TỰ LUẬN
Quang-Tự cửu niên, chánh ngoạt, sơ cửu nhựt, Thiểm Tây, Hớn-Trung Phủ, Thành Cố Huyện, Địa-Mẫu miếu, phi loan truyền Kinh.
Hồi nhà Thanh, vua Quang-Tự lên ngôi trị vì ở nước Tàu, năm thứ 9, nhằm tiết tháng giêng, ngày mồng chín, tại nơi Thiểm-Tây, Phủ Hớn-Trung, huyện Thành-Cố có Phật Địa-Mẫu ngự chim loan hiện xuống tận miếu Bà giáng cơ bút truyền ra Kinh nầy đây.
ĐỊA-MẪU CHƠN-KINH
VÔ-THƯỢNG HƯ-KHÔNG ĐỊA-MẪU
DƯỠNG SANH BẢO MẠNG CHƠN-KINH
Phật Địa-Mẫu ngự trên cõi Thượng-Tầng tối cao đặt quyển Chơn-Kinh đặng khuyên răn đời, dưỡng-dục đời và bảo toàn tánh-mạng cho tất cả người đời.
XUÂN TÁN ĐỊA-MẪU
- Địa-Mẫu đấng tối cao giác ngộ
- Điển linh quang tế độ chúng sanh
- Hỡi ai chớ có lạc lầm
- Lời vàng châu ngọc chỉ rành nẽo tu
- Cõi trần thế mịt mù tâm tối
- Phải nghe lời mẹ thuyết chơn kinh
- Chớ ham vật chất luỵ phiền
- Sớm mau thức tỉnh mẹ ban phúc lành.
NAM-MÔ VÔ THƯỢNG HƯ KHÔNG ĐỊA-MẪU DƯỠNG SANH BẢO MẠNG CHƠN-KINH (Niệm 3 biến).
CÚNG HƯƠNG
NAM-MÔ VÔ THƯỢNG HƯ KHÔNG ĐỊA-MẪU DƯỠNG SANH BẢO MẠNG CHƠN KINH (Niệm 3 biến)
_ Đốt hương trầm thấu đến Diêu cung
_ Thành tâm khẩn nguyện Đức Mẫu Từ
_ Trên khói hương nầy Kim Mẫu Ngự
_ Cảm ứng chứng minh tất lòng thành
NAM-MÔ VÔ THƯỢNG HƯ KHÔNG ĐỊA-MẪU DƯỠNG SANH BẢO MẠNG CHƠN KINH.
_ Khai đuốc huệ tâm đăng tỏ sáng
_ Trăm ngàn muôn kiếp dễ gặp đâu
_ Hạ Ngươn kỳ ba Long Hoa Hội
_ Mẹ ban điển lành mới rõ thông
NAM-MÔ VÔ THƯỢNG HƯ KHÔNG ĐỊA-MẪU DƯỠNG SANH BẢO MẠNG CHƠN KINH (Niệm 3 biến).
SÁM KINH ĐỊA-MẪU
DÂNG ĐĂNGDâng đuốc thiêng thành tâm kỉnh Mẫu
Ngọn linh đăng soi thấu mười phương
Điển quang toả ánh chiến dương
Cầu xin Từ Mẫu Tây phương chứng đàn
Mẹ giáng thế độ an non nước
Chuyển huyền linh ban phước vạn dân
Nguồn thương sầu đọng bâng-khuâng
Nhìn đăng lòng tưởng Mẹ gần bên con
Xưa Mẫu ngự chim Loan tại miểu
Tỉnh Thiểm-Tây huyền diệu ứng linh
Bút cơ Mẹ thảo tâm Kinh
Lời châu chép lại tâm tình Mẫu thương
Nhìn biển cả trùng dương nước biếc
Tiếng khổ sầu tha thiết lòng đau
Mẹ trông từng lượn sóng ào
Bao nhiêu sóng lượn nghẹn ngào bấy nhiêu
Cảnh dương trần gặp nhiều gian khổ
Mẹ sáng khai hóa độ khắp nơi
Núi sông vũ trụ đất trời
Chính do Hoàng-Mẫu tạo đời an vui
Con trẻ nguyện sớm chiều tu niệm
Ngày lẫn đêm lo kiểm hạnh con
Dâng đăng Mẹ chứng lòng son
Vạn dân bá tánh nước non thanh bình
NAM-MÔ VÔ THƯỢNG HƯ KHÔNG ĐỊA-MẪU DƯỠNG SANH BẢO MẠNG CHƠN KINH.
DÂNG HƯƠNG
Ngày kỷ niệm trăng mười thập bát
Gió đông về ngào ngạt nguồn thương
Chốn trần trẻ dại dâng hương
Thỉnh cầu Từ-Mẫu Tây-Phương chứng đàn
Dâng nén hương lời vàng cung kỉnh
Tiếng trẻ thơ nguyện thỉnh Mẹ hiền
Lạy cầu vọng thấu cung Tiên
Nơi Tây-Vương-Mẫu diệu huyền chứng minh
Mẹ thương con thâm tình muôn thuở
Đạo hoằng khai truyền mở khắp nơi
Gắng tu thoát tục xa dời,
Quê Tiên chốn cũ là nơi trở về
Nhìn quang cảnh sơn khê non nước
Cõi giới ba hưởng phước Mẹ ban
Chính do Hoàng-Mẫu chỉnh an
Độ cho sanh chúng một đàng chánh tu
Làn khói bạc ngút mù bay tỏa
Tâm hương thành hiện rõ Diêu-Cung
Đài hương Mẹ ngự không trung
Thức tâm kẻ thế soi chung gương hiền
Tam nhựt Mậu cố siêng bái Mẫu
Tiếng chuông ngân gợi nỗi nhớ thương
Con quỳ dâng nhén tâm hương
Lạy Mẹ phủ đức thập phương an lành.
NAM MÔ VÔ-THƯỢNG HƯ-KHÔNG ĐỊA MẪU DƯỠNG SANH BẢO MẠNG CHƠN KINH.
DÂNG TRẦM
Nhìn làn khói trầm hương bay toả
Nhớ Mẫu hiền lệ nhỏ dòng châu
Đàn con tha thiết nguyện cầu
Mẫu-Từ phủ điển nhiệm mầu chứng minh
Chốn trần miền cung nghinh đại lễ
Kỷ niệm ngày giáng thế Từ-Tôn.
Thượng tầng Mẹ phủ càn khôn.
Chuyển khai hoằng đạo pháp Môn hạnh từ
Đọc Kinh Mẫu lòng như xao xuyến
Gởi tâm thành thăm viếng Mẫu thân
Chuông chùa vang tiếng xa ngân
Chạnh lòng con trẻ tuôn dần lệ sa
Khói hương trầm thiết tha theo gió
Áng mây lành hiện rõ huyền-vi
Con nguyền kiếp kiếp tu trì
Nương về theo bóng từ bi Mẫu-Hoàng
Cầu lịnh Mẹ chỉnh an non nước
Điển Mẫu-Từ ban Phước chúng sanh
Trần gian biết nẻo tu hành
Nhờ đèn trí huệ phúc lành Mẹ ban
Tầm chánh giác đạo vàng rực rỡ
Hạt bồ-đồ nẩy nở rừng cây
Am tiền nối nhiệp thang mây
Điểb thiêng Mẹ chứng nhựt nay kỉnh đàn
NAM MÔ VÔ-THƯỢNG HƯ-KHÔNG ĐỊA MẪU DƯỠNG SANH BẢO MẠNG CHƠN KINH.
DÂNG HOA
Hoa tươi thâm kính dâng Từ-Mẫu
Gió hương lành nhẹ thổi mười phương
Dập đầu lạy Mẹ xót thương
Chứng lòng con trẻ cúng dường dâng hoa
Lời vang cầu thiết tha ai oán
Chốn dương trần tợ áng phù-vân
Chúng sanh đau khổ vô ngần
Thành tâm lạy Mẹ gội lần tội xưa
Ngày Kỵ-Mậu sớm trưa bái Mẫu
Tiếng chân thành vọng thấu Diêu-Cung
Gắng tu noi chí bá tùng
Bồ-đề hạnh nguyện thơm chung hương lành
Điểm huyền linh phủ quanh bao khắp
Nhớ Mẫu hiền con chấp tay cầu
Lạy Mẹ độ hết năm châu
Cầu xin sanh chúng sớm hầu Diêu-Cung
Người chốn thế hiếu trung chọn giữ
Hội Long-Hoa Mẫu-Tử tương phùng
Hương lành thơm ngát lạ lùng
Bồ-Đề rộ nở tại cung Diêu-Trì
Hoa thơm ngát con quỳ dâng lễ
Lạy Mẫu thương giáng thế chứng minh
Tay ngà dâng đoá hoa xinh
Thỉnh cầu Mẹ giáng điển linh chứng đàn.
NAM-MÔ VÔ-THƯỢNG HƯ-KHÔNG ĐỊA MẪU DƯỠNG SANH BẢO MẠNG CHƠN KINH Niệm 3 biến.
DÂNG QUẢ
Quả tươi xanh tâm thành cung kỉnh
Tiếng trẻ khờ nguyện thỉnh Từ-Tôn
Điển linh phủ khắp càn khôn
Chuyển khai đại đạo tiếng đồn vang xa
Tụng Kinh Mẫu gia gia an ổn
Mẹ giáng trần hỗn độn sơ khai
Lời châu ghi lại trần ai
Là do huyết mạch phi tài Từ-Tôn
Oai linh Mẫu bao gồm vũ-trụ
Dưỡng nuôi con hấp thụ điển thiêng
Phước tài lộc thọ triền miên
Dân lành nước thạnh nhà yên thanh bình
Tam nhựt mậu trì Kinh Địa Mẫu
Chúng sanh đều số đổi nhàn thanh
Mùa màng sung túc tươi xanh
Quả hoa thơm ngát hương lành từ bi
Thâm ân Mẹ khắc ghi xanh sử
Kỷ niệm ngày Mẹ ngự không trung
Dập đầu bái tạ Vương Cung
Độ an sanh chúng tao phùng Long Hoa
Kính lạy mẫu thiết tha lời trẻ
Dâng quả tươi thỉnh Mẹ chứng tri
Dập đầu lạy đức Diêu-Trì
Điển linh Mẹ phủ cứu nguy dân lành.
NAM-MÔ VÔ-THƯỢNG HƯ-KHÔNG ĐỊA MẪU DƯỠNG SANH BẢO MẠNG CHƠN KINH
DÂNG THỦY
Cung kỉnh dâng thủy thanh thơm ngát
Nhớ trăng mười thập bát hằng niên (vào ngày mùng 18 tháng 10 hàng năm).
Đúng ngày giáng thế Mẫu hiền
Thủy thanh bát ngọc khẩn nguyền cung nghinh
Đàn con trẻ quỳ xin Mẹ chứng
Độ dân lành bền vững tâm tu
Sơn khê rảo bước ngao du
Vào nơi biển Thánh rừng nhu tu hiền
Dâng thủy thơm kiền thiền vọng bái
Điển Mẫu-Từ phủ rải khắp nơi
Mẹ thương dưỡng dục khuyên đời
Ngự nơi thượng cõi ban lời ngọc châu
Mẹ truyền pháp nhiệm mẫu phản chiếu
Cứu đàn con tận hiếu tận trung
Nguồn thương Mẹ phủ ngàn trùng
Suối lòng ngào ngạt ban chung con lành
Chính Mẹ tạo non xanh tươi thắm
Biển sông sâu thăm thẳm trùng khơi
Hoằng khai đại đạo khắp nơi
Kể từ vô-thỉ đến đời hậu thiên
Tâm Kinh Mẫu lời khuyên lai-láng
Điển huyền linh tỏa sáng mười phương
Tay dâng bát ngọc trà hương
Thành tâm lạy Mẹ xót thương chứng đàn.
NAM-MÔ VÔ-THƯỢNG HƯ-KHÔNG ĐỊA MẪU DƯỠNG SANH BẢO MẠNG CHƠN-KINH.
SÁM KINH ĐỊA MẪU
ĐỊA-MẪU-KINH
Phủ Hớn Trung nơi huyện Thành-Cố
Tỉnh Thiểm Tây miếu cổ ứng linh
Thượng tầng toả ánh quang minh
Chim Loan Mẫu ngự truyền kinh răn đời
Kim ngôn Mẹ đây lời mạch huyết
Đức Từ-Tôn tha thiết khuyên con
Hiếu trung giữ vẹn cho tròn
Mẹ hiền phủ điển bảo toàn chúng sanh
Tam nhựt Mậu tâm thành kỉnh Mẫu
Tấm lòng son vọng thấu Diêu-Cung
Gia gia sum họp trùng phùng
Dân an quốc thới hưởng chung thanh bình
Mùa màng được tươi xinh sung-túc
Mẹ độ con từng phút từng giây
Núi sông vũ-trụ đó đây
Chính do Hoàng Mẫu dựng gầy tạo nên
Linh điển Mẹ dưới trên phân rõ
Tâm chơn kinh Mẹ tỏ lời châu
Hoằng khai đại đạo nhiệm mầu
Hoá sanh bốn biển năm châu tươi nhuần
Phật Mẫu ngự thượng từng độ thế
Điển chơn linh phước huệ rải ban
Tâm kinh Mẫu dạy rõ ràng
Con lành hiếu thảo đàn tràng cung nghinh
Phước lộc thọ hiển vinh do Mẫu
Trọn đủ thời Kỵ-Mậu hằng niên
Dân an nước thạnh nhà yên
Lời châu Mẫu dạy gắng chuyên tu trì
Thơ thâm diệu huyền vi cơ bút
Mẹ truyền kinh dưỡng dục chúng sanh
Xưa vua Bàn-Cổ phong danh
Diêu-Trì Phật-Mẫu hóa sanh muôn loài
Chơn-linh Mẫu xét-soi vũ-trụ
Điển âm-dương kết-tựu anh-nhi
Thượng tầng Mẫu ngự phương-phi
Phân ra thiên địa trị vì chúng-sinh
Địa Mẫu truyền chơn kinh tâm huyết
Khí âm-dương hội hiệp cùng nhau
Mưa hoà gió thuận tươi màu
Hoá sanh nhơn-loại ngạt-ngào chơn thân
Vậy ai mới bước lần đường đạo
Phải giữ lòng hiếu thảo trì kinh
Lời châu Mẹ dạy huyền linh
Hoàng-Thiên xá tội hiển vinh thanh nhàn
Cầu lịnh Mẹ bảo toàn sanh chúng
Độ nhơn-sanh giữ đúng hạnh Tiên
Từ đây Thiên Địa phân riêng
Âm dương chơn khí linh nguyên chẳng rời
Nhựt nguyệt tinh phương trời sáng tỏa
Máy huyền vi hiện rõ thần thông
Mẹ phân Nam, Bắc, Tây, Đông
Bốn phương tám hướng bao vòng càn khôn
Điển thiêng Mẹ bảo tồn vĩnh cửu
Chốn trung-ương Mẹ thủ địa châu
Linh quang chiếu sáng nhiệm mầu
Thiên tiên bảo dưỡng gồm thâu nhơn lành
Phu quân Mẫu trường sanh bất lão
Tài cao minh sáng tạo huyền vi
Thiên lung địa á diệu kỳ
Tri âm phối hợp phục-quy Diêu Đài
Thiên Địa lập âm lai dương khứ
Khí thần giao gìn giữ điển linh
Đất trời do tạo hóa sinh
Pháp luân thuần chuyển siêu hình căn nguyên
Chính Mẹ tạo tôi hiền chúa Thánh
Phủ điển linh chơn tánh tâm thanh
Thiên-can thường chuyển vận hành địa-chi
Thần với khí tựu thì thai Thánh
Mẹ cưu mang canh cánh thập niên
Tình thâm Mẫu-Tử thiêng liêng
Mười thu đúng nhựt chia riêng quẻ hào
Trong bát quái phân vào tám hướng
Tám quẻ do mỗi hướng định ra
Sáu hào một quẻ đó là
Ba trăm tám bốn tẻ ra các hào
Trúc cơ mãn nguyệt vào giờ đúng
Thập niên trường chuyển dụng Thánh thai
Minh quân xuất thế trần ai
Sáu vì thiên-tử phi tài huyền quang
Mẹ phán vua Thiên Hoàng con trưởng
Đến Địa-Hoàng Mẹ thưởng thứ hai
Nhơn Hoàng tam đệ thiên tài
Còn ba vị nữa phân rày sao đây?
Vua Phục-Hy, ngài hay biến hóa
Bát quái phân phát họa hiển linh
Chỉ rành tám hướng thinh thinh
Âm-dương vũ-trụ quang-minh phân bày
Vua Thần-Nông phi tài ngũ cốc
Sắc lịnh gieo châu ngọc khắp nơi
Đó là hạt giống của Trời
Sanh ra lúa gạo giúp đời an khang
Vua Hiên-Viên tạo ban y-phục
Đem ấm no hạnh phúc vạn dân
Lưu truyền cơm áo chốn trần
Để cho người thế tấm thân thanh nhàn
Vũ-trụ do Mẫu-Hoàng xuất phát
Mẫu tạo ra Bồ-Tát, Thần, Tiên
Thượng từng bao phủ điển thiêng
Chẳng rời xa khỏi Mẫu hiền dưỡng sanh
Nhìn biển cả trời thanh nước biếc
Khắp bốn mùa tám tiết trở xây
Gió ngàn toả lượn tầng may
Hoá sanh nhơn loại cỏ cây thú cầm
Có ngũ nhạc bổng trầm ngân trổi
Khắp muôn nước Từ-Mẫu dưỡng sanh
Các đời vương đế đại danh
Từ trong thân Mẫu trưởng thành mà ra
Danh làm có năm toà thắng cảnh
Chôn lâm sơn tuyết lạnh sương rơi
Có cây cổ thụ sống đời
Sắc dân trăm họ do nơi Mẫu thành
Năm giống lúa tươi xanh vun dưỡng
Sáu thứ gạo dành thưởng nhơn sinh
Nhân dân no ấm hiển vinh
Sống nhờ điển Mẹ huyền linh phủ đầy
Khi lìa thế gởi thây thân Mẫu
Sự hóa sanh dời đổi vô thường
Thân Mẹ là chỗ tựa nương
Từ-Tôn Địa-Mẫu nguồn thương ngập tràn
Nào châu quận thôn làng tỉnh huyện
Kìa lầu đài cung điện nguy nga
Am, chùa, quán xá lập ra
Hiền thần, tiên, thánh, mẹ đà thưởng phân
Chư Phật đắc kim-thân do Mẫu
Cả trân châu ngọc bửu đó đây
Thiếu chi kẻ ước việc nầy
Lòng tham mơ tưởng mấy ai đạt thành
Loai kim khí bạc vàng qúi báu
Tất cả do Mẫu tạo xuất ra
Vương hầu vạn quốc gia gia
Cũng do lịnh Mẹ ban ra tôn sùng
Người chốn thế hiếu trung hưởng phước
Bao huyền linh sau trước Mẹ ban
Dân an quốc thới thanh nhàn
Đế-vương cung kỉnh Mẫu-Hoàng Từ-Tôn
Nước nào bị dập dồn chinh chiến
Cũng do nơi Mẫu chuyển phạt hành
Vậy ai nào biết đến danh
Huyền linh quang điển Mẹ dành đó đây
Có tạo lãnh theo đầy lụa vải
Cùng qua hoa rau cải trái cây
Nào là chua ngọt đắng cay
Lúa ăn, thuốc uống, rừng cây ai tường
Hành, ớt, hẹ, gừng, đường, tiêu, tỏi
Khắp nhơn sinh ai khỏi bịnh đâu
Hoá sanh linh dược nhiệm-mầu
Cao lương mỹ-vị thiếu đâu vật nào
Lại có giấm, chanh, dầu, tương, muốn
Suối nào bằng nguồn suối tình thương
Mẹ ban trăm vạn mùi hương
Lao tâm tổn huyết đoạn trường vì con
Công lao Mẹ bút son khó tả
Tình bao la biển cả khó hơn
Khổ đau Từ-Mẫu chẳng sờn
Nỡ nào quên dứt nghĩa ơn cho đành
Vật ăn uống Mẹ dành con đó
Sản phẩm do Mẹ hóa tạo ra
Cân đai áo mão phù hoa
Bạc tiền vật dụng biến ra hằng ngày
Mẹ chẳng thấy một ai lòng tưởng
Thân mẫu sanh ban thưởng khắp nơi
Vật chi chẳng sót trên đời
Mẫu không nghe co một lời nhớ thương
Trong vũ-trụ tuần hườn tạo hóa
Do Mẫu sanh ra quả địa-cầu
Biến dành sáu ngả luân hồi.
Biết bao sản vật hoa mầu tốt xinh
Kẻ thế đâu rõ tình thâm Mẫu
Dầu Hoàng-Thiên khó nỗi sánh hơn
Trên đời mưa đổ từng cơn
Dưới đất Mẹ hóa huyền chơn phép mầu
Giòng mưa tuôn ngọt ngào cam-lộ
Ngũ cốc dành hóa độ nhơn sanh
Cỏ cây tươi tốt hương thanh
Địa châu thấm giọt mưa lành phì nhiêu
Chính hơi nước thâu nhiều mạch huyết
Bao tinh vi sương tuyết giá băng
Đài mây gom tựu phủ giăng
Gặp luồng quang điển biến tan mây liền
Mưa tuôn xuống trần miền toả khắp
Cù rồng kia trốn nấp ngàn sông
Lãnh phần vận chuyển gió giông
Mẹ truyền hóa võ hô phong ứng hầu
Cù rồng ở xứ nào chẳng có
Ẩn biển sâu làm gió chuyển mây
Đều do lịnh Mẹ phán bày
Ơn trên chiếu triệu dám rày cãi đâu
Muôn thu vẫn nằm sâu lòng đất
Mẹ dưỡng nuôi âm chất hoằng khai
Nhọc nhằn nào quản đắng cay
Điển quang huyền diệu đêm ngày dưỡng sanh
Chốn dương trần con lành toạ hưởng
Bao nhiệm mầu Mẹ thưởng hồng ân
Tất cả do lịnh Mẫu phân
Công dầy chẳng thấy người trần ghi tâm
Mẹ thương con dạ thầm đau thắt
Chẳng bao giờ nhắm mắt nghỉ đâu
Điển quang nếu Mẹ rút thâu
Càn khôn, vũ-trụ, địa cầu tiêu tan
Khi cá ngao trở ngang vũng vẫy
Thiên địa đành chịu phải rả đôi
Dương trần như thể bèo trôi
Cảnh đời trống rỗng thảm sầu nạn tai
Ngoại càn khôn Như-Lai tạm ẩn
Chư Bồ-Tát tàn lẫn biệt tin
Từ vua chúa đến quân binh
Sẽ điều tận diệt nhơn sinh điêu tàn
Phương hướng đành tiêu tan tất cả
Như ở trong lò hỏa bị thiêu
Muôn loài vạn vật bao nhiêu
Phải đành chịu cảnh quạnh hiu khổ sầu
Mẹ phán truyền lời châu cao quý
Ai sưu tầm diệu lý quang-minh
Tâm thành khảo sát chơn kinh
Thọ trì giảng nói chúng sinh hiểu rành
Từ-Tôn chiếu điển lành ban phước
Sắc lịnh phê người được hiển vinh
Phi tài huyền diệu cao minh
Mẫu-Từ giáng bút ngọc-linh-chỉ truyền
Nhập vào tâm kẻ hiền sáng suốt
Chơn khí như ánh đuốc thiên nhiên
Mẫu cho phản bổn hườn nguyên
Chơn thần đúng ngoạt xuất liền chẳng sai
Tinh khí hiệp cho ai dưỡng tánh
Gắng tâm tu hưởng cảnh thượng đài
Khai tâm trung chuyển đạo ngay
Lý chơn thông hiểu chớ rày bỏ qua
Cần quán tưởng sâu xa kinh Mẫu
Chớ khoe tài nông nổi mà chi
Chơn kinh lịnh Mẹ khó bì
Quần thần văn võ chẳng khi lời vàng
Đại Từ-Tôn Mẫu-Hoàng cao cả
Ân đứt dày vong ngả đành sao
Tao nhân mặc khách anh hào
Nông, thương, công, sĩ nỡ nào lảng ngơ
Không đền đáp tôn thờ cung kỉnh
Nỡ vô tâm chẳng kính Mẫu hiền
Thâm sâu nghĩa cả thiêng liêng
Đành lòng bội bạc chơn truyền lời châu
Chánh pháp đạo nhiệm mầu ai rõ
Giả đò như chẳng tỏ ngộ chi
Phụ ân Từ-Mẫu Diêu-Trì
Đoạ đày muôn kiếp chẳng thì tái sanh
Muốn biết rõ tánh danh Phật Mẫu
Hãy lắng nghe lời Mẫu phân rành
Lão Bà Hỗn-Độn hóa sanh
Thuở còn mù mịt trược thanh chưa tường
Thiên Địa chia âm dương chơn khí
Thập nhị muôn niên kỷ giáng lâm
Tuổi thọ chín ngàn sáu trăm
Thời gian xuất thế khổ tâm nhọc nhằn
Muôn ngàn năm khuyên răn dạy dỗ
Ngày biệt ly diệt độ chẳng ngờ
Mẫu Hoàng từ giả con thơ
Hoá thân chớp nhoáng phút giờ chia tay
Hư không ngự mây đài thượng cõi.
Điển quang-minh chiếu rọi khắp nơi
Huyền vi biến hóa chuyển đời
Truyền Kinh châu ngọc bao lời thiết tha
Chẳng thấy ai lệ sa nhớ Mẫu
Chốn trường giang gợi nỗi nhớ thương
Ngự thuyền lướt sóng trùng-dương
Nào ai để dạ vấn vương lòng sầu
Mẹ thương con chẳng câu phiền trách
Lòng ước mong huyết mạch trùng phùng
Sớm về điện ngọc Diêu-Cung
Con lành cố gắng hiếu trung tu hiền
Hội Tý-Sửu khai thiên tịch địa
Vạn sự thành hiếu nghĩa vi tiên
Chơn kinh Phật Mẫu diệu huyền
Hơn trăm tám chục câu khuyên răn đời
Mỗi câu mỗi ý lời Mẹ thuyết
Cũng từ nguồn mạch huyết chảy ra
Gồm bao lời ngọc thiết tha
Chẳng phải lầm lạc đâu mà ngờ nghi
Khắp gia gia điều trì niệm mãi
Thì mùa màng cây trái hoằng sai
Ấm no hưởng lạc trần ai
Cuộc đời chẳng bị nạn tai dập dồn
Điển quang Mẹ bảo tồn trường cửu
Độ con thơ hội đủ Diêu-Cung
Nếu ai chẳng tín bất tùng.
Mùa màng ruộng rẫy sâu trùng bọ ăn
Cuộc sống đành khó khăn đau khổ
Nhân sinh lâm vào chỗ hiểm nguy
Không mong sống sót được gì
Đại kiếp thủy hỏa phong phi ngập tràn
Đại Từ-Tôn Mẫu-Hoàng cho biết
Đúng trăng mười vào tiết trời đông
Mẫu-Từ xuất hiện thần thông
Vào ngày thập bát trần hồng giáng sinh
Mẹ phủ hết điển linh quảng đại
Tâm huyết thư để lại chơn kinh
Kim ngôn siêu thoát quang minh
Từ-Tôn bảo dưỡng chúng sinh an toàn
Là con hiếu đàn tràng cung kỉnh
Mỗi hằng niên nguyện thỉnh Mẫu-Từ
Đúng ngày thập bát trăng mười (Ngày 18 tháng 10)
Gia gia tụng niệm người người trì kinh
Lập đại lễ hoa xinh, trà, quả
Dâng hương đăng tất cả khiết tinh
Cùng nhau hội hiệp trì kinh
Sớ dâng Từ-Mẫu chứng minh con lành
Nếu như có nhơn sanh hiền sĩ
Truyền bá kinh nghĩa lý đủ đầy
Từ-Tôn đài thọ ân dầy
Cháu con hiền sĩ từ đây huy hoàng
Hưởng lộc thọ vinh quang phú quý
Hạng phu nhơn bần sĩ hiền thần
Truyền kinh phổ biến xa gần
Gia gia vui hưởng muôn phần ấm no
Mẫu hứa sẽ ban cho con thảo
Năm trai lành kế tạo lửa hương
Hai gái hiếu đạo thuần lương
Đời đời nối dõi tổ đường tông môn
Nam nữ nào sùng tôn kính Mẫu
Kỉnh lễ ngày Kỵ-Mậu thành tâm
Mẹ ban phước lộc cao thâm
Thiên xuân vạn đại hưởng âm-đức dầy
Xứ phương nào hằng ngày cúng vía
Đàn tràng cần bốn phía an ninh
Bảo toàn tánh mạng chúng sinh
Mẫu-Hoàng phủ điển ứng linh lời nguyền
Quốc dân nào kiền thiền vọng bái
Thọ trì kinh nhớ mãi thâm ân
Mẫu từ cho xuất Thánh nhân
Thông minh xuất chúng muôn phần huyền-linh
Công đức Mẫu vô hình khó tả
Dầu lâm sơn biển cả khó hơn
Ai mà đáp nghĩa đền ơn
Phải sùng am-tự, hoạ, sơn tượng hình
Rồi dâng lên hương linh thờ phượng
Tạo lập thành tâm, tưởng, bái, tôn
Diêu-Trì Phật Mẹ linh hồn
Hiếu tử làm đặng y ngôn-kim truyền
Mẹ sẽ nhận con hiền dâu thảo
Gắng sức xây tái tạo mau đi
Tùy gia phương tiện hữu vi
Chẳng cần tiền bạc nhiều chi đâu nào
Mẫu chứng lòng thanh cao tâm hảo
Sẽ ghi tên con thảo danh đề
Thẹ ngọc Mẹ chuyển bút phê
Tâm phàm phủi sạch trở về Diêu-Cung
Bởi vì con tận trung tận hiếu
Đắc quả cao cửu khiếu khai minh
Con hiều thọ hưởng trường sinh
Nhờ lòng quảng đại quang minh tâm lành
Mẹ sắc tứ phong danh muôn thuở
Chánh quả thành dứt nợ trần ai
Ban cho cửu phẩm liên đài
Trung ương thượng quốc về ngay đền vàng
Thành Đại-La nghiêm trang qúy báu
Phu phụ đồng đắc đạo kim thân
Mẹ ban thọ hưởng hồng ân
Lưu danh bửu điện muôn phần vẻ vang
Đức Từ-Tôn Mẫu-Hoàng bảo dưỡng
Trải hết tâm vô lượng vô biên
Ngự nơi cõi thượng thiêng liêng
Độ cho quốc thới dân yên thanh bình.
NAM-MÔ VÔ-THƯỢNG HƯ-KHÔNG ĐỊA MẪU DƯỠNG SANH BẢO MẠNG CHƠN KINH.
ĐỊA MẪU DIỆU KINH
Phật-Mẫu tuy vô hình vô tướng
Mẹ cầm quyền phạt thưởng nhơn sanh
Ban ra lời ngọc chơn kinh
Khảo sát đạo lý khai minh địa cầu
Thuở hỗn độn một bầu không khí
Còn mịt mù vô thỉ biết đâu
Phật Mẫu đã ngự đó rồi
Phật ra Thiên Địa hoàn cầu chuyển xây
Mẹ đứng ra làm Thầy trước nhất
Đạo hoằng khai lời thật huyền linh
Phổ thông truyền bá chơn kinh
Phân bày phong tục nhân sinh sáng ngời
Chốn phàm trần đến đới nguơn hạ
Mẹ giáng cơ bút tả chơn kinh
Ai truyền ấn tống phổ in
Mẫu-Hoàng bảo hộ khương ninh cửu trường
Người nào đầy lòng thương tiếp dẫn
Giúp chúng sanh ngộ nhận đạo chơn
Dựng đời thạnh trị thượng nguơn
Hết lòng chỉ giáo linh nhơn tỏ tường
Khắp thế-giới thập phương cung kỉnh
Rán niệm trì nguyện thỉnh lời châu
Đắc thành sở nguyện mong cầu
Vậy mà chẳng thấy người nào lưu tâm
Hoặc gia gia tháng năm ghi nhớ
Lưu truyền kinh từ thuở ban hành
Kẻ nào tụng niệm chơn thành
Thánh tiên đắc đạo rạng danh lâu rồi
Ai chẳng tín bất cầu ác cảm
Chê bai rằng mờ ám không tùng
Đến khi nào lúc lâm chung
Hồn linh kẻ ấy vô cùng khổ đau
Ngục a-tỳ sa vào miên-viễn
Đoạ đày người lắm tiếng dể kinh
Sanh lòng nhạo báng lý kinh
Tội như biển cả mông mênh thảm sầu
Gây nhiều lỗi thảm sâu đại hải
Mẹ chẳng phiền phải trái chi đâu
Xét ra khắp cả hoàn cầu
Đều do lịnh mẹ pháp mầu chuyển ra
Mẹ thương con vi tha tất cả
Nào thấy ai để dạ xót thương
Đắng cay khổ nhọc ai tường
Rõ thông nỗi khổ đoạn trường biết bao,
Trang nữ-kiệt anh-hào chí hiếu
Bố cáo cho người hiểu rõ ràng
Đứng ra giải đáp lời vàng
Cho người trần thế dương gian tri tường
Khắp thiên tai phải quanh hiu sầu
Dập dồn nhiều cảnh khổ đau
Họa tai trước mắt tránh đâu bây giờ?
Mẹ thương con đề thơ phân tỏ
Lại chẳng nghe ghi rõ lời châu
Cuộc đời thế sự bể dâu
Mẹ đà tường tận đoán rồi tiên tri
Dầu khó khăn việc chi nguy khốn
Mẹ bình trị chỉnh đốn khắp nơi
Phán truyền bày tỏ bao lời
Hoá sanh hoằng đạo khai đời dưỡng sanh
Phật Mẫu có phân rành tất cả
Bảy mươi hai vị đã lãnh phần
Đương kim hành sự xa gần
Duy mình Mẫu chẳng cùng ai cả
Khắp ở trong thiên hạ xứ nào
Lập chùa tạo miễu đền cao
Phụng thờ thần thánh ra vào cung nghinh
Đến tánh danh cũng chớ tường tri
Một ngôi miễu nhỏ vậy thì cũng xong
Bởi chúng sanh bạc lòng chẳng nghĩ
Nên cam đành khổ luỵ sầu bi
Quanh năm bao cảnh loạn ly
Trời mưa không thuận đất thì không sanh
Mẹ thương con chẳng đành đoạn dứt
Tình thiêng liêng bút mực ghi rằng
Các con lớn nhỏ nghe chăng?
Thọ trì kinh Mẫu khó khăn cũng lành
Khắp nhơn sinh điều hành tâm đạo
Giúp cho đời cải tạo ăn năn
Chẳng luận cao thấp ngang bằng
Dầu cho trẻ nhỏ lòng hằng trì kinh
Chín tuổi biết cung nghinh đọc tụng
Điển huyền vi hữu dụng Mẹ ban
Cốt nhục xa cách lạc đàn
Mẹ cho tái hợp bình an sum vầy
Vui trong cảnh bao ngày cách biệt
Dầu chia tay cũng hiệp cùng nhau
Không phân hai bậc thấp cao
Ai ai cũng được truyền trao kinh nầy
Khắp non nước Đông, Tây, Nam, Bắc
Phổ biến kinh để nhắc nhở lòng
Thập phương bá tánh rõ thông
Nếu chẳng khứng thọ chắc không sanh tồn
Bao nguy khổ dập dồn đau xiết
Nạn thiên tai thủy kiệt sơn băng
Chúng sanh ngã gục nhào lăn
Lâm vòng đại nạn thoát chăng được nào?
Hiện bây giờ ốm đau bịnh tật
Sanh ra nhiều chứng thật gớm ghê
Khắp trong tất cả thành quê
Thảy đều thọ nạn ê-chề khổ thân
Bị nắng hạn mưa dầm ngập hết
Thổ sản nầy ngã chết chẳng còn
Đói lòng quằng quạy các con
Vậy khuyên rán nhớ lời son Mẫu-Từ
Mẹ khuyên con tâm thư lời cuối
Gắng tâm tu thông suốt lý kinh
Truyền trao giải nghĩa phổ in
Cho người trì tụng hiểu kinh kịp thời
Chúng con sẽ thấy đời hết khổ
Lập đại lễ hoa xinh, trà, quả
Dâng hương đăng tất cả khiết tinh
Cùng nhau hội hiệp trì kinh
Sớ dâng Từ-Mẫu chứng minh con lành
Nếu như có nhơn sanh hiền sĩ
Truyền bá kinh nghĩa lý đủ đầy
Từ-Tôn đài thọ ân dầy
Cháu con hiền sĩ từ đây huy hoàng
Hưởng lộc thọ vinh quang phú quý
Hạng phu nhơn bần sĩ hiền thần
Truyền kinh phổ biến xa gần
Gia gia vui hưởng muôn phần ấm no
Mẫu hứa sẽ ban cho con thảo
Năm trai lành kế tạo lửa hương
Hai gái hiếu đạo thuần lương
Đời đời nối dõi tổ đường tông môn
Nam nữ nào sùng tôn kính Mẫu
Kỉnh lễ ngày Kỵ-Mậu thành tâm
Mẹ ban phước lộc cao thâm
Thiên xuân vạn đại hưởng âm-đức dầy
Xứ phương nào hằng ngày cúng vía
Đàn tràng cần bốn phía an ninh
Bảo toàn tánh mạng chúng sinh
Mẫu-Hoàng phủ điển ứng linh lời nguyền
Quốc dân nào kiền thiền vọng bái
Thọ trì kinh nhớ mãi thâm ân
Mẫu từ cho xuất Thánh nhân
Thông minh xuất chúng muôn phần huyền-linh
Công đức Mẫu vô hình khó tả
Dầu lâm sơn biển cả khó hơn
Ai mà đáp nghĩa đền ơn
Phải sùng am-tự, hoạ, sơn tượng hình
Rồi dâng lên hương linh thờ phượng
Tạo lập thành tâm, tưởng, bái, tôn
Diêu-Trì Phật Mẹ linh hồn
Hiếu tử làm đặng y ngôn-kim truyền
Mẹ sẽ nhận con hiền dâu thảo
Gắng sức xây tái tạo mau đi
Tùy gia phương tiện hữu vi
Chẳng cần tiền bạc nhiều chi đâu nào
Mẫu chứng lòng thanh cao tâm hảo
Sẽ ghi tên con thảo danh đề
Thẹ ngọc Mẹ chuyển bút phê
Tâm phàm phủi sạch trở về Diêu-Cung
Bởi vì con tận trung tận hiếu
Đắc quả cao cửu khiếu khai minh
Con hiều thọ hưởng trường sinh
Nhờ lòng quảng đại quang minh tâm lành
Mẹ sắc tứ phong danh muôn thuở
Chánh quả thành dứt nợ trần ai
Ban cho cửu phẩm liên đài
Trung ương thượng quốc về ngay đền vàng
Thành Đại-La nghiêm trang qúy báu
Phu phụ đồng đắc đạo kim thân
Mẹ ban thọ hưởng hồng ân
Lưu danh bửu điện muôn phần vẻ vang
Đức Từ-Tôn Mẫu-Hoàng bảo dưỡng
Trải hết tâm vô lượng vô biên
Ngự nơi cõi thượng thiêng liêng
Độ cho quốc thới dân yên thanh bình.
NAM-MÔ VÔ-THƯỢNG HƯ-KHÔNG ĐỊA MẪU DƯỠNG SANH BẢO MẠNG CHƠN KINH.
ĐỊA MẪU DIỆU KINH
Phật-Mẫu tuy vô hình vô tướng
Mẹ cầm quyền phạt thưởng nhơn sanh
Ban ra lời ngọc chơn kinh
Khảo sát đạo lý khai minh địa cầu
Thuở hỗn độn một bầu không khí
Còn mịt mù vô thỉ biết đâu
Phật Mẫu đã ngự đó rồi
Phật ra Thiên Địa hoàn cầu chuyển xây
Mẹ đứng ra làm Thầy trước nhất
Đạo hoằng khai lời thật huyền linh
Phổ thông truyền bá chơn kinh
Phân bày phong tục nhân sinh sáng ngời
Chốn phàm trần đến đới nguơn hạ
Mẹ giáng cơ bút tả chơn kinh
Ai truyền ấn tống phổ in
Mẫu-Hoàng bảo hộ khương ninh cửu trường
Người nào đầy lòng thương tiếp dẫn
Giúp chúng sanh ngộ nhận đạo chơn
Dựng đời thạnh trị thượng nguơn
Hết lòng chỉ giáo linh nhơn tỏ tường
Khắp thế-giới thập phương cung kỉnh
Rán niệm trì nguyện thỉnh lời châu
Đắc thành sở nguyện mong cầu
Vậy mà chẳng thấy người nào lưu tâm
Hoặc gia gia tháng năm ghi nhớ
Lưu truyền kinh từ thuở ban hành
Kẻ nào tụng niệm chơn thành
Thánh tiên đắc đạo rạng danh lâu rồi
Ai chẳng tín bất cầu ác cảm
Chê bai rằng mờ ám không tùng
Đến khi nào lúc lâm chung
Hồn linh kẻ ấy vô cùng khổ đau
Ngục a-tỳ sa vào miên-viễn
Đoạ đày người lắm tiếng dể kinh
Sanh lòng nhạo báng lý kinh
Tội như biển cả mông mênh thảm sầu
Gây nhiều lỗi thảm sâu đại hải
Mẹ chẳng phiền phải trái chi đâu
Xét ra khắp cả hoàn cầu
Đều do lịnh mẹ pháp mầu chuyển ra
Mẹ thương con vi tha tất cả
Nào thấy ai để dạ xót thương
Đắng cay khổ nhọc ai tường
Rõ thông nỗi khổ đoạn trường biết bao,
Trang nữ-kiệt anh-hào chí hiếu
Bố cáo cho người hiểu rõ ràng
Đứng ra giải đáp lời vàng
Cho người trần thế dương gian tri tường
Khắp thiên tai phải quanh hiu sầu
Dập dồn nhiều cảnh khổ đau
Họa tai trước mắt tránh đâu bây giờ?
Mẹ thương con đề thơ phân tỏ
Lại chẳng nghe ghi rõ lời châu
Cuộc đời thế sự bể dâu
Mẹ đà tường tận đoán rồi tiên tri
Dầu khó khăn việc chi nguy khốn
Mẹ bình trị chỉnh đốn khắp nơi
Phán truyền bày tỏ bao lời
Hoá sanh hoằng đạo khai đời dưỡng sanh
Phật Mẫu có phân rành tất cả
Bảy mươi hai vị đã lãnh phần
Đương kim hành sự xa gần
Duy mình Mẫu chẳng cùng ai cả
Khắp ở trong thiên hạ xứ nào
Lập chùa tạo miễu đền cao
Phụng thờ thần thánh ra vào cung nghinh
Đến tánh danh cũng chớ tường tri
Một ngôi miễu nhỏ vậy thì cũng xong
Bởi chúng sanh bạc lòng chẳng nghĩ
Nên cam đành khổ luỵ sầu bi
Quanh năm bao cảnh loạn ly
Trời mưa không thuận đất thì không sanh
Mẹ thương con chẳng đành đoạn dứt
Tình thiêng liêng bút mực ghi rằng
Các con lớn nhỏ nghe chăng?
Thọ trì kinh Mẫu khó khăn cũng lành
Khắp nhơn sinh điều hành tâm đạo
Giúp cho đời cải tạo ăn năn
Chẳng luận cao thấp ngang bằng
Dầu cho trẻ nhỏ lòng hằng trì kinh
Chín tuổi biết cung nghinh đọc tụng
Điển huyền vi hữu dụng Mẹ ban
Cốt nhục xa cách lạc đàn
Mẹ cho tái hợp bình an sum vầy
Vui trong cảnh bao ngày cách biệt
Dầu chia tay cũng hiệp cùng nhau
Không phân hai bậc thấp cao
Ai ai cũng được truyền trao kinh nầy
Khắp non nước Đông, Tây, Nam, Bắc
Phổ biến kinh để nhắc nhở lòng
Thập phương bá tánh rõ thông
Nếu chẳng khứng thọ chắc không sanh tồn
Bao nguy khổ dập dồn đau xiết
Nạn thiên tai thủy kiệt sơn băng
Chúng sanh ngã gục nhào lăn
Lâm vòng đại nạn thoát chăng được nào?
Hiện bây giờ ốm đau bịnh tật
Sanh ra nhiều chứng thật gớm ghê
Khắp trong tất cả thành quê
Thảy đều thọ nạn ê-chề khổ thân
Bị nắng hạn mưa dầm ngập hết
Thổ sản nầy ngã chết chẳng còn
Đói lòng quằng quạy các con
Vậy khuyên rán nhớ lời son Mẫu-Từ
Mẹ khuyên con tâm thư lời cuối
Gắng tâm tu thông suốt lý kinh
Truyền trao giải nghĩa phổ in
Cho người trì tụng hiểu kinh kịp thời
Chúng con sẽ thấy đời hết khổ
Nội trong năm phổ độ đầu tiên
Mưa hòa gió thuận khắp miền
Mùa màng sung túc thấy liền chẳng sai
Lập đàn tràng bái Mẫu trì kinh
Dâng đèn sáp thiệt quang minh
Từ-Tôn phủ điển nhơn sinh phúc dầy
Mỗi trăng có ba ngày Mậu-Kỵ
Hãy thành tâm bền chí cúng dường
Kỉnh đàn, đăng, thủy, hoa, hương
Ngoài ra tất cả ngày thường khỏi lo
Việc cúng kiến phải cho tinh khiết
Cố gắng tu tha thiết cần chuyên
Lo tròn phận sự hằng niên
Ba mươi sáu nhựt kiền thiền trì kinh
Sắm lễ vật cung nghinh Từ-Mẫu
Trong các ngày Kỵ-Mậu lập đàn
Gồm có sáu ngọn đăng quang
Quả hoa tươi thắm hương phàn năm cây
Sáu chung nước lọc đầy đủ lễ
Cùng chung nhau họp để kỉnh đàn
Thuyết kinh giải lý rõ ràng
Mỗi người đều định tâm an thọ trì
Ai xứ nào làm y lời dạy
Định tinh-thần tụng bảy biến kinh
Tiêu bao nghiệp chướng tội mình
Hưởng đời ngươn thượng huyền linh sanh tồn
Ai cố gắng sớm hôm trì tụng
Thêm hai thời chuyền dụng tâm thành
Mẹ ban huyền diệu điển thanh
Tự tay cứu chữa mạnh lành nội gia
Đức Từ-Tôn truyền ra cho biết
Các con cần tha thiết ghi lòng
Lúa mạch gần chín đầy đồng
Hiện ra móng bạch hư-không rõ ràng
Gió từ đâu thổi sang rất mạnh
Trong niên nầy gặp cảnh phong ba
Khổ sầu từ trẻ tới già
Chúng sanh phải chịu thiết tha cơ-hàn
Nạn đói lạnh lầm than đau xiết
Là điềm trời ứng thiệt rõ ràng
Thiên đình thâu hạt lúa vàng
Thần linh ngũ cốc lịnh ban về Trời
Gieo họa cho cảnh đời khốn khổ
Tuy vậy mà có chỗ cũng chừa
Nơi nào kỉnh Mẹ sớm trưa
Trì kinh Địa Mẫu phước thừa bình an
Mẹ bảo hộ vững vàng nơi đó
Được trúng mùa mưa gió thuận hòa
Ai từng phổ biến gia gia
Tuyên truyền kinh Mẫu đứng ra giãi bày
Phổ thông in đủ đầy nghĩa lý
Mẫu sẽ sai các vị thiên thần
Gia thần ủng hộ ân cần
Đồng theo độ kẻ xa gần thành tâm
Được phúc lành tháng năm no ấm
Trên thiên đình ghi chấm phước ban
Nội gia kẻ đó thanh nhàn
Sẽ được thạnh phát vinh quang muôn phần
Thanh-Long, Bạch-Hổ thần cũng giáng
Phò tá người xứng đáng con lành
Tư-Tôn cho biết rõ rành
Trăng mười thập bát giáng sanh trần miền ](vào ngày 15 tháng 10 âm lịch)
Mưa hòa gió thuận khắp miền
Mùa màng sung túc thấy liền chẳng sai
Lập đàn tràng bái Mẫu trì kinh
Dâng đèn sáp thiệt quang minh
Từ-Tôn phủ điển nhơn sinh phúc dầy
Mỗi trăng có ba ngày Mậu-Kỵ
Hãy thành tâm bền chí cúng dường
Kỉnh đàn, đăng, thủy, hoa, hương
Ngoài ra tất cả ngày thường khỏi lo
Việc cúng kiến phải cho tinh khiết
Cố gắng tu tha thiết cần chuyên
Lo tròn phận sự hằng niên
Ba mươi sáu nhựt kiền thiền trì kinh
Sắm lễ vật cung nghinh Từ-Mẫu
Trong các ngày Kỵ-Mậu lập đàn
Gồm có sáu ngọn đăng quang
Quả hoa tươi thắm hương phàn năm cây
Sáu chung nước lọc đầy đủ lễ
Cùng chung nhau họp để kỉnh đàn
Thuyết kinh giải lý rõ ràng
Mỗi người đều định tâm an thọ trì
Ai xứ nào làm y lời dạy
Định tinh-thần tụng bảy biến kinh
Tiêu bao nghiệp chướng tội mình
Hưởng đời ngươn thượng huyền linh sanh tồn
Ai cố gắng sớm hôm trì tụng
Thêm hai thời chuyền dụng tâm thành
Mẹ ban huyền diệu điển thanh
Tự tay cứu chữa mạnh lành nội gia
Đức Từ-Tôn truyền ra cho biết
Các con cần tha thiết ghi lòng
Lúa mạch gần chín đầy đồng
Hiện ra móng bạch hư-không rõ ràng
Gió từ đâu thổi sang rất mạnh
Trong niên nầy gặp cảnh phong ba
Khổ sầu từ trẻ tới già
Chúng sanh phải chịu thiết tha cơ-hàn
Nạn đói lạnh lầm than đau xiết
Là điềm trời ứng thiệt rõ ràng
Thiên đình thâu hạt lúa vàng
Thần linh ngũ cốc lịnh ban về Trời
Gieo họa cho cảnh đời khốn khổ
Tuy vậy mà có chỗ cũng chừa
Nơi nào kỉnh Mẹ sớm trưa
Trì kinh Địa Mẫu phước thừa bình an
Mẹ bảo hộ vững vàng nơi đó
Được trúng mùa mưa gió thuận hòa
Ai từng phổ biến gia gia
Tuyên truyền kinh Mẫu đứng ra giãi bày
Phổ thông in đủ đầy nghĩa lý
Mẫu sẽ sai các vị thiên thần
Gia thần ủng hộ ân cần
Đồng theo độ kẻ xa gần thành tâm
Được phúc lành tháng năm no ấm
Trên thiên đình ghi chấm phước ban
Nội gia kẻ đó thanh nhàn
Sẽ được thạnh phát vinh quang muôn phần
Thanh-Long, Bạch-Hổ thần cũng giáng
Phò tá người xứng đáng con lành
Tư-Tôn cho biết rõ rành
Trăng mười thập bát giáng sanh trần miền ](vào ngày 15 tháng 10 âm lịch)
Đến giờ ngọ kiền thiền kỉnh Mẫu
Chẳng có nên dời đổi thời gian
Sửu, mùi, thìn, tuất không an
Đúng giờ nhứt định lập đàn trì kinh
Cầu lịnh mẹ thương tình cứu khổ
Phủ điển linh phổ độ chúng sanh
Các con tựu họp tâm thành
Được ban mầu nhiệm phúc lành khắp nơi
Mẹ hiền Thánh xuống đời tri chứng
Phương hướng nào bền vững chí tâm
Thưởng hành kỉnh Mẫu diệu thâm
Ngày đêm thành kỉnh tháng năm thanh nhàn
Còn lo chi mùa màng chẳng trúng
Gia nào hay trì tụng kinh nầy
Phước lành sẽ được hưởng ngay
Thăng thiên đắc quả chẳng sai chẳng lầm
Hưởng qúi tế cao thâm lộc cả
Thọ hương đăng trà quả vinh sang
Chơn kinh của đức Mẫu Hoàng
Gồm bao diệu lý lời vàng ngọc châu
Kinh Địa Mẫu đứng vào bậc nhứt
Chẳng tường phân ý-thức suy tầm
Người đời còn bởi mê tâm
Chẳng nên kinh dể lỗi lầm tội mang
Ai tỉnh ngộ lập đàn cung kỉnh
Thọ trì kinh nghiêm chỉnh cúng dường
Nạn tai nghiệp chướng lỡ vương
Một ngàn muôn kiếp thoát đường trầm luân
Kinh Địa Mẫu thấm nhuần đạo lý
Gắng cần chuyên nghiệm kỷ lời khuyên
Hằng ngày ròng rã khuẩn quyền
Được nhiều công đức tội liền tiêu tan
Kinh Mẫu hơn muôn ngàn kinh khác
Ai chí tâm hiển đạt phúc lành
Rõ thông từng chữ hiểu rành
Người đó sẽ được Mẹ dành hồng ân
Điển huyền linh xa gần chiếu toả
Phóng hào quang khắp cả bầu trời
Thưởng người hiểu rõ từng lời
Tâm-tư kẻ đó sáng ngời minh châu
Ai thông đạt từng câu nghiệm kỹ
Đã tri tường nghĩa lý diệu kinh
Có thể gội sạch tội mình
Bao nhiêu nghiệp chướng oan tình tiêu tan
Như ai rõ từng hàng Mẫu dạy
Qua nạn tai sắp xảy đến mình
Lại còn hưởng được phước vinh
Tam tài lộc thọ khương-ninh thanh nhàn
Nếu ai hiểu được toàn kinh quyển
Thì đích danh Mẫu chuyển điển quang
Luôn được phước lộc bình an
Đời đời kiếp kiếp Mẹ ban phúc dầy
Như nghe thuyết kinh nầy chẳng tưởng
Lại bỏ qua không lượng tường tri
Mà lòng chẳng khứng thọ trì
Bị khép vào tội khinh-khi Phật Trời,
Tội phỉ báng bao lời xúc phạm
Lâm vào cảnh khóc thảm sầu than
Ngày ấy chẳng có kêu oan
Phải đành vương tội gian nan ngục hình
Sẽ lâm vào bao nỗi thiết tha
Đại kiếp thủy hỏa phong ba
Thảy đều chết rụi đâu mà còn chi
Lòng Mẫu-Từ nghĩ suy đau xiết
Muốn hưu hủy đại kiếp phong ba
Nạn thủy hỏa sắp xảy ra
Thương cho sanh chúng phải sa cảnh sầu
Ngặt chúng chẳng quay đầu trở lại
Tuân theo lời Mẫu dạy trong kinh
Mẹ muốn bỏ sổ tử hình
Vì thấy số phận chúng sinh chết nhiều
Mẹ tính mãi bao điều phương-kế
Chẳng đành lòng bỏ phế lảng ngơ
Tình thương vô bến vô bờ
Làm sao cứu được con thơ trở về
Mẹ dùng chước mầu phê sắc lịnh
Phán phân rằng chỉ định thế nầy
Truyền thần thiện ác đến đây
Chia làm hai phái lướt mây xuống trần
Người hung dữ ác thần dẫn dắt
Nhập cùng chung kẻ bất lương tâm
Độc ác, tàn nhẫn, đa dâm
Chia ra tất cả chẳng lầm lộn chi
Bậc hiền lương phương-phi quân-tử
Thiện thần gom lại giữ một nơi
Đưa vào chánh giác kịp thời
Ngày đêm tu niệm quên đời gian nan
Chờ đến ngày hạ màn chung cuộc
Mẫu sẽ vảy ra một cái chài
Dầu cho thiện, ác phân hai
Tóm thâu tất cả một chài nhốt chung
Liên luỵ kẻ tận trung hiếu thảo
Người tu hành học đạo kinh tâm
Chừng đó mới thấy diệu thâm
Mẫu-Từ sẽ chuyển huệ tâm trẻ lành
Được sống sót nhàn thanh đủ trí
Biết tường phân chánh lý đường tà
Thiện gần ác lại tránh xa
Từ đó các đạo mở ra khai hoằng
Đồng xui lòng ăn năn qui-tựu
Chánh đạo Mẫu hội đủ đem về
Chẳng còn chia rẽ khen chê
Phân ra nhiều mối khó bề tường phân
Hình tướng chài phép thần mầu nhiệm
Mẫu tả ra những điểm rất cần
Nhị thập bát tú phân thần,
Phủ vây chánh bắc giáp gần chánh nam
Còn phương hướng tây nam tây bắc
Các vị thần giáp mặc bông bào
Gồm sáu mươi vị tài cao
Mẫu-Từ phán lịnh truyền trao lời vàng
Tuân lời dạy thiên-can mười vị
Thập nhị thần đình chỉ địa-chi
Tất cả tinh tú các vì
Ủng hộ Hoàng-Đế Thái-Vi hoàn toàn
Đức Từ-Tôn Mẫu-Hoàng điều khiển
Thần Lôi-Công, Lôi-Điển tám phương
Phân thân trấn thủ phi-thường
Sáu mươi bốn quẻ tỏ tường diệu thâm
Hiện nguyên hình tay cầm binh khí
Đứng dàn ra trực chỉ đó đây
Khắp trong thiên hạ đủ đầy
Trận đồ của Mẫu lập xây hạ miền
Cõi trời Nam từ niên Đinh-Hợi
Đến niên Thân-Dậu mới thiệt rồi
Biết bao huyền-bí nhiệm-mầu
Tại nơi hạ giới thảm sầu thiết tha
Mẫu-Từ bủa Thiên-la địa-võng
Sức đại hùng vang động kinh hồn
Thần sầu Qủi khóc vong tồn thảm thương
Còn Tứ-Đại Thiên-Vương tiếp lịnh
Bốn cửa trận Mẫu định trấn an
Tám vị thần lực kim-cang
Xông vao trận hóa pháp đàn thần thông
Làm trời đất hư không nghiêng ngả
Nhựt nguyệt tinh châu hỏa đảo xây
Cũng như chong chóng lăn quây
Thế rồi lặn mất không ngày hiện ra
Mẫu thâu lại yêu ma tà mị
Kẻ bất lương phải bị luật hình
Hô phong hoán võ lôi đình
Làm cho sóng nổ nước minh mông tràn
Lửa dậy khắp dương gian nguy khổ
Trận cuồng phong bảo tố khắp vùng
Mẫu tận diệt đứa bất trung
Xử người bất nghĩa chẳng dung tha nào
Đến chừng đó vàng thau mới rõ
Mẫu thâu xong ngày đó bình an
Nước rút sóng lặng gió tan
Sẽ thấy vũ trụ dương gian tươi nhuần
Chỉ còn người hiền luân sống sót
Kẻ thiện lương được thoát khỏi vòng
Thế là Mẫu dụng huyền công
Diệu pháp hóa biến thần thông lẹ làng
Kinh đô có sen vàng đua nở
Bốn phía vòng khắp ở thị thành
Các con hiếu thảo hiền lành
Đến chừng khi đó Mẫu dành hồng ân
Được đổi xác kim thân bất hoại
Chẳng từ sanh thoát khỏi nghiệp duyên
Chứng đặng Đại-La Tiên-Thiên
Bởi nhờ cố gắng tu hiền thành công
Hội bàn đào thưởng đồng tất cả
Các con nào đắc quả dự vào
Thế rồi vĩnh viễn về sau
Chẳng còn chuyển kiếp khổ đau trần miền
Chúng con được niên niên bất tử
Khoái lạc tiêu diêu ngự cảnh nhàn
Giống cảnh Diêu Điện Mẫu-Hoàng
Luôn hưởng lộc thọ phước an cửu trường
Phật Mẫu ngự trên thượng tầng cõi
Khoằng khai dưỡng nhơn loại bảo toàn
Hết lòng quảng đại sắt son
Hoá sanh dạy dỗ các con phản hồi.
NAM-MÔ VÔ-THƯỢNG HƯ-KHÔNG ĐỊA MẪU DƯỠNG SANH BẢO MẠNG CHƠN KINH.
LẠY ĐỊA MẪU
--------
1. NAM MÔ _ Con kính lạy địa Mẫu đấng tối cao vô thượng
Đã giáng lâm phò hộ thế gian nầy
Với anh linh cũng đức độ cao dày
Công tế thế an bang danh còn đượm.
2. NAM MÔ _ Con kính lạy Địa-Mẫu ân độ sanh vô lượng
Ân bão trì cứu tử lại vô biên
Mẹ của nhân gian mẹ Thánh mẹ Hiền
Hàng Phật tử chúng con nguyền ghi mãi.
3. NAM MÔ _ Con kính lạy Địa-Mẫu đấng mẫu nghi tứ hải
Danh vang lừng khắp cả nước non tiên
Xuống trần gian làm Phật Mẫu mẹ hiền
Để cứu độ chúng sanh cơn hoạn nạn.
4. NAM MÔ _ Con kính lạy Địa-Mẫu đấng anh linh vô hạn
Xin mẹ ban phép lạ cứu trần gian
Đang sống trong nghiệp chướng chốn trần hoàn
Xin tế độ cho muôn loài hết khổ.
5. NAM MÔ _ Con kính lạy Địa-Mẫu xin mẹ ban ân lành
Cho Việt-Nam Phật giáo thịnh hành
Được tôn nghiêm mầu nhiệm với viên thành
Cho con mẹ bốn phương đều kính mẹ.
********
NGŨ CANH TỪ
_ Canh một nhìn trần lệ tuôn rơi
Chúng dân khổ luỵ nạn tơi bời
Nên lo tu tỉnh này con dại
Lạy Mẹ nguyện cầu bể khổ vơi
_ Canh hai điển lực rải mọi nơi
Thiện nhân tu tỉnh được thảnh thơi
Sao không cố gắng tu trì vậy?
Thương xót con, mẹ chẳng nghỉ ngơi.
_ Canh ba lụy mẹ nhỏ tràn trề
Hết lời kêu gọi con tỉnh mê
Cuộc đời say đắm đường vật chất
Chôn lắp linh quang cản lối về.
_ Cứu vớt cuộc đời giấc nam kha
Canh tư đẫm lệ cõi ta-bà
Điển linh ban xuống lời từ ái
Kêu gọi thiện nhân nhủ mẹ già.
_ Canh năm trầm ngâm suy diệu huyền
Bố ban huyền diệu dứt oan khiên
Thiện nhân cứu vớt tu hành vậy
Di lạc oai linh dạy chư hiền.
NAM-MÔ VÔ CỰC THIÊN TÔN DIÊU TRÌ
HOÀNG MẪU VÔ LƯỢNG TỪ TÔN
ĐẠI TỪ TÔN A DI ĐÀ PHẬT
MA-LA BÁT-NHÃ BA-LA MẬT-ĐA
TÂM KINH
----------
Tâm trí huệ thinh thinh rộng lớn,
Sáng trong ngần, chẳng bợn mảy trần.
Làu làu một tánh thiên châu,
Bao trùm muôn loại chẳng phân thánh phàm.
Vận tâm ấy lặng trang sáng suốt,
Cõi bờ kia một bước đến nơi,
Trải lòng tròn đủ xưa nay,
Công thành quả chứng tỏ bày đích đang.
Hàng Bồ-Tát danh Quan tự tại
Khi tham thiền vô ngại đến trong
Thầm vào trí huệ mở thông,
Soi thấy năm uẩn cũng không khó gì.
Luống tất cả không chi khổ ách,
Trong thức tâm hiện cảnh sắc ra,
Sắc không chung ở một nhà,
Không chẳng khác sắc, sắc nào khác không,
Ấy sắc tướng, cũng đồng không tướng,
Không tướng y như tượng sắc kia
Thọ, Tưởng, Hành, Thức phân chia
Cũng lại như vậy tồng về chơn không.
Toà sắc tướng nhơn ông tạm đó,
Các phép kia tướng nọ luống trơn,
Chẳng sanh chẳng dứt thường trơn,
Chẳng cấu, chẳng tịnh, chẳng sờn, chẳng thêm.
Cớ ấy nên cõi trên không giới,
Thảy làu làu vô ngại trường chân,
Vốn không ngũ uẩn ấm thân,
Sáu căn chẳng có sáu trần cũng không.
Thấy rỗng không mà không nhãn giới,
Biết hoàn toàn thức giới cũng không,
Tánh không sáng suốt đại đồng,
Vô minh chẳng có mựa hòng hết chi.
Vẫn không có thân gì già chết,
Huống chi là hết chết già sao?
Tứ đề cũng chẳng có nào,
Không chi là trí có nào đắc chi.
Do vô sở đắc ly tất cả,
Nhơn pháp kia đều xả nhị không,
Vận lòng trí huệ linh thông,
Bờ kia mau đến tâm không ngại gì.
Không quái ngại có chi khủng bố,
Tức xa lìa mộng tưởng đảo điên,
Tâm không rốt ráo chi duyên,
Niết-Bàn quả chứng, chơn nguyên hoàn toàn,
Tam thế Phật, y đàng bát nhã,
Đào Bồ-Đề chứng quả chánh chơn,
Cho hay Bát nhã là hơn,
Pháp môn tối thắng, cõi chơn mau về,
Thiệt thần chú linh tri đại lực
Thiệt thần chú, đúng bực quang minh,
Ấy chú tối thượng oai linh,
Ấy chú vô đẳng thinh thinh oai thần.
Trừ tất cả nguyên nhân các khổ,
Thức tỉnh lòng giác ngộ vô sư,
Thiên nhiên chơn thiệt bất hư,
Án lam thần chú chơn như thuyết rằng:
Yết đế, yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, Bồ-Đề ta bà ha.
VÃNG SANH THẦN CHÚ
Nam mô da di đa bà dạ, đa tha dà đa dạ, đa điệt dạ tha, a di rị đô bà tì, a di đa tất đam bà tì, a di rị đa tì ca lan đế, a di rị đa tì ca lan đa, dà di nị, dà dà na, chỉ đa ca lệ ta bà ha. (đọc 3 lần).
XUÂN TÁN
Chúng thích tử kiền thiền xưng tán
Đứng Mẫu nghi vô lượng lợi sanh
Đông, tây, nam, bắc bốn phương
Hiện ra quang điển Huyền linh tuyệt vời
Kim sắc tướng muôn ngàn công đức
Khắp mười phương chẳng bực sánh bườn
Bạch Hào Hiển Hiện phóng quang
Xây vần chiếu sáng độ an dân lành
Nam Mô thiên cung thượng cõi Phật Mẫu
Tiếp dẫn chúng sanh a di đà Phật.
NAM-MÔ-A-DI-ĐÀ-PHẬT. (lần chuỗi niệm 108 lần)NAM-MÔ-QUAN-THẾ-ÂM-BỒ-TÁT (10 lần) NAM-MÔ ĐẠI-THẾ-CHÍ-BỒ-TÁT (10 lần)
NAM-MÔ LINH SƠN THÁNH MẪU BỒ-TÁT (10 lần)NAM-MÔ THANH TỊNH ĐẠI HẢI CHÚNG BỒ TÁT MA HA TÁT (10 lần).
SÁM
Cơ Trời chẳng dám lậu ra,
Mẹ thời thương trẻ xót xa trong lòng,
Canh khuya mẹ đến tỏ trong sự tình,
Nếu mà ngồi để làm thinh
Con ôi! não nộ mẹ vào tâu xin,
Muôn trông Thánh-Đế thượng-đình
Thứ dung trần-tục tôi xin phen nầy,
Tôi nguyền độ hết xưa nay,
Bao giờ về hết trên thay sửa đời,
Mẹ thương con dại con ơi!
Nếu không có Mẹ thời Trời chẳng dung,
Con ôi! lòng mẹ khôn cùng,
Thương con trần-thế khắp chung bầu Trời,
Phải xưa con trẻ nghe lời,
Mẹ đem về hết thảnh thơi an nhàn,
Có đâu trần tục chẳng an,
Nay thời đau ốm, mai mang tật nguyền,
Chết rồi đoạ lạc Diêm-Thiên,
Luân-hồi sáu thú luỵ miền U-Đô,
Con ôi! lòng Mẹ héo khô,
Cũng vị thương trẻ Mẹ vô chốn nầy,
Một giải tật bịnh con nay,
Tiêu trừ đau ốm đặng ngày an vui,
Hai giải nóng nảy thuận xuôi,
Hàn thấp phong chứng hết rồi hân hoan,
Canh chầy Mẹ kịp lên đường,
Giã con ở lại Mẹ sang Tây-đình,
SÁM ĐỊA MẪU
Ngày ngày lòng mẹ bâng khuâng,
Cũng vì thương xót nơi chung bụi trần
Nỡ nào xây mặt sấp lưng,
Liêu chiêu con đỏ mẹ đành xiết than,
Trời cho oai nộ sấm vang
Nếu không có Mẹ ắt tàn chúng con,
Bởi nên Mẹ trách phiền con,
Công Mẹ sanh sản chẳng còn tiếc chi,
Con sao bạc nghĩa chẳng ghi,
Nhờ ơn tạo hóa chút gì công danh,
Nếu như Mẹ giận bỏ đành,
Thì con đâu đặng nên danh cuộc đời,
Ngày ngày ăn uống vui chơi
Chớ hề con niệm địa thời Mẫu đây,
Muốn nên kiển vật tạo gây,
Muốn độ con trẻ phải bày dỗ khuyên,
Đôi lời Mẹ nhắc con ghi,
Ngày nào kêu Mẹ, Mẹ liền dắt con,
Trần gian tăm tối mịt mù,
Con ơi nghe Mẹ thẳng đường con đi,
Những lời mẹ đã tiên tri,
Ngày nào đại hội con thì gặp cha,
Ít lời kim khẩu thuyết ra,
Dương gian con ngụ Mẹ mà thượng thiên.
NAM-MÔ VÔ THƯỢNG HƯ KHÔNG ĐỊA-MẪU VÔ LƯỢNG ĐẠI TỪ TÔN A-DI-ĐÀ-PHẬT (1 biến).
ĐƯA - TIỄN - MẸ - HỒI - CUNG
_ Trước hương-đăng trà quả
_ Lễ kỉnh thành con bái tạ Mẫu nghi
_ Mẹ là đại đức Từ-Bi
_ Vì thương con dại mới đi xuống trần
_ Lời châu ngọc Mẹ ân cần dạy biểu,
_ Tiếng đá vàng con mới hiểu thiên cơ
_ Dắt con chỉ bến chỉ bờ
_ Lo tu trọn đạo đặng nhờ thiên liêng,
_ Này các con quyết tâm chí tịnh,
_ Giữ một lòng nhẫn nhịn lo tu
_ Giờ nầy là tuyết âm-u
_ Điển linh Mẹ giáng xuống trần độ con
_ Nên con mới biết cung son bờ bến
_ Đồng cùng nhau dắt đến trường thi
_ Gia trang sắp đặt an bày,
_ Thanh trà hoa quả lễ bày kính dâng,
_ Con lớn bé chúc mừng Hoàng-Mẫu,
_ Cầu phước dư cho Nam Việt cựu ngôi
_ Giờ nầy cầu nguyện đã rồi,
_ Lạy đưa đức Mẹ phản hồi thiên cung.
NAM-MÔ VÔ THƯỢNG HƯ KHÔNG DIÊU TRÌ
KIM MẪU DƯỠNG SANH BẢO MẠNG TỪ TÔN
ĐẠI TỪ TÔN CẢM ỨNG CHỨNG MINH
A-DI-ĐÀ-PHẬT (1 biến)
TỤNG KINH XONG, TIẾP TỤNG BÀI NGUYỆN NẦY
Kiền-Thiền vọng bái Mẫu-Hoàng,
Chấn chỉnh đạo giáo sắp an dân tình,
Độ người khỏi chốn u-minh,
Vọng cầu bái Mẹ nhờ tình xót thương,
Chúng dân tai hoạ đa-vương,
Lạy Mẹ dạy-dỗ mới tường thiên-cơ,
Vô cực từ-tôn Tây-Thiên Bá-Chủ,
Vương Cung Tây-Mẫu đê đầu lạy tạ từ ân,
Hào quang rọi xuống hương lân tỉnh thành,
Khắp trong dân chúng làm lành,
Thương yêu đùm-giúp chẳng đành bỏ nhau,
Mây lành rọi tỏ năm màu,
Cỏ cây tươi tốt làu làu thái-dương,
Yên vui bốn bể mới tường,
Cơ Trời sắp đặt luân-thường vẻ-vang
Diêu-Trì chấn chỉnh sửa-sang,
Bao nguồn về cội một đàng chánh qui,
Kiền-thiền vọng bái từ-tôn
Chuẩn y tam-giáo mới tồn lý-cao,
Ơn trên cam lộ rào rào,
Chúng con nguyện-vọng ước-ao thái bình,
Lạy cầu Mẹ ở Thiên-đình,
Độ an dân chúng pháp linh tỏ tường.
NAM-MÔ VÔ-THƯỢNG HƯ-KHÔNG ĐỊA-MẪU
DƯỠNG-SANH BẢO-MẠNG CHƠN-KINH (3 lần).
HỒI HƯỚNG
***
Phần kinh con mới đọc rồi
Nguyện xin phước đức vun bồi chúng sanh
Cho người thức tỉnh tu hành
Bến mê phút chút biến thành ao sen
Lý kinh sáng suốt như đèn
Rọi vào tâm trí tối đen sáng liền
Tụng Kinh Địa-Mẫu có duyên
Gặp người trí thức bạn hiền đồng tu
Ngày ngày tinh tấn công phu
Điển quang Mẹ chiếu linh căn sáng ngời,
Cúi xin Phật Mẫu chứng lòng
Tâm nguyền quyết chí gắng công tu trì
NAM-MÔ VÔ-THƯỢNG HƯ-KHÔNG ĐỊA-MẪU
DƯỠNG-SANH BẢO-MẠNG CHƠN-KINH ĐẠI TỪ TÔN (1 lần).
NAM-MÔ BỔN-SƯ-THÍCH-CA-MÂU-NI-PHẬT
NAM-MÔ ĐƯỢNG LAI HẠ SANH DI LẶC TỪ THỊ TÔN PHẬT (1 lần).
NAM-MÔ LINH SƠN HỘI THƯỢNG PHẬT BỒ TÁT MA HA TÁT (1 lần).
TAM QUI
***Qui y Phật Mẫu cứu trần thế
Nguyện xin phước đức vun bồi chúng sanh
Trần gian biết nẻo tu hành
Nhờ đèn trí huệ biết đường Phật - Tiên
Qui y Pháp là phương giải thoát
Điển Huyền linh bũa khắp trần gian
Sửa tâm chứng đắc kịp giờ
Linh căn Mẹ điểm hội kỳ Long Hoa
Qui y tăng chơn truyền Mẫu dại
Phải ăn chay giới luật nghiêm trang
Hữu hình giả tạm luân hồi
Vô vi thượng cảnh trở về Thiên Cung.
_ CHUNG _
THỜI KINH TỤNG ĐẾN ĐÂY ĐÃ HẾT
BÀI KỆ
Thượng ngươn lập Hội Long Vân
Phân ngôi kế vị Hoà bình quốc gia
Cộng đồng tam giáo qui nguyên
Chơn truyền tâm ấn khai cơ đạo Hiền
Thượng thông thiên địa Long Hoa
Chuyển luân chánh pháp độ người thiện duyên
Thiên cơ kín nhẹm khó rành
Người không căn trước thiệt tình biết đâu
Chẳng có nên dời đổi thời gian
Sửu, mùi, thìn, tuất không an
Đúng giờ nhứt định lập đàn trì kinh
Cầu lịnh mẹ thương tình cứu khổ
Phủ điển linh phổ độ chúng sanh
Các con tựu họp tâm thành
Được ban mầu nhiệm phúc lành khắp nơi
Mẹ hiền Thánh xuống đời tri chứng
Phương hướng nào bền vững chí tâm
Thưởng hành kỉnh Mẫu diệu thâm
Ngày đêm thành kỉnh tháng năm thanh nhàn
Còn lo chi mùa màng chẳng trúng
Gia nào hay trì tụng kinh nầy
Phước lành sẽ được hưởng ngay
Thăng thiên đắc quả chẳng sai chẳng lầm
Hưởng qúi tế cao thâm lộc cả
Thọ hương đăng trà quả vinh sang
Chơn kinh của đức Mẫu Hoàng
Gồm bao diệu lý lời vàng ngọc châu
Kinh Địa Mẫu đứng vào bậc nhứt
Chẳng tường phân ý-thức suy tầm
Người đời còn bởi mê tâm
Chẳng nên kinh dể lỗi lầm tội mang
Ai tỉnh ngộ lập đàn cung kỉnh
Thọ trì kinh nghiêm chỉnh cúng dường
Nạn tai nghiệp chướng lỡ vương
Một ngàn muôn kiếp thoát đường trầm luân
Kinh Địa Mẫu thấm nhuần đạo lý
Gắng cần chuyên nghiệm kỷ lời khuyên
Hằng ngày ròng rã khuẩn quyền
Được nhiều công đức tội liền tiêu tan
Kinh Mẫu hơn muôn ngàn kinh khác
Ai chí tâm hiển đạt phúc lành
Rõ thông từng chữ hiểu rành
Người đó sẽ được Mẹ dành hồng ân
Điển huyền linh xa gần chiếu toả
Phóng hào quang khắp cả bầu trời
Thưởng người hiểu rõ từng lời
Tâm-tư kẻ đó sáng ngời minh châu
Ai thông đạt từng câu nghiệm kỹ
Đã tri tường nghĩa lý diệu kinh
Có thể gội sạch tội mình
Bao nhiêu nghiệp chướng oan tình tiêu tan
Như ai rõ từng hàng Mẫu dạy
Qua nạn tai sắp xảy đến mình
Lại còn hưởng được phước vinh
Tam tài lộc thọ khương-ninh thanh nhàn
Nếu ai hiểu được toàn kinh quyển
Thì đích danh Mẫu chuyển điển quang
Luôn được phước lộc bình an
Đời đời kiếp kiếp Mẹ ban phúc dầy
Như nghe thuyết kinh nầy chẳng tưởng
Lại bỏ qua không lượng tường tri
Mà lòng chẳng khứng thọ trì
Bị khép vào tội khinh-khi Phật Trời,
Tội phỉ báng bao lời xúc phạm
Lâm vào cảnh khóc thảm sầu than
Ngày ấy chẳng có kêu oan
Phải đành vương tội gian nan ngục hình
Sẽ lâm vào bao nỗi thiết tha
Đại kiếp thủy hỏa phong ba
Thảy đều chết rụi đâu mà còn chi
Lòng Mẫu-Từ nghĩ suy đau xiết
Muốn hưu hủy đại kiếp phong ba
Nạn thủy hỏa sắp xảy ra
Thương cho sanh chúng phải sa cảnh sầu
Ngặt chúng chẳng quay đầu trở lại
Tuân theo lời Mẫu dạy trong kinh
Mẹ muốn bỏ sổ tử hình
Vì thấy số phận chúng sinh chết nhiều
Mẹ tính mãi bao điều phương-kế
Chẳng đành lòng bỏ phế lảng ngơ
Tình thương vô bến vô bờ
Làm sao cứu được con thơ trở về
Mẹ dùng chước mầu phê sắc lịnh
Phán phân rằng chỉ định thế nầy
Truyền thần thiện ác đến đây
Chia làm hai phái lướt mây xuống trần
Người hung dữ ác thần dẫn dắt
Nhập cùng chung kẻ bất lương tâm
Độc ác, tàn nhẫn, đa dâm
Chia ra tất cả chẳng lầm lộn chi
Bậc hiền lương phương-phi quân-tử
Thiện thần gom lại giữ một nơi
Đưa vào chánh giác kịp thời
Ngày đêm tu niệm quên đời gian nan
Chờ đến ngày hạ màn chung cuộc
Mẫu sẽ vảy ra một cái chài
Dầu cho thiện, ác phân hai
Tóm thâu tất cả một chài nhốt chung
Liên luỵ kẻ tận trung hiếu thảo
Người tu hành học đạo kinh tâm
Chừng đó mới thấy diệu thâm
Mẫu-Từ sẽ chuyển huệ tâm trẻ lành
Được sống sót nhàn thanh đủ trí
Biết tường phân chánh lý đường tà
Thiện gần ác lại tránh xa
Từ đó các đạo mở ra khai hoằng
Đồng xui lòng ăn năn qui-tựu
Chánh đạo Mẫu hội đủ đem về
Chẳng còn chia rẽ khen chê
Phân ra nhiều mối khó bề tường phân
Hình tướng chài phép thần mầu nhiệm
Mẫu tả ra những điểm rất cần
Nhị thập bát tú phân thần,
Phủ vây chánh bắc giáp gần chánh nam
Còn phương hướng tây nam tây bắc
Các vị thần giáp mặc bông bào
Gồm sáu mươi vị tài cao
Mẫu-Từ phán lịnh truyền trao lời vàng
Tuân lời dạy thiên-can mười vị
Thập nhị thần đình chỉ địa-chi
Tất cả tinh tú các vì
Ủng hộ Hoàng-Đế Thái-Vi hoàn toàn
Đức Từ-Tôn Mẫu-Hoàng điều khiển
Thần Lôi-Công, Lôi-Điển tám phương
Phân thân trấn thủ phi-thường
Sáu mươi bốn quẻ tỏ tường diệu thâm
Hiện nguyên hình tay cầm binh khí
Đứng dàn ra trực chỉ đó đây
Khắp trong thiên hạ đủ đầy
Trận đồ của Mẫu lập xây hạ miền
Cõi trời Nam từ niên Đinh-Hợi
Đến niên Thân-Dậu mới thiệt rồi
Biết bao huyền-bí nhiệm-mầu
Tại nơi hạ giới thảm sầu thiết tha
Mẫu-Từ bủa Thiên-la địa-võng
Sức đại hùng vang động kinh hồn
Thần sầu Qủi khóc vong tồn thảm thương
Còn Tứ-Đại Thiên-Vương tiếp lịnh
Bốn cửa trận Mẫu định trấn an
Tám vị thần lực kim-cang
Xông vao trận hóa pháp đàn thần thông
Làm trời đất hư không nghiêng ngả
Nhựt nguyệt tinh châu hỏa đảo xây
Cũng như chong chóng lăn quây
Thế rồi lặn mất không ngày hiện ra
Mẫu thâu lại yêu ma tà mị
Kẻ bất lương phải bị luật hình
Hô phong hoán võ lôi đình
Làm cho sóng nổ nước minh mông tràn
Lửa dậy khắp dương gian nguy khổ
Trận cuồng phong bảo tố khắp vùng
Mẫu tận diệt đứa bất trung
Xử người bất nghĩa chẳng dung tha nào
Đến chừng đó vàng thau mới rõ
Mẫu thâu xong ngày đó bình an
Nước rút sóng lặng gió tan
Sẽ thấy vũ trụ dương gian tươi nhuần
Chỉ còn người hiền luân sống sót
Kẻ thiện lương được thoát khỏi vòng
Thế là Mẫu dụng huyền công
Diệu pháp hóa biến thần thông lẹ làng
Kinh đô có sen vàng đua nở
Bốn phía vòng khắp ở thị thành
Các con hiếu thảo hiền lành
Đến chừng khi đó Mẫu dành hồng ân
Được đổi xác kim thân bất hoại
Chẳng từ sanh thoát khỏi nghiệp duyên
Chứng đặng Đại-La Tiên-Thiên
Bởi nhờ cố gắng tu hiền thành công
Hội bàn đào thưởng đồng tất cả
Các con nào đắc quả dự vào
Thế rồi vĩnh viễn về sau
Chẳng còn chuyển kiếp khổ đau trần miền
Chúng con được niên niên bất tử
Khoái lạc tiêu diêu ngự cảnh nhàn
Giống cảnh Diêu Điện Mẫu-Hoàng
Luôn hưởng lộc thọ phước an cửu trường
Phật Mẫu ngự trên thượng tầng cõi
Khoằng khai dưỡng nhơn loại bảo toàn
Hết lòng quảng đại sắt son
Hoá sanh dạy dỗ các con phản hồi.
NAM-MÔ VÔ-THƯỢNG HƯ-KHÔNG ĐỊA MẪU DƯỠNG SANH BẢO MẠNG CHƠN KINH.
LẠY ĐỊA MẪU
--------
1. NAM MÔ _ Con kính lạy địa Mẫu đấng tối cao vô thượng
Đã giáng lâm phò hộ thế gian nầy
Với anh linh cũng đức độ cao dày
Công tế thế an bang danh còn đượm.
2. NAM MÔ _ Con kính lạy Địa-Mẫu ân độ sanh vô lượng
Ân bão trì cứu tử lại vô biên
Mẹ của nhân gian mẹ Thánh mẹ Hiền
Hàng Phật tử chúng con nguyền ghi mãi.
3. NAM MÔ _ Con kính lạy Địa-Mẫu đấng mẫu nghi tứ hải
Danh vang lừng khắp cả nước non tiên
Xuống trần gian làm Phật Mẫu mẹ hiền
Để cứu độ chúng sanh cơn hoạn nạn.
4. NAM MÔ _ Con kính lạy Địa-Mẫu đấng anh linh vô hạn
Xin mẹ ban phép lạ cứu trần gian
Đang sống trong nghiệp chướng chốn trần hoàn
Xin tế độ cho muôn loài hết khổ.
5. NAM MÔ _ Con kính lạy Địa-Mẫu xin mẹ ban ân lành
Cho Việt-Nam Phật giáo thịnh hành
Được tôn nghiêm mầu nhiệm với viên thành
Cho con mẹ bốn phương đều kính mẹ.
********
NGŨ CANH TỪ
_ Canh một nhìn trần lệ tuôn rơi
Chúng dân khổ luỵ nạn tơi bời
Nên lo tu tỉnh này con dại
Lạy Mẹ nguyện cầu bể khổ vơi
_ Canh hai điển lực rải mọi nơi
Thiện nhân tu tỉnh được thảnh thơi
Sao không cố gắng tu trì vậy?
Thương xót con, mẹ chẳng nghỉ ngơi.
_ Canh ba lụy mẹ nhỏ tràn trề
Hết lời kêu gọi con tỉnh mê
Cuộc đời say đắm đường vật chất
Chôn lắp linh quang cản lối về.
_ Cứu vớt cuộc đời giấc nam kha
Canh tư đẫm lệ cõi ta-bà
Điển linh ban xuống lời từ ái
Kêu gọi thiện nhân nhủ mẹ già.
_ Canh năm trầm ngâm suy diệu huyền
Bố ban huyền diệu dứt oan khiên
Thiện nhân cứu vớt tu hành vậy
Di lạc oai linh dạy chư hiền.
NAM-MÔ VÔ CỰC THIÊN TÔN DIÊU TRÌ
HOÀNG MẪU VÔ LƯỢNG TỪ TÔN
ĐẠI TỪ TÔN A DI ĐÀ PHẬT
MA-LA BÁT-NHÃ BA-LA MẬT-ĐA
TÂM KINH
----------
Tâm trí huệ thinh thinh rộng lớn,
Sáng trong ngần, chẳng bợn mảy trần.
Làu làu một tánh thiên châu,
Bao trùm muôn loại chẳng phân thánh phàm.
Vận tâm ấy lặng trang sáng suốt,
Cõi bờ kia một bước đến nơi,
Trải lòng tròn đủ xưa nay,
Công thành quả chứng tỏ bày đích đang.
Hàng Bồ-Tát danh Quan tự tại
Khi tham thiền vô ngại đến trong
Thầm vào trí huệ mở thông,
Soi thấy năm uẩn cũng không khó gì.
Luống tất cả không chi khổ ách,
Trong thức tâm hiện cảnh sắc ra,
Sắc không chung ở một nhà,
Không chẳng khác sắc, sắc nào khác không,
Ấy sắc tướng, cũng đồng không tướng,
Không tướng y như tượng sắc kia
Thọ, Tưởng, Hành, Thức phân chia
Cũng lại như vậy tồng về chơn không.
Toà sắc tướng nhơn ông tạm đó,
Các phép kia tướng nọ luống trơn,
Chẳng sanh chẳng dứt thường trơn,
Chẳng cấu, chẳng tịnh, chẳng sờn, chẳng thêm.
Cớ ấy nên cõi trên không giới,
Thảy làu làu vô ngại trường chân,
Vốn không ngũ uẩn ấm thân,
Sáu căn chẳng có sáu trần cũng không.
Thấy rỗng không mà không nhãn giới,
Biết hoàn toàn thức giới cũng không,
Tánh không sáng suốt đại đồng,
Vô minh chẳng có mựa hòng hết chi.
Vẫn không có thân gì già chết,
Huống chi là hết chết già sao?
Tứ đề cũng chẳng có nào,
Không chi là trí có nào đắc chi.
Do vô sở đắc ly tất cả,
Nhơn pháp kia đều xả nhị không,
Vận lòng trí huệ linh thông,
Bờ kia mau đến tâm không ngại gì.
Không quái ngại có chi khủng bố,
Tức xa lìa mộng tưởng đảo điên,
Tâm không rốt ráo chi duyên,
Niết-Bàn quả chứng, chơn nguyên hoàn toàn,
Tam thế Phật, y đàng bát nhã,
Đào Bồ-Đề chứng quả chánh chơn,
Cho hay Bát nhã là hơn,
Pháp môn tối thắng, cõi chơn mau về,
Thiệt thần chú linh tri đại lực
Thiệt thần chú, đúng bực quang minh,
Ấy chú tối thượng oai linh,
Ấy chú vô đẳng thinh thinh oai thần.
Trừ tất cả nguyên nhân các khổ,
Thức tỉnh lòng giác ngộ vô sư,
Thiên nhiên chơn thiệt bất hư,
Án lam thần chú chơn như thuyết rằng:
Yết đế, yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, Bồ-Đề ta bà ha.
VÃNG SANH THẦN CHÚ
Nam mô da di đa bà dạ, đa tha dà đa dạ, đa điệt dạ tha, a di rị đô bà tì, a di đa tất đam bà tì, a di rị đa tì ca lan đế, a di rị đa tì ca lan đa, dà di nị, dà dà na, chỉ đa ca lệ ta bà ha. (đọc 3 lần).
XUÂN TÁN
Chúng thích tử kiền thiền xưng tán
Đứng Mẫu nghi vô lượng lợi sanh
Đông, tây, nam, bắc bốn phương
Hiện ra quang điển Huyền linh tuyệt vời
Kim sắc tướng muôn ngàn công đức
Khắp mười phương chẳng bực sánh bườn
Bạch Hào Hiển Hiện phóng quang
Xây vần chiếu sáng độ an dân lành
Nam Mô thiên cung thượng cõi Phật Mẫu
Tiếp dẫn chúng sanh a di đà Phật.
NAM-MÔ-A-DI-ĐÀ-PHẬT. (lần chuỗi niệm 108 lần)NAM-MÔ-QUAN-THẾ-ÂM-BỒ-TÁT (10 lần) NAM-MÔ ĐẠI-THẾ-CHÍ-BỒ-TÁT (10 lần)
NAM-MÔ LINH SƠN THÁNH MẪU BỒ-TÁT (10 lần)NAM-MÔ THANH TỊNH ĐẠI HẢI CHÚNG BỒ TÁT MA HA TÁT (10 lần).
SÁM
Cơ Trời chẳng dám lậu ra,
Mẹ thời thương trẻ xót xa trong lòng,
Canh khuya mẹ đến tỏ trong sự tình,
Nếu mà ngồi để làm thinh
Con ôi! não nộ mẹ vào tâu xin,
Muôn trông Thánh-Đế thượng-đình
Thứ dung trần-tục tôi xin phen nầy,
Tôi nguyền độ hết xưa nay,
Bao giờ về hết trên thay sửa đời,
Mẹ thương con dại con ơi!
Nếu không có Mẹ thời Trời chẳng dung,
Con ôi! lòng mẹ khôn cùng,
Thương con trần-thế khắp chung bầu Trời,
Phải xưa con trẻ nghe lời,
Mẹ đem về hết thảnh thơi an nhàn,
Có đâu trần tục chẳng an,
Nay thời đau ốm, mai mang tật nguyền,
Chết rồi đoạ lạc Diêm-Thiên,
Luân-hồi sáu thú luỵ miền U-Đô,
Con ôi! lòng Mẹ héo khô,
Cũng vị thương trẻ Mẹ vô chốn nầy,
Một giải tật bịnh con nay,
Tiêu trừ đau ốm đặng ngày an vui,
Hai giải nóng nảy thuận xuôi,
Hàn thấp phong chứng hết rồi hân hoan,
Canh chầy Mẹ kịp lên đường,
Giã con ở lại Mẹ sang Tây-đình,
SÁM ĐỊA MẪU
Ngày ngày lòng mẹ bâng khuâng,
Cũng vì thương xót nơi chung bụi trần
Nỡ nào xây mặt sấp lưng,
Liêu chiêu con đỏ mẹ đành xiết than,
Trời cho oai nộ sấm vang
Nếu không có Mẹ ắt tàn chúng con,
Bởi nên Mẹ trách phiền con,
Công Mẹ sanh sản chẳng còn tiếc chi,
Con sao bạc nghĩa chẳng ghi,
Nhờ ơn tạo hóa chút gì công danh,
Nếu như Mẹ giận bỏ đành,
Thì con đâu đặng nên danh cuộc đời,
Ngày ngày ăn uống vui chơi
Chớ hề con niệm địa thời Mẫu đây,
Muốn nên kiển vật tạo gây,
Muốn độ con trẻ phải bày dỗ khuyên,
Đôi lời Mẹ nhắc con ghi,
Ngày nào kêu Mẹ, Mẹ liền dắt con,
Trần gian tăm tối mịt mù,
Con ơi nghe Mẹ thẳng đường con đi,
Những lời mẹ đã tiên tri,
Ngày nào đại hội con thì gặp cha,
Ít lời kim khẩu thuyết ra,
Dương gian con ngụ Mẹ mà thượng thiên.
NAM-MÔ VÔ THƯỢNG HƯ KHÔNG ĐỊA-MẪU VÔ LƯỢNG ĐẠI TỪ TÔN A-DI-ĐÀ-PHẬT (1 biến).
ĐƯA - TIỄN - MẸ - HỒI - CUNG
_ Trước hương-đăng trà quả
_ Lễ kỉnh thành con bái tạ Mẫu nghi
_ Mẹ là đại đức Từ-Bi
_ Vì thương con dại mới đi xuống trần
_ Lời châu ngọc Mẹ ân cần dạy biểu,
_ Tiếng đá vàng con mới hiểu thiên cơ
_ Dắt con chỉ bến chỉ bờ
_ Lo tu trọn đạo đặng nhờ thiên liêng,
_ Này các con quyết tâm chí tịnh,
_ Giữ một lòng nhẫn nhịn lo tu
_ Giờ nầy là tuyết âm-u
_ Điển linh Mẹ giáng xuống trần độ con
_ Nên con mới biết cung son bờ bến
_ Đồng cùng nhau dắt đến trường thi
_ Gia trang sắp đặt an bày,
_ Thanh trà hoa quả lễ bày kính dâng,
_ Con lớn bé chúc mừng Hoàng-Mẫu,
_ Cầu phước dư cho Nam Việt cựu ngôi
_ Giờ nầy cầu nguyện đã rồi,
_ Lạy đưa đức Mẹ phản hồi thiên cung.
NAM-MÔ VÔ THƯỢNG HƯ KHÔNG DIÊU TRÌ
KIM MẪU DƯỠNG SANH BẢO MẠNG TỪ TÔN
ĐẠI TỪ TÔN CẢM ỨNG CHỨNG MINH
A-DI-ĐÀ-PHẬT (1 biến)
TỤNG KINH XONG, TIẾP TỤNG BÀI NGUYỆN NẦY
Kiền-Thiền vọng bái Mẫu-Hoàng,
Chấn chỉnh đạo giáo sắp an dân tình,
Độ người khỏi chốn u-minh,
Vọng cầu bái Mẹ nhờ tình xót thương,
Chúng dân tai hoạ đa-vương,
Lạy Mẹ dạy-dỗ mới tường thiên-cơ,
Vô cực từ-tôn Tây-Thiên Bá-Chủ,
Vương Cung Tây-Mẫu đê đầu lạy tạ từ ân,
Hào quang rọi xuống hương lân tỉnh thành,
Khắp trong dân chúng làm lành,
Thương yêu đùm-giúp chẳng đành bỏ nhau,
Mây lành rọi tỏ năm màu,
Cỏ cây tươi tốt làu làu thái-dương,
Yên vui bốn bể mới tường,
Cơ Trời sắp đặt luân-thường vẻ-vang
Diêu-Trì chấn chỉnh sửa-sang,
Bao nguồn về cội một đàng chánh qui,
Kiền-thiền vọng bái từ-tôn
Chuẩn y tam-giáo mới tồn lý-cao,
Ơn trên cam lộ rào rào,
Chúng con nguyện-vọng ước-ao thái bình,
Lạy cầu Mẹ ở Thiên-đình,
Độ an dân chúng pháp linh tỏ tường.
NAM-MÔ VÔ-THƯỢNG HƯ-KHÔNG ĐỊA-MẪU
DƯỠNG-SANH BẢO-MẠNG CHƠN-KINH (3 lần).
HỒI HƯỚNG
***
Phần kinh con mới đọc rồi
Nguyện xin phước đức vun bồi chúng sanh
Cho người thức tỉnh tu hành
Bến mê phút chút biến thành ao sen
Lý kinh sáng suốt như đèn
Rọi vào tâm trí tối đen sáng liền
Tụng Kinh Địa-Mẫu có duyên
Gặp người trí thức bạn hiền đồng tu
Ngày ngày tinh tấn công phu
Điển quang Mẹ chiếu linh căn sáng ngời,
Cúi xin Phật Mẫu chứng lòng
Tâm nguyền quyết chí gắng công tu trì
NAM-MÔ VÔ-THƯỢNG HƯ-KHÔNG ĐỊA-MẪU
DƯỠNG-SANH BẢO-MẠNG CHƠN-KINH ĐẠI TỪ TÔN (1 lần).
NAM-MÔ BỔN-SƯ-THÍCH-CA-MÂU-NI-PHẬT
NAM-MÔ ĐƯỢNG LAI HẠ SANH DI LẶC TỪ THỊ TÔN PHẬT (1 lần).
NAM-MÔ LINH SƠN HỘI THƯỢNG PHẬT BỒ TÁT MA HA TÁT (1 lần).
TAM QUI
***Qui y Phật Mẫu cứu trần thế
Nguyện xin phước đức vun bồi chúng sanh
Trần gian biết nẻo tu hành
Nhờ đèn trí huệ biết đường Phật - Tiên
Qui y Pháp là phương giải thoát
Điển Huyền linh bũa khắp trần gian
Sửa tâm chứng đắc kịp giờ
Linh căn Mẹ điểm hội kỳ Long Hoa
Qui y tăng chơn truyền Mẫu dại
Phải ăn chay giới luật nghiêm trang
Hữu hình giả tạm luân hồi
Vô vi thượng cảnh trở về Thiên Cung.
_ CHUNG _
THỜI KINH TỤNG ĐẾN ĐÂY ĐÃ HẾT
BÀI KỆ
Thượng ngươn lập Hội Long Vân
Phân ngôi kế vị Hoà bình quốc gia
Cộng đồng tam giáo qui nguyên
Chơn truyền tâm ấn khai cơ đạo Hiền
Thượng thông thiên địa Long Hoa
Chuyển luân chánh pháp độ người thiện duyên
Thiên cơ kín nhẹm khó rành
Người không căn trước thiệt tình biết đâu
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét