- MỪNG ĐẠI LỄ ĐỨC MẸ DIÊU TRÌ KIM MẪU 2015
LONG VÂN HOẰNG PHÁP
THI
ĐÔNG độ nhân sanh tỉnh mộng sầu,
THIÊN đài rực rỡ ánh Minh Châu,
THÁNH nhân hiển thế cần thông suốt,
MẪU mực nghiêm minh đạt lý mầu.
Thập nhị Thánh Nương kiến Mẫu Hoàng.
Thiên tinh Bửu vị khá nghiêm trang,
Tiếp nghinh Hoàng Mẫu lâm trần hạ,
Xuống bút bài trang sử Đạo Vàng,
Triều nghinh.
THI
TÂY đài chiếu sáng ánh hào quang,
THIÊN địa minh khai chuyển Đạo Vàng,
THÁNH xuất nam đài qui nhứt thống,
MẪU từ vâng lịnh hạ trần gian.
BỬU pháp dồi trau đắc vị lành,
LIÊN đài cao ngự hiện hồng danh,
MỸ nay thọ lịnh chầu Kim Mẫu,
GIÁNG điễn mừng chung cả chúng sanh.
Triều nghinh.
***
NAM đài thọ sắc chuyển hồng ân,
THIÊN địa hồi qui Phật, Thánh, Thần,
THÁNH hiện đàn trung thừa lịnh Mẹ,
MẪU từ Diêu Điện xuống hồng trần.
BỬU ngọc dồi trau đắc vị tiền,
LIÊN đài sắc lịnh Mẹ khai nguyên,
CHÂU thân vẹn Đạo thành chánh quả.
GIÁNG thế triều nghình Đức Mẹ hiền.
Triều nghinh.
BẮC đài rực rỡ ánh kim quang,
THIÊN địa hoàng cầu cảnh loạn an,
THÁNH hiện trần ai ban phước báu,
MẪU từ giáng hiện tại trần gian.
BỬU pháp dồi trau đắc vị ngôi,
LIÊN hoa rực rỡ thoát luân hồi,
TRANG đề HUỲNH ĐẠO gương soi sáng,
GIÁNG dạy con trần chẳng bỏ trôi
Triều nghinh
***
LIÊN hiệp cùng nhau mở ĐẠO HUỲNH,
HOA đăng rực rỡ vững lòng tin,
THÁNH Tiên xuất thế ban huyền pháp,
MẪU sắc ban chung hiệp ý tình.
BỬU pháp Thiên Khai ráng học hành,
LIÊN đài muốn đắc phải hy sinh,
CHƯƠNG Đạo lý phải cần thông suốt,
GIÁNG ngự mừng chung chiếu huệ linh.
Triều nghinh.
***
BỬU điện thành tâm lễ MẪU HOÀNG,
LIÊN đài rực rỡ ánh kim quang,
HUÊ viên thượng cảnh Diêu Trì Điện,
GIÁNG điễn giờ nay thọ sắc ban.
LIÊN kết một lòng chẳng ngại nghi,
HUÊ tươi cung kỉnh lễ DIÊU TRÌ,
THÁNH, Thần, Tiên, Phật đồng triều lễ,
MẪU tử một lòng chẳng quản chi.
Triều nghinh.
***
BỬU pháp chưa thông chẳng luyện tu,
LIÊN hoa muốn đắc phải công phu,
LONG đài vội đến chầu Kim Mẫu,
GIÁNG điễn mừng vui thoát ngục tù.
Triều nghinh.
BỬU châu rực rỡ chiếu muôn màu,
LIÊN kết Đạo Huỳnh quí biết bao,
PHI đến đàn tràng mừng tất cả,
GIÁNG trần lệ ứa xót lòng đau.
LIÊN PHI Thánh Mẫu.
LIÊN hoa đua nở cánh sen hồng,
PHI giáng về đây dạ ước mong,
THÁNH xuất trung ương Huỳnh Đạo thạnh,
MẪU khuôn ngày trước chẳng phai lòng.
Triều nghinh.
***
BỬU pháp dồi trau đắc vị ngôi,
LIÊN hoa đua nở đẹp vô hồi,
HƯƠNG bay phưởng phất mùi thanh dịu,
GIÁNG điễn cung nghinh Mẹ đến rồi.
LIÊN hoa ánh sắc một màu hồng,
HƯƠNG đượm nghĩa tình chữ sắc không,
THÁNH hiển linh thông khai bút điễn,
MẪU từ dạy trẻ hãy an lòng.
Vì cơ Huỳnh Đạo lo phận sự,
Vì Mẹ, vì Thầy chẳng nệ công,
Cố gắng đi con dù khảo đảo,
Mặc tình thế sự nước xuôi dòng.
BỬU điện kim quang chiếu sáng lòa,
LIÊN hoa liên kết hiệp toàn gia,
HIẾU ân thánh sử lưu muôn thưở,
GIÁNG điện MẪU khuyên chữ thuận hòa.
LONG hiện triều vương nghinh PHẬT MẪU.
VÂN đài điện nội trổ muôn hoa,
HOẰNG dương Huỳnh Đạo khai chơn lý,
PHÁP chánh Thiên Khai lịnh Giáo Tòa.
***
Giáo Tòa sắc lịnh rất nghiêm minh,
Huỳnh Đạo hoằng khai độ chúng sinh,
Quyết chí hy sinh vì Chánh giáo,
Diêu Trì thọ sắc của Thiên đình.
Tam niên đại xá hồng ân chuyển,
Mấy chục niên qua lịnh Ngọc Kinh,
Ngũ niên chuyển xá ân Di Lạc,
Ban rải hồng ân khắp vạn linh.
***
Các hàng Thánh Mẫu nghiêm trang,
Thành tâm cung thỉnh Mẫu Hoàng giáng lâm.
Năm trăm Tiên nữ điện trần,
Mẫu Hoàng Diêu Điện ngự lâm hồng trần.
Triều nghinh.
TIẾP LỊNH ĐỨC MẪU HOÀNG
(12 hồi trống tiếp nghinh Mẫu Hoàng ).
Mẹ linh hồn các con.
THI
DIÊU cung Mẹ xuống cõi trần gian,
TRÌ điện Mẹ khai ánh Đạo Vàng,
KIM ngọc bút phê lời Chánh Giáo,
MẪU khuôn vạn thưở được trang hoàng.
THƯỢNG tòa bạch ngọc Thầy phê chuẩn,
ĐẲNG cấp Đạo Huỳnh phải vững an,
TỪ tốn nhẫn hòa tâm bất chấp,
TÔN nghiêm luật Đạo khá nghiêm trang.
Mẹ miễn lễ Tam Giáo, Tam Trấn cùng các Chư Thiên Thánh Mẫu kỉnh thành cung kính tiếp rước Mẫu Nghi giáng ngự truyền các chư thiên hồi cung.
Mẹ mừng các con Thiên phong chức sắc Hội Thánh hậu tấn Thiên Khai Huỳnh Đạo.
Đêm nay Mẹ giáng bút điễn, Mẹ ghi vài trang nhắc nhở các con trên bước đường hành Đạo, Mẹ soi thấu lòng các con vô cùng buồn tủi vì cơ Đạo nhiều trắc trở gian nan lòng mãi hoang mang, chưa phân biệt chánh, tà, chơn, ngụy, con tu mà chưa mở được trí huệ còn trong vô minh làm sao các con soi thấu được Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới, Mẹ khuyên các con hãy bình tâm hành Đạo, học Đạo, trau dồi Đạo pháp, rèn luyện Tinh, Khí, Thần đầy đủ đức nhẫn nhục vẹn toàn công trình, công quả, công phu tam công trọn vẹn để được trở về ngôi vị. Các con Thiên Phong Huỳnh Đạo từ đây con bình tâm học Đạo, luyện pháp tu chơn, tâm linh phải trong sáng, trí huệ cao minh, nhẫn hòa thương yêu đoàn kết vì cơ Đạo, thương Thầy, thương Mẹ quyết tâm lo Đạo không để Hội Thánh Thiên Khai phải bị khảo đảo.
Các con định tâm nghe Mẹ dạy.
THI BÀI
Điện Long Vân loan xa Mẹ ngự,
Xuống dòng thơ vạn chữ Mẹ truyền,
Đem lời châu ngọc Mẹ khuyên,
Thiên Khai Huỳnh Đạo bình yên tu hành.
Con Hội Thánh em anh hiệp mặt,
Tình thương yêu cân nhắc lẫn nhau,
Dẫn dìu anh trước em sau,
Đi cho đúng lối bốn rào thoát qua.
Tình huynh đệ chung nhà Huỳnh Đạo,
Nghĩa đồng môn thuận thảo lo hành,
Thương con xuống bút dạy rành,
TRUNG THU kỷ niệm điện lành lễ nghi.
Ngày Hội Yến Diêu Trì Đại Xá,
Con Thiên Tinh cùng cả Bửu Liên,
Các con đồng đẳng kỉnh thiền,
TIếp nghinh Kim Mẫu điện tiền giáng lâm.
Mẹ ngự thế điện trần Mẹ chúc,
Mừng các con hữu phúc đại duyên,
Cùng nhau gìn giữ mối giềng,
Thiên Khai Huỳnh Đạo qui nguyên đại đồng.
Tất cả phải một lòng một ý,
Đừng để cho ma mị xen vào,
Tinh thần Đạo pháp thanh cao,
Mỗi con vững bước đừng nao nản lòng.
Thương tình Mẹ quyết không rời bỏ,
Thương tình con Mẹ tỏ phân bày,
Nhẫn hòa nhường nhịn từ nay,
Đi chung một lối thẳng ngay về Thầy.
Học thông suốt những bài nghiêm giáo,
Học cho rành cái Đạo làm người,
Cây nhờ sương đượm tốt tươi,
Người nhờ Đạo đức muôn đời danh bia.
Tình huynh đệ đừng chia đừng cách,
Nghĩa Đạo đồng trong sạch lòng thương,
Cùng nhau đi hết con đường,
Con đường Đạo nghĩa lập trường người tu.
Nay đến ngày Trung Thu đại lễ,
Con về đây dưới bệ bái chầu,
Thành tâm lễ Mẹ cung chầu,
Thiên Tinh Bửu Vị chư hầu yến viên.
Hội Quỳnh Tương con hiền chầu bái,
Chúc Mẹ hiền vạn đại huyền vi,
DIÊU CUNG HOÀNG MẪU chứng tri,
Thứ tha con trẻ mê si lỗi lầm.
Tu dứt hết tà tâm mê muội,
Tỉnh với mê may rủi hai đường,
Tỉnh thì về đến Tây phương,
Mê thì về cõi Diêm Vuơng âm phù.
Con biết Đạo biết tu ráng nhẫn,
Trọn lòng tin không bận chi đời,
Thương con lệ Mẹ tuôn rơi,
Mong con thức tỉnh xa nơi biển sầu.
Nơi Chánh Điện lễ chầu bái Mẹ,
Ban ân lành cho trẻ bình an,
Về gia hay ở Điện đàn,
Vẫn còn nghe tiếng âm vang Mẹ hiền.
Câu chơn lý diệu huyền cao cả,
Kiếp tu hành nghiệp quả tùy duyên,
Xuống trần nguồn cội án tiền,
Điều ghi vào sổ nghiệp duyên trong trần.
Làm người biết chữ ân chữ nghĩa,
Nguyện làm sao tròn trịa được đầy,
Đừng cho nghịch lẫn từ đây,
Thiên Khai Huỳnh Đạo hiệp vầy đoàn viên.
Cùng chèo chống con thuyền Bát Nhã,
Chở nguyên căn thượng hạ qui về,
Đạo Vàng tầm Giác xa Mê,
Khuyên con tìm cội Bồ Đề nghìn năm.
Mẹ ngự điễn thiền tâm huấn giáo,
Cho các con thông Đạo hiểu đời,
Đời là biển khổ con ơi!
Đạo là chánh pháp Phật Trời truyền ban.
Đạo độ trẻ xa đàng lạc lối,
Đạo dạy con nguồn cội cao minh,
Các con là kiếp nhơn sinh,
Kính Cha trọng Mẹ con tin Đất-Trời.
Trời là Cha ân người cao cả,
Mẹ đất lành khai hóa sanh linh,
Các con Bửu Vị Thiên Tinh,
Hiệp nhau lo mối Đạo Huỳnh Thiên Khai.
Đừng than vắng thở dài nghe trẻ,
Đất vốn là lòng Mẹ yêu thương,
Diêu Trì Đại Yến Quỳnh Tương,
Các con kỉnh lễ Cửu Nương hạ phàm.
Đức Thánh Đế Già Lam cũng giáng,
Lý Đại Tiên quyền hạng Giáo Tông,
Quan Âm Bồ Tát ân hồng,
Dùng nhành dương liễu mát lòng chúng sanh.
Cam lồ rải con lành mạnh khỏe,
Mẹ mong con vui vẻ tu hành,
Tu là cứu vớt chúng sanh,
Người trong cơn khổ không đành làm ngơ.
Vì chủng loại kịp giờ cứu cánh,
Biết được câu yếu mạnh nghèo giàu.
Con thông được Đạo bước mau,
Giúp người, người giúp ai nào vô tâm.
Công đức đó thâm thâm vi diệu,
Công đức kia tiêu biểu người tu,
Làm người đừng kết oán thù,
Tấm lòng bác ái, sĩ nhu nên làm.
Nay Huỳnh Đạo qui tam hiệp ngũ,
Ánh Đạo Vàng trùm phủ Càn-Khôn,
Thiên Khai Huỳnh Đạo trường tồn,
Minh Châu chiếu sáng Thiên môn rạng ngời.
Thiên môn vốn cửa Trời khai mở,
Bạch Ngọc Kinh rạng rỡ oai linh,
Đó là nơi chốn Thiên đình,
Đó là nơi Bạch Ngọc Kinh chầu Thầy.
Mẹ giáng điễn chuyễn xây cơ Đạo,
Khuyên các con thuận thảo tu hành,
Trồng cây nhiều nhánh nhiều cành,
Gốc cây tươi tốt mới sanh trái nhiều.
Người tâm đạo kẻ chìu người mến,
Kẻ hiền lương bờ bến vững vàng,
Biết tu, biết Đạo hiền ngoan,
Tịnh thân thấy được hào quang sáng lòa.
Mẹ ngự trước Chương Tòa Diêu Điện,
Cơ Đạo Huỳnh xây chuyển hoằng khai,
Tuyển trang hiền đức nhân tài,
Góp công góp sức từ nay phổ truyền.
Các con diệt tâm viên ý mã,
Đừng để thân xa ngã vì đời,
Biển trần con trẻ chơi vơi,
Biết đâu là bến biết nơi nào bờ.
Con ơi! Ráng đợi chờ Thiên định,
Cơ Đạo Huỳnh chấn chỉnh cho minh,
Các con phải đủ đức tin,
Đạo Huỳnh mới được hiển linh nhiệm mầu.
Ngày Đại Lễ canh thâu Mẹ giáng,
Dạy con trần hãy ráng bình tâm,
Đạo Vàng con trẻ không lầm,
Đạo là vi diệu thâm thâm tuyệt mầu.
Khai Đại Yến cung chầu Diệu Điện,
Hội Bàn Đào Mẹ chuyển huệ linh,
Các con nâng chén rượu Quỳnh,
Bồ Đào Cúc Tửu thấm tình Mẹ con.
Yến Quỳnh Tương điểm son Mẹ ký,
Hội Bàn Đào cao quý Mẹ khai,
Mừng con nam nữ hiền tài,
Quỳnh Tương Mẹ thưởng con rày thọ phong.
Nay Mẹ chứng tấm lòng con thảo,
Hãy yên tâm vì Đạo lo hành,
Bút huyền Mẹ ký đêm thanh,
Ban con tất cả trọn lành từ nay.
Đạo dù có chông gai hiểm trở,
Các con cần tháo gỡ cho xong,
Cũng như tháo gỡ tơ lòng,
Lòng con trong sáng thì không ngại gì.
Muốn tìm được Mâu Ni Chánh Giác,
Phải có tâm, Bồ Tát mới thành,
Mỗi con phước huệ được sanh,
Nhờ con trọn tấm lòng thành vững tin.
Mẹ Mẫu Hoàng khai minh Huỳnh Đạo,
Ngày lễ này quý báu nghe con.
Bút vàng Mẹ ký điểm son,
Các con Hội Thánh vuông tròn từ đây.
Chữ đức tin cho đầy cho đủ,
Trọn lòng tin đừng phụ Mẫu Từ,
Vui tình con Mẹ vô tư,
Trong tâm đừng có cộng, trừ, nhân, chia.
Biết Huỳnh Đạo đừng lìa nguồn cội,
Biết Mẹ Thầy đừng vội chia ly,
Rồi con làm được những gì,
Hay là lắm chuyện thị phi trong đời.
Nay Mẹ dạy những lời tao nhã
Thì các con hãy khá bình tâm
Trung Thu Tháng Tám Ngày Rằm,
Là ngày Đức Mẹ giáng lâm hồng trần.
Con chức việc Thiên ân Huỳnh Đạo,
Đem tấm lòng hiếu thảo hiền lương,
Thiên phong chức sắc cột rường,
Thiên Khai Huỳnh Đạo chủ trương Đại đồng.
Trong các con có lòng có chí,
Nguyện nhứt tâm chung thủy lo tròn,
Thiên Khai Huỳnh Đạo bảng son,
Tên đề muôn thưở vẫn còn lưu danh.
Ban nghi lễ tâm thành dâng hiến,
Lễ Quỳnh Tương Đại Yến Diêu Trì,
Bửu Liên phủ phục đồng quỳ,
Mẹ hiền loan giá phụng nghi giáng trần.
Con Thiên tinh ân cần chứng lễ,
Thỉnh Mẹ hiền kim thể ngự lâm,
Chánh nương thượng tọa phụng trầm,
Đầu sư tam vị thần khâm khuôn phò.
Các Thanh Xuân con lo tụng niệm,
Các Thanh Đồng đồng điểm trì kinh,
Con xem nghi lễ hành trình,
Đọc kinh thỉnh Mẹ hiển linh Mẹ về.
Con Thiên phong tựu tề đủ mặt,
Lời Mẹ đây cân nhắc cho con,
Các con hành lễ vuông tròn,
Là con hiếu thảo bảng son Mẹ truyền.
Các con vốn Quần Tiên tựu hội,
Chúc mừng nhau dự hội Diêu Cung,
Quỳnh Tương Đại Yến trùng phùng,
Mẹ mừng con thảo hiếu trung đủ đầy.
Hiệp nhau hành Đạo từ đây,
Mẹ ban phước huệ sum vầy đoàn viên.
Mây vần vũ ngoài hiên gió thổi,
Mừng con trần dự hội Bàn Đào,
Hạt mưa phưởng phất lọt vào,
Mát lòng đẹp dạ, con mau hiệp vầy.
Mây chuyển hướng Đông-Tây-Nam-Bắc,
Mẹ giáng trần cân nhắc các con,
Dầu cho nước chảy đá mòn,
Đạo Huỳnh con nhớ sắc son phụng hành.
Điễn siêu quang đêm thanh Mẹ ngự,
Gọi các con về dự lễ này,
Trung Thu Đức Mẹ giảng bài,
Mừng con nam nữ đủ đầy yến viên.
Chúc con hết nghiệp phiền nghiệp khổ,
Tâm đoạn mê xa chỗ não phiền,
Tu hành con được thiện duyên,
Đạo Huỳnh con nhớ trung kiên lo hành.
Biết tình cảm em anh quí trọng,
Biết thương nhau sự sống công bằng,
Nghĩa tình như cuội với trăng,
Như tình cá nước, như đăng sáng ngời.
Con đừng có nặng đời xa Đạo,
Đến Rằm Ngươn mang áo về chùa,
Về chùa công quả thi đua,
Anh em hòa thuận cho vừa lòng nhau.
Tu như vậy con mau thông hiểu,
Cơ Đạo Huỳnh tiêu biểu nặng nề,
Khuyên con thức tỉnh đừng mê,
Tỉnh thì chứng quả Bồ-đề nghe con.
Nay con biết trăng tròn , trăng khuyết,
Nương bút thần siêu tuyệt lý sâu,
Người tu muốn thấy nhiệm mầu,
Nhiệm mầu trước mắt con đâu có nhìn.
Chung qui chỉ có tình có cảm,
Có tình thương không ám không mờ,
Mẹ nay sắp đặt huyền cơ,
Để cho Huỳnh Đạo bến bờ vinh quang.
Con Thiên phong đại đàn nghe dạy,
Đừng hoang mang canh cãi nghe con,
Lịnh ban thì khá vẹn toàn,
Chìu nhau từ bước cho tròn mười ân.
Con biết tu không hờn không trách,
Trong cõi lòng trong sạch như gương,
Tâm linh sáng tợ kim cương,
Vẹn gìn Đạo nghĩa mười thương vuông tròn.
Mẹ ngự bút dạy con phải nhớ,
Đừng tạo gây, ra nợ tiền khiên,
Tạo chi danh lợi tước quyền,
Tạo nhiều công đức cho yên gia đình.
Mẹ giáng bút điễn linh chiếu hóa,
Khuyên các con phải khá nhiệt tình,
Biết tu phải biết hy sinh,
Các con tất cả đức tin đủ đầy.
Mẹ xuống bút lời này ghi nhớ,
Các con đừng bỏ dở Đạo Huỳnh,
Đạo Huỳnh chơn lý cao minh,
Đạo Huỳnh siêu điễn tối linh tuyệt vời.
Ngày Đại Lễ Mẹ thời ngự bút,
Mừng các con hữu phúc, hữu duyên,
Từ đây gìn giữ mối giềng,
Thiên Khai Huỳnh Đạo gieo truyền ngũ châu.
Con cần phải hiểu sâu nghĩa rộng,
Cơ Đạo Huỳnh lượn sóng qua rồi,
Bao giờ bị gió cuốn trôi,
Gốc kia nhờ mát, đâm chồi trổ hoa.
Lời Hoàng Mẫu thiết tha dặn bảo,
Ráng hết lòng lo Đạo nghe con,
Làm sao gìn giữ vuông tròn,
Con đừng đánh mất lòng con với đời.
Phải ép mình biết nơi rộng hẹp,
Phải giữ mình cho đẹp cho xinh,
Phải cho hợp lý, hợp tình,
Hợp lòng tất cả chúng sanh nhân loài.
Lòng bác ái con soi tất cả,
Dạ từ bi cảm hóa chúng sanh,
Tâm con hỉ xả trọn lành,
Trợ duyên giúp sức cao thanh từ hòa.
Ngày Đại Lễ Mẹ Già cân nhắc,
Mong các con vững chắc lòng tin,
Chuyển xây cho mối Đạo Huỳnh,
Đức tin không vững thì tình lợt phai.
Cơ Huỳnh Đạo ngày nay hé lộ,
Các con cần giác ngộ tỉnh tâm,
Đừng cho Huỳnh Đạo sai lầm,
Phật, Tiên, Thần, Thánh cao thâm dắt dìu.
Tinh quang điễn lý siêu lời ngọc,
Xuống bài văn con học cho thông,
Con nào cũng có thâm công,
Nữ nam tất cả tấm lòng thiết tha.
Hạ linh bút lời hoa cao quí,
Ráng một lòng chung thủy tu chơn,
Khuyên con đừng tủi đừng hờn,
Nếu người chê trách người ơn của mình.
***
Đến đây Mẹ dứt điễn linh,
Điểm danh tất cả Thiên Tinh Đạo Huỳnh.
Bửu Liên nữ phái chân tình,
Chấm công mỗi trẻ vững tin tu hành.
Tiếp đàn Mẹ ngự điễn linh,
Dạy chung tất cả chơn tình Mẹ con.
Giã từ Mẹ phải hồi loan,
Các con nhớ rõ lời son Mẫu Hoàng.
Thăng
KINH TÁN TỤNG CÔNG ĐỨC
DIÊU TRÌ KIM MẪU & CỬU PHẨM TIÊN NƯƠNG
********************
Ngày kỷ niệm Diêu Trì đại xá
Hội Thánh đồng chung cả nhơn sanh
Về đây hiệp mặt cử hành
Nguyện cầu Đức Mẹ ân lành điểm ban
Cho tất cả hậu đoàn Huỳnh Đạo
Lòng thiết tha hiếu thảo cầu xin
Từ Tôn Kim Mẫu oai linh
Vì thương Mẹ ngự chứng minh giờ này
Đầu đảnh lễ Cung Tây Vô Cực
Mẹ Diêu Trì khai bức màng mê
Dắt dìu con trẻ quay về
Con đường chánh pháp tiêu đề Mẹ ban
Đầu cúi lạy Mẫu Hoàng hỉ xả
Cho chúng con cùng cả vạn linh
Thoát qua bao kiếp khổ hình
Nhẹ nhàng thể xác tâm linh sáng ngời
Không còn vướng trần đời nghiệp khổ
Không còn mang cảnh ngộ đau buồn
Cúi đầu lạy Mẹ xót thương
Thiên Khai Huỳnh Đạo lập trường tu chơn
Đầu lạy Mẹ ban ơn cứu rỗi
Nguyện Cửu Nương giảm tội trần mê
Hôm nay đồng đẳng tựu tề
Thỉnh cầu Mẹ ngự giáng về chứng minh
Con Bửu vị Thiên tinh Huỳnh Đạo
Thương Mẹ hiền dạy bảo nhủ khuyên
Đêm nay Đại Lễ Yến Viên
Tay dâng cúc tửu trà tiên rượu đào
Trước kỉnh Mẹ cung trào điện nội
Sau kỉnh thành tựu Hội Cửu Nương
Hiệp về dự Yến Quỳnh Tương
Trà Tiên rượu Thánh tay nâng kính mời
Trước đại điện tuyệt với pháp thể
Mừng Chánh Nương dưới bệ Mẫu Hoàng
Hữu hình thân xác bình an
Pháp mầu chứng đắc kim quang sáng ngời
Chúc tất cả ơn Trời công Mẹ
Nguyện một lòng vui vẻ tu chơn
Từ nay diệt giận bỏ hờn
Nguyện cầu Đức Mẹ ban ơn con trần
Nguyện chư Thánh chư Thần thượng cỏi
Nguyện chư Thiên phó Hội Bàn Đào
Hiệp về Bửu Điện cùng nhau
Cùng chung lo việc công lao nặng nề
Nay hoa trái sum xuê Điện nội
Cùng đèn hương sáng chói tứ bề
Mừng vui huynh đệ đề huề
Mừng toàn Hội Thánh tựu tề Điện trung
Bao ngày qua vô cùng vất vả
Lo trang hoàng lo cả lễ nghi
Thành tâm kỉnh Mẹ Diêu Trì
Cửu Nương cùng với chung quy Thánh Thần
Nguyện Tam Giáo hồng ân ban rải
Nguyện chư Tiên đảo hải bồng lai
Nguyện xem các Đấng anh tài
Giúp cho Huỳnh Đạo có ngày thạnh hưng
Nay tất cả vui mừng đoàn tựu
Hiệp về đây đông đủ điện đàn
Trung Thu kiến lễ Mẫu Hoàng
Tạ ơn Đức Mẹ giáng đàn chứng minh
Nguyện từ đây đồng sinh đồng tử
Để lo xong phận sự Thiên phong
Phận con dâng hiến tấm lòng
Để lo phụng sự đại đồng quy nguyên
Dầu thân xác truân chuyên vất vả
Nguyện hy sinh công quả lo hành
Kiếp này là kiếp chúng sanh
Làm sao cởi được thoát gành trần ai
Đảnh lễ Mẹ trước đài Vô Cực
Lạy Mẹ hiền phá bức màng mê
Các con đồng đẳng quy về
Thiên tinh Bửu vị chực kề Diêu Cung
Trong Hội Thánh Cửu Trùng chức sắc
Đồng nhứt tâm vững chắc Đạo Huỳnh
Hiệp thiên đó vốn hồn linh
Cùng nhau hiệp ý hiệp tình lo toan
Ngày Đại Lễ Mẫu Hoàng chứng chiếu
Hạ đàn Tiên dạy biểu con trần
Làm quan phải được lòng dân
Làm người phải có Thánh Thần chở che
Đạo không phái, không phe đối nghịch
Đạo hòa nhau khắng khít mới thành
Đạo hòa dắt dẫn nhơn sanh
Đạo hòa huynh đệ anh em vui vầy.
*********************
Đến đây có mấy lời này
Chúc cho tất cả đủ đầy phước duyên
Bài tán tụng diệu huyền công đức
Nguyện Mẹ hiền oai lực vị tha
Ban cho Hạnh phúc mọi nhà
Ban cho giọt nước Ma Ha mát lòng
Quỳnh Tương Đại Yến cũng vừa xong
Đưa Mẹ hồi cung quá chạnh lòng
Cửu Phẩm Tiên Nương đồng tách gót
Thiên phong Bửu vị cũng chờ trông
Điện tiền mời kính huynh cùng đệ
Ở lại chung vui chén rượu nồng
Mỹ tửu thanh trà vơi khổ nghiệp
Bồ đào tam trảng dạ chờ mong
Đến đây xin tạm dứt lời
Chúc cầu tất cả đạo đời yên vui
Linh Quang Phật ĐịaTả Bút
THIÊN KHAI HUỲNH ĐẠO
TỔ ĐÌNH HUỲNH ĐẠO
LONG VÂN HOẰNG PHÁP
HUỆ LINH CHUYỂN BÚT
*
* *
THI
Hà đồ vận chuyển máy huyền cơ
Tiên phật đồng lâm mở cõi bờ
Cô thế làm sao quy thống nhất
Giáng trần chuyển hoá đúng thiên cơ
Long hoa huỳnh đạo kỳ ngươn cuối
Vân hội rồng mây kẻo trể giờ
Hoằng hoá độ sinh thời mạt hạ
Pháp trần đắc động đạt thiên thơ
Tiên Cô mừng Hội thánh Thiên Khai Huỳnh Đạo, Hiệp thiên Cửu trùng đồng đẳng Thiên Tinh, Bửu Liên, Huỳnh Hoa, Hoàng chí phái Huỳnh, phái Ngọc, đạo tâm nam nữ. Tiên Cô cung thỉnh thập nhị Thánh nương cửu phẩm, Tam giáo, Tam trấn oai nghiêm, cung thỉnh Đức Mẫu Hoàng Diêu Trì Phật Mẫu ngự tứ loan xa. Truyền tất cả đồng đảnh lễ cung thỉnh Đức Mẫu Hoàng Lâm Ngự tiếp lịnh.
Mẹ linh hồn các con miễn lễ tam giáo tam trấn chư phật tiên cùng các thánh mẫu hồi cung xuất ngoại, mẹ miễn lễ cửu nươg cũng tất cả các con an toạ .
THI
Diêu điện Tổ tiên chuyển đạo Huỳnh
Trì tâm Đình lập hội nhân sanh
Kim thơ Huỳnh sắc quy chánh giác
Mẫu huấn Đạo chơn đắc ngọc kinh
Thượng ý Long hoa khai đại hội
Đẳng phong Vân lập chốn cung đình
Từ bi Hoằng hoá lòng tương ái
Tôn lịnh Pháp huyền diệu lý minh
Mẹ ban ân lành cho tất cả nhân loại chúng sanh và tất cả các con Thiên tinh Bửu vị Huỳnh hoa hoàng chí phái Huỳnh phái Ngọc toàn thể nhân loại trên quả địa cầu. tất cả các con định tâm nghe mẹ điểm đạo dạy truyền.
Thi bài
Nương loan giá mẫu nghi hạ thế
Thương các con trong bể trần mê
Tình thâm Mẫu từ nặng nề
Bao giờ con mới trở về ngôi xưa
Mẹ mong đợi trời trưa qua xế
Mẹ mong con càng trễ thời gian
Vì con sai bước lạc đàng
Nên chi phải chịu gian nan kiếp nầy
Chừng nào được sum vầy con mẹ
Đó là ngày vui vẽ hân hoan
Bây giờ lòng trẻ đa đoan
Hiện giờ con phải hoang mang bến bờ
Tâm con phải nghi ngờ tà chánh
Sợ lòng người đức hạnh quên gìn
Đạo mầu hết diệu hết linh
Nên con cũng mất nghĩa tình mẹ con
Mẹ lòng rất héo von buồn bã
Vì lòng con bản ngã quá nhiều
Làm người tâm ý cao siêu
Thì con mới thấy được điều cao thanh
Cây trước gió lá càh sơ sát
Đạo với đời rời rạc tâm mê
Biết đi không biết đường về
Biết tu không biết bồ đề nơi tâm
Chữ đức tin không lầm đâu trẻ
Chữ đạo Huỳnh mát mẻ yên vui
Thương con mẹ luôn ngậm ngùi
Mong con đạo đức lau chùi sạch trong
Tâm bác ái đại đồng hướng thiện
Gìn đường chơn lý chuyển hoà đồng
Biết câu sắc tứ thị không
Biết câu bác ái đại đồng thương yêu
Mẹ ngự bút bao điều tha thiết
Tấm lòng con dung thiệt dung hoà
Kim bằng công lạc thiết tha
Vì Thầy vì Đạo vì Cha lo hành
Hãy vì cả chúng sanh nhơn loại
Hãy vì nhau chung máy thuyền hoa
Vì câu bác ái dung hoà
Từ bi nhẫn nhục cũng là vị tha
Đó mới đáng thật là bồ tát
Đạo được câu thông đạt rõ ràng
Cùng nhau bình đẳng cho an
Tấm lòng vững chắc thuyền vàng cao nghi
Mẹ ngự tại diêu trì cung nội
Thương các con mẹ vội xuống trần
Dạy con biết sữa bản thân
Biết rèn đức hạnh để gần phật tiên
Mẹ trao con mối giềng Huỳnh Đạo
Phải năng hành năng tạo điều chơn
Lúc nào cũng biết ban ơn
Thương yêu hoà thuận thuần nhơn trau dồi
Phải thông suốt luật trời luật thế
Phải hiểu sâu huynh đệ thâm tình
Cùng nhau lo giữ lo gìn
Lo trau lo sửa nghĩa tình thiết tha
Mẹ giáng bút lời hoa chỉ giáo
Mong các con hành đạo vững bền
Ráng lo đấp móng xây nền
Đừng lo Huỳnh Đạo chông chênh đấm chìm
Mẹ giáng bút nhủ khuyên con thảo
Con hết lòng vì đạo vì thầy
Thiên Khai Huỳnh Đạo dựng xây
Mong con hậu tấn từ đây hết lòng
Biết nơi đâu bến trong bến đục
Biết nơi nào địa ngục thiên đàng
Thiên đàng tâm được tịnh an
Địa ngục ở chổ tâm cang loạn cuồng
Đời là vốn lớp tuồng mộng ảo
Đạo là đường khô ráo thẳng ngay
Khuyên con tin tưởng lời này
Phải lo trách nhiệm đủ đầy mới nên
Tin lời Mẹ làm nền rộng lớn
Lòng không tin sóng rợn ba đào
Thuỷ triều khi nước dâng cao
Làm cho nghiêng ngã sông sâu dập dồn
Con người có trí khôn hơn vật
Biết đúng sai giả thật rõ ràng
E dè lòng ngại con mang
Tuỳ lòng tuỳ ý đừng toan mị tà
Hãy chung kết một nhà nhân ái
Đem chân tình cộng lại cùng nhau
Anh em chung giọt máu đào
Đấp xây thành luỹ mới mau hoàn thành
Giờ thanh tịnh điển lành Mẹ chiếu
Thương các con liệu điệu chưa thông
Nhiều khi con lại nản lòng
Tại gia tu học cho xong kiếp này
Vì thương Mẹ kính Thầy lo lắng
Không ngại sương ngại nắng dập dồn
Làm người phải có trí khôn
Đất trời cha mẹ bảo tồ chúng sanh
Một tôn giáo là cành ba lá
Một thân cây cội cả lớn lao
Cây là Thầy ngự ngôi cao
Đạo là cành lá chung bao cội già
Con ơi biết lời hoa Mẹ dạy
Trong tinh thần hăng hái từ đây
Trên cao có Mẹ có Thầy
Càn khôn vũ trụ chuyên xây mấy hồi
Khuyên dạy con nghe lời hành đạo
Đừng ngại chi giông bão cuồng phong
Vì Thầy vì Mẹ hết lòng
Vì tình nhân loại non sông Lạc Hồng
Con nam nữ chung đồng một mối
Nguyện từ đây chung hội chung thuyền
Thương Thầy mếm Đạo trọn duyên
Quyết tâm chơn lý gieo truyền ngũ châu
Đèn trước gió có đâu toả sáng
Đạo trước đời phải rán lần qua
Con ơi! Trong bể ái hà
Làm sao con thấy Phật m rỏ ràng
Lúc ngộ nhận mơ màng ảo tưởng
Đó chỉ là pháp tướng tượng hình
Làm sao biết được oai linh
Ẩn tàng trong cõi vô hình cao siêu
Con thiên phong thiên điều định sẵn
Phải làm sao đi thẳng về ngay
Xuất ngôn mực thướt nhân tài
Làm người có trí linh oai rạng ngời
Nói một câu ngàn lời vạn tiếng
Tinh khí thần rung chuyển chuyển luân
Một câu vô ý không ngừng
Làm cho chao đảo khí thần mòn hao
Khi hờn giận ghét nhau châm chít
Để anh em xích mích giận hờn
Tự mình biết nhận người ơn
Biết mình tự gở tuần hoàn lại vui
Dạy cho con biết mùi vị Đạo
Trong cõi lòng giông bão không còn
Đó là phải Đạo làm con
Tội mình tự gở đâu còn bợn nhơ
Biết được Đạo tôn thờ chơn lý
Phận làm con gắng chí tu hiền
Sen vàng nở rộ đài liên
Cánh hoa sen đẹp diệu hiền tốt tươi
Mẹ ngự bút đôi lời khuyên bảo
Con quyết tâm thuận thảo lo hành
Các con thuận ý tạo thành
Anh em là nhánh là cành liên hoa
Con chung một ngôi nhà Huỳnh Đạo
Tình anh em thuận thảo vui vầy
Đạo Huỳnh Thầy Mẹ chuyển xây
Phận làm con phải sum vầy từ đây
Nguồn thiên điển chuyển quay ngọc bút
Vì Mẹ thương trong lúc khảo thi
Các con thiên ý kiên trì
Trọn lòng tin tưởng mẫu nghị ngự trần
Con nhìn lại bản thân con trẻ
Còn bao điều nặng nhẹ lo toan
Thê nhi phụ tử buột ràng
Làm người phải nhớ tâm cang từ đầu
Miệng hé môi lời châu tao nhã
Hạ bút huyền thơ đã đề khai
Con nhìn cõi thế mấy ai
Điển Thiên Khai mở nhân tài cao siêu
Con làm được những điều cao quý
Hay lòng con suy nghĩ trắng đen
Biết tin trời phật không hèn
Vì thương Mẹ khuê đèn ngọc linh
Con nào có đức tin thì đọc
Mất đức tin theo học ít gì
Đạo Huỳnh chơn lý vô vi
Biết tu thì ráng kiên trì bước theo
Theo học cách trồng gieo giống tốt
Đừng để cho sùng đốt gốc non
Làm cho cành lá héo mòn
Uổng cho một kiếp đời còn được gì
Lời Mẹ dạy mười ghi trăm nhớ
Hãy dặn lòng đừng ngỡ ngàn tu
Có câu nhứt bổn vạn thù
Kiếp người là kiếp phù du bại thành
Đừng có ý đua tranh bỏ lơi
Lòng luỵ hèn gì bởi danh tài
Chữ tâm phải dũa phải mài
Phải rèn luyện hàng ngày mới nên
Vì thương con trước đèn ngọc khuyết
Mẹ cầu xin Thầy duyệt tấu chương
Thiên tinh con phải phi thường
Bửu vị con nhớ yên cương vững vàng
Đừng xa ngã lầm đường lạc lối
Ngày trung thu đại xá Bàn Đào
Các con mừng chúc cho nhau
Chúc mừng Mẹ ngự điện trào chứng minh
Mẹ thương con có tình có nghĩa
Mẹ trông con tròn trịa đủ đầy
\ Đừng xa đứng cách từ đây
Thâm tình Mẫu tử mừng khai tiệc hồng
Hội bàn đào vừa xong đại lễ
Pháp y quang kim thể nghiêm trang
Cúc cung đảnh lễ Mẫu Hoàng
Mừng ngày đại yến ….diêu cung
Con nam nữ vô cùng tưởng nhớ
Chúc Mẹ hiền muôn thuở vì con
Xuống trần dạy bảo nỉ non
Mong sao con được bảng son tên đề
Vì nghiệp lực nặng nề kiếp sống
Dù thế nào đừng động lòng tà
Làm cho chia rẽ rời xa
Chị em mất chữ thuận hoà vui tươi
Ngồi suy nghĩ làm người phải đáng
Cần điện năng ánh sáng Đạo Huỳnh
Con đừng đánh mất lòng tin
Làm cho thuyền đạo nghiên chinh đắm chìm
Là con tự muốn tìm vựt thẩm
Xuống biển mà đạo chậm bước đi
Thuyền vàng Huỳnh Đạo huyền vi
Nhiều cơn sóng gió nhiều cơn chạnh lòng
Mẹ xót xa con không thông suốt
Nếu thông rồi cầm được đắc đường
Nợ trần không có vấn vương
Thì con sẽ được tây phương trở về
Con về nơi gốc bồ đề
Không còn vướng bận biển mê trần hoàng
Lời Mẹ dạy trong hàng linh tử
Con thiên tinh gìn giữ đạo vàng
Bửu liên con thảo hiền ngoan
Gọi chung Hội thánh Đạo Vàng Thiên Khai
Đồng hiệp tâm chung vai sát cánh
Hiệp tinh thần trung chánh hiền lương
Đạo Huỳnh kết chặt tình thương
Để lo công quả tịnh trường công phu
Ngày đại lễ Trung Thu Mẹ chứng
Ngự bút lành cảm ứng tâm linh
Các con vì nghĩa vì tình
Quỳnh Tương Hội Yến điển linh Mẹ về
Mừng các con tựu về cung kỉnh
Lo trang hoàng lễ thỉnh mẫu nghi
Mẹ hiền hiện chiếu huyền vi
Trời an mây tạnh loan nghi Mẹ mừng
Con cung hiến tam tuần mỹ tửu
Mừng các con đoàn tựu vui vầy
Cửu nương chầu lễ đủ đầy
Tiên nương thánh mẫu hiệp vầy yến duyên
Mẹ mừng chư Phật chư Tiên
Mừng chung tam giáo đạo truyền tam ngươn
Tiếng âm vang điệu đờn bát nhã
Điện Diêu Trì hương toả trầm xong
Hương hoa cúc tửu nực nòng
Mẹ lâm chứng chiếu tấm lòng các con
Cúi đầu kỉnh cho tròn hiếu thảo
Mừng các con hạnh đạo nhứt tâm
Quỳnh tương Hội yến đêm rằm
Là ngày Hoàng Mẫu ngự lâm cõi trần
Có chư Phật Thánh Thần triều kiến
Có cửu nương giáng hiện khâm phò
Lễ mừng tam giáo ban cho
Lễ mừng tam trấn dặn dò lễ nghi
Cúi mừng lễ Diêu Trì Hoàng Mẫu
Hàng chư Tiên quỳ tấu trước đền
Đạo Huỳnh nay đã tạo nên
Quỳnh Tương Đại Yến dâng lên Mẫu Hoàng
Tiếng kinh kệ ngâm vang chúc tụng
Mong các con hiệp chung nguyện cầu
Lời kinh tiếng kệ cao sâu
Tửu trà hoa quả cùng bầu tam bôi
Thiên tinh bửu vị đứng ngồi
Ban ơn tất cả đạo trời hoằng khai
THI
Bút linh Mẹ chấm mấy vần thơ
Đã hết thời gian cũng mãn giờ
Nhắc nhủ các con đoàn hậu tấn
Nghe ngồi phải đọc chớ thờ ơ
Dạy Đạo khuyến tu lời chánh lý
Các con đừng có ý nghi ngờ
Lời văn tao nhã khuyên cùng nhủ
Thánh bút Mẹ đề chẳng bỏ lơ
***
Bỏ lơ trọng tội đó con khờ
Không hiểu Đạo mầu mới bỏ lơ
Tâm ý đa đoan nhiều bấn loạn
Làm cho trí Đạo phải làm ngơ
Khuyên định tỉnh tâm và ý
Mới biết biển sâu biết bến bờ
Lênh đênh thuyền giác còn lơ lửng
Biết ghé vào đâu có kẻ chờ
***
Người chờ đợi khách sang sông
Biển sâu rộng lớn mênh mông khó tìm
Tìm người như thể tìm chim
Chim bay biển bắc mà tìm biển đông
Thương con Mẹ đổ lệ hồng
Đêm khuya Mẹ giá chứng lòng các con
Đến đây bút mực cạn mòn
Mẹ hiền từ giã các con Mẹ hồi./.
BẢN NGUYÊN VÀ QUYỀN NĂNG
ĐỨC PHẬT-MẪU - DIÊU-TRÌ KIM-MẪU
Theo Di-lạc chơn kinh, thì nơi tầng Trời Tạo-Hoá Huyền-Thiên có Đức Diêu-Trì Kim-Mẫu dưới quyền Phật-Mẫu có các vị Phật : Quảng-Sanh, Dưỡng-dục, Chưỡng Hậu, Thủ-luân cùng Cửu vị Nữ Phật (có tên từ Nhứt nương đến Cửu Nương) và hằng-hà-sa-số chư Phật tùng Lịnh NGƯỜI thường du tà thế-giới dưỡng-dục quần-sanh quy-nguyên Phật vị.
Buổi ban sơ khai Đạo Cao-Đài, Phật-Mẫu và Cửu vị Tiên-nương (nay là Cửu vị nữ Phật), đã dùng thi văn qua cơ-bút để dìu-dắt các Vị tiền-bối, nhờ đó mà các Ngài hiểu lẽ huyền-vi, nhận lãnh sứ-mạng truyền-giáo sáng-lập ra Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ còn gọi là Cao-Đài giáo hiện nay.
Còn nói về Phật-Mẫu, Đức Hộ-Pháp đã cho biết quyền-năng của NGƯỜI như sau :"... Nếu có Đức Chí-Tôn mà không có Đức Diêu-Trì Kim-Mẫu thì trong vũ-trụ không có chi về mặt hữu vi..."" Cả cơ-quan tạo đoan hữu tướng thảy đều do Phật-Mẫu tạo thành. Khi ta đến cõi Trần mang mảnh hình hài, cái chơn-linh khi đến, khi về cũng do tay Phật-Mẫu sản-xuất, Phật-Mẫu là mẹ linh-hồn, nếu chúng ta biết ơn nặng ấy, thì càng cảm mến cái công-đức hoá-dục sản-xuất của Ngài vô cùng." Bây giờ nói về tại sao có Phật-Mẫu :
... Đức Chí-Tôn là nguồn cội cả bí pháp... trong bí pháp buổi ban sơ phân tách ra âm dương, phần âm là Phật-Mẫu sản-xuất cả cơ hữu vi của vũ-trụ. Bởi thế quyền-năng của Phật-Mẫu là mẹ khí-thể của ta. (Thuyết đạo của Đức Hộ-Pháp tại Báo-ân-từ ngày mồng một tháng 02 Đinh-Hợi/1947).
Theo Thánh giáo Đức Chí-tôn nói rằng :"... Khí Hư-vô sanh ra có một Thầy và ngôi của Thầy là Thái-cực, Thầy phân Thái-cực ra Lưỡng-nghi, Lưỡng nghi phân ra Tứ-tượng, Tứ-tượng biến Bát quái, Bát-quái biến hoá vô cùng mới lập ra càn khôn thế giới. (TNHT/Q2/62).
Thầy lại phân tánh Thầy mà sanh ra vạn vật là : vật chất thảo mộc, côn trùng gọi là chúng sanh..." (Trích TNHT/Q2/ trang 62).
Trong kinh Xưng-tụng Công-đức Phật-Mẫu nói rằng :" Lưỡng nghi phân khí Hư-vô
Diêu-trì Kim-Mẫu nung lò hoá sanh,
Aâm dương biến tạo chơn-thần,
Lo cho nhơn vật về phần hữu vi.
Thánh giáo của Phật- mẫâu cũng dạy rằng:"Từ Hổn-độn Chí-Tôn hạ chỉ,
Cho Thiếp quyền quản Khí Hư-vô.
Lấy Aâm-quang tạo phách tăng đồ,
Muôn vật cả lo cho sanh-hoá.
(Đàn cơ tại Thảo-Xá Hiền-Cung đêm 15 tháng 11Aát-mùi (23-12-1931) Phò-loan Hộ-Pháp & Bảo-văn Pháp quân)
Theo các trích dẫn trên đây thì Đức Chí-Tôn và Phật-Mẫu có từ trong Hư Vô Chi Khí, Đức Chí-Tôn lại giao cho Phật-Mẫu quyền cai-quản khí Hư-Vô, tức hai Ngài là Đấng Tự-hửu và hằng hửu, có trước Trời Đất. Khi Khí Nguơn Linh của Chí-Tôn hoà-hợp Nguơn Aâm của Phật-Mẫu, mới có ngôi Thái-Cực, là cơ hửu hình. Khi Đức Chí-Tôn phân Thái-cực thành ra Lưỡng nghi (Aâm Dương), lúc có Aâm dương rồi tức là đã có Trời Đất, khi đó Đức Chí-Tôn mới phân tánh giáng sanh ra vạn vật, tức là Chí-tôn tạo-hoá phần linh-hồn là phần vô-vi, đồng thời Phật-Mẫu cũng kiến-tạo phần khí-chất hình-hài là phần hữu hình. Như vậy Phật-Mẫu cũng từ Hư-vô chi khí mà ra, Ngài cũng là Đấng tự-hữu và hằng-hữu,
Đức Hộ-Pháp đã nói về sự tương-quan giữa Chí-Tôn và Phật-Mẫu cùng vũ-trụ van-linh như sau : " Nếu khối Nguơn-linh của Đức Chí-Tôn không hoà hợp với Nguơn-Aâm của Phật-Mẫu thì Thái-Cực chưa ra tướng, hể Thái-Cực chưa ra tướng là Càn-Khôn Vũ-Trụ nầy không có chi hết" (Thuyết Đạo của ĐứcHộ-Pháp tại Đền Thánh ngày 14 tháng 9 Mậu-Tý /1948)
Đức Hộ Pháp còn cho biết thêm rằng:"Phật-Mẫu chủ âm-quang, Chí-tôn chủ Dương-quang, âm dương tương hiệp mới có năng-lực sanh-hoá ra càn-khôn thế-giới.(Theo thuyết đạo của Đức Hộ-Pháp giải nghĩa Phật-Mẫu chơn kinh).
Nói về Ââm quang thì Bát-nương Diêu-Trì-cung giáng cơ giải thích như sau :"Aâm-quang là khí chất hỗn độn sơ khai khi Chí-tôn chưa tạo-hoá, lằn âm-khí ấy là Diêu-Trì-cung, chứa để tinh-vi vạn-vật, tỷ như cái âm-quang của phụ-nữ có trứng cho loài người. Khi Chí-Tôn đem dương-quang ấm-áp làm cho sinh-hoá, thì khoảng âm-quang phải thối-trầm làm tinh- đẩu, là cơ-quan sinh hoá vạn-linh. Song lằn âm-quang ấy có giới-hạn, nghĩa là nơi nào ánh dương- quang của Chí-Tôn chưa chiếu giám thì phải còn tối tăm mờ-mịt, chẳng sanh hoá..." (Trích TNHT/QII/trang 85)
Theo giải-thích trên đây thì khi còn hỗn-độn sơ-khai chưa phân ra Trời Đất, nhưng trong đó đã sẵn có phần âm rồi, phần âm này chứa các yếu-tố phôi-thai của vạn-vật. Tỷ như một nụ hoa non trong đó đã sẵn có nhị đực, nhưng cũng có cả phần nhị cái, là nơi chứa chất-liệu để kết thành quả hạt sau này, đến khi hoa nở phân ra nhị đực và nhị cái riêng biệt là lúc âm dương đã phân chia, sau đó qua hiện-tượng thụ phấn kết-hợp giữa nhị đực và nhị cái, là lúc âm dương giao phối mà kết thành quả hạt. Cũng như khi Thái-cực đã phân ra âm dương, dương động thì khuếch tán, âm tịnh thì ngưng kết, tức là khí kết thành chất, rồi qua hiện-tượng âm dương tác-động mà khí chất kết tụ thành ra các tinh-cầu, khi ánh dương-quang rọi vào thì các tinh-cầu là nơi sinh ra vạn-vật.
Đó là quyền-năng của Phật-Mẫu theo Cao-Đài giáo. Còn các tôn-giáo đã nói về Phật-Mẫu như sau :
Theo Thông Thiên học dã nói về Đức Mẹ Thế-gian như sau:" Đức Mẹ Thế-Gian là một trạng thái Ngôi hai của Thượng-Đế, Ngài là chúa-tể của các vị Thiên-Thần. Tinh-thần Ngài đã ngự-trị trong thâm-tâm con cái của Ngài là nhân-loại, trong mỗi đẳng-cấp của cõi Trời và cõi Phàm đều có Ngài hiện-diện. Quyền-năng của Ngài rất bao-la, trí phàm không thể hiểu nỗi. Chẳng những Ngài là hiện thân của tình thương đậm-đà và kỳ-diệu nhất, mà cũng là Đấng cực kỳ uy-nghiệm và quyền-lực vô song Ngài luôn luôn đầy ân-huệ, chứa-chan niềm từ-bi bác-ái, sẵn-sàng đáp lại sự kêu vang cầu-cứu của nhân-loại. Dù quyền-năng của Đức Mẹ Thế-Gian là cứu giúp tất cả sinh-linh, nhưng Ngài chú-tâm đặc-biệt đến thiếu-nhi và phụ-nữ, nhất là lúc sinh-sản, vì hai hạng này thường yếu-đuối cần phải thương-yêu bảo-bọc nhiều hơn. Ngài luôn luôn ôm-ấp và ban cho họ sự chở-che, sự nương-nhờ khi cần kíp, để xua đuổi sự nguy-nan thống khổ ở quanh mình họ. (Theo Tạp-chí Tìm-hiểu Thông-thiên-học số II, 12 Xuân Aát-mùi 1955).
Theo Thiên-Chúa Giáo tôn-vinh Ngài là Đức Mẹ hằng cứu giúp, là Nữ-vương Hoà-Bình.
Tóm tại bổn-nguyên và quyền-năng của Phật-Mẫu theo Đức Hộ-Pháp dẫn giải như sau : " Từng Trời Tạo-hoá-Thiên có vị cầm quyền năng tạo-đoan gọi là Thiên-hậu. Nắm cả Kim-bàn, tức là nắm đẳng-cấp Thiêng-liêng, điều-khiển các chơn-linh gọi là Phật-Mẫu Diêu-Trì." Thời kỳ này NGƯỜI đã xuất nguyên-linh đến dạy dỗ chúng ta..." Khi mở Đạo Cao-đài Chí-Tôn định cho Phật-Mẫu đến giáo đạo cho chúng ta, bảo-trọng nuôi-nấng dạy-dỗ chúng ta thì không ơn-đức nào bằng, vì không ai biết thương con, muốn con nên người, bảo trọng binh-vực con hơn mẹ... (Trích thuyết đạo của Đức Hộ-Pháp tại Báo-ân từ ngày 15 tháng 8 Đinh Hợi).
Như vậy quyền-năng của Phật-Mẫu rất bao la, trí phàm không thể hiểu nổi, bổn-nguyên của Ngài lại quá ư linh-diệu, ngôn-ngữ hữu hạn của thế-gian không có thể nào giải rõ. Nên trong sưu-tập này chỉ có thể nêu trong muôn một những quyền-năng quá ư kỳ-diệu của Ngài mà thôi, nhưng chỉ có một điều quả-quyết rằng chúng ta đang có một Bà Mẹ Thiêng-Liêng quyền lực vô-song, chứa-chan niềm từ-bi bác-ái luôn ban ân-sủng cho mọi người, chúng ta chỉ cần một tín-ngưỡng mạnh-mẽ, một thân tâm thanh-tịnh trong-sáng thì sẽ đón nhận được ân-huệ và lắng nghe được huyền-âm vi-diệu của NGƯỜI hướng-dẫn dìu-dắt chúng ta trong mọi sinh-hoạt hàng ngày.
SỰ TƯƠNG QUAN GIỮA CHÍ-TÔN VÀ PHẬT MẪU
Chí-Tôn và Phật-Mẫu tự có từ trong Hư-vô chi Khí (vô-cực), có thể nói Nguồn sống là một thể vẹn toàn, nhìn ở nguyên-lý siêu-nhiên là Chí-Tôn, nhìn ở khí-chất hữu-hình là Phật-Mẫu, cả hai là một, tuy một mà là hai. Cũng tỷ như trong sinh-vật đơn-bào nguyên-sinh có hàm lưỡng tính giống đực và giống cái.
Ta có thể dùng thí-dụ sau đây để cụ-thể hóa quyền-năng của Chí-Tôn và Phật-Mẫu cho dễ hiểu : Tỷ như một thân cây có nhựa sống lưu-hành, trong nhựa sống của nó đã có sẵn hai phần âm dương, tức là có cả giống đực và giống cái, khi nhựa sống đó vận-chuyển sinh ra một nụ hoa non mới tượng; xem như là bầu Thái-cực, trong nụ hoa đó có cả nhị đực và nhị cái còn lẫn lộn ở trong, tức là đã có hàm lưỡng tính âm dương, khi hoa nở thì nhị đực và nhị cái lộ riêng biệt là lúc âm dương đã phân chia, sau đó qua hiện tượng thụ phấn, kết hợp giữa nhị đực và nhị cái, là lúc âm dương giao phối mà kết thành quả hạt. Cũng như khi khối Nguơn-linh của Chí-Tôn và Nguơn-âm của Phật-mẫu kết-hợp mới sinh ra Thái-cực là cơ hữu hình của Chí Tôn phân Thái-cực ra Lưỡng-nghi là hai yếu-tố âm dương được tách rời, đây là quyền-năng của Chí-tôn, rồi nhị đực và nhị cái thụ phấn mà kết-quả, đó là lúc âm dương tác-động mà sanh-hoá nên thể chất hữu-hình, đây là quyền năng của Phật-Mẫu.
Theo phương pháp suy-luận Đức Hộ-pháp đã dạy :
" Ta lấy lớn suy nhỏ, lấy nhỏ so lớn..." (Trích LTĐ của ĐHP/QI/132 : 31)
Do đó ban đầu tuy thấy một mà trong đó có hai, nếu độc dương thì bất sanh, cô âm thì bất trưởng. Nên Đức Hộ-pháp đã nói : "Aâm dương tương-hiệp mới có năng-lực sinh-hoá".
Trong cửa đạo Cao Đài, Đức Hộ-Pháp đã thuyết-giảng về sự tương-quan giữa Chí-tôn và Phật-Mẫu như sau :"... Buổi mới mở Đạo, Bần Đạo biết công-nghiệp của Phật-Mẫu thế nào, Ngài và Cửu vị Nữ Phật dìu-dắt con cái của Đức Chí-Tôn từ ban sơ đến ngày đem giao lại cho Thầy. Ngày mở Đạo, vì cái tình-cảm ấy, mà các vị Đại Thiên-phong buổi nọ xin thờ Phật-Mẫu ở Đền-Thánh, thì Phật-Mẫu cho biết rằng quyền Chí-Tôn là Chúa, còn Phật-Mẫu là Tôi, mà Tôi thì làm sao ngang hàng với Chúa. Chúng ta thấy Phật-Mẫu cung kính Chí-tôn đến dường ấy không gì lượng được. (Trích thuyết đạo của Đức Hộ-Pháp tại Báo-Ân-Từ ngày mồng một tháng hai Đinh Hợi / 1947).
Đề cập đến sự tương quan giữa Chí-tôn và Phật-Mẫu cùng vũ trụ và vạn-hữu, Đức Hộ-pháp đã thuyết giảng như sau : " Cả vật loại hữu tướng này có hai quyền năng sản-xuất :
1- Chí Tôn
2- Đức Mẹ"Cả quyền-năng của ông cha chúng ta đào tạo thế nào ngày nay, quyền-năng của Chí-tôn cũng đào tạo thế ấy, mà bà mẹ chúng ta thế nào thì mặt luật ấy không khác nào quyền năng vô tận của Phật-Mẫu dùng đặng đào tạo càn- khôn thế-giới, chúng ta không biết, không thể đoán được, luật ấy không xa.Chí-Tôn là Phật, Phật-Mẫu là Pháp, Càn-khôn là Tăng, mặt địa-cầu nầy, đến ba nghìn thế giới cũng là Tăng. (Trích thuyết Đạo của Đức Hộ-Pháp tại Đền Thánh đên 01 tháng chạp năm Đinh Hợi/1947).
Để hiểu rõ về quyền-năng Phật-Mẫu, Đức Hộ-Pháp giải thêm rằng :" Chúng ta đã có một bà Mẹ là Phật-Mẫu cầm quyền năng tạo đoan xác thịt hình hài của ta, Chí-tôn là Cha cho nhứt điểm Tính, Phật-Mẫu là mẹ của xác, cho nhứt điểm Khí, cha mẹ hữu hình, vâng lịnh Phật-Mẫu tạo xác thịt hiện hữu đây, còn quyền-năng thi-hài Đấng ấy làm chủ. Phật-Mẫu có tính-chất của Bà Mẹ, Bần Đạo xin làm chứng rằng : tính-chất bà mẹ hữu-hình thế nào thì tính chất của bà mẹ Phật-Mẫu cũng hiện y nguyên như vậy, nhưng có phần yêu-ái hơn, bảo trọng hơn, binh vực hơn. (Trích thuyết Đạo của Đức Hộ-Pháp đêm mồng 01 tháng Mười năm Đinh Hợi/194).
Như vậy là Đức Chí-Tôn ban cho chúng ta điểm linh-quang là phần tinh-thần, còn Phật-Mẫu ban cho chúng ta phần khí-chất là phần sinh-lực. Cũng do yếu nhiệm đó mà Đạo Cao-đài thờ Đức Chí-Tôn bằng Thiên-nhãn mà không thờ hình tượng, còn thờ Phật-Mẫu thì thờ bằng hình tượng, về đẳng-cấp triều-nghi của nhân-loại thì trước Chí-Tôn có phẩm-trật, sắc-phục khác nhau, còn trước Phật-Mẫu thì con người không phân biệt đẳng-cấp, sắc phục như nhau, vì ở đây không còn phân-biệt thượng hạ mà chỉ còn cốt nhục tương thân, đồng sanh đồng tử mà thôi. Điều này Đức Hộ-Pháp đã nói rằng :"... Vào Đền thờ Phật-Mẫu đều bạch-y tất cả, dầu Giáo-Tông hay Hộ-Pháp cũng phải cổi thiên-phục để ở ngoài. Hỏi tại sao như vậy ? Lấy tánh đức thường tình của một và mẹ không có gì lạ, ta thấy trong gia-đình kia dầu rân-rát, một người dầu quyền cao chức trọng, dầu làm quan toà, tham-biện hay tể-tướng đi nữa, mà bước vào nhà, con làm tể-tướng thì bà mẹ không ưa, lại thêm phiền luỵ, làm quan với ai kia, chớ về làm quan với gia-đình à ! Oai quyền với thiên-hạ ở ngoài chớ ở đây không thể làm oai-quyền với mẹ được, dầu bậc nào cũng vậy vẫn là con thôi..." (Trích thuyết Đạo của Đức Hộ-Pháp ngày mồng 01 tháng 10 Đinh Hợi/1947).
Đức Hộ-Pháp còn dẫn-giải thêm nguyên-nhân đó như sau :"Trong cửa Đạo Cao-đài có hai đền thờ : một đền thời ta ngó rất trật-tự hàng ngũ, bởi vì nguyên-căn tâm-hồn của chơn-linh chúng ta đều có trong hàng phẩm Cửu-Thiên Khai-hoá cả. Quý-phái như thế. Còn một đền thờ nữa thờ Phật-Mẫu tức là Mẹ của chúng ta, thì cái quý-phái của chúng ta không còn giá-trị gì nữa... Đến Phật-Mẫu không muốn cả chức-sắc Thiên-phong đi đến đền thờ của Người và Người nhứt-định không chịu điều ấy, vậy phẩm-tước và giai-cấp đối với Phật-Mẫu không có giá-trị, vì Phật-Mẫu không muốn đứa nào áp-bức đứa nào cả, hành-tàng như vậy bị tiêu-diệt. (Trích thuyết-đạo của Đức Hộ-Pháp đêm 15 tháng 8 Mậu Tý/1948).
TÌNH THƯƠNG CỦA CHÍ-TÔN VÀ PHẬT-MẪU
Tình thương yêu của Chí-Tôn và Phật-Mẫu dành cho chúng-sanh rất bao la không bờ bến, chúng ta cứ nghiệm thấy bậc cha mẹ hữu hình sanh ra xác thân chúng ta đã thương yêu chúng ta thế nào, thì hai Đấng Cha Mẹ thiêng-liêng sinh linh-hồn và khí-phách của chúng ta càng thường yêu gấp bội, vì cha mẹ hữu hình chỉ sinh ra ta một kiếp chừng ba vạn sáu nghìn ngày, còn cha mẹ thiêng-liêng thương yêu cưu-mang ta vô số kiếp với thời-gian vô-cùng. Để hiểu được tình thương của Chí-Tôn và Phật-Mẫu thể hiện với chúng ta như thế nào thì chúng ta cần tìm hiểu qua kinh-điển và Thánh-giáo của các Ngài như sau :"... Thầy thường nói với các con rằng : Thầy là cha của sự thương yêu. Do bởi thương yêu Thầy mới tạo thành càn-khôn thế-giới và sinh dưỡng các con...""... Ôâi ! Thầy sanh các con thì phải yêu trọng các con chằng cùng, mà Thầy cho các con đến thế giới nầy với một thánh thể thiêng-liêng, y như hình ảnh của Thầy, không ăn mà sống, không mặc mà lành, các con lại không chịu, nghe điều cám dỗ, mê luyến hồng trần, ăn cho phải đoạ, dâm cho phải bị đày, nên chịu nạn áo cơm dục quyền cầu lợi. (TNHT/Q2/ trang 63).
Vì thương yêu chúng sanh nên Đức Chí-Tôn luôn lo lắng để làm thế nào cho chúng ta được chung hưởng phước lành :" Các con phải biết trong Trời Đất, nhơn sanh là con quý của Thầy, nên Thầy hằng để ý lo lường cho các con biết hối-ngộ hầu chung hưởng phước lành.." (TNHT/Q2/ trang 29).
Do bởi lòng thương yêu chúng sanh nên Đức Chí-Tôn đã nhiều phen cho các vì Giáo-chủ giáng trần lập Đạo dạy người bỏ dữ về lành để được hưởng phước-đức, nhưng nhiều mối Đạo lâu ngày càng biến chất, sai lạc chân truyền, nên ngày nay chính Đức Chí-Tôn đến thế-gian bằng huyền-diệu thiêng-liêng dùng cơ bút lập nên Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ có nghĩa là cứu rỗi lần thứ ba để quy tụ đám con cái lầm lạc trở về với Ngài."... Trước Thầy giao chánh-giáo cho tay phàm, càng ngày lại càng xa Thánh-giáo mà lập ra cuộc phàm giáo, Thầy lấy làm đau-đớn, hàng thấy trót mười ngàn năm nhơn-loại phải sa vào nơi tội lỗi, mạt kiếp chốn a-tỳ." Thầy nhứt-định đến chính mình Thầy độ rỗi các con, chẳng chịu giao chánh-giáo cho tay phàm nữa. Nhưng mà buộc các con dìu dắt lẫn nhau, anh trước em sau mà đến nơi bồng-đảo" (TNHT/Q1/ trang 18).
Với tình thương bao la, từ một Đấng chúa-tể càn-khôn thế-giới, Chí-Tôn đã hạ mình để làm một vị Thầy của nhơn-loại, với lời lẽ hiền-hoà khuyên dạy chúng ta như một người Cha nhân-từ đối với con cái. Ngài coi tất cả nhân-loại là con chung, không phân-biệt người hiền kẻ dữ, đều ra tay cứu độ. Đối với kẻ căn-cơ tiến-hoá cao thì thành Tiên tác Phật thoát đoạ luân-hồi, còn những người có chút thánh-đức thì được an-nhàn tránh khỏi quả báo đọa đày, Đức Chí-Tôn đã cho biết điều này như sau :" Ta vì lòng đại-từ, đại-bi, vẫn lấy đức háo-sanh mà dựng nên Tâm-Kỳ Phổ-Độ tôn chỉ để cứu vớt những kẻ hữu phần vào nơi địa-vị cao thượng để khỏi số mạng luân-hồi, và nâng đỡ kẻ thánh-đức bước vào cõi nhàn cao hơn phẩm hèn khó ở thế-gian này ...".(TNHT/QI/ trang 64).
Ngay cả đối với kẻ vô lương-tâm Đức Chí-Tôn cũng ra tay tế-độ sẵn-sàng chờ họ ăn-năn hối cải :" Thầy vì thương nhơn loại, muốn cứu hết, nên thường thâu nhập nhiều đứa vô tâm cũng muốn cho chúng ăn-năn chừa lỗi, ngỏ hầu hưởng phước, mà chúng nó không biết tự hối thì làm sao rổi đặng. Đến buổi chung qui mới thấy thiên-đàng, địa-ngục thì đã muộn rồi, các con phải xét mình cho lắm nghe." (TNHT/QI/ trang 60).
Tình thương của Đức Chí-Tôn với nhân loại như vậy, nhưng con người vì mê-luyến hồng-trần đeo đuổi theo vật-chất lợi-danh trở nên xa lạ với Ngài, nên Đức Chí-Tôn đã buồn rầu than thở :" Từ khai thiên lập địa, Thầy cũng vì yêu mến các con mà trải qua bao nhiều điều khổ hạnh, mấy lần lao-lý, mấy lúc vang mày nuôi nấng các con, hầu lập nền Đạo, cũng tưởng các con lấy đó soi mình đặng cải tà qui chánh.
" Mấy lần vun đắp nền Đạo, Thầy cũng bị các con mà hư giềng Đạo cả.
" Thầy buồn đó các con.
" Thầy ban ơn các con. (TNHT /QI/ trang 62).
Bởi thương yêu chúng sanh, Đức Chí-Tôn đã hết lời khuyên-nhủ nhưng loài người vẫn mãi mê trong vòng trần-tục, khiến Đức Chí-Tôn rất đau lòng, nhưng vì luật Thiên-điều Ngài vẫn để cho con người tự quyết-định số-phận của mình, đây là một tình thương yêu công-bình, không thể coi kẻ có tội là vô tội được, nên con người làm lành thì gặp phước-đức, làm ác thì bị quả báo đọa-đày. Đức Chí-Tôn Phật-Mẫu dù có thương yêu bao nhiêu cũng không thể qua luật Thiên-điều được, nên Thánh ngôn có câu : " Ôi ! Thầy đã lắm nhọc-nhằn vì bầy con dại, muốn ra tay tế-độ vớt trọn cả chúng sanh thoát vòng khổ hải, nhưng chúng nó đã nhiễm luyến mùi trần-thế, tâm-chí chẳng vững bền, thấy khó đã toan ngã lòng, mới đạp chông toan trở bước, Thầy cũng phải đau lòng mà nắm máy huyền-vi để cơ trời xoay đổi, các con liệu lấy" (TNHT/QI/ trang 56).
Theo thánh-ý của Đức Chí-Tôn là muốn cho tất cả nhơn-loại được siêu thoát. Điều này Đức Hộ-Pháp đã dẫn giải rằng : " Xưa kia con người đi tìm Đạo, còn hôm nay trái lại Đạo lại đến tìm người. Ôââi ! nếu ta tưởng-tượng cái ân-hậu vô-biên của Đức-Chí-Tôn đã thi-thố, thì chúng ta đã hạnh-phúc không có ngôn-ngữ nào mà tả đặng... " (Lời thuyết đạo của Đức Hộ-Pháp ngày 15 tháng 8 Nhâm-Thìn/ 1952) tại Cửu-Long-Đài đền thờ Phật-Mẫu).
Còn tình thương của Phật-Mẫu đối với chúng ta y như một bà mẹ hiền-từ, luôn luôn khắc-khoải lo lắng vì con : " Riêng thương Kim-Mẫu khóc thầm,
Biển trần thấy trẻ lạc lầm bấy lâu.
Đòi phen Mẹ luốn u sầu,
Cũng vì tà mị dẫn đường con thong
(Kinh xưng-tụng công-đức Phật-Mẫu)
Thánh-giáo Phật-Mẫu cũng đã dạy rằng:"Từ Vô-Cực vào trong cảnh giới,
Mới để tâm so-sánh Tiên Phàm.
Chẳng từ ô trược dương-gian,
Vì thương trẻ mới băng ngàn viếng thăm.
(Đàn cơ tại Trí Huệ cung đêm 7 tháng 1 Tân-mão (1202-1951) Phò-loan Phạm Hộ-Pháp & Cao Tiếp Đạo)
Vì thương con cái bị mê luyến hồng-trần, mến mùi chung-đỉnh mà quên ngôi xưa vị cũ của mình, nên chính Phật-Mẫu đã lãnh lịnh Chí-Tôn khai sáng Tam-Kỳ Phổ-Độ, để diệt tà-pháp của thế-gian tạo cho nhân-loại một cảnh đại-đồng, an-lạc : Chiếu nhũ lịnh Từ-Huyên thọ sắc,
Độ anh nhi nam bắc đông tây.
Kỳ khai tạo nhứt Linh-Đài,
Diệt hình tà pháp cường khai đại-đồng.
(Phật-Mẫu chơn kinh).
Dù cho chúng sanh mê-lầm để cho tà mị dẫn đường, nhưng Phật-Mẫu vẫn luôn đặt kỳ-vọng vào con cái của Ngài, nên quyết đem chúng ta trở lại con đường hằng sống :" Ngồi trông con đặng phi-thường,
Mẹ đem con đến tận đường hằng-sanh. (Kinh Xưng tụng công-đức Phật-Mẫu).
Sau đây chúng ta đọc thêm câu chuyện của một nhà làm khoa-học, Bác-sĩ Bandyo là cựu Giám-đốc bệnh-viện Calcutta, một giáo-sư đại-học nổi tiếng về khoa giải-phẩu đã được đề-nghị trao giải-thưởng NOBEL về y-học, đã tường-thuật về việc ông chứng-kiến trường-hợp Đức Mẹ Thế-Gian thị hiện cứu-giúp một em bé là bệnh-nhân của ông ta như sau : " Tôi là một khoa-học gia, trọn đời hiến dâng cho khoa-học, tôi không hề tin các sự-kiện vô hình, huyền-bí mà chỉ tin những gì khoa-học chứng-minh một cách rõ-ràng thôi. Một hôm người ra đem đến bệnh-viện một cô bé mắc một chứng bệnh hết sức lạ-lùng, một hội-đồng y-khoa gồm các bác-sĩ danh tiếng nghiên-cứu suốt mấy tháng liền nhưng đành bó tay tuyệt-vọng... Bỗng tôi thấy một điều lạ lùng, một người Đàn Bà hiện ra bên cạnh cô bé, thân thể Ngài sáng chói hào-quang... Tôi bỗng nhận-thức ra Ngài là Đức Mẹ Thế-Gian... Lòng tôi bỗng hoàn-toàn thay đổi. Tôi quỳ sụp xuống đất, mặc dù suốt đời tôi chưa biết cầu-nguyện là gì.Tôi cầu xin với tất cả thành-kính xin Đức Mẹ cứu chữa cho bệnh nhân. Tôi phát nguyện trọn đời tôn-vinh hoạt-động của Đức Mẹ và theo Ngài vĩnh-viễn... Cô bé được chữa lành. Ngày hôm sau cả bệnh-viện xôn-xao cho rằng tôi đã chữa lành cho cô bé... Trường y-khoa yêu-cầu tôi công-bố phương-pháp chữa trị và đòi đặt tên tôi vào căn-bệnh đó. Họ tin rằng với phát-minh này chắc-chắn giải Nobel sẽ về tay tôi... Dĩ-nhiên tôi không thể trả lời, và dù có nói cũng không ai tin. Hội đồng y-khoa cực-kỳ giận dữ cho rằng tôi giấu nghề... Tôi trả lời rằng chính Đức Mẹ hiện ra chữa cho bệnh nhân. Tất cả đều cho rằng tôi điên. Sau cùng giải Nobel năm đó được trao tặng cho một bác-sĩ quốc-gia khác. Hội đồng Y-khoa Aán-độ vô-cùng tức giận đòi trục-xuất tôi, báo-chí xúm vào chỉ-trích tôi là "Thầy phù thuỷ"...
Lúc đó tôi hiểu thế nào là vô thường. Tôi không biết phải làm gì hơn là cầu- nguyện Đức Mẹ giúp cho tôi đủ can-đảm chịu đựng sự bất hạnh này...
Trong thời-gian khủng-hoảng, tôi tin rằng sự-kiện này ắt phải có lý-do, nên hết lòng cầu-nguyện, câu trả lời đã đến với tôi qua một linh ảnh : trong một tiền kiếp xa-xuôi tôi là một y-sĩ rất có tài, nhưng tôi đã phủ-nhận các quyền-năng huyền-bí, và chê-bai những kẻ có đức tin hay cầu-nguyện Đức Mẹ. Đó là hậu-quả tôi gánh chịu ngày hôm nay.
Kể từ hôm nhìn thấy Đức Mẹ, một sư thay đổi lớn đã diễn ra trong tâm-hồn tôi. Từ nhỏ tôi không hề biết tôn-giáo, tôi hấp thu một nền giáo-dục Tây phương, nên tin tưởng tuyệt-đối ở khoa-học. Sự chứng kiến phép lạ, thay đổi tất cả, như người mù bỗng sáng mắt, tâm hồn tôi hoàn-toàn khác trước, tôi thanh thản vô-cùng, và đủ sức chịu đựng sự chế diễu của mọi người. Tôi dành trọn thì giờ để cầu-nguyện là phát-nguyện đời đời kiếp kiếp theo chân Đức Mẹ, cứu giúp tất-cả chúng-sanh. Một hôm trong lúc cầu nguyện Ngài bỗng hiện ra mỉm cười và từ đó tôi thấy mình ngụp lặn trong một thế-giới mới lạ. Tôi ý-thức được các điều mà từ trước không bao giờ nghĩ đến, tôi chứng-kiến rõ ràng các cõi giới khác, cũng như sự hoạt-động tiến-hoá không ngừng của muôn loài. Nói một cách giản-dị hơn, khả năng thần-nhãn của tôi bổng khai mở. Từ đó tôi quan-sát, học hỏi các cõi giới của Thiên-thần...
Có lẽ các bạn không tin-tưởng lắm, điều này không quan-trọng. Tin hay không là quyền của bạn, tôi chỉ muốn chia sẻ với các bạn kinh-nghiệm tâm-linh này thôi...Tôi phát-nguyện dành trọn đời để thực hiện thiên-ý, đó là lý-do tôi từ bỏ đời sống quay cuồng ở đô-thị để đến đây... Thì giờ còn lại tôi phục vụ Đức Mẹ qua các công việc Ngài giao-phó. Các bạn thân mến, trọn đời tôi chưa lúc nào sống thật trọn vẹn như bây giờ.(Theo Hành-trình về phương Đông Nguyên-tác của Spalding - bản dịch của Nguyên-Phong).
Theo tác-giả thì sau biến-cố này Bác sĩ Bandyo từ chức lui về ở ẩn tại một làng nhỏ gần Rishikesh (Aán Độ) để săn-sóc sức-khoẻ cho dân chúng tại đây.
Trong Đạo-sử của các Tôn-giáo, cũng như sự truyền-tụng ngoài dân- gian trên khắp thế-giới về hình-ảnh NGƯỜI ĐÀN BÀ hiện-thân của một BÀ MẸ nhân-từ sẵn sàng đến cứu giúp những tai ương hoạn hoạ là có thật, nhưng được kể lại từ một huyền-thoại không phải là ít. Trong lịch-sử của Giáo-hội Thiên-Chúa cho biết Đức Mẹ đã hiện xuống ở Fatima (Bồ-đào-nha).Tại Việt-nam Đức Mẹ đã hiện xuống hai lần: một lần tại Trà-kiệu khi triều-đình Nhà Nguyễn ngăn cấm Đạo Thiên-Chúa, các con chiên ngoan đạo bị bách-hại, Giáo-khu Trà-kiệu bị phong toả,Đức Mẹ đã hiện xuống để cứu giúp. Một lần khác tại La-vang dân-chúng tại đây bị chết vì nạn dịch-tể, Đức Mẹ đã hiện xuống chỉ cây lá địa-phương cho dân-chúng chửa bệnh. Ngày nay hằêng năm tại hai nơi này, đến ngày Đức Mẹ hiệân xuống, Giáo-hội tổ-chức lễ hội Kỷ-niệm rất trọng thể, có đông-đảo giáo-dân khắp cả nước về tham-dự.
Trong Đạo-sử Cao-đài có ghi rằng : Phật-Mẫu và Cửu-vị Tiên-nương đã giáng-linh hội-yến với các bậc tiền-bối khi mới khai Đạo gọi là Hội yến Diêu-Trì-cung, điển lễ này hiện nay vẫn còn đang truyền tụng và hàng năm vào đêm rằm Trung thu tháng tám tại Đền-thờ Phật-Mẫu ở Thánh-địa Tây Ninh lễ kỷ-niệm đêm Hội yến này được tổ chức rất là trọng-thể.
Trong một lần khác ở Kim-biên Tông-đạo Cao-miên-quốc (Nay là Cam-pu-chia) tại Báo-ân-đường Bát-nương Diêu-trì cung giáng cơ cho bổn kinh Đức Diêu Trì Kim-Mẫu do Đức Hộ-Pháp Phò-loan nơi Đại-điện, thì tứ phía Báo-Ân-đường đều có hào-quang giáng-hạ,ï có nhiều người chứng kiến, kể cả người không giữ Đạo (Theo thuyết đạo của Đức Hộ-Pháp trên Cửu-Long-Đài hồi 4 giờ chiều ngày rằm tháng 8 Đinh Hợi).
Các sự-kiện nêu trên không những chứng tỏ Phật-Mẫu luôn luôn tiếp cận với chúng ta mà còn ngự-trị ngay trong tâm-khảm của mỗi người, nên bất kỳ lúc nào ở đâu, chúng ta cầu xin đều có linh ứng.
Còn một điều trong chúng ta ít có người nghĩ đến là hằng ngày chúng ta đã sống bằng khí sanh-quang của Phật-Mẫu mà chúng ta không hề hay biết. Trong Phật-Mẫu chơn-kinh có câu : " Sanh quang dưỡng dục quần nhi".
Đức Hộ-Pháp giải nghĩa câu này rằng : " Phật-Mẫu lấy khí sanh-quang (fluide de vitaliés) nuôi nấng con cái của NGƯỜI" (theo giải nghĩa Phật-Mẫu chơn-kinh).
Loại khí Sanh-quang này, Đức Chí-tôn gọi là Khí-phách tiếp-dưỡng, hay Huyền-vi vật-thực, còn đối với các tôn-giáo thì tuỳ theo tín-ngưỡng và quan-niệm về nó mà có tên gọi khác nhau, Yoga gọi là Prâna, Phật gọi là Diệu-hữu, Tiên-giáo gọi là Nguyên-khí, Nho-giáo gọi là Hạo-nhiên-khí, Khoa-học gọi là Năng-lượng, loại khí này không chỉ hoà tan trong không-khí như đường tan trong nước, mà còn hiện hữu khắp mọi nơi kể cả những chỗ không khí không thể len lõi đến được, nó hiện-diện trong vật-chất, cây cỏ, đồ ăn, thức uống, trong cơ-thể sinh-vật kể cả trong ánh sáng mặt trời. Nó hiện-diện trong không-khí không phải là Oxy hay Ni-tơ cũng chẳng phải là vi-ta-min, là nhiệt, hay là tia cực tím, cũng chẳng phải là một thành phần hoá-học nào đó trong khí quyển, có thể gọi Khí Sanh-quang là một nguồn sống trong vũ-trụ, cũng có thể gọi là sinh-lực, nhưng nó không phải là lực điện-từ, cũng chẳng phải là lực hấp dẫn hay điện năng, mà các hiện-tượng ấy là biểu-hiện của một nguồn sống đang phổ cập mọi nơi, khắp vũ-trụ nơi nào có sự sống là nơi đó có Sanh-quang-khí, và biểu hiện ra bằng sinh-lực.
Nên trong 12 bài luyện tập thân thể do Đức Hộ-Pháp chỉ giáo, phần luyện thở có nêu câu Thánh giáo của Đức Lý Giáo-tông :" Hỏi ăn chi đặng sống ?
Rằng hớp khí thanh- không"
Bởi vì trong khí thanh-không có hoà tan Sinh-quang-khí nên có thể nuôi sống được con người. Nên trong các tôn-giáo thường dạy phương-pháp luyện thở là dạy cách hấp-thu tối đa lượng khí này để được sống lâu ít tật-bệnh. Thậm chí có nhiều môn phái còn luyện những phương-pháp hít thở đặc-biệt để tiêu-trừ tật-bệnh, phục-hồi sức khoẻ đã suy-khuyết. Trong Đạo-sử Cao-Đài-Giáo, Đức Chí-Tôn có truyển cho môn-đồ phương-pháp tuyệt-thực (nhịn ăn), chỉ hít thở để tiếp thu huyền-vi vật-thực còn gọi là khí-phách tiếp-dưỡng (sanh quang khí) trong không-khí để chữa bệnh. Nhiềâu vị chân tu đắc-đạo đã tịch cốc thời-gian dài, chỉ hít thở để tiếp thu huyền-vi vật-thực mà cơ thể không suy khuyết chút nào (Theo Đạo-sử của Bà Nữ Đầu Sư Hương-Hiếu sưu tập).
Căn cứ theo những sự-kiện nêu trên cho chúng ta thấy rằng trong từng giây, từng phút, từng hơi thở của sự sống, chúng ta đều được ân-huệ của Phật-Mẫu ban cho, nói một cách khác là chúng ta luôn luôn nằm trong sự nuôi-dưỡng đùm-bọc của NGƯỜI như thể là một hài-nhi, không thể nào rời được vú Mẹ, cho nên Thánh-giáo của Phật-Mẫu có câu :"Vú Mẹ chưa lìa đám trẻ con"
(TNHT/Q2/ trang 87).
Như vậy ân-đức của Phật-Mẫu thật là vô-lượng vô-biên mà rất ít người trong chúng ta hay biết đến.
KẾT-LUẬN
Tình thương của Phật-Mẫu đối với nhân-loại thật là vô điều-kiện. NGƯỜI không phân biệt sang hèn, thiện ác, nhất là đối những người yếu-đuối thiệt-thòi lại được Phật-Mẫu thương xót che-chở nhiều hơn. Điều này Đức Hộ-Pháp đã khẳng-định rằng : " Bần Đạo dám cả-quyết nơi Đền thờ của Đại Từ-Mẫu chúng ta. bà không kể con cái sang-trọng cao sang của Bà đâu, trái ngược lại Bà lại thương yêu bênh-vực những đứa nào thiệt-thà, hèn yếu hơn hết, ấy vậy Qua nói rằng : Trong cả mấy em đây, nếu có đứa nào thiếu thốn cả tinh-thần và vật-chất, thiệt-thòi nghèo khổ, tật-nguyền, Qua dám chắc, Bà Mẹ thiêng-liêng của chúng ta sẽ vui ở với kẻ ấy lắm vậy. Qua chẳng phải nói để an ủi mấy em, mà sự thật quả quyết vậy. Qua chỉ cho các em một bí-pháp, là khi nào mấy em quá thống-khổ, quá đau đớn tâm-hồn mấy em đừng vội sầu thảm, các em quỳ xuống giữa không- trung, các em nguyện với Bà Mẹ thiêng-liêng ấy một lời cầu-nguyện, Bần Đạo quả-quyết rằng Bà chẳng hề khi nào từ chối cùng mấy em. Qua đã thử nghiệm rồi, cả toàn con cái của Đức Phật-Mẫu thí-nghiệm như Qua thử coi. (Trích thuyết Đạo của Đức Hộ-Pháp ngày rằm tháng 8 Nhâm-Thìn (1952) tại Cửu-Long-Đài đền thờ Phật-Mẫu).
Vì thương yêu, Phật-Mẫu đã tạo dựng nên loài người và đã cưu-mang trong vô-số kiếp. Phật-Mẫu đã thị hiện xuống nhiều nơi trên thế gian để cứu vớt an-ủi nhân-loại cả cộng-đồng hay từng cá nhân, Ngài không từ bỏ một ai, nhất là con cái bị ức-hiếp, khốn khổ của Ngài, nên bổn phận của chúng ta là lo tu-hành, lập công bồi đức, để được trở về bên Ngài, nếu chưa về được thì cũng có được một kiếp tái sanh cao-trọng hơn.* * *
Tóm lại tất cả chúng sanh, nhất là con người, đều là con cái yêu-quý của Đức Chí-Tôn và Phật-mẫu, nói một cách khác chúng ta đều có cùng chung một Cha Mẹ Thiêng-liêng. Chí-Tôn và Phật-Mẫu không thuộc bất-cứ một giòng-giống nào hay một tôn-giáo nào. Các Đấâng đều thị-hiện như nhau trong tất-cả con người, từ hạng thượng-lưu trí-thức cho đến kẻ khốân-khổ bần-cùng. Tuỳ theo phong-hoá mỗi địa-phương và sự hiểu biết của con người qua mỗi thời-kỳ, mà họ đã tôn-vinh các Ngài bằng nhiều danh xưng mỹ-miều hay mộc-mạc khác nhau , các Ngài cũng đều chấp nhận và ban ơn. Cũng như sự thờ-phụng các Ngài từ những đền-điện cao-sang của các Tôn-giáo, có kiến-trúc nguy-nga, cho đến những thảo-xá giản-đơn của những người tu-chơn ẩn-dật nơi sằng-dã, các nơi nầy cốt để cho con người tụ-họp nhau chiêm-bái, mục-đích để biểu-lộ lòng tôn-kính, hiếu-hạnh và ước mong giao-cảm được với các Ngài. Nhưng Ngôi Đền thực sự lại ở ngay trong Tâm Con Người, chúng ta phải quay vào trong ngôi Đền thực-sự đó để tôn-thờ, mới mong giao-cảm và gặp-gở được Chí-Tôn và Phật-Mẫu.
Những người sơ-cơ mới bước chân vào sự tín-ngưỡng, thường tôn-thờ Chí-Tôn và Phật-Mẫu nơi các đền-đài tôn-giáo, với các lễ-nghi của nó, nhưng khi đức-tin họ già-dặn và đã trở nên minh-triết thật-sự, thì họ lại tôn-thờ Chí-Tôn và Phật-Mẫu bằêng ngôi đền-thờ chính trong tâm-linh của mình, và họ cố-gắng làm cho Ngôi-Đền Thân-Thể nầy càng ngày càng đẹp-đẻ hơn, bằng những tư-tưởng trong-sạch và đời sống thanh-cao, bởi vì những đền-đài do bàn tay con người xây-dựng dù có nguy-nga trang-lệ bao nhiêu, cũng không thể thay-thế được Ngôi Đền thực-sự là thân-thể và tâm-linh con người do chính Đức Chí-Tôn và Phật-Mẫu tạo-lập được. Điều nầy Đức Chí-Tôn đã xác nhận rằng:" Bạch-Ngọc từ xưa đã ngự rồi,
Chẳêng màng hạ-giới vọng cao ngôi.
Sang hèn vốn sẵn tâm là quý,
Tâm ấy Toà Sen của Lão ngồi.(Thi-văn Dạy Đạo)
Đức Chí-Tôn và Phật-Mẫu thương-yêu tất cả con cái của NGƯỜI một cách bình-đẳng, các Ngài chảêng cần quan-tâm đến họ tôn-thờ bằng cách này hay cách khác, bằng các nghi-lễ phức-tạp hay giản-đơn, nhưng các Ngài chỉ quan-tâm đến tấm lòng thành-tín và hiếu-kỉnh của họ mà thôi, vì Chí-Tôn đã cho biết điều này như sau: "Trong lòng Thầy ngự động Thầy hay.
Ngặt nỗi từ xưa chẳng thế bày.
Đạo-hạnh khuyên con gìn tánh-đức,
Cửa cung Bạch-ngọc đã gần khai.(Thi-văn dạy Đạo)
Tánh-đức nầy là tấm lòng thành-tín và hiếu-kỉnh của con người phải có, để vào được cửa cung Bạch-Ngọc.
Cũng tương-tự như vậy, không có kinh-sách nào hơn kinh-sách nào, bởi vì tất-cả đều có mục-đích đưa con người đến với Chí-Tôn và Phật-Mẫu và để hướng-dẫn họ biết thương-yêu và tôn-kính các Ngài, nhưng thật ra không có ngôn-ngữ nào có thể diễn-tả được các Ngài, cũng không có sách vở nào có thể chứa đựng trọn vẹn được Chí-Tôn và Phật-Mẫu, vì đây là một Đấng mà chữ-nghĩa và ngôn-ngữ hửu-hạn của thế-gian không thể nào mô-tả trọn vẹn được. Nên đối với Kinh-điển Đức Chí-Tôn đã dạy rằng:"Kinh-điễn giúp đời siêu phàm nhập Thánh , chẳng khác chi đủa ăn cơm, chẳng có đủa , kẻ có cơm bốc tay ăn cũng đặng . Các con coi kinh-điển lại, rồi thử nghĩ lại sự công-bình thiêng-liêng mà suy ngẫm cho hay lẽ phải. Thầy khuyên các con theo sau Thầy mà đến phẩm-vị mình thì hay hơn tuông bờ lướt bụi, đi quanh kiếm quất nghe à !. (TNHT/Q2/trang 5).
Như vậy Đức Chí-Tôn cũng xác nhận rằng chỉ có tấm lòng thành-kính và một đức tin vững chắc thì mới đạc đến phẩm-vị của mình và hội-nhập với các Ngài, hơn là lặn-lội kiếm quanh kiếm quất trong rừng kinh-điển.
Đức Hộ-Pháp cũng đã khuyên chúng ta rằng :" Phải yêu ái hiếu hạnh với Chí-tôn và Phật-Mẫu, cái yêu-ái ấy phải phi-thường do tâm linh điều-khiển... (Trích thuyết Đạo của Đức Hộ-Pháp về Con đường thứ ba tại Khách Thiện từ ngày 15/11/Bính-tuất/1946).
Đức Ngài cũng cụ-thể hoá lòng hiếu-hạnh yêu ái đó bằng lời khuyên :" Tín-ngưỡng mạnh mẽ nơi Chí-Tôn và Phật-Mẫu". (Trích Phương Luyện Kỷ).
Như vậy sự yêu-ái, hiếu-hạnh và tín-ngưỡng mạnh mẽ nơi Chí-Tôn và Phật-Mẫu sẽ giúp chúng ta có được sự tương-giao hai chiều, thiết-lập được nhịp cầu "cảm-ứng" giữa Trời và Người, chúng ta sẽ được bảo-bọc bởi hào-quang của Chí-Tôn và Phật-Mẫu, vô-hình-trung chúng ta sẽ được nằm trọn vẹn trong quỷ-đạo của thiên-cơ, khiến cho mọi sinh-hoạt của chúng ta trong trường đời được kịp thì trúng tiết, tránh được sự hoạn-hoạ tai-ương, và trên đường Đạo sẽ đưa chúng ta hội-nhập với các Ngài nơi Vương-quốc Huyền-Linh.
CHUNG.
CỬU VỊ TIÊN NƯƠNG
(CỬU VỊ NỮ PHẬT)
Cửu vị Tiên Nương là 9 vị Tiên Nữ ở Diêu trì Cung, tầng trời Tạo Hóa Thiên, hầu cận Đức Phật Mẫu và giúp việc cho Đức Phật Mẫu.
“Dưới quyền Đức Phật Mẫu có Cửu Tiên Nương trông nom về Cơ giáo hóa cho vạn linh, còn ngoài ra có hằng hà sa số Phật trông nom về Cơ phổ độ mà Quan Thế Âm Bồ Tát là Đấng đứng đầu.
Quan Thế Âm Bồ Tát ngự tại cung Nam Hải, ở An Nhàn động. Còn Diêu Trì Cung thì ở tại Tạo HóaThiên.”
(Trích thánh giáo Luật Tam Thể của Đức Cao Thượng Phẩm và Bát Nương giáng cơ.)
Cửu Vị Tiên Nương đã lập được nhiều công quả trong thời khai Đạo, dẫn dắt các nguyên căn đi vào con đường đạo đức và làm môn đệ cho Đức Chí Tôn, để các vị nguyên căn trở thành tướng soái cho Đức Chí Tôn khai Đạo. Nhờ công quả nầy, Cửu Vị Tiên Nương đắc phong vào hàng Phật vị, nên còn gọi là Cửu Vị Nữ Phật.
Nhiệm vụ của Cửu Vị Tiên Nương, từ Nhứt Nương đến Cửu Nương, trong Cửu Trùng Thiên nơi cõi Thiêng liêng như sau:
1. NHỨT NƯƠNG:
Nhứt Nương cầm đờn tỳ bà , y phục màu xanh , cai quản Vườn Ngạn Uyển, thuộc tầng trời thứ nhứt của Cửu Trùng Thiên, đón tiếp các chơn hồn qui thiên đi vào Cửu Trùng Thiên, xem xét các nguyên nhơn đang còn sống nơi cõi trần hay đã qui liễu. Mỗi đóa hoa trong Vườn Ngạn Uyển là một chơn linh. Khi chơn linh tái kiếp xuống trần thì hoa nở, khi qui liễu thì hoa héo tàn. Khi chơn linh làm điều đạo đức thì sắc hoa tươi thắm, còn làm điều gian ác thì sắc hoa ủ dột xấu xí.
Trong một kiếp giáng trần ở Việt Nam, Nhứt Nương có tên là Hoàng Thiều Hoa, một vị nữ tướng tài giỏi dưới thời Hai Bà Trưng.
Do đó, trong lễ Hội Yến Diêu Trì Cung, bài thài hiến lễ Nhứt Nương khởi đầu bằng chữ “Hoa”:
HOA thu ủ như màu thẹn nguyệt,
Giữa thu ba như tuyết đông về.
Non sông trải cánh tiên lòe,
Mượn câu thi hứng vui đề chào nhau.
SỰ TÍCH:
Theo sự cầu cơ học hỏi của Đức Cao Thượng Sanh, Nhứt Nương tên là Hoàng Thiều Hoa, tướng của Hai Bà Trưng.
Như vậy, HOA tức là Hoàng Thiều Hoa, người có công dẹp giặc nên được Hai Bà Trưng phong là Đông cung Công chúa và được dân tôn thờ ở chùa Phúc Khánh và miếu thờ ở xã Song Quang (nay là xã Hiền Quang, huyện Tam Nông, Vĩnh Phú).
Hai vợ chồng Hồng Phụ nhà nghèo, ở với nhau lâu mà không con. Ngày kia hai vợ chồng đi kiếm củi ở núi Tản Viên. Khi mệt nhọc, cả hai nằm ngủ, người vợ mộng thấy có một người con gái xinh đẹp từ trong núi đi ra, ngã đầu chào.
Người vợ nắm chặt tay nàng và hỏi: Nàng ở đâu đến?
Nàng đáp: Con là con gái của Sơn Thánh Tản Viên tên là Thiều Hoa. Ông bà có muốn nhận con làm con không?
Bà âu yếm đáp: - Nếu ta được con, ta sẽ coi con như con đẻ.
Sau đó, bà Đào thị sanh được một người con gái đẹp như tiên, giống như người trong mộng, nên đặt tên là Thiều Hoa. Từ khi có nàng, vợ chồng Hoàng Phụ đỡ vất vả. Năm 13 tuổi, cô ném đá vào quân Hán để cứu người. Năm sau, cha mẹ đều mất cả, cô phải đi chăn trâu ở xã Song Quan. Một hôm, Cô đứng trên gò cao nhìn xuống bãi sông thấy quân Hán nắm râu một cụ già lôi đi. Cô tức giận, lấy gậy chạy xuống bãi, chợt nghe tiếng gọi, cô thấy một ni cô đang vẫy tay. Cô chạy tới, Ni cô bảo:
- Con tuy có sức khoẻ, nhưng việc con làm chưa có ích gì cho dân tộc, ta không chỉ lo cho một người khỏi bị đánh mà phải lo cho cả nước khỏi bị đô hộ.
Thiều Hoa tỉnh ngộ thưa rằng:
- Từ nay, con xin ghi nhớ lời Thầy. Xin Thầy cho con làm đệ tử của Thầy.
Ni cô khẻ đáp: - Ta là người tu hành nhưng không quên việc cứu sanh linh ra khỏi cảnh trầm luân. Nếu con có chí lớn thì theo ta về chùa.
Từ đó, vườn chùa đã trở thành nơi rèn luyện của những người nghĩa dũng yêu nước. Năm 18 tuổi, cô từ giã ni cô đi Mê Linh đầu quân, được Hai Bà Trưng cho về sông Quan mộ nghĩa sĩ. Khi lệnh khởi nghĩa ban ra, cô dẫn 500 trai gái Sông Thao kéo về Mê Linh, được Hai Bà Trưng phong chức Tiên phong Hữu tướng.
Trong trận đánh Luy Lâu, Cô lập được nhiều công lớn. Khi Hai Bà Trưng lên ngôi vua, cô được phong là Đông Cung Công Chúa. Quả thật cô đã rạng danh: "Non sông trải cánh Tiên loè".
Trong kỳ Ba phổ độ nầy, cô là Nhứt Nương Diêu Trì Cung có bổn phận phổ độ nhơn sanh miền thượng du và trung du Bắc VN theo Đạo mới.
Vào ngày 27-01-1926, Nhứt Nương giáng cơ dạy Đạo cho các ông Lê Văn Trung, Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc, Cao Hoài Sang và bà Nguyễn Thị Hiếu như sau:
“Nhứt Nương, Em chào các anh và đại tỷ.
Cái bông phù dung sớm còn tối mất còn hơn một kiếp người vì nó sống ngắn ngủi dường ấy nhưng mà buổi sớm còn có sắc, chớ người đời sanh ra chỉ để thọ khổ mà thôi. Chung qui, dù sống trăm tuổi chưa được một điều đắc chí, chết thì hết cái đời tạm nầy.
Em xin ba anh coi sự trường sanh của mình làm trọng, người không có phải kiếm, mình có sẵn nở bỏ đi, em chỉ tiếc giùm đó thôi. Đi vô đường chánh, cứ lo bước tới hoài thì trở về cựu vị đặng.”
Khi ông Lê Văn Trung hỏi: - Có duyên luyện đạo được cùng chăng? Xin em mách bảo giùm.
Nhứt Nương đáp: - “Đã gặp Đạo tức có duyên phần. Rán tu luyện! Siêng thì thành, biếng thì đọa, liệu lấy mà răn mình. Phải tính sớm, một ngày qua, một ngày chết, đừng dụ dự.
Em xin kiếu”.
2. NHỊ NƯƠNG:
Nhị Nương cầm lư hương, y phục màu xanh ,cai quản Vườn Đào Tiên của Đức Phật Mẫu, thuộc tầng trời thứ nhì của Cửu Trùng Thiên, đón tiếp các chơn hồn qui thiên đến Vườn Đào Tiên, mở tiệc trường sanh đãi các chơn hồn, và đưa các chơn hồn đến Ngân Kiều để cỡi Kim Quang bay lên Ngọc Hư Cung.
Trong một kiếp giáng trần ở VN, Nhị Nương có tên là CẨM. Do đó trong lễ Hội Yến Diêu Trì Cung, bài thài hiến lễ Nhị Nương khởi đầu bằng chữ “CẨM”:
CẨM tú văn chương hà khách đạo?
Thi thần tửu thánh vấn thùy nhân?
Tuy mang lấy tiếng hồng quần,
Cảnh tiên còn mến, cõi trần anh thư.
SỰ TÍCH:
Bài thài của Nhị Nương có câu: "Cẩm Tú văn chương hà khách đạo?" Cẩm Tú hay Cẩm Bửu (Cambhupura) là công trình văn hoá lớn của người khách Đạo (bạn đạo nước ngoài) tên là Jyeshthâryâ, người Thủy Chân Lạp. Nước Thủy Chân Lạp (Theo truyền thuyết, vị thần dựng nước Chân Lạp tên Kambu, nên tên nước là Kambujâ tức Chân Lạp, Pháp dịch Cambodge, Cambhu là Cẩm Bửu, Pura là thành thị. Tên ghép là thành thị Cẩm Bửu) gồm lưu vực sông Mékong và Miền Nam VN ngày nay. Lúc ấy bị chia làm nhiều khu vực do các vị Hoàng thân và tướng lãnh Phù Nam thống trị.
Nữ Vương Jyeshthâryâ là cháu 3 đời của Quốc Vương INDRAKOLA cai trị vùng đất quanh tỉnh Kratié ngày nay, đồng thời với vua Jayavarman II (802-850). Năm 803, Nữ Vương xây một ngôi tháp ở Cambhupura, là đế đô cũ của vua Mahendravarman (600-615). Kiến trúc của tháp nầy ảnh hưởng đạo Bà La Môn, nét hoa văn trang trí trên tháp như cẩm tú (như gấm như thêu). Bà thật xứng đáng bậc anh thư Chân Lạp.
"Tuy mang lấy tiếng hồng quần,
Cảnh tiên còn mến, cõi trần anh thư"
Nữ Vương theo Bà La Môn, tôn thờ các đấng Bhrama, Christna, Civa mà Đạo Cao Đài tạc tượng thờ trên nóc Bát Quái Đài. Ngươn linh của Bà là Nhị Nương ở cung Diêu Trì, có phận sự bảo hộ và phổ độ dân Cao Miên (Campuchia) theo Đạo mới. Nhờ vậy, mà việc phá rừng xây cất Toà Thánh trong buổi đầu mới thành tựu được.
3. TAM NƯƠNG:
Tam Nương cầm quạt Long Tu phiến,y phục màu xanh đón tiếp các chư hồn đến tầng trời thứ ba là Thanh Thiên, thả thuyền Bát Nhã nơi bể khổ, đưa các chơn hồn có đủ phước đức qua khỏi bến mê sang bờ giác, qui hồi cựu vị.
Trong một kiếp giáng trần ở Việt Nam, Tam Nương có tên là TUYẾN. Do đó Bài thài hiến lễ Tam Nương trong Lễ Hội Yến Diêu Trì Cung có chữ khởi đầu là “TUYẾN”:
TUYẾN đức năng thành đạo,
Quảng trí đắc cao huyền.
Biển mê lắc lẻo con thuyền,
Chở che khách tục, cửu tuyền ngăn sông.
SỰ TÍCH:
Tam Nương rất quảng trí xuất hiện trần gian để độ thế, thường Cô chỉ mặc áo tràng trắng có viền kim tuyến (giống áo Chức sắc Nữ phái): "Tuyến đức năng thành đạo", mỗi khi Cô hiển hiện. Thế nên người đời thường gọi Cô là Bà Kim Tuyến.
Người ta còn truyền lại: Khi Nguyễn Hồng rời bỏ họ Trịnh, từ Thăng Long vào miền Trung tìm nơi đóng đô chưa được, thì may thay gặp một bà già mặc áo quần trắng có viền kim tuyến trên một ngọn đồi. Bà trao cho Nguyễn Hoàng một nén hương đang cháy và dạy:
- Ngươi hãy cầm nén hương nầy mà đi, bao giờ hương tắt thì đó là nơi đóng đô.
Theo lời dạy, khi nhang tàn, quả nhiên Nguyễn Hoàng thấy trước mắt một vùng núi sông hiền hòa (sông Hương núi Ngự). Thế nên Nguyễn Hoàng quyết chọn làng Phú Xuân (nay là Huế) làm kinh đô.
Để nhớ ơn bà già tặng nhang, Nguyễn Hoàng cho xây dựng trên ngọn đồi nầy một ngôi chùa. Đó là chùa Thiên Mụ bên sông Hương. Trong chùa có tháp Phước duyên làm biểu tượng của Huế, có tượng thờ Đức Di Lạc; nổi tiếng nhứt là tiếng chuông Thiên Mụ (Thiên Mụ là người đàn bà ở cõi Trời). Vì thế, Bà giáng hạ có phận sự độ khách tục khỏi biển mê và cửu tuyền vì giáo lý Cao Đài dạy: Vô Địa ngục, Vô Quỉ quan.
"Biển mê lắc lẻo con thuyền,
Chở che khách tục cửu tuyền ngăn sông".
Bà Tam Nương ở Cung Diêu Trì có phận sự phổ độ lương dân miền Trung và Nam Trung phần VN theo Đạo mới.
4. TỨ NƯƠNG:
Tứ Nương cầm Kim Bảng,y phục màu đỏ, hướng dẫn các chơn hồn đến tầng trời thứ tư là Huỳnh Thiên, làm giám khảo tuyển chọn các văn tài trong mỗi khoa thi. Ai hiền đức và học giỏi, Cô mới cho đỗ đạt.
Trong một kiếp giáng trần ở Việt Nam, Tứ Nương có tên là GẤM. Do đó Bài thài hiến lễ Tứ Nương trong Lễ Hội Yến Diêu Trì Cung có chữ khởi đầu là “GẤM”:
GẤM lót ngõ chưa vừa gót ngọc,
Vàng treo nhà, ít học, không ưa.
Đợi trang nho sĩ tài vừa,
Đằng giao khởi phụng chẳng ngừa Tiên thi.
SỰ TÍCH:
Vào năm 1655, Chúa Nguyễn sai Nguyễn Hữu Tiến, Nguyễn Hữu Dật đem quân vượt Sông Gianh ra Bắc đánh quân Trịnh. Trịnh Đào thua chạy về An Trường (nay là Nghệ An).
Quân Nguyễn thừa thắng đuổi theo chém giết vô kể, rồi chiếm Nghệ An. Cô Lê Ngọc Gấm sanh trong một gia đình thủ công nghệ bị chết trong cảnh loạn quân đó, lúc đó mới 9 tuổi. Linh hồn Cô phảng phất và tá túc ở Đền Sòng (Thanh Hóa nơi thờ Bà Liễu Hạnh).
Năm 1705, Cô chuyển kiếp vào nhà họ Lê ở Văn Giang, ông Hương Cống Lê Doãn Nghi nằm mộng thấy linh thần tặng cho họ Đoàn nên đổi từ họ Lê sang họ Đoàn. Ông Nghi lập gia đình, sau sinh được hai người con đều hay chữ là Tiến sĩ Đoàn Doãn Luân và bà Đoàn Thị Điểm. Như vậy cô Gấm là tiền thân của bà Đoàn Thị Điểm.
Bà bẩm sinh tư chất thông minh, văn hay chữ tốt, một giai nhân khiêm cung đức độ, được vậy là nhờ bà là chơn linh của Tứ Nương. Dưỡng phụ Bà là Thượng thư Lê Anh Tuấn tiến cử Bà vào cung Chúa Trịnh, nhưng bình sanh Bà không ưa cảnh quan quyền nên khước từ.
Bà dốc hết tâm trí vào việc trau dồi văn chương cho được "Đằng giao khởi phụng". Bà mở trường dạy học và dạy nữ công (nên tượng Tứ Nương cầm cây Kim Bảng). Bà chế ra hai cái túi: Một cái thêu kiểu tam hữu (tùng, trước, mai) và một cái thêu kiểu Bát Quái, ám chỉ Bà là Tiên nữ.
Năm 1727, Cha mất, Bà cùng mẹ về Hưng yên, nơi anh bà là Đoàn Doãn Luân đang dạy học. Ông Luân thường bày nhiều cuộc xướng hoạ để thử tài Bà. Một hôm, ông lấy chữ trong Sử Ký nói về Hán Cao Tổ để bà đối lại.
Bạch xà đương đạo, Quí bạt kiếm nhi trảm chi.
(Con rắn trắng đón đường, Ông Quí rút gươm ra chém.
Bà liền dùng một câu nguyên văn trong Sử ký (sách của Tư Mã Thiên) thuộc đời Ngu Thuấn nói về ông Hạ Vũ để đối lại:
Hoàng long phụ châu, Vũ ngưỡng thiên nhi thán viết.
(Con rồng vàng đội thuyền, ông Vũ nhìn trời mà than).
Còn nhiều giai thoại giữa ông Luân và Bà, và nhiều thi nhân khác. Nhiều người giàu có đỗ đạt nghe tiếng muốn cầu hôn đều bị bà khước từ và cho họ là bọn học vẹt, chớ không có thực tài văn chương như Tiến sĩ Nguyễn Công Thái, Nhữ Đình Toản. Thật đúng với hai câu:
"Gấm lót ngõ chưa vừa gót ngọc,
Vàng treo nhà ít học không ưa".
Bà chỉ ước mong có một người tài ba là Nguyễn Kiều đỗ Tiến sĩ lúc 21 tuổi, văn võ song toàn.
"Đợi trông nho sĩ tài vừa,
Đằng giao khởi phụng chẳng ngừa tiên thi".
Nhưng mãi đến năm bà 37 tuổi, ông Nguyễn Kiều mới xin cầu hôn với bà. Năm 1748, Nguyễn Kiều được bổ làm Tham Thị ở Nghệ An, Bà xuống thuyền theo chồng đến Đền Sòng (dưới chân núi Sùng), nơi thờ bà Công chúa Liễu Hạnh, Bà bị cảm nặng và mất ở đó vào ngày 11-9-1748, nhập vào chơn linh nàng Gấm. Đó là ngày tái hợp mà nàng Gấm đã hẹn với bà Liễu Hạnh (vốn là Ngũ Nương Diêu Trì Cung). Ông Nguyễn Kiều thương tiếc làm bài văn tế như sau:
"Ô hô! Hỡi nàng!
Huệ tốt, lan thơm,
Phong tư lộng lẫy, cử chỉ đoan trang,
Nữ đức trọn vẹn, tài học ngỡ ngàng.
Giáo mác, ấy bàn luận;
Gấm vóc, ấy văn chương;
Nữ trung hiếm có như nàng:
v.v.." (Hoàng Xuân Hãn, Chinh phụ Ngâm bị khảo).
Bà vốn là Tứ Nương Diêu Trì Cung, có phận sự mở kiến thức khiếu linh quang cho nhơn loại và nâng đỡ người sống như linh hồn được linh hoạt hay linh hiển để học hỏi giỏi giang ở tại cõi đời hoặc cõi vô hình.
Bà có phận sự phổ độ những nho sĩ, những người văn chương khoa bảng thành thị Bắc phần VN theo Đạo mới.
Bà Đoàn Thị Điểm đã giáng cho nhiều Kinh Thế Đạo như các bài: Kinh tụng khi Vua thăng hà, Kinh tụng khi Thầy qui vị, Kinh Cầu Tổ phụ đã qui liễu, Kinh tụng Cha mẹ đã qui liễu, Kinh cầu bà con thân bằng cố hữu đã qui liễu, Kinh tụng Huynh đệ mãn phần, Kinh tụng khi chồng qui vị, Kinh tụng khi vợ qui liễu. Cộng chung là 8 bài.
Nhất là tập NỮ TRUNG TÙNG PHẬN, theo thể thơ song thất lục bát (giống như tác phẩm Chinh phụ ngâm bà làm khi còn sống) gồm 350 vế, 1400 câu, thêm câu kết là 1401 câu: "Đời đời danh chói Cao Đài"
5. NGŨ NƯƠNG:
Ngũ Nương cầm cây Như Ý,y phục màu đỏ, tiếp dẫn các chơn hồn đến tầng trời thứ năm trong Cửu Trùng Thiên là tầng Xích Thiên. Nơi đây, chơn hồn được hướng dẫn đến Chiếu Giám Minh Cảnh Đài để xem rõ ràng các tội phước mà mình đã gây ra trong suốt kiếp sanh nơi cõi trần, rồi đến Cung Ngọc Diệt Hình để mở quyển Kinh Vô Tự cho chơn hồn thấy rõ quả duyên của mình.
Trong một kiếp giáng trần ở Việt Nam, Ngũ Nương có tên là LIỄU. Do đó Bài thài hiến lễ Ngũ Nương trong Lễ Hội Yến Diêu Trì Cung có chữ khởi đầu là “LIỄU”:
LIỄU yểu điệu còn ghen nét đẹp,
Tuyết trong ngần khó phép so thân.
Hiu hiu nhẹ gót phong trần,
Đài sen mấy lượt gió thần đưa hương.
SỰ TÍCH:
Vào đời Hậu Lê, năm 1557 ở thôn Thái An, tình Nam Định, có nhà họ Lê, vợ mắc bệnh suy nhược không sinh đẻ được.
Một hôm, có một vị đạo sĩ đến nhà xin trị bịnh, bằng cách cho người chồng là Lê Thái Công đánh thiếp lên Thiên đình. Ông Lê Thái Công tình cờ thấy công chúa Quỳnh Hương lỡ tay làm bể chén ngọc, nên bị Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế đày xuống trần. Khi xả đồng tỉnh lại, Lê Thái Công được tin vợ sanh được một người con gái đẹp như tiên giáng trần, đặt tên là Liễu Hạnh.
"Liễu yểu điệu còn ghen nét đẹp"
Năm 1578, đột nhiên Cô Liễu "hiu hiu nhẹ gót phong trần" bỏ xác phàm trở về thượng giới trong khi chưa hết hạn làm khách trần chuộc tội. Thế nên sau đó Đức Thượng Đế ra lịnh Cô xuống trần lần nữa. Chính lần nầy Cô gặp Cô Gấm (Tứ Nương). Để công phổ độ sớm hoàn thành, Cô đi khắp vùng Bắc phần và Bắc Trung phần VN để giúp nhơn sanh. Cô xuất hiện giữa ban ngày ở vùng Phố Cát (Thanh Hoá) và nhiều nơi khác.
Để tỏ lòng biết ơn Bà, dân chúng xây đền thờ Bà ở nhiều nơi như: Phủ Giầy (Nam Định), Đền Sòng, Phố Cát (Thanh Hóa), Đền Sùng Sơn (Hà Nội).
Triều đình nghe danh phong tặng Bà là "Thượng đẳng Phúc Thần" (Thần ban phúc). Nhân dân gọi Bà là Mẫu Liễu, lễ vía vào ngày 3-3 Âm lịch.
Đến cuối đời Hậu Lê, một vị quan nằm mộng thấy Bà Liễu lên xe mây về trời. (Hoàng Trọng Miên, Việt Nam văn Học toàn thư. Sài Gòn 1959)
Bà là Ngũ Nương ở Cung Diêu Trì, có phận sự phổ độ nhơn sanh đồng bằng Bắc phần và Bắc Trung phần VN theo Đạo Cao Đài.
6. LỤC NƯƠNG:
Lục Nương cầm phướn truy hồn,y phục màu đỏ, tức là phướn Tiêu Diêu, độ dẫn khách trần, và tiếp đón các chơn hồn đến tầng trời thứ sáu là Kim Thiên, đưa chơn hồn đến Đài Huệ Hương xông thơm chơn thần, trỗi nhạc Thiên thiều đưa chơn hồn lên cõi Niết Bàn.
(Painting, c.1485. Source: http://en.wikipedia.org/wiki/Joan_of_Arc)
Lục Nương giáng trần ở nước Pháp là Thánh Nữ Jeanne d’Arc (1412-1431), một vị Nữ Anh hùng cứu nguy nước Pháp, sau đó lại giáng sanh ở Việt Nam có tên là HUỆ.
Do đó Bài thài hiến lễ Lục Nương trong Lễ Hội Yến Diêu Trì Cung có chữ khởi đầu là “HUỆ”:
HUỆ ngào ngạt đưa hơi vò dịu,
Đứng tài ba chẳng thiếu tư phong.
Nương mây như thả cánh hồng,
Tiêu diêu phất phướn, cõi tòng đưa Tiên.
SỰ TÍCH:
Cô Hồ Thị Huệ là hậu thân của bà Jean D'Arc, theo Thánh giáo: Jean D'Arc (1412-1431) tự là Pucelle d'Orléans, nữ anh hùng nước Pháp, sanh ở Domreny (biên giới tỉnh Lorraine và Champagne). Bà thuộc gia đình nông dân, hiếu thảo vẹn toàn. Năm 13 tuổi (1428) trong lúc chăn cừu, Bà nghe tiếng nói thiêng liêng giục Bà cứu Hoàng Thái tử Charles VII và giải nguy cho nước Pháp.
Quân Anh vây Orléans, khi sắp hạ thành thì Bà xuất hiện (30-4) với một đội quân dũng cảm. Ngày 8-5, Bà đánh bại quân Anh. Nhờ đó, nhân dân Pháp vùng dậy tràn đầy hy vọng, thừa thắng xông lên. Sau đó Bà rước vua Charles VII về Rêm (Reims) để làm lễ tấn phong theo tục lệ bấy giờ. Năm 1430, Bà không chịu được thái độ của bọn cựu thần và cũng vì chán sống cảnh an nhàn sa đọa của triều đình phong kiến, Bà lại ra quân giải vây thành Compiègne. Bà bị quân Burgundian bắt, bán lại cho người Anh.
Bà bị giam cầm khổ sở. Sau cùng, tôn giáo pháp đình của người Anh kết án Bà là tà giáo phải bị hỏa thiêu vào ngày 30-5-1431 tại Rouen. Năm ấy Bà mới có 19 tuổi.
Bà Jeanne d'Arc là anh hùng nông dân Pháp, một biểu tượng trong sạch từ thể xác tới tinh thần. Sự xuất hiện của Bà chứng tỏ rằng sứ mạng của bọn quý tộc phong kiến và võ sĩ đã chấm dứt.
Năm 1920, lễ kỷ niệm Bà được nhân dân Pháp tôn vinh là quốc lễ. Bà là Lục Nương, có phận sự bảo hộ và phổ độ dân tộc Pháp theo Đạo mới. Bà đã phổ độ nhà văn Gabriel Gobron đắc phong Tiếp Dẫn Đạo Nhơn và nhiều người khác.
Sau Bà Jeanne d'Arc chuyển kiếp đầu thai ở Việt Nam tên là Hồ Thị Huê (hay Hoa) sanh năm 1790, con của ông Khâm sai Hồ Văn Vui và bà Hoàng Thị, người huyện Bình An, tỉnh Biên Hòa.
Lăng mộ họ Hồ hiện ở gần thị trấn Thủ Đức. Chính Bà đã phổ độ ông huyện Thơ ở Thủ Đức (sau đắc phong Đầu Sư) và hướng dẫn Đức Hộ pháp hành pháp tại Long Vân Thánh Tịnh (gần cây mùa cua Thủ Đức) trong buổi đầu khai Đạo.
Năm Bính Dần niên hiệu Gia Long thứ 5 (1805), Thế Tổ Cao Hoàng Đế và Hoàng hậu lựa chọn Bà Hồ Thị Huệ làm phối thất cho vua Minh Mạng.
Bà có đủ các đức (tư phong): Thục, Thuận, Hiền, Trinh, hết đạo hiếu kính. Vua Thế Tổ khen ngợi đặt tên là Thật. Thế Tổ bảo: Phi nguyên tên là Huệ, hoa thì chỉ nghe thơm mà thôi, chi bằng chữ Thật, Thật là gồm có quả phúc, nên trong bài thài có hai câu:
"Huệ ngào ngạt đưa hơi vị diệu,
Đứng tài ba chẳng thiếu tư phong"
Tháng 5-1807, Bà sinh ra Thiệu Trị được 13 ngày thì Bà băng, lúc mới 17 tuổi: "Nương mây như thả cánh hồng".
Bà là Lục Nương ở Cung Diêu Trì có phận sự phổ độ những người trong Hoàng tộc theo Đạo mới, như bà Từ Cung, mẹ của vua Bảo Đại. Bà Từ Cung được ân phong Phối sư Nữ phái. (xem thêm tiểu sử của Bà Lục nương)
Trong đàn đêm 24-2-1934 tại Tòa thánh, phò loan Hộ pháp - Tiếp thế, Lục Nương giáng cho biết bà là Jeanne d'Arc.
Trong một đàn khác, vào ngày 22-9-1934 phò loan Hộ pháp Tiếp đạo. Bà Jeanne d'Arc giáng dạy Đạo cho Bà Perreux như sau:
"Bonjour ma chère compatriote (Mme Perreux).
Je viens pour vous, par les prières sincères de nos frères en esprit".
Mme Perreux demande des explications sur la nouvelle religion, òu il y a des dames dignitaires.
"Oui, c'est la seule religion qui octroie aux femmes un pouvoir spirituel à peu près égal à celui des hommes. Elle mettra en vue une justice que la chrétienté a niée depuis longtemps ……"
(Les messages spirites Tây Ninh 1962 trang 103)
[Thanh Mai dịch:]
“Xin chào nữ đồng bào thân mến của Ta [bà Perreux].
Ta giáng vì các huynh đệ, do lời cầu nguyện thành tâm của các huynh đệ.”
[Bà Perreux xin Thánh nữ Jeanne d'Arc giải thích về nền tôn giáo mới có các nữ chức sắc.]
“Phải. Đây là nền tôn giáo duy nhất ban cho phái nữ một quyền năng tâm linh ngang bằng với phái nam. Nền đạo này cho thấy một sự công bằng mà đạo Thiên Chúa đã từ bỏ lâu rồi...”
(Thánh ngôn Tây Ninh 1962, trang 103)
Trong đêm Hội Yến Diêu Trì Cung đầu tiên (15-8 Ất Sửu, dl 1-9-1925), Lục Nương mời 3 Thiên sứ liên ngâm để dạy đạo.
Lục Nương:
Trót đã đeo mang cái nợ đời,
Gánh đời nặng lắm khách trần ơi.
Cao Quỳnh Cư:
Oằn vai thần đạo non sông vác,
Chịu kiếp trần ai gió bụi vùi.
Phạm Công Tắc:
Thương hải tang điền xem lắm lúc,
Công danh phú quí nhắm trò chơi.
Cao Hoài Sang:
Ở đời mới hẳn rằng đời khó,
Khó một đôi năm, dễ khó đời.
Lục Nương:
Ở thế sao chê tiếng thế buồn,
Buồn vui hai lẽ lấy chi đong.
Cao Quỳnh Cư:
Cân đai tuế nguyệt trêu hồn bướm,
Tên tuổi phong ba lắm bụi hồng.
Phạm Công Tắc:
Chiếc bách dập dồn dòng bích thủy,
Phồn hoa mờ mệt giấc huỳnh lương.
Cao Hoài Sang:
Bờ dương chừ đặng phong trần rảnh.
Quảy gánh thơ đàn dạo bốn phương.
Khi tái cầu, Lục Nương cho bài thi như sau:
Im lìm cây cỏ vẫn in màu,
Mờ mệt vườn xuân điểm sắc thu.
Gió dậy xao trời mây cuốn ngọc,
Sương lồng ướt đất liễu đeo châu.
Ngựa vàng ruổi vó thoi đưa sáng,
Thỏ ngọc trau gương dậm vẻ làu.
Non nước đìu hiu Xuân vắng chúa,
Nhìn quê cảnh úa giục cơn sầu.
7. THẤT NƯƠNG:
Thất Nương cầm bông sen,y phục màu vàng, hướng dẫn các chơn hồn đến tầng trời Hạo Nhiên Thiên để bái kiến Đức Chuẩn Đề Bồ Tát.
Thất Nương là vị Nữ Tiên đầu tiên giáng bàn (thuở còn xây bàn) dùng thi văn để dẫn dắt các vị nguyên căn vào cửa Đạo làm môn đệ cho Đức Chí Tôn, để sau này các vị ấy trở thành tướng soái cho Chí Tôn mở Đạo.
Thất Nương lại để lòng từ bi tình nguyện lãnh lệnh Ngọc Hư Cung đến cõi âm quang để giáo các nữ tội hồn, để họ sớm thức tỉnh mà được tái kiếp trả cho xong căn quả và lo tu hành lần về cựu vị.
Trong một kiếp giáng trần gần đây nhứt, Cô có tên là Vương Thị Lễ, sanh năm 1900 tại Chợ Lớn, con của ông Vương Quan Trân và bà Đỗ Thị Sang (con gái của Tổng Đốc Phương ). Ông Vương Quan Trân làm Đốc phủ, là anh ruột của ông Vương Quan Kỳ, đắc phong Giáo Sư Thượng Kỳ Thanh ở Thánh Thất Cầu Kho. Cô Lễ bị bạo bệnh mất năm 18 tuổi.
(Ảnh tài liệu tamgiaodongnguyen.com)
Bài thài hiến lễ Thất Nương trong Lễ Hội Yến Diêu Trì Cung có chữ khởi đầu là “LỄ”:
LỄ bái thường hành tâm đạo khởi,
Nhân từ tái thế tử vô ưu.
Ngày xuân gọi thế hảo cừu,
Trăm duyên phước tục, khó bù buồn Tiên.
SỰ TÍCH:
Cô Vương Thị Lễ sanh năm 1900 tại Chợ Lớn, con ông Vương Quan Trân (anh ruột giáo sư Vương Quan Kỳ) và bà Đỗ Thị Sang (con gái của ông Tổng đốc Đỗ Hữu Phương).
Nhà họ Đỗ sanh con khó nuôi, nên phải ra tận Huế thỉnh lư hương của Bà Cửu Thiên Huyền Nữ (tức Phật Mẫu) về thờ để mong phò hộ. Nhờ đó cô Vương Thị Lễ được nuôi lớn. Nhưng đến năm 18 tuổi Cô “phủi nợ xuống tuyền đài”.
Theo lời của Đức Hộ pháp thuật lại thì tiền kiếp của cô Lễ là một vị công chúa, con một vị vua. Trong triều có một vị quan yêu cô, nhưng vì môn đăng hộ đối không lấy được cô nên vị quan bị thất tình mà chết.
Đến kiếp này, cô đầu thai vào gia đình họ Vương, đang theo học trường Sainte Enfance đến trình độ Brevet Elémentaire (Trung học Pháp), có nhiều danh gia vọng tộc đi hỏi cưới mà cô không chịu, sau Cô mắc phải bệnh ngặt nghèo, chạy đủ thầy mà không hết. Thân mẫu cô mới truyền rao ai cứu được cô thì gả cho người ấy.
Lúc đó có một ông thầy thuốc tây, học ở Hà Nội (Médecin Indochinois) mới bổ lên Saigon. Gia đình có rước đến chữa khỏi bịnh cho cô. Cô biết vị lương y nầy là ông quan trẻ thầm yêu cô trước kia vì “nợ ba sinh” mà hai người cùng đầu kiếp để nên nghĩa vợ chồng.
Song, thân mẫu Cô quên lời hứa, chỉ trả tiền cho thầy thuốc rồi thôi. Riêng cô vẫn giữ dạ keo sơn rồi trở bệnh cho đến chết.
8. BÁT NƯƠNG:
Bát Nương cầm giỏ Hoa Lam, y phục màu vàng , dày công giáo hóa và xây dựng Đạo Cao Đài buổi sơ khai, có phận sự độ rỗi các nguyên nhân còn tại thế, nhứt là nữ phái, tiếp đưa các chơn hồn đến tầng trời Phi Tưởng Thiên bái kiến Đức Từ Hàng Bồ Tát. Ai có việc chi cầu khẩn với Bát Nương thì được đắc nguyện một cách linh hiển.
Tại Báo Ân Đường Kiêm Biên (Nam Vang), Đức Phạm Hộ pháp phò loan, Bát Nương giáng cơ cho bài Phật Mẫu Chơn Kinh để cúng Đức Phật Mẫu. Đây là một bài kinh vô cùng quan trọng của Đạo Cao Đài, cho biết quyền năng của Phật Mẫu, mà từ thuở xưa tới giờ chưa có bài kinh nào như vậy.
Bát Nương cùng Đức Cao Thượng Phẩm luân phiên giáng cơ dạy về Luật Tam Thể và Diêu Trì Cung, tạo thành một tài liệu học đạo rất quý báu.
Bát Nương giáng trần ở nước Trung Hoa vào thời nhà Tây Hán, có tên là Hớn Liên Bạch (họ là Hớn, tên là Liên Bạch có nghĩa là hoa sen trắng), sau đó lại giáng trần nơi nước Việt Nam, sanh vào nhà họ Hồ.
Do đó Bài thài hiến lễ Bát Nương khởi đầu bằng chữ HỒ HỚN là hai họ: Họ Hồ và họ Hớn, hoa sen trắng là Liên Bạch, tên Cô:
HỒ HỚN HOA SEN TRẮNG nở ngày,
Càng gần hơi đẹp lại càng say.
Trêu trăng hằng thói dấu mày,
Cợt mây tránh chức Phật đài thêm hoa.
Bát Nương giáng cơ dạy về Diêu Trì Cung:
(Phò Loan: Thừa sử Phước, Luật sự Nhung.
Hầu Đàn: Luật sự Ảnh, Hợi, Tiếp, Tú, Hưỡng, Cao, Trường, Khoe.)
Bát Nương. Chị chào mấy em,
Đêm nay Chị đến đặng chỉ cho mấy em được rõ Diêu Trì Cung là nơi nào?
Nơi Ao Diêu Trì có một đài phát hiện Âm quang, đài ấy thâu lằng sanh quang của Ngôi Thái Cực, rồi đem Dương quang hiệp với Âm quang mà tạo nên Chơn thần cho vạn linh trong càn khôn vũ trụ.
Phật Mẫu là Đấng nắm cơ sanh hóa, thay quyền Chí Tôn, đứng ra thâu cả Thập Thiên Can đem hiệp với Thập Nhị Địa Chi mà tạo nên vạn vật. Nơi Cung Diêu Trì là nơi tạo nên Chơn thần và thể xác đó vậy.
Diêu Trì Cung là cung điện bằng ngọc Diêu ở bên Ao Thất Bửu chớ chẳng chi lạ. Ngọc tượng trưng cho sự quý giá, còn Diêu là chất hơi kết tụ mà thành.
Dưới quyền của Phật Mẫu có Cửu Tiên Nương trông nom về cơ giáo hóa cho vạn linh, còn ngoài ra có hằng hà sa số Phật, trông nom về cơ phổ độ mà Quan Âm Bồ Tát là đấng cầm đầu.
Quan Âm Bồ Tát ngự tại Cung Nam Hải ở An Nhàn Động. Còn Diêu Trì Cung thì ở tại Tạo Hóa Huyền Thiên.
Nơi Cung Diêu Trì còn có một cõi Âm quang riêng biệt gọi là Phong Đô đặng giáo hóa các chơn thần đã bị lạc nẽo trên đường trần.
Vậy vắn tắt hơn, Diêu Trì Cung là cơ sanh hóa vạn linh và vạn vật đó. Chị sẽ đến dạy thêm vào kỳ tới.
Chị xin kiếu.
9. CỬU NƯƠNG:
Cửu Nương cầm ống tiêu,y phục màu xanh , có phận sự giác ngộ các chơn hồn bị đọa lạc nơi trần thế, tiếp dẫn các chơn hồn lên đến tầng trời Tạo Hoá Thiên, tầng thứ chín trong Cửu Trùng Thiên để bái kiến Đức Phật Mẫu.
(Ảnh tài liệu tamgiaodongnguyen.com)
Trong một kiếp giáng trần gần đây nhứt, Cửu Nương có tên là Cao Thị Khiết (Kiết), sanh năm Bính Thân (1895) tại Bạc Liêu, con của ông Đốc Phủ sứ Cao Minh Thạnh và bà Tào Thị Xúc. Cô là con gái út thứ 9, người anh ruột thứ 6 là ông Cao Triều Phát. Cô mất năm Canh Thân (1920) hưởng dương được 25 tuổi. Mộ của Cô vẫn còn tại Bạc Liêu, cách thị xã Bạc Liêu chừng hơn 2 cây số về hướng đi Vĩnh Châu. Mộ làm bằng đá xanh, rất kiên cố, xây giữa đồng ruộng, trong khu đất dành làm nghĩa trang của dòng học Cao ở Bạc Liêu.
Bài thài hiến lễ Cửu Nương trong Lễ Hội Yến Diêu Trì Cung:
KHIẾT sạch duyên trần vẹn giữ,
Bạc Liêu ngôi cũ còn lời.
Chính chuyên buồn chẳng trọn đời,
Thương người noi Đạo, Phật Trời cũng thương.
Tóm lại, Cửu Vị Tiên Nương trông nom về cơ giáo hóa vạn linh. Tất cả các nghề hay, nghiệp khéo, về nữ công, hoặc về cầm, kỳ, thi, họa, cùng là triết học văn chương, đều thuộc về phần nhiệm của Cửu vị Tiên Nương giáo hóa và un đúc cho thành tài.
Ngày nay, thời Tam kỳ Phổ độ, Cửu vị Tiên Nương đã đắc thành Phật vị, gọi là Cửu vị Nữ Phật. Nhưng khi cúng Đức Phật Mẫu nơi Báo Ân Từ hay Điện Thờ Phật Mẫu, chúng ta vẫn còn niệm: NAM MÔ CỬU VỊ TIÊN NƯƠNG, là để ghi nhớ công đức của Chín Cô trong thời kỳ khai Đạo Cao Đài.
TẢ CHÍN VỊ TIÊN NỮ
Một mày liễu trong ngần đóa ngọc,
Hai má đào phải trọng tiết trinh.
Mảnh thân trọn hiếu thâm tình,
Phải hình thục nữ, phải gìn căn duyên.
Ba yểu điệu thuyền quyên vóc hạc,
Bốn mỹ miều đài các trâm anh.
Khi vui bóng nguyệt rọi mành,
Khi dòng bích thủy, khi cành hoa xuân.
Năm phận gái hồng quần đáng mặt,
Sáu vẹn toàn quốc sắc thiên hương.
Vào ra phụng trướng loan đường,
Vào ra ngọc các cẩm tường xem hoa.
Bảy trau chuốt thân ngà mặt ngọc,
Tám chín phần rèn tập nữ nhi.
Chung lo mối Đạo Tam Kỳ,
Giúp nhà Nam Việt kịp thì Long Hoa.
BÁT NƯƠNG
(25-4 Canh Dần 10-6-1950. Trích Thánh giáo Luật Tam thể Tây Ninh)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét