì tại cửa Đạo nầy cho con cái của Ngài giải thoát. Aáy la ø Bí Pháp Thiêng liêng, duy có tay Ngài ( Đức Chí Tôn ) định pháp ấy mới đặng.



Hôm nay là ngày Đức Phật Mẫu đem Bí Pháp đặng giải thoát chúng sanh, tận độ toàn Vạn linh sanh chúng. Ngài để tại mặt thế nầy trong cửa Đạo nầy mà thôi. Hôm nay, ngày Lễ của Ngài mà cũng là ngày trọng hệ trong cửa Đạo, xin toàn cả con cái của Ngài nhớ và để nơi tâm mình . Bởi thế, năm nào Bần đạo cũng để ý Lễ của Ngài hơn hết, từ tạo Thiên lập Địa đến giờ, chưa có ai hưởng được thời kỳ nầy. Ngài đến tại mặt Địa cầu 68 nầy đặng tận độ con cái của Ngài. Chúng ta phải chiêm ngưỡng ơn vô biên vô tận của Ngài. Chúng ta phải chiêm nghiệm lễ nầy để làm mật niệm cám ơn Đức Chí Tôn và Đức Phật Mẫu. Ấy là Bí Pháp của chúng ta đó vậy."



- Tại Cửu Long Đài, chiều ngày 15-8-Tân Mão (dl 15-9-1951) : " Đức Chí Tôn giao cho Đức Phật Mẫu cơ quan siêu thoát, phải làm thế nào đặng tận độ 92 ức nguyên nhân trở về cựu vị.

Muốn đạt đặng Bí pháp siêu thoát ấy, chúng ta ngó thấy Đức Phật Mẫu đã làm gì ? Đức Chí Tôn giao cho Đức Phật Mẫu nắm quyền hành để rước hết những chơn hồn khi đã đạt pháp, tức nhiên đạt cơ siêu thoát, lập vị mình đặng vào cái địa vị thiêng liêng, đạt đặng thì phải về Hội Yến cùng Đức Phật Mẫu.

Lễ Hội Yến Diêu Trì Cung, mà người ta gọi là Hội, nhưng thật ra chúng ta về hội hiệp vui cùng MẸ SANH của chúng ta đó vậy.



Đạo pháp gọi là Hội Yến Diêu Trì , tức nhiên chúng ta đã đạt đặng cơ siêu thoát nơi cõi Thiêng liêng Hằng sống kia. Chưa biết, nếu chúng ta không tu thì con đường ấy là gì mà chớ ? Chính mình Đức Chí Tôn biểu Đức Phật Mẫu, tức nhiên Mẹ Sanh của chúng ta, cầm cả quyền năng giải thoát trong tay, đến lập Hội Yến Diêu Trì tại mặt thế nầy cho cả con cái của Ngài, nhứt là 92 ức nguyên nhân ấy, nếu nhập vào cửa Đạo, tùng theo Chơn pháp thì đặng hồng ân của Đức Chí Tôn cho hưởng Bí pháp Hội Yến Diêu Trì tại thế nầy.



Cái cơ siêu thoát thiên hạ đã đặt trong tay họ sẵn, tức nhiên giờ phút cuối cùng nầy là giờ phút hứng thú, giờ phút chết của họ, thì họ đạt vị một cách dễ dàng, ngôi vị mà cơ quan siêu thoát của Đức Chí Tôn đã cho không họ đó vậy. Nhờ đó mà cơ quan tận độ Vạn linh của Đức Chí Tôn đã lập tại thế nầy, từ đây sẽ mở rộng cửa Thiêng liêng Hằng sống, đặng đến gom góp cả con cái của Ngài trở về hiệp một cùng Ngài. Bí pháp Hội Yến Diêu Trì là vậy đó."



- Cửu Long Đài, chiều ngày 15-8-Nhâm Thìn (dl 3-10-1952) :

Hôm nay là ngày chúng ta hội hiệp cùng Đức Diêu Trì Kim Mẫu, Bần đạo nhớ lại lúc ban sơ, Đức Chí Tôn mới đến mở Đạo, Ngài làm một Bí pháp từ thử đến giờ chưa ai tưởng đến. Ngài ra lịnh lập một cái tiệc rất trọng hậu, chay chớ không phải mặn như ngoài đời, lấy trong số 13 người chúng ta, kể : Cửu vị Nữ Phật và Đức Phật Mẫu, với 3 người sống, tức nhiên 3 người hữu hình và 10 người vô hình, dự tiệc ấy. Ba người hữu hình là Đức Cao Thượng Phẩm, Đức Cao Thượng Sanh và Bần đạo. Tưởng không có cái ngộ nghĩnh nào hơn là ngồi ăn uống với những vị khuất mặt. Buổi nọ, Bần đạo chưa có đức tin, thấy một cái đó là việc nghịch nhứt, nhưng khi vào ngồi tiệc rồi, không biết cái tinh thần nó thay đổi thế nào, chẳng khác gì như chúng ta dự một tiệc trọng hậu, có mặt đủ các bạn ngồi chung quanh chúng ta đó vậy.



Đức Chí Tôn thi hành Bí pháp ấy, buổi nọ chúng tôi không hiểu gì hết, Bần đạo cũng tìm tòi kiếm nghĩa lý. Có lẽ những người đoạt được cơ siêu thoát , tức nhiên tầm được cái huyền bí giải thoát cho mình, thì có đặc ân thiêng liêng ban cho Bàn Đào Hội Yến, tức nhiên là Hội Yến Diêu Trì .



Cái nghĩa lý sâu xa ấy, chúng ta thử để dấu hỏi, tại sao Đức Chí Tôn đã đến bảo chúng ta Hội Yến Diêu Trì . Ngài muốn gì đó ? Muốn cho toàn cả con cái của Ngài, chớ không phải với 3 người đó mà thôi. Đoạt cơ siêu thoát, tức nhiên ta nói thường ngữ của chúng ta là muốn cho toàn thể con cái của Ngài đoạt đặng cơ siêu thoát đó vậy. Vì cớ cho nên, hôm rồi Bần đạo có nói một câu rất chánh đáng : "Xưa kia, con người đi tìm Đạo, còn hôm nay, trái lại, Đạo đến tìm người." Ôi ! Nếu ta tưởng cái ân hậu vô biên của Đức Chí Tôn đã thi thố, thì chúng ta hạnh phúc không thế gì có ngôn ngữ nào mà tả cho đặng. Thật ra hôm nay chúng ta hội hiệp cùng nhau đây, nó sẽ trở thành một tương lai, cũng như bên Thánh giáo Gia Tô, tức nhiên là Công giáo, họ có phương thông công cùng Đức Chí Tôn đó vậy. Hạnh phúc thay cho những người đặng Hội Yến Diêu Trì hôm nay, tức nhiên đặng hồng phúc hội hiệp cùng Bà MẸ Thiêng liêng của chúng ta, lẽ dĩ nhiên được mang sứ mạng thiêng liêng nơi mình, cả toàn con cái của Đức Chí Tôn cũng thế, Nam cũng thế, Nữ cũng thế, kẻ Đông người Tây, kẻ Nam người Bắc, đem cả cơ bí mật thiêng liêng của Đức Chí Tôn là lòng yêu ái của Ngài mà rải khắp cho toàn thể con cái của Ngài đều hưởng.



Mỗi một năm, chúng ta được hưởng cái hạnh phúc hội hiệp cùng nhau, chính mình Bần đạo mỗi khi Hội Yến Diêu Trì được sum hiệp cùng mấy em Nam Nữ đông đảo chừng nào thì Bần đạo càng thêm vui mừng hân hạnh chừng ấy. Bần đạo có nhớ một tích xưa : Một bà mẹ có nhiều con, rồi họ xúm lại với nhau thay phiên đặng nuôi mẹ.



Hễ khi anh cả nuôi rồi thì cân được bao nhiêu, tới phiên em thứ nuôi, rồi cân phải hơn hay là như số đó mới đặng. Nhưng trong đám con ấy, rủi thay có một đứa nghèo mà đứa nghèo ấy lại được bà mẹ yêu ái binh vực hơn, phần nghèo khó có phương chi nuôi mẹ cho đầy đủ được, nên hễ tới phiên người con nghèo ấy thì bà mẹ ốm o gầy mòn, vì ăn không đủ thì thế nào cũng ốm. Bây giờ đến ngày cân, thì bà mẹ phải làm sao ? Bà lận lưng thêm mấy cục chì cho nặng thêm, không thì tội nghiệp cho đứa con nghèo ấy.

Cho nên lời tục họ gọi là : "Bà mẹ thương con phải bù chì." là lẽ ấy.



Bà MẸ thiêng liêng của chúng ta cũng vậy. Bần đạo tưởng nơi cõi Thiêng liêng Hằng sống kia, không ai bảo vệ binh vực cả linh hồn chúng ta hơn Bà MẸ thiêng liêng ấy. Mỗi phen chúng ta hội hiệp cùng Người mỗi năm một lần, thử thí nghiệm coi, cả con cái của Ngài khi về thì sẽ đặng an ủi và có cái vui hứng làm sao đâu ! Không biết mấy em Nam Nữ có cái cảnh tượng đó hay chăng ? Chớ Bần đạo mỗi phen được Hội Yến Diêu Trì, làm như Bần đạo uống một chén thuốc bổ. Tinh thần Bần đạo vui hứng, mạnh mẽ tráng kiện làm sao đâu ! Có phải là cái huyền diệu ấy duy để cho cả con cái, Chức sắc Thiên phong, những người lãnh sứ mạng cao trọng trong Đạo hay cả cả toàn thể con cái của Đức Chí Tôn đều hưởng được ? Bần đạo dám quả quyết nơi Đền Thờ của Đại Từ Mẫu của chúng ta, Bà không kể con cái sang trọng của Bà đâu, trái ngược lại, Bà lại thương yêu binh vực những đứa con nào nó thiệt thà hèn yếu hơn hết. Ấy vậy, Qua nói rằng : Trong cả mấy em đây, nếu có đứa em nào thiếu thốn cả tinh thần và vật chất, thiệt thòi nghèo khổ, tật nguyền, Qua dám chắc Bà MẸ thiêng liêng của chúng ta sẽ vui ở với những kẻ ấy lắm vậy.



Qua chỉ cho mấy em một cái Bí pháp là khi nào mấy em quá thống khổ, quá đau đớn tâm hồn, mấy em đừng vội sầu thảm, các em quì xuống giữa không trung, các em nguyện với Bà MẸ thiêng liêng ấy một lời cầu nguyện, Bần đạo quả quyết rằng : Bà chẳng hề khi nào từ chối cùng mấy em. Bần đạo đã thử nghiệm rồi. Cả toàn con cái của Đức Phật Mẫu thí nghiệm như Bần đạo thử coi.



Trong cảnh đồ lưu nơi hải ngoại, cái chết dựa bên lưng. Qua thấy cả hiện tượng Bà ở bên ta đó vậy. Cái hiển hách anh linh của Bà, Qua đã quả quyết rằng, từ thử đến giờ chưa có trong cửa Đạo nào hưởng được. Mấy em thí nghiệm coi rồi để tâm cả thảy. Nếu muốn cho Bà thương yêu, mình có cái Bí pháp hay ho hơn hết là mấy em thương yêu những kẻ tật nguyền, đau khổ, ngu hèn, khốn mạt. Mấy em thử nghiệm lấy cái huyền linh của Bà. Bần đạo cầu chúc ân huệ thiêng liêng của Bà chan rưới bủa khắp toàn thể con cái của Đức Chí Tôn, Nam cũng vậy, Nữ cũng vậy, nhứt là mấy đứa thơ sinh, mấy đứa trẻ nhỏ côi cút. " Tóm lại, Bí pháp của Hội Yến Diêu Trì Cung là Đức Chí Tôn đem cơ quan giải thoát xuống thế đặt trong cửa Đạo Cao Đài để toàn thể các tín đồ được hưởng. Theo Cổ luật thì, người tu một khi đắc đạo, Chơn hồn được lên Diêu Trì Cung dự Hội Yến Bàn Đào, được Đức Phật Mẫu ban cho ăn trái Đào Tiên và uống Tiên tửu. Ngày nay, thời Tam Kỳ Phổ Độ, Đức Phật Mẫu và Cửu vị Tiên Nương vâng lịnh Đức Chí Tôn giáng xuống phàm trần, mở tiệc Hội Yến Diêu Trì Cung tại Đền thờ Phật Mẫu để toàn cả con cái của Đức Chí Tôn và Đức Phật Mẫu về hội hiệp cùng Đức MẸ thiêng liêng, dâng Hoa Quả, Rượu, Trà lên Đức MẸ, và Đức MẸ sẽ ban tặng lại cho con cái của Ngài, để con cái gội hưởng hồng ân của Đức Phật Mẫu, làm cho tâm Đạo phấn chấn thêm lên, làm động cơ thúc đẩy con cái mau tiến hóa trên bước đường tu niệm, sớm trở về hội hiệp cùng Phật Mẫu. Mà một khi được hội hiệp cùng Đức Phật Mẫu thì tức nhiên là đắc đạo, giải thoát khỏi luân hồi. Đó là Bí pháp của Hội Yến Diêu Trì Cung.



III. Nghi thức Hội Yến DTC tại Báo Ân Từ



Hằng năm nhằm ngày Trung Thu (15 tháng 8 âl), tại Báo Ân Từ Tòa Thánh Tây Ninh, Hội Thánh đều có thiết Lễ Hội Yến Diêu Trì Cung. Ở hai bên hông và phía trước Báo Ân Từ, Hội Thánh dựng lên các dãy nhà triển lãm, giao cho mỗi đơn vị cơ quan của Đạo một căn để chưng triển lãm mừng Lễ Hội Yến DTC. Ban Tổ chức của Hội Thánh có chấm thưởng đơn vị nào chưng bày đẹp nhứt và có ý nghĩa nhứt.



* Ngày 15 tháng 8 âm lịch cũng là ngày Đại lễ Đức Phật Mẫu theo sự tích Hớn Rước Diêu Trì, nên Hội Thánh có cúng Đại Đàn Đức Phật Mẫu tại Báo Ân Từ, có tổ chức làm các Cộ bông rất đẹp, nhiều ý nghĩa, đi biểu diễn qua các con đường trong Nội Ô, có múa Long Mã và múa Tứ Linh gồm Ngọc Kỳ Lân, Rồng nhan, Phụng và Qui. Trong các Cộ bông nầy, luôn luôn phải có một Cộ bông hình Đức Phật Mẫu và Cửu vị Tiên Nương dẫn đầu.



Các điệu múa của Long Mã, Ngọc Kỳ Lân, Rồng nhan, Qui và Phụng đều rất đặc sắc, mang nét độc đáo của Đạo Cao Đài mà không có ở bất cứ nơi nào khác.



* Ngày 15 tháng 8 âl cũng được chọn là ngày Lễ Hội của Phụ nữ Cao Đài, nên trong ngày nầy có đấu xảo tài khéo léo về Nữ công Gia chánh của các Tín Nữ Cao Đài, có ban chấm thi phát thưởng.



* Ngày 15 tháng 8 âl cũng là ngày Tết Nhi Đồng theo truyền thống của dân tộc, nên Hội Thánh tổ chức cho các Nhi đồng dâng đèn hoa vào lúc chiều tối ngày 14 và ngày 15, gọi là Dâng Cộ Đèn. Hội Thánh cũng có đặt ra các giải thưởng tặng cho những lồng đèn nào đẹp nhứt, và sau đó là phát quà cho các em vào sáng ngày 16.



Do đó, ngày Rằm tháng Tám âm lịch là ngày Đại lễ lớn nhứt của Đạo Cao Đài, bao gồm :


- Đại lễ cúng Đức Phật Mẫu.

- Lễ Hội Yến Diêu Trì Cung.

- Lễ Hội Phụ Nữ Cao Đài.

- Tết Nhi đồng.

Lễ Hội Yến Diêu Trì Cung tổ chức tại Chánh điện Báo Ân Từ bắt đầu vào lúc 10 giờ tối đêm 15 tháng 8 âl. Cách sắp đặt bàn ghế, vị trí hầu lễ của Chức sắc và các Tín đồ Nam Nữ, của các Giáo nhi và Ban Nhạc, được ghi trong Bảng vẽ sau đây : (Xem hình vẽ nơi trang kế bên) Trong phần Nội Điện (giữa Nội nghi và Bàn thờ Đức Phật Mẫu), chúng ta thấy đặt một cái Bàn dài, phủ tấm trải bàn màu trắng thêu hoa rất lịch sự, chung quanh có đặt cả thảy 12 cái ghế ngồi có dựa, phân ra :



- 9 cái ghế sắp theo thứ tự từ 1 đến 9, có bọc nệm và vải thêu rất đẹp, dành cho Cửu vị Tiên Nương tọa vị, trên mỗi ghế nơi chỗ dựa đều có thêu chữ : Nhứt Nương, Nhị Nương, vv... đến Cửu Nương. Ở chính giữa, day lưng vào Bàn thờ Đức Phật Mẫu là ghế của Ngũ Nương.



- 3 cái ghế khác kiểu hơn, đặt ở đầu bàn phía ngoài là của Đức Hộ Pháp, Đức Thượng Phẩm và Đức Thượng Sanh. Trên bàn dài, ngay trước mỗi cái ghế đều có đặt 3 món : Một bình hoa tươi, một cái ly cao cẳng để rót rượu Champagne, một cái tách để rót nước trà. Trên bàn thờ Đức Phật Mẫu cũng để 3 món tương tự. Phía sau 2 dãy ghế của Cửu vị Tiên Nương, mỗi bên có đứng hầu 9 Cô Giáo nhi, sắp thành một hàng dài, mặc Đạo phục toàn trắng, đầu bịt khăn vàng. 18 Cô Giáo nhi nầy đều được tô điểm son phấn cho đẹp và xịt nước thơm. Kế bàn Nội nghi, về phía trong có đặt thêm 2 cái bàn, một lớn một nhỏ. Bàn lớn dùng để đặt các hoa quả hay phẩm vật của quan khách đời hiến lễ Đức Phật Mẫu. Bàn nhỏ đặt chai rượu Champagne và Trà để Chức sắc Hiệp Thiên Đài bồi tửu và châm trà hiến lễ Đức Phật Mẫu và Cửu vị Tiên Nương. Phía trước Bàn thờ Chư Chơn Linh Nam phái có đặt một bàn tròn thấp và các băng vòng cung bao quanh để Ban Nhạc ngồi đờn hiến lễ. Trước giờ hành lễ chừng 10 phút, các Giáo nhi vào Chánh điện bái lễ Đức Phật Mẫu, có vị Hầu chuông nơi Nội điện khắc chuông điều khiển. Kế đó là các Nhạc sĩ của Ban Nhạc vào bái lễ. Tiếp theo là toàn thể Chức sắc Cửu Trùng Đài, Phước Thiện và các Tín đồ Nam Nữ bái lễ Phật Mẫu.



Sau cùng, khi tới giờ hành lễ, các Chức sắc Hiệp Thiên Đài đi vào Chánh điện, bái lễ Đức Phật Mẫu và cầu nguyện Đức Phật Mẫu và Cửu vị Tiên Nuơng giáng xuống Bửu điện chứng lễ Hội Yến Diêu Trì Cung. Chức sắc Hiệp Thiên Đài (HTĐ) làm lễ xong thì đứng luôn tại chỗ trước Nội nghi, khoanh tay hầu lễ. Một vị Chức sắc cao cấp HTĐ đi lên Bàn thờ Đức Phật Mẫu , cầm lư trầm xá 3 xá rồi đem lư trầm xuống xông hương khử trược từng chiếc ghế nơi Bàn Hội Yến. Đầu tiên xông hương ghế của Nhứt Nương, tiếp theo là ghế của Nhị Nương, vv... đến ghế của Cửu Nương, bước qua xông hương ghế của Đức Hộ Pháp, rồi ghế của Đức Thượng Phẩm, và sau cùng là ghế của Đức Thượng Sanh. Xong thì đem lư trầm đặt trở lại nơi Bàn thờ của Đức Phật Mẫu.



Vị Chức sắc ấy trở về chỗ đứng cũ, rồi ra hiệu cho Ban Nhạc khởi hòa tấu 5 bài cổ nhạc hiến lễ Đức Phật Mẫu. 5 bài cổ nhạc nầy là 5 bài trong Nhạc tấu Quân Thiên cúng Đại Đàn Đức Phật Mẫu, gồm : Xàng xê, Ngũ Đối Thượng, Ngũ Đối Hạ, Long Đăng, Tiểu Khúc. Dứt phần tấu nhạc là tới phần thài hiến lễ Dâng Tam Bửu : Bông, Rượu, Trà.


Thài 3 tuần :

- Tuần đầu Dâng Hoa,

- Tuần giữa Dâng Rượu,

- Tuần cuối Dâng Trà.

Tuần đầu : DÂNG HOA.

1/. Các bình hoa tươi đã đặt sẵn trên Bàn thờ và Bàn Hội Yến. 18 Cô Giáo nhi đứng thành 2 hàng hai bên Bàn Hội Yến khởi thài Bài Thài hiến lễ Đức Phật Mẫu. Ban Nhạc đờn Đảo Ngũ Cung để các Giáo nhi thài :


CỬU kiếp Hiên Viên thọ sắc Thiên,

THIÊN Thiên cửu phẩm đắc cao huyền.

HUYỀN hư tác thế Thần Tiên Nữ,

NỮ hảo thiện căn đoạt Cửu Thiên.

Thài xong, mọi người đều lạy Đức Phật Mẫu 3 lạy, mỗi lạy 3 gật, mỗi gật niệm danh hiệu Đức Phật Mẫu :

Nam mô Diêu Trì Kim Mẫu Vô Cực Thiên tôn. Lúc đó Chức sắc HTĐ đang đứng hầu, không lạy, chỉ xá 3 xá.



2/. Tiếp theo, các Giáo nhi thài bài Hiến lễ Nhứt Nương Diêu Trì Cung :


HOA thu ủ như màu thẹn nguyệt,

Giữa thu ba e tuyết đông về.

Non sông trải cánh Tiên lòe.

Mượn câu thi hứng vui đề chào nhau.

Thài xong, mọi người đều lạy Nhứt Nương 3 lạy 9 gật, mỗi gật niệm : Nam mô Nhứt Nương Diêu Trì Cung. Các Chức sắc Hiệp Thiên Đài xá 3 xá.

3/. Tiếp theo, các Giáo nhi thài Bài Hiến lễ Nhị Nương :


CẨM tú văn chương hà khách Đạo ?

Thi Thần tửu Thánh vấn thùy nhân ?

Tuy mang lấy tiếng hồng quần,

Cảnh Tiên còn mến, cõi trần anh thư.

Thài xong, mọi người đều lạy Nhị Nương 3 lạy 9 gật, mỗi gật niệm : Nam mô Nhị Nương Diêu Trì Cung.

Các Chức sắc Hiệp Thiên Đài xá 3 xá.

4/. Tiếp theo, các Giáo nhi thài Bài Hiến lễ Tam Nương :


TUYẾN đức năng thành đạo,

Quảng trí đắc cao huyền.

Biển mê lắt lẻo con thuyền,

Chở che khách tục, Cửu tuyền ngăn sông.

Thài xong, mọi người đều lạy Tam Nương 3 lạy 9 gật, mỗi gật niệm : Nam mô Tam Nương Diêu Trì Cung.

Các Chức sắc Hiệp Thiên Đài xá 3 xá.

5/. Các Giáo nhi thài Bài Hiến lễ Tứ Nương :


GẤM lót ngõ chưa vừa gót ngọc.

Vàng treo nhà ít học không ưa.

Đợi trông nho sĩ tài vừa,

Đằng giao khởi phụng khó ngừa Tiên thi.

Thài xong, mọi người đều lạy Tứ Nương 3 lạy 9 gật, mỗi gật niệm : Nam mô Tứ Nương Diêu Trì Cung.

Các Chức sắc HTĐ xá 3 xá.

6/. Các Giáo nhi thài Bài Hiến lễ Ngũ Nương


LIỄU yểu điệu còn ghen nét đẹp.

Tuyết trong ngần khó phép so thân.

Hiu hiu nhẹ gót phong trần,

Đài sen mấy lượt gió Thần đưa hương.

Thài xong, mọi người đều lạy Ngũ Nương 3 lạy 9 gật, mỗi gật niệm : Nam mô Ngũ Nương Diêu Trì Cung.

Các Chức sắc HTĐ xá 3 xá.

7/. Các Giáo nhi thài Bài Hiến lễ Lục Nương


HUỆ ngào ngạt đưa hơi vò dịu,

Đứng tài ba chẳng thiếu tư phong.

Nương mây như thả cánh hồng,

Tiêu Diêu phất phướn, cõi tòng đưa Tiên.

Thài xong, mọi người đều lạy Lục Nương 3 lạy 9 gật, mỗi gật niệm : Nam mô Lục Nương Diêu Trì Cung.

Các Chức sắc HTĐ xá 3 xá.

8/. Các Giáo nhi thài tiếp Bài Hiến lễ Thất Nương :


LỄ bái thường hành tâm đạo khởi,

Nhân từ tái thế tử vô ưu.

Ngày xuân gọi thế hảo cừu,

Trăm duyên phước tục khó bù buồn Tiên.

Thài xong, mọi người đều lạy Thất Nương 3 lạy 9 gật, mỗi gật niệm : Nam mô Thất Nương Diêu Trì Cung.

Các Chức sắc HTĐ xá 3 xá.

9/. Các Giáo nhi thài tiếp Bài Hiến lễ Bát Nương :


Hồ Hớn HOA SEN TRẮNG nở ngày,

Càng gần hơi đẹp lại càng say.

Trêu trăng hằng thói dấu mày,

Cợt mây tranh chức Phật đài thêm hoa.

Thài xong, mọi người đều lạy Bát Nương 3 lạy 9 gật, mỗi gật niệm : Nam mô Bát Nương Diêu Trì Cung.

Các Chức sắc HTĐ xá 3 xá.

10/. Các Giáo nhi thài tiếp Bài Hiến lễ Cửu Nương :


KHIẾT sạch duyên trần vẹn giữ,

Bạc Liêu ngôi cũ còn lời.

Chính chuyên buồn chẳng trọn đời,

Thương người noi đạo, Phật Trời cũng thương.

Thài xong, mọi người đều lạy Cửu Nương 3 lạy 9 gật, mỗi gật niệm : Nam mô Cửu Nương Diêu Trì Cung.

Các Chức sắc HTĐ xá 3 xá.

11/. Đến đây là xong phần Dâng Hoa hiến lễ Đức Phật Mẫu và Cửu vị Tiên Nương. Các Giáo nhi thài tiếp Bài thài Hiến lễ Đức Phạm Hộ Pháp :


Trót đã ba năm ở xứ người,

Đem thân đổi lấy phút vui tươi.

Ngờ đâu vạn sự do Thiên định,

Tuổi đã bảy mươi cũng đủ rồi.

Nhớ tiếc sức phàm thừa chống chỏi,

Buồn nhìn cội Đạo luống chơi vơi.

Rồi đây ai đến cầm Chơn pháp,

Tô điểm non sông Đạo lẫn Đời.

Thài xong, mọi người đều lạy Đức Hộ Pháp 3 lạy 9 gật, mỗi gật niệm : Nam mô Đức Phạm Hộ Pháp Thiên Tôn. Các Chức sắc HTĐ xá 3 xá.

12/. Các Giáo nhi thài tiếp Bài thài Hiến lễ Đức Cao Thượng Phẩm :


Ngảnh lại mà đau cảnh đoạn tràng,

Cõi Thiên mừng đặng dứt dây oan.

Nợ trần đã phủi, lòng son sắt,

Ngôi vị nay vinh, nghĩa đá vàng.

Cổi tấm chơn thành lòa nhựt nguyệt,

Phơi gan chí sĩ nhuộm giang san.

Bốn mươi hai tuổi sanh chưa phỉ,

Để mắt xanh coi nước khải hoàn.

Thài xong, mọi người đều lạy Đức Cao Thượng Phẩm 3 lạy 9 gật, mỗi gật niệm: Nam mô Đức Cao Thượng Phẩm. Các Chức sắc HTĐ xá 3 xá.

13/. Các Giáo nhi thài tiếp Bài Thài Hiến lễ Đức Cao Thượng Sanh :


Từ lúc đưa tay nắm Đạo quyền,

Nguyện đem thi thố tấm trung kiên.

Độ đời quyết lánh vòng danh lợi,

Trau chí tìm noi bậc Thánh Hiền.

Từ ái làm nền an thổ võ,

Những mong huệ trạch ơn nhuần gội,

Sứ mạng làm xong giữ trọn nguyền.

Thài xong, mọi người đều lạy Đức Cao Thượng Sanh 3 lạy 9 gật, mỗi gật niệm : Nam mô Đức Cao Thượng Sanh. Các Chức sắc HTĐ xá 3 xá.



Tới đây là dứt Tuần đầu hiến lễ DÂNG HOA



Tuần giữa : DÂNG RƯỢU.



Một Chức sắc cao cấp của HTĐ, 2 tay được xông hương khử trược, đến bàn cầm chai Rượu Sâm banh (Champagne) đặt trong một cái khăn trắng, mở nút, đi lên Bàn thờ Đức Phật Mẫu, xá 3 xá, rồi rót vào một cái ly đặt gần cái ly của Đức Phật Mẫu, dành để kỉnh lễ Đức Chí Tôn. Xong rồi mới rót Rượu Champagne vào ly của Đức Phật Mẫu, đi trở xuống, rót vào ly của Nhứt Nương, kế tiếp rót vào ly của Nhị Nương, vv...



Tới ly của Cửu Nương, bước qua rót vào ly của Đức Phạm Hộ Pháp, rồi Đức Cao Thương Phẩm và sau cùng là rót vào ly của Đức Cao Thượng Sanh. Vị Chức sắc HTĐ nầy rót Rượu xong thì đem chai rượu trở lại bàn và về chỗ đứng cũ. Các Giáo nhi khởi thài 13 Bài Thài Hiến lễ lần thứ nhì để Dâng Rượu. Thứ tự các Bài thài, cách lạy, cách niệm sau mỗi Bài thài đều giống y như mục Dâng Hoa ở Tuần đầu.



Tuần cuối : DÂNG TRÀ.



Một Chức sắc cao cấp HTĐ (khác hơn vị đã bồi tửu) đi lên, 2 tay đã được xông hương khử trược, đến bàn đặt bình trà, cầm bình trà có bọc cái khăn trắng bên ngoài, đi lên Bàn thờ Đức Phật Mẫu, xá 3 xá, rồi châm trà vào tách gần bên tách của Đức Phật Mẫu để kỉnh lễ Đức Chí Tôn, xong mới rót vào tách của Đức Phật Mẫu, đi trở xuống, châm trà vào tách của Nhứt Nương, kế đến Nhị Nương, vv... cho đến Cửu Nương, bước qua châm trà cho Đức Hộ Pháp, Đức Thượng Phẩm và Đức Thượng Sanh. Xong thì trở về đứng ở vị trí cũ. 18 Cô Giáo nhi bắt đầu thài hiệp 3, Tuần cuối : Dâng Trà hiến lễ, cũng thài đủ 13 Bài theo thứ tự giống y như ở Tuần đầu. Sau mỗi Bài thài đều lạy 3 lạy 9 gật, mỗi gật niệm danh hiệu của Đấng mà mình hiến lễ. Thài xong 13 Bài Thài đợt nầy là dứt phần Hiến lễ Hội Yến Diêu Trì Cung. Tất cả Chức sắc Hiệp Thiên Đài đồng quì lạy Đức Phật Mẫu và Cửu vị Tiên Nương, lạy 3 lạy 9 gật, mỗi lạy niệm Danh hiệu của Đức Phật Mẫu. Lạy xong, đứng dậy xá 3 xá, quay lại phía sau xá l xá, rồi lui ra khỏi Chánh điện. Tiếp theo là các Giáo Nhi vào Chánh điện bái lễ Đức Phật Mẫu. Các Nhạc sĩ và Ban Nhạc nối theo vào lạy Đức Phật Mẫu. Xong thì lui ra ngoài. Các Chức sắc, các Tín đồ Nam Nữ lần lượt vào lạy Đức Phật Mẫu. Buổi lễ Hội Yến Diêu Trì Cung đến đây chấm dứt.

CHUNG

Ý Trinh lạy Cố Mẫu Linh Sơn Thánh Mẫu Chùa Bà Tây Ninh


Về tục thờ Bà Đen ở Nam Bộ
(Qua nghiên cứu khu du lịch Núi Bà Đen, Tây Ninh)



Linh Sơn Thiên Thạch, Một ngôi chùa trên núi Bà Đen

Huỳnh Thiệu Phong

Nếu như ở vùng đồng bằng sông Cửu Long, dạng thức thờ Bà Chúa Xứ ảnh hưởng vô cùng mạnh mẽ trong tâm thức của cộng đồng người trong khu vực này thì ở vùng Đông Nam Bộ, Linh Sơn Thánh Mẫu, hay còn được gọi bằng cái tên dân dã là Bà Đen (Bà Đênh) cũng có sức ảnh hưởng không kém trong sinh hoạt tín ngưỡng của cộng đồng người dân khu vực này.

Bài viết này tập trung vào bốn khía cạnh: (1) Truyền thuyết về Bà Đen – (2) Hình tượng Bà – (3) Hệ thống điện thờ – (4) Lễ Vía Bà.

Trong Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức, viết vào đầu thế kỷ XIX, mô tả ngọn núi này “Giữa đất đồng bằng nổi lên ngọn núi Bà Đinh (Bà Đen), ngày đẹp trời, từ Sài Gòn có thể thấy ngọn núi này mờ mờ hiện ra trong mây mù, tương truyền đây là ngọn núi thiêng, có chuông vàng ẩn hiện trong hồ, đêm trăng, có thuyền rồng bơi lượn múa hát du dương…”. Núi Bà Đen được coi là ngọn núi thiêng, ngọn núi chính trấn thành Gia Định (tức Sài Gòn), giống như núi Tản Viên ở Thăng Long hay núi Ngự Bình ở cố đô Huế. Núi cao 986 mét, tọa lạc tại huyện Dương Minh Châu và là biểu tượng của mảnh đất và con người Tây Ninh.

Về truyền thuyết thứ nhất thì kể rằng nàng Đênh – một người con gái là con của một ông quan tri huyện ở vùng Trảng Bàng, nàng có nước da ngâm đen. Từ nhỏ nàng đã có lòng mộ đạo, thường hay lên chùa để lễ phật. Một lần nọ, nàng Đênh khi đang trên đường lên núi thì bị cọp vồ. Linh hồn của nàng báo mộng cho nhà sư tu ở chùa Linh Sơn. Sau đó, nhà sư đã đi tìm xác của nàng. Sau khi tìm được thì làm lễ mai táng, lập điện thờ phụng ở Điện Bà.

Truyền thuyết thứ hai lại kể về một cô gái mang tên Lý Thị Thiên Hương, quê ở Trảng Bàng, hay văn giỏi võ thường hay lên núi Quả Một (tên gọi cũ của núi Bà Đen) cúng Phật. Trên núi có một ngôi chùa thờ tượng Phật rất linh thiêng. Vì đường lên núi rậm rạp, thường có nhiều loại hổ báo ẩn náu nên dân chúng thường đi theo từng nhóm để hỗ trợ nhau khi bị thú dữ tấn công. Lý Thị Thiên Hương đã gặp một người con trai trong làng tên Lê Sĩ Triệt và hai người đem lòng thương yêu nhau tha thiết. Một lần nọ, cô bị một tên quan tham háo sắc trong làng ức hiếp và muốn cô gả cho hắn. Sau khi biết tin, vì không muốn người mình thương yêu phải lấy tên tham quan nên Lê Sĩ Triệt đã ra tay cứu người yêu. Sau khi cứu được nàng thì hai người nên duyên vợ chồng và chung sống với nhau rất hạnh phúc. Khi đó, Nguyễn Ánh (tức vua Gia Long sau này) đang cho người đi chiêu mộ quân sĩ để đánh lại nhà Tây Sơn, Lê Sĩ Triệt đã đầu quân cho Nguyễn Ánh. Lý Thị Thiên Hương ở nhà lên núi cầu Phật cầu cho chồng sớm quay về thì bị bọn cướp vây bắt. Cô nhanh chóng chạy vào rừng hòng thoát thân và mất tích từ đó. Đến thời vua Minh Mạng, trên chùa có một vị sư già làm trụ trì. Một hôm, khi đang tụng kinh niệm Phật thì nhà sư phát hiện bóng một cô gái xinh đẹp hiện ra, nói rằng: “Ta đây họ Lý, khi 18 tuổi bị bọn cướp vây bắt, nên chẳng may ngã xuống vực chết, nay đắc quả, xin Hòa thượng xuống triền núi phía đông nam, tìm thi hài của ta và chôn cất giùm”. Nhà sư y lời đi tìm xác cô đem về chôn cất. Dân chúng trong vùng ca ngợi tấm lòng trinh trắng, trung hậu của Lý Thị Thiên Hương – cô gái có màu da đen sậm, do vậy sau đó người dân đã cho xây dựng miếu thờ tự và gọi bà bằng tục danh là Bà Đen, đồng thời cũng cho sửa tên ngọn núi Một thành núi Bà Đen.

Như tất cả chúng ta đều biết, vùng đất Nam Bộ này trước khi mà cộng đồng lưu dân Việt từ miền Bắc di cư vào đây, từng là lãnh thổ của vương quốc cổ Phù Nam, và sau này là của Chân Lạp.

Tục danh “Bà Đen” cũng đã cho ta thấy được nét cơ bản nhất của hình tượng Bà. Sở dĩ gọi là Bà Đen vì Bà có khuôn mặt đen. Hình tượng Bà Đen thường đi liền với hình tượng Bà Trắng; hai vị nữ thần này trong văn hóa của Khmer được biết đến dưới tên gọi lần lượt là Neang Khmau và Mé Sar. Khi di cư vào trong vùng Nam Bộ này, với tâm thức thờ Mẫu có sẵn từ miền ngoài, tương tự như Bà Chúa Xứ, người ta dễ dàng tiếp nhận nữ thần Neang Khmau và nhanh chóng Việt hóa vị nữ thần này. Đến đây thì một vấn đề phát sinh, đó là tại sao trong văn hóa Khmer tồn tại cả hai vị nữ thần là Neang Khmau và Mé Sar; trong khi tiếp nhận thì những lưu dân Việt chỉ chấp nhận Neang Khmau, vậy Mé Sar tại sao lại không được tiếp nhận?

Để lý giải nguyên nhân này, theo tác giả, chúng ta cần truy ngược lại chức năng của các vị Mẫu ở Nam Bộ. Không giống như tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ, Tứ phủ ở Bắc Bộ đó là mỗi vị Mẫu phụ trách những “phủ” khác nhau; tín ngưỡng thờ Mẫu ở Nam Bộ về bản chất, như tác giả đã đề cập chính là có sự tương đồng với Mẫu Thoải hoặc Mẫu Địa trong tín ngưỡng Tam phủ, Tứ phủ. Với điều kiện sông nước nhiều, yếu tố “nước” rất quan trọng trong việc phát triển đời sống vật chất. Do đó, việc phụng thờ thêm vị Nữ thần Mé Sar là không cần thiết. Rất nhiều nhà nghiên cứu đã nhận định, hình tượng Linh Sơn Thánh Mẫu Bà Đen chính là kết quả của sự hỗn dung văn hóa Chăm – Khmer – Việt. Cụ thể hơn, trong văn hóa Chăm, vị Nữ thần xứ sở của họ chính là Po Inư Nagar còn được biết đến với tục danh là Bà Đen (Muk Juk). Chính hình tượng này đã kết hợp với vị Nữ thần Neang Khmau của người Khmer đã tạo nên hình tượng Linh Sơn Thánh Mẫu ngày nay. Sự hỗn dung của các dạng thức thờ Mẫu của ba tộc người Chăm – Khmer và Việt được tác giả tối giản hóa theo công thức bên dưới:



Sơ đố: Nguồn gốc ra đời của hình tượng Linh Sơn Thánh Mẫu – Bà Đen

Trước đây, khi những người hành hương muốn lên viếng Bà phải lên núi mất hơn hai tiếng đồng hồ. Sau này thì đã có hệ thống cáp treo và máng trượt hỗ trợ rất nhiều cho du khách và những người hành hương di chuyển lên và xuống núi dễ dàng hơn. Tuy nhiên, hiện nay vẫn có một số người (đặc biệt là những du khách trẻ tuổi) muốn thử sức chinh phục ngọn núi vẫn có thể lên núi bằng đường bộ.

Ngoài chính điện thờ Linh Sơn Thánh Mẫu, trên đỉnh núi còn có động Ba Cô, thờ Bà Chúa Tiên và Ba Cô, trong động có biển đề “Chúa Tiên Nương Nương, Tam vị Thánh Cô”bằng chữ Hán. Bên cạnh có chùa Hang (hay còn có tên chữ là Long Châu Tự). Chùa Hang vốn là một cái hang, diện tích không lớn (khoảng 20 mét vuông), bên trong có thờ Bà Đen và Bà Trắng (có thể là Bà Chúa Xứ); Bà Đen mặc áo đỏ, khoác áo màu vàng, đầu đội vương miện; Bà Trắng mặc áo màu xanh trắng, cũng khoác áo màu vàng và đầu có đội vương miện; hai bên là tượng hai Bà hầu mặc áo vàng rực rỡ. Phía trước còn có thờ Ngọc Hoàng Thượng Đế và Địa Tạng Bồ Tát, thấp hơn một chút là tượng Tam Thế Phật. Lùi ra phía cửa hang là tượng Quan Thế Âm Bồ Tát, Phật Thích Ca, Thập Điện Diêm Vương và tượng Hộ pháp. Đằng trước cửa chùa Hang là hai pho tượng của Quan Âm và Diêu Trì Kim Mẫu.

Theo các nguồn tài liệu mà tác giả tiếp cận được thì khu di tích núi Bà Đen được xây dựng khoảng từ cuối thế kỷ XIX (năm 1872), khi ấy chỉ có miếu thờ Linh Sơn Thánh Mẫu được xây dựng rất đơn sơ. “Trong ghi chép của Trịnh Hoài Đức ở cuốn Gia Định Thành thông chí vào đầu thế kỷ XIX thì ở trên núi Bà Đen chỉ có chùa Linh Sơn (hay Vân Sơn tự), tức tiền thân của Linh Sơn Tiên Thạch tự hiện nay, mà không thấy ông nhắc đến miếu thờ bà Đen. Chắc chắn miếu thờ Linh Sơn Thánh Mẫu trên núi Bà Đen được biết đến nhiều hơn qua truyền thuyết vua Gia Long được bà báo mộng cứu giúp khi còn tranh chấp với quân Tây Sơn trong những năm cuối thế kỷ XVIII, nên để tri ân bà, vua Gia Long khi lên ngôi đã cho người đúc tượng bà bằng đồng đen để thờ và sắc phong cho bà là Linh Sơn Thánh Mẫu. Vì thế, có thể điện bà được xây dựng khang trang hơn vào những năm cuối thế kỷ XIX, thời nhà Nguyễn trị vì; rồi kể từ đó đến nay người ta đã nhiều lần trùng tu điện Bà, cùng chùa Linh Sơn Tiên Thạch và xây dựng thêm nhiều chùa chiền, miếu điện thờ tự hỗn hợp nhiều loại hình tôn giáo tín ngưỡng khác nhau trên núi Bà Đen…” [2,tr.318].

Ngoài ra, phía sau nơi thờ tự chính của Bà, ở trên cao người ta còn thiết kế một pho tượng Phật nằm (hay còn gọi là “Phật nhập Niết Bàn”) bằng đá khá lớn, toàn thân trắng toát, trông rất quy mô và hoành tráng.

Về điện Bà, thực chất là được dựng lên từ một mái hang đá, phần ngoài được xây thêm cho rộng rãi. Từ ngoài vào trong lần lượt hệ thống điện thờ như sau:

+ Ở ngoài sân trước điện là tượng Phật Bà Quan Âm toàn thân, khoác áo trắng, tay cầm bình nước cam lộ.

Lễ vía Bà được tổ chức chính thức vào các ngày 4, 5 và 6 tháng 5 Âm lịch hằng năm, trùng với dịp Tết Đoan Ngọ (Tết giết sâu bọ, tiêu diệt các loài sâu gây hại cho cây trồng). Diễn trình lễ hội tuần tự như sau:

+ Ngày mùng 4 tháng 5 thì lần lượt diễn ra các hoạt động như: Cử hành lễ tụng kinh niệm Phật; đến trưa thì tiến hành lễ cúng Ngọ, lễ cúng bá tính thọ trai, lễ cáo yết Bà Đen, lễ khai kinh và lễ cầu siêu bá tính. Tuy nhiên hoạt động đáng chú ý hơn cả là “lễ tắm Bà” (tương tự như lễ tắm Bà Chúa Xứ) diễn ra vào đêm mùng 4 rạng sáng mùng 5; lễ tắm ở đây được diễn ra bí mật và không nhiều người được tham dự. Công việc này do những người phụ nữ nhanh nhẹn đảm nhận, người ta chuẩn bị cho nghi lễ này khá chu đáo, như: nấu nước thơm bằng các loại hoa có nhiều hương thơm ngát… rồi lọc lấy nước thơm tắm tượng; cùng nhiều khăn mặt bông mới tinh, nước hoa các loại hảo hạng… và xiêm y mới để thay cho bà… Khi ấy người ta đóng kín cửa cung cấm lại, chỉ có những người phụ nữ được phân công từ trước là vào đó làm lễ tắm tượng và thay xiêm y mới cho bà, nghi thức này kéo dài khoảng một tiếng đồng hồ… những chiếc khăn đã dùng lau tượng bà, hoặc nước đã dùng nhúng khăn lau tượng, các thứ hoa quả… liên quan đến lễ này đều được coi là lộc, là bùa có ý nghĩa linh thiêng đối với người trần gian….

+ Đến sáng mùng 5 thì có hoạt động lễ tế với việc dâng 10 loại lễ vật: Hoa, đèn, nhang, trà, quả, thực, bỉnh, thủy xoàn, châu báu. Theo Ngô Đức Thịnh thì hoạt động này là “… một nghi thức có phần trộn lẫn giữa Đạo và Phật” [2,tr.302]. Tối mùng 5 thì có hát múa Bóng rỗi.

+ Sang đến mùng 6 tháng 5 thì tiếp tục diễn ra các nghi lễ của Phật giáo, lễ cúng Ngọ và thí thực cô hồn, đàn tràng viên mãn. Ngày trước việc hát chầu, hát bội kéo dài đến tối mùng 8 mới kết thúc nhưng hiện nay thì kết thúc sớm hơn.

Những hoạt động trên trong lễ vía Bà đều do các vị sư tăng chủ trì theo hệ thống nghi lễ và nghi thức của Phật giáo. Tuy nhiên, khi so sánh với lễ cúng Phật ở vùng Bắc Bộ thì phong phú và vui hơn, vì có dàn nhạc hiện đại, có vai trò như một ban nhạc nhẹ đệm cho các nhà sư làm lễ cúng Phật.

Với những đặc điểm như vậy, một số đặc điểm mà tác giả rút ra được từ lễ hội vía Bà như sau:

+ “Trong lịch sử, về thực chất, đã không có chỗ đứng nào cho một thứ chủ nghĩa độc tôn, độc quyền về văn hóa tâm linh hay hệ tư tưởng. Sự đa dạng của môi trường ý thức tâm linh Việt truyền thống đã trải ra trên một biên độ rất rộng…” [1: tr.31]. R. Redfield, Woodside, Ysun Yu đã đưa ra cặp khái niệm Little tradition (truyền thống nhỏ) – Great tradition (truyền thống lớn) để chỉ một bên là những tín ngưỡng và lối sống của quần chúng bình dân; còn bên kia là chỉ tôn giáo, hệ tư tưởng. Trong lễ hội vía Bà Đen, ta thấy rõ cặp khái niệm Little tradition – Great tradition trong đó, khi mà đây là một lễ hội của một trong số những hình thức thờ Mẫu của Việt Nam nói chung, của vùng Nam Bộ nói riêng nhưng tự thân nó lại mang những sắc màu (nghi lễ, nghi thức) của Phật giáo.

+ Thứ hai, khi mà quá trình giao lưu và tiếp biến văn hóa giữa văn hóa Chăm – văn hóa Khmer – văn hóa Việt đã xảy ra, kết hợp với việc đã được nhà nước phong kiến của triều Nguyễn công nhận thì hình tượng Bà Đen đã hình thành và xâm nhập vào hệ thống thần linh của người Việt ở Nam Bộ. Điều này đã xảy ra vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX.

+ Lễ hội vía Bà cũng là một minh chứng cho đặc điểm văn hóa chung của vùng Nam Bộ mà xuyên suốt công trình, tác giả đã đề cập đến rất nhiều, đó chính là tính mở. Văn hóa dân gian kết hợp với văn hóa Phật giáo đã tạo nên một lễ hội đa sắc màu trong hệ thống lễ hội nói chung của vùng Nam Bộ.



+ Hai bên trái phải của điện thờ Bà là hai ngôi miếu nhỏ thờ ông Tà bằng tảng đá, tương tự như hình tượng linga. Có lẽ đây chính là minh chứng cho sự giao lưu tiếp biến văn hóa với tộc người Khmer rõ nét nhất, bởi vì trong tín ngưỡng của người Khmer có thờ một vị thần là thần Nieaktà. Theo Ngô Đức Thịnh thì “ông tà là vị thần thổ địa, ai bị bệnh đến vái cục đá thì khỏi, cũng có thể người ta đến cầu có con” [2, tr.300].

+ Hai bên rìa tường có đặt bàn thờ của Tứ vị Sơn Thần: Đông phương Sơn Thần, Tây phương Sơn Thần, Nam phương Sơn Thần, Bắc phương Sơn Thần.

+ Ngay trước cửa vào điện Bà có dựng pho tượng toàn thân của Diêu Trì Địa Mẫu – một vị nữ thần trong Đạo giáo của Trung Quốc khoác áo choàng màu xanh lục.

+ Trong chính điện có bày tượng thờ của ba vị, bao gồm: Ở giữa là tượng của Linh Sơn Thánh Mẫu, mặc áo đỏ; bên phải là Bà Mặt Trắng, mặc áo xanh da trời; Bà bên trái mặc áo xanh nõn chuối mà theo Ngô Đức Thịnh thì đây chính là Bà Rá.

Còn đối với chùa Linh Sơn Tiên Thạch thì tại đây lại thờ thuần túy về các vị Phật trong Phật giáo. Hệ thống thần và Phật được thờ tại đây bao gồm: Phật Thích Ca, Quan Thế Âm, Đại Thế Chí Bồ Tát, Thập Điện Diêm Vương, Thập Bát La Hán…

Trên bước đường mở cõi về phương Nam, hành trang mang theo của lớp cư dân Việt không đơn thuần chỉ là những nổi niềm, những khát khao về sự mưu cầu hạnh phúc, ấm no vùng đất mới, mà hơi nữa, đó còn là những giá trị văn hóa tinh thần đầy tính nhân văn chốn quê hương. Sự hiện sinh của vị Mẫu thần “Linh Sơn Thánh Mẫu” chính là một biểu hiện sống động cho “hành trang” ấy của cộng đồng người Việt. Ở vị Mẫu này, không chỉ ẩn chứa trong đó những giá trị nhân sinh mà xa hơn nữa còn là biểu hiện cho tinh thần đoàn kết của các cộng đồng tộc người khác; hay nói khác đi, vị Mẫu thần này chính là một sản phẩm chung trong tư duy, nhận thức về thế giới quan của hai chủ thể người Việt – Khmer. Nó đã, đang và sẽ là một nét đẹp trong sinh hoạt tâm linh của toàn bộ người dân vùng đất mới Nam Bộ.

Tài liệu tham khảo:
Nguyễn Thừa Hỷ (2012), Văn hóa Việt Nam truyền thống một góc nhìn, NXB Thông tin Truyền thông.
Ngô Đức Thịnh (2009), Đạo Mẫu Việt Nam (tập 1), NXB Tôn giáo.

Ý Trinh tụng Kinh Địa Mẫu








ĐỊA-MẪU CHƠN-KINH


TỰ LUẬN


Quang-Tự cửu niên, chánh ngoạt, sơ cửu nhựt, Thiểm Tây, Hớn-Trung Phủ, Thành Cố Huyện, Địa-Mẫu miếu, phi loan truyền Kinh.



Hồi nhà Thanh, vua Quang-Tự lên ngôi trị vì ở nước Tàu, năm thứ 9, nhằm tiết tháng giêng, ngày mồng chín, tại nơi Thiểm-Tây, Phủ Hớn-Trung, huyện Thành-Cố có Phật Địa-Mẫu ngự chim loan hiện xuống tận miếu Bà giáng cơ bút truyền ra Kinh nầy đây.


ĐỊA-MẪU CHƠN-KINH


VÔ-THƯỢNG HƯ-KHÔNG ĐỊA-MẪU
DƯỠNG SANH BẢO MẠNG CHƠN-KINH



Phật Địa-Mẫu ngự trên cõi Thượng-Tầng tối cao đặt quyển Chơn-Kinh đặng khuyên răn đời, dưỡng-dục đời và bảo toàn tánh-mạng cho tất cả người đời.


XUÂN TÁN ĐỊA-MẪU


- Địa-Mẫu đấng tối cao giác ngộ
- Điển linh quang tế độ chúng sanh
- Hỡi ai chớ có lạc lầm
- Lời vàng châu ngọc chỉ rành nẽo tu
- Cõi trần thế mịt mù tâm tối
- Phải nghe lời mẹ thuyết chơn kinh
- Chớ ham vật chất luỵ phiền
- Sớm mau thức tỉnh mẹ ban phúc lành.


NAM-MÔ VÔ THƯỢNG HƯ KHÔNG ĐỊA-MẪU DƯỠNG SANH BẢO MẠNG CHƠN-KINH (Niệm 3 biến).


CÚNG HƯƠNG


NAM-MÔ VÔ THƯỢNG HƯ KHÔNG ĐỊA-MẪU DƯỠNG SANH BẢO MẠNG CHƠN KINH (Niệm 3 biến)


_ Đốt hương trầm thấu đến Diêu cung
_ Thành tâm khẩn nguyện Đức Mẫu Từ
_ Trên khói hương nầy Kim Mẫu Ngự
_ Cảm ứng chứng minh tất lòng thành


NAM-MÔ VÔ THƯỢNG HƯ KHÔNG ĐỊA-MẪU DƯỠNG SANH BẢO MẠNG CHƠN KINH.


_ Khai đuốc huệ tâm đăng tỏ sáng
_ Trăm ngàn muôn kiếp dễ gặp đâu
_ Hạ Ngươn kỳ ba Long Hoa Hội
_ Mẹ ban điển lành mới rõ thông


NAM-MÔ VÔ THƯỢNG HƯ KHÔNG ĐỊA-MẪU DƯỠNG SANH BẢO MẠNG CHƠN KINH (Niệm 3 biến).



SÁM KINH ĐỊA-MẪU
DÂNG ĐĂNG


Dâng đuốc thiêng thành tâm kỉnh Mẫu
Ngọn linh đăng soi thấu mười phương
Điển quang toả ánh chiến dương
Cầu xin Từ Mẫu Tây phương chứng đàn
Mẹ giáng thế độ an non nước
Chuyển huyền linh ban phước vạn dân
Nguồn thương sầu đọng bâng-khuâng
Nhìn đăng lòng tưởng Mẹ gần bên con
Xưa Mẫu ngự chim Loan tại miểu
Tỉnh Thiểm-Tây huyền diệu ứng linh
Bút cơ Mẹ thảo tâm Kinh
Lời châu chép lại tâm tình Mẫu thương
Nhìn biển cả trùng dương nước biếc
Tiếng khổ sầu tha thiết lòng đau
Mẹ trông từng lượn sóng ào
Bao nhiêu sóng lượn nghẹn ngào bấy nhiêu
Cảnh dương trần gặp nhiều gian khổ
Mẹ sáng khai hóa độ khắp nơi
Núi sông vũ trụ đất trời
Chính do Hoàng-Mẫu tạo đời an vui
Con trẻ nguyện sớm chiều tu niệm
Ngày lẫn đêm lo kiểm hạnh con
Dâng đăng Mẹ chứng lòng son
Vạn dân bá tánh nước non thanh bình


NAM-MÔ VÔ THƯỢNG HƯ KHÔNG ĐỊA-MẪU DƯỠNG SANH BẢO MẠNG CHƠN KINH.


DÂNG HƯƠNG



Ngày kỷ niệm trăng mười thập bát
Gió đông về ngào ngạt nguồn thương
Chốn trần trẻ dại dâng hương
Thỉnh cầu Từ-Mẫu Tây-Phương chứng đàn
Dâng nén hương lời vàng cung kỉnh
Tiếng trẻ thơ nguyện thỉnh Mẹ hiền
Lạy cầu vọng thấu cung Tiên
Nơi Tây-Vương-Mẫu diệu huyền chứng minh
Mẹ thương con thâm tình muôn thuở
Đạo hoằng khai truyền mở khắp nơi
Gắng tu thoát tục xa dời,
Quê Tiên chốn cũ là nơi trở về
Nhìn quang cảnh sơn khê non nước
Cõi giới ba hưởng phước Mẹ ban
Chính do Hoàng-Mẫu chỉnh an
Độ cho sanh chúng một đàng chánh tu
Làn khói bạc ngút mù bay tỏa
Tâm hương thành hiện rõ Diêu-Cung
Đài hương Mẹ ngự không trung
Thức tâm kẻ thế soi chung gương hiền
Tam nhựt Mậu cố siêng bái Mẫu
Tiếng chuông ngân gợi nỗi nhớ thương
Con quỳ dâng nhén tâm hương
Lạy Mẹ phủ đức thập phương an lành.


NAM MÔ VÔ-THƯỢNG HƯ-KHÔNG ĐỊA MẪU DƯỠNG SANH BẢO MẠNG CHƠN KINH.


DÂNG TRẦM



Nhìn làn khói trầm hương bay toả
Nhớ Mẫu hiền lệ nhỏ dòng châu
Đàn con tha thiết nguyện cầu
Mẫu-Từ phủ điển nhiệm mầu chứng minh
Chốn trần miền cung nghinh đại lễ
Kỷ niệm ngày giáng thế Từ-Tôn.
Thượng tầng Mẹ phủ càn khôn.
Chuyển khai hoằng đạo pháp Môn hạnh từ
Đọc Kinh Mẫu lòng như xao xuyến
Gởi tâm thành thăm viếng Mẫu thân
Chuông chùa vang tiếng xa ngân
Chạnh lòng con trẻ tuôn dần lệ sa
Khói hương trầm thiết tha theo gió
Áng mây lành hiện rõ huyền-vi
Con nguyền kiếp kiếp tu trì
Nương về theo bóng từ bi Mẫu-Hoàng
Cầu lịnh Mẹ chỉnh an non nước
Điển Mẫu-Từ ban Phước chúng sanh
Trần gian biết nẻo tu hành
Nhờ đèn trí huệ phúc lành Mẹ ban
Tầm chánh giác đạo vàng rực rỡ
Hạt bồ-đồ nẩy nở rừng cây
Am tiền nối nhiệp thang mây
Điểb thiêng Mẹ chứng nhựt nay kỉnh đàn


NAM MÔ VÔ-THƯỢNG HƯ-KHÔNG ĐỊA MẪU DƯỠNG SANH BẢO MẠNG CHƠN KINH.


DÂNG HOA



Hoa tươi thâm kính dâng Từ-Mẫu
Gió hương lành nhẹ thổi mười phương
Dập đầu lạy Mẹ xót thương
Chứng lòng con trẻ cúng dường dâng hoa
Lời vang cầu thiết tha ai oán
Chốn dương trần tợ áng phù-vân
Chúng sanh đau khổ vô ngần
Thành tâm lạy Mẹ gội lần tội xưa
Ngày Kỵ-Mậu sớm trưa bái Mẫu
Tiếng chân thành vọng thấu Diêu-Cung
Gắng tu noi chí bá tùng
Bồ-đề hạnh nguyện thơm chung hương lành
Điểm huyền linh phủ quanh bao khắp
Nhớ Mẫu hiền con chấp tay cầu
Lạy Mẹ độ hết năm châu
Cầu xin sanh chúng sớm hầu Diêu-Cung
Người chốn thế hiếu trung chọn giữ
Hội Long-Hoa Mẫu-Tử tương phùng
Hương lành thơm ngát lạ lùng
Bồ-Đề rộ nở tại cung Diêu-Trì
Hoa thơm ngát con quỳ dâng lễ
Lạy Mẫu thương giáng thế chứng minh
Tay ngà dâng đoá hoa xinh
Thỉnh cầu Mẹ giáng điển linh chứng đàn.


NAM-MÔ VÔ-THƯỢNG HƯ-KHÔNG ĐỊA MẪU DƯỠNG SANH BẢO MẠNG CHƠN KINH Niệm 3 biến.


DÂNG QUẢ



Quả tươi xanh tâm thành cung kỉnh
Tiếng trẻ khờ nguyện thỉnh Từ-Tôn
Điển linh phủ khắp càn khôn
Chuyển khai đại đạo tiếng đồn vang xa
Tụng Kinh Mẫu gia gia an ổn
Mẹ giáng trần hỗn độn sơ khai
Lời châu ghi lại trần ai
Là do huyết mạch phi tài Từ-Tôn
Oai linh Mẫu bao gồm vũ-trụ
Dưỡng nuôi con hấp thụ điển thiêng
Phước tài lộc thọ triền miên
Dân lành nước thạnh nhà yên thanh bình
Tam nhựt mậu trì Kinh Địa Mẫu
Chúng sanh đều số đổi nhàn thanh
Mùa màng sung túc tươi xanh
Quả hoa thơm ngát hương lành từ bi
Thâm ân Mẹ khắc ghi xanh sử
Kỷ niệm ngày Mẹ ngự không trung
Dập đầu bái tạ Vương Cung
Độ an sanh chúng tao phùng Long Hoa
Kính lạy mẫu thiết tha lời trẻ
Dâng quả tươi thỉnh Mẹ chứng tri
Dập đầu lạy đức Diêu-Trì
Điển linh Mẹ phủ cứu nguy dân lành.


NAM-MÔ VÔ-THƯỢNG HƯ-KHÔNG ĐỊA MẪU DƯỠNG SANH BẢO MẠNG CHƠN KINH


DÂNG THỦY


Cung kỉnh dâng thủy thanh thơm ngát
Nhớ trăng mười thập bát hằng niên (vào ngày mùng 18 tháng 10 hàng năm).
Đúng ngày giáng thế Mẫu hiền
Thủy thanh bát ngọc khẩn nguyền cung nghinh
Đàn con trẻ quỳ xin Mẹ chứng
Độ dân lành bền vững tâm tu
Sơn khê rảo bước ngao du
Vào nơi biển Thánh rừng nhu tu hiền
Dâng thủy thơm kiền thiền vọng bái
Điển Mẫu-Từ phủ rải khắp nơi
Mẹ thương dưỡng dục khuyên đời
Ngự nơi thượng cõi ban lời ngọc châu
Mẹ truyền pháp nhiệm mẫu phản chiếu
Cứu đàn con tận hiếu tận trung
Nguồn thương Mẹ phủ ngàn trùng
Suối lòng ngào ngạt ban chung con lành
Chính Mẹ tạo non xanh tươi thắm
Biển sông sâu thăm thẳm trùng khơi
Hoằng khai đại đạo khắp nơi
Kể từ vô-thỉ đến đời hậu thiên
Tâm Kinh Mẫu lời khuyên lai-láng
Điển huyền linh tỏa sáng mười phương
Tay dâng bát ngọc trà hương
Thành tâm lạy Mẹ xót thương chứng đàn.


NAM-MÔ VÔ-THƯỢNG HƯ-KHÔNG ĐỊA MẪU DƯỠNG SANH BẢO MẠNG CHƠN-KINH.





SÁM KINH ĐỊA MẪU
ĐỊA-MẪU-KINH



Phủ Hớn Trung nơi huyện Thành-Cố
Tỉnh Thiểm Tây miếu cổ ứng linh
Thượng tầng toả ánh quang minh
Chim Loan Mẫu ngự truyền kinh răn đời
Kim ngôn Mẹ đây lời mạch huyết
Đức Từ-Tôn tha thiết khuyên con
Hiếu trung giữ vẹn cho tròn
Mẹ hiền phủ điển bảo toàn chúng sanh
Tam nhựt Mậu tâm thành kỉnh Mẫu
Tấm lòng son vọng thấu Diêu-Cung
Gia gia sum họp trùng phùng
Dân an quốc thới hưởng chung thanh bình
Mùa màng được tươi xinh sung-túc
Mẹ độ con từng phút từng giây
Núi sông vũ-trụ đó đây
Chính do Hoàng Mẫu dựng gầy tạo nên
Linh điển Mẹ dưới trên phân rõ
Tâm chơn kinh Mẹ tỏ lời châu
Hoằng khai đại đạo nhiệm mầu
Hoá sanh bốn biển năm châu tươi nhuần
Phật Mẫu ngự thượng từng độ thế
Điển chơn linh phước huệ rải ban
Tâm kinh Mẫu dạy rõ ràng
Con lành hiếu thảo đàn tràng cung nghinh
Phước lộc thọ hiển vinh do Mẫu
Trọn đủ thời Kỵ-Mậu hằng niên
Dân an nước thạnh nhà yên
Lời châu Mẫu dạy gắng chuyên tu trì
Thơ thâm diệu huyền vi cơ bút
Mẹ truyền kinh dưỡng dục chúng sanh
Xưa vua Bàn-Cổ phong danh
Diêu-Trì Phật-Mẫu hóa sanh muôn loài
Chơn-linh Mẫu xét-soi vũ-trụ
Điển âm-dương kết-tựu anh-nhi
Thượng tầng Mẫu ngự phương-phi
Phân ra thiên địa trị vì chúng-sinh
Địa Mẫu truyền chơn kinh tâm huyết
Khí âm-dương hội hiệp cùng nhau
Mưa hoà gió thuận tươi màu
Hoá sanh nhơn-loại ngạt-ngào chơn thân
Vậy ai mới bước lần đường đạo
Phải giữ lòng hiếu thảo trì kinh
Lời châu Mẹ dạy huyền linh
Hoàng-Thiên xá tội hiển vinh thanh nhàn
Cầu lịnh Mẹ bảo toàn sanh chúng
Độ nhơn-sanh giữ đúng hạnh Tiên
Từ đây Thiên Địa phân riêng
Âm dương chơn khí linh nguyên chẳng rời
Nhựt nguyệt tinh phương trời sáng tỏa
Máy huyền vi hiện rõ thần thông
Mẹ phân Nam, Bắc, Tây, Đông
Bốn phương tám hướng bao vòng càn khôn
Điển thiêng Mẹ bảo tồn vĩnh cửu
Chốn trung-ương Mẹ thủ địa châu
Linh quang chiếu sáng nhiệm mầu
Thiên tiên bảo dưỡng gồm thâu nhơn lành
Phu quân Mẫu trường sanh bất lão
Tài cao minh sáng tạo huyền vi
Thiên lung địa á diệu kỳ
Tri âm phối hợp phục-quy Diêu Đài
Thiên Địa lập âm lai dương khứ
Khí thần giao gìn giữ điển linh
Đất trời do tạo hóa sinh
Pháp luân thuần chuyển siêu hình căn nguyên
Chính Mẹ tạo tôi hiền chúa Thánh
Phủ điển linh chơn tánh tâm thanh
Thiên-can thường chuyển vận hành địa-chi
Thần với khí tựu thì thai Thánh
Mẹ cưu mang canh cánh thập niên
Tình thâm Mẫu-Tử thiêng liêng
Mười thu đúng nhựt chia riêng quẻ hào
Trong bát quái phân vào tám hướng
Tám quẻ do mỗi hướng định ra
Sáu hào một quẻ đó là
Ba trăm tám bốn tẻ ra các hào
Trúc cơ mãn nguyệt vào giờ đúng
Thập niên trường chuyển dụng Thánh thai
Minh quân xuất thế trần ai
Sáu vì thiên-tử phi tài huyền quang
Mẹ phán vua Thiên Hoàng con trưởng
Đến Địa-Hoàng Mẹ thưởng thứ hai
Nhơn Hoàng tam đệ thiên tài
Còn ba vị nữa phân rày sao đây?
Vua Phục-Hy, ngài hay biến hóa
Bát quái phân phát họa hiển linh
Chỉ rành tám hướng thinh thinh
Âm-dương vũ-trụ quang-minh phân bày
Vua Thần-Nông phi tài ngũ cốc
Sắc lịnh gieo châu ngọc khắp nơi
Đó là hạt giống của Trời
Sanh ra lúa gạo giúp đời an khang
Vua Hiên-Viên tạo ban y-phục
Đem ấm no hạnh phúc vạn dân
Lưu truyền cơm áo chốn trần
Để cho người thế tấm thân thanh nhàn
Vũ-trụ do Mẫu-Hoàng xuất phát
Mẫu tạo ra Bồ-Tát, Thần, Tiên
Thượng từng bao phủ điển thiêng
Chẳng rời xa khỏi Mẫu hiền dưỡng sanh
Nhìn biển cả trời thanh nước biếc
Khắp bốn mùa tám tiết trở xây
Gió ngàn toả lượn tầng may
Hoá sanh nhơn loại cỏ cây thú cầm
Có ngũ nhạc bổng trầm ngân trổi
Khắp muôn nước Từ-Mẫu dưỡng sanh
Các đời vương đế đại danh
Từ trong thân Mẫu trưởng thành mà ra
Danh làm có năm toà thắng cảnh
Chôn lâm sơn tuyết lạnh sương rơi
Có cây cổ thụ sống đời
Sắc dân trăm họ do nơi Mẫu thành
Năm giống lúa tươi xanh vun dưỡng
Sáu thứ gạo dành thưởng nhơn sinh
Nhân dân no ấm hiển vinh
Sống nhờ điển Mẹ huyền linh phủ đầy
Khi lìa thế gởi thây thân Mẫu
Sự hóa sanh dời đổi vô thường
Thân Mẹ là chỗ tựa nương
Từ-Tôn Địa-Mẫu nguồn thương ngập tràn
Nào châu quận thôn làng tỉnh huyện
Kìa lầu đài cung điện nguy nga
Am, chùa, quán xá lập ra
Hiền thần, tiên, thánh, mẹ đà thưởng phân
Chư Phật đắc kim-thân do Mẫu
Cả trân châu ngọc bửu đó đây
Thiếu chi kẻ ước việc nầy
Lòng tham mơ tưởng mấy ai đạt thành
Loai kim khí bạc vàng qúi báu
Tất cả do Mẫu tạo xuất ra
Vương hầu vạn quốc gia gia
Cũng do lịnh Mẹ ban ra tôn sùng
Người chốn thế hiếu trung hưởng phước
Bao huyền linh sau trước Mẹ ban
Dân an quốc thới thanh nhàn
Đế-vương cung kỉnh Mẫu-Hoàng Từ-Tôn
Nước nào bị dập dồn chinh chiến
Cũng do nơi Mẫu chuyển phạt hành
Vậy ai nào biết đến danh
Huyền linh quang điển Mẹ dành đó đây
Có tạo lãnh theo đầy lụa vải
Cùng qua hoa rau cải trái cây
Nào là chua ngọt đắng cay
Lúa ăn, thuốc uống, rừng cây ai tường
Hành, ớt, hẹ, gừng, đường, tiêu, tỏi
Khắp nhơn sinh ai khỏi bịnh đâu
Hoá sanh linh dược nhiệm-mầu
Cao lương mỹ-vị thiếu đâu vật nào
Lại có giấm, chanh, dầu, tương, muốn
Suối nào bằng nguồn suối tình thương
Mẹ ban trăm vạn mùi hương
Lao tâm tổn huyết đoạn trường vì con
Công lao Mẹ bút son khó tả
Tình bao la biển cả khó hơn
Khổ đau Từ-Mẫu chẳng sờn
Nỡ nào quên dứt nghĩa ơn cho đành
Vật ăn uống Mẹ dành con đó
Sản phẩm do Mẹ hóa tạo ra
Cân đai áo mão phù hoa
Bạc tiền vật dụng biến ra hằng ngày
Mẹ chẳng thấy một ai lòng tưởng
Thân mẫu sanh ban thưởng khắp nơi
Vật chi chẳng sót trên đời
Mẫu không nghe co một lời nhớ thương
Trong vũ-trụ tuần hườn tạo hóa
Do Mẫu sanh ra quả địa-cầu
Biến dành sáu ngả luân hồi.
Biết bao sản vật hoa mầu tốt xinh
Kẻ thế đâu rõ tình thâm Mẫu
Dầu Hoàng-Thiên khó nỗi sánh hơn
Trên đời mưa đổ từng cơn
Dưới đất Mẹ hóa huyền chơn phép mầu
Giòng mưa tuôn ngọt ngào cam-lộ
Ngũ cốc dành hóa độ nhơn sanh
Cỏ cây tươi tốt hương thanh
Địa châu thấm giọt mưa lành phì nhiêu
Chính hơi nước thâu nhiều mạch huyết
Bao tinh vi sương tuyết giá băng
Đài mây gom tựu phủ giăng
Gặp luồng quang điển biến tan mây liền
Mưa tuôn xuống trần miền toả khắp
Cù rồng kia trốn nấp ngàn sông
Lãnh phần vận chuyển gió giông
Mẹ truyền hóa võ hô phong ứng hầu
Cù rồng ở xứ nào chẳng có
Ẩn biển sâu làm gió chuyển mây
Đều do lịnh Mẹ phán bày
Ơn trên chiếu triệu dám rày cãi đâu
Muôn thu vẫn nằm sâu lòng đất
Mẹ dưỡng nuôi âm chất hoằng khai
Nhọc nhằn nào quản đắng cay
Điển quang huyền diệu đêm ngày dưỡng sanh
Chốn dương trần con lành toạ hưởng
Bao nhiệm mầu Mẹ thưởng hồng ân
Tất cả do lịnh Mẫu phân
Công dầy chẳng thấy người trần ghi tâm
Mẹ thương con dạ thầm đau thắt
Chẳng bao giờ nhắm mắt nghỉ đâu
Điển quang nếu Mẹ rút thâu
Càn khôn, vũ-trụ, địa cầu tiêu tan
Khi cá ngao trở ngang vũng vẫy
Thiên địa đành chịu phải rả đôi
Dương trần như thể bèo trôi
Cảnh đời trống rỗng thảm sầu nạn tai
Ngoại càn khôn Như-Lai tạm ẩn
Chư Bồ-Tát tàn lẫn biệt tin
Từ vua chúa đến quân binh
Sẽ điều tận diệt nhơn sinh điêu tàn
Phương hướng đành tiêu tan tất cả
Như ở trong lò hỏa bị thiêu
Muôn loài vạn vật bao nhiêu
Phải đành chịu cảnh quạnh hiu khổ sầu
Mẹ phán truyền lời châu cao quý
Ai sưu tầm diệu lý quang-minh
Tâm thành khảo sát chơn kinh
Thọ trì giảng nói chúng sinh hiểu rành
Từ-Tôn chiếu điển lành ban phước
Sắc lịnh phê người được hiển vinh
Phi tài huyền diệu cao minh
Mẫu-Từ giáng bút ngọc-linh-chỉ truyền
Nhập vào tâm kẻ hiền sáng suốt
Chơn khí như ánh đuốc thiên nhiên
Mẫu cho phản bổn hườn nguyên
Chơn thần đúng ngoạt xuất liền chẳng sai
Tinh khí hiệp cho ai dưỡng tánh
Gắng tâm tu hưởng cảnh thượng đài
Khai tâm trung chuyển đạo ngay
Lý chơn thông hiểu chớ rày bỏ qua


Cần quán tưởng sâu xa kinh Mẫu
Chớ khoe tài nông nổi mà chi
Chơn kinh lịnh Mẹ khó bì
Quần thần văn võ chẳng khi lời vàng
Đại Từ-Tôn Mẫu-Hoàng cao cả
Ân đứt dày vong ngả đành sao
Tao nhân mặc khách anh hào
Nông, thương, công, sĩ nỡ nào lảng ngơ
Không đền đáp tôn thờ cung kỉnh
Nỡ vô tâm chẳng kính Mẫu hiền
Thâm sâu nghĩa cả thiêng liêng
Đành lòng bội bạc chơn truyền lời châu
Chánh pháp đạo nhiệm mầu ai rõ
Giả đò như chẳng tỏ ngộ chi
Phụ ân Từ-Mẫu Diêu-Trì
Đoạ đày muôn kiếp chẳng thì tái sanh
Muốn biết rõ tánh danh Phật Mẫu
Hãy lắng nghe lời Mẫu phân rành
Lão Bà Hỗn-Độn hóa sanh
Thuở còn mù mịt trược thanh chưa tường
Thiên Địa chia âm dương chơn khí
Thập nhị muôn niên kỷ giáng lâm
Tuổi thọ chín ngàn sáu trăm
Thời gian xuất thế khổ tâm nhọc nhằn
Muôn ngàn năm khuyên răn dạy dỗ
Ngày biệt ly diệt độ chẳng ngờ
Mẫu Hoàng từ giả con thơ
Hoá thân chớp nhoáng phút giờ chia tay
Hư không ngự mây đài thượng cõi.


Điển quang-minh chiếu rọi khắp nơi
Huyền vi biến hóa chuyển đời
Truyền Kinh châu ngọc bao lời thiết tha
Chẳng thấy ai lệ sa nhớ Mẫu
Chốn trường giang gợi nỗi nhớ thương
Ngự thuyền lướt sóng trùng-dương
Nào ai để dạ vấn vương lòng sầu
Mẹ thương con chẳng câu phiền trách
Lòng ước mong huyết mạch trùng phùng
Sớm về điện ngọc Diêu-Cung
Con lành cố gắng hiếu trung tu hiền
Hội Tý-Sửu khai thiên tịch địa
Vạn sự thành hiếu nghĩa vi tiên
Chơn kinh Phật Mẫu diệu huyền
Hơn trăm tám chục câu khuyên răn đời
Mỗi câu mỗi ý lời Mẹ thuyết
Cũng từ nguồn mạch huyết chảy ra
Gồm bao lời ngọc thiết tha
Chẳng phải lầm lạc đâu mà ngờ nghi
Khắp gia gia điều trì niệm mãi
Thì mùa màng cây trái hoằng sai
Ấm no hưởng lạc trần ai
Cuộc đời chẳng bị nạn tai dập dồn
Điển quang Mẹ bảo tồn trường cửu
Độ con thơ hội đủ Diêu-Cung
Nếu ai chẳng tín bất tùng.
Mùa màng ruộng rẫy sâu trùng bọ ăn
Cuộc sống đành khó khăn đau khổ
Nhân sinh lâm vào chỗ hiểm nguy
Không mong sống sót được gì
Đại kiếp thủy hỏa phong phi ngập tràn
Đại Từ-Tôn Mẫu-Hoàng cho biết
Đúng trăng mười vào tiết trời đông
Mẫu-Từ xuất hiện thần thông
Vào ngày thập bát trần hồng giáng sinh
Mẹ phủ hết điển linh quảng đại
Tâm huyết thư để lại chơn kinh
Kim ngôn siêu thoát quang minh
Từ-Tôn bảo dưỡng chúng sinh an toàn
Là con hiếu đàn tràng cung kỉnh
Mỗi hằng niên nguyện thỉnh Mẫu-Từ
Đúng ngày thập bát trăng mười (Ngày 18 tháng 10)

Gia gia tụng niệm người người trì kinh
Lập đại lễ hoa xinh, trà, quả
Dâng hương đăng tất cả khiết tinh
Cùng nhau hội hiệp trì kinh
Sớ dâng Từ-Mẫu chứng minh con lành
Nếu như có nhơn sanh hiền sĩ
Truyền bá kinh nghĩa lý đủ đầy
Từ-Tôn đài thọ ân dầy
Cháu con hiền sĩ từ đây huy hoàng
Hưởng lộc thọ vinh quang phú quý
Hạng phu nhơn bần sĩ hiền thần
Truyền kinh phổ biến xa gần
Gia gia vui hưởng muôn phần ấm no
Mẫu hứa sẽ ban cho con thảo
Năm trai lành kế tạo lửa hương
Hai gái hiếu đạo thuần lương
Đời đời nối dõi tổ đường tông môn
Nam nữ nào sùng tôn kính Mẫu
Kỉnh lễ ngày Kỵ-Mậu thành tâm
Mẹ ban phước lộc cao thâm
Thiên xuân vạn đại hưởng âm-đức dầy
Xứ phương nào hằng ngày cúng vía
Đàn tràng cần bốn phía an ninh
Bảo toàn tánh mạng chúng sinh
Mẫu-Hoàng phủ điển ứng linh lời nguyền
Quốc dân nào kiền thiền vọng bái
Thọ trì kinh nhớ mãi thâm ân
Mẫu từ cho xuất Thánh nhân
Thông minh xuất chúng muôn phần huyền-linh
Công đức Mẫu vô hình khó tả
Dầu lâm sơn biển cả khó hơn
Ai mà đáp nghĩa đền ơn
Phải sùng am-tự, hoạ, sơn tượng hình
Rồi dâng lên hương linh thờ phượng
Tạo lập thành tâm, tưởng, bái, tôn
Diêu-Trì Phật Mẹ linh hồn
Hiếu tử làm đặng y ngôn-kim truyền
Mẹ sẽ nhận con hiền dâu thảo
Gắng sức xây tái tạo mau đi
Tùy gia phương tiện hữu vi
Chẳng cần tiền bạc nhiều chi đâu nào
Mẫu chứng lòng thanh cao tâm hảo
Sẽ ghi tên con thảo danh đề
Thẹ ngọc Mẹ chuyển bút phê
Tâm phàm phủi sạch trở về Diêu-Cung
Bởi vì con tận trung tận hiếu
Đắc quả cao cửu khiếu khai minh
Con hiều thọ hưởng trường sinh
Nhờ lòng quảng đại quang minh tâm lành
Mẹ sắc tứ phong danh muôn thuở
Chánh quả thành dứt nợ trần ai
Ban cho cửu phẩm liên đài
Trung ương thượng quốc về ngay đền vàng
Thành Đại-La nghiêm trang qúy báu
Phu phụ đồng đắc đạo kim thân
Mẹ ban thọ hưởng hồng ân
Lưu danh bửu điện muôn phần vẻ vang
Đức Từ-Tôn Mẫu-Hoàng bảo dưỡng
Trải hết tâm vô lượng vô biên
Ngự nơi cõi thượng thiêng liêng
Độ cho quốc thới dân yên thanh bình.


NAM-MÔ VÔ-THƯỢNG HƯ-KHÔNG ĐỊA MẪU DƯỠNG SANH BẢO MẠNG CHƠN KINH.







ĐỊA MẪU DIỆU KINH


Phật-Mẫu tuy vô hình vô tướng
Mẹ cầm quyền phạt thưởng nhơn sanh
Ban ra lời ngọc chơn kinh
Khảo sát đạo lý khai minh địa cầu
Thuở hỗn độn một bầu không khí
Còn mịt mù vô thỉ biết đâu
Phật Mẫu đã ngự đó rồi
Phật ra Thiên Địa hoàn cầu chuyển xây
Mẹ đứng ra làm Thầy trước nhất
Đạo hoằng khai lời thật huyền linh
Phổ thông truyền bá chơn kinh
Phân bày phong tục nhân sinh sáng ngời
Chốn phàm trần đến đới nguơn hạ
Mẹ giáng cơ bút tả chơn kinh
Ai truyền ấn tống phổ in
Mẫu-Hoàng bảo hộ khương ninh cửu trường
Người nào đầy lòng thương tiếp dẫn
Giúp chúng sanh ngộ nhận đạo chơn
Dựng đời thạnh trị thượng nguơn
Hết lòng chỉ giáo linh nhơn tỏ tường
Khắp thế-giới thập phương cung kỉnh
Rán niệm trì nguyện thỉnh lời châu
Đắc thành sở nguyện mong cầu
Vậy mà chẳng thấy người nào lưu tâm
Hoặc gia gia tháng năm ghi nhớ
Lưu truyền kinh từ thuở ban hành
Kẻ nào tụng niệm chơn thành
Thánh tiên đắc đạo rạng danh lâu rồi
Ai chẳng tín bất cầu ác cảm
Chê bai rằng mờ ám không tùng
Đến khi nào lúc lâm chung
Hồn linh kẻ ấy vô cùng khổ đau
Ngục a-tỳ sa vào miên-viễn
Đoạ đày người lắm tiếng dể kinh
Sanh lòng nhạo báng lý kinh
Tội như biển cả mông mênh thảm sầu
Gây nhiều lỗi thảm sâu đại hải
Mẹ chẳng phiền phải trái chi đâu
Xét ra khắp cả hoàn cầu
Đều do lịnh mẹ pháp mầu chuyển ra
Mẹ thương con vi tha tất cả
Nào thấy ai để dạ xót thương
Đắng cay khổ nhọc ai tường
Rõ thông nỗi khổ đoạn trường biết bao,
Trang nữ-kiệt anh-hào chí hiếu
Bố cáo cho người hiểu rõ ràng
Đứng ra giải đáp lời vàng
Cho người trần thế dương gian tri tường
Khắp thiên tai phải quanh hiu sầu
Dập dồn nhiều cảnh khổ đau
Họa tai trước mắt tránh đâu bây giờ?
Mẹ thương con đề thơ phân tỏ
Lại chẳng nghe ghi rõ lời châu
Cuộc đời thế sự bể dâu
Mẹ đà tường tận đoán rồi tiên tri
Dầu khó khăn việc chi nguy khốn
Mẹ bình trị chỉnh đốn khắp nơi
Phán truyền bày tỏ bao lời
Hoá sanh hoằng đạo khai đời dưỡng sanh
Phật Mẫu có phân rành tất cả
Bảy mươi hai vị đã lãnh phần
Đương kim hành sự xa gần
Duy mình Mẫu chẳng cùng ai cả
Khắp ở trong thiên hạ xứ nào
Lập chùa tạo miễu đền cao
Phụng thờ thần thánh ra vào cung nghinh
Đến tánh danh cũng chớ tường tri
Một ngôi miễu nhỏ vậy thì cũng xong
Bởi chúng sanh bạc lòng chẳng nghĩ
Nên cam đành khổ luỵ sầu bi
Quanh năm bao cảnh loạn ly
Trời mưa không thuận đất thì không sanh
Mẹ thương con chẳng đành đoạn dứt
Tình thiêng liêng bút mực ghi rằng
Các con lớn nhỏ nghe chăng?
Thọ trì kinh Mẫu khó khăn cũng lành
Khắp nhơn sinh điều hành tâm đạo
Giúp cho đời cải tạo ăn năn
Chẳng luận cao thấp ngang bằng
Dầu cho trẻ nhỏ lòng hằng trì kinh
Chín tuổi biết cung nghinh đọc tụng
Điển huyền vi hữu dụng Mẹ ban
Cốt nhục xa cách lạc đàn
Mẹ cho tái hợp bình an sum vầy
Vui trong cảnh bao ngày cách biệt
Dầu chia tay cũng hiệp cùng nhau
Không phân hai bậc thấp cao
Ai ai cũng được truyền trao kinh nầy
Khắp non nước Đông, Tây, Nam, Bắc
Phổ biến kinh để nhắc nhở lòng
Thập phương bá tánh rõ thông
Nếu chẳng khứng thọ chắc không sanh tồn
Bao nguy khổ dập dồn đau xiết
Nạn thiên tai thủy kiệt sơn băng
Chúng sanh ngã gục nhào lăn
Lâm vòng đại nạn thoát chăng được nào?
Hiện bây giờ ốm đau bịnh tật
Sanh ra nhiều chứng thật gớm ghê
Khắp trong tất cả thành quê
Thảy đều thọ nạn ê-chề khổ thân
Bị nắng hạn mưa dầm ngập hết
Thổ sản nầy ngã chết chẳng còn
Đói lòng quằng quạy các con
Vậy khuyên rán nhớ lời son Mẫu-Từ
Mẹ khuyên con tâm thư lời cuối
Gắng tâm tu thông suốt lý kinh
Truyền trao giải nghĩa phổ in
Cho người trì tụng hiểu kinh kịp thời
Chúng con sẽ thấy đời hết khổ

Nội trong năm phổ độ đầu tiên
Mưa hòa gió thuận khắp miền
Mùa màng sung túc thấy liền chẳng sai
Lập đàn tràng bái Mẫu trì kinh
Dâng đèn sáp thiệt quang minh
Từ-Tôn phủ điển nhơn sinh phúc dầy
Mỗi trăng có ba ngày Mậu-Kỵ
Hãy thành tâm bền chí cúng dường
Kỉnh đàn, đăng, thủy, hoa, hương
Ngoài ra tất cả ngày thường khỏi lo
Việc cúng kiến phải cho tinh khiết
Cố gắng tu tha thiết cần chuyên
Lo tròn phận sự hằng niên
Ba mươi sáu nhựt kiền thiền trì kinh
Sắm lễ vật cung nghinh Từ-Mẫu
Trong các ngày Kỵ-Mậu lập đàn
Gồm có sáu ngọn đăng quang
Quả hoa tươi thắm hương phàn năm cây
Sáu chung nước lọc đầy đủ lễ
Cùng chung nhau họp để kỉnh đàn
Thuyết kinh giải lý rõ ràng
Mỗi người đều định tâm an thọ trì
Ai xứ nào làm y lời dạy
Định tinh-thần tụng bảy biến kinh
Tiêu bao nghiệp chướng tội mình
Hưởng đời ngươn thượng huyền linh sanh tồn
Ai cố gắng sớm hôm trì tụng
Thêm hai thời chuyền dụng tâm thành
Mẹ ban huyền diệu điển thanh
Tự tay cứu chữa mạnh lành nội gia
Đức Từ-Tôn truyền ra cho biết
Các con cần tha thiết ghi lòng
Lúa mạch gần chín đầy đồng
Hiện ra móng bạch hư-không rõ ràng
Gió từ đâu thổi sang rất mạnh
Trong niên nầy gặp cảnh phong ba
Khổ sầu từ trẻ tới già
Chúng sanh phải chịu thiết tha cơ-hàn
Nạn đói lạnh lầm than đau xiết
Là điềm trời ứng thiệt rõ ràng
Thiên đình thâu hạt lúa vàng
Thần linh ngũ cốc lịnh ban về Trời
Gieo họa cho cảnh đời khốn khổ
Tuy vậy mà có chỗ cũng chừa
Nơi nào kỉnh Mẹ sớm trưa
Trì kinh Địa Mẫu phước thừa bình an
Mẹ bảo hộ vững vàng nơi đó
Được trúng mùa mưa gió thuận hòa
Ai từng phổ biến gia gia
Tuyên truyền kinh Mẫu đứng ra giãi bày
Phổ thông in đủ đầy nghĩa lý
Mẫu sẽ sai các vị thiên thần
Gia thần ủng hộ ân cần
Đồng theo độ kẻ xa gần thành tâm
Được phúc lành tháng năm no ấm
Trên thiên đình ghi chấm phước ban
Nội gia kẻ đó thanh nhàn
Sẽ được thạnh phát vinh quang muôn phần
Thanh-Long, Bạch-Hổ thần cũng giáng
Phò tá người xứng đáng con lành
Tư-Tôn cho biết rõ rành
Trăng mười thập bát giáng sanh trần miền ](vào ngày 15 tháng 10 âm lịch)

Đến giờ ngọ kiền thiền kỉnh Mẫu
Chẳng có nên dời đổi thời gian
Sửu, mùi, thìn, tuất không an
Đúng giờ nhứt định lập đàn trì kinh
Cầu lịnh mẹ thương tình cứu khổ
Phủ điển linh phổ độ chúng sanh
Các con tựu họp tâm thành
Được ban mầu nhiệm phúc lành khắp nơi
Mẹ hiền Thánh xuống đời tri chứng
Phương hướng nào bền vững chí tâm
Thưởng hành kỉnh Mẫu diệu thâm
Ngày đêm thành kỉnh tháng năm thanh nhàn
Còn lo chi mùa màng chẳng trúng
Gia nào hay trì tụng kinh nầy
Phước lành sẽ được hưởng ngay
Thăng thiên đắc quả chẳng sai chẳng lầm
Hưởng qúi tế cao thâm lộc cả
Thọ hương đăng trà quả vinh sang
Chơn kinh của đức Mẫu Hoàng
Gồm bao diệu lý lời vàng ngọc châu
Kinh Địa Mẫu đứng vào bậc nhứt
Chẳng tường phân ý-thức suy tầm
Người đời còn bởi mê tâm
Chẳng nên kinh dể lỗi lầm tội mang


Ai tỉnh ngộ lập đàn cung kỉnh
Thọ trì kinh nghiêm chỉnh cúng dường
Nạn tai nghiệp chướng lỡ vương
Một ngàn muôn kiếp thoát đường trầm luân
Kinh Địa Mẫu thấm nhuần đạo lý
Gắng cần chuyên nghiệm kỷ lời khuyên
Hằng ngày ròng rã khuẩn quyền
Được nhiều công đức tội liền tiêu tan
Kinh Mẫu hơn muôn ngàn kinh khác
Ai chí tâm hiển đạt phúc lành
Rõ thông từng chữ hiểu rành
Người đó sẽ được Mẹ dành hồng ân
Điển huyền linh xa gần chiếu toả
Phóng hào quang khắp cả bầu trời
Thưởng người hiểu rõ từng lời
Tâm-tư kẻ đó sáng ngời minh châu
Ai thông đạt từng câu nghiệm kỹ
Đã tri tường nghĩa lý diệu kinh
Có thể gội sạch tội mình
Bao nhiêu nghiệp chướng oan tình tiêu tan
Như ai rõ từng hàng Mẫu dạy
Qua nạn tai sắp xảy đến mình
Lại còn hưởng được phước vinh
Tam tài lộc thọ khương-ninh thanh nhàn
Nếu ai hiểu được toàn kinh quyển
Thì đích danh Mẫu chuyển điển quang
Luôn được phước lộc bình an
Đời đời kiếp kiếp Mẹ ban phúc dầy
Như nghe thuyết kinh nầy chẳng tưởng


Lại bỏ qua không lượng tường tri
Mà lòng chẳng khứng thọ trì
Bị khép vào tội khinh-khi Phật Trời,
Tội phỉ báng bao lời xúc phạm
Lâm vào cảnh khóc thảm sầu than
Ngày ấy chẳng có kêu oan
Phải đành vương tội gian nan ngục hình
Sẽ lâm vào bao nỗi thiết tha
Đại kiếp thủy hỏa phong ba
Thảy đều chết rụi đâu mà còn chi
Lòng Mẫu-Từ nghĩ suy đau xiết
Muốn hưu hủy đại kiếp phong ba
Nạn thủy hỏa sắp xảy ra
Thương cho sanh chúng phải sa cảnh sầu
Ngặt chúng chẳng quay đầu trở lại
Tuân theo lời Mẫu dạy trong kinh
Mẹ muốn bỏ sổ tử hình
Vì thấy số phận chúng sinh chết nhiều
Mẹ tính mãi bao điều phương-kế
Chẳng đành lòng bỏ phế lảng ngơ
Tình thương vô bến vô bờ
Làm sao cứu được con thơ trở về
Mẹ dùng chước mầu phê sắc lịnh
Phán phân rằng chỉ định thế nầy
Truyền thần thiện ác đến đây
Chia làm hai phái lướt mây xuống trần
Người hung dữ ác thần dẫn dắt
Nhập cùng chung kẻ bất lương tâm
Độc ác, tàn nhẫn, đa dâm
Chia ra tất cả chẳng lầm lộn chi
Bậc hiền lương phương-phi quân-tử
Thiện thần gom lại giữ một nơi
Đưa vào chánh giác kịp thời
Ngày đêm tu niệm quên đời gian nan
Chờ đến ngày hạ màn chung cuộc
Mẫu sẽ vảy ra một cái chài
Dầu cho thiện, ác phân hai
Tóm thâu tất cả một chài nhốt chung
Liên luỵ kẻ tận trung hiếu thảo
Người tu hành học đạo kinh tâm
Chừng đó mới thấy diệu thâm
Mẫu-Từ sẽ chuyển huệ tâm trẻ lành
Được sống sót nhàn thanh đủ trí
Biết tường phân chánh lý đường tà
Thiện gần ác lại tránh xa
Từ đó các đạo mở ra khai hoằng
Đồng xui lòng ăn năn qui-tựu
Chánh đạo Mẫu hội đủ đem về
Chẳng còn chia rẽ khen chê
Phân ra nhiều mối khó bề tường phân
Hình tướng chài phép thần mầu nhiệm
Mẫu tả ra những điểm rất cần
Nhị thập bát tú phân thần,
Phủ vây chánh bắc giáp gần chánh nam
Còn phương hướng tây nam tây bắc
Các vị thần giáp mặc bông bào
Gồm sáu mươi vị tài cao
Mẫu-Từ phán lịnh truyền trao lời vàng
Tuân lời dạy thiên-can mười vị
Thập nhị thần đình chỉ địa-chi
Tất cả tinh tú các vì
Ủng hộ Hoàng-Đế Thái-Vi hoàn toàn
Đức Từ-Tôn Mẫu-Hoàng điều khiển
Thần Lôi-Công, Lôi-Điển tám phương
Phân thân trấn thủ phi-thường
Sáu mươi bốn quẻ tỏ tường diệu thâm
Hiện nguyên hình tay cầm binh khí
Đứng dàn ra trực chỉ đó đây
Khắp trong thiên hạ đủ đầy
Trận đồ của Mẫu lập xây hạ miền
Cõi trời Nam từ niên Đinh-Hợi
Đến niên Thân-Dậu mới thiệt rồi
Biết bao huyền-bí nhiệm-mầu
Tại nơi hạ giới thảm sầu thiết tha
Mẫu-Từ bủa Thiên-la địa-võng
Sức đại hùng vang động kinh hồn
Thần sầu Qủi khóc vong tồn thảm thương
Còn Tứ-Đại Thiên-Vương tiếp lịnh
Bốn cửa trận Mẫu định trấn an
Tám vị thần lực kim-cang
Xông vao trận hóa pháp đàn thần thông
Làm trời đất hư không nghiêng ngả
Nhựt nguyệt tinh châu hỏa đảo xây
Cũng như chong chóng lăn quây
Thế rồi lặn mất không ngày hiện ra
Mẫu thâu lại yêu ma tà mị
Kẻ bất lương phải bị luật hình
Hô phong hoán võ lôi đình
Làm cho sóng nổ nước minh mông tràn
Lửa dậy khắp dương gian nguy khổ
Trận cuồng phong bảo tố khắp vùng
Mẫu tận diệt đứa bất trung
Xử người bất nghĩa chẳng dung tha nào
Đến chừng đó vàng thau mới rõ
Mẫu thâu xong ngày đó bình an
Nước rút sóng lặng gió tan
Sẽ thấy vũ trụ dương gian tươi nhuần
Chỉ còn người hiền luân sống sót
Kẻ thiện lương được thoát khỏi vòng
Thế là Mẫu dụng huyền công
Diệu pháp hóa biến thần thông lẹ làng
Kinh đô có sen vàng đua nở
Bốn phía vòng khắp ở thị thành
Các con hiếu thảo hiền lành
Đến chừng khi đó Mẫu dành hồng ân
Được đổi xác kim thân bất hoại
Chẳng từ sanh thoát khỏi nghiệp duyên
Chứng đặng Đại-La Tiên-Thiên
Bởi nhờ cố gắng tu hiền thành công
Hội bàn đào thưởng đồng tất cả
Các con nào đắc quả dự vào
Thế rồi vĩnh viễn về sau
Chẳng còn chuyển kiếp khổ đau trần miền
Chúng con được niên niên bất tử
Khoái lạc tiêu diêu ngự cảnh nhàn
Giống cảnh Diêu Điện Mẫu-Hoàng
Luôn hưởng lộc thọ phước an cửu trường
Phật Mẫu ngự trên thượng tầng cõi
Khoằng khai dưỡng nhơn loại bảo toàn
Hết lòng quảng đại sắt son
Hoá sanh dạy dỗ các con phản hồi.


NAM-MÔ VÔ-THƯỢNG HƯ-KHÔNG ĐỊA MẪU DƯỠNG SANH BẢO MẠNG CHƠN KINH.





LẠY ĐỊA MẪU


--------


1. NAM MÔ _ Con kính lạy địa Mẫu đấng tối cao vô thượng
Đã giáng lâm phò hộ thế gian nầy
Với anh linh cũng đức độ cao dày
Công tế thế an bang danh còn đượm.


2. NAM MÔ _ Con kính lạy Địa-Mẫu ân độ sanh vô lượng
Ân bão trì cứu tử lại vô biên
Mẹ của nhân gian mẹ Thánh mẹ Hiền
Hàng Phật tử chúng con nguyền ghi mãi.


3. NAM MÔ _ Con kính lạy Địa-Mẫu đấng mẫu nghi tứ hải
Danh vang lừng khắp cả nước non tiên
Xuống trần gian làm Phật Mẫu mẹ hiền
Để cứu độ chúng sanh cơn hoạn nạn.


4. NAM MÔ _ Con kính lạy Địa-Mẫu đấng anh linh vô hạn
Xin mẹ ban phép lạ cứu trần gian
Đang sống trong nghiệp chướng chốn trần hoàn
Xin tế độ cho muôn loài hết khổ.


5. NAM MÔ _ Con kính lạy Địa-Mẫu xin mẹ ban ân lành
Cho Việt-Nam Phật giáo thịnh hành
Được tôn nghiêm mầu nhiệm với viên thành
Cho con mẹ bốn phương đều kính mẹ.


********



NGŨ CANH TỪ



_ Canh một nhìn trần lệ tuôn rơi
Chúng dân khổ luỵ nạn tơi bời
Nên lo tu tỉnh này con dại
Lạy Mẹ nguyện cầu bể khổ vơi


_ Canh hai điển lực rải mọi nơi
Thiện nhân tu tỉnh được thảnh thơi
Sao không cố gắng tu trì vậy?
Thương xót con, mẹ chẳng nghỉ ngơi.


_ Canh ba lụy mẹ nhỏ tràn trề
Hết lời kêu gọi con tỉnh mê
Cuộc đời say đắm đường vật chất
Chôn lắp linh quang cản lối về.


_ Cứu vớt cuộc đời giấc nam kha
Canh tư đẫm lệ cõi ta-bà
Điển linh ban xuống lời từ ái
Kêu gọi thiện nhân nhủ mẹ già.


_ Canh năm trầm ngâm suy diệu huyền
Bố ban huyền diệu dứt oan khiên
Thiện nhân cứu vớt tu hành vậy
Di lạc oai linh dạy chư hiền.


NAM-MÔ VÔ CỰC THIÊN TÔN DIÊU TRÌ
HOÀNG MẪU VÔ LƯỢNG TỪ TÔN
ĐẠI TỪ TÔN A DI ĐÀ PHẬT





MA-LA BÁT-NHÃ BA-LA MẬT-ĐA
TÂM KINH

----------


Tâm trí huệ thinh thinh rộng lớn,
Sáng trong ngần, chẳng bợn mảy trần.
Làu làu một tánh thiên châu,
Bao trùm muôn loại chẳng phân thánh phàm.


Vận tâm ấy lặng trang sáng suốt,
Cõi bờ kia một bước đến nơi,
Trải lòng tròn đủ xưa nay,
Công thành quả chứng tỏ bày đích đang.


Hàng Bồ-Tát danh Quan tự tại
Khi tham thiền vô ngại đến trong
Thầm vào trí huệ mở thông,
Soi thấy năm uẩn cũng không khó gì.


Luống tất cả không chi khổ ách,
Trong thức tâm hiện cảnh sắc ra,
Sắc không chung ở một nhà,
Không chẳng khác sắc, sắc nào khác không,


Ấy sắc tướng, cũng đồng không tướng,
Không tướng y như tượng sắc kia
Thọ, Tưởng, Hành, Thức phân chia
Cũng lại như vậy tồng về chơn không.


Toà sắc tướng nhơn ông tạm đó,
Các phép kia tướng nọ luống trơn,
Chẳng sanh chẳng dứt thường trơn,
Chẳng cấu, chẳng tịnh, chẳng sờn, chẳng thêm.


Cớ ấy nên cõi trên không giới,
Thảy làu làu vô ngại trường chân,
Vốn không ngũ uẩn ấm thân,
Sáu căn chẳng có sáu trần cũng không.


Thấy rỗng không mà không nhãn giới,
Biết hoàn toàn thức giới cũng không,
Tánh không sáng suốt đại đồng,
Vô minh chẳng có mựa hòng hết chi.


Vẫn không có thân gì già chết,
Huống chi là hết chết già sao?
Tứ đề cũng chẳng có nào,
Không chi là trí có nào đắc chi.


Do vô sở đắc ly tất cả,
Nhơn pháp kia đều xả nhị không,
Vận lòng trí huệ linh thông,
Bờ kia mau đến tâm không ngại gì.


Không quái ngại có chi khủng bố,
Tức xa lìa mộng tưởng đảo điên,
Tâm không rốt ráo chi duyên,
Niết-Bàn quả chứng, chơn nguyên hoàn toàn,


Tam thế Phật, y đàng bát nhã,
Đào Bồ-Đề chứng quả chánh chơn,
Cho hay Bát nhã là hơn,
Pháp môn tối thắng, cõi chơn mau về,


Thiệt thần chú linh tri đại lực
Thiệt thần chú, đúng bực quang minh,
Ấy chú tối thượng oai linh,
Ấy chú vô đẳng thinh thinh oai thần.


Trừ tất cả nguyên nhân các khổ,
Thức tỉnh lòng giác ngộ vô sư,
Thiên nhiên chơn thiệt bất hư,
Án lam thần chú chơn như thuyết rằng:


Yết đế, yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, Bồ-Đề ta bà ha.


VÃNG SANH THẦN CHÚ


Nam mô da di đa bà dạ, đa tha dà đa dạ, đa điệt dạ tha, a di rị đô bà tì, a di đa tất đam bà tì, a di rị đa tì ca lan đế, a di rị đa tì ca lan đa, dà di nị, dà dà na, chỉ đa ca lệ ta bà ha. (đọc 3 lần).





XUÂN TÁN


Chúng thích tử kiền thiền xưng tán
Đứng Mẫu nghi vô lượng lợi sanh
Đông, tây, nam, bắc bốn phương
Hiện ra quang điển Huyền linh tuyệt vời


Kim sắc tướng muôn ngàn công đức
Khắp mười phương chẳng bực sánh bườn


Bạch Hào Hiển Hiện phóng quang
Xây vần chiếu sáng độ an dân lành
Nam Mô thiên cung thượng cõi Phật Mẫu
Tiếp dẫn chúng sanh a di đà Phật.


NAM-MÔ-A-DI-ĐÀ-PHẬT. (lần chuỗi niệm 108 lần)NAM-MÔ-QUAN-THẾ-ÂM-BỒ-TÁT (10 lần) NAM-MÔ ĐẠI-THẾ-CHÍ-BỒ-TÁT (10 lần)
NAM-MÔ LINH SƠN THÁNH MẪU BỒ-TÁT (10 lần)NAM-MÔ THANH TỊNH ĐẠI HẢI CHÚNG BỒ TÁT MA HA TÁT (10 lần).






SÁM



Cơ Trời chẳng dám lậu ra,
Mẹ thời thương trẻ xót xa trong lòng,
Canh khuya mẹ đến tỏ trong sự tình,
Nếu mà ngồi để làm thinh
Con ôi! não nộ mẹ vào tâu xin,
Muôn trông Thánh-Đế thượng-đình
Thứ dung trần-tục tôi xin phen nầy,
Tôi nguyền độ hết xưa nay,
Bao giờ về hết trên thay sửa đời,
Mẹ thương con dại con ơi!
Nếu không có Mẹ thời Trời chẳng dung,
Con ôi! lòng mẹ khôn cùng,
Thương con trần-thế khắp chung bầu Trời,
Phải xưa con trẻ nghe lời,
Mẹ đem về hết thảnh thơi an nhàn,
Có đâu trần tục chẳng an,
Nay thời đau ốm, mai mang tật nguyền,
Chết rồi đoạ lạc Diêm-Thiên,
Luân-hồi sáu thú luỵ miền U-Đô,
Con ôi! lòng Mẹ héo khô,
Cũng vị thương trẻ Mẹ vô chốn nầy,
Một giải tật bịnh con nay,
Tiêu trừ đau ốm đặng ngày an vui,
Hai giải nóng nảy thuận xuôi,
Hàn thấp phong chứng hết rồi hân hoan,
Canh chầy Mẹ kịp lên đường,
Giã con ở lại Mẹ sang Tây-đình,





SÁM ĐỊA MẪU


Ngày ngày lòng mẹ bâng khuâng,
Cũng vì thương xót nơi chung bụi trần
Nỡ nào xây mặt sấp lưng,
Liêu chiêu con đỏ mẹ đành xiết than,
Trời cho oai nộ sấm vang
Nếu không có Mẹ ắt tàn chúng con,
Bởi nên Mẹ trách phiền con,
Công Mẹ sanh sản chẳng còn tiếc chi,
Con sao bạc nghĩa chẳng ghi,
Nhờ ơn tạo hóa chút gì công danh,
Nếu như Mẹ giận bỏ đành,
Thì con đâu đặng nên danh cuộc đời,
Ngày ngày ăn uống vui chơi
Chớ hề con niệm địa thời Mẫu đây,
Muốn nên kiển vật tạo gây,
Muốn độ con trẻ phải bày dỗ khuyên,
Đôi lời Mẹ nhắc con ghi,
Ngày nào kêu Mẹ, Mẹ liền dắt con,
Trần gian tăm tối mịt mù,
Con ơi nghe Mẹ thẳng đường con đi,
Những lời mẹ đã tiên tri,
Ngày nào đại hội con thì gặp cha,
Ít lời kim khẩu thuyết ra,
Dương gian con ngụ Mẹ mà thượng thiên.


NAM-MÔ VÔ THƯỢNG HƯ KHÔNG ĐỊA-MẪU VÔ LƯỢNG ĐẠI TỪ TÔN A-DI-ĐÀ-PHẬT (1 biến).





ĐƯA - TIỄN - MẸ - HỒI - CUNG


_ Trước hương-đăng trà quả
_ Lễ kỉnh thành con bái tạ Mẫu nghi
_ Mẹ là đại đức Từ-Bi
_ Vì thương con dại mới đi xuống trần
_ Lời châu ngọc Mẹ ân cần dạy biểu,
_ Tiếng đá vàng con mới hiểu thiên cơ
_ Dắt con chỉ bến chỉ bờ
_ Lo tu trọn đạo đặng nhờ thiên liêng,
_ Này các con quyết tâm chí tịnh,
_ Giữ một lòng nhẫn nhịn lo tu
_ Giờ nầy là tuyết âm-u
_ Điển linh Mẹ giáng xuống trần độ con
_ Nên con mới biết cung son bờ bến
_ Đồng cùng nhau dắt đến trường thi
_ Gia trang sắp đặt an bày,
_ Thanh trà hoa quả lễ bày kính dâng,
_ Con lớn bé chúc mừng Hoàng-Mẫu,
_ Cầu phước dư cho Nam Việt cựu ngôi
_ Giờ nầy cầu nguyện đã rồi,
_ Lạy đưa đức Mẹ phản hồi thiên cung.


NAM-MÔ VÔ THƯỢNG HƯ KHÔNG DIÊU TRÌ
KIM MẪU DƯỠNG SANH BẢO MẠNG TỪ TÔN
ĐẠI TỪ TÔN CẢM ỨNG CHỨNG MINH
A-DI-ĐÀ-PHẬT (1 biến)






TỤNG KINH XONG, TIẾP TỤNG BÀI NGUYỆN NẦY


Kiền-Thiền vọng bái Mẫu-Hoàng,
Chấn chỉnh đạo giáo sắp an dân tình,
Độ người khỏi chốn u-minh,
Vọng cầu bái Mẹ nhờ tình xót thương,
Chúng dân tai hoạ đa-vương,
Lạy Mẹ dạy-dỗ mới tường thiên-cơ,
Vô cực từ-tôn Tây-Thiên Bá-Chủ,
Vương Cung Tây-Mẫu đê đầu lạy tạ từ ân,
Hào quang rọi xuống hương lân tỉnh thành,
Khắp trong dân chúng làm lành,
Thương yêu đùm-giúp chẳng đành bỏ nhau,
Mây lành rọi tỏ năm màu,
Cỏ cây tươi tốt làu làu thái-dương,
Yên vui bốn bể mới tường,
Cơ Trời sắp đặt luân-thường vẻ-vang
Diêu-Trì chấn chỉnh sửa-sang,
Bao nguồn về cội một đàng chánh qui,
Kiền-thiền vọng bái từ-tôn
Chuẩn y tam-giáo mới tồn lý-cao,
Ơn trên cam lộ rào rào,
Chúng con nguyện-vọng ước-ao thái bình,
Lạy cầu Mẹ ở Thiên-đình,
Độ an dân chúng pháp linh tỏ tường.


NAM-MÔ VÔ-THƯỢNG HƯ-KHÔNG ĐỊA-MẪU
DƯỠNG-SANH BẢO-MẠNG CHƠN-KINH (3 lần).





HỒI HƯỚNG


***
Phần kinh con mới đọc rồi
Nguyện xin phước đức vun bồi chúng sanh
Cho người thức tỉnh tu hành
Bến mê phút chút biến thành ao sen
Lý kinh sáng suốt như đèn
Rọi vào tâm trí tối đen sáng liền
Tụng Kinh Địa-Mẫu có duyên
Gặp người trí thức bạn hiền đồng tu
Ngày ngày tinh tấn công phu
Điển quang Mẹ chiếu linh căn sáng ngời,
Cúi xin Phật Mẫu chứng lòng
Tâm nguyền quyết chí gắng công tu trì


NAM-MÔ VÔ-THƯỢNG HƯ-KHÔNG ĐỊA-MẪU
DƯỠNG-SANH BẢO-MẠNG CHƠN-KINH ĐẠI TỪ TÔN (1 lần).


NAM-MÔ BỔN-SƯ-THÍCH-CA-MÂU-NI-PHẬT


NAM-MÔ ĐƯỢNG LAI HẠ SANH DI LẶC TỪ THỊ TÔN PHẬT (1 lần).


NAM-MÔ LINH SƠN HỘI THƯỢNG PHẬT BỒ TÁT MA HA TÁT (1 lần).






TAM QUI


***Qui y Phật Mẫu cứu trần thế
Nguyện xin phước đức vun bồi chúng sanh
Trần gian biết nẻo tu hành
Nhờ đèn trí huệ biết đường Phật - Tiên


Qui y Pháp là phương giải thoát
Điển Huyền linh bũa khắp trần gian
Sửa tâm chứng đắc kịp giờ
Linh căn Mẹ điểm hội kỳ Long Hoa


Qui y tăng chơn truyền Mẫu dại
Phải ăn chay giới luật nghiêm trang
Hữu hình giả tạm luân hồi
Vô vi thượng cảnh trở về Thiên Cung.


_ CHUNG _


THỜI KINH TỤNG ĐẾN ĐÂY ĐÃ HẾT





BÀI KỆ


Thượng ngươn lập Hội Long Vân
Phân ngôi kế vị Hoà bình quốc gia
Cộng đồng tam giáo qui nguyên
Chơn truyền tâm ấn khai cơ đạo Hiền
Thượng thông thiên địa Long Hoa
Chuyển luân chánh pháp độ người thiện duyên
Thiên cơ kín nhẹm khó rành
Người không căn trước thiệt tình biết đâu