Thứ Năm, 14 tháng 6, 2018

Ý Trinh niệm MAṄGALA SUTTA - KỆ NGÔN 6

Ý Trinh niệm MAṄGALA SUTTA 


KỆ NGÔN VI


HẠNH PHÚC XIX

Āratī viratīpāpā: Nết hạnh ghê sợ và tránh xa tội lỗi

(Xả ly tâm niệm ác)[1]




Đức Phật nhận thấy người còn nhiều phiền não thì còn phải sanh trong cõi này, và cần phải có sự tiến hóa về hai phương diện vật chất và tinh thần.

Vì vậy nên đức Thế Tôn mới dạy ta 38 điều hạnh phúc. Trong 33 điều này, từ 1 đến 18, Phật dạy về đời, như xa kẻ ác gần người lành, đối xử với quyến thuộc, phụng dưỡng cha mẹ, tiếp độ vợ con.

Đó là những điều đức Phật dạy đối xử với gia đình và xã hội làm cho ta được an vui trọn kiếp hiện tại.

Từ hạnh phúc XIX (19) trở đi, đức Phật dạy về tâm, hay nói cho dễ nghe, dễ hiểu hơn, là ngài dạy về sự tiến hóa thuộc lãnh vực tinh thần. Vấn đề dạy tâm là vấn đề quan trọng, phương pháp đưa tâm con người tới chỗ cao thượng, đến một mức độ tối cao, vượt qua phiền não tiến đến Niết-bàn - thật không phải đơn giản.

Dĩ nhiên sự cao thấp của tâm không lấy mực thước hay bằng cấp làm tiêu chuẩn thông thường mà đo lường, đối sánh được.

Phật pháp lấy thiện và ác làm tiêu chuẩn, do người hay tâm; hạnh phúc XIX này dạy về sự cao thấp của tâm.
+ Tâm phân ra làm 3 dạng khác nhau:

1. Tâm người nào chán ghét điều ác, quý mến điều thiện gọi là tâm cao thượng hay tâm thiện.

2. Tâm người nào xu hướng theo thời, theo cảnh - nghĩa là ác cũng theo mà thiện cũng mến, là tâm người bậc trung.

3. Tâm của người nào hoàn toàn ghét thiện, ưa ác là tâm người thấp hèn hay gọi là tâm ác.

Thiện và ác là cây thước đo tâm cao thượng hay thấp hèn.

Phạn ngữ của câu hạnh phúc này là āratī-viratī-pāpā cũng có thể nói tóm lại cho gọn: Pāpa-virati, nghĩa là nết hạnh tránh xa tội ác. Ārati nghĩa là không ưa hoặc ghê sợ; virati nghĩa là chừa hay trốn lánh.

Nói về phương pháp sửa trị tâm, đức Thế Tôn dạy hãy tránh xa tội ác, khi nào ta không tránh xa tội ác, thì phương pháp trị sửa tâm sẽ khó có được kết quả, nếu không muốn nói là không thể kết quả được. Tại sao? Vì

khi tâm đang bị nhuộm đen, ta muốn không bị đen, thì phải đem tâm ra khỏi nước nhuộm ấy rồi mới có thể giặt sạch được, khi tâm nhơ nhớp thì nó làm cho thân nhơ nhớp. Vì vậy sự tránh xa tội ác là việc mà các bậc trí thức thường thực hành theo.
+ Muốn dễ hiểu hơn, tôi xin chia hạnh phúc nầy ra làm ba phần để giải:

1. Ý nghĩa của tiếng pāpa: Tội ác.

2. Sự tránh xa tội ác.

3. Hạnh phúc sanh lên vì tránh xa tội ác.
(1)- Pāpa: Tội ác

Tội ác là gì? Tội ác là những điều hung dữ xấu xa, ai ai cũng ghê sợ. Tội làm trái với pháp luật của chính phủ, so với đạo đức nội tâm thì càng trái hơn nhiều. Tâm không trong sạch, xấu xa, thấp hèn, hung ác là tâm tội lỗi. Người nào có tâm tội lỗi, người ấy gọi là người ác, vì tội lỗi làm cho tâm người trở nên nhơ đục. Tâm nhơ đục vì tâm ấy bị các pháp ác ngự trị. Ta có thể nhìn thấy sự biểu hiện bên ngoài trong hành động của người ấy, tuy nhiên, ác hay thiện đều do tâm bên trong sai khiến, điều động.

Người có tội hay không cũng do nơi tâm mà ra, như câu Phật dạy: Attāna akataṃ pamattānāva visujjhati: Người nào không tội người ấy được trong sạch. Kẻ nào làm tội kẻ ấy bị tội. Như vậy còn có nghĩa là: Tội mà có, là do ta tạo ra, do phiền não, bên trong chớ không do nơi một nhân nào bên ngoài cả - bên ngoài chỉ là duyên phụ tùy. Sở dĩ có tội là do nơi mình tạo ra cả. Khi thấy đã làm tội rồi, không một ai có thể giảm bớt cho người làm tội hoặc xóa bỏ tội ấy được, đúng như lời Phật dạy: Suddhi asuddhi paccattaṃ: Trong sạch hay nhơ đục là chuyện riêng của một cá nhân. Nāno aññaṃ visodhaye: Người này không có thể làm cho kẻ khác trong sạch được. Lại còn có câu: Natthapāpaṃ agabbato: Tội không có đến với người vô tội.
* Tội ở nơi nào?

Như đã giải, tội làm cho lòng mình bực tức, nóng nảy, lo sợ. Khi làm việc có tội là ta đã đánh mất sự yên ổn và thanh bình của tâm hồn.

Đã biết rằng: Tội là nhân làm ta mất sự an vui. Người biết yêu thương bản thân mình, họ rất vui lòng dứt bỏ tội ác để cho tâm đươc thơ thới, an vui. Nhưng có người lại không nghĩ đến điều ấy, cứ mặc kệ tới đâu hay tới đó. Hạng người này cứ để mặc cho phiền não thống trị, họ sống mà dường như không có tâm, lại càng không có trí tuệ; cả đời chỉ biết đáp ứng và thỏa mãn, rốt lại phải chịu khổ báo mà thôi. Họ không tôn trọng giá trị bản thân, cứ để mặc cho nấc thang giá trị làm người của mình càng ngày càng giảm mất. Những người này khó mà chữa trị cho khỏi căn bệnh phiền não, thống khổ được.

Khi người biết sợ tội thì cố nhiên phải ráng diệt trừ tội. Nhưng có vấn đề quan trọng nhất, là người đời thường không thể nhận định được rõ ràng đâu là ác, đâu là thiện thì phải làm sao? Vì lắm điều chư tăng cho là có tội, người đời không nhận đó là tội, lại thấy đó là chuyện vui hay vô tội! Cũng như bác sĩ bảo hút thuốc có hại, nhưng người hút thuốc lại không thấy hại gì, trái lại, còn biện minh rằng, hút thuốc làm cho tâm hồn thơ thới, sảng khoái, dễ chịu...

Trường hợp khác, kẻ trộm, khi trộm được của, họ nghĩ rằng họ không khổ, mà tài gia mới khổ, vì bị mất của. Người trả được thù, họ thấy vui mừng không thấy gì là khổ, mà người bị trả thù mới là người khổ. Vì những quan niệm chủ quan, thiển cận, mê lầm điên đảo như vậy - nên lắm lúc lời dạy của chư tăng không thể làm cho những hạng người ấy hối cãi bỏ dữ về lành được.

Sự thật, tội mà đức Thế Tôn dạy, là sự xấu xa do tham lam, sân hận, si mê trong lòng người, khiến thế gian làm hại lẫn nhau. Muốn biết tội thì chỉ có phương pháp là nên dụng trí tuệ quan sát lòng mình coi có những gì xấu ở trong đó không?

Nguyên nhân sanh ra tội có mười điều ác, đã có giải ở trước rồi, miễn nói ở đây.
(2)- Đây xin giải ba cách xa lánh tội ác:

a- Sampattivirati: Nghĩa là xa lánh tội ác nhất thời, ý nói một người không biết tu hành, nghĩa là người ấy không phải là tín đồ một tôn giáo nào, nhưng lúc gặp trường hợp có thể làm nên tội được, nhưng họ không làm. Tôi xin đem lại một ví dụ của ông Cakkana khi còn nhỏ, chưa quy y Tam Bảo và chưa biết tu là gì, nhưng đã cương quyết không làm tội.

“- Khi ông Cakkana còn nhỏ chưa biết gì về đạo đức. Ngày nọ mẹ ông đau, lương y bảo là phải cần có máu thỏ tươi mới làm thuốc cứu mẹ ông được. Ông anh liền sai cậu đi bắt thỏ. Khi cậu bắt được thỏ ôm vào lòng, thấy thỏ run sợ, đôi mắt rất ngây thơ, trong sáng, cậu nghĩ rằng: “Giết một sinh mạng khác vì mẹ ta là một việc không nên làm, vì chúng sanh nào cũng sợ chết và tham sống, mà mình lại toan giết đi một mạng để cứu một mạng”. Cậu liền vuốt ve thỏ và nói rằng: “Thỏ ơi! ta trả tự do cho ngươi, xin ngươi hãy vui vẻ trở về với gia đình!”Rồi cậu trở về nhà, thành thật thuật lại chuyên thả thỏ cho ông anh nghe, không dám giấu diếm. Ông anh nóng giận rầy mắng cậu. Chẳng biết sao, cậu liền vào phòng mẹ ôm chầm lấy mẹ và phát nguyện rằng: “Từ khi sơ sanh đến giờ, tôi không hề cố ý sát sanh, xin nhờ oai đức ấy cầu xin cho mẹ tôi lành bệnh”. Do lời nguyện chân thật và phước báu ấy nên mẹ cậu liền lành bệnh một cách nhiệm mầu!”

Sự tích này cho thấy một trường hợp lánh điều ác, trong khi có thể làm được mà vẫn không làm.

b. Samādānavirati [2]: Nghĩa là xa lánh những việc làm ác mà có phát nguyện trước. Đây là trường hợp của người thiện nam hay tín nữ có phát nguyện thọ trì quy giới với một hay nhiều vị sư. Người ấy có thể chịu chết chớ không để phạm vào điều mình đã thọ trì hay đã phát nguyện giữ như sự tích sau đây:

“- Có ông thiện nam ở tại một ngôi làng gần núi Dantavaddhamanātho, thọ bát quan trai giới từ ngài đại đức Pingalabuddharakkhita tại chùa Ambariya. Sau đó, khi thọ giới xong ông đi cày ruộng. Khi ấy bò đi lạc mất, ông lên núi tìm, vì vô ý ông bị một con trăn to quấn siết. Lúc bấy giờ trên tay ông có cầm một con dao thật bén, ông mới nghĩ rằng: “Một khi ta đã thọ giới với một bậc có đức hạnh thanh cao, ta không nên để giới hạnh ta bị hư hoại”. Nghĩ như thế ba lần, ông mới quyết tâm rằng: “Ta nhất định thà chết còn hơn là phạm giới!” Nói thế xong, ông liệng cây dao đó rất xa, vì ông sợ rằng khi cây dao đó còn trên tay, ông sẽ giết trăn vì tâm ác hoặc vì lòng tham sống. Oai lực của sự hi sinh bản thân mình để giữ giới hạnh cho trong sạch làm cho trăn có cảm tưởng là đang quấn nhằm một lò lửa, nên lật đật tháo ra và bỏ chạy”.

Nhắc đây để quý vị thấy, khi xưa các bậc tu hành thật là chân chính, khi đã phát nguyện xong, họ ráng thọ trì cho tới phút cuối cùng, thà chết chứ không bỏ giới.

c. Sammucchedavirati: Nghĩa là xa lánh tuyệt. Đây là trường hợp của vị đã được đắc thánh quả rồi, không bao giờ tái phạm tội lỗi, mặc dầu là rất nhỏ. Đó là bậc thánh nhơn hoàn toàn trong sạch.

Chú giải có dạy rằng: Tâm là nhân phạm lỗi, mà các bậc thánh nhơn đã kềm chế được tâm và diệt tận các phiền não thì giới đức của các ngài không bao giờ bị vi phạm. Nhất là các ngài xa hẳn điều tội ác, gọi là kammakilesa [3], tàu dịch là tứ trọng mà chú giải là: Tâm chúng sanh hằng bị nhơ đục nên tạo tác (nghiệp), bởi vậy, tạo tác (nghiệp) ấy được đức Phật gọi là kammakilesa, nghĩa là còn phiền não nên tạo nhiều tội lỗi.

Kammakilesa gồm có bốn tội chính: Sát sanh, trộm cướp, tà dâm, vọng ngữ.

Những tội lỗi mà chúng sanh đã tạo ra sẽ là nguyên nhân đưa chúng sanh đi vào cảnh khổ vì đó mà chúng sanh phải bị khổ, nên gọi là tội. Trong bốn tội ấy, chỉ có nói dối gồm nhiều chi tiết đã giải ở trước rồi; ở đây chỉ muốn nhắc lại một sự tích nói về đâm thọc, là muốn làm cho hai người đang thương yêu nhau trở nên thù oán hay ít nhứt cũng xa nhau. Sự đâm thọc này, chẳng hạn, làm cho người xa nhau, ghét nhau cũng phạm vào tội đâm thọc. Tôi xin nhắc tích trong bộ Pháp cú kinh:

- “Kể từ ngày thầy tỳ-khưu tên Koṇḍadhāna xuất gia, mỗi khi thầy đi đâu, sau lưng thầy cũng có người phụ nữ đi theo. Ai cũng thấy vậy, nhưng chính thầy thì không thấy. Những thí chủ để bát cho thầy đều nói rằng: “Muỗng này về phần ngài còn muỗng này là phần cô bạn gái của ngài”.

Chư vị tỳ-khưu khác thấy vậy đinh ninh rằng thầy Koṇḍadhāna phạm bất cộng trụ của giới thông dâm, mới đem chuyện ấy thuật lại cho ông trưởng giả Cấp Cô Độc nghe và yêu cầu ông trưởng giả bạch Phật đuổi thầy tỳ-khưu ấy ra khỏi chùa. Ông trưởng giả không dám làm vậy; chư vị tỳ-khưu mới thuật chuyện ấy cho một bà đại thí chủ Visākhā hay và bà nầy cũng không dám dự vào chuyện ấy. Các vị tỳ-khưu mới vào báo cho đức vua Ba-tư-nặc và cũng yêu cầu như vậy. Đức vua nhận lời ngay. Chiều lại, vua ngự vào chùa, cho quan quân bao vây mọi nơi. Tỳ-khưu Koṇḍadhāna nghe tiếng động ồn ào, mới từ trong cốc bước ra xem. Đức vua tận mắt trông thấy một cô gái thấp thoáng sau lưng vị tỳ-khưu. Đức vua muốn bắt quả tang, vào tận nơi, tìm coi nơi kẹt cửa, dưới gầm giường nhưng không thấy cô gái, ngài mới hỏi:

- Bạch đại đức! Trẫm vừa thấy bóng dáng một phụ nữ bước vào đây, cô ấy đâu rồi?

- Tâu Đại vương! bần đạo chẳng thấy.

- Chính trẫm trông thấy một phụ nữ đứng sau lưng ngài.

Tỳ-khưu Koṇḍadhāna cất giọng quả quyết rằng không bao giờ có, và ông cũng không bao giờ thấy người phụ nữ ấy.

Đức vua thầm nghĩ, lấy làm lạ, mới nói:

- Vậy xin ngài hãy đi ra ngoài.

Tỳ-khưu Koṇḍadhāna vừa bước ra ngoài thì lập tức có người phụ nữ theo sau lưng. Đức vua thấy vậy mới mời thầy đi vào. Thầy y lời, trở vào trong. Đức vua trông chừng theo hình của người phụ nữ ấy nhưng bỗng dưng người phụ nữ ấy biến mất.

Lấy làm lạ, vua mới hỏi:

- Bạch ngài! Thế người phụ nữ ấy đâu rồi ?

- Tâu Đại vương! Bần đạo chẳng thấy bóng dáng người phụ nữ nào cả.

- Xin ngài thành thật nói ra cho trẫm rõ.

- Tâu Đại vương! Đại chúng đều nói rằng có một người phụ nữ đi sau lưng bần đạo, mà bần đạo thì chưa hề thấy.

Đức vua mới nghĩ đây chắc là hình giả, nhưng vẫn còn nghi hoặc, nên thưa rằng:

- Vậy xin ngài hãy đi ra khỏi nơi nầy một lần nữa.

Thầy liền đứng dậy ra bên ngoài, thì người phụ nữ lại hiện ra liền sau lưng thầy như bóng với hình. Đức vua lại hỏi, thầy vẫn trả lời như trước.

Đức vua mới nghĩ “Quả thật là hình giả”, rồi nói rằng:

- Bạch ngài! Một khi có điều khả nghi không trong sạch như thế nầy - thì sẽ không có ai phát tâm trong sạch cúng dường cho ngài cả. Vậy, từ nay, trẫm xin thỉnh ngài cứ vào cung nội, trẫm xin cúng dường vật thực hằng ngày!

Các thầy tỳ-khưu xấu bụng thấy vậy mới bảo với nhau rằng:

- Các vị hãy coi! Đức vua cũng chỉ là kẻ hèn nhược! Chúng ta mời ông đến đây, tố cáo một chuyện tệ hại, để nhờ sự công minh của ông. Ai ngờ, khi thấy rõ sự thật, đã không chịu bạch Phật để đuổi thầy tỳ khưu phá giới ấy, lại mời vào hoàng cung cúng dường nữa chớ!

Rồi các vị tỳ-khưu xấu bụng ấy, do tức giận, do ganh tỵ, do si mê, đã chỉ tay vào mặt tỳ-khưu Koṇḍadhāna, mạt sát rằng:

- Này kẻ đê tiện kia! Ngươi là kẻ phá giới! Và nhà vua cũng chỉ là tên khiếp nhược!

Lúc trước vì không có bằng cớ đáp lại, nhưng bây giờ được nhà vua làm chứng, nên tỳ-khưu Koṇḍadhāna bèn mạnh dạn:

- Chính các ông mới là kẻ phá giới! Chính các ông mới là kẻ dẫn gái đi!

Các tỳ-khưu phàm phu kia tức giận, nên đem chuyện ấy vào bạch với đức Thế Tôn và nói là đã bị tỳ-khưu Koṇḍadhāna chưởi mắng.

Đức Thế Tôn gọi tỳ-khưu Kondadhāna vào và hỏi:

- Ông có chửi mắng các vị tỳ khưu kia không?

- Bạch, bởi vì các vị ấy mạt sát đệ tử trước!

Đức Thế Tôn hỏi các vị kia, có chuyện thật như vậy không. Họ đáp:

- Chúng đệ tử thấy có một phụ nữ đi theo sau lưng vị tỳ-khưu nầy - nhưng ông ta lại chối đây đẩy là không có!

Đức Thế Tôn biết tất cả mọi chuyện, muốn giáo giới họ, nên ngài mới hiển lộ nhân quả từ quá khứ:

- Nầy các thầy tỳ-khưu! Chuyện các vị thấy bóng dáng một phụ nữ đi sau lưng tỳ-khưu Koṇḍadhāna là chuyện có thật! Và tỳ-khưu Koṇḍadhāna không thấy, không biết chuyện ấy cũng là điều có thật. Tất cả đều đã bị quá khứ che lấp. Chuyện về cô gái thấp thoáng sau lưng tỳ-khưu Kodadhāna, làm cho ông ta bị hàm oan, bị các vị đồng phạm hạnh nghi kỵ, thanh danh bị hoen ố là do dư nghiệp quá khứ của ông ta - đã từng tìm cách ly gián tình bạn của hai vị đồng tu, một vị nghi ngờ phạm hạnh của vị kia làm cho tình bạn tốt đẹp giữa họ với nhau phải bị tan vỡ! Các thầy có muốn nghe chuyện quá khứ ấy không, Như Lai sẽ kể lại”.

Khi thấy mọi người đã sẵn sàng, đức Phật bèn vén mở bức màn quá khứ:

“- Trong thời kỳ đức Chánh Đẳng Giác Kassapa, có hai vị tỳ-khưu thương nhau không khác nào anh em ruột. Mỗi năm chư tăng hội làm lễ phát lồ một lần. Gần đến ngày phát lồ, hai thầy rủ nhau đến nơi hành lễ.

Có một vị thiên ở cõi trời Đạo Lợi thấy hai vị rất thương yêu nhau, mới nghĩ rằng: “Hai vị nầy rất quý mến nhau. Ta có thể nào tìm cách ly gian họ, chia rẽ họ - xem thử có được không!” Đang suy nghĩ như thế thì trên đường đi, vị tỳ-khưu này nói với vị tỳ-khưu kia: “Xin sư huynh hãy dừng chân, đợi tôi đi ngoài một lát!”

Vị thiên ấy mới đợi cho thầy tỳ-khưu ấy đi ngoài xong, từ trong bụi rậm bước ra, liền hóa ra một người phụ nữ, một tay nắm lấy quần, một tay vén tóc như vừa mới ân ái với vị tỳ-khưu. Đợi đến khi biết chắc thầy tỳ-khưu kia thấy rõ ràng rồi, vị thiên mới biến hình đi mất.

Khi vị tỳ-khưu kia đến, vị này mới bất mãn nói rằng:

- Tôi không ngờ sư đệ lại là kẻ phá giới một cách công khai và đê tiện như vậy!

Vị kia ngạc nhiên:

- Sư huynh nói gì vậy, đệ không hiểu?

- Vừa rồi tôi trông thấy một cô gái đứng sau lưng sư đệ!

- Làm gì có chuyện ấy, thưa sư huynh!

Thế rồi, hai vị tỳ-khưu cãi qua cãi lại. Rốt cuộc, phải chia tay nhau, ai đi đường nấy, mối tình huynh đệ thâm thiết bấy nay thế là bị tan vỡ, khó hàn gắn được.

Vị thiên tạo sự ly gián ấy chợt đâm ra hối hận, nghĩ rằng: “Ta đã làm nên tội quá đáng lắm rồi!”. Bèn hiện xuống, thành thật thú nhận: “Hình ảnh cô gái là do tôi tạo ra để thử tình bạn của hai vị. Phạm hạnh của vị tỳ-khưu bị oan này, vẫn hoàn toàn trong sạch. Lỗi là do tôi. Xin hai vị bỏ qua cho mà cùng lên đường làm lễ phát lồ với nhau.

Vì nghiệp nói lời ly gián ấy, sau khi chết, vị thiên bị đọa địa ngục A-tỳ lâu dài bằng một khoảng thời gian từ thời đức Phật Ca-diếp đến đức Phật Gotama. Hiện tại, y chính là tỳ-khưu Koṇḍadhāna; và hình bóng cô gái thấp thoáng sau lưng ông ta - chính là cái nghiệp thuở trước còn dư sót lại, nên ai cũng nghi ngờ phạm hạnh của ông ta không trong sạch”.

Khi nhắc tiền kiếp xong đức Thế Tôn kết luận bằng một câu kệ ngôn với ngụ ý rằng:

“- Không nên mắng chửi kẻ khác. Nếu mắng chửi kẻ khác thị bị người ấy mắng lại, sự kình chống nhau giữa hai bên phần nhiều đều đem đến tổn thương, họa hại. Khi tâm không bị lung lạc vì hoàn cảnh, luôn giữ im lặng như mặt đất, thì không khác nào như cái mỏ đã bị bể tiếng, không còn kêu được người ấy được coi như ở gần bên Niết-bàn vậy”[4].

Sau khi dứt câu kệ, tỳ-khưu Koṇḍadhāna đắc A-la-hán quả. Tích nầy để cho ta thấy rằng, chuyện làm cho người ta ly gián, xa cách nhau, thậm chí ghét bỏ nhau là một tội nặng. Vậy ta nên cố tránh, không nên đem chuyện nầy nói với người kia, lập lại cho kẻ khác nghe - với dụng ý thêu dệt, gièm pha, đâm thọc... Chuyện mình nghe đâu, nên bỏ đó, không nên đem vào nhà, cũng như không nên để nó vào lòng.

(3)- Sự xa lánh tội lỗi được những hạnh phúc là:

1. Không có kinh sợ và oan trái.

2. Đó là phước báu vĩ đại.

3. Không có bị bệnh tật.

4. Là người không dễ duôi.

5. Là người có sắc đẹp.

6. Được an vui trong ba cõi.

7. Được ba điều lợi ích [5]

8. Được 7 điều hạnh phúc (an vui) [6]

9. Người có thể hành theo chánh pháp.



HẠNH PHÚC XX

Majjapānā ca saññama: Thu thúc sự uống rượu




Trong 38 điều hạnh phúc, có 3 điều đức Thế Tôn cấm ngặt là:

1. Anavajjānikammāni [7]: Cấm làm việc gì có tội lỗi.

2. Pāpavirati [8]: Cấm không cho làm tội lỗi, lánh xa tội.

3. Majjavirati: Cấm uống chất say.

Theo 3 câu trên quí vị hãy suy nghĩ coi có câu nào lẫn câu nào hay không?.

Hai điều trên - 1,2 - đều nói về tội. Câu thứ nhứt nói về những việc làm không có tội. Câu thứ hai nói về sự kiêng cử, tránh xa điều ác. Tội và ác cũng đều là tội - tại sao phải chia làm hai điều? Nếu đức Phật chỉ dạy một câu là: Lánh xa tội lỗi là đủ rồi. Vì tránh xa tội lỗi thì đâu có mà tội lỗi. Những phần trước đã có giải rồi nên nơi đây không phải giải thêm nhiều, chỉ nói tóm tắt hầu quý vị vậy thôi.

Pháp hạnh phúc thứ XVIII ngụ ý dạy không nên làm sai với giới luật của đời, với phong tục của một nhóm người hay với xã hội. Còn hạnh phúc thứ XI dạy lánh xa tội lỗi, đừng hành sai với điều của đức Phật dạy, nghĩa là không để tâm phải nhơ đục. Các hạnh phúc ấy không giống nhau, nhưng ta thấy hình như là giống nhau.

Câu hạnh phúc thứ XX nầy cấm uống chất say. Tiếng saññama có nghĩa là thu thúc, ý khuyên phải cẩn thận, phải thận trọng gìn giữ điều 3 nầy, đừng xem thường nó.

Ở đây, đức Phật không dạy xa lánh mà dạy nên thận trọng, cẩn thận hoặc thu thúc. Ngài thấy rằng con người phần đông đều vui thích việc uống rượu. Ngài mới dạy hãy thận trọng, không nên để sự vui thích ấy thống trị, không nên để tâm chạy theo sự sảng khoái nhất thời ấy mà đem những chất say tai hại ấy vào mình.

Chẳng phải chỉ có Phật giáo cấm uống rượu mà các tôn giáo khác như Hồi giáo cũng cấm uống rượu.

Đức Phật trông thấy cái hại của sự uống rượu là to lớn nên ngài cấm nhặt, dạy thành giới điều trong ngũ giới, bát quan trai giới, thập giới, thập thiện và cả sa-di giới, cụ túc giới nữa.

Sỡ dĩ đức Phật cấm như vậy, vì ngài thấy tâm chúng sanh vốn đã giải đãi, phóng dật, dễ duôi mà còn đem thêm vào tâm cái chất say sưa nữa - vốn là nhân của phóng dật, dễ duôi - thì e rằng lại càng dễ dàng tạo nên tội lỗi.

Tóm lại, câu Phật dạy thu thúc tâm không cho thêm vào những chất say khác vì chúng sanh đã say và mê trong tài, tình, danh, lợi lắm rồi. Những bệnh say mê ấy chữa còn chưa hết mà còn đem theo bịnh ở bên ngoài vào nữa - thì không biết khó chữa tới đâu!

Uống rượu hoặc sử dụng những chất say, đã phí tiền của, còn phí thì giờ quí báu và gây nhiều tai hại khác nữa. Có người, khi đã say rồi thì không thể làm việc được, chỉ ngủ thôi, như thế những công ăn việc làm bị đình trệ, không có hại sao? Có người viện cớ rằng, tôi thì khác, tôi uống rất chừng mực, điều độ, tôi uống vừa phải để cho khí huyết lưu thông, để nuôi giấc ngủ. Những người nầy không thấy thì giờ là quý báu, là vàng bạc. Thay vì uống rượu, thay vì giấc ngủ, tại sao ta không sử dụng thì giờ ấy để xem sách, coi kinh, quan sát việc làm của ta trong ngày có điều nào sai lầm ta diệt bỏ, mà dù uống để ngủ cũng không chạy khỏi mất tiền.

Sự tai hại, nguy hại của việc uống rượu, và những chất say khác, ta có thể liệt kê ra sau đây:

1. Chửi mắng vợ con, làm cho gia đình vì đó mà kém vui và lắm khi còn gây gổ với hàng xóm.

2. Không còn biết hổ thẹn, cứ la lối om sòm giữa đường, làm mất giá trị của con người.

3. Không ai dám thuê, hay tin tưởng giao phó một công việc gì quan trọng.

4. Không thể nào tạo được hạnh phúc cho đời mình và còn làm cho cơ sở làm ăn của mình bị sa sút, mất uy tín.

5. Đã say sưa rồi thì không còn biết giữ mồm, giữ miệng - dễ tiết lộ, phanh phui vô ích chuyện kín đáo của mình và của người khác.

6. Rượu sinh nhiều bệnh khó trị.

7. Trí óc lu mờ, mất cả sự khôn ngoan.

Đây là cái hại trong kiếp hiện tại, về kiếp sau, nghiệp còn dư sót, sanh lại thành người tối tăm, ngu dốt, học không thuộc, thiếu trí nhớ.
+ Đức Thế Tôn có dạy trong một bài kinh cũng tương tợ như trên:
Cái hại của sự uống rượu có 6 điều là:

1. Bị tốn tiền của.

2. Hằng có sự gây gổ (trong gia đình hay ngoài xã hội).

3. Là nguyên nhân sanh ra nhiều bịnh.

4. Làm mất danh dự, giá trị.

5. Không còn biết hổ thẹn.

6. Làm cho trí nhớ và trí tuệ càng ngày càng lu mờ.

Vì rượu gây tai hại như vậy, nên chẳng những đức Phật cấm uống rượu mà cũng cấm bán rượu và bố thí rượu nữa.

Trong bộ chú giải của kinh hạnh phúc có nói rộng thêm rằng: Người không uống rượu là người biết thu thúc thân, khẩu, ý của mình. Người không uống rượu là người mà ai ai cũng ưa mến, giúp đỡ; là người không chạy theo phiền não, là người cố gắng mài giũa phiền não trong lòng mình, ví như người thợ rèn đốt sắt đỏ và đập sắt cho ra hết rỉ sét. Người không uống rượu là người thích làm phước thiện, không để cho tội lỗi có cơ hội dính vào; là người giữ được lễ phép đúng theo phong tục hay đúng theo giáo lý của tôn giáo mà người ấy đang giữ. Người không uống rượu là người trì giới được trong sạch, người không uống rượu dễ trở thành một công dân lương thiện. Tâm người không uống rượu hằng không phóng túng, lại thu thúc được dễ dàng.
+ Có ba hạng người không uống rượu khác nhau:

1. Người không uống rượu bậc hạ, là người có thọ trì ngũ giới, là Phật tử chân chánh đáng ngợi khen.

2. Người không uống rượu bậc trung là người có thọ trì ngũ giới, bát quan trai giới, tu tập thiền định và cố hành để cho tâm được thanh tịnh.

3. Người không uống rượu bậc thượng là người có thọ trì ngũ giới, bát quan trai giới hoặc cụ túc giới; ngoài ra có học và hành minh sát tuệ, nỗ lực tu tập để mau đi đến nơi kết quả.

Người hành tới bậc thượng thừa nầy là người trừ được cái say của tài, tình, danh, lợi và họ sẽ đắc quả Niết-bàn trong một ngày vị lai nào đó.

Tóm lại, uống rượu, luận theo mặt đạo hay mặt đời đều là tai hại. Uống rượu gây khoái lạc trong khoảnh khắc cho người uống, nhưng là thứ khoái lạc trong sự đau khổ, có thể gây hậu hoạn khôn lường.

Vì vậy tất cả các tôn giáo đều dạy phải thu thúc sự uống rượu.
+ Không uống rượu thì được hạnh phúc như:

1. Có trí nhớ, có tên tuổi tốt, người kính nể.

2. Không si mê, không say sưa, không dễ duôi, không phóng dật, không phạm giới.

3. Không có sự kinh sợ, không có oan trái, ai cũng kính trọng, thương mến.

4. Có được sự nương nhờ cao quí.

5. Có để dành lộ phí để đi về cõi trời và Niết-bàn.

6. Có thất bửu nhà Phật trong tâm [9].

7. Sẽ được hưởng ba điều hạnh phúc là sanh làm người, trời và gieo duyên Niết-bàn.

8. Được gọi là hành theo pháp.

9. Đem mình ra khỏi khổ luân hồi.




HẠNH PHÚC XXI
Appamādo ca dhammesu: Không dễ duôi trong các pháp

(Không phóng dật trong pháp)




Hạnh phúc XXI nầy, tôi xin được chia ra làm ba phần để quí vị dễ hiểu:

1. Trạng thái của sự dễ duôi, phóng dật.

2. Thế nào gọi là sự không dễ duôi, không phóng dật trong các pháp?

3. Phương pháp hành.

Phạn ngữ appamāda nghĩa là không dễ duôi, không phóng dật - ngụ ý nói là tâm không xa trí nhớ. Ta cũng có thể nói không dễ duôi, không phóng dật là trạng thái của tâm không xa trí nhớ. Giải nghĩa như trên đối với chư sư có học phạn ngữ thì thật rành nhưng đối với quí vị tại gia cư sĩ hay người tham cứu Phật giáo cũng thấy khó hiểu. Vậy nơi đây tôi xin nói cho dễ hiểu hơn. Danh từ Pāḷi - nghĩa chính của appamāda (danh từ) là sự cẩn thận, sự chú ý - vậy thì sự không dễ duôi, không phóng dật là do nhờ tâm luôn luôn có trí nhớ, có kiểm soát; nói cách khác là có niệm và có chú tâm!

Phạn ngữ citta nghĩa là tâm. Tâm là vật vô hình, có chức năng theo dõi và quan sát các đề mục như sắc, thinh, hương, vị, xúc... Sati là trí nhớ [10], là một pháp vô hình hằng đi sát theo tâm để nhắc nhở tâm và cũng kềm chế tâm, không để tâm quên mình. Lẽ cố nhiên khi tâm không có trí nhớ để kiểm soát, thì tâm sẽ phóng túng, nghĩa là tâm suy nghĩ chuyện nầy sang chuyện nọ không bờ bến và khi đang nói chuyện, nếu không có trí nhớ kiểm soát thì chắc chắn nói chuyện ngoài đề. Tâm ấy không dùng vào đâu được vì thiếu trí nhớ.

Nói về tâm là nói đến pháp vô hình. Quí vị muốn biết tâm cho rõ thì nên học tham thiền. Khi quí vị tham thiền muốn làm cho tâm yên tịnh thì quí vị sẽ thấy nó vọng động đến độ nào.

+ Người không dễ duôi, không phóng dật có hai trường hợp sau:

1. Cẩn thận trong việc nên cẩn thận

2. Cẩn thận và giữ không cho có sự kinh sợ xảy ra trong ngày vị lai.

3. Cẩn thận có nghĩa là quan sát kỹ càng không cho sơ thất.
Không dễ duôi trong các pháp

Tiếng dhamma ta dịch ra là pháp, tựu trung có nhiều ý nghĩa khác nhau.

Dhamma là từ thông dụng nhứt trong Phật giáo, ví dụ như nó nằm trong Tam Bảo là Phật Pháp Tăng, hoặc để gọi tên tất cả các pháp như giới, định, tuệ, tinh tấn, nhẫn nại...; rồi pháp thiện, pháp ác... cái gì cũng gọi là pháp.

Pháp bảo là lời giảng dạy của đức Phật, là pháp bất di, bất diệt, là pháp giải thoát không có một ai phản đối hay chỉ trích được. Tại sao? Vì pháp ấy là sự thật hiển nhiên, là chân lý. Đức Phật tự giác ngộ sự thật ấy và đem sự thật ấy dạy chúng sanh, mà không bắt buộc ai phải nghe theo, tin theo; trái lại ngài dạy hãy dùng trí tuệ để suy nghĩ, quan sát sự thật ấy. Chúng ta có thể tin chắc nơi pháp của Phật là chân chính, là con đường đi đến nơi vô sanh bất diệt bởi các điều sau đây:

1. Đức Phật giáo hóa con đường đi đến nơi giải thoát. Sau khi chứng đắc tuệ quả Vô thượng Chánh Đẳng Giác, đức Phật dạy đời với chánh pháp mà ngài đã đắc, chớ không phải do nơi một uy quyền nào bắt buộc chúng sanh phải nghe theo; và cũng không mua chuộc chúng sanh bởi bất cứ lý do nào, trái lại, ngài lại cấm các nhà sư không nên dùng bùa phép, làm thầy thuốc, hay được của cúng dường nơi nầy đem cho nơi khác, hoặc đem của Tăng cho người tin tưởng theo mình để lấy lòng.

2. Đức Phật để cho người nghe có quyền cật vấn, chất vấn ngài hoặc hãy về nhà suy nghĩ lại, rồi sẽ tin sau. Ngoài ra, ngài còn khuyến khích Phật tử phải dùng trí tuệ để tham cứu pháp bảo và thường hội nhau lại để luận giải những pháp mà họ còn nghi ngờ.

3. Ngài thuyết pháp độ chúng sanh, không phân giai cấp. Hầu hết các vua chúa trong thời kỳ ấy đều xin làm đệ tử tại gia; và cũng có nhiều vị giáo chủ của một tông phái tự giải tán tôn giáo của mình lập ra và theo làm đệ tử của ngài như ba anh em ông Kassapa nhờ thần lửa... Có biết bao nhiêu là danh sĩ, trí thức theo ngài, nhưng ngài chẳng coi điều đó là biểu tỏ uy tín hoặc tăng thêm danh dự cho ngài.

4. Hiện nay đã hơn 25 thế kỷ rồi, mỗi lời giảng dạy của ngài vẫn còn sáng chói và biết bao nhiều người vâng giữ hành theo, chứng tỏ rằng pháp Phật là sự chân thật vĩnh cửu đem người đến nơi giải thoát.

5. Dhamma còn có nghĩa là gìn giữ - ý nói người nào thực hành theo dhamma (pháp) thì pháp ấy gìn giữ không để cho người ấy sanh vào nơi khổ cảnh.

Vì những lẽ kể trên, nên hạnh phúc XXI nầy dạy rằng: Không nên dễ duôi, phóng dật trong các pháp, nghĩa là không nên dễ duôi mà không hành theo pháp của Phật.

Dễ duôi, phóng dật... có nghĩa là không làm tròn phận sự, hoặc lừa đảo kiếm cách không làm tròn phận sự. Có người tự dối mình rằng: Tôi chưa già chưa phải lúc tu. Họ đã quên rằng trong nghĩa địa có biết bao nhiều nấm mồ của những người còn đầu xanh, tuổi trẻ; và còn quên rằng, của cải nhiều, con khôn, vợ ngoan, bạn hiền, nhưng khi tử thần đến không đem của cải đi đổi được, vợ con bạn bè không giúp mình chống với tử thần được. Nghĩ mình còn trẻ, chưa già, chưa chịu làm lành, đó là trạng thái của sự dễ duôi, phóng dật vậy.

Chú giải còn giảng rộng thêm rằng: Sự mến tiếc trần tục gọi là phóng dật, dễ duôi. Có lời Phật dạy trong bộ Khuddakavibhaṅga rằng, hai pháp dễ duôi và không dễ duôi ấy như thế nào? Bỏ qua những việc làm có ích, để đời sống trôi chảy, cuốn hút, dính mắc theo dục lạc ngũ trần làm cho thân, khẩu, ý bị nhơ đục gọi là dễ duôi, phóng dật. Còn nữa, không chú tâm làm việc và không tiếp tục làm, việc làm bị gián đoạn, bởi lười biếng, hoặc làm một cách miễn cưỡng, bỏ dở việc đang làm, không sốt sắng, không quan tâm đến những việc làm, đều gọi là phóng dật, dễ duôi. Sự dễ duôi, sự không chú tâm, sự trụy lạc trong trần tục như thế ấy, Như Lai gọi là phóng dật, dễ duôi.

Chú giải bài kinh ấy còn dạy rằng: Sự không đầy đủ trí nhớ, niệm tưởng - để đàn áp tâm phóng túng, lung lạc theo tài, tình, danh, lợi cũng gọi là phóng dật, dễ duôi.

Hai pháp dễ duôi và không dễ duôi có quả báo khác nhau. Dễ duôi là nhân sanh ra tội lỗi. Không dễ duôi là nhân sanh phước thiện. Vì vậy nên Đức Phật có dạy trong Chattavagga ở phần Ekanipatta anguttara nikāya rằng: “Nầy các thầy tỳ- khưu! Như Lai suy nghĩ không thấy pháp nào là nguyên nhân làm cho các pháp lành đã có rồi phải bị tiêu diệt, bằng pháp phóng dật, dễ duôi. Này các thầy tỳ-khưu! Vì một người phóng dật, dễ duôi thì tất cả các pháp ác chưa sanh sẽ phát sanh và các pháp thiện đã có, lại từ từ tiêu diệt”.

Rồi ngài dạy thêm rằng: “Nầy các thầy tỳ-khưu! Như Lai không thấy một pháp nào là nguyên nhân sanh các thiện pháp, là nguyên nhân làm cho các thiện pháp chưa phát sanh được phát sanh và lại là nguyên nhân tiêu diệt, ngăn ngừa các ác pháp bằng pháp không phóng dật, không dễ duôi! Nầy các thầy tỳ-khưu! Một người không phóng dật, không dễ duôi thì các thiện pháp chưa sanh, lại sanh và các ác pháp đã có rồi, bị tiêu diệt”.

Đức Phật lại còn dạy trong Pháp cú kinh, đoạn Appamādavagga về phóng dật, dễ duôi trong tích của bà hoàng hậu Sāmāvatī rằng:

“- Appamādo amataṃ padaṃ

Pamādo maccuno padaṃ

Appamattā na mīyanti

Ye pamattā yathā matā”.[11]

Nghĩa là: Sự không phóng dật là con đường đi đến chỗ không chết. Sự phóng dật là con đường đi đến chỗ chết. Những người không phóng dật gọi là không chết. Người phóng dật, mặc dầu sống cũng như chết.

Ý nói rằng: Không phóng dật là không làm tội lỗi và diệt trừ phiền não là con đường đi đến Niết-bàn, là nơi vô sanh bất diệt. Còn người phóng dật cứ làm nô lệ cho phiền não, nghĩa là chạy theo ngũ trần lục dục.

Phương pháp thực hành không phóng dật:
+ Trong bộ kinh Anguttaranikāya, đức Phật có dạy 4 phương pháp thực hành không phóng dật.

1. Không nên phóng dật trong sự diệt trừ xấu ác ở nơi thân (thân ác nghiệp); và không nên phóng dật không làm việc lành cũng ở nơi thân (bố thí, làm các thiện sự).

2. Không nên phóng dật trong sự diệt bỏ ác khẩu (tứ ác khẩu) và cũng không nên phóng dật về sự không làm lành do khẩu (Ái ngữ, ví như lời khuyên người tu hành).

3. Không nên phóng dật trong sự diệt bỏ ác tâm và cũng không nên phóng dật về sự sửa trị tâm mình cho thanh tịnh.

4. Không nên phóng dật trong sự diệt bỏ tà kiến và cũng không nên phóng dật trong sự chuyển hóa làm tâm trí mình trở nên chánh kiến.
+ Người không phóng dật được những hạnh phúc là:

1. Đại phước

2. Bất tử (như đã có giải rồi).

3. Ngừa được ác đạo.

4. Xa tất cả các điều khổ.

5. Hưởng an vui trong thiện pháp.

6. Đi đến nơi thiện.

7. Được hưởng an vui.

8. Tự mình thức tỉnh lấy mình.

9. Lòng được thảnh thơi.

10. Diệt trừ được các ác pháp.

11. Không lẫn lộn với các pháp ác.

12. Gọi là người hộ trì Phật pháp.

13. Được nghe lời chỉ dạy của các bậc thánh nhơn.

14. Là người Phật tử chơn chánh.

15. Là người có giới đức trong sạch.

16. Sau khi chết được sanh về nơi nhàn cảnh.






[1] Ārati: Viễn ly, tránh xa. Virati: Kiêng cử, tiết chế. Pāpa: Ác. Đại sư Viên Minh dịch là: Xả ly tâm niệm ác.


[2] Samādānavirati: Sự thọ trì, kiêng cử (Ví dụ, nguyện giữ giới).


[3] Kammakilesa: Phiền não nghiệp.


[4] Pháp cú 133, 134: Oán nhau, ăn nói cộc cằn. Người kia thù lại cũng ngần ấy thôi. Khổ thay! Phẫn hận trên đời. Vết thương dao xé, tiếng lời lại qua (133). Tự mình nếu biết lặng yên. Không còn oán nộ, chẳng hiềm hại ai. Mõ kia đã bể tiếng rồi. Ai mà được vậy kề nơi Niết-bàn (134).


[5] Giống như ba điều lợi ích đã chú thích trước.


[6] Chưa rõ 7 điều gì!


[7] Anavajjāni kammāni: Giữ chánh mạng trong đời.


[8] Kiêng cử, tránh xa điều ác.


[9] Không rõ là bảy báu gì? Có thể là 7 thánh sản: Tín, giới, tàm, quý, đa văn, thí, tuệ. Có thể là 7 pháp thù thắng: Tín, tàm, quý, đa văn, tấn, niệm, tuệ.


[10] Sati, các vị trước đây hay dịch là trí nhớ; thật ra, trí nhớ chỉ là một nghĩa trong nhiều nghĩa của Sati; nghĩa chính của nó là niệm và tùy niệm (Sati và Anussati); niệm (Sati) là an lập tâm trên thực tại đang là - để bất cứ một pháp nào tác động lên thân tâm là nó ghi nhận ngay. Nó như người canh cửa. Còn tùy niệm (Anussati) là theo dõi, rà soát, bám chặt đối tượng không có lơ là, chểnh mảng; nó còn có nghĩa là niệm liên tục, theo dõi liên tục không cho gián đoạn.


[11] Diến ý thơ: Con đường phóng dật: nguy nan. Con đường tỉnh thức: vinh quang đời đời. Buông lung là kẻ chết rồi. Pháp mầu bất tử đợi người cần chuyên (PC. 21).

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét