Ý Trinh niệm MAṄGALA SUTTA
KỆ NGÔN X
Phuṭṭhassa loka-dhammehi cittaṃ yassa ra kampati
Tâm không xao động vì pháp thế gian
(Khi xúc chạm việc đời. Tâm không động, không sầu)
Câu Phật ngôn này có ba từ nên giải cho rõ:
1. Loka: Nghĩa là thế gian. Phạn ngữ loka còn có nghĩa là hư hoại, tiêu diệt, tan rã... Ý nghĩa ấy rất đúng vì thế gian nầy có gì bền vững lâu dài đâu, mặc dầu là núi non, sông bể đều cũng có ngày thay đổi hay tiêu diệt.
2. Lokadhamma: Nghĩa là pháp thế gian. Pháp thế gian có 8 điều, thường ở trong thế gian hay là ở trong tâm của con người. Vì con người còn luân hồi trong thế gian, nên pháp ấy gọi là thế gian pháp hay là pháp thế gian.
3. Kampati: Là rung động. Tâm người vì còn phiền não nên bị 8 pháp ấy làm rung động, xao xuyến, lay chuyển nên không bao giờ yên được. Vì tâm rung động bởi các pháp ấy nên người rất lo chạy theo nó, hoặc tìm về vì chưa có, hay kiếm lại vì bị mất, hoặc vì sợ mất nên lo giữ. Đấy là nguyên nhân sanh khổ - vì khi được cũng khổ mà khi mất lại càng khổ. Thật vậy khi mất thì khổ đã đành, nhưng khi được lại mất công gìn giữ, sợ bị mất. Trong 8 pháp ấy có những pháp mà mình không thích, không ưa, nên mình lại không muốn cho nó đến với mình, hết sức cố gắng không cho nó đến, mà nó vẫn đến!
8 pháp ấy ví như cái lưới, còn chúng sanh ví như cá trong lưới thật là khó thoát khỏi.
Đây tôi xin giải luôn tiếng “chúng sanh”; phạn ngữ satta nghĩa là chúng sanh, nhưng còn có nghĩa là dính, ý nói dính trong pháp thế gian; ví như cá mắc dính trong lưới, hay cắn phải câu vậy.
+ Còn 8 pháp thế gian ấy là:
Thích
|
Ghét
|
1. Lābho: Được lợi 3. Yaso: Được danh 5. Pasaṃsā: Được khen 7. Sukha: Được lạc | 2. Alābho: Mất lợi 4. Ayaso: Mất danh 6. Nindā: Bị chê 8. Dukkha: Bị khổ |
Trong 8 pháp này có 4 pháp người ưa thích, còn 4 pháp người chán ghét.
Chúng ta ham mê hay ưa thích 4 pháp “được lợi, được danh, được khen, được lạc”. Vì ưa thích nên ta chạy theo nó, đến nỗi quên già. Chúng ta quên rằng, những gì mà ta ưa thích, ta chưa thỏa mãn, thì lại bị mất đi; hay ta lại bỏ nó ra đi, tôi muốn nói ta chết và không đem gì theo được. Vì con người chưa có trí tuệ, nên không nhận thức vô thường, khổ não, vô ngã, nên cứ chạy theo các pháp ấy. Ta lại thương tiếc buồn rầu vì những của cải không phải là ta mà cũng không phải là của ta, cũng không trung thành với ta nữa. Đã gọi là loka (thế gian)nghĩa là tan hoại, thì làm sao tìm được một điều gì trung thành với ta được? Con người cũng vì tám pháp thế gian nên giết hại nhau. Vì 8 pháp ấy mà cá nhân tranh với cá nhân, gia đình tranh với gia đình, xóm này tranh với xóm kia, xứ này tranh với xứ nọ, nên thế gian thường bị chiến tranh tiêu diệt. Xét kỹ, không có gì gây thảm họa cho chúng ta hơn là 8 pháp ấy. Vì vậy nên đức Thế Tôn dạy chúng ta không nên rung động, xao động vì pháp thế gian - ý nói không nên để 8 pháp ấy ngự trị trong chúng ta.
Khi chúng ta biết 8 pháp ấy gây thảm họa cho nhân loại, thì chúng ta cũng nên tránh đi được phần nào hay phần ấy, khi chúng ta cố tránh thì lợi ích trước nhất là chúng ta được an vui, mà người ở gần ta cũng được hạnh phúc.
+ Muốn diệt trừ 8 pháp ấy, ta cần phải trang bị 3 pháp sau đây:
1. Lokapāladhamma: Pháp hộ trì thế gian (loka); nó gồm có hai pháp: Hiri - là tàm, là hổ thẹn tội lỗi; và ottappa - là quý, là ghê sợ tội lỗi.
Như ta biết loka là hư hoại, tiêu hoại; mà pháp này gọi là pháp gìn giữ (hộ trì), thì rõ ràng là pháp tương đối, hay đối trị với pháp tiêu hoại. Hai pháp này có ý nói rằng, khi người đời biết hổ thẹn, biết ghê sợ tội lỗi, thì không bao giờ dám làm tội; mà không dám làm tội thì không khi nào ác pháp đến gần - do vậy, tức nhiên ta sẽ được hạnh phúc.
2. Sati: Trí nhớ (niệm); và sampajañña: Biết mình (Tỉnh giác).
Hành giả phải có trí nhớ (chánh niệm) để quan sát những đề mục mà tâm thâu lấy, trí nhớ ví như người giữ cửa thành, cần biết người nào nên cho vào, người nào không nên cho vào. Trí nhớ cũng vậy, không cho các ác pháp xâm nhập vào. Biết mình (tỉnh giác) là khi biết pháp ác đã xâm nhập vào rồi, nên cố gắng diệt trừ nó bằng mọi phương cách.
3. Yonisomanasikāra: Có trí tuệ suy xét cho chu đáo (như lý tác ý).
Ý nói khi ta muốn làm việc gì nên dùng trí tuệ suy nghĩ cho kỹ, và biết đâu là hại đâu là lợi để thực hành.
Trong chú giải bài kinh hạnh phúc có dạy rằng: Vì chúng sanh còn nhiều phiền não nên bị 8 pháp ấy chi phối, nên khi được lợi thì vui, khi mất lợi thì buồn, tức sanh ra oán thù, cột oan trái làm hại kẻ khác, đó là nhân làm cho người
luân hồi và phải khổ mãi mãi, chung quy là ta không diệt
bỏ được 8 pháp thế gian ấy.
Riêng về các bậc trí thức[1], khi được lợi lộc, danh vọng, quyền chức... cũng như khi bị mất đi, các ngài không lấy đó làm vui hay buồn. Vì các ngài thấy rõ rằng, các món làm ta ưa thích, có theo liền với ta chăng nữa, thì ngày kia cũng phải một lượt với xác thân này ra đi. Trong lúc đó, thế thường thì những gì ta yêu thương lắm, thích thú lắm, khi cái ấy hư hay mất vì nguyên nhân nào, thì ta càng buồn nhiều. Mà nếu ta có nhiều vật mà ta yêu thương, mỗi ngày mất đi một món thì cái khổ ấy sẽ càng tăng gia.
Tâm không rung động vì pháp thế gian là tâm của các bậc thánh nhơn, ta còn phàm nhơn, không sao tránh khỏi, nhưng ta cũng phải ráng diệt lần đi, ngày nào nhân tròn, duyên đủ ta cũng đắc được thánh quả vậy.
+ Còn có 2 pháp nữa cần phải thực hành để cho tâm ta không rung động vì 8 pháp thế gian:
1. Bước đầu tiên học và hành minh sát tuệ, để trí nhớ quan sát mọi việc, dùng trí tuệ phán đoán việc làm, làm cho trí tuệ và trí nhớ càng tăng trưởng. Quan sát thấy thân này vô thường, khổ não và vô ngã nên bền công tu tập mãi theo minh sát tuệ.
2. Hành theo bát chánh đạo để chứng ngộ Niết-bàn (đã giải kỹ rồi).
+ Tâm không xao động vì pháp thế gian có hạnh phúc là:
1. Là người không bị nóng nảy.
2. Là phước lành.
3. Được an vui.
4. Không dễ duôi.
5, Là người thực hành nghiêm túc theo lời giáo huấn của đức Từ Phụ.
6. Là người hành theo giới, định, huệ.
7. Là người biết thành tựu lợi lạc cho mình trong kiếp hiện tại và kiếp vị lai.
8. Là người đáng là gương mẫu cho hậu sanh.
9. Là nhân làm cho Phật giáo được thạnh hành.
Asokaṃ: Không có sự uất ức
(Vô ưu, không buồn phiền)
Asokaṃ nghĩa là không uất ức. Phạn ngữ asoka có thể chiết tự để giải cho dễ hiểu hơn.
A có nghĩa là không, soka có nghĩa là thấp xuống, tâm khô héo, ưu phiền, dường như là tâm bị ghim vào mũi tên.
Khi ráp hai chữ lại thành asoka thì nghĩa chung là: Tâm không uất ức, không ưu phiền, không khô héo, không bị gim bởi mũi tên. Asoka còn có một nghĩa khác hơn là vắng lặng sự uất ức, ưu phiền, bực tức, buồn rầu. Nên asoka có nghĩa là tâm không bị phiền não ngự trị. Chốt lại là: Vô ưu hay Niết-bàn.
Sau đây tôi xin xét lại - thế nào là uất ức và thế nào là chấm dứt sự uất ức:
- Vật gì, hiện tượng gì, nguyên nhân nào làm cho tâm ta bị uất ức?
- Sau khi diệt trừ được uất ức, không còn sự uất ức thì trạng thái tâm sẽ ra sao?
Làm người không ai chạy khỏi sự uất ức, nên chi nơi đây tôi không giải trạng thái của sự uất ức vì ai ai cũng biết, mà chỉ giải về nguyên nhân làm cho tâm uất ức.
Có nhiều nguyên nhân làm cho tâm uất ức, theo câu Phật ngôn dạy trong Pháp cú kinh rằng:
“- Pemato jāyate soko
Pemto jāyati bhayaṃ
Pemato vippamuttassa
Natthi soko kuto bhayaṃ”[2].
Nghĩa là: Thương yêu sanh ra uất ức, thương yêu sanh ra lo sợ, nếu dứt được thương yêu thì sự uất ức lo sợ sẽ không còn có nữa.
Ý câu Phật ngôn này dạy rằng: Người bị uất ức hành hạ là do nơi sự thương yêu. Sự thương yêu càng nhiều, càng mạnh, thì sự uất ức càng lớn. Sự thương yêu ví như thủy triều càng lên cao thì mọi vật nổi lên cao. Tâm thương yêu nhiều thì khổ lại cao. Khi tâm yêu thương vật gì mà vật ấy mất, sanh thất vọng thì có uất ức. Khi không có thương yêu, thì làm gì có uất ức hay thất vọng.
Quý vị cũng từng biết, trước sanh tử biệt ly là cảnh rất đỗi đau khổ, mà chúng ta ai cũng phải trải qua nhiều hay ít; vậy chúng ta ai ai cũng nhận thức cái đau khổ ấy và chắc chắn rằng ngày nào đây ta phải còn gặp cảnh ấy nữa. Sự chắc thật không thể nào thoát khỏi, là ta phải bỏ thân nầy ra đi với nghiệp mà ta đã làm, mặc dầu ta giàu sang quyền chức, có nhiều thế lực, anh em vợ con, những nhân vật này không làm sao cho ta ở lại được, mặc dầu họ rất thương tiếc ta.
Đức Thế Tôn nhận rõ sự uất ức là tai hại khủng khiếp mà chúng sanh còn trong tam giới không sao tránh khỏi. Vì vậy đức Thế Tôn quan tâm giáo huấn, dạy ta không nên để cho sự uất ức ngự trị lòng mình.
+ Đức Thế Tôn dạy hai phương pháp ngăn ngừa và diệt trừ sự uất ức ấy:
1. Hằng niệm về sự chết:
a. Sattanaṃ maraṇadhuvaṃ: Chắc chắn tất cả chúng sanh đều phải chết.
b. Jivataṃ adhuvaṃ: Sanh mạng của tất cả chúng sanh đều không bền vững (nghĩa là phải chết).
c. Sabbe saṅkhārā aniccā: Tất cả các pháp hành đều vô thường. Hoặc: Tất cả các pháp hành không bền vững, hằng thay đổi từng giờ phút, vậy các người không nên dễ duôi.
2. Từ đó, ta chiêm nghiệm:
a. Adhuvaṃ jivataṃ: Đời sống không bền vững, không chắc chắn, không chắc thật.
b. Dhuvaṃmaraṇaṃ: Sự chết rất chắc chắn, là điều tất
nhiên (không ai chạy nổi).
c. Avassaṃ mayā maritabbaṃ: Ta chắc chắn phải chết (là điều không thể tránh khỏi).
d. Maraṇa pariyosānaṃ me jivataṃ: Đời sống của ta có sự chết là nơi cuối cùng.
e. Jivatameva aniyataṃ: Đời sống chắc thật là không bền vững.
f. Maraṇaṃ niyataṃ: Cái chết thật bền vững (ý nói cái chết không hề thay đổi, nó phải đến với ta).
+ Đức Phật còn dạy chúng ta nên niệm hoặc quán tưởng thêm 8 điều nữa là:
1. Sự chết ví như đao thủ phủ đã đưa đao lên và chực chờ hạ xuống nơi cổ ta.
2. Sự chết của con người như tai nấm mọc từ dưới đất lên. Ý nói: Khi tai nấm mọc từ dưới đất lên thì thế nào trên đầu nó cũng có dính đất - ví như con người khi vừa tượng thai vào lòng mẹ thì cái chết dính liền theo.
3. Sự chết ví như mặt trời. Mặt trời mọc ở hướng Đông chắc chắn phải lặn về hướng Tây; từ cổ chí kim không bao giờ mặt trời lặn về hướng khác, mà cũng không bao giờ không lặn. Đời người cũng vậy, không bao giờ không chết, hễ đã sanh vào bào thai là tử thần đã kề liền vào cổ rồi.
4. Thân nầy là cái cỗ xe chở các thứ vi trùng và các chứng bệnh hiểm nguy.
5. Thân nầy thường bị biến đổi từng giờ phút theo thời gian mà chúng sanh không biết.
6. Thân nầy không có nơi nào nương tựa để tránh khỏi tay tử thần được.
7. Thân nầy ta chấp là của ta, nhưng ta không thể nhứt định thời giờ mà ta phải chết và chỗ ta chết được.
8. Đời sống của con người chỉ trong một sát-na thôi, ý nói đời sống của chúng sanh rất ngắn. (Một sát-na còn ngắn hơn một nháy mắt - ý câu này dạy rằng không còn thở là không còn có xác thân này rồi).
Đức Phật là đấng cao thượng hơn tất cả các bậc trí tuệ, ngài thường dạy chúng sanh cái nhân sanh ra quả. Khi có quả, nên bỏ đi không nên mến tiếc tham mê quả ấy mặc dù quả ngon. Tóm lại ngài dạy ngăn cái nhân và bỏ cái quả, cũng như ngài dạy không nên trồng cây. Khi chúng sanh đã lỡ trồng cây rồi, ngài dạy đốn bỏ, hay lỡ cây có trái, và trái đang hái, ngài dạy quăng trái luôn không nên dùng nó [3].
Người ta sở dĩ phải bị uất ức, ưu phiền, vì người ta vẫn luyến tiếc vật mà mình đã bị mất. Nếu ta không luyến tiếc thì ta không bị uất ức, tức nhiên không còn khổ, đó là chân hạnh phúc, là Niết-bàn rồi.
Đây tôi xin nhắc lại tích của gia đình nọ có 5 người và cô gái không than khóc uất ức vì thương yêu, nên được hạnh phúc.
“- Khi đức Thế Tôn ngự tại Kỳ Viên tịnh xá, có một người tên Kutumbi có con chết nên ông ta than khóc thê thảm, bỏ cả công ăn việc làm. Đức Thế Tôn trông thấy duyên lành người ấy, nên ngài mới ngự đến nhà. Khi an vị xong, ngài mới gọi Kutumbi ấy đến và hỏi:
- Người buồn khổ lắm phải không?
- Bạch đức Thế Tôn! Từ ngày con của đệ tử chết đến nay, đệ tử lấy làm đau khổ không sao kể xiết được.
- Này Kutumbi! Lẽ cố nhiên, các pháp hữu vi thì có sanh có diệt là lẽ thường; sự tan rã, tiêu vong và diệt mất ấy không phải để riêng cho một cá nhân, một gia đình, một xóm, hay một gia tộc nào - mà là của chung của tất cả chúng sanh. Hơn nữa, sống hoài không chết, pháp vô sanh bất diệt ấy, ta không thể nào tìm thấy trong vũ trụ này! Không ai có năng lực nào, quyền thế gì - làm cho chúng sanh còn trong dòng sanh tử luân hồi này khỏi chết được. Tất cả chúng sanh đều phải chết. Lẽ cố nhiên của các pháp hành, nếu có sanh thì có diệt không sao tránh khỏi được. Nhưng riêng các bậc trí thức thì không khi nào than khóc khi con chết, bởi họ nghĩ rằng, đó chẳng qua là pháp hữu vi cấu tạo, rồi lại phải tiêu diệt, nó hằng có sự tiêu hoại là lẽ tự nhiên”.
Đức Thế Tôn chỉ thuyết chừng ấy xong, ông Kutumbi mới yêu cầu đức Thế Tôn thuyết thêm, ngài lại kể một câu chuyện túc sanh trong quá khứ.
“- Thuở xưa, đức vua Brahmadatta trị vì tại kinh đô Bārāṇasī. Đức Bồ Tát sanh trong gia đình bà-la-môn làm ruộng, nhà ở gần cửa thành. Khi ấy, đức Bồ Tát mới cưới vợ cho con trai, cũng là dòng bà-la-môn cùng ở một làng. Tính tất thảy nhân số trong gia đình ngài có 6 người là: Ngài, vợ ngài, con gái, con trai, dâu và người ở gái. Sáu người này đều hòa thuận và rất kính thương nhau. Đức Bồ Tát thường dạy người nhà rằng: “Các ngươi nên giữ ngũ giới và tùy theo sức mình mà bố thí; hãy thọ thêm thập giới và chuyên trì thêm bát quan trai giới, phải có trí nhớ và luôn luôn phải niệm tưởng rằng: Ta sẽ chết là lẽ dĩ nhiên, đời sống con người rất bấp bênh, không vững chắc, đời sống con người không bảo đảm, mà của cải của ta đã có cũng bấp bênh như vậy. Cái chết chắc chắn sẽ đến cho ta, không tránh nơi đâu cho thoát được. Vậy các ngươi hãy công phu tu tập, tích lũy phước báu, không nên dễ duôi, phóng dật. Người nhà đều vâng lời ngài, chăm lo tu tập và niệm sự chết, không hề xao lãng.
Ngày nọ, nhằm mùa làm ruộng, đức Bồ Tát và con trai ra đồng lo cày ruộng. Đức Bồ Tát thì cày, con trai thì gom rác lại đốt gần bên một cái gò mối, trong gò mối ấy có một con rắn độc. Khi bị khói, rắn không chịu nổi bò ra, gặp người thanh niên đang đốt rác nó cắn chết tại chỗ. Khi đức Bồ Tát hay con mình đã chết rồi, ngài không than khóc, bồng con lại để nằm dưới một tàn cây, còn ngài vẫn đi cày như thường. Vì khi ấy ngài nghĩ rằng, sự thật khi các pháp hữu vi đã cấu tạo ra, thì cũng có ngày tan rã là thường nên dầu ta buồn thương cũng chẳng ích lợi chi: Vật phải chết đã chết rồi, vật phải tiêu diệt nay cũng đã tiêu diệt rồi. Tất cả các pháp hữu vi không bền vững là thế, cái kết quả thảm khốc nhứt đời, là ta phải dứt bỏ nó hay là nó bỏ ta. Không ai tránh khỏi hết.
Trong khi ấy, ngài trông thấy một người thanh niên cùng xóm đi ngang qua, ngài mới gọi lại:
- Con ơi! Con đang về nhà đấy phải không?
- Dạ thưa ông, phải!
- Vậy, con hãy vui lòng ghé ngang qua nhà tôi và bảo
người nhà tôi rằng, hôm nay, đừng đem ra hai phần cơm, chỉ đem ra một phần cơm thôi. Nhớ nhé! Mỗi ngày trước, người tớ gái đem cơm ra, hôm nay con bảo họ ra đây cả bốn người mà phải sửa soạn thay áo và tắm rửa cho sạch và phải có thêm một tràng hoa.
- Dạ được.
Người thanh niên ấy mới về nói cho người nhà của đức Bồ Tát hay. Bà vợ đức Bồ Tát mới hỏi:
- Nầy con! Ai là người cho nhắn tin ấy?
- Thưa bà, ông nhắn tin về cho bà.
Bà vợ của Bồ Tát là bậc có trí tuệ, trong một thoáng, bà biết là con trai của mình đã chết rồi! Mặc dầu bà biết thế chăng nữa, bà cũng không than khóc, bà tỉnh táo gọi con gái, con dâu và người tớ gái rồi nói rằng:
- Các con phải tắm rửa sạch sẽ, mặc xiêm áo tốt nhất, sắm một tràng hoa thật tươi. Sau đó, mang theo một phần cơm rồi ra ruộng cùng với ta, có việc đấy!
Các cô gái ban đầu hơi thắc mắc - nhưng đều là bậc trí tuệ, họ biết “có việc”và việc ấy là việc gì, lặng lẽ tắm rửa, thay y phục, mang một phần cơm rồi theo bà ra đi.
Khi bốn người đến nơi, họ thấy đức Bồ Tát đang cày ruộng như thường, không tỏ vẻ gì bi ai cả. Họ đem cơm lại, Bồ Tát dùng cơm tự nhiên. Khi ngài dùng cơm xong, chẳng ai han hỏi gì, năm người lo chất củi khô lại để làm hỏa đài. Ai cũng làm việc trong lặng lẽ, chẳng tỏ vẻ tiếc thương, buồn khổ gì cả. Làm hỏa đài xong, họ để thi hài lên rồi đốt lửa. Mọi người ngồi xung quanh, thầm niệm sự chết là điều không ai tránh khỏi, thế thôi!
Lòng trong sạch, an nhiên và vắng lặng của 5 người ấy làm cho ngai vàng của đức Đế Thích nóng lên; ngài lấy làm lạ không biết vì nguyên nhân gì, bèn dùng thiên nhãn thông xem coi, thì mới thấy câu chuyện của 5 người ấy. Đế Thích mới quyết định phải xuống hỏi rõ coi những người này hành phạm hạnh gì mà không bi lụy giữa cảnh sanh tử biệt ly. Ngài liền hiện ra một thầy bà-la-môn đến hỏa đài và hỏi rằng:
- Các người làm gì đây?
Đức Bồ Tát đáp:
- Tôi đang làm lễ hỏa táng!
Đức Đế Thích nói:
- Theo tôi tưởng, thì không phải là hỏa táng, mà các người đang chuẩn bị nướng thịt chi đây?
Đức Bồ Tát đáp:
- Thưa thầy bà-la-môn, chúng tôi không bao giờ biết nói dối, chúng tôi làm lễ hỏa táng thật!
Đức Đế thích hỏi:
- Nếu vậy, các người đang làm lễ hỏa táng người thù của các người chăng?
- Thưa thầy, người nầy không phải là người thù của chúng tôi, trái lại là người con chí thân của tôi.
- Nếu là đứa con chí thân của ông sao không thấy ông than khóc chi cả vậy?
Đức Bồ Tát muốn tỏ rằng sở dĩ mình không than khóc là vì lẽ đã quán tưởng nhiều về cái chết, nên nói câu kệ:
“- Uragavo tacaṃ jiṇṇaṃ hitvā gacchati santanaṃ
Eva sarīra nibbhoge pete kālakate sati
Dayhamāno na jānāti nātīnaṃ paridevataṃ
Tasmā etaṃ na socati tato so tassa yagati”[4].
Nghĩa là: Một khi con rắn đã lột da rồi, nó không còn mến tiếc da cũ. Cũng như con tôi bỏ xác thân này rồi, đã sanh về cảnh giới khác rồi, thì sự khóc than bi lụy có cần thiết và có ích lợi gì đâu. Con tôi nay đã chết rồi - thì cái thân của nó dù có đâm, có chém nó cũng chẳng biết gì; nó có còn thiết gì đến quyến thuộc mà lại thương tiếc, khóc than? Nhân như thế nào thì quả nó như thế ấy!”
Đức Đế Thích nghe thế mới day qua hỏi bà vợ của đức Bồ Tát rằng:
- Thưa bà, vậy người chết đây là chi của bà.
Bà đáp:
- Người chết này là con trai yêu quý của tôi.
- Ô! Phàm người làm cha thì thường có tâm cứng rắn, đó là lòng của người đàn ông, tôi không thấy làm lạ; còn trái tim của người mẹ thường rất mềm yếu, nhưng tại sao con trai mất mà bà lại thản nhiên như vậy được?
Bà có vẻ suy nghĩ một chút rồi đọc lên câu kệ:
“- Anabbhito tato agā nānuata oto gato
Yathā gato tathā gato tathā kā parivedana
Dayhamāno na jānāti nātīnaṃ paridevataṃ
Tasmā etaṃ na socati gato tassa yagati”.
Nghĩa là: Con tôi đây, tôi không mời mà nó từ cảnh giới khác tìm đến. Tự nó sanh vào nhà tôi. Đến khi từ bỏ cõi nầy, nó cũng không xin phép tôi. Như vậy, nó đến là tùy ý nó, ra đi cũng tùy ý nó - thì sự than khóc, thương tiếc cái xác thân của con tôi đây, nào có ích lợi gì? Một khi con tôi bị lửa đốt cháy như thế nầy, mà nó cũng không biết vui hay khổ, thì nó nào có biết cảm xúc bởi những giọt lệ của thân nhân? Vì lẽ ấy nên tôi không than khóc, không thương tiếc! Con người gieo nhân như thế nào thì được quả như thế ấy.
Đế Thích mới quay sang hỏi cô con gái của đức Bồ Tát rằng:
- Người nầy là chi của cô?
- Thưa thầy, người nầy là anh ruột của tôi.
- Lẽ cố nhiên cô là thiếu nữ hằng thương mến anh trai, tại
sao cô không bi lụy giữa tình cảnh biệt ly như thế nầy?
Cô gái ngước đôi mắt trong sáng, an nhiên nhìn lão bà-la-môn (Đế Thích) đọc lên một câu kệ:
“- Sace rode kīsā assaṃ tassā ne kim phalaṃ siya
Nātimmittā suhajānaṃ bhiyo no arati siya
Deyhamāno na jānāti nātīnaṃ paridevataṃ
Tasmā etaṃ na rocemi tata so tassa yagati”.
Nghĩa là: Một khi anh tôi đã chết, tôi có than khóc thì chỉ chuốc lấy cái ốm o gầy mòn, anh tôi chẳng được lợi ích gì, chỉ tôi là người bị thiệt hại thôi. Những sự khổ đau do thương mến, than khóc, tiếc nuối của cha mẹ, vợ và em gái - anh tôi chẳng hay biết gì cả. Vì vậy, than khóc là chuyện vô ích. Người tạo ra duyên nghiệp như thế nào thì sanh theo duyên nghiệp như thế ấy.
Đức Đế Thích rất ngưỡng mộ công phu tu tập cả ba người, bèn hỏi tiếp cô con dâu trong gia đình Bồ Tát:
- Cô, người chết ấy là chi của cô?
- Thưa ông, người chết ấy là chồng tôi.
- Lẽ cố nhiên tình nghĩa vợ chồng là phải thương yêu nhau lắm; phàm một người chết, thì người còn sống được xem như là chết hết nửa người, thế gian gọi người ấy là quả phụ. Tại sao cô lại không than khóc, khi thấy rằng trên đời nầy cô đã mất đi vĩnh viễn tình thương yêu đậm đà và tha thiết nhứt?
Cô dâu bắt chước cha, mẹ và cô em gái, cũng đọc lên một bài kệ khác:
“- Yathā pi dārako candaṃ gacchantaṃ anurodati
Evaṃ sampademevedaṃ yo petāmanussocati
Deyhamāno na jānāti nātīnaṃ paridevataṃ
Tasmā etaṃ na socāmi gatoso tassa yagati”.
Nghĩa là: Đứa bé chưa hiểu sự đời, khi nó trông mặt trăng đang di chuyển trên không, nó cứ theo đòi (muốn đem về chơi); điều này cũng ví như người đời kêu khóc người đã quá vãng, thật là không có ích gì cả. Chồng tôi một khi bị đốt trên hỏa đài mà cũng không hay biết gì cả, thì chồng tôi đâu biết rằng quyến thuộc vợ con đang khóc. Vì cớ ấy nên tôi chẳng than khóc thương tiếc. Phàm người tạo nghiệp nào thì thọ hưởng quả nấy.
Cuối cùng, Đế Thích hỏi người tớ gái:
- Người chết nầy là chi của cô?
- Thưa thầy, người ấy là chủ của tôi.
- Có lẽ cô thường bị người chủ hành hạ đánh đập khổ sở lắm nên khi người ấy chết cô không than khóc thương tiếc chi cả - vì cô nghĩ rằng người nầy có chết đi chỉ là một chuyện may cho ta khỏi bị đòn vọt hành hạ khổ sở nữa.
- Xin thầy đừng nói thế, không đúng với sự thật! Chủ của tôi, người chết đây - là bậc có đầy đủ nhiều đức tánh tốt
như nhẫn nại, từ bi... đối với tôi - không khác nào anh em
cùng một cha một mẹ vậy.
- Nếu thế tại sao cô lại không khóc?
Người tớ gái cũng tỏ ra là người có học thức và có tu chứng, đọc lên một bài kệ khác nữa:
“- Yathā pi udakumbho bhinno appatisandiyo
Evaṃ sampadamevedaṃ yo petāmanussocati
Deyhamāno na jānāti nātinaṃ paridevataṃ
Tasmā etaṃ na socāmi gato so tassa yagati”.
Nghĩa là: Cái nồi đất đã bị bể, không thể ráp cho nó liền được như trước, cũng như người trên hỏa đài còn không biết gì thay, phương chi quyến thuộc than van, khóc lóc thì có ích gì, người chết có sống lại được đâu. Vì lẽ đó nên tôi không than khóc, không phiền muộn. Chúng sanh đã tạo những gì thì phải đi theo cái ấy.
Sau khi nghe 5 người nói, cùng một ý tưởng như nhau, cùng một sự thuần thục về đề mục niệm sự chết như nhau, cùng đạt được một sự an tĩnh, điềm nhiên đến phi thường - đức Đế Thích vô cùng ngưỡng mộ, phát tâm tịnh tín, hiện ra thân tướng Đế Thích thiên vương với thiên bào mũ miện chói ngời hào quang ngũ sắc, đứng lừng lững giữa hư không, cất tiếng nói nghiêm uy lồng lộng giữa trời mây:
- Ta chính là Đế Thích thiên chủ! Ta hiện xuống đây là vì công phu tu tập niệm sự chết của các người đã tỏa ra năng lực phước báu có thể nung nóng tảng đá vàng 60 do-tuần thiên ngai của ta. Ta vô cùng quý mến. Vậy, hãy cho ta thực hiện một chút công đức. Từ rày về sau, các người không cần phải làm lụng cực nhọc nữa. Hãy đi về nhà! Hãy sử dụng những rương vàng, những rương bạc do ta phụng cúng để nuôi sống bản thân, giữ giới hạnh, bố thí, tu tập cho đến mãn đời”.
Câu chuyện này, sau đó được thuyết lại nhiều lần tại Kỳ Viên; và đức Thế Tôn còn tiết lộ cho biết rằng:
“- Các thầy có biết mấy người ấy là ai chăng? Cô tớ gái thuở xưa ấy, nay chính là nàng Khujjuttarā [5]. Người con gái, hiện tại là cô Uppalavaṇṇā (Liên Hoa Sắc), người con trai là La Hầu La, người mẹ là cô Khemā; còn vị bà-la-môn làm ruộng ấy chính là Như lai vậy”.
Tích nầy cho quý vị thấy rằng: không ai chạy khỏi chết và khi người đã chết mà ta uất ức, tiếc thương thì thật là không lợi ích gì cả.
+ Khi người không uất ức được những hạnh phúc là:
1. Tâm đã dạy niệm sự chết hằng ngày, nên không buồn
phiền uất ức khi gặp cảnh sanh ly tử biệt.
2. Trí nhớ luôn kiểm soát tâm và hằng niệm đến sự chết.
3. Năm điều chướng ngại sẽ được từ từ yên lặng [6].
4. Thiền định sẽ phát sanh [7].
5. Là người luôn luôn không dễ duôi.
6. Người chán trong cõi sanh tử luân hồi.
7. Bỏ sự dính mắc ái luyến của đời sống.
8. Là người hằng chỉ trích tội lỗi của mình.
9. Người có nhiều phước thiện sẵn sàng để đem về cõi khác.
10. Không còn bỏn xẻn.
11. Thấy rõ vô thường, khổ não và vô ngã.
12. Không kinh khủng trước tử thần.
13. Là phước báu cao thượng.
14. Không sanh vào ác đạo.
15. Giải thoát khỏi phiền não.
16. Đến nơi an vui tuyệt đối là Niết-bàn.
(Vô ưu, không buồn phiền)
Asokaṃ nghĩa là không uất ức. Phạn ngữ asoka có thể chiết tự để giải cho dễ hiểu hơn.
A có nghĩa là không, soka có nghĩa là thấp xuống, tâm khô héo, ưu phiền, dường như là tâm bị ghim vào mũi tên.
Khi ráp hai chữ lại thành asoka thì nghĩa chung là: Tâm không uất ức, không ưu phiền, không khô héo, không bị gim bởi mũi tên. Asoka còn có một nghĩa khác hơn là vắng lặng sự uất ức, ưu phiền, bực tức, buồn rầu. Nên asoka có nghĩa là tâm không bị phiền não ngự trị. Chốt lại là: Vô ưu hay Niết-bàn.
Sau đây tôi xin xét lại - thế nào là uất ức và thế nào là chấm dứt sự uất ức:
- Vật gì, hiện tượng gì, nguyên nhân nào làm cho tâm ta bị uất ức?
- Sau khi diệt trừ được uất ức, không còn sự uất ức thì trạng thái tâm sẽ ra sao?
Làm người không ai chạy khỏi sự uất ức, nên chi nơi đây tôi không giải trạng thái của sự uất ức vì ai ai cũng biết, mà chỉ giải về nguyên nhân làm cho tâm uất ức.
Có nhiều nguyên nhân làm cho tâm uất ức, theo câu Phật ngôn dạy trong Pháp cú kinh rằng:
“- Pemato jāyate soko
Pemto jāyati bhayaṃ
Pemato vippamuttassa
Natthi soko kuto bhayaṃ”[2].
Nghĩa là: Thương yêu sanh ra uất ức, thương yêu sanh ra lo sợ, nếu dứt được thương yêu thì sự uất ức lo sợ sẽ không còn có nữa.
Ý câu Phật ngôn này dạy rằng: Người bị uất ức hành hạ là do nơi sự thương yêu. Sự thương yêu càng nhiều, càng mạnh, thì sự uất ức càng lớn. Sự thương yêu ví như thủy triều càng lên cao thì mọi vật nổi lên cao. Tâm thương yêu nhiều thì khổ lại cao. Khi tâm yêu thương vật gì mà vật ấy mất, sanh thất vọng thì có uất ức. Khi không có thương yêu, thì làm gì có uất ức hay thất vọng.
Quý vị cũng từng biết, trước sanh tử biệt ly là cảnh rất đỗi đau khổ, mà chúng ta ai cũng phải trải qua nhiều hay ít; vậy chúng ta ai ai cũng nhận thức cái đau khổ ấy và chắc chắn rằng ngày nào đây ta phải còn gặp cảnh ấy nữa. Sự chắc thật không thể nào thoát khỏi, là ta phải bỏ thân nầy ra đi với nghiệp mà ta đã làm, mặc dầu ta giàu sang quyền chức, có nhiều thế lực, anh em vợ con, những nhân vật này không làm sao cho ta ở lại được, mặc dầu họ rất thương tiếc ta.
Đức Thế Tôn nhận rõ sự uất ức là tai hại khủng khiếp mà chúng sanh còn trong tam giới không sao tránh khỏi. Vì vậy đức Thế Tôn quan tâm giáo huấn, dạy ta không nên để cho sự uất ức ngự trị lòng mình.
+ Đức Thế Tôn dạy hai phương pháp ngăn ngừa và diệt trừ sự uất ức ấy:
1. Hằng niệm về sự chết:
a. Sattanaṃ maraṇadhuvaṃ: Chắc chắn tất cả chúng sanh đều phải chết.
b. Jivataṃ adhuvaṃ: Sanh mạng của tất cả chúng sanh đều không bền vững (nghĩa là phải chết).
c. Sabbe saṅkhārā aniccā: Tất cả các pháp hành đều vô thường. Hoặc: Tất cả các pháp hành không bền vững, hằng thay đổi từng giờ phút, vậy các người không nên dễ duôi.
2. Từ đó, ta chiêm nghiệm:
a. Adhuvaṃ jivataṃ: Đời sống không bền vững, không chắc chắn, không chắc thật.
b. Dhuvaṃmaraṇaṃ: Sự chết rất chắc chắn, là điều tất
nhiên (không ai chạy nổi).
c. Avassaṃ mayā maritabbaṃ: Ta chắc chắn phải chết (là điều không thể tránh khỏi).
d. Maraṇa pariyosānaṃ me jivataṃ: Đời sống của ta có sự chết là nơi cuối cùng.
e. Jivatameva aniyataṃ: Đời sống chắc thật là không bền vững.
f. Maraṇaṃ niyataṃ: Cái chết thật bền vững (ý nói cái chết không hề thay đổi, nó phải đến với ta).
+ Đức Phật còn dạy chúng ta nên niệm hoặc quán tưởng thêm 8 điều nữa là:
1. Sự chết ví như đao thủ phủ đã đưa đao lên và chực chờ hạ xuống nơi cổ ta.
2. Sự chết của con người như tai nấm mọc từ dưới đất lên. Ý nói: Khi tai nấm mọc từ dưới đất lên thì thế nào trên đầu nó cũng có dính đất - ví như con người khi vừa tượng thai vào lòng mẹ thì cái chết dính liền theo.
3. Sự chết ví như mặt trời. Mặt trời mọc ở hướng Đông chắc chắn phải lặn về hướng Tây; từ cổ chí kim không bao giờ mặt trời lặn về hướng khác, mà cũng không bao giờ không lặn. Đời người cũng vậy, không bao giờ không chết, hễ đã sanh vào bào thai là tử thần đã kề liền vào cổ rồi.
4. Thân nầy là cái cỗ xe chở các thứ vi trùng và các chứng bệnh hiểm nguy.
5. Thân nầy thường bị biến đổi từng giờ phút theo thời gian mà chúng sanh không biết.
6. Thân nầy không có nơi nào nương tựa để tránh khỏi tay tử thần được.
7. Thân nầy ta chấp là của ta, nhưng ta không thể nhứt định thời giờ mà ta phải chết và chỗ ta chết được.
8. Đời sống của con người chỉ trong một sát-na thôi, ý nói đời sống của chúng sanh rất ngắn. (Một sát-na còn ngắn hơn một nháy mắt - ý câu này dạy rằng không còn thở là không còn có xác thân này rồi).
Đức Phật là đấng cao thượng hơn tất cả các bậc trí tuệ, ngài thường dạy chúng sanh cái nhân sanh ra quả. Khi có quả, nên bỏ đi không nên mến tiếc tham mê quả ấy mặc dù quả ngon. Tóm lại ngài dạy ngăn cái nhân và bỏ cái quả, cũng như ngài dạy không nên trồng cây. Khi chúng sanh đã lỡ trồng cây rồi, ngài dạy đốn bỏ, hay lỡ cây có trái, và trái đang hái, ngài dạy quăng trái luôn không nên dùng nó [3].
Người ta sở dĩ phải bị uất ức, ưu phiền, vì người ta vẫn luyến tiếc vật mà mình đã bị mất. Nếu ta không luyến tiếc thì ta không bị uất ức, tức nhiên không còn khổ, đó là chân hạnh phúc, là Niết-bàn rồi.
Đây tôi xin nhắc lại tích của gia đình nọ có 5 người và cô gái không than khóc uất ức vì thương yêu, nên được hạnh phúc.
“- Khi đức Thế Tôn ngự tại Kỳ Viên tịnh xá, có một người tên Kutumbi có con chết nên ông ta than khóc thê thảm, bỏ cả công ăn việc làm. Đức Thế Tôn trông thấy duyên lành người ấy, nên ngài mới ngự đến nhà. Khi an vị xong, ngài mới gọi Kutumbi ấy đến và hỏi:
- Người buồn khổ lắm phải không?
- Bạch đức Thế Tôn! Từ ngày con của đệ tử chết đến nay, đệ tử lấy làm đau khổ không sao kể xiết được.
- Này Kutumbi! Lẽ cố nhiên, các pháp hữu vi thì có sanh có diệt là lẽ thường; sự tan rã, tiêu vong và diệt mất ấy không phải để riêng cho một cá nhân, một gia đình, một xóm, hay một gia tộc nào - mà là của chung của tất cả chúng sanh. Hơn nữa, sống hoài không chết, pháp vô sanh bất diệt ấy, ta không thể nào tìm thấy trong vũ trụ này! Không ai có năng lực nào, quyền thế gì - làm cho chúng sanh còn trong dòng sanh tử luân hồi này khỏi chết được. Tất cả chúng sanh đều phải chết. Lẽ cố nhiên của các pháp hành, nếu có sanh thì có diệt không sao tránh khỏi được. Nhưng riêng các bậc trí thức thì không khi nào than khóc khi con chết, bởi họ nghĩ rằng, đó chẳng qua là pháp hữu vi cấu tạo, rồi lại phải tiêu diệt, nó hằng có sự tiêu hoại là lẽ tự nhiên”.
Đức Thế Tôn chỉ thuyết chừng ấy xong, ông Kutumbi mới yêu cầu đức Thế Tôn thuyết thêm, ngài lại kể một câu chuyện túc sanh trong quá khứ.
“- Thuở xưa, đức vua Brahmadatta trị vì tại kinh đô Bārāṇasī. Đức Bồ Tát sanh trong gia đình bà-la-môn làm ruộng, nhà ở gần cửa thành. Khi ấy, đức Bồ Tát mới cưới vợ cho con trai, cũng là dòng bà-la-môn cùng ở một làng. Tính tất thảy nhân số trong gia đình ngài có 6 người là: Ngài, vợ ngài, con gái, con trai, dâu và người ở gái. Sáu người này đều hòa thuận và rất kính thương nhau. Đức Bồ Tát thường dạy người nhà rằng: “Các ngươi nên giữ ngũ giới và tùy theo sức mình mà bố thí; hãy thọ thêm thập giới và chuyên trì thêm bát quan trai giới, phải có trí nhớ và luôn luôn phải niệm tưởng rằng: Ta sẽ chết là lẽ dĩ nhiên, đời sống con người rất bấp bênh, không vững chắc, đời sống con người không bảo đảm, mà của cải của ta đã có cũng bấp bênh như vậy. Cái chết chắc chắn sẽ đến cho ta, không tránh nơi đâu cho thoát được. Vậy các ngươi hãy công phu tu tập, tích lũy phước báu, không nên dễ duôi, phóng dật. Người nhà đều vâng lời ngài, chăm lo tu tập và niệm sự chết, không hề xao lãng.
Ngày nọ, nhằm mùa làm ruộng, đức Bồ Tát và con trai ra đồng lo cày ruộng. Đức Bồ Tát thì cày, con trai thì gom rác lại đốt gần bên một cái gò mối, trong gò mối ấy có một con rắn độc. Khi bị khói, rắn không chịu nổi bò ra, gặp người thanh niên đang đốt rác nó cắn chết tại chỗ. Khi đức Bồ Tát hay con mình đã chết rồi, ngài không than khóc, bồng con lại để nằm dưới một tàn cây, còn ngài vẫn đi cày như thường. Vì khi ấy ngài nghĩ rằng, sự thật khi các pháp hữu vi đã cấu tạo ra, thì cũng có ngày tan rã là thường nên dầu ta buồn thương cũng chẳng ích lợi chi: Vật phải chết đã chết rồi, vật phải tiêu diệt nay cũng đã tiêu diệt rồi. Tất cả các pháp hữu vi không bền vững là thế, cái kết quả thảm khốc nhứt đời, là ta phải dứt bỏ nó hay là nó bỏ ta. Không ai tránh khỏi hết.
Trong khi ấy, ngài trông thấy một người thanh niên cùng xóm đi ngang qua, ngài mới gọi lại:
- Con ơi! Con đang về nhà đấy phải không?
- Dạ thưa ông, phải!
- Vậy, con hãy vui lòng ghé ngang qua nhà tôi và bảo
người nhà tôi rằng, hôm nay, đừng đem ra hai phần cơm, chỉ đem ra một phần cơm thôi. Nhớ nhé! Mỗi ngày trước, người tớ gái đem cơm ra, hôm nay con bảo họ ra đây cả bốn người mà phải sửa soạn thay áo và tắm rửa cho sạch và phải có thêm một tràng hoa.
- Dạ được.
Người thanh niên ấy mới về nói cho người nhà của đức Bồ Tát hay. Bà vợ đức Bồ Tát mới hỏi:
- Nầy con! Ai là người cho nhắn tin ấy?
- Thưa bà, ông nhắn tin về cho bà.
Bà vợ của Bồ Tát là bậc có trí tuệ, trong một thoáng, bà biết là con trai của mình đã chết rồi! Mặc dầu bà biết thế chăng nữa, bà cũng không than khóc, bà tỉnh táo gọi con gái, con dâu và người tớ gái rồi nói rằng:
- Các con phải tắm rửa sạch sẽ, mặc xiêm áo tốt nhất, sắm một tràng hoa thật tươi. Sau đó, mang theo một phần cơm rồi ra ruộng cùng với ta, có việc đấy!
Các cô gái ban đầu hơi thắc mắc - nhưng đều là bậc trí tuệ, họ biết “có việc”và việc ấy là việc gì, lặng lẽ tắm rửa, thay y phục, mang một phần cơm rồi theo bà ra đi.
Khi bốn người đến nơi, họ thấy đức Bồ Tát đang cày ruộng như thường, không tỏ vẻ gì bi ai cả. Họ đem cơm lại, Bồ Tát dùng cơm tự nhiên. Khi ngài dùng cơm xong, chẳng ai han hỏi gì, năm người lo chất củi khô lại để làm hỏa đài. Ai cũng làm việc trong lặng lẽ, chẳng tỏ vẻ tiếc thương, buồn khổ gì cả. Làm hỏa đài xong, họ để thi hài lên rồi đốt lửa. Mọi người ngồi xung quanh, thầm niệm sự chết là điều không ai tránh khỏi, thế thôi!
Lòng trong sạch, an nhiên và vắng lặng của 5 người ấy làm cho ngai vàng của đức Đế Thích nóng lên; ngài lấy làm lạ không biết vì nguyên nhân gì, bèn dùng thiên nhãn thông xem coi, thì mới thấy câu chuyện của 5 người ấy. Đế Thích mới quyết định phải xuống hỏi rõ coi những người này hành phạm hạnh gì mà không bi lụy giữa cảnh sanh tử biệt ly. Ngài liền hiện ra một thầy bà-la-môn đến hỏa đài và hỏi rằng:
- Các người làm gì đây?
Đức Bồ Tát đáp:
- Tôi đang làm lễ hỏa táng!
Đức Đế Thích nói:
- Theo tôi tưởng, thì không phải là hỏa táng, mà các người đang chuẩn bị nướng thịt chi đây?
Đức Bồ Tát đáp:
- Thưa thầy bà-la-môn, chúng tôi không bao giờ biết nói dối, chúng tôi làm lễ hỏa táng thật!
Đức Đế thích hỏi:
- Nếu vậy, các người đang làm lễ hỏa táng người thù của các người chăng?
- Thưa thầy, người nầy không phải là người thù của chúng tôi, trái lại là người con chí thân của tôi.
- Nếu là đứa con chí thân của ông sao không thấy ông than khóc chi cả vậy?
Đức Bồ Tát muốn tỏ rằng sở dĩ mình không than khóc là vì lẽ đã quán tưởng nhiều về cái chết, nên nói câu kệ:
“- Uragavo tacaṃ jiṇṇaṃ hitvā gacchati santanaṃ
Eva sarīra nibbhoge pete kālakate sati
Dayhamāno na jānāti nātīnaṃ paridevataṃ
Tasmā etaṃ na socati tato so tassa yagati”[4].
Nghĩa là: Một khi con rắn đã lột da rồi, nó không còn mến tiếc da cũ. Cũng như con tôi bỏ xác thân này rồi, đã sanh về cảnh giới khác rồi, thì sự khóc than bi lụy có cần thiết và có ích lợi gì đâu. Con tôi nay đã chết rồi - thì cái thân của nó dù có đâm, có chém nó cũng chẳng biết gì; nó có còn thiết gì đến quyến thuộc mà lại thương tiếc, khóc than? Nhân như thế nào thì quả nó như thế ấy!”
Đức Đế Thích nghe thế mới day qua hỏi bà vợ của đức Bồ Tát rằng:
- Thưa bà, vậy người chết đây là chi của bà.
Bà đáp:
- Người chết này là con trai yêu quý của tôi.
- Ô! Phàm người làm cha thì thường có tâm cứng rắn, đó là lòng của người đàn ông, tôi không thấy làm lạ; còn trái tim của người mẹ thường rất mềm yếu, nhưng tại sao con trai mất mà bà lại thản nhiên như vậy được?
Bà có vẻ suy nghĩ một chút rồi đọc lên câu kệ:
“- Anabbhito tato agā nānuata oto gato
Yathā gato tathā gato tathā kā parivedana
Dayhamāno na jānāti nātīnaṃ paridevataṃ
Tasmā etaṃ na socati gato tassa yagati”.
Nghĩa là: Con tôi đây, tôi không mời mà nó từ cảnh giới khác tìm đến. Tự nó sanh vào nhà tôi. Đến khi từ bỏ cõi nầy, nó cũng không xin phép tôi. Như vậy, nó đến là tùy ý nó, ra đi cũng tùy ý nó - thì sự than khóc, thương tiếc cái xác thân của con tôi đây, nào có ích lợi gì? Một khi con tôi bị lửa đốt cháy như thế nầy, mà nó cũng không biết vui hay khổ, thì nó nào có biết cảm xúc bởi những giọt lệ của thân nhân? Vì lẽ ấy nên tôi không than khóc, không thương tiếc! Con người gieo nhân như thế nào thì được quả như thế ấy.
Đế Thích mới quay sang hỏi cô con gái của đức Bồ Tát rằng:
- Người nầy là chi của cô?
- Thưa thầy, người nầy là anh ruột của tôi.
- Lẽ cố nhiên cô là thiếu nữ hằng thương mến anh trai, tại
sao cô không bi lụy giữa tình cảnh biệt ly như thế nầy?
Cô gái ngước đôi mắt trong sáng, an nhiên nhìn lão bà-la-môn (Đế Thích) đọc lên một câu kệ:
“- Sace rode kīsā assaṃ tassā ne kim phalaṃ siya
Nātimmittā suhajānaṃ bhiyo no arati siya
Deyhamāno na jānāti nātīnaṃ paridevataṃ
Tasmā etaṃ na rocemi tata so tassa yagati”.
Nghĩa là: Một khi anh tôi đã chết, tôi có than khóc thì chỉ chuốc lấy cái ốm o gầy mòn, anh tôi chẳng được lợi ích gì, chỉ tôi là người bị thiệt hại thôi. Những sự khổ đau do thương mến, than khóc, tiếc nuối của cha mẹ, vợ và em gái - anh tôi chẳng hay biết gì cả. Vì vậy, than khóc là chuyện vô ích. Người tạo ra duyên nghiệp như thế nào thì sanh theo duyên nghiệp như thế ấy.
Đức Đế Thích rất ngưỡng mộ công phu tu tập cả ba người, bèn hỏi tiếp cô con dâu trong gia đình Bồ Tát:
- Cô, người chết ấy là chi của cô?
- Thưa ông, người chết ấy là chồng tôi.
- Lẽ cố nhiên tình nghĩa vợ chồng là phải thương yêu nhau lắm; phàm một người chết, thì người còn sống được xem như là chết hết nửa người, thế gian gọi người ấy là quả phụ. Tại sao cô lại không than khóc, khi thấy rằng trên đời nầy cô đã mất đi vĩnh viễn tình thương yêu đậm đà và tha thiết nhứt?
Cô dâu bắt chước cha, mẹ và cô em gái, cũng đọc lên một bài kệ khác:
“- Yathā pi dārako candaṃ gacchantaṃ anurodati
Evaṃ sampademevedaṃ yo petāmanussocati
Deyhamāno na jānāti nātīnaṃ paridevataṃ
Tasmā etaṃ na socāmi gatoso tassa yagati”.
Nghĩa là: Đứa bé chưa hiểu sự đời, khi nó trông mặt trăng đang di chuyển trên không, nó cứ theo đòi (muốn đem về chơi); điều này cũng ví như người đời kêu khóc người đã quá vãng, thật là không có ích gì cả. Chồng tôi một khi bị đốt trên hỏa đài mà cũng không hay biết gì cả, thì chồng tôi đâu biết rằng quyến thuộc vợ con đang khóc. Vì cớ ấy nên tôi chẳng than khóc thương tiếc. Phàm người tạo nghiệp nào thì thọ hưởng quả nấy.
Cuối cùng, Đế Thích hỏi người tớ gái:
- Người chết nầy là chi của cô?
- Thưa thầy, người ấy là chủ của tôi.
- Có lẽ cô thường bị người chủ hành hạ đánh đập khổ sở lắm nên khi người ấy chết cô không than khóc thương tiếc chi cả - vì cô nghĩ rằng người nầy có chết đi chỉ là một chuyện may cho ta khỏi bị đòn vọt hành hạ khổ sở nữa.
- Xin thầy đừng nói thế, không đúng với sự thật! Chủ của tôi, người chết đây - là bậc có đầy đủ nhiều đức tánh tốt
như nhẫn nại, từ bi... đối với tôi - không khác nào anh em
cùng một cha một mẹ vậy.
- Nếu thế tại sao cô lại không khóc?
Người tớ gái cũng tỏ ra là người có học thức và có tu chứng, đọc lên một bài kệ khác nữa:
“- Yathā pi udakumbho bhinno appatisandiyo
Evaṃ sampadamevedaṃ yo petāmanussocati
Deyhamāno na jānāti nātinaṃ paridevataṃ
Tasmā etaṃ na socāmi gato so tassa yagati”.
Nghĩa là: Cái nồi đất đã bị bể, không thể ráp cho nó liền được như trước, cũng như người trên hỏa đài còn không biết gì thay, phương chi quyến thuộc than van, khóc lóc thì có ích gì, người chết có sống lại được đâu. Vì lẽ đó nên tôi không than khóc, không phiền muộn. Chúng sanh đã tạo những gì thì phải đi theo cái ấy.
Sau khi nghe 5 người nói, cùng một ý tưởng như nhau, cùng một sự thuần thục về đề mục niệm sự chết như nhau, cùng đạt được một sự an tĩnh, điềm nhiên đến phi thường - đức Đế Thích vô cùng ngưỡng mộ, phát tâm tịnh tín, hiện ra thân tướng Đế Thích thiên vương với thiên bào mũ miện chói ngời hào quang ngũ sắc, đứng lừng lững giữa hư không, cất tiếng nói nghiêm uy lồng lộng giữa trời mây:
- Ta chính là Đế Thích thiên chủ! Ta hiện xuống đây là vì công phu tu tập niệm sự chết của các người đã tỏa ra năng lực phước báu có thể nung nóng tảng đá vàng 60 do-tuần thiên ngai của ta. Ta vô cùng quý mến. Vậy, hãy cho ta thực hiện một chút công đức. Từ rày về sau, các người không cần phải làm lụng cực nhọc nữa. Hãy đi về nhà! Hãy sử dụng những rương vàng, những rương bạc do ta phụng cúng để nuôi sống bản thân, giữ giới hạnh, bố thí, tu tập cho đến mãn đời”.
Câu chuyện này, sau đó được thuyết lại nhiều lần tại Kỳ Viên; và đức Thế Tôn còn tiết lộ cho biết rằng:
“- Các thầy có biết mấy người ấy là ai chăng? Cô tớ gái thuở xưa ấy, nay chính là nàng Khujjuttarā [5]. Người con gái, hiện tại là cô Uppalavaṇṇā (Liên Hoa Sắc), người con trai là La Hầu La, người mẹ là cô Khemā; còn vị bà-la-môn làm ruộng ấy chính là Như lai vậy”.
Tích nầy cho quý vị thấy rằng: không ai chạy khỏi chết và khi người đã chết mà ta uất ức, tiếc thương thì thật là không lợi ích gì cả.
+ Khi người không uất ức được những hạnh phúc là:
1. Tâm đã dạy niệm sự chết hằng ngày, nên không buồn
phiền uất ức khi gặp cảnh sanh ly tử biệt.
2. Trí nhớ luôn kiểm soát tâm và hằng niệm đến sự chết.
3. Năm điều chướng ngại sẽ được từ từ yên lặng [6].
4. Thiền định sẽ phát sanh [7].
5. Là người luôn luôn không dễ duôi.
6. Người chán trong cõi sanh tử luân hồi.
7. Bỏ sự dính mắc ái luyến của đời sống.
8. Là người hằng chỉ trích tội lỗi của mình.
9. Người có nhiều phước thiện sẵn sàng để đem về cõi khác.
10. Không còn bỏn xẻn.
11. Thấy rõ vô thường, khổ não và vô ngã.
12. Không kinh khủng trước tử thần.
13. Là phước báu cao thượng.
14. Không sanh vào ác đạo.
15. Giải thoát khỏi phiền não.
16. Đến nơi an vui tuyệt đối là Niết-bàn.
Virajaṃ: Dứt khỏi phiền não
(Vô nhiễm)
Phạm ngữ raja nghĩa là bụi nhơ, ngụ ý chỉ là phiền não, còn vi nghĩa là không hoặc ra khỏi. Phiền não sanh trong tâm của ai, làm cho tâm người ấy nhơ đục, như là bụi làm cho vật dụng dơ; khi ta thấy vật dụng dơ thì ta nhờm gớm, ta không muốn nó đến, nếu phải cần sờ đụng thì lật đật đi rửa. Nếu tay chân ta bị dơ, ta có thể rửa được, thân bị bẩn, ta có thể tắm được; chớ khi tâm đã nhơ đục rồi thì không có thứ nước nào rửa cho sạch được cả.
Phiền não là những gì? Phiền não nếu kể ra thì rất nhiều - nếu căn cứ vào những danh từ khác nhau mà đức Thế Tôn đã dùng, nhưng chung quy, chỉ có ba tam độc là tham lam, sân hận và si mê mà thôi.
Nơi đây tôi xin nhắc câu Phật dạy ngài đại đức Cūḷapanthaka trong bộ Kinh pháp cú rằng: Rāgo rājo na ca pana reṇu vuccati... nghĩa là: Tiếng bụi nhơ đây ngụ ý nói là sự tham ái, chớ không phải là bụi thường, nên các thầy Tỳ khưu dứt bỏ bụi nhơ, tức là dứt bỏ tham ái, sẽ được an vui, trong đạo hạnh thanh cao.
(Câu thứ nhì và câu thứ ba có nghĩa khác nhau nhưng chỉ khác tên của phiền não là đổi tham ái ra sân và si mê) [8].
+ Đây là nguyên nhân sanh phiền não:
1. Nguyên nhân sanh ái dục có hai điều là:
- Thích để ý đến lời ca tụng, về sự giàu có và sắc đẹp.
- Thích và để ý đến sắc đẹp của mình hay người ngoài mình.
+ Đây là nguyên nhân dập tắt tham ái:
- Cố tâm để ý vào lời khuyên giải chỉ dạy và sự chỉ trích về cái tội của ngũ trần và sự chấp thủ, tham đắm sắc đẹp.
- Cố tâm quan sát suy nghĩ cái tội và cái hại của sắc đẹp và sự tham đắm trong ngũ trần.
2. Đây là nguyên nhân sanh sân:
- Thích và để ý đến lời nói làm cho mình sân, thích và để ý đến điều làm cho mình sân.
+ Phương pháp diệt sân:
- Cố ý nghe lời giảng dạy của các bậc thánh nhơn về nguyên nhân sanh lòng từ (tình thương vô lượng).
- Vâng giữ hành theo niệm từ.
3. Nguyên nhân sanh si mê:
- Thích nghe lời nói xấu xa không lễ phép của những kẻ vô giáo dục.
- Thích chú ý tới những lời ấy.
+ Nguyên nhân dập tắt si mê:
- Thích nghe những lời giáo huấn cao thượng, ít nhứt là lễ nghi, phép tắc.
- Cố ý và hành theo những pháp cao thượng đã nghe.
- Các phương pháp dạy trên đây là phương pháp dẹp yên phiền não nhứt thời thôi, chớ không phải phương pháp giải thoát. Nếu muốn hoàn toàn giải thoát, thì chỉ có cách trì giới cho trong sạch, hành thiền định rồi hành minh sát tuệ, dùng trí tuệ quan sát cho thấy rõ vô thường, khổ não và vô ngã, như thế mới tận diệt được phiền não.
Trong bộ kinh Anguttaranikāya, đức Thế Tôn có dạy rằng:
“- Nầy các thầy tỳ-khưu! Bụi nhơ là gì? Bụi nhơ là tham lam, sân hận và si mê. Nếu có người hỏi về những điểm dị đồng của các pháp ấy thì các thầy nên đáp rằng: Tham lam tội tuy nhẹ nhưng thật là khó dứt bỏ được. Sân hận, tội thật nặng, nhưng khi người thức tỉnh, dứt bỏ được dễ dàng. Si mê, tội nặng, càng khó dứt bỏ được”.
Theo câu Phật ngôn nầy, thì ta thấy rằng: Tham ái tội tương đối nhẹ, nhưng thật khó dứt. Đây tôi xin nhắc lại tích để quý vị dễ nhận thức.
“- Tại kinh đô Sāvatthī (Thất La Phiệt) có người thợ cạo thường vào làm râu tóc cho nhà vua và các phi tần. Ông là người có thọ trì tam quy ngũ giới rất trong sạch.
Ngày nọ, ông đi làm râu tóc cho nhà vua, ông dẫn con trai theo vào cung nội. Con trai ông trông thấy một công nương trẻ đẹp trang diện lộng lẫy, anh chàng cảm sắc đẹp ấy, khi về nhà anh vào phòng nằm mãi không ra, cha anh hỏi anh, anh nói đã yêu công nương. Ông thợ cao bảo: “Con ơi, những cô ấy toàn là những hạng cao quý; thuộc dòng vua chúa, còn ta là hàng thứ dân, thì biết làm sao? Vậy nếu con ưng một cô nào môn đăng hộ đối, thì cha sẽ xin cưới về cho con”.
Con trai người thợ cạo đáp: Nếu không được cô ấy, con không bằng lòng cô nào hết. Con sẽ chết”.
Chuyện nầy thấu tới tai của chư vị tỳ-khưu, các ngài mới hội nhau lại bàn rằng: Vì yêu thương mà chết thật là không phải chút nào hết. Người ta nên biết giá trị sự sống của mình và của cả gia đình mình chứ!
Đức Phật nghe chuyện ấy, ngài mới dạy chư tỳ-khưu đang bàn với nhau, rằng:
“- Người dứt bỏ lòng tham ái, và trong trường hợp phát
sanh tham ái, nên diệt lòng tham ái như giọt nước nhễu trên lá sen sẽ trượt đi.
Người diệt lòng sân hận, không sân hận trong trường hợp đang sân hận. Người diệt trừ lòng sân hận như trái thốt nốt chín và rụng. (Khi trái chín mùi và rụng thì không bao giờ trái ấy lại trở lại với cành, nghĩa là khi diệt được lòng sân hận thì không cho lòng sân hận sanh lại được).
Người diệt được lòng si mê, không bị si mê theo trường hợp phải si mê, người ấy ví như mặt trời đã mọc (Khi mặt trời mọc thì đuổi được sự tối tăm, cũng như người xua đuổi được sự si mê thì lòng mình tự nhiên sáng và không còn đau khổ, luân hồi nữa)”.
Chung quy, người đệ tử Phật muốn rửa sạch bụi trần nhơ bẩn thì phải tu theo bát chánh đạo, hành minh sát tuệ.
+ Tâm không nhiễm bụi nhơ, được những hạnh phúc là:
1. Là đại phước cho bản thân mình.
2. Không bị những sự phiền lòng đến.
3. Được an vui trong đời nầy và vị lai.
4. Là người không dễ duôi.
6. Là người ráng hành cho giới, định, huệ được trọn hảo.
7. Là người đáng gọi là cúng dường cao thượng đến Tam Bảo bằng cách hành đạo.
8. Là người thoát khỏi phiền não trong kiếp nầy và sẽ đắc được quả trong ngày vị lai.
9. Là người sẽ đắc đạo quả trong kiếp nầy nếu duyên lành đầy đủ, bằng không chắc chắn sẽ đắc ngày vị lai.
(Vô nhiễm)
Phạm ngữ raja nghĩa là bụi nhơ, ngụ ý chỉ là phiền não, còn vi nghĩa là không hoặc ra khỏi. Phiền não sanh trong tâm của ai, làm cho tâm người ấy nhơ đục, như là bụi làm cho vật dụng dơ; khi ta thấy vật dụng dơ thì ta nhờm gớm, ta không muốn nó đến, nếu phải cần sờ đụng thì lật đật đi rửa. Nếu tay chân ta bị dơ, ta có thể rửa được, thân bị bẩn, ta có thể tắm được; chớ khi tâm đã nhơ đục rồi thì không có thứ nước nào rửa cho sạch được cả.
Phiền não là những gì? Phiền não nếu kể ra thì rất nhiều - nếu căn cứ vào những danh từ khác nhau mà đức Thế Tôn đã dùng, nhưng chung quy, chỉ có ba tam độc là tham lam, sân hận và si mê mà thôi.
Nơi đây tôi xin nhắc câu Phật dạy ngài đại đức Cūḷapanthaka trong bộ Kinh pháp cú rằng: Rāgo rājo na ca pana reṇu vuccati... nghĩa là: Tiếng bụi nhơ đây ngụ ý nói là sự tham ái, chớ không phải là bụi thường, nên các thầy Tỳ khưu dứt bỏ bụi nhơ, tức là dứt bỏ tham ái, sẽ được an vui, trong đạo hạnh thanh cao.
(Câu thứ nhì và câu thứ ba có nghĩa khác nhau nhưng chỉ khác tên của phiền não là đổi tham ái ra sân và si mê) [8].
+ Đây là nguyên nhân sanh phiền não:
1. Nguyên nhân sanh ái dục có hai điều là:
- Thích để ý đến lời ca tụng, về sự giàu có và sắc đẹp.
- Thích và để ý đến sắc đẹp của mình hay người ngoài mình.
+ Đây là nguyên nhân dập tắt tham ái:
- Cố tâm để ý vào lời khuyên giải chỉ dạy và sự chỉ trích về cái tội của ngũ trần và sự chấp thủ, tham đắm sắc đẹp.
- Cố tâm quan sát suy nghĩ cái tội và cái hại của sắc đẹp và sự tham đắm trong ngũ trần.
2. Đây là nguyên nhân sanh sân:
- Thích và để ý đến lời nói làm cho mình sân, thích và để ý đến điều làm cho mình sân.
+ Phương pháp diệt sân:
- Cố ý nghe lời giảng dạy của các bậc thánh nhơn về nguyên nhân sanh lòng từ (tình thương vô lượng).
- Vâng giữ hành theo niệm từ.
3. Nguyên nhân sanh si mê:
- Thích nghe lời nói xấu xa không lễ phép của những kẻ vô giáo dục.
- Thích chú ý tới những lời ấy.
+ Nguyên nhân dập tắt si mê:
- Thích nghe những lời giáo huấn cao thượng, ít nhứt là lễ nghi, phép tắc.
- Cố ý và hành theo những pháp cao thượng đã nghe.
- Các phương pháp dạy trên đây là phương pháp dẹp yên phiền não nhứt thời thôi, chớ không phải phương pháp giải thoát. Nếu muốn hoàn toàn giải thoát, thì chỉ có cách trì giới cho trong sạch, hành thiền định rồi hành minh sát tuệ, dùng trí tuệ quan sát cho thấy rõ vô thường, khổ não và vô ngã, như thế mới tận diệt được phiền não.
Trong bộ kinh Anguttaranikāya, đức Thế Tôn có dạy rằng:
“- Nầy các thầy tỳ-khưu! Bụi nhơ là gì? Bụi nhơ là tham lam, sân hận và si mê. Nếu có người hỏi về những điểm dị đồng của các pháp ấy thì các thầy nên đáp rằng: Tham lam tội tuy nhẹ nhưng thật là khó dứt bỏ được. Sân hận, tội thật nặng, nhưng khi người thức tỉnh, dứt bỏ được dễ dàng. Si mê, tội nặng, càng khó dứt bỏ được”.
Theo câu Phật ngôn nầy, thì ta thấy rằng: Tham ái tội tương đối nhẹ, nhưng thật khó dứt. Đây tôi xin nhắc lại tích để quý vị dễ nhận thức.
“- Tại kinh đô Sāvatthī (Thất La Phiệt) có người thợ cạo thường vào làm râu tóc cho nhà vua và các phi tần. Ông là người có thọ trì tam quy ngũ giới rất trong sạch.
Ngày nọ, ông đi làm râu tóc cho nhà vua, ông dẫn con trai theo vào cung nội. Con trai ông trông thấy một công nương trẻ đẹp trang diện lộng lẫy, anh chàng cảm sắc đẹp ấy, khi về nhà anh vào phòng nằm mãi không ra, cha anh hỏi anh, anh nói đã yêu công nương. Ông thợ cao bảo: “Con ơi, những cô ấy toàn là những hạng cao quý; thuộc dòng vua chúa, còn ta là hàng thứ dân, thì biết làm sao? Vậy nếu con ưng một cô nào môn đăng hộ đối, thì cha sẽ xin cưới về cho con”.
Con trai người thợ cạo đáp: Nếu không được cô ấy, con không bằng lòng cô nào hết. Con sẽ chết”.
Chuyện nầy thấu tới tai của chư vị tỳ-khưu, các ngài mới hội nhau lại bàn rằng: Vì yêu thương mà chết thật là không phải chút nào hết. Người ta nên biết giá trị sự sống của mình và của cả gia đình mình chứ!
Đức Phật nghe chuyện ấy, ngài mới dạy chư tỳ-khưu đang bàn với nhau, rằng:
“- Người dứt bỏ lòng tham ái, và trong trường hợp phát
sanh tham ái, nên diệt lòng tham ái như giọt nước nhễu trên lá sen sẽ trượt đi.
Người diệt lòng sân hận, không sân hận trong trường hợp đang sân hận. Người diệt trừ lòng sân hận như trái thốt nốt chín và rụng. (Khi trái chín mùi và rụng thì không bao giờ trái ấy lại trở lại với cành, nghĩa là khi diệt được lòng sân hận thì không cho lòng sân hận sanh lại được).
Người diệt được lòng si mê, không bị si mê theo trường hợp phải si mê, người ấy ví như mặt trời đã mọc (Khi mặt trời mọc thì đuổi được sự tối tăm, cũng như người xua đuổi được sự si mê thì lòng mình tự nhiên sáng và không còn đau khổ, luân hồi nữa)”.
Chung quy, người đệ tử Phật muốn rửa sạch bụi trần nhơ bẩn thì phải tu theo bát chánh đạo, hành minh sát tuệ.
+ Tâm không nhiễm bụi nhơ, được những hạnh phúc là:
1. Là đại phước cho bản thân mình.
2. Không bị những sự phiền lòng đến.
3. Được an vui trong đời nầy và vị lai.
4. Là người không dễ duôi.
6. Là người ráng hành cho giới, định, huệ được trọn hảo.
7. Là người đáng gọi là cúng dường cao thượng đến Tam Bảo bằng cách hành đạo.
8. Là người thoát khỏi phiền não trong kiếp nầy và sẽ đắc được quả trong ngày vị lai.
9. Là người sẽ đắc đạo quả trong kiếp nầy nếu duyên lành đầy đủ, bằng không chắc chắn sẽ đắc ngày vị lai.
Khema: Lòng tự tại.
Phạn ngữ khema nghĩa là tự tại, lại còn có nghĩa khác nữa là không sợ sự khinh khủng, thoát khỏi tất cả mọi nạn tai, trở ngại; không còn bận rộn, được có sự an vui, tiến hóa, đẹp và cao quý, giải thoát khỏi bốn điều trầm nịch [9], đến Niết-bàn.
+ Lòng tự tại chia ra làm ba hạng:
1. Lòng tự tại bậc thấp là tâm vắng lặng phiền não tạm thời trong khoảng thời gian lâu hay mau tùy theo sự đè nén tâm của hành giả có thể chịu đựng được; ví như trong khi nghe pháp, học pháp hay học tham thiền nhưng chưa chắc đắc thiền định, mà cũng chưa đắc minh sát tuệ.
2. Lòng tự tại bậc trung là tâm của hành giả đã đắc được thiền định, và có hành minh sát tuệ.
3. Lòng tự tại bậc thượng là tâm của các vị hành minh sát tuệ và đắc một trong bốn đạo quả.
Tâm hồn của chúng sanh thật là phức tạp, lúc là bạn, khi là thù, nghĩ kỹ không khác nào trên sân khấu, nhưng là sân khấu lớn vô lượng vô biên và ai ai cũng đóng tuồng hết, nên không thấy rõ chân tướng của mình hay của kẻ khác. Chỉ có bậc thánh nhơn mới là đấng giải thoát nên các bậc ấy là khán giả trông thấy rõ rệt hành vi của ta vụng hay khéo thôi.
Khi tâm thiện phát sanh thì lời nói cũng như việc làm hoàn toàn trong lành, bằng khi tâm ác sanh, thì lời nói hay việc làm đều đáng ghê sợ.
Trong điều hạnh phúc chót nầy, đức Phật chỉ rõ cái phức tạp rắc rối trong tâm của chúng sanh, cùng phương pháp để khử trừ và phòng bị những phức tạp, rắc rối ấy.
Tâm của chúng sanh thường bị trầm nịch trong bốn cái hầm nên không được tự tại.
Bốn hầm ấy là:
1. Kāmāsava: Hầm ái dục.
2. Bhavāsava: Hầm tam giới
3. Diṭṭhāsava: Hầm tà kiến
4. Avijjāsava: Hầm vô hình
Bốn cái hầm nầy rất là sâu rộng và tối tăm, nên chúng sanh không thấy đâu là bến, đâu là bờ. Hầm ấy sâu có sóng to, gió lớn nhận chìm chúng sanh xuống đáy của sự khổ không sao trôi ra khỏi được.
Hầm ấy rộng, nên chúng sanh khó lội vào bờ. Chúng sanh nào giỏi lắm là vớ lấy một miếng gỗ để lội tạm thời, đến khi bị trận gió lớn sóng to, lại sút tay chìm đắm lại nữa. Tôi muốn nói khúc gỗ mà ta vớ được tạm thời ấy là cõi trời, cõi sắc giới hoặc vô sắc giới, ta chỉ tạm ở được một lúc thôi, rồi phải bị rớt trở lại nơi khổ nữa.
Những lượn sóng ấy ví như vật dục. Vật dục ấy là sắc đẹp, tiếng hay, mùi thơm, vị ngon, sự cảm xúc mềm mại làm cho chúng ta mê theo, quên cả già, đau và chết.
Những trận gió lớn ấy tức là phiền não dục, hay là tham lam, sân hận, si mê - những phiền não dục nầy nhận chìm cả thuyền to chớ chẳng phải chỉ ta mà thôi.
+ Xin giải về bốn hầm ấy như dưới đây:
1. Hầm ái dục là cái hầm thương yêu khó mà lội qua khỏi, vì cái hầm nầy to rộng không phân biệt đâu là bờ bến. Thậm chí các bậc chư thiên vẫn còn sa vào, như đức vua Mahāsudassana trong sự tích sau đây:
“- Đức vua Sudassana là vị vua Chuyển luân Thánh vương. Quanh thành của ngài có cây thốt nốt bằng bạc, lá vàng, trái ngọc... và có các loại chim quý đến ca hót nghe thật vui tai.
Đến ngày giới, đức vua mặc đồ trắng, thọ bát quan trai xong, ra đứng giữa trời vỗ tay ba tiếng là có mưa vàng mưa ngọc đầy đồng. Nhân dân nhờ ơn đó mà sống một cách an nhàn sung túc thảnh thơi. Thế nhưng, đức vua vẫn còn thấy chưa đủ, chưa thỏa mãn.
Vì phước báu của vua quá nhiều nên các bậc thiên vương như Đế Thích cũng nể mặt, bèn nhường cho ngài trị vì nửa cõi Đao Lợi. Nhưng không vì vậy mà toại nguyện, ngài còn muốn chiếm luôn trọn cả cõi Đao Lợi mới vừa lòng, nên ngài đánh đuổi đức Đế Thích đi để chiếm lấy hết. Nhưng không sao thắng nổi đức Đế Thích, nên ngài bị đức Đế Thích đưa về cõi người trở lại”.
Câu chuyện trên đây để chúng ta thấy rằng: Người hay là chư thiên cũng là nô lệ của ái dục, tham ái không sao thoát khỏi hầm nầy.
2. Hầm thứ hai là hầm tam giới tức là dục giới, sắc giới và vô sắc giới. Khi người chưa ra khỏi ba hầm nầy là còn ở dưới quyền thống trị của ngũ ma [10]. Khi muốn chạy hay đánh ngã được ngũ ma thì phải dùng khí cụ tối tân của đức Thế Tôn là bát chánh đạo.
Dục giới còn khổ hơn sắc giới và vô sắc giới. Mặc dầu hai cõi nầy có phần an vui hơn, nhưng cũng không khỏi luân hồi. Vì vậy hành giả nào có kinh sợ luân hồi mới giải thoát được khỏi tam giới. Muốn thoát khỏi luân hồi, chỉ có một con đường - là đạo có đủ tám chi, hay tám điều.
3. Hầm thứ ba là hầm tà kiến, còn đáng sợ hơn hai hầm trên rất nhiều. Vì người đã sa vào hầm tà kiến thì không còn ai thuyết phục được. Vì vậy nên phương pháp của đức Phật dạy, muốn giải thoát, phải đi theo bát chánh đạo, mà trong ấy chánh kiến đi đầu, thế thì ta thấy rằng tà kiến quan hệ tới chừng nào.
4. Hầm thứ tư là hầm vô minh. Nói đến vô minh thì ai cũng lầm tưởng rằng là tối tăm, mờ ám, không thấy đường đi; chúng sanh vì ở nơi tối tăm nên không thấy đường ra nên chịu khổ mãi. Nói thế có thể tạm gọi là một phần, nhưng sự thật vô minh làm cho ta không tìm và thấy được phiền não, nhứt là ái dục, là động cơ chính yếu, làm cho chúng ta không tìm thấy Niết-bàn là nơi giải thoát khỏi luân hồi. Vì vậy nên chúng ta không hành theo đường chánh được.
Tóm lại: Vì vô minh nên không thoát khỏi luân hồi, vì vậy vô minh là một điều rất là quan hệ. Quý vị hãy hình dung một đêm mưa bão giữa biển lớn, phần thì thuyền nhỏ mà chở đầy, thì quý vị sẽ thấy kinh sợ dường nào. Đời người cũng vậy, quanh ta đầy những tai nạn hãi hùng, cái chết gần bên ta không thấy được? Hỏi tức trả lời, chắc quý vị thấy, tại vì vô minh che đậy mọi việc, nên thấy xấu cho là đẹp, thấy trái với sự thật mà đức Phật đã dạy. Đó là vô minh vậy.
Đêm tối, gió bão hãi hùng cùng những con cá dữ đang chực chờ ăn thịt ta, ví như nạn tai đợi chờ ta trong tam giới. Đối với sóng to gió lớn mà lại vô phương chống chỏi, thật là kinh khủng phi thường. Vậy tại sao ta không tìm lấy một vật gì để nương tựa vào. Đức Thế Tôn dạy còn có con thuyền vượt qua biển rộng sóng to gió lớn và đầy loài cá dữ ấy, đó là bát chánh đạo vậy.
Tóm lại, bề sâu của vô minh làm cho chúng sanh tối tăm không nhận thấy ba tướng - vô thường, khổ, vô ngã - trong luân hồi khổ... Bề rộng của vô minh là cái che lấp đường tiến thủ của chúng ta.
Vì vậy trong bát chánh đạo có tám pháp mà tóm lại là giới, định, tuệ không khác nào là chiếc thuyền có đủ tiện nghi cho ta vượt qua biển rộng. Tôi xin ví dụ: Chiếc thuyền ấy là giới, định - ví như cột buồm, cánh buồm và tất cả những tiện nghi trên ghe. Còn tuệ là viên thuyền trưởng tìm hiểu phương hướng để đưa thuyền đến nơi đến chốn. Cũng có thể ví giới như là chuyến thuyền, định như sức mạnh đẩy thuyền vào bờ, tuệ ví như đèn soi đường để thấy lối vào bờ.Khi ta có giới, định, tuệ đầy đủ - dù hầm ái dục có sâu rộng và nhiều gian nguy, nhưng ta cũng có thể thoát ra được. Ta có thể tin như thế được vì đã có nhiều vị đã giải
thoát để lại phương pháp và cả họa đồ giúp ta noi theo đấy
mà ra.
+ Tâm tự tại được những hạnh phúc là:
1. Là đại phước.
2. Là người không dễ duôi.
3. Là người không xa chánh pháp.
4. Là người đã chuẩn bị sẵn sàng vật thực để đi xa.
5. Là người đã xa ác đạo.
6. Là người đã cúng dường sự hành đạo giải thoát của mình đến đức Phật.
7. Là người có thân, khẩu ý trong sạch.
8. Là người tự tại ngoài bốn hầm to lớn ấy.
9. Là người hành theo Phật ngôn.
10. Là người được hưởng an vui trong mọi hoàn cảnh.
11. Là người Phật tử chân chánh.
12. Là người hiểu rõ Pháp bảo.
13. Là người có thể đem ra làm gương mẫu cho các hàng hậu tấn.
Hết
[1] Hàm chỉ các vị thánh cư sĩ và những hành giả trí thức tu tập thấm nhuần giáo pháp Phật.
[2] Pháp cú 213: Luyến ái sinh bệnh sầu ưu. Lại sinh sợ hãi, lo âu nhiều bề. Không luyến ái, chẳng đam mê. Ưu sầu, sợ hãi cận kề được đâu.
[3] Đoạn văn này phải hiểu ý của pháp sư muốn trao gởi, nếu không hiểu dễ rơi vào đoạn diệt luận: ngăn nhân bỏ quả! Thật ra, pháp sư chỉ muốn nói: Khi còn ở trong tam giới thì ai cũng gây nhân cả. Gây nhân thì gặt quả, ấy là định luật. Quả thì có quả chua, quả ngọt, quả khổ, quả lạc. Người có tu tập, thâm đạt giáo pháp, thực hành thiền quán vipassanā - phải nhìn ngắm chúng, dù chua ngọt, dù khổ lạc, chúng đều là pháp hữu vi, sinh diệt, đều vô thường, khổ, vô ngã - chứng đắc tuệ giải thoát, không còn dính mắc gì về chúng nữa! (Không thể đưa ví dụ chặt cây, quăng trái - thậm nguy hiểm).
[4] Bài kệ này và 04 câu tiếp theo, tôi chưa tìm ra nguồn để hiệu chính.
[5] Thời Phật tại tiền, cô bị gù lưng, thị nữ của hoàng hậu Sāmāvatī, vua Udena tại Kosambi - đắc Tu-đà-hoàn, nổi tiếng về thuyết pháp. Do quả báo sai khiến một vị Thánh Ni nên phải 500 kiếp làm tôi đòi. Vì nhạo báng một vị Độc Giác Phật gù lưng nên bị gù lưng. Nhưng nhờ một kiếp cúng dường vật thực đến chư Độc Giác Phật với tâm thành kính dâng luôn cả những vòng bằng ngà nên đắc quả và có lợi tài thuyết pháp.
[6] Niệm sự chết đắc cận định - nên nó làm yên lặng được 5 triền cái: Hôn trầm-thụy miêm, nghi, sân, trạo cử, dục.
[7] Trong thập tùy niệm: Niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm giới, niệm thí, niệm thiên, niệm tịch tịnh, niệm sự chết, niệm thân, niệm hơi thở - thì 8 niệm đầu chỉ có khả năng đắc cận định, niệm thân có thể đạt tứ thiền hoặc ngũ thiền; riêng niệm hơi thở, nếu định thì đắc tứ, ngũ thiền, nếu tuệ thì đắc tứ đạo quả.
[8] Xin chép ra đây cả ba bài kệ để độc giả rộng đường nghiên cứu:
1- Rāgo rajo na ca pana reṇu vuccati... (tham - tình dục - là cấu uế, là bụi nhơ - chứ không phải bụi nhơ thường). 2- Doso rajo na ca pana reṇu vuccati... (sân là cấu uế, là bụi nhơ chứ không phải bụi nhơ thường). 3- Moho rajo na ca pana reṇu vuccati... (si là cấu uế, là bụi nhơ chứ không phải là bụi nhơ thường).
[9] Xem ghi chú 155.
[10] Ngũ ma: Phiền não ma (kilesamāra), Ngũ uẩn ma (Pañcakhandhamāra), pháp hành ma (abbhisaṅkhāramāra), thiên ma (devaputtamāra), tử thần ma (maccumāra).
Phạn ngữ khema nghĩa là tự tại, lại còn có nghĩa khác nữa là không sợ sự khinh khủng, thoát khỏi tất cả mọi nạn tai, trở ngại; không còn bận rộn, được có sự an vui, tiến hóa, đẹp và cao quý, giải thoát khỏi bốn điều trầm nịch [9], đến Niết-bàn.
+ Lòng tự tại chia ra làm ba hạng:
1. Lòng tự tại bậc thấp là tâm vắng lặng phiền não tạm thời trong khoảng thời gian lâu hay mau tùy theo sự đè nén tâm của hành giả có thể chịu đựng được; ví như trong khi nghe pháp, học pháp hay học tham thiền nhưng chưa chắc đắc thiền định, mà cũng chưa đắc minh sát tuệ.
2. Lòng tự tại bậc trung là tâm của hành giả đã đắc được thiền định, và có hành minh sát tuệ.
3. Lòng tự tại bậc thượng là tâm của các vị hành minh sát tuệ và đắc một trong bốn đạo quả.
Tâm hồn của chúng sanh thật là phức tạp, lúc là bạn, khi là thù, nghĩ kỹ không khác nào trên sân khấu, nhưng là sân khấu lớn vô lượng vô biên và ai ai cũng đóng tuồng hết, nên không thấy rõ chân tướng của mình hay của kẻ khác. Chỉ có bậc thánh nhơn mới là đấng giải thoát nên các bậc ấy là khán giả trông thấy rõ rệt hành vi của ta vụng hay khéo thôi.
Khi tâm thiện phát sanh thì lời nói cũng như việc làm hoàn toàn trong lành, bằng khi tâm ác sanh, thì lời nói hay việc làm đều đáng ghê sợ.
Trong điều hạnh phúc chót nầy, đức Phật chỉ rõ cái phức tạp rắc rối trong tâm của chúng sanh, cùng phương pháp để khử trừ và phòng bị những phức tạp, rắc rối ấy.
Tâm của chúng sanh thường bị trầm nịch trong bốn cái hầm nên không được tự tại.
Bốn hầm ấy là:
1. Kāmāsava: Hầm ái dục.
2. Bhavāsava: Hầm tam giới
3. Diṭṭhāsava: Hầm tà kiến
4. Avijjāsava: Hầm vô hình
Bốn cái hầm nầy rất là sâu rộng và tối tăm, nên chúng sanh không thấy đâu là bến, đâu là bờ. Hầm ấy sâu có sóng to, gió lớn nhận chìm chúng sanh xuống đáy của sự khổ không sao trôi ra khỏi được.
Hầm ấy rộng, nên chúng sanh khó lội vào bờ. Chúng sanh nào giỏi lắm là vớ lấy một miếng gỗ để lội tạm thời, đến khi bị trận gió lớn sóng to, lại sút tay chìm đắm lại nữa. Tôi muốn nói khúc gỗ mà ta vớ được tạm thời ấy là cõi trời, cõi sắc giới hoặc vô sắc giới, ta chỉ tạm ở được một lúc thôi, rồi phải bị rớt trở lại nơi khổ nữa.
Những lượn sóng ấy ví như vật dục. Vật dục ấy là sắc đẹp, tiếng hay, mùi thơm, vị ngon, sự cảm xúc mềm mại làm cho chúng ta mê theo, quên cả già, đau và chết.
Những trận gió lớn ấy tức là phiền não dục, hay là tham lam, sân hận, si mê - những phiền não dục nầy nhận chìm cả thuyền to chớ chẳng phải chỉ ta mà thôi.
+ Xin giải về bốn hầm ấy như dưới đây:
1. Hầm ái dục là cái hầm thương yêu khó mà lội qua khỏi, vì cái hầm nầy to rộng không phân biệt đâu là bờ bến. Thậm chí các bậc chư thiên vẫn còn sa vào, như đức vua Mahāsudassana trong sự tích sau đây:
“- Đức vua Sudassana là vị vua Chuyển luân Thánh vương. Quanh thành của ngài có cây thốt nốt bằng bạc, lá vàng, trái ngọc... và có các loại chim quý đến ca hót nghe thật vui tai.
Đến ngày giới, đức vua mặc đồ trắng, thọ bát quan trai xong, ra đứng giữa trời vỗ tay ba tiếng là có mưa vàng mưa ngọc đầy đồng. Nhân dân nhờ ơn đó mà sống một cách an nhàn sung túc thảnh thơi. Thế nhưng, đức vua vẫn còn thấy chưa đủ, chưa thỏa mãn.
Vì phước báu của vua quá nhiều nên các bậc thiên vương như Đế Thích cũng nể mặt, bèn nhường cho ngài trị vì nửa cõi Đao Lợi. Nhưng không vì vậy mà toại nguyện, ngài còn muốn chiếm luôn trọn cả cõi Đao Lợi mới vừa lòng, nên ngài đánh đuổi đức Đế Thích đi để chiếm lấy hết. Nhưng không sao thắng nổi đức Đế Thích, nên ngài bị đức Đế Thích đưa về cõi người trở lại”.
Câu chuyện trên đây để chúng ta thấy rằng: Người hay là chư thiên cũng là nô lệ của ái dục, tham ái không sao thoát khỏi hầm nầy.
2. Hầm thứ hai là hầm tam giới tức là dục giới, sắc giới và vô sắc giới. Khi người chưa ra khỏi ba hầm nầy là còn ở dưới quyền thống trị của ngũ ma [10]. Khi muốn chạy hay đánh ngã được ngũ ma thì phải dùng khí cụ tối tân của đức Thế Tôn là bát chánh đạo.
Dục giới còn khổ hơn sắc giới và vô sắc giới. Mặc dầu hai cõi nầy có phần an vui hơn, nhưng cũng không khỏi luân hồi. Vì vậy hành giả nào có kinh sợ luân hồi mới giải thoát được khỏi tam giới. Muốn thoát khỏi luân hồi, chỉ có một con đường - là đạo có đủ tám chi, hay tám điều.
3. Hầm thứ ba là hầm tà kiến, còn đáng sợ hơn hai hầm trên rất nhiều. Vì người đã sa vào hầm tà kiến thì không còn ai thuyết phục được. Vì vậy nên phương pháp của đức Phật dạy, muốn giải thoát, phải đi theo bát chánh đạo, mà trong ấy chánh kiến đi đầu, thế thì ta thấy rằng tà kiến quan hệ tới chừng nào.
4. Hầm thứ tư là hầm vô minh. Nói đến vô minh thì ai cũng lầm tưởng rằng là tối tăm, mờ ám, không thấy đường đi; chúng sanh vì ở nơi tối tăm nên không thấy đường ra nên chịu khổ mãi. Nói thế có thể tạm gọi là một phần, nhưng sự thật vô minh làm cho ta không tìm và thấy được phiền não, nhứt là ái dục, là động cơ chính yếu, làm cho chúng ta không tìm thấy Niết-bàn là nơi giải thoát khỏi luân hồi. Vì vậy nên chúng ta không hành theo đường chánh được.
Tóm lại: Vì vô minh nên không thoát khỏi luân hồi, vì vậy vô minh là một điều rất là quan hệ. Quý vị hãy hình dung một đêm mưa bão giữa biển lớn, phần thì thuyền nhỏ mà chở đầy, thì quý vị sẽ thấy kinh sợ dường nào. Đời người cũng vậy, quanh ta đầy những tai nạn hãi hùng, cái chết gần bên ta không thấy được? Hỏi tức trả lời, chắc quý vị thấy, tại vì vô minh che đậy mọi việc, nên thấy xấu cho là đẹp, thấy trái với sự thật mà đức Phật đã dạy. Đó là vô minh vậy.
Đêm tối, gió bão hãi hùng cùng những con cá dữ đang chực chờ ăn thịt ta, ví như nạn tai đợi chờ ta trong tam giới. Đối với sóng to gió lớn mà lại vô phương chống chỏi, thật là kinh khủng phi thường. Vậy tại sao ta không tìm lấy một vật gì để nương tựa vào. Đức Thế Tôn dạy còn có con thuyền vượt qua biển rộng sóng to gió lớn và đầy loài cá dữ ấy, đó là bát chánh đạo vậy.
Tóm lại, bề sâu của vô minh làm cho chúng sanh tối tăm không nhận thấy ba tướng - vô thường, khổ, vô ngã - trong luân hồi khổ... Bề rộng của vô minh là cái che lấp đường tiến thủ của chúng ta.
Vì vậy trong bát chánh đạo có tám pháp mà tóm lại là giới, định, tuệ không khác nào là chiếc thuyền có đủ tiện nghi cho ta vượt qua biển rộng. Tôi xin ví dụ: Chiếc thuyền ấy là giới, định - ví như cột buồm, cánh buồm và tất cả những tiện nghi trên ghe. Còn tuệ là viên thuyền trưởng tìm hiểu phương hướng để đưa thuyền đến nơi đến chốn. Cũng có thể ví giới như là chuyến thuyền, định như sức mạnh đẩy thuyền vào bờ, tuệ ví như đèn soi đường để thấy lối vào bờ.Khi ta có giới, định, tuệ đầy đủ - dù hầm ái dục có sâu rộng và nhiều gian nguy, nhưng ta cũng có thể thoát ra được. Ta có thể tin như thế được vì đã có nhiều vị đã giải
thoát để lại phương pháp và cả họa đồ giúp ta noi theo đấy
mà ra.
+ Tâm tự tại được những hạnh phúc là:
1. Là đại phước.
2. Là người không dễ duôi.
3. Là người không xa chánh pháp.
4. Là người đã chuẩn bị sẵn sàng vật thực để đi xa.
5. Là người đã xa ác đạo.
6. Là người đã cúng dường sự hành đạo giải thoát của mình đến đức Phật.
7. Là người có thân, khẩu ý trong sạch.
8. Là người tự tại ngoài bốn hầm to lớn ấy.
9. Là người hành theo Phật ngôn.
10. Là người được hưởng an vui trong mọi hoàn cảnh.
11. Là người Phật tử chân chánh.
12. Là người hiểu rõ Pháp bảo.
13. Là người có thể đem ra làm gương mẫu cho các hàng hậu tấn.
Hết
[1] Hàm chỉ các vị thánh cư sĩ và những hành giả trí thức tu tập thấm nhuần giáo pháp Phật.
[2] Pháp cú 213: Luyến ái sinh bệnh sầu ưu. Lại sinh sợ hãi, lo âu nhiều bề. Không luyến ái, chẳng đam mê. Ưu sầu, sợ hãi cận kề được đâu.
[3] Đoạn văn này phải hiểu ý của pháp sư muốn trao gởi, nếu không hiểu dễ rơi vào đoạn diệt luận: ngăn nhân bỏ quả! Thật ra, pháp sư chỉ muốn nói: Khi còn ở trong tam giới thì ai cũng gây nhân cả. Gây nhân thì gặt quả, ấy là định luật. Quả thì có quả chua, quả ngọt, quả khổ, quả lạc. Người có tu tập, thâm đạt giáo pháp, thực hành thiền quán vipassanā - phải nhìn ngắm chúng, dù chua ngọt, dù khổ lạc, chúng đều là pháp hữu vi, sinh diệt, đều vô thường, khổ, vô ngã - chứng đắc tuệ giải thoát, không còn dính mắc gì về chúng nữa! (Không thể đưa ví dụ chặt cây, quăng trái - thậm nguy hiểm).
[4] Bài kệ này và 04 câu tiếp theo, tôi chưa tìm ra nguồn để hiệu chính.
[5] Thời Phật tại tiền, cô bị gù lưng, thị nữ của hoàng hậu Sāmāvatī, vua Udena tại Kosambi - đắc Tu-đà-hoàn, nổi tiếng về thuyết pháp. Do quả báo sai khiến một vị Thánh Ni nên phải 500 kiếp làm tôi đòi. Vì nhạo báng một vị Độc Giác Phật gù lưng nên bị gù lưng. Nhưng nhờ một kiếp cúng dường vật thực đến chư Độc Giác Phật với tâm thành kính dâng luôn cả những vòng bằng ngà nên đắc quả và có lợi tài thuyết pháp.
[6] Niệm sự chết đắc cận định - nên nó làm yên lặng được 5 triền cái: Hôn trầm-thụy miêm, nghi, sân, trạo cử, dục.
[7] Trong thập tùy niệm: Niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm giới, niệm thí, niệm thiên, niệm tịch tịnh, niệm sự chết, niệm thân, niệm hơi thở - thì 8 niệm đầu chỉ có khả năng đắc cận định, niệm thân có thể đạt tứ thiền hoặc ngũ thiền; riêng niệm hơi thở, nếu định thì đắc tứ, ngũ thiền, nếu tuệ thì đắc tứ đạo quả.
[8] Xin chép ra đây cả ba bài kệ để độc giả rộng đường nghiên cứu:
1- Rāgo rajo na ca pana reṇu vuccati... (tham - tình dục - là cấu uế, là bụi nhơ - chứ không phải bụi nhơ thường). 2- Doso rajo na ca pana reṇu vuccati... (sân là cấu uế, là bụi nhơ chứ không phải bụi nhơ thường). 3- Moho rajo na ca pana reṇu vuccati... (si là cấu uế, là bụi nhơ chứ không phải là bụi nhơ thường).
[9] Xem ghi chú 155.
[10] Ngũ ma: Phiền não ma (kilesamāra), Ngũ uẩn ma (Pañcakhandhamāra), pháp hành ma (abbhisaṅkhāramāra), thiên ma (devaputtamāra), tử thần ma (maccumāra).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét