KINH PHẬT MẪU
(Tòa Thánh Bến Tre - Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo năm 1993)
Từ hỗn độn Chí Tôn hạ chỉ,
Cho Thiếp quyền quản Khí Hư Vô,
Lấy Âm quang tạo khách tăng đồ,
Muôn vật cả lo cho sanh hóa.
Nuôi nấng lấy xác thân hòa hỏa,
Thuận Âm Dương căn quả hữu vi,
Chưa ai vào đến cõi trần nầy,
Chẳng thọ lấy Chơn Thần tay Thiếp.
Sanh dưỡng đã biết bao căn kiếp,
Rồi dắt dìu cho hiệp với CHA.
Kìa mớm cơm vú sữa cũng là,
Sanh một kiếp người ta đáng mấy !
Dầu hài cốt trăm năm cũng vậy,
Khối tình thương chẳng lấy chi nhiều.
Huống tạo Thiên đùm bọc chắt chiu,
Sanh một đứa liều ngàn thế kỷ.
Chịu mất trẻ cũng vì Tà mị,
Cướp con thương bỏ vị quên ngôi,
Ôi ! Thương đôi phen phải chịu ngậm ngùi,
Thấy thân trẻ nổi trôi biển khổ.
Trân trọng lấy hình hài dơ ố,
Còn Thiêng Liêng vô số tiếc thương,
Hằng trông mong con đặng phi thường,
Đem vào đặng con đường hằng sống.
Kể từ trước Thiếp là hình bóng,
Biết thương con chẳng mộng con thương,
Đạo dìu Đời bởi Thiếp lo lường,
Trên mới thuận khoan thương phổ tế.
Kể từ trước Đạo còn bị bế,
MẸ thương con chẳng thế dắt dìu,
Nay cõi trần nghiệp chướng giảm tiêu,
Ngọc Hư định đã nhiều phép cứu.
Thiếp từ đặng Phái Vàng Chí bửu,
Lịnh Chí Tôn khai mối Tam Kỳ,
Hằng ngày lo cho đám Nữ nhi,
Chẳng đủ trí sánh bì Nam tử.
Ơn nhờ có con là Long Nữ,
Đến thay thân Thiên sứ Từ Hàn,
Đùm bọc em rán bước một đàng,
Đặng cho MẸ dễ dàng cứu rỗi.
Kìa Cực Lạc Niết Bàn đem đổi,
Lấy thân phàm làm mối giải oan,
MẸ trông con về cảnh an nhàn,
Ở trần thế muôn ngàn sầu thảm.
Cõi Thiên vị cho con còn dám,
Huống dạy khuyên mô phạm căn tu,
Chỉ tiếc con chẳng rõ hiền ngu,
Đặng tự định công phu trọn phận.
Con thì đứa đường đời lận đận,
Con thì hay trở giận cơ mầu,
Mấy huyền vi nào hiểu cao sâu,
Cứ đeo đẳng mạch sầu nguồn thảm.
Con ví biết mình cao bực phẩm,
Thì phải toan cho dám phế đời,
Các em con chỉ để con ngươi,
Coi con bước mấy dời nối gót.
Lời cần yếu MẸ than cho trót,
Muốn dạy em, con chớ xa chừng,
Phải hằng ngày ở dựa bên lưng,
Nhắc từ chuyện, khuyên răn từ việc.
Cửu Nương vốn nhọc nhằn chẳng tiếc,
Chỉ trách con chưa biết nhập trường,
Phải hiểu rằng lòng MẸ hằng thương.
NAM MÔ DIÊU TRÌ KIM MẪU VÔ CỰC ĐẠI TỪ TÔN
TÁN-TỤNG CÔNG-ĐỨC DIÊU-TRÌ KIM-MẪU
(Hội Thánh - Tòa Thánh Tây Ninh năm 1992)
Kể từ hỗn-độn sơ khai,
Chí-Tôn hạ chỉ trước đài Linh-Tiêu.
Lưỡng-nghi phân khí hư-vô,
Diêu-Trì Kim-Mẫu nung lò hóa sanh.
Âm-Dương biến tạo chơn-thần,
Lo cho nhơn vật về phần hữu-vi.
Mớm cơm vú sữa cũng tay,
Dưỡng-sanh đùm bọc với tài chí công.
Xét vì nhơn vật lẽ đồng,
Chắt-chiu hằng để trọn lòng chung thương.
Chí mong hòa-hảo âm dương,
Thuận căn theo lối bước đường vẹn chơn.
Mẫu-Nghi hằng giữ lòng đơn,
Mảng lo cho trẻ đặng toàn mảnh thân.
Riêng thương Kim-Mẫu khóc thầm,
Biển trần thấy trẻ lạc-lầm bấy lâu.
Đòi phen Mẹ luống ưu sầu,
Cũng vì tà-mị dẫn đường con thương.
Đỉnh chung là miếng treo gương,
Khiến nên trẻ dại lạc đường quên ngôi.
Ngọt ngon trẻ nhiễm mến mùi,
Trẻ nào có biết khúc nôi đoạn-trường.
Ngồi trông con đặng phi thường,
Mẹ đem con đến tận đường hằng sanh.
Xưa con không thấu cội nhành,
Vì đường Đạo bế biệt cành hoa rơi.
Từ con cách Mẹ phương Trời,
Trầm-luân khổ-hải chơi-vơi sóng trần.
Dầu thương nhắm mắt đưa chơn,
Giờ nay gặp lối nghiệt trần giảm tiêu.
Ngọc-Hư định phép cũng nhiều,
Phái Vàng Mẹ lãnh dắt-dìu trẻ thơ.
Trước kia trẻ vẫn mịt-mờ,
Từ đây mới hản ơn nhờ Mẫu-Nghi.
Đắc truyền khai mối Tam-Kỳ,
Dưới tay cậy có Diêu-Trì Cửu Nương.
Chín cô đã sẵn lòng thương,
Mê tân độ chúng buồm trương thoát vòng.
Lục-Nương phất phướn truy hồn,
Tang-thương nay lúc bảo tồn chúng-sanh.
Bát-Nương thật đấng chí-linh,
Cùng chung giáo hóa ân cần lo âu.
Thất-Nương khêu đuốc Đạo đầu,
Nhờ Người gợi ánh nhiệm-mầu huyền-vi.
Môn sanh thiện niệm hằng ngày,
Cúi xin Kim-Mẫu muôn loài cứu ương.
Đê đầu khấu bái Nương-Nương,
Nén hương đạm bạc xin thương chứng lòng.
"Nam-Mô Tạo-Hóa Huyền-Thiên Diêu-Trì Kim Mẫu"
"Nam-Mô Tạo-Hóa Huyền-Thiên Cửu Vị Nữ-Phật".
PHẬT MẪU CHƠN KINH
(Hội Thánh - Tòa Thánh Cao Đài Tây Ninh)
Tạo Hóa Thiên Huyền Vi Thiên Hậu,
Chưởng Kim Bàn Phật Mẫu Diêu Trì.
Sanh quang dưỡng dục quần nhi,
Chơn linh phối nhứt thân vi Thánh hình.
Thiên cung xuất Vạn linh tùng pháp,
Hiệp Âm Dương hữu hạp biến sanh.
Càn Khôn sản xuất hữu hình,
Bát hồn vận chuyển hóa thành chúng sinh.
Cộng vật loại huyền linh đồ nghiệp,
Lập Tam Tài định kiếp hòa căn.
Chuyển luân định phẩm cao thăng.
Hư vô bát quái trị thần qui nguyên.
Diệt tục kiếp trần duyên oan trái,
Chưởng đào tiên thủ giải trường tồn.
Nghiệp hồng vận tử hồi môn,
Chí công định vị vĩnh tồn Thiên Cung.
Chủ Âm quang thường tùng Thiên mạng,
Độ chơn thần nhứt vãng nhứt lai.
Siêu thăng phụng liễn qui khai,
Tiên cung Phật xứ Cao Đài xướng danh.
Hội ngươn hữu Chi Linh huấn chúng,
Đại Long Hoa nhơn chủng hòa Ki (là cơ)
Tam kỳ khai hiệp Thiên thi,
Khoa môn Tiên vị ngộ kỳ Phật duyên.
Trung khổ hải độ thuyền Bát nhã,
Phước từ bi giải quả trừ căn.
Huờn hồn chuyển đọa vi thăng,
Cửu Tiên hồi phục Kim Bàn Chưởng Âm,
Thập Thiên Can bao hàm vạn tượng,
Tùng địa chi hóa trưởng Càn khôn.
Trùng huờn phục vị Thiên môn,
Ngươn linh hóa chủng quỉ hồn nhứt thăng.
Vô siêu đọa quả căn hửu pháp,
Vô khổ hình nhơn kiếp lưu oan.
Vô địa ngục, vô quỉ quan,
Chí Tôn đại xá nhứt trường qui nguyên.
Chiếu ngũ lịnh Từ Huyên thọ sắc,
Độ anh nhi nam, bắc, đông, tây.
Kỳ khai tạo nhứt Linh Đài,
Diệt hình tà pháp cường khai Đại Đồng.
Hiệp vạn chủng nhứt môn đồng mạch,
Qui thiên lương quyết sách vận trù.
Xuân Thu, Phất Chủ, Bát vu.
Hiệp qui Tam Giáo hữu cầu chí chơn
Phục nguyên nhơn huờn tồn Phật tánh,
Giáo hóa hồn hữu hạnh hữu duyên.
Trụ căn quỉ khí cửu tuyền,
Quản khai thiên thượng tạo quyền chí công
Lịnh Mẫu Hậu khai Tông định Đạo,
Ân dưỡng sanh đảm bảo hồn hài
Càn khôn Tạo Hóa sánh tài.
Nhứt triêu nhứt tịch kỉnh bài mộ khang.
"Nam mô Diêu Trì Kim Mẫu Tạo Hóa Huyền Thiên Cảm Bái"
"Nam mô Đại Từ Bi Năng Hỉ Xả Thiên Hậu, Chí Tôn, Đại Bi, Đại Ái"
KINH CỬU VỊ TIÊN NƯƠNG
(Tòa Thánh Bến Tre - Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo)
Đơn hoa khai chín từng linh hiển
Phép tiêu diêu linh điển dạy truyền
Chí thành mắt thấy diệu huyền
Thanh Vân giá ngự nhãn tiền dạy khuyên
Hoa Nhứt Nương bảo nguyên tâm tánh
Xui giục người xa lánh trần côi
Mở đường trí độ qui hồi
Cẩm Nương là lối đắp bồi quả căn
Người trần khổ như lằn điển chớp
Mảnh thân phàm là lớp tội tình
Chí công về cõi Thiên Đình
Gấm Nương là bạn đứng nhìn Cung-Diêu
Tuyến Tứ Nương giữ điều hoà nhã
Liễu Ngũ Nương giải quả trừ căn
Thường lo trợ bạn liễu bồ
Giúp Văn Tô Huệ thêu đồ Thiên-Cung
Huệ Lục Nương thung dung độ thế
Hạnh gương bày lưu để trần ai
Mỏi trông mắt ngó nữ tài
Hỡi người rạng mặt trên đài Thiên Hương
Lễ Thất Nương nhịn đường nhường bước,
Hớn Bát Nương đứng trước đài Tiên
Để tay dìu dắt nữ hiền
Cửu Nương quyết độ dứt miền trầm luân
Huệ Kiếm năng xây từng Đạo Đức
Cởi lòng mê rày dứt trái oan
Cầu xin Phật Mẫu cứu nàn
Cho con đoạt vị lên đàng Thiên cung
NAM MÔ CỬU VỊ TIÊN NƯƠNG TỪ BI PHỔ HOÁ CHÚNG SANH
DI LẠC CHƠN KINH
(Hội Thánh - Tòa Thánh Cao Đài Tây Ninh)
KHAI KINH KỆ
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp,
Bá thiên vạn kiếp nan tao ngộ.
Ngã kim thính văn đắc thọ trì,
Nguyện giải Tân Kinh chơn thiệt nghĩa.
THÍCH CA MÂU NI VĂN PHẬT thuyết
DI LẶC CHƠN KINH
THƯỢNG THIÊN HỖN-NGƯƠN hữu: Brahma Phật, Civa Phật, Christna Phật, Thanh-Tịnh Trí Phật, Diệu-Minh-Lý Phật, Phục Tưởng Thị Phật, Diệt Thể Thắng Phật, Phục-Linh-Tánh Phật, nhứt thiết chư Phật, hữu giác, hữu cảm, hữu sanh, hữu tử, tri khổ nghiệp chướng, luân chuyển hóa sanh, năng du ta bà thế giới độ tận vạn linh đắc qui Phật vị.
HỘI NGƯƠN-THIÊN hữu: Trụ-Thiện Phật, Đa Ái Sanh Phật, Giải Thoát Khổ Phật, Diệu-Chơn Hành Phật, Thắng-Giái Ác Phật, nhứt thiết chư Phật tùng lịnh DI LẶC VƯƠNG PHẬT, năng chiếu diệu quang tiêu trừ nghiệt chướng.
Nhược hữu chúng sanh văn ngã ưng đương thoát nghiệt, niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, tùng thị Pháp điều Tam-kỳ Phổ-độ, tất đắc giải thoát luân hồi, đắc lộ Đa-La Tam-Diệu Tam-Bồ-Đề, thị chi chứng quả Cực-Lạc Niết-Bàn.
Nhược nhơn đương sanh, nhược nhơn vị sanh, nhược nhơn hữu kiếp, nhược nhơn vô kiếp, nhược nhơn hữu tội, nhược nhơn vô tội, nhược nhơn hữu niệm, nhược nhơn vô niệm, thính đắc ngã ngôn, phát tâm thiện niệm, tất đắc A-Nậu Đa La Tam-Diệu Tam-Bồ-Đề, tất đắc giải thoát.
Nhược hữu nhơn thọ trì khủng kinh ma chướng, nhứt tâm thiện niệm: Nam Mô DI-LẶC VƯƠNG BỒ-TÁT, năng cứu khổ ách, năng cứu tam tai, năng cứu tật bịnh, năng độ dẫn chúng sanh thoát chư nghiệt chướng tất đắc giải thoát.
HƯ-VÔ CAO-THIÊN hữu: Tiếp-Dẫn Phật, Phổ-Tế Phật, Tây-Qui Phật, Tuyển Kinh Phật, Tế-Pháp Phật, Chiếu-Duyên Phật, Phong-Vị Phật, Hội-Chơn Phật, như thị đẳng hằng hà sa số chư Phật tùng lịnh NHIÊN-ĐĂNG CỔ PHẬT, dẫn độ chơn linh đắc Pháp, đắc Phật, đắc duyên, đắc vị, đắc A-Nậu Đa-La Tam-Diệu Tam-Bồ-Đề chứng quả nhập Cực-Lạc Quốc, hiệp chúng đẳng chư Phật tạo định Thiên-Thi tận độ chúng sanh đắc qui Phật vị.
Nhược hữu thiện nam tử, thiện nữ nhân, tu trì thính ngã dục đắc chơn truyền niệm thử NHIÊN-ĐĂNG CỔ PHẬT, thường du ta bà thế giới, giáo hóa chơn truyền, phổ tế chúng sanh giải thoát lục dục thất tình, thoát đọa luân hồi tất đắc giải thoát.
TẠO-HÓA HUYỀN-THIÊN hữu: Quảng-Sanh Phật, Dưỡng-Dục Phật, Chưởng Hậu Phật, Thủ-Luân Phật, dữ Cửu-Vị Nữ-Phật, như thị đẳng hằng hà sa số chư Phật, tùng lịnh KIM-BÀN PHẬT MẪU năng tạo năng hóa vạn linh, năng du ta bà thế giới dưỡng dục quần sanh qui nguyên Phật vị.
Nhược hữu thiện nam tử, thiện nữ nhân, thính ngã dục tu phát nguyện Nam Mô KIM-BÀN PHẬT MẪU dưỡng dục quần linh, nhược hữu sanh, nhược vị sanh, nhược hữu kiếp, nhược vô kiếp, nhược hữu tội, nhược vô tội, nhược hữu niệm, nhược vô niệm, hườn hư thi hình đắc A-Nậu Đa-La Tam-Diệu Tam Bồ-Đề, Xá-Lợi Tử qui nguyên Phật vị tất đắc giải thoát.
PHI-TƯỞNG DIỆU-THIÊN hữu: Đa-Pháp Phật, Tịnh-Thiện-Giáo Phật, Kiến Thăng Vị Phật, Hiển-Hóa-Sanh Phật, Trục Tà Tinh Phật, Luyện Đắc Pháp Phật, Hộ Trì Niệm Phật, Khai Huyền Cơ Phật, Hoán Trược Tánh Phật, Đa Phúc Đức Phật, như thị đẳng hằng hà sa số chư Phật, tùng lịnh TỪ-HÀNG BỒ-TÁT, năng du ta bà thế giới thi pháp hộ trì vạn linh sanh chúng.
Nhược hữu thiện nam tử, thiện nữ nhân, tín ngã ưng đương phát nguyện Nam Mô TỪ-HÀNG BỒ-TÁT, năng cứu tật bịnh, năng cứu tam tai, năng độ tận chúng sanh thoát ư tứ khổ, năng trừ tà ma, năng trừ nghiệt chướng, tất đắc giải thoát.
HẠO-NHIÊN PHÁP-THIÊN hữu: Diệt Tướnng Phật, Đệ Pháp Phật, Diệt Oan Phật, Sát Quái Phật, Định Quả Phật, Thành Tâm Phật, Diệt Khổ Phật, Kiên Trì Phật, Cứu Khổ Phật, Xá Tội Phật, Giải Thể Phật, như thị đẳng hằng hà sa số chư Phật, tùng lịnh CHUẨN-ĐỀ BỒ-TÁT, PHỔ-HIỀN BỒ-TÁT thường du ta bà thế giới độ tận vạn linh.
Nhược hữu thiện nam tử, thiện nữ nhân, tín ngã ưng đương phát nguyện Nam Mô CHUẨN-ĐỀ BỒ-TÁT, PHỔ-HIỀN BỒ-TÁT, năng trừ ma chướng quỉ tai, năng cứu khổ ách nghiệt chướng, năng độ chúng sanh qui ư Cực-Lạc, tất đắc giải thoát.
Nam-Mô Di-Lặc Vương Phật
Nam-Mô Brahma Phật
Nam-Mô Civa Phật
Nam-Mô Christna Phật
Nam-Mô Thanh-Tịnh Trí Phật
Nam-Mô Diệu-Minh-Lý Phật
Nam-Mô Phục-Tưởng Thị Phật
Nam-Mô Diệt Thể Thắng Phật
Nam-Mô Phục-Linh Tánh Phật
Nam-Mô Trụ-Thiện Phật
Nam-Mô Đa-Ái Sanh Phật
Nam-Mô Giải-Thoát Khổ Phật
Nam-Mô Diệu-Chơn Hành Phật
Nam-Mô Thắng-Giái-Ác Phật
Nam-Mô Nhiên-Đăng Cổ Phật
Nam-Mô Tiếp-Dẫn Phật
Nam-Mô Phổ-Tế Phật
Nam-Mô Tây-Qui Phật
Nam-Mô Tuyển-Kinh Phật
Nam-Mô Tế-Pháp Phật
Nam-Mô Chiếu-Duyên Phật
Nam-Mô Phong-Vị Phật
Nam-Mô Hội-Chơn Phật
Nam-Mô Kim-Bàn Phật Mẫu
Nam-Mô Quảng-Sanh Phật
Nam-Mô Dưỡng-Dục Phật
Nam-Mô Chưởng-Hậu Phật
Nam-Mô Thủ-Luân Phật
Nam-Mô Cửu Vị Nữ Phật
Nam-Mô Từ-Hàng Bồ Tát
Nam-Mô Đa-Pháp Phật
Nam-Mô Tịnh-Thiện-Giáo Phật
Nam-Mô Kiến-Thăng-Vị Phật
Nam-Mô Hiển-Hóa-Sanh Phật
Nam-Mô Trục Tà Tinh Phật
Nam-Mô Luyện Đắc Pháp Phật
Nam-Mô Hộ Trì Niệm Phật
Nam-Mô Khai-Huyền-Cơ Phật
Nam-Mô Hoán-Trược-Tánh Phật
Nam-Mô Đa-Phúc-Đức Phật
Nam-Mô Chuẩn-Đề Bồ Tát
Nam-Mô Phổ-Hiền Bồ Tát
Nam-Mô Diệt-Tướng Phật
Nam-Mô Đệ-Pháp Phật
Nam-Mô Diệt-Oan Phật
Nam-Mô Sát-Quái Phật
Nam-Mô Định-Quả Phật
Nam-Mô Thành Tâm Phật
Nam-Mô Diệt Khổ Phật
Nam-Mô Kiên-Trì Phật
Nam-Mô Cứu-Khổ Phật
Nam-Mô Xá-Tội Phật
Nam-Mô Giải-Thể Phật.
Nam Mô Cao-Đài Tiên-Ông Đại Bồ Tát Ma ha tát.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét