Thứ Năm, 14 tháng 6, 2018

Ý Trinh niệm MAṄGALA SUTTA - KỆ NGÔN 1





Ý Trinh niệm MAṄGALA SUTTA

KỆ NGÔN I



HẠNH PHÚC I

Asevanā ca bālānaṃ: Không thân cận với kẻ ác

Trên thế gian nầy có nhiều giống người, chỉ khác nhau ở màu da, phong tục, tiếng nói, nhưng chung quy có thể chia hai hạng người là:

- Bālā: Là ác.

- Paṇḍita: Là thiện tri thức.

Phật dạy chúng sanh cần phải học để biết người ác đặng lánh xa, vì khi ta thân cận với người ác rồi, thì không thể nào chạy khỏi quả báo đau khổ trong bốn con đường ác.

Vì vậy người ta nên học để hiểu rõ thái độ và cách cư xử của người ác cho rõ ràng để tránh xa. Trước hết chúng ta phải biết rằng, người ác họ không khác gì ta ở thể chất, hình tướng hoặc dong mạo! Người ác không phải chỉ là hạng người côn đồ, cướp bóc, hay nghèo khó, thất học hoặc bệnh tật; mà có khi họ là người cao sang, quyền quý, học thức, thượng lưu trong các giai cấp xã hội. Người ác ở khắp mọi nơi, mọi giai cấp, giai tầng, giàu nghèo, trí ngu gì đều có thể có người ác. Muốn tìm biết, xác định và nhận diện một người ác, là một chuyện không phải dễ dàng vậy.
+ Trong kinh Phật có dạy hai cách thức để ta có thể nhận ra người ác là:

1. Cách thức của các bậc trí thức giàu kinh nghiệm, từng trải việc đời - họ hiểu rõ tâm lý của người ác.

2. Cách thức của đấng Giác Ngộ, ngài hiểu rõ tâm địa của kẻ ác bằng trí tuệ.

Mặc dầu là đấng Giác Ngộ hay các bậc trí thức, hai cách thức ấy chung quy đều dạy tâm lý của con người ác để chúng ta biết mà lánh xa, ví như khoa học dạy chúng ta biết chứng bệnh của người bệnh và tìm cách tránh xa căn bệnh ấy.

Vậy, thiết tưởng chúng ta cũng nên học cho biết rõ hai cách thức để lánh xa người ác ấy.

Trước hết xin giải về cách nhận thức kẻ ác theo lời giảng giải của các bậc trí thức.

Đây tôi xin nhắc lại tích xưa tiền thân của đức Phật Thích Ca trong bộ Túc sanh truyện để quý vị dễ nhận thức:

“- Thời quá khứ, có một vị trưởng giả ở thành Ba-la-nại (Bārāṇasī) tên là Akitta. Sau khi cha mẹ quá vãng, ông nhận thấy đời là vô thường, khổ não, vô ngã; khi mà ba tấc hơi chấm dứt rồi, thì mọi vật ở đời, cho chí bản thân đều không thể mang theo được. Vì nghĩ vậy nên ông mới bố thí hết của cải, tài sản - không biết số lượng bao nhiêu mà kể - rồi xuất gia làm đạo sĩ ở trong rừng sâu tuyết lãnh.

Đạo sĩ Akitta hành theo hạnh tri túc, chỉ ăn lá cây và trái cây rụng ở gần bên mà thôi. Pháp hành cao thượng như thế của đạo sĩ đã làm cho tảng đá ngai vàng của đức Đế Thích nóng rực lên. Khi ấy Thiên vương mới hiện xuống và nói với ngài:

- Bạch đạo sĩ, tôi lấy làm trong sạch với hạnh tri túc của ngài. Vì vậy tôi hiện xuống đây và xin hứa với ngài rằng: Ngài mong ước điều gì, có sở nguyện như thế nào, tôi xin vui lòng giúp ngài đạt thành như ý!

Đạo sĩ Akitta đáp rằng:

- Tâu Thiên chủ! Lời hứa của ngài thật là quý giá, nhưng sự mong ước của bần đạo không có gì khó.

- Tôi biết rồi - Thiên vương nói - Đạo sĩ có một đời sống tri túc và dị giản; chẳng lẽ sở nguyện của ngài cũng tương tợ như lá cây, trái cây rụng này chăng?

Đạo sĩ nói:

- Tâu Thiên vương! Hiện giờ lá và trái cây vẫn còn, bần đạo không mong ước điều đó! Nếu đại vương có lòng từ bi thì hãy ban bố một pháp hạnh phúc cho bần đạo...

Đức Đế Thích nói:

- Đạo sĩ cứ nói, chẳng cần phải dè dặt gì cả! Cứ thật tình mong ước điều chi, ví như thuốc men, y phục... chẳng hạn - tôi sẵn lòng tuân theo sự sai bảo của ngài...

Đạo sĩ lắc đầu:

- Không! Tôi không cần những thứ ấy.

Đức Đế Thích nóng lòng hỏi:

- Vậy ngài cần thứ gì?

Đạo sĩ Akitta chậm rãi:

- Điều cần thiết nhất là “Xin cho tôi đừng gặp kẻ ác, không bao giờ làm công chuyện gì có kẻ ác nhúng tay vào”.

Đức Đế Thích hỏi lại cho kỹ:

- Vậy, lời thỉnh cầu của ngài là không bao giờ muốn gặp kẻ ác! Điều ấy còn có nghĩa là, dẫu tin tức của kẻ ác cũng xin không muốn nghe đến, nhắc đến?

Đạo sĩ gật đầu:

- Phải đúng như vậy!

Đức Đế Thích tò mò hỏi:

- Bạch đạo sĩ! Xin ngài có thể cho tôi được biết, là người ác đã từng làm gì đối với ngài trong quá khứ, để ngài phải sợ hãi dường vậy?

Đạo sĩ đáp:

- Thôi đi, thưa Thiên chủ! Đừng bắt tôi nói lại chuyện đã qua của kẻ ác! Nhưng tôi có thể nói sơ lược hành động của kẻ ác là:

* Kẻ ác hằng rủ người khác làm điều sai lầm.

* Kẻ ác làm những chuyện không phải phận sự của mình.

* Kẻ ác thường nhận thức sai lầm, cho quấy là phải!

* Kẻ ác, mặc dầu chúng ta nói ra sự chân thật, lời hay lẽ phải, nó cũng không đúng đắn nhận thức, lại còn hờn giận, chuốc oán, gây thù nữa.

* Kẻ ác không chịu hành theo luật lệ hoặc luật pháp của một nơi chốn, một xứ sở, một quốc độ.

Thưa Thiên vương, xét rằng người ác thường hay có những điều xấu xa như thế, nên ở gần chúng, gặp mặt chúng, nghe tin tức về chúng, tôi đều không muốn, đều nguyện được lánh xa! Vậy, với oai lực của đấng Thiên chủ, xin ngài hãy cho tôi được thỏa nguyện ước vọng ấy!”

Câu chuyện chấm dứt ngang đó, nhưng có lẽ tất cả chúng ta đều biết rằng, dẫu với oai lực của trời Đế Thích, ông ta cũng đành chịu, không thể nào thỏa mãn được ước nguyện cao vợi, tối thượng của bậc Đại chúng sanh!

+ Dưới đây tôi xin giải 5 loại hành động của người ác theo quan niệm của vị đạo sĩ ấy.

1- Anayaṃ nayati dummedho [i]: Kẻ ác thích rủ rê, xúi giục kẻ khác làm điều ác, tức là kẻ ác hằng rủ người làm điều xấu quấy, sai lầm.

Khi muốn biết một người là thiện hay ác, chúng ta nên để tâm xem coi người ấy rủ rê, xúi giục ta làm những việc gì, điều gì; mà việc ấy, điều ấy là tốt hay xấu, thiện hay ác?

Ta chớ nên quên rằng: Người ác bao giờ cũng có ý định rất khác thường, là làm cho người khác đau khổ. Như ta đã biết, không phải người ác toàn là những hạng mà ta gọi là côn đồ, du đãng; trái lại lắm khi người ác lại là người mà ta tưởng là hạng trí thức, giàu sang, vinh dự; và cũng có khi chúng ta tin tưởng, sùng kính xem họ như bậc tu hành chơn chính, là vị đại đức xứng đáng với sự lễ bái, cúng dường của chúng ta, hoặc ta xem họ là người nối chí từ bi của đức Từ Phụ để tế độ chúng sanh. Vì vậy, chúng ta không nên tin càn, tưởng quấy thiếu suy xét, mà chúng ta phải dùng trí tuệ mà nhận định kẻo sai lầm - như tích vua A-xà-thế dưới đây:

“- Ông Đề-bà-đạt-đa là một vị đệ tử của Phật, người bấy giờ lầm tưởng là đấng có giới đức trang nghiêm; nhưng thật sự ông ta là người rất là ác, đã dụ dỗ, xúi giục vua A-xà-thế tin tưởng nơi ông - vì ông là một nhà sư mang lá cờ của Phật. Hơn nữa, nhà vua tuy có nhiều đức tin nhưng thiếu trí tuệ - bị Đề-bà-đạt-đa rủ rê xúi giục mới phạm tội trọng giết cha”.

2- Adhirāyaṃ niyuñjati: Kẻ ác thường làm những chuyện không phải là phận sự, là trách nhiệm của mình.

Trường hợp này, có nghĩa là kẻ ác thường hay can thiệp vào việc làm của người khác, ở gần bên mình hay với mọi người, chỉ khiến cho người ta bực mình, khó chịu, đau khổ. Để tránh nạn can thiệp nguy hại ấy, khi chúng ta làm việc gì đang trôi chảy mà có kẻ khác chen vào, gợi ý việc này, bày mưu điều nọ, chúng ta nên cẩn trọng, suy nghĩ cho kỹ, không nên vội tin cho rằng kẻ ấy có thiện chí đối với ta, giúp ta.

Tiện đây tôi xin kể một câu chuyện để quý vị suy gẫm:

“- Có một vị trưởng giả, ruộng đất cò bay thẳng cánh, bề làm ăn rất phát đạt, tấn tới - nhờ tá điền và người làm công đối với ông hết lòng thành thật. Ông trưởng giả ấy có nuôi một bầy chó thật dữ để giữ nhà.

Đột nhiên, về sau, lợi tức của ông ngày càng suy giảm, kém đi trông thấy. Ông ta lấy làm lạ, vì số ruộng và người làm công đều như cũ, và cũng không có ai thiếu công, mắc nợ. Ông hỏi lại người quản gia thì đâu đâu cũng không có gì sai sót. Điều tra mãi không ra duyên cớ, ông mới hỏi người chăn bầy trâu bò của ông, chừng ấy mới vỡ lẽ ra rằng: Bầy chó dữ của ông không giữ nhà, mà hằng ngày nó đi cắn trâu bò làm cho chúng không ăn uống gì được, vì vậy mà chúng ốm đói, gầy yếu nên không có sức lực để cày ruộng hoặc kéo xe nữa! Lợi tức bị sút giảm là do vậy!

Biết vậy, ông trưởng giả đem bầy chó nhốt lại - từ ấy lợi tức về đồng áng của ông mới trở lại mức bình thường”.

Qua câu chuyện ấy, ta thấy bầy chó đã không làm phận sự giữ nhà mà đi làm chuyện ngoài phận sự của mình, nên đem tai hại cho chủ như thế.

Xin nhắc thêm một tích nữa, tuy hơi ngây ngô, nhưng cũng gợi cho chúng ta một bài học nào đó liên hệ đến chủ đề:

“- Có một người làm vườn của vua Ba-la-nại (Bārāṇasī), y tính đi xem lễ bèn gọi người phụ tá lại bảo:

- Ta định đi xem lễ trong vài ngày, vậy các người ở nhà lo chăm sóc vườn, lo tưới cây, đừng bỏ quên nghe.

Khi người làm vườn đi xong, người phụ tá ấy mới gọi những người làm công trong nhóm, bảo rằng:

- Người làm vườn đối với ta thật là tốt. Vậy chúng ta thay anh ấy tưới cây, nhưng trước khi tưới chúng ta hãy nhổ hết cây lên coi rễ ăn xuống bao sâu, đặng tưới cho vừa sức nó.

Tất cả những người kia vâng lời, làm y như lời dạy bảo, những cây bị nhổ lên, đều héo và chết hết”.

Đức Bồ Tát, tiền thân của Phật Thích Ca, nghe thấy chuyện này, ngài mới nói rằng: “Những kẻ ngu muội không hiểu việc làm của mình, đành hanh suy nghĩ việc làm ngoài phận sự cho phép nên đem tai hại đến cho mình và cho người khác”.

Khi ấy ngài mới đọc câu kệ với nghĩa là: Người ngu muội dầu cố làm điều lợi ích để tìm sự an vui cũng không kết quả được, trái lại bị hư hại cũng như những người làm vườn kia vậy.

3- Dunnayo seyyaso hoti: Kẻ ác thường nhận thức sai lầm, cho quấy là phải.

Theo câu Pāḷi nầy, ta thấy sự nhận thức nầy có hai điều tương quan, liên hệ với nhau là: Nhận thức sai lầm và hành động sai lầm - đều bắt nguồn ở nơi tâm là thích điều quấy.

Nguyên người ác thường thích điều hung ác, xấu xa như hiếp đáp, cướp giựt, hành hung kẻ khác. Ai ai cũng thấy các điều đó thật là đáng ghê, đáng ghét. Nhưng kẻ ác thì trái lại, cho các điều đó là cử chỉ anh hùng, là hay, là giỏi - nên có khi còn đem những hành vi xấu ác ấy khoe khoang và lấy làm tự đắc.
+ Người ác thường có ba đặc điểm để cho ta nhận thức được dễ dàng:

a- Người ác thích quấy.

b- Tự mình làm điều ác, mà không biết ăn năn, trái lại thỏa thích và đem khoe với người khác.

c- Thấy kẻ khác làm ác thì rất thích thú và khi nghe người khác làm ác như mình, lại càng thích.

Những người ác ấy luôn thù ghét người lương thiện, coi người lương thiện là đối thủ của họ, mặc dù người lương thiện vẫn sợ họ và hay nhường nhịn họ trong mọi việc, mọi lúc, mọi khi.

4- Sammāvutto pi kuppati: Kẻ ác, mặc dù chúng ta nói lời chơn chất hay nói đúng sự thật, chúng cũng tức giận.

Tâm lý của người ác, theo câu nầy, khỏi phải giải nhiều cũng dễ hiểu. Đã là người ác thì họ không bao giờ chịu nhận lẽ phải, hay là sự chân thành của người khác đối với họ. Mặc dù người nói lời chân thật ấy với tấm lòng từ bi, hay người nói ấy là thầy tổ, cha, mẹ, là quyến thuộc hoặc vợ chồng - họ cũng đều không bao giờ nghe theo.

Họ không chịu nhận sự thật, không chịu phục thiện.

5- Vinayaṃ so na jānāti: Kẻ ác không chịu hành động theo luật lệ, luật pháp.

Kẻ ác không bao giờ chịu hành động theo luật lệ, luật pháp của quốc độ hoặc của tôn giáo nào, mà chỉ biết làm theo bản tánh ác của chúng mà thôi.

Luật lệ của làng xã hoặc luật pháp của một quốc gia thường bảo đảm phần nào hạnh phúc cho con người - vì luật lệ, luật pháp ấy bảo vệ quyền lợi cá nhân, không cho người nầy làm hại kẻ khác.

Kẻ ác thì không chịu câu thúc theo luật lệ, luật pháp ấy, lại cứ muốn phóng túng vượt thoát ra ngoài để thỏa mãn ác tâm của mình và gây tổn hại cho người khác.

Năm điều vừa kể ở trên, kẻ ác được mô tả theo nhận định của bậc trí thức, còn dưới đây thì đức Phật phân tích kẻ ác theo tuệ giác của ngài.

Trong Tam tạng, đức Thế Tôn có dạy điều ấy trong đoạn kinh

Uparipaññāsaka - bài kinh Bālapaṇḍitasutta rằng: Nầy các thầy tỳ-khưu! Người ác có ba thái độ thấy rõ là:

1. Duccintācinti : Suy nghĩ ác

2. Dubbhāsitabhāsī : Nói lời ác

3. Dukkataṃ kārī: Làm điều ác.

Nói một cách khác thì, theo lời Phật dạy, thái độ của người ác là suy nghĩ ác, nói ác, mà làm cũng ác; nghĩa là thân, khẩu, ý đều ác.

Thế nào gọi là suy nghĩ ác? Nói ác? Làm ác?

Lời chú giải trong kinh có dạy rằng:

* Suy nghĩ ác: Có ba điều là tham lam thái quá, mưu hại kẻ khác, oán thù và tà kiến; là không tin nghiệp báo, nhân quả và luân hồi.

* Nói ác là: Nói dối, nói đâm thọc, chửi rủa, mắng nhiếc, nói biếm, nói lời vô ích.

* Làm ác: Sát sanh, trộm cắp, tà dâm. Ba hành động ấy có khi ở ẩn trong tâm chúng sanh, có khi phát hiện ra ngoài mặt; nên trong bộ chú giải 38 điều hạnh phúc, ba thái độ ấy chia ra làm hai hạng là:

a. Ác bên ngoài: Trong thế gian, ác bên ngoài này có thể phân làm hai loại là:

- Aṅdhabāla [ii]: Ác ôn, nghĩa là hạng người nầy rất hung dữ, khiến người ta sợ như là bệnh ôn dịch, họ có thể giết người bằng mọi cách, hoặc bằng vũ lực, hoặc bằng mưu kế, miễn là hại được người mới vừa lòng. Hạng người này phạm đủ thập ác, chúng không tránh một điều nào, không trừ một tội lỗi nào mà không làm!

- Kalyāṇabāla [iii]: Kẻ ác, nhưng vẫn còn điểm thiện tâm, nghĩa là đôi khi cũng làm lành, hoặc giúp đỡ người nghèo khó, bệnh tật... Vì lòng nông nổi mà họ làm ác, nhưng lúc nào đó, họ lại ăn năn, mặc dầu không ai dạy bảo. Như vậy là hạng người nầy có ngày lo tu hành, không hoàn toàn theo thập ác.

b. Ác bên trong: Ý nói ác tính trong lòng của ta. Cũng ngụ ý nói ác tính trong lòng của chúng sanh chưa dứt trừ hẳn phiền não. Ác tính ấy là 26 điều ác của tâm, đấy là 14 bất thiện tâm sở (akusalacetasikā) và 12 bất thiện tâm (akusalacitta)[iv].

Những ác tính kể trên có tính cách xấu xa khác nhau, làm cho thiện tâm lu mờ và yếu hẳn đi, không đủ khả năng nhận định được lẽ phải quấy, nên tâm hằng phóng túng hoặc dã dượi buồn ngủ. Mặc dầu tâm ấy không thật là ác nhưng cũng không phải thiện, không tham thiền, bố thí được [v].
+ Ba trường hợp ác trên đây sẽ đem lại cho chúng sanh 08 điều tai hại trong kiếp nầy và vị lai:

1. Làm mất lợi ích kiếp nầy và vị lai của mình cũng như với người thân thuộc.

2. Thân, khẩu, ý của mình bị nhơ đục.

3. Làm cho tên tuổi xấu xa hay càng ngày càng lu mờ đi, trong xã hội không ai nhắc tới.

4. Bậc trí thức và tất cả ai cũng ghê tởm như một món đồ bẩn thỉu.

5. Ai cũng cố xa lánh không dám gần hoặc kinh sợ, như sợ một tai họa; nói theo ngôn ngữ chiến tranh bây giờ, thì sợ một quả bom nổ chậm.

6. Kẻ ác tâm không được sáng suốt để phán đoán điều phải lẽ quấy, tâm không có an lạc.

7. Kẻ ác làm cho thanh danh trong họ hàng bị lu mờ hay bị người đời xóa bỏ đi.

8. Kẻ ác sau khi chết sanh vào bốn đường ác.
+ Vì vậy, muốn được lợi ích, chúng ta phải hành theo 06 điều sau đây:

1. Không đến gần kẻ ác

2. Không ngồi gần kẻ ác.

3. Không nghe kẻ ác.

4. Không chơi với kẻ ác.

5. Cố càng xa kẻ ác càng hay.

6. Cố tâm trì giới, bố thí, tham thiền.
+ Người không thân cận với kẻ ác sẽ được 12 quả báo lành là:

1. Người không gần gũi với kẻ ác là người được hạnh phúc ưu thắng.

2. Người không chơi với kẻ ác là người đi trên chánh đạo.

3. Người không chơi với kẻ ác là đã gieo trồng giới, định, tuệ.

4. Người không thân cận với kẻ ác là đã đi theo pháp học, pháp hành và pháp thành.

5. Người không chơi với kẻ ác là không cắt đứt những điều lợi ích quá khứ, hiện tại và vị lai của mình. Nghĩa là: Khi thân thiện với kẻ ác là tự mình chuốc lấy lầm lỗi, tai họa, đôi khi làm điều tội lỗi; lại không làm lành, thì quả lành của mình có từ kiếp trước không thể trả quả được. Ví như đức vua A-xà-thế do thân cận với Đề-bà-đạt-đa để cho ông ta xui giết cha, hại Phật, phạm ngũ nghịch đại tội nên không thể đắc đạo quả được, mặc dầu vua có duyên lành từ kiếp trước.

6. Người không chơi với kẻ ác là người ở trong thiện pháp.

7. Người không chơi với kẻ ác là người hằng được các bậc thiện trí thức ngợi khen.

8. Người không chơi với kẻ ác hằng được thạnh lợi

9. Người không chơi với kẻ ác được bậc đạo đức, trí thức yêu mến.

10. Người không chơi với kẻ ác thì không đi vào đường tội lỗi.

11. Người không chơi với kẻ ác sẽ được sanh về cõi trời

12. Người không chơi với kẻ ác thì hạnh phúc đến với họ hằng ngày, không lo sợ tai họa gì do người ác gây nên.

Theo đây, tôi xin nhắc lại một vài tích xưa trong Túc sanh truyện, để mình học lời dạy của đức Phật về sự thân cận với kẻ ác, người thiện sẽ như thế nào.
Chuyện Chim Két

“- Khi xưa trên một ngọn đồi gần rừng Tuyết Lãnh, trong một ổ két có hai con két con. Ngày nọ, do bão tố, két bị lạc mỗi con một nơi. Một con rơi vào nơi cư ngụ của các đạo sĩ, một con lại rơi vào làng của kẻ cướp. Hai con chim đều được hai nơi nuôi dạy tử tế.

Hôm kia, đức vua xứ Pañcala tên Pacala ngự đi săn, vì bị lạc đường nên ngài mới nằm nghỉ trưa dưới một cội cây bên bờ suối gần làng bọn cướp. Két của bọn cướp trông thấy đức vua trang sức vàng ngọc, mới gọi bọn cướp và bảo rằng:

- Chúng ta hãy đến giết người kia để cướp của!

Nhà vua nghe được kinh sợ, lật đật chạy trốn. Ngài lại đi lạc vào nơi cư ngụ của chư vị đạo sĩ. Két của đạo sĩ trông thấy đức vua mới nói:

- Người ơi, từ xa người đến đây chắc là mệt nhọc lắm, xin mời người vào ngồi nghỉ, nơi đây là đất lành không có gì đáng phải sợ hãi cả đâu.

Đức vua lấy làm trong sạch với két và nghĩ thầm rằng:

- Cùng một loài két với nhau, một con ở với bọn cướp thì hung ác, đáng sợ; còn con ở với bậc chơn tu thì thật là thiện lương, dễ mến làm sao!”

Tích nầy cho chúng ta thấy rằng, mặc dầu là loài điểu thú nhưng chúng bị ảnh hưởng cái ác và thiện của con người nuôi. Thế thì con người làm sao thoát khỏi ảnh hưởng của cái ác và điều thiện khi sống chung lẫn giữa thế gian.
Chuyện Cây Xoài

“- Ngày xưa, đức vua Dadhivāhana ngự đi tắm dưới sông, sau khi bảo quân lính phải giăng lưới quanh nơi ấy để phòng ngừa tai nạn. Trong khi ấy có một trái chín trôi từ rừng Tuyết Lãnh, mắc vào lưới, quân hầu vớt được mới đem dâng cho vua. Ngài thấy trái lạ mới cho gọi tất cả thợ rừng để hỏi là trái chi. Những người ấy bảo rằng đó là trái xoài, một thứ trái có vị ngọt và mùi thơm. Nhà vua bèn ăn thử và cảm nhận trái xoài ấy có vị ngon ngọt, thơm lựng hiếm có! Ngài mới truyền lấy hột đem về trồng nơi thượng uyển và dạy phải chăm nom kỹ lưỡng và đặc biệt tưới bằng sữa tươi. Ba năm sau cây xoài sanh được trái, mùi vị thơm tho. Đức vua đem biếu tặng lân bang để khoe trái quý của xứ mình; nhưng trước khi đem biếu, ngài dạy phải lấy dùi nhọn đâm thủng mầm non của trái xoài. Vì vậy các nhà vua lân quốc lấy hột đem trồng nhưng không nẩy mầm, cây không mọc được.

Lần sau, khi được biếu xoài, vị vua kia liền cho lấy hột xoài lên để tìm xem duyên cớ, thì mới thấy cái mầm trong hột đã bị đâm hư rồi. Vị vua ấy hiểu được ác ý của vua Dadhivāhana, liền nghĩ ra kế độc, bèn sai một người làm vườn tin cậy đến xin vào làm vườn của đức vua Dadhivāhana.

Người làm vườn ấy đến tâu cùng vua Dadhivāhana rằng:

- Tâu Hoàng thượng, hạ thần là người chuyên môn về nghề trồng cây và hoa, đã từng làm nhiều nơi và phục dịch cho nhiều nhà vua rồi, ai cũng hài lòng. Hôm nay, hạ thần đến đây xin được phục dịch bệ hạ.

Đức vua lấy làm vừa ý, bèn thâu nhận.

Khi được vào làm, người ấy mới đem dây thần thông trồng ở nơi gốc xoài và trồng cây sầu đâu gần đó. Lúc thấy cây thần thông bò trên thân cây xoài, còn cây sầu đâu lớn lên giao nhành với cây xoài - người làm vườn tự biết là mình đã thi hành xong phận sự phá hoại, nên lanh lẹ trốn đi.

Ngày nọ, vua Dadhivāhana ngự vào vườn thượng uyển, truyền quân hầu bẻ xoài cho ngài dùng. Lạ lùng làm sao, màu sắc xoài không còn vàng óng, tươi mọng; và vị xoài lại trở nên đắng chát, chẳng còn thơm ngọt như trước. Đức vua mới phán hỏi vị quốc sư ở gần bên rằng:

- Nầy hiền khanh, tại sao mùa nầy xoài trở nên đắng hôi, mầu không đẹp như trước?

Vị quốc sư - vốn là bậc trí - quan sát kỹ cây xoài, từ gốc lên ngọn, phát giác sự việc, thấy rõ nguyên do, nói rằng:

- Tâu Đại vương, cây xoài nầy trước kia được vun trồng chu đáo, tưới sữa tươi, hiện giờ bị dây thần thông và cây sầu đâu là loại đắng quấn nhau và giao nhành đã làm cho cây mất mùi vị của xoài.

Xong, vị quốc sư mới ngâm câu kệ rằng:

“- Vaṇṇagandharasupeto

Amdayaṃ ahuva puri

Tameve pujaṃ labhamāno

Kehamb kutukapphalo

Pucinanda parivāro

Ambote dadivāhanaṃ

Mulaṃ mulenasanlatthaṃ

Sākhāsākhaṃ nisevare

Asatasannivāsene

Tenambo katukapphalo”(?)[vi]

Nghĩa là: Cây xoài nầy trước đây có màu, mùi, vị - đẹp, thơm, ngon - nhờ được chăm sóc chu đáo. Nhưng tình trạng hiện giờ như thế nào? Tâu Hoàng thượng! Cây xoài của ngài bị cây sầu đâu và cây thần thông ở chung, rễ và rễ xen lẫn nhau, nhành với nhành giao nhau. Vì mọc chung chạ với dây thần thông và sầu đâu nên xoài của ngài không còn vị ngon ngọt, mà trở nên đắng chát khó chịu như thế”.

Tích nầy chỉ cho ta thấy rằng: Sự thân cận chung lộn có ảnh hưởng như thế.

Nếu ở với người lành thì được an vui, ở với kẻ ác thì phải đau khổ, như câu tục ngữ Việt Nam: “Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng”. Hoặc: “Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài!”

Cây xoài là vật vô tri, vô giác mà còn bị ảnh hưởng như thế. Vậy chúng ta nên lấy đó làm gương, phải biết thương mình, nên xa lánh kẻ ác, dầu người ấy là thân bằng, quyến thuộc chăng nữa. Chúng ta thường sợ kẻ ác hơn thương mình, vì vậy thường hay xu hướng theo kẻ ác để lao vào con đường rượu trà, cờ bạc, đàng điếm - đã hư thân, mất nết mà còn tạo tác thêm ác nghiệp. Đừng dại khờ bị kẻ khác xúi giục! Đừng nghĩ, nếu không theo họ thì sợ họ buồn! Cũng đừng ngại người ta cười chê là mình không biết xã giao, không biết vui chơi với bằng hữu! Nguy hiểm lắm đó! Lửa địa ngục đấy!



HẠNH PHÚC II

Paṇḍitanañca sevanā: Thân cận với bực thiện trí thức



Thiện trí thức là người tương phản với người ác.
+ Trí thức mà chúng ta thường hiểu, có hai hạng khác nhau là:

1. Trí thức theo quan niệm của người đời: Hạng nầy là những người học cao, hiểu rộng, có bằng cấp, học vị... ví như bác học, triết gia, nhà nghiên cứu, nhà văn, giáo sư, tiến sĩ, thạc sĩ, bác sĩ, kỹ sư...

2. Trí thức theo quan niệm Phật giáo: Họ có thể là trí thức như quan niệm của người đời; và cũng có thể không cần thiết phải có bằng cấp, học hành gì ghê gớm! Trí thức, thiện trí thức - theo quan điểm của Phật giáo - họ là người hoàn toàn trong sạch, không làm tội lỗi do thân, khẩu, ý.

Như vậy, thiện trí thức là bực có thiện tâm, thiện trí - không phạm vào thập ác, mà có những thái độ như lời Phật dạy trong câu kệ Pháp cú sau đây:

“- Diṭṭhe dhamme ca yo attho

Yo attho samparayiko

Atthabhisamaya dhiro

Paṇḍitoti pavuccati”[vii].

Nghĩa là: Người hiểu lợi ích đời hiện tại, lợi ích đời vị lai và lợi ích cao quý nhứt, đó là trí thức.

Hiểu lợi ích đời hiện tại là không hành theo tà pháp, không làm trái luật của quốc độ, không làm phiền người bên mình, tức là thọ trì giới luật của Phật.

Hiểu lợi ích của vị lai là hiểu rằng đời người không bền vững, của cải, tài sản không đem theo được xuống mồ, nên không bỏn xẻn, ích kỷ, dám đem tiền của ra giúp đỡ người đời, bố thí cơm áo cho những người đói khổ được nhờ.

Hiểu lợi ích cao quý nhứt là do tu hành theo giới, định, tuệ trong kiếp hiện tại nầy để mau giải thoát khỏi vòng sanh tử luân hồi.

Lời Phật dạy đó có thể giải một cách thiết thực để chúng sanh hành trì cho đúng. Bực thiện trí thức theo Phật ngôn đó, phải là người:

- Phân biệt được lẽ phải, lẽ trái.

- Biết cúng dường, làm phước (bố thí).

- Hiểu rõ nguyên nhân phát sanh điều lợi lạc và nguyên nhân phát sanh điều tai hại.
+ Hơn nữa, bậc trí thức còn thực hành theo bốn điều lợi ích khác là:

1. Uṭṭhānasampadā: Siêng năng làm phận sự của mình. Một là siêng năng làm công việc có tiền phụng dưỡng mẹ cha, giúp đỡ vợ con và quyến thuộc; nhưng việc làm ấy không thuộc về tà mạng và tà nghiệp. Hai là siêng năng trau giồi thân, khẩu, ý cho trong sạch.

2. Rakkhāsampadā: Hết lòng gìn giữ của cải đã có, về vật chất cũng như tinh thần.

Về vật chất: Đừng dễ duôi để mất và tiêu phí tiền của, gia sản vào những việc như cờ bạc, rượu chè...

Về tinh thần: Ráng lo tu trì giới hạnh của mình đã có - vì đây là của cải, tư lương rất quý báu ta có thể đem theo về ngày vị lai...

3. Kalyāṇamittata: Có bạn lành, nghĩa là nên thân cận với các bậc trí thức, bực có giới đức trang nghiêm để học hỏi điều hay lẽ thiệt và cả các pháp giải thoát.

4. Sammājīvita: Nuôi mạng chân chính, nghĩa là làm những nghề nghiệp nuôi mạng mà không phạm với luật đời và luật đạo.
+ Ngoài bốn điều lợi ích kể trên, người gọi là trí thức còn phải hành theo những pháp sau đây:

1. Saddhā: Có đức tin - tin nhân quả và nghiệp.

2. Sīla: Trì giới - người trí thức, nếu là tại gia cư sĩ, ít nhất phải có ngũ giới trong sạch, trên nữa là bát quan trai.

3. Cāga: Bố thí (dứt bỏ).

4. Paññā: Có trí tuệ để nhận định lối tà, nẻo chánh và biết quán chiếu để thấy rõ ba tướng vô thường, khổ não và vô ngã.
+ Trong bộ chú giải 38 pháp hạnh phúc còn có dạy rằng: Phàm người trí thức còn có mười đức tính để chúng sanh có thể nhận biết được, là:

1. Dhīro: Người thông minh, hiểu biết (người sáng trí).

2. Paññā: Người có trí tuệ thấy rõ, biết rõ vô thường, khổ não, vô ngã.

3. Bahusuto: Người nghe nhiều, hiểu rộng về pháp học.

4. Dhorayho [viii]: Người hết lòng tinh tấn hành theo pháp hành là chỉ tịnh và quán minh.

5. Sīlasampatti: Người có giới đức trong sạch.

6. Vatavanto [ix]: Bực có đức hạnh thanh cao, nếu là bực xuất gia thì hằng giữ hạnh đầu-đà, nếu là cư sĩ thì hành hạnh tri túc.

7. Ariyo: Bực xa kẻ thù, nghĩa là xa phiền não (Bậc cao thượng - thánh nhân)

8. Sumedho: Bực có trí tuệ nghĩa là người ráng lo bồi đắp thánh tuệ là tuệ giải thoát.

9. Tadiso [x]: Người có đức tin bất động - nghĩa là người có niềm tin vững chắc nơi Tam Bảo, không có gì có thể làm xao động, lay động được - mặc dầu là những miếng mồi cao quý đến đâu.

10. Sappuriso [xi]: Bực có thân, khẩu, ý trọn lành.
+ Khi thân cận với các bậc trí thức, phải thực hành như thế nầy thì mới có kết quả tốt:

1. Đến ở gần bên người.

2. Ngồi bên người để nghe giảng dạy.

3. Chú tâm nghe lời giảng.

5. Cố nhớ pháp đã nghe

6. Cố suy nghĩ về pháp đã nghe.

7. Khi suy nghĩ thấy rõ và biết rõ đó là chánh pháp thì nên hết lòng hành theo.

8. Tinh cần thực hành thiện pháp.

9. Phải làm cho 3 điều thanh tịnh được hiển lộ, đó là:

- Sīlavisuddhi: Giới thanh tịnh

- Cittavisuddhi: Tâm thanh tịnh

- Paññāvisuddhi: Tuệ thanh tịnh.

10. Cố hành cho mau đắc đạo quả Niết-bàn.
+ Sự thân cận với các bậc trí thức có những kết quả sau đây:

1. Được thông hiểu pháp học, pháp hành và pháp thành.

2. Được làm ba điều lành là bố thí, trì giới, tham thiền.

3. Được giác ngộ sáu điều mà đức Phật gọi là cao thượng:

- Dassanānuttariya: Thấy cao thượng

- Sotānuttariya: Nghe cao thượng

- Lābhānuttariya: Được cao thượng

- Sikkhānuttariya: Học cao thượng

- Paricaraṇānuttariya: Hầu hạ cao thượng

- Anussatānuttariya: Niệm (tùy niệm) cao thượng

4. Được hành theo pháp của các bậc trí thức.

5. Không sợ có sự tai hại và oan trái.

6. Biết rõ đường sanh về nơi an lạc là cõi trời và người; biết ác đạo mà lánh xa.

7. Tự mình được an vui.

8. Được sự khen ngợi của quần chúng nhứt là của bậc có đạo hạnh thanh cao.

9. Có danh thơm đồn đãi đi mọi nơi.

10. Không bị đọa vào ác đạo.

11. Được an vui trong kiếp nầy và phước báu cõi trời trong kiếp sau.
+ Sự thân cận với các bậc trí thức thật là hữu ích, mặc dầu chỉ gần các ngài trong một thời gian thôi.

Các bậc trí thức ở nơi nào đều đem sự an lành đến nơi ấy. Hơn nữa các vị còn tùy lúc, tùy thời cứu nguy cho kẻ khác nữa; như tích của bà Hoàng hậu Mallikā của vua Ba-tư-nặc (Pāsenadi) có giải trong bộ kinh Pháp cú quyển 3 [xii] như vầy:

“- Đêm nọ, đức vua Ba-tư-nặc nghe bốn tiếng la thật to là: “Du, Sa, Na, So” làm ngài lấy làm kinh sợ. Sáng ngày lâm trào, đức vua cho thỉnh các vị bà-la-môn chuyên về đoán điềm lành dữ vào triều kiến và phán hỏi nguyên do.

Các thầy bà-la-môn ấy mới nói rằng:

- Tâu đại vương, đây là điềm bất thường, có hại đến ngai vàng và bệ hạ nữa, nếu ngài không tế thần lửa.

Cách thức tế thần lửa ấy thật là dã man. Trước hết phải tìm cho đủ một trăm giống thú đực và cái, trăm đồng nhi nam và đồng nhi nữ. Rồi đào một cái hầm thật to, đốt lửa cháy hừng hực xong mới giết cả thú và người, lấy máu đổ vào lửa.

Đức vua nghe lời tấu trình của chư vị bà-la-môn, lấy làm kinh sợ, mới truyền lệnh phải lập đàn tràng để tế thần lửa ngay tức khắc. Trong khi sắp làm lễ, thì đồng nhi nam nữ kêu gào, la khóc, những con thú bị nhốt cũng sợ hãi kêu rống. Những âm thanh ấy làm náo loạn, vang động cả không gian. Bà hoàng hậu nghe được, lấy làm lạ, mới vào hầu vua và hỏi tự sự. Đức vua mới thuật chuyện ấy cho bà nghe, bà mới tâu rằng:

- Thật Hoàng thượng không thông minh chút nào cả. Một khi gần bên ta có đức Giác Ngộ là Thiên Nhơn Sư, là bậc Đại Trí Thức, mà không hỏi, lại đi hỏi các thầy bà-la-môn ấy.

Đức vua tỉnh ngộ mới vào hầu Phật và hỏi về bốn tiếng lạ ấy. Đức Thế Tôn dạy rằng:

- Bốn tiếng “Du, Sa, Na, So” ấy là của bọn ngạ quỷ, vốn là quyến thuộc của ngài, đã chịu đói lạnh từ mấy kiếp Phật đến nay; biết ngài sanh làm vua, muốn kêu cầu cứu ngài, để ngài làm phước hồi hướng phước cho chúng thôi.

Đức vua nghe vậy lấy làm trong sạch, khi về đến hoàng cung, ra lệnh thả hết người và thú sắp tế lễ. Ngày hôm sau, tổ chức buổi bố thí, cúng dường lớn đến đức Phật và chư tăng để hồi hướng đến cho ngạ quỷ thân thuộc nhiều đời kiếp. Nhờ vậy, chúng ngạ quỷ kia được thoát khổ và được sanh thiên.

Từ đó, tất cả mọi người, ai ai cũng đều tán dương ân đức của hoàng hậu Mallikā”.

Nhắc tích nầy cho ta thấy rằng các bậc thiện trí thức hằng đem lợi ích đến cho tất cả mọi người - như trong trường hợp trên thì được thoát khỏi sự ác độc của các thầy bà-la-môn - thường làm cho chúng sanh kinh sợ. Chúng ta nên nhớ rằng, trí thức thật sự - không hẳn là người học nhiều, hiểu rộng, có bằng cấp, học hàm, học vị hoặc khoác bên ngoài một bộ đồ tu! Cần phải có trí tuệ để suy nghĩ và quan sát như những đoạn kinh dạy về thiện và ác ở trên - mới phân biệt được kẻ ác và người thiện qua hành động, việc làm và tính cách của họ.



HẠNH PHÚC III

Pūjāca Pūjanīyānaṃ: Cúng dường đến bậc đáng cúng dường.


Những nhà nông chuyên nghiệp, lúa đã về đến sân nhà rồi, ấy cũng chưa phải là xong chuyện, còn phải làm thêm ba việc cần yếu nữa là:

1. Phải sàng sảy, xả bỏ tất cả lúa lép.

2. Lấy phần lúa hạt chắc, phơi khô rồi cất vào bồ.

3. Lựa loại hạt lúa tốt nhất để làm giống cho mùa sau.
+ Người đã tu theo Phật cũng phải biết bắt chước như “lão nông tri điền” kia:

1. Phải xa kẻ ác, như nhà nông sàng bỏ lúa lép (Đã làm rồi - hạnh phúc I)

2. Thân cận với bậc trí thức, như nhà nông chọn hạt lúa chắc cất vào bồ để dành ( Đã làm rồi - hạnh phúc II).

3. Cúng dường đến các bậc đáng cúng dường, cũng như nhà nông lựa chọn giống lúa tốt để làm mùa sau (Đang làm - hạnh phúc III).

Phần đông chúng ta chỉ hiểu rằng, cúng dường là lo sắm sửa nhang đèn, bông hoa dâng trước tượng Phật, hay dâng đến chư đại đức. Hiểu như vậy cũng đúng, nhưng chưa rốt ráo, chúng ta còn cần phải hiểu rõ thêm nữa là:

- Ý nghĩa của cúng dường.

- Nhân vật nào đáng cho ta cúng dường?

- Nguyên nhân cúng dường.

Cúng dường đúng lời Phật dạy có một ý nghĩa cao sâu, mầu nhiệm vô cùng. Người có tâm trong sạch, đem lễ vật vào chùa cúng Phật hoặc Tăng, người ấy là tốt đấy, là Phật tử thuần thành đấy - nhưng chưa thông đạt rốt ráo ý nghĩa lời dạy của đức Toàn Giác.

Ở đầu sách này, dưới mục “Nguyên nhân có pháp hạnh phúc” chúng ta đã phân biệt 38 pháp hạnh phúc, chia làm hai loại:

- Một loại của người trí thức học nhiều hiểu rộng - quan niệm như thế nào rồi tự tin, tự thực hành như thế ấy.

- Loại thứ hai là của đức Phật, dựa vào sự thấy biết của ngài, qua kinh nghiệm tâm linh tu chứng mà ngài đã giác ngộ dưới cội Bồ-đề, sau bao nhiêu A-tăng-kỳ kiếp.

Tôi xin nhắc lại trong 38 pháp hạnh phúc - đức Phật đã hành trì, đã chứng nghiệm nên ngài đã thuyết ra 38 cách thức, trường hợp và thứ loại khác nhau. Sự cúng dường là một chi, trong 38 chi, hay là một hạnh, trong 38 hạnh mà Phật tử phải hành theo.

Trước hết nên hiểu rõ tiếng pūjā (cúng dường) nghĩa là gì? Chúng ta thường lầm lẫn sự cúng dường ấy tương tợ chữ dāna, nghĩa là bố thí, trong pháp hạnh phúc thứ 15. Sự cúng dường trong ngụ ý ở lễ bái, ở đây, phải được thể hiện một cách trang trọng và long trọng hơn. Vì sự kính trọng, tôn kính như thế mới được gọi là cúng dường.

Theo sách chú giải, sự cúng dường ấy, được gọi là pūjā thì phải có đầy đủ ba tánh chất sau đây:

- Paggaṇha: Ca tụng, tán dương.

- Sakkāra: Vật để cúng dường phải trân trọng.

- Samaṇa: Nhân vật đáng kính trọng

1- Paggaṇha: Ca tụng - nghĩa là tán thán, ca tụng nhân vật mà ta cúng dường, như ta ca tụng ân đức Tam Bảo theo kinh Tam Bảo. Hoặc như ta tán thán rằng, Phật là đấng Đại từ bi, thực hành trọn đủ ba-la-mật để tìm đường giải thoát tế độ cho chúng sanh. Pháp là con đường đức Thế Tôn đã đi đến nơi vô sanh bất diệt. Tăng là bậc đã lìa xa thế tục, bỏ mọi dính mắc, đam mê, bỏ cả chính bản thân mình để cần cầu giải thoát; là bậc thấy biết rõ rệt vô thường, khổ não, vô ngã - và cố hành trì tu tập để ra khỏi luân hồi; là bậc đáng thay mặt đấng Giác Ngộ dắt dẫn chúng ta ra khỏi bể khổ trầm luân.

2- Sakkāra: Vật cúng dường, đây là những vật dụng đem đi cúng dường cho nhân vật mà mình muốn cúng dường, thể hiện lòng sùng bái của ta đối với nhân vật ấy và cũng thể hiện hạnh bố thí của ta.

3- Samaṇa: Kính trọng, là kính trọng một nhân vật nào mà ta đem lễ vật đến dâng, nhưng ta không có tâm mong muốn một tư lợi nào do người ấy ban bố cho ta.

Tóm lại, sự cúng dường phải có đủ ba tính chất do sự ca tụng, vật cúng dâng và nhân vật thọ nhận sự cúng dường.

Sự cúng dường cũng như cái ăn. Ta chẳng nên nghĩ rằng ăn gì cũng được miễn là no bụng thôi. Nghĩ vậy là sai lầm. Ta cần ăn, nhưng phải là món ăn bổ ích cho cơ thể ta, nếu không bổ ích cũng không phương hại đến sức khỏe ta. Sự cúng dường cũng vậy, ta phải biết chọn lễ vật thích đáng để cúng dường.

Nhân vật mà ta cúng dường là ai?

- Người.

- Lời giảng dạy.

- Và một số người.

Người thọ cúng là một vị nào, một đấng thiêng liêng hoặc một vị giáo chủ nào hay là một bậc có công đức đối với chúng ta? Như cha mẹ và đức Phật là hai bậc đáng cho ta cúng dường.

Lời giảng dạy tức là Pháp bảo, tức là lời giảng dạy của đức Phật, cũng là con đường mà chư Phật tử đang noi theo để đi đến cõi người, trời và Niết-bàn.

Và một số người, cùng một nhóm người - tức thị chư Tăng, là bậc có giới đức thanh cao, người thoát khỏi vòng của sắc tài, danh lợi, là người giương cao ngọn cờ của Phật giáo, là người có thể thay thế Phật để dạy tín đồ, là vị có chí hướng thanh cao, có đức từ, bi, hỉ, xả.
+Có hai hạng người xứng đáng thọ cúng dường là:

1. Người có công đức cao vợi và vô lượng như đức Phật, là đấng có đủ trí minh, hạnh minh; là đấng tìm ra con đường giải thoát, giáo hóa chúng sanh không nài cực nhọc.

2. Người có công sanh dưỡng là cha mẹ; và người có công chỉ dạy con đường giải thoát cho ta là chư tăng và các bực thầy tổ.

Nói tóm lại, sự cúng dường và sự đền ơn khác nhau. Ta có thể cúng dường chư Phật, vì chư Phật dạy đời không vì tư lợi hay bởi danh vọng, cũng không mong được chúng sanh kính nể, mà chỉ dạy đời với tất cả tấm lòng từ bi, thương xót chúng sanh phải luân hồi khổ não, chẳng khác nào người mẹ hiền thương con dạy con với tấm lòng như trời như biển.

Còn cha mẹ nuôi con cũng chẳng cần sự đền đáp, mà cũng không bao giờ kể công với con. Cha mẹ là đức Phật đối với con. Người không phụng thờ cha mẹ mà cúng dường đến đức Phật, thật không bổ ích vào đâu cả, đúng với câu: “Phật trong nhà không thờ, đi thờ Thích-ca ngoài đường”.

Như vậy, ngoài hai đối tượng trên mới xứng đáng được gọi là cúng dường; còn trên thế gian, những người giúp đỡ ta, có ân với ta thì ta chỉ nên đền đáp - vì nhớ ơn chứ không phải cúng dường!

+ Cúng dường có nhiều ý nghĩa như là:

1. Cúng dường có nghĩa là, đệ tử đem lễ vật đến dâng cho thầy tổ để tỏ lòng biết ơn các ngài đã chỉ dạy cho mình con đường giải thoát.

2. Cúng dường có nghĩa là, kính trọng các bậc có ân đức cao thượng, là có tuệ giải thoát khỏi luân hồi sinh tử.

3. Cúng dường theo ý 38 điều hạnh phúc của đức Phật đã dạy là: Khi mình đã hiểu ra nhân vật mà mình hiểu, hiểu rằng nhân vật ấy là bậc thánh nhân, còn nếu không phải là thánh nhân chăng nữa, cũng là người đang thực hành con đường đến nơi giải thoát. Hiểu như thế rồi ta hết lòng kính trọng, hành theo lời giảng dạy của đức Thế Tôn - vì hành theo thánh đạo để tự giải thoát cho mình cũng là cúng dường cao thượng mà chư Phật và chư thánh nhơn thường lấy làm hoan hỷ.

4. Cúng dường cũng có nghĩa là lễ bái với tất cả tấm lòng cung kính đến đấng có ân đức cao thượng là:

- Paññāguṇa: Ân đức là trí tuệ (Tuệ đức).

- Karuṇāguṇa: Ân đức là tâm bi mẫn (Bi đức)

- Visuddhiguṇa: Ân đức là trọn lành (Tịnh đức).
+ Cúng dường có hai thể cách:

- Amisapūjā: Cúng dường bằng vật dụng, như là cơm, nước, y phục, chỗ ở và thuốc men.

- Paṭipattipūjā: Cúng dường bằng sự hành đạo để mau tới nơi giải thoát, như người tại gia cư sĩ, khi tin theo lời Phật dạy thì quy y Tam Bảo, hành theo ngũ giới, bát quan trai giới; lại có thể cố gắng tham thiền để mau dứt trừ hoặc lắng yên phiền não. Đây gọi là cách cúng dường cao thượng đến chư Phật.

Đây, để giải rộng về hai thể cách cúng dường ấy, tôi xin nhắc lại sự tích của một phụ nữ nghèo cúng dường đến đại đức Ca-diếp...

“- Gần thành Rājagaha có một hang động tên Pipphali. Trong hang động ấy có đại đức Ca-diếp nhập đại định bảy ngày. Sau khi xả định, ngài dùng thiên nhãn xem thử người nào có duyên với ngài. Xét thấy một cô gái rất nghèo đang canh giữ ruộng bắp là hữu duyên - nên ngài ôm bát khất thực đi đến nơi ấy. Khi trông thấy đại đức Ca-diếp, cô liền phát tâm kính thành và rất trong sạch, thầm nghĩ rằng:

- Nhiều khi ta có vật cúng dường lại không gặp đươc ngài; đôi khi gặp được ngài lại không có vật để cúng dường! Hôm nay, thật là hy hữu, ta có vật cúng dường lại gặp được ngài! Ôi! Thật là quý hóa biết chừng nào!

Vật mà cô ấy hiện có là hột nổ (bắp rang). Cô liền đem một bát hột nổ ấy dâng cúng đến ngài Ca-diếp rồi phát nguyện rằng:

- Bạch ngài, duyên lành của đệ tử gieo trồng hôm nay, xin cho đệ tử đắc những pháp mà ngài đã đắc!

Rồi ngài ra về. Cô giữ ruộng bắp được làm phước trong lòng vui thích vô cùng. Khi ấy, vì vô ý cô lại đạp nhằm một con rắn độc, cô bị rắn cắn chết liền tại chỗ. Vì trong khi chết tâm cô vui với phước, cô được sanh về cõi trời Đao Lợi; ví như người đang ngủ giựt mình tỉnh dậy, cô thấy cô đang ở trong một tòa lâu đài bằng vàng”.

Tích nầy còn dài hơn nhưng chỉ nhắc sơ lược để chúng ta dễ nhớ và thấy rằng, sự cúng dường đến các bậc đáng cúng dường có được nhiều hạnh phúc như vậy. Sự tích cô giữ bắp còn cho ta thấy rằng, sự bố thí hay cúng dường của ta không quá thiên trọng về vật chất (vật ấy tốt, nhiều, có giá trị) - mà quý ở tấm lòng trong sạch và sự thành kính của chúng ta. Chúng ta không nên nghĩ rằng, giàu hay nghèo - phải tùy theo hoàn cảnh của mỗi người - chính tấm lòng trong sạch và sự thành kính của mình lúc cúng dường mới là điều đáng quý.

Sự cúng dường vật dụng bằng tấm lòng trong sạch đã cao quý như thế, nhưng sự cúng dường bằng hành đạo giải thoát còn vô cùng cao quý hơn thế nữa.

Cúng dường đến đức Phật, cao thượng hơn hết là quyết tâm thọ trì giới hạnh cho tinh nghiêm, hành thiền định cho tinh tấn, dùng trí tuệ quán xét ba tướng để giải thoát sinh tử.

Khi đức Thế Tôn sắp nhập diệt dưới cội Sālā, chư thiên, phạm thiên đem các kỳ hoa dị thảo lại cúng dường đức Phật, chất cao như núi, rải đầy cả mặt đất. Đức Thế Tôn trông thấy như vậy mới gọi tôn giả Ānanda đến mà dạy rằng: “Sabbaphāli phulla kho ānanda yamakasālā alakapuppehi tathāgatassa sariraṃ okiranti...”

- Nầy Ānanda! Hai cây Sālā trổ bông sái mùa và rụng trên mình Như Lai, đó là tỏ ý cúng dường Như Lai. Bông Mandārava (Tàu âm là hoa Mạn-thù) từ trên không rơi xuống trên mình Như Lai cũng tỏ ý cúng dường Như Lai. Những tiếng đờn ca, kèn trống ở trên không, đều là những phẩm vật cúng dường Như Lai cả. Nhưng mà nầy Ānanda! Như Lai không cho rằng cúng dường trọng thể như vậy là kính mến Như Lai đâu! Nầy Ānanda! Nếu các đệ tử trong hàng tỳ-khưu, tỳ-khưu-ni, cận sự nam, cận sự nữ là người cố gắng hành đúng theo lời dạy bảo của Như Lai, ấy mới gọi là người kính mến, yêu thương và cúng dường trọng thể đến Như Lai. Vậy, ai là những đệ tử sống trong giáo pháp của Như Lai nên học thuộc lòng rằng: “Chúng ta tôn trọng chánh pháp - thì phải hết lòng thực hành chánh pháp không dám dễ duôi, phóng dật!” Các người nên nhớ như vậy!

Đức Thế Tôn còn dạy thêm rằng:

- Ānanda nầy! Như Lai không phải là đấng để chúng sanh cúng dường bằng các vật cúng dường như vậy. Những công đức mà Như Lai đã phát nguyện dưới chân của các đấng Giác Ngộ, nhất là đức Phật Nhiên Đăng - không phải là để ước muốn những vật cúng dường tầm thường ấy!

Do vậy, trong Nikāya, kinh Parinibbāna, đức Phật có dạy rằng: “Như Lai không phải là đấng cho mọi người cúng dường hương hoa cũng như các lễ phẩm nào khác!”

Lời dạy trên đây về sự cúng dường, mới nghe qua, tựa hồ như không nhất quán với nhiều lời dạy khác rải rác ở trong Tam tạng - về quả báo của sự cúng dường! Ví như có đứa trẻ cúng dường đến đức Phật một nắm đất sau được quốc gia, lãnh thổ - như vua Asoka! Ví như rất nhiều người khác, với vật thí nhỏ mọn không đáng kể, nhưng với tâm tín thành, trong sạch, dâng cúng đến đức Phật đã có được phước báu vô lượng! Thật ra, những lời dạy sai khác, cho nhiều căn cơ trình độ khác nhau, tùy lúc, tùy hoàn cảnh, tùy căn cơ - chúng không những không mâu thuẫn mà còn bổ túc cho nhau hoặc từ nghĩa cạn đến nghĩa sâu của sự cúng dường vậy. Ta nên biết rằng, mọi hương hoa, lễ phẩm hoặc cho đến tối thượng của tài thí chỉ đưa đến phước báu nhân thiên; nhưng sự cúng dường bằng cách thực hành pháp, không những có phước báu nhân thiên mà còn chứng đắc tứ quả, tứ thánh và Niết-bàn. Vậy, đâu cạn, đâu sâu, đâu cao thượng hơn, chúng ta thấy biết tức khắc! Còn nữa, sở dĩ đức Phật dạy đi, dạy lại như thế là vì tâm từ bi vô lượng vô biên của ngài - muốn chúng sanh cúng dường ngài bằng công đức tu hành của mình chứ không phải bằng lễ phẩm vật chất. Và đây cũng là bài học còn nóng hổi, còn giữ nguyên vẹn giá trị trong thời đại chúng ta. Biết bao nhiêu thầy tỳ-khưu hiện nay không chịu tu tập giới định tuệ, mà chỉ lo chỉ bày cho thiện nam tín nữ cúng dường vật này, vật nọ; xây dựng muôn nghìn cái tháp, mấy triệu cảnh chùa để chứng tỏ Phật giáo đang thạnh hành! Chỉ có những thiện trí thức thực sự, những bậc tu hành chân chính mới nhận thức đúng đắn lời dạy bảo của đức Phật: Thực hành theo chánh pháp, hướng dẫn muôn người thực hành theo chánh pháp - thì lúc ấy Phật giáo mới thực sự hưng thịnh, mới trường tồn!

Lời dạy về sự cúng dường trên đây có nhiều lợi ích là:

- Tín đồ tuân thủ thực hành theo chánh pháp để mau giải thoát.

- Khi thực hành đúng theo kinh luật thì Phật giáo không bị suy đồi, tàn mạt.

- Các vị tỳ-khưu không thể lợi dụng sự lập chùa, đúc tượng... để thủ tư lợi.

Đức Thế Tôn dạy cúng dường cao thượng như thế chỉ có một ý cao sâu mầu nhiệm, là ngài muốn chúng sanh phải ráng lo tu hành, mau giải thoát khỏi luân hồi và không muốn để các vị tỳ-khưu bất chính khai thác lòng tín ngưỡng của tín đồ, để mưu lợi riêng cho cá nhân mình. Sự thật, khi tín đồ hiểu thông lý đạo, thì dầu chư Tăng có cấm họ cúng dường, họ vẫn cúng dường như thường, vì họ nhận thấy rằng đó là phận sự của cư sĩ tại gia - đồng thời, nó cũng là một phương pháp đối trị và diệt trừ phiền não là lòng tham lam trong chính họ.

Đức Thế Tôn không khen ngợi sự cúng dường bằng vật dụng tài thí ấy, ngài lại khen cúng dường bằng sự hành đạo rằng:

- “Nầy Ānanda! Trong hàng tứ chúng, có một người nào hành đúng theo phận sự của mình, người ấy gọi là người cung kính và cúng dường đến Như Lai. Vì lẽ ấy, các người hãy lo thực hành theo chánh pháp” (Dīghanikāya, kinh Parinibbāna).

Những lời Phật dạy trên đây thật là quý báu vô cùng! Giờ phút nhập diệt đã kề rồi, mà ngài vẫn không quên những đứa con nhỏ dại, đang ở trong những cảnh ngộ giữa nhiều cám dỗ và cạm bẫy của ma vương, nên ngài có dặn lại câu cuối cùng như thế. Chúng ta là hàng Phật tử chân chánh nên nhớ câu nầy mà chăm chuyên hành đạo để khỏi phụ ân ngài.

Ngày rằm tháng giêng đức Thế Tôn cho các hàng đệ tử hay rằng còn ba tháng nữa ngài sẽ nhập diệt. Các vị tỳ-khưu còn tâm phàm cất tiếng than khóc, tiếc thương. Duy có một vị đại đức tên là Tissa không đau buồn, thở than gì cả vì ngài nghĩ rằng: “Đức Thế Tôn sẽ nhập diệt vào ngày rằm tháng tư mà tâm ta vẫn còn nhiều phiền não, vậy ta phải đạt cho kỳ được A-la-hán quả trong khi ngài còn hiện tiền”.

Rồi tỳ-khưu Tissa kiếm nơi vắng vẻ, an tịnh để gia công tu tập thiền quán.

Chuyện ấy thấu đến tai đức Thế Tôn, ngài cho mời vị ấy lại và hỏi sự thật như thế nào?

Vị đại đức bèn thưa rằng:

- Bạch đức Thế Tôn! Đệ tử xuất gia đã lâu nhưng chưa đắc đạo quả gì cả, nên tự xét rằng, đệ tử không xứng đáng là Phật tử biết kính thương đức Từ Phụ.

Đức Thế Tôn đáp:

- Lành thay! Nầy các thầy tỳ-khưu! Người nào thật biết kính thương Như Lai, kẻ ấy nên thực hành như Tissa, vì những người cúng dường ta bằng vật phẩm, tràng hoa... không gọi là cúng dường ta, chỉ có người thực hành theo chánh đạo mới gọi là người cúng dường Như Lai một cách xứng đáng, một cách rất chơn chánh vậy.

Rồi ngài thuyết câu kệ:

“- Pavivekarasaṃ pipvā

Rasaṃ up asamassa ca

Nyddaro hopi nippāpo

Dhammappitirasaṃ pivampi”[xiii].

Nghĩa là: Các bậc thánh nhơn hưởng vị của thanh tịnh, vị của vắng lặng, vị của hỷ lạc trong thiện pháp (đạo quả và Niết-bàn), các ngài biết rõ sự nóng nảy của phiền não không còn nữa, hoàn toàn trong sạch và vô tội.

Tóm lại, sự cúng dường cao quý nhất trong Phật giáo là thực hành đúng theo chánh pháp để giải thoát cho bản thân mình. Nếu tất cả hàng tứ chúng đều hành theo lời Phật dạy, thì Phật giáo sẽ còn hưng thạnh đến năm ngàn năm.




[i] Anaya: vô phúc, bất hạnh; nayati: hướng dẫn; dummedho: điên rồ.


[ii] Aṅdha: Mù quáng.


[iii] Kalyāṇa: Mỹ lệ, yêu kiều, hạnh kiểm tốt.


[iv] 12 bất thiện tâm: 8 tham, 2 sân, 2 si. 14 bất thiện tâm sở: Si, vô tàm, vô quý, trạo cử, tham, tà kiến, mạn, sân, tật, xan, hối, hôn trầm, thụy miên, nghi.


[v] 12 bất thiện tâm và 14 bất thiện tâm sở là nguồn gộc của mọi tội ác, tội lỗi, xấu xa trên trần đời. Còn tâm không tham thiền, không bố thí được hàm chỉ khi tâm bị lu mờ, bị che khuất bởi những triền cái; ở đây chính là hôn trầm, thụy miên, trạo cử, phóng dật...


[vi] Không tìm ra nguồn, câu chữ Pāḷi sai trật.


[vii] Không tìm thấy trong Pháp cú.


[viii] Dhorayha: Có thể mang vác, gánh vật nặng (trách nhiệm).


[ix] Vatavantu: Thọ trì phận sự của tôn giáo.


[x] Không tìm ra nghĩa như đã giải thích. Có một từ gần giống tự dang: Tādisa: Như vậy, với khả năng như vậy.


[xi] Suppuriya: Đôi nơi dịch là thiện nam tử (người nam tốt, lành; người nam hiền thiện.


[xii] Không tìm thấy trong Pháp cú 3.


[xiii] Không tìm ra nguồn, Pāḷi sai trật.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét