Thứ Ba, 29 tháng 12, 2020

Lợi ích tụng Kinh niệm Phật



Lợi ích tụng Kinh niệm Phật

Tụng Kinh niệm Phật (Tụng là đọc, niệm là nhớ) là miệng đọc tâm nhớ, tâm và miệng hợp nhất, nhất tâm đọc và nhớ lời Kinh và danh hiệu của Phật.


Tụng Kinh niệm Phật của hàng xuất gia hay tại gia để tỉnh thức tâm linh, kiến tạo cho chính mình một cuộc sống an hòa. Lợi ích của sự tụng Kinh niệm Phật - ngoài công đức cho kẻ còn người mất - còn nói lên nếp sống đạo. Nếp sống cố hữu của tổ tiên chúng ta là tụng Kinh niệm Phật để tích phước cho con cháu. Hơn nữa, sự tụng Kinh niệm Phật còn đem lại nhiều lợi ích thiết thực như sau:

Tụng Kinh niệm Phật giữ cho tâm được an lành, để dễ cảm thông với các Đấng Thiêng Liêng. Tụng Niệm rất dễ dàng huân tập các điều suy nghĩ tốt vào tâm thức.

Tụng Kinh niệm Phật để ôn lại những lời dạy của Phật. Lấy đó làm kim chỉ nam cho nếp sống đạo.

Tụng Kinh niệm Phật để giữ cho thân, miệng, ý được thanh tịnh, trang nghiêm và chính đáng.

Tụng Kinh niệm Phật để cầu an, thì nghiệp chướng tích lũy trong nhiều đời nhiều kiếp sẽ dứt trừ va tránh được những tai ương hạn ách có thể xảy ra trong bất cứ lúc nào.


Tụng Kinh niệm Phật để cầu siêu, nhờ sức chú nguyện thanh tịnh, hoán đổi tâm niệm xấu của người chết đã tạo, giúp họ xa lìa cảnh giới tối tăm và được sanh về thế giới an lạc.


Tụng Kinh niệm Phật để tỏ lòng ăn năn sám hối trước Phật đài và kể từ nay, tâm niệm của mình được thanh tịnh, nghiệp chướng khổ đau không còn nữa.

Tụng Kinh niệm Phật để pháp âm ngân vang, để cảnh tỉnh trần thế mê hoặc và cảm hóa mọi người đang sống trong cảnh u tối lầm than.

Vì những lợi ích trên, người đã tin Phật phải tụng Kinh niệm Phật và tụng niệm cho đúng cách. Khi tụng niệm nên giữ cho trang nghiêm, tránh mọi sự ồn ào, phức tạp, tránh mọi điều làm kích động tâm ý, đắm lợi mê danh, tham luyến trần tục. Chỉ tụng niệm trước Tam Bảo, trong Đạo tràng thanh tịnh, hoặc nơi trang nghiêm, hoặc nơi thích hợp chính đáng, không nên tụng niệm trước chỗ thờ quỷ thần, cúng cá thịt, đốt vàng mã theo thủ tục lệ mê tín dị đoan, không thích hợp với Phật pháp.

Trích "Nghi thức tụng niệm hàng ngày" - HT Thích Thiện Thanh




TỤNG KINH, TRÌ CHÚ, NIỆM PHẬT

Người tụng kinh trì chú và niệm Phật, làm đúng như thế, thì chắc chắn sẽ được chứng quả Thánh không sai.




A- Mở đề

Người Phật tử, nếu chỉ thờ, lạy và cúng Phật, thì cũng chưa có thể gọi là thuần thành. Người Phật tử thuần thành còn phải tụng kinh, trì chú và niệm Phật. Vả lại nếu bỏ qua ba phần sau này, thì ba phần trước là thờ, lạy và cúng khó có thể viên dung cả Sự và Lý được.

Vì phần Lý là phần cao siêu khó thực hành, mà nếu chúng ta không tụng kinh, niệm Phật để cho tâm hồn được sáng suốt, tỏ ngộ các lý lẽ sâu xa huyền diệu trong kinh đìển, thì chúng ta không làm thế nào để đạt được 4 phép lạy thuộc về Lý là: Phát trí thanh tịnh lễ, biến nhập pháp giới lễ, chánh quán lễ, thật tướng bình đẳng lễ và 5 món diệu hương để cúng Phật là:

Giới hương, Ðịnh hương, Huệ hương, Giải thoát hương, Giải thoát tri kiến hương. Và nếu không thực hành được 4 phép lạy về Lý và cúng dường được 5 món diệu hương, thì sự lạy và cúng chỉ là phần “Sự” là phần hình thức, và vì thế, kẻ tín đồ khó có thể tiến được trên đường Ðạo. Bỡi vậy, cùng một lần với thờ, lạy và cúng Phật, chúng ta phải tụng kinh, trì chú và niệm Phật. Ðó là những điểm căn bản tối thiểu mà một Phật tử thuần thành không thể bỏ qua được.

B- Chánh Ðề

I- Ðịnh Nghĩa

1) Tụng kinh: Tụng là đọc thành tiếng một cách có âm diệu và thành kính. Tụng kinh là đọc một cách thành kính những lời Ðức Phật đã dạy trong kinh điển, hợp với chân lý và căn cơ của chúng sanh.

2) Trì chú: Trì là nắm giữ một cách chắc chắn. Chú là lời bí mật của Chư Phật mà chỉ có Chư Phật mới hiểu được, chứ các hàng Bồtát cũng không hiểu thấu. Các bài chú đều có oai thần và công đức không thể nghĩ bàn, dứt trừ được nghiệp chướng, tiêu tai giải nạn và tăng trưởng phước huệ, nên cũng gọi là thần chú.

3) Niệm Phật: Niệm là tưởng nhớ. Niêm Phật là tưởng nhớ danh hiệu Phật, hình dung
Phật và đức hạnh của Phật, để luôn luôn cố gắng noi theo bước chân Ngài.

II- Lý Do Phải Tụng Kinh – Trì Chú – Niệm Phật

1) Vì sao phải tụng kinh? Chúng ta sống trong cõi dục, cho nên lòng dục vọng của chúng ta không bao giờ ngừng nghỉ, cho đến trong giấc ngủ, cũng còn chiêm bao cãi lẩy, cười khóc, vui buồn như lúc thức. Trong cảnh mê mờ đầy dục vọng ấy, may thay, Ðức Phật vì đã thương xót chúng sanh mà truyền dạy những lời vàng ngọc, có thể phá tan màng mây u ám của vô minh và tội lỗi.

Nhưng những lời lẽ cao siêu ấy, chúng ta nghe qua một lần, hai lần cũng không thể hiểu thấu và nhớ hết được. Cho nên chúng ta cần phải đọc đi đọc lại mãi, để cho lý nghĩa thâm huyền được tỏa ra, và ghi khắc trong thâm tâm chúng ta, không bao giờ quên được. Ðó là lý do khiến chúng ta phải tụng kinh.

2) Vì sao phải trì chú? Chú có công năng phi thường, nếu người thành tâm trì chú, thì được nhiều hiệu lực không thể tưởng tượng. Chẳng hạn thần chú “Bạc nhứt thế nghiệp chướng căn bổn đắc sinh Tịnh độ Ðà la ni” có hiệu lực tiêu trừ được hết gốc rễ nghiệp chướng, làm cho người được vãng sanh về Tịnh độ.

Thần chú “Tiêu tai kiết tường” có hiệu lực làm cho tiêu trừ các hoạn nạn, tai chướng, được gặp những điều lành. Thầ chú “Lăng Nghiêm” thì phá trừ được những ma chướng và nghiệp báo nặng nềv.v… Thần chú “Chuẩn Ðề” trừ tà, diệt quỷ. Thần chú “Thất Phật diệt tội” có công năng tiêu trừ tội chướng của chúng ta từ nhiều đời nhiều kiếp v.v… Vì thế nên chúng ta phải trì chú.

3) Vì sao phải niệm Phật? Tâm chúng ta bị vô minh làm mờ đục, chẳng khác gì nước bị bùn nhơ làm ngầu đục. Muốn cho nước đục kia hóa ra trong, không có phương pháp nào hay hơn là gia một chút phèn vào, thì các chất dơ bẩn ngầu đục kia dần dần lắng xuống, bấy giờ nước đục trở nên trong sạch. Phương pháp niệm Phật cũng vậy, có công năng trừ phá các vọng niệm đen tối ở nơi tâm của chúng ta, làm cho tâm mê muội, mờ ám trở nên sáng suốt, chẳng khác gì chất phèn làm cho nước trở nên trong vậy.

Vì sao niệm Phật lại làm cho tâm mê muội trở nên trong sáng ? Vì lý do rất dễ hiểu sau đây:
Tâm chúng ta rất điên đảo, không bao giờ dừng nghỉ. Kinh thường nói: “Tâm viên, ý mã”, nghĩa là “tâm” lăng xăng như con vượn nhảy từ cành nầy qua cành khác, và “ý” như con ngựa chạy lung tung luôn ngày suốt buổi. Làm sao cho tâm ý chúng ta đừng nghĩ xằng bậy?

Chỉ có một cách là bắt nó nghĩ những điều tốt lành, hay đẹp. Niệm Phật chính là nhớ nghĩ đến những Vị hoàn toàn tốt đẹp, những hành động trong sáng, những đức tánh thuần lương. Càng niệm Phật nhiều chừng nào, thì ít niệm ma chừng ấy. Ma ở đây là tất cả những gì xấu xa đen tối, làm hại mình hại người. Vì thế chúng ta nên luôn luôn niệm Phật.

III- Phải Thường Tụng Những Bộ kinh Nào, Trì Chú Gì Và Niệm Danh Hiệu Phật Nào?

1- Các kinh thường tụng. Phàm là kinh Phật thì bộ nào tụng cũng được cả, vì kinh nào cũng có công năng thù thắng là phá trừ mê mờ, khai mở tâm trí sáng suốt cho chúng sanh, nếu chúng ta chí thành đọc tụng. Nhưng vì căn cơ của chúng ta không đến, nên chúng ta phải lựa những bộ kinh nào thích hợp với căn cơ và sở nguyện của chúng ta mà đọc tụng.

Thông thường, các Phật tử Việt Nam, từ xuất gia cho đến tại gia đều trì tụng những kinh như: Di-Ðà, Hồng Danh, Vu-Lan, Phổ Môn, Dược Sư, Ðịa Tạng, Kim Cang, Lăng Nghiêm, Pháp Hoa v.v…

Nhiều người có quan niệm, chọn bộ kinh cho thích hợp với mỗi hoàn cảnh, mỗi trường hợp để tụng, như lúc:

- Cầu siêu thì tụng kinh Di-Ðà, Ðịa Tạng, Vu Lan v.v…;

- Cầu an thì tụng kinh Phổ Môn, Dược Sư v.v…;

- Cầu tiêu tai giải bịnh thì tụng kinh Kim-Cang, Lăng-Nghiêm v.v…;

- Cầu sám hối thì tụng kinh Hồng-Danh. Quan niệm lựa chọn như thế cũng có phần hay là làm cho tâm chuyên nhất sẽ được hiệu nghiệm hơn. Nhưng chúng ta không nên quên rằng về mặt giáo lý cũng như về mặt công đức, bất luận một bộ kinh nào, nếu chí tâm trì tụng, thì kết qủa cũng đều mỹ mãn như nhau cả.

2- Các chú thường trì. Ở chùa, chư Tăng hằng ngày, trong thời khóa trụng khuya, trì chú Lăng Nghiêm, Ðại Bi, Thập chú hay Ngũ Bộ chú v.v… còn ở nhà, phần nhiều cư sĩ trì chú Ðại Bi và Thập chú, bỡi hai lẽ: một là thời giờ ít ỏi, vì còn phải lo sinh sống cho gia đình; hai là chú Lăng Nghiêm đã dài, lại thêm chữ âm vận, trắc trở khó đọc, khó thuộc.

Nhưng nếu cư sĩ nào có thể học hết các thần chú, trì tụng được như chư Tăng thì càng tốt.

3- Các hiệu Phật thường niệm. Ðúc Phật nào cũng đủ cả 10 hiệu, đồng một tâm toàn giác, từ bi vô lượng, phước trí vô biên, thương chúng sanh vô cùng vô tận, nên chỉ niệm danh hiệu một Ðức Phật nào cũng đều được cảm ứng đến tất cả Chư Phật, công đức cũng đều vô lượng vô biên.

Nhưng đứng về phương diện trìng độ và hoàn cảnh mà luận, thì hiện nay, chúng ta là người ở thế giới Ta Bà, nhằm quốc độ của Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni giáo hóa, lẽ cố nhiên chúnng ta phải niệm danh hiệu của Ngài. Dụ như dân chúng ở trong nước nào, phải nhớ nghĩ đến ơn nhà cầm quyền chính trị sáng suốt ở trong nước đó.

Nếu Tín đồ nào tu theo pháp môn Tịnh Ðộ, thì thường ngày phải niệm danh hiệu Ðức Phật A-Di-Ðà. Pháp môn này được thành lập do lời dạy sau đây của Ðức Phật Thích Ca:

“Ở cõi thế giới Ta Bà này, đến thời kỳ mạc pháp, cách Phật lâu xa, chỉ
có pháp “Trì danh niệm Phật”, cầu vãng sanh về Tây phương cực lạc là quốc độ của Ðức Phật A-Di-Ðà, thì dễ tu dễ chứng hơn hết”. Ngoài ra, cũng có người niệm danh hiệu Ðức Phật Di-Lặc, để cầu sanh về cõi trời Ðâu Xuất; hoặc niệm danh hiệu Ðức Phật Dược Sư, để cầu cho khỏi tật bịnh.

Tóm lại, tín đồ phải niệm đủ Tam thế Phật:

a) Niệm Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni, là niệm Ðức Phật hiện tại, cũng là Ðức Phật Giáo chủ của chúng ta.

b) Niệm Ðức Phật A-Di-Ðà, là niệm Ðức Phật đã thành từ quá khứ xa xưa, mà cũng là Ðức Phật tiếp dẫn chúng ta về Cực Lạc.

c) Niệm Ðức Phật Di-Lặc, là niệm Ðức Phật vị lai.

IV- Lợi Ích Của Sự Tụng Kinh – Trì Chú – Niệm Phật:

1.- Lợi ích của sự tụng kinh. Những lời giáo hóa trong ba tạng kinh điển của Phật, đều toàn là những lời hiền lành, sáng suốt do lòng từ bi và trí tuệ siêu phàm của Phật nói ra.

Kinh Phật, vì thế, có phần siêu việt hơn tất cả những lời lẽ của thế gian. Nếu chúng ta chí tâm trì tụng, chắc chắn sẽ được nhiều lợi ích cho mình, cho gia đình và những người chung quanh:

a/. CHO MÌNH:

Lúc tụng niệm, hành gỉa đem hết tâm trí chí thành đặt vào văn kinh để khỏi sơ xuất, nên sáu căn: Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý không còn móng lên mười điều ác nữa, mà chỉ ghi nhớ những lời hay, lễ phải.

b/. CHO GIA ÐÌNH:

Trước khi sắp sửa tụng kinh, những người trong nhà đều dứt các câu chuyện ngoài đời và khách hàng xóm đến ngồi lê đôi mách cũng tự giải tán. Trong gia đình nhờ thế được thanh tịnh, trang nghiêm, hòa thuận.

c/. CHO NGƯỜI CHUNG QUANH:

Trong những lúc đêm thanh canh vắng, lời tụng kinh trầm bỗng theo với tiềng mõ nhịp đều, tiếng chuông ngân nga, có thể đánh thức người đời ra khỏi giấc mê, đưa lọt vào tai kẻ lạc lối những ý nghĩa thâm huyền, những lời khuyên dạy bổ ích, chứa đựng trong kinh mà hành giả đang tụng.

Như vậy rõ ràng tụng kinh chẳng những có lợi ích cho mình, cho gia đình, mà còn cho những người chung quanh nữa. Ðó là mới nói những điều ích lợi thông thường có thể thấy được, ngoài ra tụng kinh còn có những điều lợi ích, linh nghiệm lạ thường,
không thể giải thích được, ai tụng sẽ tự chứng nghiệm mà thôi.

2- Lợi ích của sự trì chú:

Các thần chú tuy không thể giải nghĩa ra được, nhưng người chí tâm thọ trì, sẽ được công hiệu thật là kỳ diệu, khó có thể nghĩ bàn, như người uống nước ấm, lạnh thì tự biết lấy. có thể nói: một câu thần chú, thâu gồm hết một bộ kinh, vì vậy, hiệu lực của các thần chú rất phi thường. Khi gặp tai nạn, nếu thực tâm trì chú, thì mau được giải nguy. Như thuở xưa, Ngài A-Nan mắc nạn, Ðức Phật liền nói thần chú Lăng Nghiêm, sai ngài Văn Thù Sư Lợi đến cứu, thì Ngài A-Nan liền được thoát nguy.

Ngày nay có nhiều trường hợp mà người thành tâm niệm chú thấy được hiệu nghiệm rõ ràng. Theo lời Bác sĩ Thiện Thành nói lại, thì vào năm 1946, giữa lúc loạn ly, BS ở trong một vùng rừng sâu, núi hiểm tại Trung việt. Một lần Bs bị một chứng bịnh nan y, mặc dù lương dược Ðông, Tây sẵn có trong tay, cũng không làm sao trị được.

Bác sĩ tưởng sẽ bỏ mình trong xóm người Sơn cước, không ngờ lúc còn ở dưới mái nhà cha mẹ, thường đêm nghe thân phụ trì chú “Công Ðức Bảo Sơn”, BS liền đem thần chú ấy ra áp dụng. Trong lúc ấy, các người nuôi bịnh cũng xúm lại hộ niệm cho BS suốt đêm. Sáng hôm sau, quả thật BS lành mạnh trở lại một cách dễ dàng, làm cho tất cả các bạn đồng nghiệp đều ngạc nhiên.


3- Lợi ích của sự niệm Phật:

Niệm Phật công đức lại còn to lớn hơn nữa, vì một câu niệm Phật có thể gồm thâu cả 3 tạng kinh điển, hết thảy thần chú, cùng là các pháp viên đốn, như tham thiền, quán tưởng v.v…
Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni có dạy rằng: “Sau khi Phật nhập diệt , về thời kỳ mạt pháp, đến kiếp hoại, các kinh sẽ bị tiêu diệt hết, chỉ còn kinh Di-Ðà lưu truyền lại độ trăm năm rồi cũng diệt luôn. Lúc bấy giờ chỉ còn một câu niệm Phật gồm 6 chữ
“Nam mô A-Di-Ðà Phật”, mà đủ năng lực đưa chúng sanh về cõi “Cực-Lạc”.

Lời Phật nói không sai, bằng chứng là có nhiều nhân vật chuyên trì một câu niệm Phật, mà biết được ngày giờ và thấy được điềm lành trước khi vãng sanh. Như Tổ Huệ Viễn, trong 10 năm niệm Phật, 3 lần thấy Ðức Di-Ðà rờ đầu; trong hội Liên xã, có 123 người chuyên tu phép “Trì danh niệm Phật”, đều lần lược được Phật rước về cõi Tịnh Ðộ.

Gần đây ở Nam phần VN, vào năm 1940, có 3 vị sĩ quan Pháp là Ðại úy Touffan, Trung úy Retourna, Thiếu úy Brillant đồng lái một chiếc thuỷ ohi cơ bay từ đảo Côn Lôn về Sài gòn. Giữa đường, chiếc phi cơ hư, , rơi xuống biển. Thiếu úy Brillant (người Pháp lai Việt) niệm Phật cầu cứu. Chiếc thủy Phi cơ lửng thửng trên mặt biển suốt 3 giờ , mới gặp một chiếc tàu đánh cá của người Nhật đến cứu. Khi 3 vị vừa bước sang tàu, thì chiếc phi cơ chìm ngay xuống biển.

Ai nấy đều lấy làm lạ, hỏi nhau: Tai sao khi nãy có 3 người ngồi nặng, phi cơ lại nổi, mà bây giờ không có người nó lại chìm ngấm? Chỉ có thiếu úy Brillant mới giải thích được sự lạ lùng ấy. Ông kể lại cho mọi người nghe sự linh ứng của pháp niệm Phật mà ông thường áp dụng, và lần nầy là lần thứ hai ông được thoát nạn nhờ phép niệm Phật ấy. Ðại úy Touffan và trung úy Retourna hết lòng tin tưởng, nên khi về đến Saigon, hai vị sĩ quan ấy chung nhau một số tiền, cất một cái am đẹp đẽ ở Cát lái, làng Thạnh Mỹ Lợi, tỉnh Gia Ðịnh để thờ Phật gọi là tỏ lòng tri ân. Ðây chỉ là một câu chuyện trong muôn ngàn câu chuyện về sự lợi ích của phép niệm Phật.

C- Kết Luận

Khuyên Phật Tử Tụng kinh Niệm Phật Và Trì Chú Cả Sự Lẫn Lý Cho được Viên Dung.

Tụng kinh, trì chú, niệm Phật là 3 phương pháp tu hành gồm đủ cả Sự và Lý. Dù tại gia hay xuất gia, dù tiểu thừa hay Ðại thừa, tiêu cực hay tích cực, không ai
có thể rời 3 phương pháp nầy được. Bỡi thế, Phật tử cần phải học tụng kinh, niệm Phật và trì chú choSự,Lý đi đôi, lời nói và việc làm phù hợp, mới có được kết quả tốt đẹp.

Ba pháp môn tụng kinh, trì chú, niệm Phật, tuy không đồng mà kết qủa đều thù thắng.

Phật tử có thể tùy theo trình độ, hoàn cảnh của mình mà tu một, hai hay cả ba pháp ấy.

Thí dụ như người biết chữ và mạnh khoẻ, công ăn việc làm hằng ngày không bận rộn lắm, thì nên tụng kinh, trì chú, niệm Phật đủ cả ba pháp môn. Còn người tuổi gìa, sức yếu, mắt mờ, răng rụng, miệng lưỡi phều phào, thân thể mỏi mệt, nếu tụng kinh , trì chú không nổi, thì phải chuyên tâm niệm Phật, đi đứng nằm ngồi, túc nào cũng phải niệm Phật. Nhưng các Phật tử nên nhớ, khi miệng tụng kinh, trì chú, niệm Phật, tay gõ mõ, đánh chuông, lần chuỗi, thì tâm trí phải gột rửa hết bao ý nghĩ bất chính, những ham muốn đê hèn, và đạc vào dấy hình ảnh của Ðấng Từ Bi.

Rồi phải noi gương Ngài, mở lòng thương rộng lớn, nghĩ đến nỗi thống khổ của muôn loài và phát nguyện đem sức mình ra, ban vui cứu khổ cho tất cả. Ðến khi thôi tụng niệm, trở lại tiếp xúc việc đời, thì phải làm thế nào cho những hành động của mình cũng được từ bi như tư tưởng và lời nói của mình vậy.

Người tụng kinh trì chú và niệm Phật, làm đúng như thế, thì chắc chắn sẽ được chứng quả Thánh không sai.

HT. Thích Thiện Hoa



Sự lợi ích của việc Tụng Kinh, Niệm Phật và Hành Thiền


Nói đến Đạo Phật là đề cập đến tư tưởng triết lý, hàm chứa trong tam tạng kinh điển, một hệ thống giáo lý khế hợp, khế cơ với những điều kiện tâm lý xã hội của con người, kinh qua các thời kỳ phát triển của lịch sử truyền đạo của các bậc tổ sư, bằng những chứng sống, để cho các hàng Phật tử tại gia cũng như xuất gia chiêm nghiệm và hành trì. Là người Phật tử phải có một cái nhìn như thị, xem tất cả các pháp môn hành trì như những phương tiện, để nhận dạng sự dung hòa của nó, thì mục đích đối tượng là giải thoát giác ngộ đều do các phương tiện dẫn dắt là điều không thể thiếu được.

Thưa quý vị trong vấn đề tu tập, tại sao ta phải tụng kinh, niệm phật và hành thiền, nó có lợi ích gì cho sự tu tập giải thoát và giác ngộ. Là người Phật tử nếu chỉ thờ, lạy, cúng Phật thì chưa đủ gọi là rốt ráo thuần thiện, mà người Phật tử cần phải tụng kinh, niệm Phật và hành thiền v.v.. thì mới viên dung cả Sự và Lý, vì đây là những điểm căn bản không thể bỏ qua được.

Tại sao ta phải tụng kinh và có lợi ích gì?

Đạo Phật xuất hiện ở thế gian vì sứ mệnh làm nhẹ bớt những thương đau, và hướng dẫn con người trong việc kiến tạo một đời sống an lạc. Căn cứ trên nền tảng từ bi và trí tuệ. Vì vậy trong tam tạng giáo điển hay nói một cách khác, là cả một hệ thống giáo lý bao gồm mọi lãnh vực triết học, y học, dược học, văn học, tâm lý học v.v … và có vô số pháp môn để chúng ta thực hành và đạt đến quả vị giác ngộ. Kinh Phật có công năng khai mở trí tuệ, phá trừ mê mờ cho nên tụng kinh rất lợi ích:
Tụng kinh để thâu nhiếp sáu căn và làm cho ba nghiệp được thuần tịnh, không có cơ hội tạo các nghiệp bất thiện.
Đạo tràng nhờ đó mà được thanh tịnh trang nghiêm.
Gia đình nhờ thế mà được an lạc và hòa thuận.
Tĩnh thức người chung quanh bằng lời kinh tiếng mõ.
Nhờ tụng kinh mà thông hiểu giáo lý và thực hành đúng chánh pháp.

Ví dụ: hai thời công phu sớm tối, nói lên chí nguyện thượng cầu hạ hóa của người xuất gia, để cho chúng ta thấy rằng tinh thần nhân bản của đạo Phật không những biểu lộ ở giáo lý mà còn ở thái độ và hành động của người Phật tử đối với vấn đề tự giác và giác tha. Người Phật tử xây dựng bản thân về ba mặt: trí tuệ, tình thương và ý trí; luôn sống trong ý thức, biết mình đang làm gì, nghĩ gì để soi sáng tư tưởng, ngôn ngữ và hành động. Vì vậy thời công phu sáng là ôn lại chí nguyện của người xuất trần và trì ngũ bộ chú để bạt những chướng ngại trong khi thực hành đại nguyện:

- “Nguyện kim đắc quả thành bão vương

- Hoằng độ như thị hằng xa chúng

- Tương thử thâm tâm phụng trần sát

- Thị tắc danh vi báo Phật ân v.v …”

Đúng là ý nguyện xuất trần, nguyện thành Phật độ chúng sanh, nếu có một chúng sanh nào chưa thành Phật thì không bao giờ bỏ qua. Chí nguyện này là tâm Bồ Đề, là căn bản của người tu tập, phải phát liên tục.

Công phu chiều: mục đích là hồi hướng chí nguyện nói trên để cầu sanh Tây Phương Cực Lạc, nơi thuận tiện cho bất thoái Bồ Đề, hay nói một cách khác là để hoàn thành cho chí nguyện mà buổi sáng đã phát ra.

Vậy hai thời công phu để cho chúng ta thấy cả một quá trình tu tập (trên cầu Phật Đạo, dưới cứu độ chúng sanh). Chí nguyện muốn thành Phật nếu ở mãi trong ngũ trược ác thế thì nội chướng (dục vọng) và ngoại chướng (nghịch cảnh) dễ làm cho thối tâm, khó có ngày viên mãn để thành quả vị Phật, do đó phải cầu sanh Tây Phương là vậy.

Tóm lại tụng kinh rất ích lợi cho sự tu tập của mình, vì tất cả tam tạng kinh điển, duy chỉ một mục đích là đưa hành giả đến giác ngộ giải thoát. Kinh nào cũng có công năng phá trừ mê mờ và khai mở trí tuệ cho ta, do vậy tụng kinh rất thiết thật và hữu ích.

Tại sao ta phải niệm Phật và sự lợi ích của nó.

Thưa ai cũng biết, cuộc đời là bể khổ như sống trong nhà lửa, ấy thế mà chúng ta vẫn thích sống, tham sống và không biết đâu để thoát ra, và cũng không đủ nghị lực vượt thoát. Đạo Phật đã tìm ra lối thoát và chỉ dẫn chúng ta những phương pháp để thoát ly cảnh giới khổ đau. Đức Phật Thích Ca giới thiệu cảnh giới Cực Lạc để chúng sanh cầu sanh về.

Phật dạy: “Niệm Phật để cầu sanh Cực Lạc, vì thế giới ấy không có mọi thứ phiền não, sanh về đó sẽ được bất thoái chuyển.” nhưng làm thế nào để cầu sanh? Phật nói: “nếu ai nghe ta nói đến Đức Phật A Di Đà, và chấp trì danh hiệu Ngài, từ một ngày cho đến bảy ngày nhất tâm không loạn, thì người ấy khi gần lâm chung, Đức A Di Đà cùng Thánh Chúng Cực Lạc cùng đến tiếp dẫn, làm tâm người ấy không điên đảo, tức khắc vãng sanh về thế giới A Di Đà”. Chúng ta phải hiểu là Ta Bà và Cực Lạc đều là đối tướng của tâm, nếu tâm bất tịnh thì quả báo Ta Bà sanh, nếu tâm thanh tịnh thì cảnh giới Cực Lạc hiện tiền, như câu “tự tánh Di Đà duy tâm Tịnh Độ”.

Ngoài ra phương pháp niệm Phật có công năng phá trừ tất cả những vọng niệm bất thiện và làm cho tâm trở nên sáng suốt, như phèn gieo vào nước đục, nước đục trở thành trong. Trong kinh thường nói: tâm ta như con vượn chuyền cành, như ngựa chạy rong không ngừng. Muốn hàng phục vọng tâm chỉ còn một cách là cột tâm lại bằng câu niệm Phật, lâu dần những ma chướng trong tâm không còn nữa, mà chỉ thuần câu niệm Phật. Vì ích lợi như thế nên Đức Thích Ca khuyên chúng ta nên trì niệm danh hiệu A Di Đà. Tuy nhiên người niệm Phật phải đủ những yếu tố mới được vãng sanh.
Tín: niềm tin vững chắc. Niềm tin có 3:

- Tin Phật: tin Đức Thích Ca vì thương xót chúng sanh mà giới thiệu cảnh giới Cực Lạc và pháp môn niệm Phật để sanh về, tin lời Phật nói không dối.

- Tin Pháp: tin pháp môn Tịnh Độ là phương pháp dễ tu dễ chứng, tin 48 lời nguyện của Đức Phật A Di Đà có đầy đủ diệu dụng để độ sanh, nếu hành giả niệm đến chỗ nhất niệm.

- Tin mình: tin mình có tự tánh thanh tịnh A Di Đà, tin mình có khả năng vãng sanh nếu mình thực hành đúng lời dạy của Đức Phật trong kinh A Di Đà
Nguyện: là ước nguyện, là mong muốn được vãng sanh, làm động lực thúc đẩy mau đến mục đích.
Hạnh: sau khi chuẩn bị đầy đủ tín, nguyện rồi thì gia công niệm Phật không gián đoạn. Nếu tín mà không nguyện thì tin vô bổ. Nếu ao ước cầu sanh mà không chuyên nhất thì không đi đến kết quả. Cho nên Tín, Nguyện, Hạnh không thể thiếu đối với người cầu sanh.



Tại Sao nên thực hành thiền quán:

Ngoài việc tụng kinh niệm Phật ra người Phật tử cũng phải thực tập thiền quán, vì chủ trương thiền là phá tan vô minh tỏ ngộ nguồn tâm. Thưa quý vị, trong sự tu tập, hành giả muốn minh tâm kiến tánh, thì phải phá trừ vô minh, muốn phá vô minh phiền não thì phải có trí tuệ, muốn có trí tuệ thì hành giả phải thiền định; có nghĩa là khi trí tuệ phát sanh thì mới diệt được vô minh, mới minh tâm kiến tánh thành Phật được. Như Đức Bổn Sư thiền định 49 ngày chứng đạo.Các bậc Tổ Sư đốn ngộ tự tâm cũng từ đây. Cho nên thiền định cũng đóng một vai trò quan trọng trong việc tu tập, như nhựa sống phải nuôi cây. Nếu thiếu thiền định thì giáo lý của Phật thành sơ cứng, bởi vì kinh giáo chỉ còn là lý thuyết, chỉ giúp người mở rộng kiến thức, mà rất ít quan hệ đến mục đích giải thoát.

Đối với người Phật tử đang đi trên đường tu học Phật pháp, thì không chỉ tìm hiểu nghiên cứu nghĩa lý, mà còn phải thực hành trong đời sống hằng ngày, thì mới mong giải thoát hệ lụy khổ đau, đạt đến hạnh phúc an lạc. Cho đến nay có một số vẫn ngộ nhận, cho thiền là một thứ gì đó thiêng liêng thần thánh.

Ví dụ: Tu tập thiền định để đắc thần thông, Thiền dành cho bậc thượng căn, dễ tẩu hỏa nhập ma. Trong khi tu tập cho là chứng đắc mà không biết đó là do phản ảnh của tâm. Sở dĩ có những ngộ nhận này là do không tìm hiểu và nắm chắc phương pháp thiền. Thưa quý vị: cái giá trị của thiền, huấn luyện thân và tâm chúng ta từ động trở về tĩnh, giúp cho chúng ta biết sống với hiện tại, không tiếc nuối quá khứ, không mơ ước viễn vông, vì quá khứ đã qua, mà tương lai thì chưa đến, trong kinh Anan Nhất Dạ Hiền ở Trung Bộ Kinh tập III có dạy: “Quá khứ không suy tầm, tương lai không ước vọng, quá khứ đã đoạn tận, tương lai lại chưa đến, chỉ có pháp hiện tại, tuệ quán chính ở đây” (Kinh Nhất Dạ Hiền)

Không than việc đã qua, không mong việc sắp tới, sống ngay với hiện tại, do vậy sắc thù diệu, do mong việc sắp tới, do than việc đã qua, nên kẻ ngu héo mòn, như Cây Lau lìa cành. (Kinh Cây Lau Tương Ưng I)



Vậy cho ta thấy trong 37 Phẩm Trợ Đạo, trong Bát Chánh Đạo có chánh định

- 7 Giác chi: có niệm giác chi, định giác chi

- Ngũ căn ngũ lực: có định căn, định lực

- Tứ như ý túc: có dục định, tinh tấn định v .v…

Trì chú giúp gì cho sự tu:

Như trì chú cũng giúp cho 3 nghiệp và 6 cănđược thanh tịnh. Chư Phật và chúng sanh chỉ khác nhau ở chỗ giải thoát hay ràng buộc, chỗ ngộ và mê, chổ tịnh và nhiễm mà thôi. Cho nên khi trì chú, thân bắt ấn nên thân không tạo ác, miệng đọc thần chú nên miệng không nói vọng ngữ, tâm quán tưởng tượng Phật, nên tâm không nghỉ ác , nhờ thế mà 3 nghiệp thân khẩu ý được thanh tịnh, nhờ trì chú mà dẹp trừ được oan gia, nhổ sạch hết gốc rễ của nghiệp chướng và làm cho trí tuệ ngày càng tăng trưởng, do vậy trì chú có rất nhiều sự lợi ích.

Nói tóm lại trong tứ oai nghi, đi đứng ngồi nằm, nếu chúng ta biết an trụ vào mọi phương pháp như tụng kinh, hành thiền, niệm Phật hay trì chú v.v… bằng chánh niệm, tĩnh giác thì bất cứ ở đâu và bất cứ trong trường hợp nào, chúng ta cũng làm chủ được hành động và tư tưởng của mình, vì chánh niệm sẽ đem lại nhiều lợi ích thực tiễn cho cuộc sống con người giúp cho cuộc sống nhẹ nhàng hơn, tích cực hơn và đáng sống hơn.



Chùa Liên Hoa, Sydney, tháng 7-2014

Thích Nữ Tâm Lạc




Tại sao người Phật tử phải tụng kinh (HT Thích Thanh Từ)


Tại sao người Phật tử phải tụng kinh, niệm Phật, trì chú và tọa thiền

* HT Thích Thanh Từ

Buổi giảng hôm nay tôi nói đề tài rất gần gũi với quí vị: Tại sao người Phật tử phải tụng kinh, niệm Phật, trì chú và tọa thiền? Phật tử thường nghĩ rằng mình tu thì phải tụng kinh, niệm Phật, trì chú và tọa thiền. Tất cả những việc ấy là một hay khác, chúng ta nên thực hiện hết hay thực hiện từng phần? Đó là nội dung buổi giảng hôm nay. Nếu Phật tử tu vừa tụng kinh, vừa niệm Phật, vừa trì chú, vừa tọa thiền thì quá nhiều. Phật bảo: “Chúng sanh có nhiều phiền não nên Phật cũng có nhiều pháp môn để đối trị.” Cho nên mỗi một phương pháp tu là thích ứng với mỗi căn cơ, mỗi bệnh của chúng sanh. Ai thích hợp với pháp môn nào thì tu pháp môn ấy, tu một cách triệt để cũng đạt đến kết quả viên mãn. Không nhất thiết tu một lượt hai ba pháp môn, mà chẳng pháp nào ra pháp nào, rốt cuộc không có kết quả gì.


Tại sao chúng ta phải tụng kinh? Khi nói tới tụng kinh, nên biết có hai ý nghĩa quan trọng. Ý nghĩa thứ nhất, tụng kinh là để nghe nhớ lời Phật dạy, ứng dụng tu hành. Ý nghĩa thứ hai, tụng kinh cốt làm sao cho tâm mình không xao động, không chạy theo ngoại cảnh như lúc bình thường. Cho nên khi tụng kinh bắt buộc chúng ta phải chú ý từng lời, từng chữ trong kinh, dồn hết tâm vào kinh, tụng cho đúng. Vừa tụng vừa nghe tiếng tụng của mình, tâm lắng dịu, tỉnh sáng. Còn vừa tụng kinh vừa nghĩ chuyện này chuyện nọ là làm mất giá trị của việc tụng kinh. Tụng kinh đúng pháp, tâm chúng ta từ từ bớt xao xuyến, bớt loạn động. Đó là hiệu quả của tụng kinh.
Tại sao Phật tử phải niệm Phật? – Vì muốn về Cực Lạc. Pháp môn này chắc quí Phật tử đã từng thực hành. Thật ra niệm Phật là một pháp rất thiết yếu đối với người Phật tử. Phật tử nào đầy đủ lòng tin là Tín, nguyện sanh về Cực Lạc là Nguyện và luôn luôn niệm Phật là Hạnh. Nói rõ hơn Tín là tin cõi Cực Lạc có thật, tin đức Phật A-di-đà sẽ đến đón mình. Hạnh là đi đứng nằm ngồi luôn luôn niệm Phật. Nguyện là khi lâm chung, mong Phật sẽ đến đón chúng ta về Cực Lạc. Có đầy đủ ba yếu tố Tín, Hạnh, Nguyện thì niệm Phật sẽ đạt được kết quả tốt.

Nhưng hiện nay Phật tử niệm Nam-mô A-di-đà Phật, mà đã hiểu ý nghĩa câu niệm Phật ấy chưa? Nhiều người thế gian hơi khó tánh hay giễu cợt: “Ông bà nếu nghe người ta kêu tên mình hoài chắc giận lắm.” Quí Phật tử nghĩ sao? Niệm Phật là gọi tên Phật hoài phải không, vậy Ngài có buồn có giận không? Đó là điều rắc rối, nếu chúng ta không hiểu sẽ không giải quyết được những thắc mắc của người thế gian.

A-di-đà là danh hiệu Phật, tức tên của Ngài. Khi chúng ta niệm Phật là niệm Nam-mô A-di-đà Phật. Chữ Nam-mô nghĩa là cung kính. Nam-mô A-di-đà Phật là cung kính đức Phật A-di-đà. Nhiều Phật tử đơn giản quá cứ A-di-đà Phật thôi, đó là gọi tên mà không nói lời cung kính. Còn chúng ta xưng danh hiệu Ngài với lòng cung kính qui ngưỡng thì không có lỗi. Phật tử cần nên biết điều này để có ai thắc mắc hỏi, chúng ta giải đáp rõ ràng.

Câu hỏi kế, chúng ta niệm danh hiệu đức Phật A-di-đà để Ngài đón mình về Cực Lạc hay để làm gì? Kinh A-di-đà nói rõ quá, người niệm danh hiệu đức Phật A-di-đà từ một ngày cho tới bảy ngày, nhất tâm bất loạn thì sẽ thấy đức Phật hiện tiền. Như vậy mục đích Phật dạy niệm danh hiệu đức A-di-đà, trước hết là để chúng ta nhất tâm bất loạn. Mà nhất tâm là vô niệm, vì không còn một niệm tạp loạn nào. Nên nói niệm đến chỗ vô niệm, tức là chúng ta niệm Phật tới khi tâm không còn dấy niệm. Chỉ một tâm hoàn toàn tri giác không dấy động, gọi là nhất tâm. Bấy giờ nhắm mắt đức Phật A-di-đà và chư Thánh chúng sẽ hiện ở trước.

Chúng ta thấy ý nghĩa tu hành quá rõ ràng. Dùng câu niệm Phật với lòng cung kính, quên hết chuyện thế gian, chỉ nhớ Phật thôi. Nhớ cho tới bao giờ câu niệm Phật lặng, chỉ còn một tâm thanh tịnh, lúc đó thấy Phật A-di-đà ở trước mắt. Hình ảnh này nói lên điều gì? Chúng ta tu là để lặng tâm lăng xăng điên đảo hằng ngày của mình. Muốn lặng tâm đó phải tin tuyệt đối vào đức Phật, dốc lòng niệm danh hiệu Phật càng ngày càng miên mật. Cho tới bao giờ được nhất tâm tức là vô niệm thì Phật Di-đà hiện ở trước, không nghi ngờ gì hết.

Quí Phật tử niệm Phật tới chỗ miên mật chưa? – Chưa. Vậy mà đòi Phật đón mình, lỡ Ngài quên không đón thì sao? Tại mình tu chưa đến nơi đến chốn nên không có kết quả, chớ không phải tại Phật quên. Người nào niệm Phật đến nơi đến chốn cũng đều có kết quả tốt. Tôi kể câu chuyện có thật để quí Phật tử, nhất là các Phật tử lớn tuổi cố gắng niệm Phật miên mật.
Bà thân của thầy chúng tôi có nhiều con và tất cả đều ham tu. Thầy chúng tôi là con thứ chín. Bà ăn chay một tháng mười ngày thôi, nhưng chuyên niệm Phật, lúc nào cũng có xâu chuỗi huyền trên cổ. Khi bà quét nhà, một tay lần chuỗi một tay quét, nhổ cỏ cũng vậy, một tay lần chuỗi một tay nhổ. Ngày nào tháng nào năm nào cũng thế. Đến tám mươi bốn tuổi bà bệnh nặng sắp tịch, chúng tôi về trợ niệm. Bà đang mệt nằm trên giường, thầy chúng tôi đứng phía trên đầu, Tăng Ni đứng hai bên, con cháu ngồi ở dưới chân cùng nhau trợ niệm cho bà. Khi bớt mệt bà cười hết sức vui, đứa cháu nội gọi:

– Bà nội, bà nội! Bà thấy gì mà cười?

Bà nói:

– Thấy Phật A-di-đà đến rước tao.

Đứa cháu hỏi:

– Có cho tụi con theo không bà nội?

Bà nói:

– Không được, rước có mình tao hà.

Rồi bà lại cười, cười một hồi thì im. Chừng mười phút sau bà cười một lần nữa y như vậy. Như thế đến ba lần thì bà tắt thở. Cho nên bà chết không ai khóc được, vì thấy bà cười mọi người đều mừng vui theo.
Quí vị thấy người niệm Phật chí tâm, đi tới chỗ miên mật thì thấy Phật không nghi ngờ. Đó là điều xác thật, không phải là tưởng tượng. Chúng ta niệm Phật cốt để đi tới chỗ nhất tâm. Nhờ câu niệm Phật không nhớ gì hết, nhất là quí cụ già có bệnh hay nhớ con nhớ cháu. Bây giờ đổi lại, nhớ niệm Phật, nhớ mãi như thế sẽ quên nhớ con nhớ cháu.

Nếu nhớ con nhớ cháu khi nhắm mắt sẽ lẩn quẩn theo con cháu nữa, chịu khổ trầm luân không biết bao giờ ra khỏi. Nên người tu lớn tuổi phải dồn hết tâm lực nhớ Phật thôi. Chỉ nhớ Phật thì khi nhắm mắt theo Phật, không đi đường nào khác. Đó là ra khỏi vòng sanh tử, hết khổ đau. Nếu còn nhớ con nhớ cháu thì còn đi lại trong thế gian, lúc tốt lúc xấu không cố định. Nhiều khi đời này tốt mà đời sau không tốt. Cho nên Phật tử phải dè dặt cẩn thận.
Các vị Tổ trong Tịnh độ thường nói câu này: “Người tu Tịnh độ như người đạp gai lấy gai mà lể.” Nghĩa là sao? Tâm chúng ta lỡ lăng xăng lộn xộn quá, bây giờ muốn hết tâm đó phải mượn câu niệm Phật để trấn áp nó. Do đó câu niệm Phật giống như cây gai thứ hai để lể cây gai thứ nhất ra. Gai thứ nhất đã lấy ra rồi, nếu để cây gai thứ hai ở vết thương cũ thì vết thương có lành không? Không. Lể rồi cũng phải bỏ cây gai thứ hai luôn vết thương mới lành.

Chúng ta niệm Phật nhập tâm rồi, được miên mật không còn một niệm nào chen lẫn, cuối cùng câu niệm Phật cũng lặng luôn. Đó mới gọi là nhất tâm. Khi ấy nhắm mắt thấy Phật. Phật A-di-đà, Trung Hoa dịch là Vô lượng thọ, Vô lượng quang. Vô lượng thọ là sống lâu vô lượng, Vô lượng quang là ánh sáng vô lượng. Sáng suốt và sống mãi đó là danh hiệu của Phật A-di-đà.
Đức Phật dạy tất cả chúng ta khi tu đến chỗ kết quả viên mãn sẽ có đầy đủ ba thân: Pháp thân, Báo thân và Hóa thân. Pháp thân không còn chết nên gọi là Vô lượng thọ. Pháp thân luôn luôn sáng suốt, không mờ tối nên gọi là Vô lượng quang. Quí Phật tử thấy Phật A-di-đà tức thấy được Pháp thân của mình. Bấy giờ Phật khỏi đón về Cực Lạc, ta cũng nhập Niết-bàn được như thường. Kinh nói thấy Phật hiện tiền chính là ý này, chớ không phải mong Phật đón về Cực Lạc mà được thấy Ngài hiện tiền.

Chúng ta tu nếu không nắm vững, không biết lối đi, cứ lẩn quẩn hoài. Càng niệm Phật càng quên chuyện đời, niệm càng lâu càng nhiều thì việc đời càng giảm. Cho tới câu niệm Phật cũng lặng luôn, chừng đó nhất tâm bất loạn, đâu còn mong muốn sanh về chốn nào nữa. Chính khi ấy đức Phật mới hiện tiền. Phật đó chính là Phật pháp thân của mình. Đó là kết quả của sự tu.
Hiện giờ thân của chúng ta là thân gì? – Báo thân. Báo thân là thân theo quả báo mà có. Người quả báo lành được thân đẹp, ít bệnh. Người quả báo dữ tuy được thân người mà bệnh hoạn tàn tật. Thân chúng ta không giống nhau tùy theo phước nghiệp của mỗi người. Đã là thân quả báo, chúng ta không thể nào giữ được mãi, vì hết nghiệp nó phải đi.

Còn Hóa thân ở đâu, chúng ta có không? Thật ra chúng ta cũng có Hóa thân mà ít ai biết. Tôi nhớ trong kinh Pháp Hoa, phẩm Hiện Bảo Tháp đức Phật Thích-ca giới thiệu với đại chúng trong tháp báu có thân của đức Phật Đa Bảo. Lúc đó chư Tăng hỏi làm sao thấy được thân đức Phật Đa Bảo, Phật Thích-ca trả lời: Muốn thấy thân Phật Đa Bảo thì các Hóa thân của Ngài đi làm Phật sự khắp nơi tụ họp về, mới thấy được. Thân Phật Đa Bảo trong tháp tượng trưng cho Pháp thân, các Phật đi làm Phật sự khắp nơi là Hóa thân. Khi nào Hóa thân tụ hội về một chỗ thì thấy được Pháp thân.
Chúng ta cũng có Pháp thân mà không thấy vì Hóa thân đi làm việc nhiều quá, chạy ngược chạy xuôi đầu này đầu nọ liên miên. Chừng nào Hóa thân tức những niệm vọng động dừng lặng, bấy giờ Pháp thân mới hiện ra. Một ngày quí vị nghĩ chừng bao nhiêu việc? Có khi chạy từ đây qua Mỹ, rồi trở về Việt Nam… xong lại chạy tiếp, chạy liên miên. Thử hỏi làm sao Pháp thân xuất hiện được?

Tất cả kinh Phật dạy ý không khác, đều nhắc chúng ta phải qui tụ tâm lăng xăng về chỗ lặng lẽ, không còn dấy động nữa. Lúc đó Pháp thân hiện ra, là giải thoát sanh tử. Còn nếu chạy theo tâm lăng xăng, tích cực làm Phật sự trong cõi ngũ dục, thì ngược xuôi trong ba cõi hoài, không có ngày ngừng. Chúng ta tu cố gắng làm đúng như lời Phật dạy, nhất định sẽ được kết quả tốt. Đó là tôi nói về ý nghĩa niệm Phật.

Tại sao chúng ta trì chú? Trì chú là sao? Thí dụ quí bà khi gặp tai nạn hay qua chỗ tối sợ ma, thì trì chú để bớt sợ. Quí vị tưởng nhờ thần chú ma quỉ hoảng chạy. Như vậy trì chú để dẹp ma dẹp quỉ hay tai qua nạn khỏi. Hiểu như thế là quá sơ sài. Phật không dạy điều này bao giờ. Vậy ý nghĩa trì chú ra sao?

Mật tông dạy chúng ta trì chú muốn được kết quả viên mãn thì phải tam mật: là Thân mật, Khẩu mật và Ý mật. Mật là thâm diệu. Thâm diệu tới chỗ ba nghiệp lặng lẽ hoàn toàn, thân lặng, khẩu lặng, ý lặng. Nói tam mật chớ động cơ chủ yếu là ý. Ý mật thì tất nhiên thân, miệng cũng mật, dù ta vẫn đi vẫn nói nhưng tâm luôn thanh tịnh. Ý lặng yên thì còn lăng xăng không? – Không. Như vậy trì chú được tam mật có khác với nhất tâm đâu.
Cho nên trì chú cũng với mục đích đưa chúng ta tới chỗ Ý mật, tức là nhất tâm. Vì vậy niệm Phật, trì chú đều gặp nhau ở chỗ cứu kính, chỉ khác nhau ở phương pháp. Nếu niệm Phật muốn có kết quả thì khởi đầu phải Tin. Tin cõi Cực Lạc, tin đức Phật A-di-đà, rồi tới Hạnh, Nguyện. Còn trì chú khởi đầu là tin sự huyền bí của câu chú. Như chú này linh lắm, khi trì chú này được các vị thần ủng hộ, ma quỉ chạy hết. Một bên tin Phật, một bên tin sự linh nghiệm, mầu nhiệm của thần chú. Nhờ lòng tin đó hành giả cố gắng niệm. Kết quả một bên được nhất tâm, một bên được Ý mật. Rõ ràng hai phương pháp khác nhưng cứu kính không hai.

Tại sao chúng ta tu thiền định? Hiểu hai pháp trên thì sẽ hiểu được pháp tu thiền định. Phật dạy chúng ta tu thiền định cốt để buông xả các niệm tạp loạn, tâm lặng lẽ thanh tịnh. Theo kinh Nguyên thủy Phật dạy Bát chánh đạo, trong Bát chánh đạo từ Chánh kiến cho tới cuối cùng là Chánh định. Theo kinh Đại thừa Phật dạy Lục độ, thứ nhất là bố thí tới thứ năm là thiền định, thứ sáu là trí tuệ. Như vậy có giống kinh Di-đà không? Định giống như niệm Phật được nhất tâm, Tuệ giống như thấy Phật Di-đà vô lượng thọ, vô lượng quang. Rõ ràng kinh và pháp tu thiền không rời nhau. Hệ Nguyên thủy đạt tới Chánh định là chót, nhưng hệ Đại thừa từ định phải qua trí tuệ mới rốt ráo. Đúng như kinh Di-đà, Phật dạy nhất tâm rồi thấy Phật Di-đà.
Chúng ta tu thiền định là tu thế nào? Nhiều vị không hiểu nói người mới tu thiền phải quán hơi thở tức là Sổ tức. Sổ tức là đếm số, hít vô cùng đếm một, thở ra sạch đếm hai, đếm tới mười bỏ, rồi đếm trở lại một. Cứ như vậy đếm hoài cả buổi có lợi ích gì đâu, mầu nhiệm gì đâu. Còn người ta niệm Phật có phước.

Nhưng tại sao chúng ta đếm hơi thở? Vì muốn dừng tâm lăng xăng. Như hít vô nhớ mình hít vô tới đâu, thở ra nhớ mình thở ra tới đâu, rồi nhớ số nữa. Bắt nhớ như thế để tâm quên chạy theo vọng tưởng. Pháp tu có khác nhưng trọng tâm không hai, cốt dừng tâm chạy ngược chạy xuôi hàng ngày. Dừng được tâm này là định nên nói thiền định. Thiền định là tiếng Ấn Độ, Trung Hoa dịch là Tĩnh lự, nghĩa là lặng cái suy nghĩ lăng xăng, chớ không gì lạ.
Qua giai đoạn đếm hơi thở rồi đến giai đoạn theo hơi thở. Khi ta chú tâm đếm hơi thở, tâm không chạy bậy, lần lần thuần thục ta bỏ đếm, chỉ theo hơi thở thôi. Nghĩa là hít vô tới đâu biết, thở ra tới đâu biết. Theo dõi như người thiếu nợ trốn chủ, bất thần chủ nợ tìm gặp, nên theo sát lưng không bỏ. Tu cũng vậy, ban đầu đếm hơi thở, sau đó theo hơi thở thật khít khao để tâm không tán loạn. Đó là phương tiện buổi đầu của người tập tu thiền.
Ở đây chúng tôi dạy tu thiền hơi khác hơn một chút. Tôi dạy khi niệm dấy khởi lên biết nó là hư dối, bỏ. Không chạy theo mà cứ chỉ mặt nó hoài, lâu ngày nó tan mất. Bởi vì khởi nghĩ của mình không thật, mà mê theo nó thì thành thật. Như giận người A, khi dấy niệm giận mình theo niệm đó phát nổi hung hăng, muốn chửi đánh người ta, thành ra có tạo nghiệp. Còn vừa nhớ tới chú A liền bỏ không nghĩ, thì đâu còn tức mà muốn đánh chửi người ta. Manh mối ban đầu vừa mọc mầm liền thấy, chỉ mặt nó thì nó dừng lại nhẹ nhàng.

Niệm Phật là dùng câu niệm để dẹp vọng tưởng, trì chú là dùng câu thần chú để dẹp vọng tưởng, còn tọa thiền dùng trí thấy thẳng, chỉ thẳng vọng tưởng để dẹp nó. Nhưng chỉ thẳng để dẹp là thấy ngay lẽ thật, chớ không mượn phương tiện để dẹp. Vì vậy tới chừng vọng tưởng lặng là xong, không còn gì để bỏ nữa. Như vậy tu tụng kinh, niệm Phật, trì chú, tọa thiền, trọng tâm đều dừng các niệm lăng xăng. Tất cả pháp Phật dạy không có ý khác, chỉ khác ở phương tiện thôi.

Thiền tông dạy “trực chỉ nhân tâm” (tức chỉ thẳng tâm người), “kiến tánh thành Phật” (là nhận ra Bản tánh của mình) thì thành Phật. Chỉ thẳng tâm người là tâm lăng xăng, tâm điên đảo đó. Nó vừa dấy lên, chỉ mặt rầy thì nó lặng. Cho tới bao giờ tâm ấy hoàn toàn lặng hết thì tánh Phật hiện ra. Tánh Phật là Pháp thân, ngang đó gọi là kiến tánh thành Phật, tức nhận ra Bản tánh thì thành Phật, cũng như thấy Phật Di-đà. Vì vậy người tu thiền không đặt lòng tin mà đặt trí tuệ lên hàng đầu. Nhìn thẳng thấy rõ ràng, không để nó lừa gạt mình. Nó rủ đi đâu là chận liền, không cho nó dụ dỗ.
Ba pháp tu tuy nói ba nhưng gốc chỉ có một. Cho nên người tu Tịnh độ không nên chê người tu Thiền. Người tu thiền không nên chê người tu Mật v.v… Chỉ chê là chê tu không đúng thôi. Nếu tu đúng lời Phật dạy thì pháp nào cũng đưa đến nhất tâm, đưa đến chỗ cứu kính thành Phật.
Phật tử bây giờ có bệnh, mình tu thích hợp với pháp này liền chê pháp của người khác, khen pháp của mình. Do đó tâm lăng xăng càng tăng trưởng chớ không giảm. Như vậy đâu phải tu. Vì tu là để giảm suy nghĩ lăng xăng, rối bời đó mà mình tu càng ngày càng tăng là không đúng rồi. Cho nên thấy người tu niệm Phật, ta hoan hỉ nói : “Chị tu niệm Phật tốt. Ráng niệm cho nhất tâm.” Thấy người tu trì chú, nói : “Anh tu trì chú tốt. Ráng trì cho tới tam mật.” Thấy người tu thiền nói : “Anh tu thiền tốt. Ráng ngồi thiền cho được định.” Như vậy ai cũng tốt hết.

Người biết tu phải hiểu cho thấu đáo để không hờn phiền những người đồng đạo. Nếu không khéo sẽ dẫn tới tình trạng người này trách người kia, người kia phiền người nọ. Chính huynh đệ trong đạo chỉ trích nhau hoài, không hòa thuận nói gì tu hành. Bởi vậy nên tất cả quí vị phải thấy rõ điều này.
Tại sao Phật dạy chúng ta phải dẹp cái nghĩ lăng xăng lộn xộn của mình? Những ý nghĩ quấy dẹp thì phải, nhưng ý nghĩ phải tại sao cũng dẹp? Nếu nghĩ xấu sai, ta sẽ nói làm theo nghiệp ác. Nếu nghĩ tốt dĩ nhiên ta nói làm theo nghiệp lành. Như vậy nghiệp lành, nghiệp ác từ ý nghĩ mà ra. Nghiệp ác thì đọa vào đường dữ, nghiệp lành thì sanh về cõi lành. Nhưng dù lành hay dữ cũng còn trong dòng trầm luân sanh tử, còn trở đi trở lại mãi trong ba cõi là còn khổ. Tại sao nghiệp lành vẫn không giải thoát? Vì nghiệp lành thì sanh cõi lành, như được làm người sung sướng, nhưng mấy chục năm hưởng hết phước rồi cũng chết. Hoặc sanh lên cõi Trời, ở cảnh cao sang muốn gì được nấy, nhưng hết phước cũng đọa xuống trở lại. Lên lên xuống xuống không có ngày cùng. Chỉ có ra khỏi dòng sanh tử mới được giải thoát, hết khổ đau.

Bây giờ nếu chúng ta tu tới nhất tâm, không còn nghĩ thiện nghĩ ác thì đi đâu? – Hết nghĩ thì hết nghiệp, hết nghiệp là hết sanh tử, đó là giải thoát chớ gì! Chỗ cứu kính chân thật đức Phật chỉ cho chúng ta thấy là cái sáng suốt, bất sanh bất diệt nên gọi là Niết-bàn, vô sanh. Không có sanh lấy gì có tử?
Đức Phật vì thương chúng sanh mê lầm đuổi theo hư ảo cho là mình, rồi cả ngày sống trong cái hư ảo đó, chịu vô lượng khổ đau. Đã sống trong hư ảo thì dù làm việc tốt cũng chưa hẳn là tốt. Ví như có hai nhóm đi làm từ thiện. Nhóm A được nhiều người hoan nghênh, nhóm B cũng làm từ thiện nhưng lại bị nhiều người chỉ trích. Vậy nhóm B có vui nhìn nhóm A không? Bị thua thì giận rồi, mặc dù giận vì làm việc thiện.

Bởi vậy nói tâm của chúng ta không chân thật. Vì nó hư ảo nên biến chuyển luôn. Do đó nhiều người lúc nhỏ rất hiền lành, nhưng lớn lên bị ngoại duyên không tốt tác động lâu ngày trở thành hung dữ. Còn có người lúc nhỏ hung dữ, nhưng lớn lên nhờ gần gũi duyên tốt nên trở lại hiền lành. Tâm ta luôn đổi thay, không đứng một chỗ. Gặp môi trường tốt, thầy tốt, bạn tốt thì tốt theo, gặp môi trường xấu, thầy xấu, bạn xấu thì xấu theo. Tâm đó tùy thuộc ngoại cảnh chớ không tự làm chủ được. Vậy mà tất cả chúng ta đều đuổi theo, nhận nó là mình, thử hỏi có đáng buồn không?

Nếu chúng ta không nhận những suy nghĩ lăng xăng lộn xộn đó là tâm mình, thì dù ở chung cả trăm ngàn người cũng không có chuyện cãi vã, nói gì đánh đập nhau. Sở dĩ chúng ta ở chung có chuyện này, chuyện kia là vì không đồng ý nhau. Mỗi người đều cho cái suy nghĩ là đúng, là tâm mình nên rồi hơn thua, phải quấy, oán thù đủ chuyện. Nuôi tâm ấy như nuôi kẻ cướp trong nhà vậy. Do đó Phật nói: “Nhận giặc làm con.” Vì nhận giặc làm con nên cưng nó, nghe lời nó, không chịu bỏ nó. Đã vậy thì đời ta cứ đi trong trầm luân đau khổ không có ngày cùng.

Muốn ra khỏi dòng sanh tử không gì hơn là lặng được chú tạo nghiệp đó. Nghĩa là đừng nhận nó làm con nữa, đuổi nó ra khỏi nhà. Dễ quá, nó không phải là con mình thì đuổi đi. Nhưng khổ nỗi ta lại thương nó, không chịu đuổi. Khi thấy chúng sanh mê lầm như vậy, đức Phật có thương không? – Có. Chúng ta thấy tượng đức Phật A-di-đà đứng duỗi tay xuống, phía dưới là chúng sanh đang lặn hụp giữa biển cả mênh mông. Ngài đưa tay xuống chờ chúng sanh ngóc đầu dậy thì kéo liền. Nhưng chúng sanh cứ mải miết lặn hụp không chịu đưa tay cho Ngài kéo. Ngài sẵn sàng vớt mà mình không chịu đưa tay.

Mỗi một ngày hết mười hai tiếng chúng ta chạy theo cái hư giả, chỉ còn một hai tiếng trở về cái thật, nên ráng buông xả cho các vọng tưởng lặng xuống, giành quyền làm chủ phần nào. Nếu không mình cứ bị nó làm chủ mình hoài. Ngày nào ta giảm bớt được hơn thua, phải quấy thì ngày đó an vui. Ngược lại, nếu cứ để nó lôi dẫn chạy ngược chạy xuôi hoài, khi nhắm mắt chắc chắn phải luân hồi sanh tử.

Phật tử tu mà không hiểu, cứ ỷ lại vào thầy. Tháng nào cũng đi chùa cúng thầy một ít, chừng nào nhắm mắt mời thầy tới độ cho về Cực Lạc, khỏe ru. Tu như vậy thì oan cho đạo Phật quá. Quí vị phải nhớ chúng ta lo cho Tam Bảo, để việc giáo hóa mọi người thức tỉnh được trường tồn, được phát triển. Muốn thế bản thân mình phải tu, rồi tạo điều kiện hỗ trợ Tam Bảo tồn tại lâu dài nơi thế gian, đem lại lợi ích cho tất cả chúng sanh.

Hôm nay tôi nhắc những điều thiết yếu cho tất cả quí Phật tử biết, ứng dụng tu đúng pháp Phật dạy. Bây giờ quí vị đã hiểu tại sao chúng ta phải tụng kinh, niệm Phật, trì chú, tọa thiền rồi, mong tất cả thực hành đúng theo chủ ý Phật dạy. Đừng vì sự tu mà tạo phân biệt, nuôi lớn thêm phải quấy đối đãi, trái xa với bản ý Phật dạy, cũng là tự vùi lấp sự giác ngộ của mình.
Hiểu vậy trên đường tu tôi tin chắc quí vị sẽ tiến, sẽ đạt được kết quả tốt đẹp.








🌼Đây là toàn bài chú lăng nghiêm tiếng phạn:
https://www.youtube.com/watch?v=e6qQKGjpA3o


🌼Đây là toàn bài chú lăng nghiêm tiếng VIỆT - THẦY TỤNG:
https://www.youtube.com/watch?v=gfWoojL-vm4


🌼Đây là toàn bài chú lăng nghiêm tiếng VIỆT (PHẬT TỬ MAI ĐỨC CHÍNH TỤNG tại gia) :
https://www.youtube.com/watch?v=5s7KGiKKUNs


🌼Đây là bài Tâm chú lăng nghiêm tiếng VIỆT (PHẬT TỬ MAI ĐỨC CHÍNH TỤNG tại gia) :
https://www.youtube.com/watch?v=nuyC5y0UQlg


🌼Đây là bài Tâm chú lăng nghiêm tiếng VIỆT (PHẬT TỬ MAI ĐỨC CHÍNH TỤNG tại gia) :
https://www.youtube.com/watch?v=vZXKFWNiZXo&t=1s


🌼Đây là bài Tâm chú lăng nghiêm tiếng VIỆT (PHẬT TỬ MAI ĐỨC CHÍNH TỤNG tại gia) :
https://www.youtube.com/watch?v=iqMFvZk3aDY


🌸NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT.

Chủ Nhật, 27 tháng 12, 2020

Các vị Thần Tiên




THẦN THÁNH TRUNG HOA
Bản dịch của Nhược Thủy 


LỜI NÓI ĐẦU : 
Đây là bản dịch rất công phu của Nhược Thủy trong trang Hoangthantai . Nay không còn thấy trang này hoạt động nữa. ý trinh chép lại vào đây để làm tư liệu . Mong bác Nhược Thủy cảm thông.

THẦN THÁNH TRUNG HOA TẬP I

Lời giới thiệu:- Nhận thấy từ trước đến nay, người Việt Nam chúng ta theo phong tục tập quán của người Trung Hoa, nên đã tin tưởng và thờ phụng rất nhiều vị Thánh, Thần giống như người Trung Hoa. Tài liệu giải thích về các Ngài thì quá ít và không có cơ sở khảo cứu , chỉ theo truyền khẩu nhiều hơn. Nay tôi xin cố gắng dịch những tài liệu nầy từ một Website có uy tín và khảo cứu cẩn thận, xin kính tặng tất cả huynh đệ trong 4R-HTT. Nếu có chỗ nào sai sót, xin quí cao nhân hoan hỉ chỉ bảo cho (kèm theo nguyên tác để quí vị dễ đối chiếu).
Xin thành thật cảm ơn quí huynh đệ.

Nhược Thủy

( Mùa Hạ năm Mậu Tí-2008).

75.-Giới thiệu tóm tắt Thần Thánh Trung Hoa theo lịch sử .
Tổng quát về Thánh Thần Trung Hòa

Vào thời kỳ viễn cổ, những người nguyên thủy đối với các hiện tượng phát sinh trong Đại tự nhiên như: - mặt trời, mặt trăng, các sao, ao hồ sông biển, núi đá đất cát, hoa cỏ cây Cối, sấm sét nước lửa, tối sáng mưa gió, mong trời răng trời ... Họ không biết được đó là tự nhiên mà cho rằng "có một chủng loại nào không biết đó sinh ra các thứ trên". Từ đó sinh ra tín ngưỡng đầu tiên của con người mang tính cách "thần thoại" như: - Phong Thần có gió, lửa có Hỏa Thần, nước có Thủy Thần ... sau trở thành quan niệm muôn vật đều có thần linh cả Quan niệm nay là một bộ phận quan trọng trong đời. sống của người thời xưa. Tín ngưỡng nay nói chung là "kính trọng các vật thể siêu tự nhiên".

Thần linh hồi ban đầu, có tài biến hóa vô cùng, mà không nghe tiếng có, mà thấy không có hình, đi lại không tung tích Thời kỳ. Đó, người nguyên thủy sùng bái các Thần, không thấy các Thần ở chỗ thân thiết, mà là thấy các Thần ở chỗ đáng sợ Mong mỏi. các Thần đừng tai họa giáng xuống cho họ, vì thế, những vị Thần của người nguyên thủy đa số là nửa người, nửa cầm thú hoặc nửa loài bò sát ... hoặc hỗn hợp các loài đó với nhau, quái thành những vật không thể nghĩ bàn.

Rồi nhân loại tiến hóa dần, những vị Thần, không còn là chỗ sợ hãi, là chỗ giáng tai họa cho người nữa, mà trở thành chỗ để con người cầu xin phước huệ lợi lộc Cho nên., Chỉ trừ các loại "Ôn thần "(thần gây bệnh dịch) đại đa số các vị thần đều là" Thần Bảo Hộ "cho con người. Do vậy, sự sùng bái thần dần dần được" Nhân Hình Hóa "(hóa thành hình người) và tạo ra các hình tượng để thờ cúng.

Thời cổ đại đời nhà Chu, dân gian đã có sự lưu truyền việc sùng bái thần linh, tư tưởng và nghi lễ cúng tổ tiên Từ sau. Nho gia khi khởi hưng, đã nhấn mạnh đến các việc đề cao công đức của việc cứu nước cứu dân, những hành vi trung hiếu tiết nghĩa của các bậc cổ thánh tiên hiền, nói chung là những cống hiến đối với xã hội Từ đó., phát triển mộ bước từ "Thần Linh" hát "Thần Minh" (thần cách hóa những người có công).

-Đời nhà Hán thì Đạo Giáo hưng khởi, đề xướng các việc "tu tâm dưỡng mệnh" "Trường sinh Bất lão", "Tôi cát Tị treo", cùng các pháp "Luyện đan", "Thổ nạp" vv ... Những lý thuyết ấy cộng với sự phục hưng tư tưởng của Thần Đạo cổ đại, làm cho nội dung thần thoại vô cùng phong phú, rồi được gia thêm lễ nghi, cộng với những khát vọng về nhu cầu đời sống, về sự sợ hãi chết chóc ... khiển cho số lượng Thần càng ngày càng tăng rất nhiều lên Những vị Thần về sau gọi "thần được phong" hay "thần được tạo ra.".

-Đồng thời khi ấy, Phật Giáo du nhập vào Trung Hòa, với những lý thuyết về nhân quả, báo ứng, lưu chuyển ba đời, sáu đường luân hồi, thiên đường địa ngục ... thêm một lô danh sách phong phú những Thần Quân , được nhân dân tiếp thụ dần dần trở thành tín ngưỡng thần kì.

-Đến đây có sự hỗn đồng của "thần các thần làm cách hóa" và "thần làm các nhân cách hóa", nổi bật là tổ tiên của con người thế tục và các vị Thánh Hiền cũng lên được cách thăng "Thần Minh" Tiêu chí. bắt buộc của Thần là: - "Thông minh, Từ bi, Chính trực" Theo tiêu. chí đó, đời sau ông đã có những vị đế vương, anh hùng, những vị cứu dân độ thế ... cũng được đưa nhân dân vào danh sách các thần Phụng để thờ cúng bái.
-Trong cuộc lữ trình của người con, phải chấp nhận những biến hóa khôn lượng trong cuộc sống, những cái mà con người không thể tự cứu, tự định đoạt được đó Từ., Nhu cầu của các thần bảo hộ về mặt con người đã thể hiện qua những truyền thuyết, nói lên những yêu cầu nội tâm, nguyện vọng hoặc lý tưởng của con người Tất cả. đã trở thành lực lượng mạnh mẽ của tâm lý, chi phối cuộc sống nhân loại.
Ta gọi đó là "Kính Thần Quân" (quan niệm tôn kính thần), và câu nói phổ biến: --

Thảo vọng Xuân sinh, nhân vọng thần phù "(cỏ chờ mùa Xuân đến để sinh sôi nẩy nở, người chờ chư Thần phù hộ để sung sướng khổ bớt).

Đại bộ phận các tôn giáo đều nhằm vào mục tiêu "khuyên dạy người làm lành lánh dữ", còn dân chúng có tín ngưỡng, sùng bái Thánh Thần là để cầu xin ban phước Việc tìm hiểu kỹ về "lý lịch". Thần Thánh ít có ai làm đến nơi đến chốn, chỉ đơn giản một quan niệm "lay được nhiều Thần Thánh ở nhiều nơi là được các ngài phù hộ" Tính ". hỗn dung" trong tôn giáo cũng là tất yếu, nghi thức cúng tế có nguồn gốc từ nhiều tín ngưỡng khác nhau hợp lại mà thành Như việc. tổ chức tang lễ chẳng hạn, người con thuộc về Nho gia, nghi thức tống táng theo Đạo giáo, cầu siêu độ theo Phật giáo Đây là thí dụ điển hình. nhất cho việc "Tam giáo hợp nhất".
* Việc sùng bái tuy mang tính cách cá nhân, nhưng trải qua thời gian lâu dài, nhiều đời nhiều kiếp đã thành "thâm căn cố đế" (thâm căn cố đế), tín ngưỡng tôn giáo ngày càng cao, càng đa dạng phức tạp hơn Không có một. tôn giáo hay tín ngưỡng nào mà còn giữ nguyên được "trạng thái ban đầu" cả. Đạo giáo cũng không thoát ra khỏi qui luật khách quan ấy Cho nên., việc đánh giá một vấn đề nào đó, là "mê tín" hay không, là cả một việc hết sức khó khăn, phải dè dat cho lắm.
* Việc cúng tế tổ tiên, nhiều đời dã làm, đến nay và về sau có lẽ cũng không dứt , nhưng có ai khẳng định được hay có "không có cái gọi là Tổ Tiên" ấy? Tổ tiên trong lòng con mắt và mọi người, là quan trọng nhất Bởi vì. ơn nghĩa sanh thành, dưỡng dục, sánh với trời cao biển rộng Những luân. lý đạo đức đã thành nếp, khắc sâu vào tâm khảm mọi người, mọi thế hệ như: - kính trọng người trên, báo hiếu cha mẹ, thờ cúng tổ tiên ... thì đối với một gia đình nào đó, có thể là họ không có thờ Phật, không có thờ Thần của Đạo giáo ... nhưng không thể không thờ kính tổ tiên, dù bằng cách nay hay cách khác Điều nay cho thấy., khách quan mà nói, thờ kính tổ tiên vượt khỏi giới hạn của mọi tôn giáo.
* Nói về "Phả hệ" của Thánh Thần trong Đạo Giáo, vì đã kế thừa nào là tôn giáo xưa, thần thoại cổ tích, những nhân vật sống thành Tiên lâu, những anh hùng dân tộc được nhân dân kính ngưỡng Phụng thờ ... kết hợp với những vị thần Phật Giáo, Đạo Giáo ... lần lần hình thành một "hệ thống Thánh Thần" hết sức đa dạng và phức tạp, khó mà định hình thống nhất được.
* Phả hệ đầu tiên của Thánh Thần có nguồn gốc cơ bản là từ các vị "tôn thần" của Đạo Giáo (bao gồm các giáo chủ, các bậc đạo cao, các bậc được tôn xưng trong ba cõi vv ... cốt lõi của việc "hình thành Thánh Thần" là dựa vào ba yếu tố căn bản sau: - một là đạo, hai là khí, ba là hóa và sinh Hóa là "nhân cách. hóa các Thần" (từ sự sùng bái thiên nhiên hoặc Điểu thú linh hiển ...) và "Tiên hóa người tu hành".
* Đời Tống, các vị học giả đã cố gắng "hệ thống hóa" lại Phả hệ Thần Thánh trong Đạo Giáo, sơ bộ có mười một tầng lớp như sau: --
1. Tam Thanh, Tứ Ngự;
2. Nam Cực Trường Sinh Đại Đế, Đông Cực Cứu Khổ Thiên Tôn, Mộc Công Đạo Quân, Kim Mẫu Nguyên Quân Cập Tam Thập Nhị Thiên Đế (1);
3. Thập Thái Nhất (Thái Ất) (2), Nhật Nguyệt Ngũ Tĩnh, Bắc Đầu, Nhị Thập Bát Tú Tinh Quân;
4. Ngũ Đế, Tam Quan, Tứ Thánh;
5. Những vị Pháp Sư truyền dạy kinh sách nhiều đời;
6. Ma Vương, Thần Vương, Tiên Quán;
7. Ngũ Nhạc và Chư Thần của Phong Đô và Địa Phủ;
8. Phù Tang Đại Đế và Chư Thần của Thuỷ Phủ;
9. Các đáng chú Tể và chư Thần của Thiên Xu Viện, Khu Tà Viện, Lôi Phủ;
10. Các đang Công Tạo, Sứ Giả, Kim Đồng, Ngọc Nữ, Hương Quân, Lại Dịch vv ...;
11. Thành Hoàng, Thổ Địa Thần và các sở thuộc.


* Chú thích: --
(1) Tam Thập Nhị Đế
1.-Đông Phương Bát Thiên
Đường Huỳnh Thái Hoàng Thiên, Đế Úc Giám Ngọc Minh
Thái Minh Ngọc Hoàn Thiên, Đế Tu A Na Điền
Thanh Minh Hà Đồng Thiên, Đế Nguyên Dục Kinh Tế
Huyền Thái Bình Dục Thiên, Đế Lưu Độ Nội Tiên
Nguyên Minh Văn Cử Thiên, Đế Sửu Pháp Luân
Thượng Minh Thất Diệu Di Ma Thiên, Đế Điềm Huệ Diên
Vô Ngũ Hành Thiên Việt, Đế Chính Quang Định
Thái Cực Mông E Thiên, Đế Khúc Dục Cửu Xương
2.-Nam Phương Bát Thiên
Xích Dương Thiên Minh Hoà, Cẩm Thượng Đế Lý Chân
Huyền Minh Cung Thiên Hòa, Đế Không Đạo Sửu Âm
Diệu Minh Tôn Phiêu Thiên, Đế Trọng Quang Minh
Trúc Huỳnh Già Thiên Lạc, Diệu Đế Ma Di Biên
Hư Minh Đường Diệu Thiên, Đế Một Gia Lâu Sinh
Quán Minh Đoan Tịnh Thiên, Đế Úc Mật La Thiên
Huyền Minh Cung Thiên Khánh, Long Đế La Bồ Đề
Hoàn Thái Cực Đạo Thiên, Đế Uyển Nhữu Vô Diên
3.-Tây Phương Bát Thiên
Nguyên Tải Khổng Thăng Thiên, Chân Đế Khải Định Quang
Thái An Huỳnh Thiên Nhai, Đế Bà La Một Thám
Hiển Định Cực Phong Thiên, Chân Đế Chiêu Đồng
Mạng thuỷ Hoàng Hiếu Thiên, Đế Tát Lâu La Vương
Ông Thái Hoàng Trọng Phù Dung Thiên, Đế Mân Bà Cuồng
Vô Tư Giang Đỗ Thiên, Đế Minh Phạm Quang
Thượng Diệp Nguyễn Lạc Thiên, Đế Bột Bột Lâm
Vô Cực Đàm Thiên, Đế Phiêu No Khung Long
4.-Bắc Phương Bát Thiên
Hạo Đình Tiêu Độ Thiên, Đế Huệ Giác Hôn
Thông tin Uyên Nguyên Động Thiên, Đế Phạm Hành Quán Sinh
Thái Văn Han Sung Diệu Thành Thiên, Đế Na Dục Sửu Anh
Thái Tố Lạc Tú Cẩm Thượng Thiên, Đế La Giác Long Trường
Thái Hư Vô Thượng Thường Dũng Thiên, Đế Tổng hợp Giám Quỉ Thần
Thái Hư Ngọc Long Đằng Thánh Thiên, Diệu Diệu Đế Hành Nguyên
Độ dài Biến Phạm Thiên, Đế Vận Thượng Huyền Huyền
Thái Cực Bình Dục Dịch Cổ Thiên, Đế Đại Trạch Pháp Môn
Các nguồn "từ lâu, chiết trung, Thiên Chúa Sở không đồng nhất, phân cấp rõ ràng" như là đặc trưng của dòng dõi bất tử được xác định bởi các yếu tố truyền thống, các yếu tố tôn giáo, hạn chế các yếu tố, làm bằng không gian-thời gian.
* Phả hệ của Thần Tiên Đạo Giáo có đặc điểm "từ nhiều nguồn gốc khác nhau, cái nào cũng lấy vào, hệ thống tạp nhập, tầng thứ không rõ ràng". Có tình trạng Sở dĩ như thế vì các lý do sau: --
-tiếp thu theo truyền thống
-tiếp thu theo sở thích mỗi người
-tiếp thu theo từng giáo phái
-tiếp thu theo thời gian
-tiếp thu theo không gian, địa phương ...
Tất cả những thứ đó làm cho tổng thể trở thành phong phú nhập tạp nhưng hỗn loạn,, thứ lớp lao lộn, trùng lắp ... không thể nào có cái gọi là "lớp lang thứ bậc" hoàn chỉnh được.
* Tôn giáo là một hiện tượng phổ biến của lịch sử con người, đến nay thì tạm dừng. Chúng ta thấy rằng nhận, tất cả tôn giáo đều chứa yếu tố cơ bản là "tôn giáo của tự nhiên", nghĩa là làm sự sùng bái các yếu tố tự nhiên, các động thực vật, các linh Quỉ, tổ tiên, linh vật hay "TÔ-TEM", các ngẫu tượng vv ...
Những sùng bái từ nguyên thủy đến giờ vẫn còn dấu vết sinh hoạt trong xã hội hiện nay của các dân tộc trên thế giới Có thể. Nói tôn giáo nào cũng có sự kế thừa của tinh thần sùng bái thần linh cả.
* Đạo Giáo lại là một tôn giáo "cá biệt", không giống như các tôn giáo khác là "có một giáo chủ cụ thể", mà lại phát triển mở rộng đến mọi nơi, mọi lúc cầu xã hội Trung Quốc Trải dài. năm tháng, càng dày ngày càng sâu, không ngớt tồn tại và phát triển. Có người dùng câu "tạp nhi đa đoan" (phức tạp mà nhiều nguồn gốc) để nói về Đạo Giáo Ý ấy hàm nghĩa châm Biếm,. nhưng cũng phản ảnh thật đúng với tình trạng thực tế của Đạo Giáo.
* Khi nghiên cứu về Phả hệ của Thần Tiên trong Đạo Giáo, phải chấp nhận yếu tố "ảnh hưởng thần học" làm đầu mối Điều đó. Có nghĩa là, những tôn giáo tự nhiên của xã hội nguyên thủy Trung Quốc đã dần dần trở thành "tôn giáo của con người" (tôn giáo thần học).
Thời đại Ân, Chu thì làm vì người đời Ân rất sùng bái Quỉ thần Như Chiêm bốc chẳng hạn., Ngày nay còn ghi lại nhiều "lời que" có đặc điểm thời nhà Ân Thời ấy,. Mỗi khi có việc gì cần giải quyết, họ đều hướng về "ĐẾ" để cầu xin ý kiến. Đế ở đây là chỉ cho "tổ tiên" (sách Vương Tân Nhật ghi) Đến đời. Chu, việc sùng bái Quỉ thần được ghi khá đầy đủ trong "Chu Lễ - Thiên Đại Tôn Bá "rằng: -" Chức năng của Đại Tôn Bá là có nhiệm vụ xây dựng Miếu Thờ cùng phụ trách việc cúng tế các Thiên Thần ". Thiên thần ở đây bao gồm: - Hạo Thiên Thượng Đế, mặt trời, mặt trăng, các sao, Thần Gió, Thần Mưa, Thần Xã Tắc (lúa gạo), Ngũ Nhạc (năm núi lớn), Thần Rừng Núi, Thần Sông Nước, vật trăm bốn phương, nhân qui (tổ tiên của người) ".
Tôn giáo cổ đại của Trung Quốc có nguồn gốc từ các tín ngưỡng trên phát triển dần thành hệ thống những thiên thần, địa linh Quỉ nhân,, là những nhân tố khởi đầu của sự sùng bái thần linh của Đạo Giáo. Trọng sách các của Đạo Giáo nói "... trong những vị đắc đạo thiên sanh, cao nhất là Ngọc Hoàng ... dưới có sông núi Quỉ thần cầm thú, không ngoài sở đắc học hỏi của con người", "Ngũ Đế của cung Thái Thanh, là các vị thần của tự nhiên ".
Trọng đây, câu "các thần tự nhiên" là chỉ cho trời đất, trời trăng sao, núi rừng sông nước Như ". Ngũ Đấu Mễ Đạo" (đạo năm lít gạo) thì thờ ba vị (Tam Quan) của trời, đất và nước (Thiên, Địa, Thủy Quân), Đạo Thái Bình thì thờ Huỳnh Thái Ất ... tất cả đều có dấu vết sùng bái tự nhiên.
-Nguyên Thủy Thiên Tôn là vị tôn thần cao nhất của Đạo Giáo Theo sự. Mô tả của Cát Hồng đời Tấn trong "Chăm Trung Thư": - "Xưa chưa phân trời đất, toàn cõi mờ mit hỗn mang, vũ trụ chưa thành hình, mặt trăng mặt trời chưa có, giống như hột gà mới sanh, Lào lộn trắng đỏ, đã có vị Bàn Cổ Chân Nhân tức là tinh hoa của trời đất, hiệu là Nguyên Thủy Thiên Vương ". Lối nói nay là hoàn toàn dựa vào Từ Chỉnh, người nước Ngô thời Tam Quốc viết trong "Tam Ngũ Lịch Kỷ" về thần thoại Bàn Cổ khai thiên lập địa trước đây.
-Về hai danh xưng "Nguyên Thủy Thiên Vương" và "Nguyên Thủy Thiên Tôn" thì sách của Đạo Giáo cho là hai người khác nhau. Trọng "Chân Linh Vị Nghiệp Đồ" của Đào Hoằng Cảnh thời Nam Triều thì xếp Nguyên Thủy Thiên tôn và trung vị thứ nhất, còn Nguyên Thủy Thiên Vương là trung vị của "bốn vị bên tả" Còn giữa. Nguyên Thủy Thiên Tôn và Bàn Cổ Chân Nhân thì có mối liên hệ thông nhất là "Bàn Cổ là hóa thân của Nguyên Thủy ", như vậy hai người là một Thực tế., lại có" hai Bàn Cổ ", một là Bàn Cổ làm Nguyên Thủy hóa thân được thờ cúng trong Đạo Giáo, hai là Bàn Cổ làm thế gian sùng bái và ông tin chỉ Bàn Cổ khai thiên lập địa nay thôi Một thí. dụ nay cũng đủ nói lên "tính biến hóa" của Phả hệ Thần Tiên rồi!
* Trọng ảnh hưởng thần học truyền thống có tác động đến phả hệ Thần Tiên. Cũng phải nói đến việc kế thừa tập quán "sùng bái thánh hiền" Kinh điển. Sớm nhất của Đạo Giáo "Thái Bình Kinh" đã có tên của những "thánh nhân", "hiền nhân".
-Cát Hồng trong "Chăm Trung Thư" thì có Tam Hoàng Ngũ Đế.
-Thượng Thanh Chúng Tiên ký, Chân Linh Vị Nghiệp Đồ, Vô Thượng Bí Yếu và các "danh tác Đạo gia" đều có nêu nào là: - ba vua Nghiêu, Thuận, Ngũ, Thành Thánh của nhà Ân, Vũ Vương nhà Chu , te Hoàn Công, Hán Cao Tổ, Lưu Bị ... các thánh hiền như: - Khổng Tử, Nhan Hồi, Mặc Địch ...
* Trọng "Thái Thượng Cảm Ứng Thiên" đời Tống nói: - "Có ba loại hiền thánh, nhà Phật thì lấy những nhân vật trong Tam Thừa, thì Đạo gia lấy Ngũ Chủng Tiên, nhà Nho thì lấy các đồ đệ Khổng Mạnh" điều đó. phản ảnh chủ trương "Tam Giáo đồng nguyên" của thần học đương thời Như vậy,. khi nghiên cứu về Phả hệ thần thánh của Đạo Giáo không thể nào bỏ qua được mối "quan hệ hữu cơ" giữa ba tôn giáo Nho, Lão, Thích được.
* Một vấn đề cũng cần phải làm sáng tỏ là, giữa hai vị Thái Thượng Lão Quân là "Tổ của nguyên khí, bậc chí tôn của Đạo, gốc rễ của trời đất" và Nguyên Thủy Thiên Tôn "tinh hoa của trời đất, Tổ khí của Đạo lớn, tự nhiên sinh, không khí hình là, có hình là thần "thì giải quyết ai lớn hơn ai đây?. Việc nay thật khó vô cùng.
-Truy tầm nguyên ủy của vấn đề, hóa ra có sự khác biệt như vậy, là làm lúc đầu, Ngũ Đấu Mễ Đạo và Thái Bình Đạo ra đời, tôn sùng Thái Thượng Lão Quân làm chủ tế. Đồng thời cũng thờ Tam Phụng Quân, Huỳnh Thái Ất Tiếp sau., đến thời Nam Bắc Triều, có Khấu Khiêm Chí của Bắc Ngụy lập Thiên Sư Đạo, cũng tôn thờ Thái Thượng Lão Quân. (20 quyển của "Vân Trung Giả Âm Tùng Tân Khoa chi giới" nói về việc chỉnh đơn Đạo Giáo) Đến đời. Đông Tấn, có hai phái Thượng Thanh và Linh Bảo xuất hiện, thì không thờ Thái Thượng Lão Quân làm chủ Tể nữa Như phái Thượng Thanh thì lấy Nguyên Thủy Thiên Vương tức Thái Thượng. Ngọc Thần Đạo Quân làm chủ tế; phái Linh Bảo thì lấy Nguyên Thủy Thiên Tôn và Thái Thượng Đại Đạo Quân làm chủ tế, rồi sau dùng thuyết hóa thân giải thích để đưa Nguyên Thủy Thiên Tôn hay Nguyên Thủy Thiên Vương lên địa vị độc tôn.
Về sau, trong các phái có sự hiệp thương, đã đề xuất giải pháp dung hợp lại tất cả. Thống nhất là ý kiến: "Đạo không thể không có vị tôn sư, Giáo không thể không có bậc tôn chủ Lão Quân đã. xưng là Đại Ngọc Thần Đạo Quân, mà Đại Đạo Quân là kế thừa của Nguyên Thủy, lẽ ra phải kể là thầy trò, nhưng xét kỷ ba vị cũng làm một biến hóa ra, nên địa vị ngang nhau "Cuối cùng. tôn ba vị Nguyên Thủy Thiên Tôn, Thái Thượng Lão Quân, Linh Bảo Thiên Tôn làm thành "TAM THÁNH TÔN THẦN", là địa vị tối cao của Thần Tiên Trong phần hệ Đạo Giáo.
Miêu tả ở đây, các vị thần địa phương người dân tin tưởng vào vị thần chủ yếu là ở miền nam Trung Quốc.
* Xét các vị gọi là "Tiên Chân" về mặt đối đãi, trong quá trình biên soạn các sách truyện về Thần Tiên, ta thấy nổi bật yếu tố "giáo phái" sớm nhất là ". Liệt Tiên truyện" có kê ra gần bảy mươi hai vị Đến Cát Hồng trong "Thần Tiên truyện" thì có chín mươi bốn vị Đến Triệu. Đạo Nhất đời Nguyên, biên soạn các sách "Lịch thế chân Tiên thể đạo thông giám". "Tục biên", "Hậu biên "đã tăng lên đến vị hơn trăm chín.
Trước tình trạng số lượng Thần Tiên nhiều như thế, "Đạo Giáo Chính Lược" là giải thích [tên trong việc xếp những vị "Tiên", vì ý niệm về Tiên gần gũi với mọi người, nên gọi là Tiên cho dễ hiểu. Thật ra theo Đạo Giáo, chưa phải là đúng nghĩa "Tiên"] lại nói thêm ", ông sách truyện của đạo Nho thì lấy tên của nhà Nho, chứ không nói tên thánh hiền.Đạo Phật thì lấy tên của cao tăng, chứ không nói đến Phật, Bồ-Tát Còn Đạo. gia thì lấy đạo sĩ hoặc những nam nữ thế gian tu hành đắc đạo Thành ra. kết quả hỗn tạp, nhiều chỗ không thể truy cứu được "Cũng vì. lý do không có một" tiêu chuẩn rõ ràng "nào để công nhận là" Tiên Thật ", chỉ tùy theo sự truyền thừa của các giáo phái không giống nhau, mà sinh ra tình trạng" không thể sắp xếp "theo hệ thống được rõ ràng.
* Thí dụ như, khi tôn xưng các vị "Chân Tiên", Thiên Sư Đạo thì thờ Trương Thiên Sư, Khấu Thiên Sư; Thượng Thanh Phái thì thờ Tam mao Quân, Hứa Chân Quân; Linh Bảo Phái thì thờ Cát Huyền, Cát Hồng; Tịnh Minh Đạo thì thờ Hứa Tốn; Toàn Chân Đạo thì thờ Bắc Ngũ Tổ, Bắc Thất Chân ...
* Về việc tôn xưng các danh sơn, các cung, đạo quán ..., mỗi phái cũng có "bản sơn" riêng Thí như. Thiên Sư Đạo thì ở Long Hổ Sơn-Giang Tây; phái Thượng Thanh Mao Sơn thì ở Mao Sơn; Toàn Chân Đạo thì có ba "đại tổ đình" Rồi đến việc. mỗi cung quán ... lại thờ những vị khác nhau, như là: - Ở Tây xây Thiêm "Thuyết Kinh Đài-Chu Chí Lâu" thờ Lão Tử; ở Giang Tây có Vạn Thọ Cung thờ Hứa Tốn, Thuần Dương Cung thờ Lữ Đồng Tân; điện Khuu Tổ ở Bạch Vân Quán thờ Khu Xử Cơ.
Như vậy, ta thấy rất rõ ràng sự khác biệt về "Phả hệ Thần Tiên" ngay trong nội bộ các giáo phái của Đạo Giáo rồi.
* Yếu tố thời gian và không gian không phải là yếu tố quyết định trong việc sắp xếp "Phả hệ Thần Tiên" trong Đạo Giáo, mà chính là trước hết do ảnh hưởng của "sự biến hóa tư tưởng giáo lý" của Đạo Giáo Khi Đạo Giáo mới thành hình., lý tưởng mục tiêu quan trọng nhất của Đạo Giáo là "trường sinh thành Tiên" bạch nhật và "thăng thiên" (giữa ban ngày bay lên trời).
* Yếu tố thời gian và không gian không phải là nguyên nhân chính của sự "đa dạng" về Phả hệ Thần Tiên của Đạo giáo, mà chính là do sự biến hóa về tư tưởng giáo lý mà ra.
Thời kỳ đầu khi Đạo giáo mới xuất hiện, trọng tâm của nó là ở chỗ "trường sinh thành Tiên, giữa ban ngày bay lên trời" Điều nay. Phản ánh rõ nét trong "Chân Linh Vị Nghiệp Đồ" của Đào Hoằng Cảnh thời Nam Triều, cơ bản là các vị Thiên Đế, tôn xưng là "Đạo Quân", "Nguyên Quân", "Quân", "Cao Chân" Còn xưng. Đế là Thiên Hoàng Thượng Đế hay Cao Thượng Đế Ngọc Tứ Cực Đại. đế là Đông Minh, Tây Hòa, Bắc Huyền, Nam Chu thì được xưng là "Cao Thượng Hư Hoàng Đạo Quân".
* Đến thời Bắc Chu, trong "Vô Thượng Bí Yếu", quyển 55, khi nêu Phả hệ, thì dựa vào tiêu chí "đắc đạo thành Tiên" để xếp hạng Thuật ngữ. Được dùng ở đây là: - "Đại Thánh, Chí Chân, Chư Quân, Trường Nhân "để tôn xưng.
* Đến thời Ngụy, Tấn của Nam Bắc Triều thì lại nêu tôn chỉ "Tiên Chân" để xưng hô Thế nào là ". Tiên Chân" Theo sách? "Tạo Tượng Phẩm" nói "Tất cả các Chân Tiên, từ Tam Thanh ở trên rồi đến Đại La Thiên ... đều phải được tạo hình theo mô thức "Thánh tiên chân tướng" (hình dáng của chân Tiên có tính hàng Thánh). Cũng làm tư tưởng chủ đạo ấy mà phát sinh quan điểm đưa Tam Thanh lên cao hơn các Thiên Đế.
* Từ đời Tống đến nay, có nhiều sự cải biến tình huống, trong Phả hệ Thánh Thần, sau "Tam Thanh xếp thì" "Tứ Ngự" cho các vị Thiên Đế, rồi mới đến các vị Tiên Chân khác.Sự biến đổi nay, có lẽ do nguồn gốc từ bên ngoài, chế độ phong kiến nhà Tống cố muốn cũng "trung ương tập quyền", nên phản ánh qua việc sắp xếp lại Phả hệ nay Trọng nội. bộ Đạo Giáo, quan điểm "bạch nhật thăng thiên "cũng đã trở thành một việc" ảo tưởng "Hơn nữa., giờ bay lúc, chủ thuyết" tam giáo hợp nhất "đang được đề xuất mạnh mẽ Như". Toàn Chân Đạo "cho rằng: --
"Nho môn, Thích hộ, Đạo tương thông,
Tam giáo tùng lai nhất Tổ phong ... "
(Nhà Nho, cửa Phật giáo và Đạo tương thông với nhau, Tam giáo trước giờ vẫn chung một Tổ)
nên đã dung nạp tư tưởng "hiếu trung" của Nho gia, "từ bi" của Phật giáo vào trong Đạo Điều đó., phản ánh rõ nét vào năm thứ 35 Vạn Lịch đời Minh (năm 1607), Đại Chân Nhân Trương Quốc Phùng Chí Tường đã hiệu chỉnh sách "Sưu Thần Kỷ" gồm sáu quyển, quyển một thì nói rõ nghĩa trong sáng gắn bó mật thiết của Nho, Thích và Đạo Đế cao vị trí của Ngọc Hoàng,. Hoàng Hậu Thổ Địa Kỳ, rồi sau đó mới sắp xếp các vị Hứa Chân Quân, Trương Thiên Sư, Tam Mao Chân Quân của Đạo giáo ở bên dưới Đồng thời,. cũng đưa vào danh sách các vị như: - Quan Âm, Đạt Ma ... các Phật, Bồ Tát vv ...; bên Nho thì có: - Tây Sở Bá Vương, Ngũ Tử Tư ... Thêm nữa, cũng đưa các vị được dân gian tôn thờ như: - Động Đình Quân, Tương Quân, kể cả chồn, chó của những vị nay. Điều đó nói lên ý nghĩa "chính quyền lập ra là từ dân gian, tín ngưỡng của các vua chúa cũng phản ánh tín ngưỡng dân gian mà thôi". Đây cũng là yếu tố có liên quan rất nhiều đèn pha hệ của Thánh Thần Đạo giáo vậy.
* Việc tôn xưng "Tổ Sư" của Đạo Giáo cũng có phần từng tham dự của Triều đại vua chúa Như đời. Đường thì tôn xưng Lão Tử, đời tôn Tống thì Huỳnh Đế, đời Minh thì tôn Chân Vũ Đại Đế (nhân vì kỵ huy tên vua Tống Chân Tông nên cải "Huyền" Vũ thành Chân Vũ) Lại còn. đề cao công đức của "(Tống) Thái Tổ bình định thiên hạ, Thái Tông dẹp nạn, công dày sâu lớn, hai kinh lệnh cho các quan cúng tế hai ngày sóc, vọng chu đáo ". Điều nay cho thấy rõ, theo yêu cầu của mỗi Triều đại mà có ảnh hưởng sâu sắc đèn pha hệ của Đạo giáo Thí như vậy., đời Tống Huy Tông đã đàn áp Phật giáo, cải Phật thành "đại giác kim tiên", nhưng chỉ một năm thì không còn tình trạng ấy Nhưng ảnh hưởng của. nó khiển cho tín ngưỡng bị trộn lẫn, "kim tiên" trở thành vừa vừa Tiên Phật Hợp tôn. lại có mười hai vị "Kim Tiên", như Điện Tam Thanh của Thanh Dương Cung ở Thành Đô có tượng của 12 vị tiên là kim: - Quảng Thành Tử, Xích Tùng Tử, Đạo Hạnh Thiên Tôn, Thái Ất Chân Nhân, Đạo Đức Chân Quân, Linh Bửu Đại Pháp Sư, Cù Lưu Tôn, Vân Trung Tử, Văn Thù Thiên Tôn, Phổ Hiền Chân Nhân, Từ Hàng Đạo Nhân, Ngọc Đỉnh Chân Nhân. Sắc thái dung hợp và ảnh hưởng thời đại thể hiện rất rõ ở đây.
* Về yếu tố "không gian" nói mà, hồi mới khai sáng Đạo Giáo, Ngũ Đấu Mễ Đạo (đạo năm đấu gạo) gốc ở miền Ba Thục của Hán Trung Còn Thái Bình Đạo lưu. Truyền ở tám châu là: - Thanh , Từ, U, Ký, Kinh, Dương, Con, Dự Châu, nên hình tượng tôn thờ phải khác nhau thôi Về sau. lại xuất hiện các phái Thượng Thanh, Linh Bảo, Tịnh Minh, Lâu Quán ... thì việc tôn thờ hình tượng mang sắc thái tùy theo địa phương nổi lên rất rõ.
Thêm nữa, các nghi thức về làm khoa, trai đàn ... của Đạo giáo cũng biến đổi theo "tâm lý quần chúng" Như Đạo. Sĩ Lữ Nguyên Tố ở Tây Thục lập thành "Đạo Môn Định Chế" quyển thứ chín viết: -- "Trong ba giai đoạn đều nói lên tinh thần trung quân của người dân Tây Thục, cùng hình tượng núi sông xung quanh, tùy theo nơi thờ Phụng mà có sự thêm bớt". Điều nay cho thấy ảnh hưởng địa phương không phải là nhỏ đối với việc cấu tạo thành Phả hệ Thánh Thần.
* Tóm lại, trong lịch sử lâu dài của việc hình thành Phả hệ "Thánh Thần Đạo Giáo", mặc dù đã hết sức cố gắng bám chắc vào tín ngưỡng "ĐẠO", nhưng vì có sự phân hóa các chi phái, ảnh hưởng biên thiên lịch sử các Triều đại, tác dụng tương hỗ của các tôn giáo, không gian quá phổ biến rộng lớn tạo nhiều "tính địa phương" ... cuối cùng tạo thành kết quả Phả hệ vô cùng phức tạp như ngày nay.


* Tài liệu nay chủ yếu giới thiệu Thần thánh Đạo giáo của vùng, khu vực phía Nam Trung Quốc mà thôi.
* Nhược Thủy dịch

(từ http://www.fushantang.com)
Giới thiệu sơ lược về Thánh Thần Trung Quốc


BẢNG DANH SÁCH THÁNH THẦN TRUNG QUỐC THEO LỊCH SỬ
A. - CHƯ THẦN THEO CHÍNH DIỆU .
1 .- TỐI CAO: --
Bàn Cổ Thị-còn gọi Nguyên Thuỷ Thiên Vương, tên khác, Phù Lê Nguyên Thuỷ Thiên Tôn.
2 .- Tam Thanh: --
1 / - Nguyên Thuỷ Thiên Tôn
2 / - Linh Bảo Thiên Tôn còn gọi Thái Thượng Đạo Quân
3 / - Đạo Đức Thiên Tôn còn gọi Thái Thượng Lão Quân (Tây Du Ký gọi là Thái Thượng Đạo Tổ)
3 .- Lục Ngự: --
1 / - Trung ương Ngọc Hoàng Đại Đế-Vợ: - Vương Mẫu Nương Nương, còn gọi là Tây Vương Mẫu.
2 / - Phương Bắc Trung Thiên Bắc Cực Tử Vi Đại Đế
3 / - Nam Phương Nam Cực Trường Sinh Đại Đế, còn gọi là Ngọc Thanh Chân Vương, là con trai thứ chín của Nguyên Thuỷ Thiên Vương.
4 / - Đông Phương Đông Cực Thanh Hoá Đại Đế Thái Ất Cứu Khổ Thiên Tôn
5 / - Tây Phương Thái Cực Thiên Hoàng Đại Đế [Thủ hạ gồm có: Bát Đại Nguyên Soài Rạp, Ngũ Cực Chiến Thần (Thiên Không Chiến Thần, Đại Địa Chiến Thần, Nhân Trung, Chiến Thần, Bắc Cực Chiến Thần Và Nam Cực Chiến Thần)].
6 / - Mẹ của đại địa: Thừa Thiên Hiệu Pháp Hoàng Hậu Thổ Địa Kỳ
4 .- Ngũ Phương Ngũ Lão: --
1 / - Nam Phương Nam Cực Quan Âm
2 / - Đông Phương Sung Ân Thánh Đế
3 / - Tam Đảo Thập Châu Tiên Ông Đông Hòa Đại Đế Quân (tức Đông Vương Công, tên \ "Kim Thiền Thị \", hiệu Mộc Công).
4 / - Bắc Phương Bắc Cực Huyền Linh Đầu Mẫu Nguyên Quân (Trời là Ma Lợi của hai mươi vị Trời trong Phật Giáo)
5 / - Trung ương Hoàng Cực Giác Huỳnh Đại Tiên
5 .- Các Tiên ở Trung ương Thiên Cung: --
Thiên Lý Nhãn | Thuận Phong Nhĩ | Kim Đồng | Ngọc Nữ | Lôi Công | Điện Mẫu (Kim Quang Thánh Mẫu)
Phong Bá | Vũ Sư | Du Dịch Linh Quân | Dực Thánh Chân Quân | Đại Lực Quỉ Vương | Thất Tiên Nữ | Thái Bạch Kim Tinh |
Xích Cước Đại Tiên | Quảng Hàn Tiên Tử (Hằng Nga Tiên Tử) Thường Nga | Ngọc Thọ | Ngọc Thiêm | Ngô Cương | Thiên Bồng Nguyên Soài Rạp |
Thiên Hữu Nguyên Soài Rạp | Cửu Thiên Huyền Nữ | Thập Nhị Kim Thoa | Cửu Diệu Tinh | Nhật Du Thần | Dạ Du Thần | Thái Âm Tinh Quân |
Thái Dương Tinh Quân | Vũ Đức Tinh Quân | Hữu Thành Chân Quân
Thác Tháp Thiên Vương Lý Tịnh | Kim Trà | Mộc Trà (Hành Giả Huệ Ngạn) | Tam Đàn Hải Hội Đại Thần Na Trà | Cự Linh Thần |
Nguyệt Lão | Tả Phụ Hữu Bật | Nhị Lang Thần Dương Tiển | Thái Ất Lôi Thanh Ứng Hoá Thiên Tôn Vương Thiện Vương Linh Quân | Tát Chân Nhân |
Tử Dương Chân Nhân (Trương Bá Đoan) | Văn Xương Đế Quân | Thiên Lũng | Địa Á
6 .- Tam Quan, Đại Đế: Thiên Quân | Địa Quân | Thuỷ Quân
7 .- Tứ Đại Thiên Vương: --
Tăng Trưởng Thiên Vương, Trì Quốc Thiên Vương, Đa Văn Thiên Vương và Nghiêm Mục Thiên Vương
8 .- Tứ Trị Công tạo: --
Trị Niên Thần: - Lý Bính | Trị nhục Nguyệt Thần: - Huỳnh Thừa Ất | Trị Nhật Thần: - Chu Đăng | Trị Thời Thần: - Lưu Hồng
9 .- Tứ Đại Thiên Sư: --
Trương Đạo Lăng, Hứa Tốn (tự Kính Chi, hiệu Hứa Tinh Dương), Khẩu Hoằng Tế, Cát Hồng
10 .- Tứ Phương Thần: --
Thành Long Mạnh Chương Thần Quân, Bạch Hổ Giám Bình Thần Quân, Chu tuoc Lăng Quảng Thần Quân, Huyền Vũ Chấp Minh Thần Quân.
11 .- Tứ Đậu Long Thần: - (Long Thần ở hang, động)
Hoàng Hà | Trường Giang | Hoài Hà | Tế Thuỷ Hà Thần
12 .- Mã-Triệu-Ôn-Quân-Tứ Đại Nguyên Soài Rạp: --
1 / - Mã Nguyên Soài Rạp còn gọi Mã Thiên Quân, Hòa Quang Thiên Vương, Hòa Quang Đại Đế.
2 / - Triệu Nguyên Soài Rạp tức Vũ Tài Thần Triệu Công Minh, còn gọi Triệu Huyền Đàn.
3 / - Ôn Nguyên Soài Rạp Ôn Quỳnh (bộ tướng của Đông Nhạc Đại Đế)
4 / - Quan Nguyên Soài Rạp Quan Vũ.
13 .- Ngũ Phương Yết Đế: --
Kim Quang Yết Đế, Ngân Đầu Yết Đế, Ba La Yết Đế, Ba La Tăng Yết Đế, Hà Yết Ma Đế
14 .- Ngũ Khí Chân Quân: --
1 / - Đông Phương Tuệ Tĩnh Mộc Đức Chân Quân
2 / - Nam Phương Huỳnh Hoặc Hoả Đức Chân Quân
3 / - Tây Phương Thái Bạch Kim Đức Chân Quân
4 / - Bắc Phương Thuỷ Tinh Thần Chân Đức Quân
5 / - Trung ương Sân Tĩnh Thổ Đức Chân Quân
15 .- Ngũ Nhạc: --
1 / - Đông Nhạc Thái Sơn Thiên Te Nhân Thánh Đại Đế
2 / - Nam Nhạc Hành Sơn Tư Thiên Chiêu Thánh Đại Đế
3 / - Trung Nhạc Tung Sơn Trung Thiên Sung Thánh Đại Đế
4 / - Bắc Nhạc Hằng Sơn An Đế Thiên Huyền Thánh Đại
5 / - Tây Nhạc Hoa Sơn Thiên Kim Nguyện Thánh Đại Đế
(Ngũ Nhạc Đế Quân: - Đông Nhạc Đế Quân, tên Thị Kim Hồng, em trai Đông Hòa Đế Quân Còn bốn vị Đế Quân kia là bốn người con của Đông Hoa Đế Quân và Bích Hà Nguyên Quân..)
16 .- Ngũ Đầu Tinh Quân: --
Đầu đông Tinh Quân | Tây Đầu Tinh Quân | Trung Đầu Tinh Quân | Nam Đầu Tinh Quân | Bắc Đầu Tinh Quân
17 .- Lục Đinh Lục Giáp: --
a / - Lục Định là: --
* Sáu vị Âm Thần Ngọc Nữ: --
1 / - Đinh Mao Thần Tư Mã Khánh
2 / - Đinh Tỵ Thần Thôi Cự Khánh
3 / - Đinh Mùi Thần Thạch Thúc Thông
4 / - Đinh Dậu Thần Tăng Văn Công
5 / - Đinh Hợi Thần Trương Văn Thông
6 / - Đinh Sửu Thần Triệu Tử Ngọc
b / - Lục Giáp là: --
* Sáu vị Thần Dương Ngọc Nam: --
1 / - Giáp Tý Thần Vương Văn Khánh
2 / - Giáp Tuất Triển Thần Tử Giang
3 / - Giáp Thân Thần Hỗ Văn Trường
4 / - Giáp Ngọ Thần Vệ Ngọc Khánh
5 / - Giáp Thìn Thần Mạnh Phi Khanh
6 / - Giáp Dan Thần Minh Văn Chương
18 .- Nam đầu lúc Tinh Quân: --
1 / - Đệ Nhất Thiên Cung Phủ: Tư Mệnh Tinh Quân
2 / - Đệ Nhị Thiên Tướng Cung: Tư Lộc Tinh Quân
3 / - Đệ Tam Thiên Cung Lương: Diên Thọ Tinh Quân
4 / - Đệ Tứ Thiên Đồng Cung: Ích Toán Tinh Quân
5 / - Đệ Ngũ Cung Thiên Xu: Độ ạch Tinh Quân
6 / - Đệ Lục Thiên Cơ Cung: Thượng Sanh Tinh Quân
19 .- Bắc Đầu Thất Tinh Quân: (là Bắc Thiên Thất Hoàng của "Sư Đà Quốc")
1 / - Bắc Đầu Đệ Nhất Dương Minh - Tham Lang Tinh Quân
2 / - Bắc Đầu Đệ Nhị Âm Tinh - Cự Môn Tinh Quân
3 / - Bắc Đầu Đệ Tam Chân Nhân - Lộc Tồn Tinh Quân
4 / - Bắc Đầu Đệ Tứ Huyền Minh - Văn Khúc Tinh Quân
5 / - Bắc Đầu Đệ Ngũ Đan Nguyên - Liêm Trinh Tinh Quân
6 / - Đệ Lục Đầu Bắc Bắc Cực - Vũ Khúc Tinh Quân
7 / - Bắc Đầu Đệ Thất Thiên Quân - Phá Quân Tinh Quân
* Ghi chú: - Sư Đà Quốc là tên gọi của khu vực chòm sao Bắc đâu.
- Bắc Đầu Thất Tinh Quân còn có tên hiệu khác là: --
Thiên Xu, Thiên Tuyền, Thiên Cơ, Thiên Quyền, Ngọc Hành, Khai Dương, Diệu Quang.
* Trong đó, \ "Thiên Xu, Thiên Tuyền, Thiên Cơ, Thiên Quyền \" hợp thành nhóm gọi là "Đầu khôi" hay "Tuyền" (hình cái GÁO mục nước) Bà sao. Còn lại hợp thành "Thước" ( tức là cái cán GÁO)
20 .- Bát Tiên: --
Lý Thiết Quái (Thiết Quái Lý), Hán Chung Ly, Lữ Động Tân, Hà Tiên Cô, Lâm Thái Hoà, Hàn Tương Tử, Tao Quốc Cửu (Cựu), Trương Quả Lão
21 .- Tám vị tướng thủ hạ của Tăng Trưởng Thiên Vương: --
* Gọi tắt là: - Bưu Lưu Tuân Tất, Đặng Tân Trương Đào.
* Tên đủ tám vị là: --
Lưu Tuấn, Tuân Lôi Cát, Bưu Dục, Viễn Tất Tông;
Đặng Bá Ôn, Tân Hán Thần, Trương Bá Nguyên, Đào Nguyên Tín (tứ mục)
22 .- Cửu Diệu Tình: --
Kim Tinh | Mộc Tinh | Thuỷ Tinh | Hoả Tinh | Thổ Tinh |
La Hậu (Thực Tĩnh) | Kế Đô Tinh | Tử Khí Tinh | Nguyệt Bột Tĩnh
23 .- Thiên Tiên trên mặt đất: --
1 / - Khương Tử Nha (còn gọi Đông Hòa Đế Quân, là Người Tiếp Khách của Mộc Công)
2 / - Bồng Lai Tam Tiên: --
Phúc Lộc Thọ Tam Tinh
* Ghi chú: - Phúc Thiên Thần Quân Đại Đế: - có thuyết nói là Dương Thành đời Tây Hán, có thuyết nói là Dương Thành đời Đường.
3 / - Vũ Tài Thần Triệu Công Minh, (còn Tỷ có thể, Phạm Lãi là Văn Tài Thần)
4 / - Thọ Tinh Nam Cực Tiên Ông - Nữ Thọ Tĩnh: Ma Cô (hình vẽ hiến đào)
5 / - Chân Vũ Đại Đế, còn gọi Cửu Thiên Hàng Ma Tổ Sư, Huyền Vũ Nguyên Soài Rạp.
6 / - Quy Xà Nhị Tướng (còn có tên là Thái Huyền Linh Hắc Thuỷ Tinh Thần Tôn, Thái Huyền Hoả Tinh Xích Linh Tôn Thần)
7 / - Tiểu Trương Thái Tử và Ngũ Đại Thần Long.
8 / - Lê Sơn Lão Mẫu, Sân Nguyên Tử
9 / - Long Vương: --
Đông Hải Long Vương Ngao Quảng | Nam Hải Long Vương Ngao Khâm | Tây Hải Long Vương Ngao Nhuận | Bắc Hải Long Vương Ngao Thuận | Tỉnh Hải Vương (thần Long Vương ở giếng)
* Nhược Thủy dịch

* Nguồn: -- http://www.tianyabook.com/zongjiao/cndaojiao3/001.htm


B. - THẦN THEO THÁNH THẦN TIÊU PHẢI
1 .- Bắc Cực Tử Vi Đại Đế
2.-Ngọc Thanh Chân Vương (Nam Cực Trường Sinh Đại Đế) - Con thứ chín của Nguyên Thuỷ Thiên Vương)
3.-Thần Tiêu Bát Đế
(Tám vị Thần Tiêu, làm Đạo Giáo hư cấu), Ngọc Thanh Chân Vương và Thần Tiêu Bát Đế hợp thành Thần Cửu Tiêu Thần Đại Đế: --
* Tám vị là: --
1 / - Đông Cực Thanh Hoá Đại Đế,
2 / - Cửu Thiên ứng Nguyên Lôi Thanh Phổ Hoá Thiên Tôn (Huỳnh Đế),
3 / - Cửu Thiên Lôi Tổ Đại Đế.
4 / - Thái Ất Thiên Đế,
5 / - Lục Thiên Uyên Động Đại Đế,
6 / - Lục Bà Thiên Chủ Đế Quân,
7 / - Khả Hàn Chân Quân,
8 / - Thái Phóng Chân Quân.
* Cửu Ty - Tam Tỉnh - Bắc Cực Tứ Thánh
4 .- Cửu Ty: --
Phủ Ngọc Phan Phủ Chân Quân, Ngọc Phủ Tả Hữu Đại Trung, Ngọc Phủ Tả Hữu Bộc Tạ, Thiên Lôi Thượng Tướng, Ngọc Xu Sử Tướng, đầu Xu Thượng Tướng, Thượng Thanh Tư Mệnh Phủ Ngọc Hữu Khánh, Ngũ Lôi Viện Sử Quân , Lôi Đình Nguyên Đô Ty Mệnh Chân Quân
5 .-- Tam Tỉnh: --
Lôi Đình Thái Tỉnh, Lôi Đình Huyền Tỉnh, Lôi Đình Đô Tỉnh
6 .-- Bắc Cực Tứ Thánh: --
- Thiên Bồng Nguyên Soài Rạp (Trư Bát Giới)
* Các thủ hạ là: - Thiên Cương Đại Thánh, Cửu Thiên Sát Đồng Đại Tướng (Bắc Đầu Đệ Bát Tĩnh, còn gọi Thiên Sát Đại Thần), Lôi Sứ Giả.
- Thiên Hữu (Du) Nguyên Soài Rạp
- Dực Thánh Nguyên Soài Rạp
- Huyền Vũ Nguyên Soài Rạp (Chân Vũ Đại Đế)
* Ngoài ra còn có: - Ngũ Phương Lôi Vương, Ngũ Phương Lôi Đình Đại Đế
7 .- Âm Tao Địa Phủ: --
1/-Bắc Âm Phong Đô Đại Đế
2/-Ngũ Phương Quỉ Đế: - Gồm có: --
a / - Đông Phương Quỉ Đế: - Sái Úc Lũy, Thần Đồ, cai trị \ "Đào Chỉ Sơn \" Quỉ Môn Quan
b / - Tây Phương Quỉ Đế Triệu Văn Hoà, Vương Chân Nhân, cai trị \ "Bà Trung Sơn \"
c - Bắc Phương Quỉ Đế Trương Hành, Dương Vân, cai trị Phong Sơn La;
d-Nam Phương Quỉ Đế Đỗ Tử Nhân, cai trị La Phù Sơn;
e / - Trung ương Quỉ Đế Chu Khát, Kê Khang, cai trị \ "Bão Độc Sơn \"
8 .- Sáu Thần giữ sáu cung ở Cõi Trời La Phong: --
1 / - Thần Trụ Tuyệt - Âm Thiên Cung,
2 / - - Thái Sát Lượng Sự - Tông Thiên Cung,
3 / - - Minh Thần Nại Phạm Vũ - Thành Thiên Cung,
4 / - - Điềm Chiêu Tội - Khí Thiên Cung,
5 / - - Tôn Thất Linh - Phi Thiên Cung,
6 / - - Cảm Tư Liên Uyển - Lâu Thiên Cung
9 .- Địa Tạng Bồ Tát
10 .- Thập Điện Diêm Vương: --
1 / - Mười vua: - Tần Quảng Vương, Sở Giang Vương, Tống Đế Vương, Ngũ Quan Vương, Diêm La Vương, Bình Đẳng Vương, Thái Sơn Vương, Đô Thị Vương, Biện Thành Vương, Chuyển Luân Vương
2 / - Những Tướng, Thần hộ giá: --

Thủ tích phân Quân Thôi Phủ Quân, Chung Quỳ, Hắc Bạch Vô Thường, Ngưu Đầu Mã Diện, Mạnh Bà Thần .

C. - Chư Thần theo Thần Thoại Thượng Cổ

1.-Hỗn độn Thiên Thần: --
Bàn Cổ là vị Thần khai thiên lập địa đầu tiên, nhưng lại có thuyết nói "lúc trời đất còn hỗn độn sinh ra Bàn Cổ".
2.-Sáng Thế Thần: --
Thiên Ngô, Tất Phương, Cư Tỷ, Thụ Hợi, Chúc Âm, Nữ Oa
3 .- Thượng Cổ Tứ Phương Thiên Đế và Phụ Thần: --
1 / - Thái Dương Thần Viêm Đế và Hoả Thần Chúc Dung cùng chung nhau cai trị cõi trời phương Nam suốt mười hai ngàn dặm.
2 / - Thiếu Hạo và Thuỷ Thần Công Cộng cai trị cõi trời phương Tây suốt mười hai ngàn dặm.
3 / - Chuyên húc và Hải Thần Ngũ Cường (còn gọi Đông Thần Huyền Minh) cai trị cõi trời phương Bắc suốt mười hai ngàn dặm.
4 / - Thanh Đế Phục Hi và Cửu Hà Thần Nữ Tư Thị Hòa với Chúc Thần Câu Mang cai trị cõi trời phương Đông suốt mười hai ngàn dặm.
4 .- Chư Thần Thời Đại Huỳnh Đế: --
Lục Ngô, Anh Chiêu, Nhữu Châu, Kim Giáp Thần (truyền thuyết nói vị nay là hóa thân của Kim Giáp Lôi Thần của Sư Đà Quốc)
Xi Vưu, Phong Bá, Vũ Sư, Xích Tùng Tử, Lực Mục, Thần Hoàng, Phong Hậu, Ứng Long, Bát Cánh, Phụ Khoa, Đại Lực Thần, Khoa Thị Nga, Đại Đình Thị, Ngũ Long Thị.
5.-Viêm Đế, sau xưng là Thần Nông Thị Các con là:. --
* Con gái: --
a / - Khuê, sau hóa thân thành chim Tinh Vệ.
b / - Đạo Cơ, ở "Sư Đà Quốc" có tên là Uyển Hoa Tiên Tử.
c - một người con gái khác, không biết tên, ở "Sư Đà Quốc" có tên là Viêm Thiên Thánh Mẫu.
d / - Hoàng Nga, mẹ của Thiếu Hạo.
* Con trai: --
e / - trưởng tử Xuân Thần Câu Mang.
f / - thứ tử Thủ Thần nhục Thu.
6 .- Sau thời đại Chuyên húc: --
* Con trai: - Ngược Quỉ, vòng Lượng, Tống Cùng Quỉ, Thọ Ngọt.
-Đời sau: -: Lão Đồng, Thái Tử Trường Cầm, Lê, Trọng, Bánh Tổ (cháu) Đế Tuấn
* Vợ ở trên trời: -: Hi Hoà, Thường Hi
* Con gái: - Sửu, Nghệ
* Vợ ông Con: - Nữ Hi.
* Vua Nghiêu có tên: Phóng Huân; vợ: - Nữ Hoàng;
* Vua Thuận Hồ Diệu, tên Trọng Hòa; vợ: - Nga Hoàng, Nữ Anh;
* Vua Vũ, cha là con, vợ: - \ "Nữ Kiều \", còn gọi Đồ Sơn Thị, có liên quan đến Cửu Vĩ Bạch Hồ Tĩnh (tinh chồn trắng chín đuôi)
7 .- Tam Hoàng: --
-tức Thiên-Địa-Nhân Tam Hoàng, phân biệt là Phục Hi, Thần Nông và Nữ Oa.
8 .- Ngũ Đế: --
* Thông thường chỉ Huỳnh Đế | Chuyên húc | Đế Tuấn | Nghiêu | Thuận .


D. - Phần phụ: --
CÁC VỊ CHÂN TIÊN HẬU THIÊN NỔI DANH

Phòng Trưng Chí Tổ - Bánh Tổ | Si Hoành Thuỷ Tổ - Quỷ Cốc Tử |
Văn Thuỷ Chân Nhân - Doãn Hi | Nam Hoa Chân Nhân - Trang Tử
Cầu Tiên Sứ Giả - Từ Phúc | Mao Sơn Tiên Tổ - Tam Mao Chân Quân |
Vạn Cổ Đan Vương - Ngụy Bá Dương | Thái Cực Chân Nhân - Lưu An
Khôi Hài Tuệ Tĩnh - Đông Phương Sóc | Thái Bình Giáo Chủ - Vũ Cát |
Dịch Sử Quỉ Thần - Phí Trưởng Phòng | Trúc Lâm Cuồng Sĩ - Kê Khang
Thuỷ Phủ Tiên Bá - Quách Phác | Tịnh Minh Giáo Chủ - Hứa Tốn |
Bồng Lai (Đô) Thuỷ Giám - Đào Hoằng Cảnh | Thiên Sư - Khấu Khiêm Chi
Tình Tiên - Bùi Hàng | Phù Diệu Tử - Trần Đoàn |
Hiển Hoá Chân Nhân - Trương Tam Phong
* Trung Dương Vương và Thuyên Chân Thất Tử (Trường Xuân Tử Khẩu Xử Cơ, Ngọc Dương Tử Vương Xử Nhất, tỉnh Quảng Trữ Tử hách Đại Thông,
Thanh Tịnh Tản Nhân Tôn Bất Nhị, Trường Sinh tử Lưu Xử Huyền,

Trường Chân Tử Đàm Xử Đoan, Đan Dương Tử Mã Ngọc)


E. - Phần phụ 2: --
THẦN LINH DÂN GIAN

* Thiên Phi Nương Nương | Thành Hoàng | Thổ Địa Thần | Môn Thần: - Tần Thúc Bảo, uất Trì Kính Đức
* Sàng Thần (chia ra Sàng Công, Sàng Mẫu Sàng Công. Là \ "Cửu Thiên Minh Giám Sinh Tố Quân Chân \", Sàng Mẫu là \ "Cửu Thiên Vệ Phòng Thánh Mẫu Thiên Quân \")
* Hi Thần | Xí Tử Thần Cô | Thạch Cảm Đương | Tiểu Nhị Thần Hồng Thác | Châu Thiên Đại Đế Sung Trịnh | Trà Thần Lục Vũ | Hoa Thần | Nhiễm Chức Nhị Thánh Mai, Cát | Tửu Thần Đỗ Khang | Thổ Công Tổ Sư Thần Lỗ Ban | * Phương Chức Thần Hoàng Đạo Bà | (thần dệt may)
* Tàm Thần Mã Đầu Nương (Sơn Hải Kinh nói là Tây Lăng Thị, Lũy Bán Tổ) | ngục Thần Cao Đào | Lê Viên Thần Đường Minh Hoàng Mã Thần | Thanh Oa Thần Bạch Ngọc Thiêm | Khu Hoàng Thần Lưu Mạnh (ý nói Thủ Mạnh Tưởng Quân) | Xà Vương Thị Tướng Công (Thị Thuyên) |
* Đậu Thần Trương Soài Rạp | Thần Nông Hậu Tắc
* Ôn Thần: - còn gọi Ngũ Quỉ hoặc Ngũ Phương Lực Sĩ, nhân gian gọi là Ngũ Ôn.
Trong đó có: - Xuân Ôn Trương Bá Nguyên, Hạ Ôn Lưu Nguyên Đạt,
Thu Ôn Triệu Công Minh, Đông Ôn Chung Sĩ Quí, Tổng hợp Quản Trung Ôn Sử Văn Nghiệp.
* Diệu Thần Thái Thượng Lão Quân | Tác Thời Thiên Thần | Cùng Thần |
Mưu Thần Quản Trọng | Vũ Mục Vương Nhạc Phi | Chu Công, Đào Hoa Nữ | Hoàn Hi Thần Hoà Hợp Nhị Tiên Hàn Sơn, Thập Đắc


F. - Phần phụ 3: --
CÁC VỊ TIÊN MA HƯ CẤU TRỌNG SÁCH VÕ.

Thái Cổ Viên Quân | Ma Phật Lão Nhân | Thiên Diện Thiên Yêu | Địa Tâm Cổ Long | Thánh Thủ Tiên Vương | Thánh Thủ Văn Vương | La Thiên Vương
(Là hóa thân của Tam Thanh trong Đạo Giáo)
Càn Khôn Đại Tiên | Điên Đảo Lão Tổ | Khung Thiên Lão Tổ | Tiên Thiên Lão Tổ | Vô Cực Lão Tổ | Vô Vi Lão Tổ |
Tích Lịch Lão Tổ | Đằng Tổ | ảo Tiên Tử | Thanh Nhị Thiên Thần Chư | Âm Dương Pháp Vương / /
Độc Long Sơn Thiên Độc Chiểu Chiểu Để --- Mang Thần (có hai cánh) | * Ở độ sâu một Ngan dam dưới đáy Nam Hải: - Hải Hoàng (Chương Ngư Quái);
* Thú Đế (rắn chín đầu có lưng rùa) (Cửu Anh giao hợp với khí trời đất sanh ra quái vật)
* Bá Vương (khủng long ở ao Thiên Trì núi Trường Bạch)
* Thiên Tử Thọ Ngọt (con trai Chuyên húc, trú tại Bắc Phương Huyền Băng Cung)
* Bất Hoài Lâm Vương Toan Nghê (trú trong rừng già nhiệt đới phương Nam, thân cứng hơn sắt, đao thương đâm không thùng)
* Bình Thiên Đại Thánh Ngưu Ma Vương | Phúc Hải Đại Thánh Giao Ma Vương | Di Sơn Đại Thánh Sư Đà Vương | Khu Thần Đại Thánh Dã Tượng Vương |
Hồn Thiên Đại Thánh Bằng Ma Vương | Thông Phong Đại Thánh Di Hậu Vương | Te Thiên Đại Thánh Mỹ Hầu Vương.


G. - Phần phụ 4: -- 

TIÊN PHẬT Ở LINH SƠN TÂY THIÊN
(Đây là cách hiểu theo dân gian Trung Quốc, không phải của Phật giáo thuần túy - ND)

1.-Tam Thế Phật:

Có hai cách giảng về Tam Thế Phật (đúng nghĩa thì nói là Phật quá khứ, hiện tại và vị lai; nhưng dân gian lại có cách hiểu thứ hai) Hải danh. Hiệu: --
a - Thụ Tam Thế Phật: --
* Quá khứ phật: - Nhiên Đăng Thượng Cổ Phật,
* Hiện tại thế: - Thích Ca Phật (nguyên danh: Tất Đạt Đa),
* Vị lai thế: - Di Lặc Phật
b / - Hoành Tam Thế Phật: --
* Giữa là Thích Ca Mâu Ni Phật, Văn Thù Bồ Tát, Phổ Hiền Bồ Tát;
* Bên phải: - Tây phương cực lạc thế giới: - A Di Đà Phật, Quán Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát;
* Bên trái: - Đông Phương Tịnh Lưu Li Thế Giới: - Dược Sư Phật, Nhật Quang Bồ Tát và Nguyệt Quang Bồ Tát.
2 .- Tứ Đại Kim Cang: --
1 / - Ngũ Đài Sơn Bí Ma Nham: - Thần Thông Nghiêm Bát Đại Pháp Kim Cang
2 / - Nga Mi Sơn Thành Lương Động: - Pháp Lực Vô Lượng Thắng Điệt Kim Cang
3 / - Tu Di Sơn Ma Nhĩ Nhai: - Tì Lô Sá Môn Đại Lực Kim Cang
4 / - Côn Sơn Kim Lon Nhĩ Lãnh: - Bất Hoài Tôn Vương Vĩnh Trụ Kim Cang
3 .- Ngũ Phương Phật: --
-Đông Phương Bất Động (Thân) Phật;
-Nam Phương Bảo Sanh Phật;
-Trung ương Tì Lô Giá Na Phật;
-Tây Phương A Di Đà Phật;
-Bắc Phương Bất Không Thành tựu Phật.
4 .- Bát Bồ Tát: --
Quán Âm Bồ Tát, Phổ Hiền Bồ Tát, Văn Thù Bồ Tát, Địa Tạng Vương Bồ Tát,
Linh Cát Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát, Nhật Quang Bồ Tát, Nguyệt Quang Bồ Tát
5 .- Thập Đại Đệ Tử: --
Xả Lợi Phát: - Trí Tuệ Đệ Nhất | Mục Kiên Liên: - Thần Thông Đệ Nhất | A Nan Đà:-Đa Văn Đệ Nhất | Ưu Ba Ly: - Trì Giới Đệ Nhất
A Na Luật:-Thiên Nhãn Đệ Nhất | Đại Ca Điệp:-Đầu Đà Đệ Nhất | Phú Lâu Na: - Thuyết Pháp Đệ Nhất | Ca Chiên Diên:-Luận Nghị Đệ Nhất
La Hầu La:-Mật Đệ Nhất Hạnh | Tu Bồ Đề:-Giải Không Đệ Nhất
6 .- Thập Bát La Hán: --
Thác Tháp La Hán | Thám Thủ La Hán | La Hán Quá Giang | Bà Tiêu La Hán | Tĩnh Toàn La Hán |
Kỵ Tượng La Hán | Khan Môn La Hán | Hàng Long La Hán | Cử Bát La Hán | Bố Đại La Hán |
Trường Mi La Hán | Khai Tâm La Hán | Hi Khánh La Hán | Oat Nhĩ La Hán | Tiếu Sư La Hán |
Phục Hổ La Hán | Trầm Tư La Hán | Ky Lộc La Hán |
7 .- Thập Bát Già Lam: --
Mỹ Âm | Phạm Âm | Thiên Cổ | Than Dieu | Than Mỹ | Ma Diệu | Lôi Âm | Sư Tử | Diệu Than
Phạm Hưởng | Nhân Âm | Phật Nô | Tùng Đức | Nghiêm Mục | Diệu Nhãn | Triết Thính | Triết Thị | Biến Thị
8 .- Nhị Thập Chư Thiên:
Nhật Thiên (còn gọi Nhật Cung Thiên Tử) | Đại Phạm Thiên | Đa Văn Thiên | Kim Cương Mật Tích | Quỷ Mẫu Tử Thần;
Nguyệt Thiên (còn gọi Nguyệt Cung Thiên Tử) | Đế Thích Thiên | Trì Quốc Thiên | Đại Tự Tại Thiên | Ma Lợi Chi Thiên; (Đại) Biện Tài Thiên | (Đại) Công Đức Thiên | Tăng Trưởng Thiên | Tán Chỉ Đại Tướng | Bà Kiệt Long Vương;
Vi Đà Thiên (thần chiến đấu: - Tắc Kiên Đà) | Kiên Lao Địa Thần | Nghiêm Mục Thiên | Bồ Đề Thụ Thần | Ma La Diêm Vương.
* Ngoài ra: --
Kim Đỉnh Đại Tiên, A Na, Cà Điệp.


H. - Phần phụ 5: --
CÁC THẦN BÀ-LA-MÔN GIÁO

* Phật Tổ Ma Ha Bà La Phật và Bà La Tam Thế Phật (bốn vị Phật nay đều là hư cấu; sau đây là tên những vị Tiên có liên quan đến Phật Thích Ca)

Tần Bà Sa, A Lâm La /, uất Đà, Đề Bà Đạt Đa
* Thần lớn chủ yếu: - Đại Phạm Thiên, Thấp Bà Lâu Đà La, Tuyết Sơn Nữ Thần Đỗ Nhĩ Ca, Quần Chủ
Bà La Bát Bộ (Bà La Môn Thiên Long Bát Bộ) - (Bà La Bát Bộ là hư cấu, dưới đây là chư Thần làm Ấn Độ tạo ra)
Thuỷ Thần Phát Lâu Na | Thổ Thần Đà Thấp Đa | Phong Thần Phát Do | Nhật Thần Tô Lý Đà | Thiên Đế Nhân Đà La
Đạo Thần Phổ Thiện | Bảo Hộ Thần Tì Thấp Nô | A Tu La: Đắc Đề Đà và Đàn Bà Nà | Bà Đỗ Hoả Thần.
* Người viết: - Ngoan Tiên Lão Tàu - trợ lý cấp hai của web.

* Nhược Thủy dịch

* Nguồn: -- http://www.tianyabook.com/zongjiao/cndaojiao3/001.htm
(Hết Tập I - Xin xem tiếp Tập II)



Do sự sơ xuất của tôi, trong tập TTTH 1 nay thiếu mất một bài quan trọng Đó là. Bài Tử Vi Đại Đế, một trong Tứ Ngự, nay xin bổ sung thêm cho đủ. Chân thành xin lỗi quí vị.
Nhược Thủy.



Trung Thiên Bắc Cực Tử Vi Đại Đế.


* Còn gọi là "Bắc Cực Tử Vi Đại Đế", "Bắc Cực Đại Đế", "Bắc Cực Tinh Quân", là một vị trong "Tứ Ngự".
* Tín ngưỡng về Bắc Cực Đại Đế là do sự sùng bái trời trăng sao của người Trung Quốc từ thời cổ đại Bắc Cực tức là "Sao bắc cực" nói gọn, còn gọi là "sao bắc", nằm trong khu vực. Thiên Từ trong Tử Vi Viên (danh từ của khoa thiên văn).
* Trong quyển thứ tư của "Thượng Thanh Linh Bảo Đại Pháp" có nói: --
"Bắc Cực Đại Đế là vị sao chủ (đế) của Tử Vi Viên".
Thiên Văn Chí nói: - "Nam Cực thì nhập địa ở ba mươi sáu độ, còn Bắc Cực thì xuất địa ở ba mươi sáu độ, có hình dạng như chiếc ghế đai, phân nửa thì chỉ đất, phân nửa chỉ trời. Các sao khác thì xoay chuyển, chỉ có hai sao Nam Bắc Cực thì đứng yên trong bầu trời chuyển động Đời nhìn. sao Bắc Cực thì cho là hướng Bắc, kỳ thực là sao ấy ở giữa trời, làm chủ của muôn vì sao khác, là vua thứ hai của tam giới sau Thượng Đế, ứng vào nguyên khí của thanh thượng, nên gọi là Bắc Cực Tử Vi Đại Đế ".


* Hậu Hán Thư quyển bốn mươi tám viết: - "Trời có cung Tử Vi, là nơi cư trú của Thượng Đế" Vậy Tử. Vi Viên tức là Tử Vi Cung, về sau Huỳnh Đế cũng cư trú ở nơi này, gọi là Tử Cấm Thành.* Đạo Giáo cho rằng sao Bắc Cực mãi mãi không di chuyển, nằm ở chính giữa của trời, vị trí rất cao, cực kỳ tôn quí, gọi là "chủ của các sao" hay "gốc của các thần thánh". Do đó , thế gian hết sức tôn sùng Bắc Cực.
* Trọng "Tấn Thư-Thiên Văn Chí" nói: - "Bắc Cực có năm sao, Câu Trần có sáu sao, đều ở tại Tử Vi Cung Bắc Cực. Hay Bắc Thần là tôn quí hơn hết, tuy thể hình nhỏ, nhưng là "mẫu chốt" của trời "Lại nói. thêm" là tòa của vua "" vua thường hay ở đây ".
* Khổng Dĩnh Đạt đời Đường viết trong "Thư Đạo-Thuyết Mệnh": - "Bắc Đầu xoay quanh Bắc Cực, giống như các quan ở xung quanh hộ vệ cho vua, sao năm nay coi sóc các tinh tú khác là các quận huyện cai quản đất đai của vua ban Nhị thập. bát tú chia ra bốn phương, là đất của thiên tử cấp cho chư hầu. Thiên tượng ấy biểu trưng cho tự tôn ti trát chính pháp ở đời vậy "
* Về lai lịch của Bắc Cực Tử Vi Đại Đế, trong "Thái Thượng Thuyết Huyền Thiên Đại Thánh Chân Vũ Bản Vân Thần Chú Kinh Diệu dẫn theo" "Đầu Bản Sanh Bắc Kinh" nói rằng: --
"Xưa còn ở sơ kiếp Long Hán, Tử Quảng Phú Nhân ở nước Chu Thượng Ngự vào ngày xuân, đi du ngoạn đến bên suối Ôn Ngọc Tuyền, định coi y phục để tắm, chợt thấy có chín đóa sen nở ra, hóa sanh chín người con trai Phú nhân. đem về nuôi nấng, với tâm nguyện Sau này họ sẽ thành những bậc thánh triết, phụ giúp cho trời đất Những vị. nay đã đến trang các quán để tu hành, trải qua thời gian quả công viên mãn, thăng thiên bạch nhật đến cung điện Tam Thanh mà thọ lãnh chức tuoc Người con trưởng được phong làm Thiên Hoàng Đại Đế, cai quản về. kỷ cương của Tử Vi Thượng Cung. Người con thứ hai, được phong làm Tử Vi Đại đế, coi sóc việc bố chính ở minh đường nơi Bắc Cực.
* Trọng Đạo Kinh, nói về chức năng của Tử Vi Đại Đế như sau: --
"Chấp chưởng thiên kinh địa vĩ (chiều đứng của trời và chiều ngang của đất), cai quản các thần trong tam giới và các thần sông núi" Đây là. Hiện tượng tôn vương của các hiện tượng tự nhiên. "Ngài có thể kêu gọi mưa gió, sai sử các Quỉ thần của Lôi Bộ ".
* Theo "Cửu Thiên Lôi ứng Nguyên Thanh Hoá Tích Thiên Tôn Hứa Ngọc Bảo Kinh Tập Chú" quyển thượng nói: - "Bắc Cực Tử Vi Đại Đế chưởng quản Ngũ Lôi thần" Do đó., Tử Vi Đại Đế được các Triều đại vua chúa thờ Phùng, đặc biệt đề cao thời nhà Tống, thường thờ chung với Ngọc Hoàng Đại Đế.
Hiện nay ở các vùng Tứ Xuyên, Đại Túc ... vẫn còn lại những tượng thờ Tử Vi Đại Đế được tạo từ thời Tống.
* Trọng "Minh Sử • Lễ Chí Tứ" viết: - "Thời Minh, Triều đình ban chiếu chỉ xây dựng Điện Tử Vi và tạo tượng để cúng tế" Tượng thờ. Có dáng vẻ của một vị đế vương, hai bên có những võ tướng oai phong lâm vệ liệt hộ, thật là thân phận mười phần cao quí.
* Ngày Đản sinh của Tử Vi Đại Đế là ngày mười tám tháng tư âm lịch.
(Có sách nói là ngày hai mươi bảy tháng mười)

* Nhược Thủy dịch

(Từ: -- http://taoismdata.org/).



MỤC LỤC
THẦN THÁNH TRUNG HOA
TẬP ISTT ĐỀ TÀI
01 Giới thiệu tổng quát về Thánh Thần Trung Hòa
02 Giới thiệu tóm tắt Thánh Thần Trung Hòa, theo lịch sử
03 Nguyên Thủy Thiên Tôn
04 Thái Thượng Lão Quân
05 Linh Bửu Thiên Tôn (LBTT)
06 Thái Thượng LBTT thuyết Diên Thọ Kinh
07 Ngọc Hoàng Đại Đế (Bài 1)
08 Ngọc Hoàng Đại Đế (Bài 2)
09 Vương Mẫu Nương Nương (9A-Bài 1 + 9B-Bài 2)
10 Huyền Thiên Thượng Đế
11 Chân Vũ Đại Đế
12 Tiên thiên thần tôn-Tứ Ngự
13 Câu Trần Đại Đế
14 Thổ Hoàng Địa Kỳ (Hậu Thổ)
15 Cửu Thiên Huyền Nữ
16 Nữ Oa Nương Nương
17 Phụ lục: - Tam Hoàng Ngũ Đế -
18 Nguyên Thần Điện (Điện thờ các tinh tú)
19 Chức năng của Nhị Thập Bát Tú
20 Trung Thiên Bắc Cực Tử Vi Đại Đế
21 Bắc Đầu Thất Tinh Nguyên Quân
22 Thần chú Bắc Đầu Tiêu Tai
23 Kinh Đại Thánh Bắc Đầu Thất Nguyên Quân
24 Bắc Đầu Chân Kinh
25 Nam Cực Trường Sinh Đại Đế + Nam Cực Tiên Ông
26 Thái Ất Cứu Khổ Thiên Tôn-Phụ lục
27 Vương Công Đông (Mộc Công)
28 Tiên thiên thần tôn LỢI TỔ
29 Thái Dương Tinh Quân + Kinh Thái Dương-Thái Âm
30 Thái Âm Nương Nương (Nguyệt Nương)
31 Đông Nhạc Đại Đế
32 Hỏa Đức Tinh Quân
33 Chú Sanh Nương Nương (Bà Chúa Thái Sanh)
34 Tâm Tình:-Phước-Lộc-Thọ
35 Bích Hà Nguyên Quân
36 Quan Thánh Đế Quân
37 PL: - Kinh Minh Thánh + Giác Thế Chân Kinh
38 Văn Xương Đế Quân
39 Thiên Hậu Thánh Mẫu
40 Thập Điện Diêm Vương (Mười Điện-Mười Vua DV)
41 Bảo Sanh Đại Đế
42 Tam Quan, Đại Đế
43 Viêm Đế Thần Nông
44 Tam Thái Tử Na Tra
45 Nguyệt Hạ Lão Nhân (Nguyệt lão)
46 Phù Hữu Đế Quân Lữ Đồng Tân
47 Bát Tiên (tổng quát)
48 Tiểu sử Bát Tiên (theo truyện Đông du Bát Tiên)
49 Khôi Tĩnh
50 Thái Tuệ
51 PL: - Tên của Thái Thứ sáu 60 năm theo trường phái
52 Cách cúng một vị Thái Thứ năm hàng (bài vị mẫu + thần chú)
53 Thành Hoàng
54 Phước Đức Chính Thần (Thổ Địa)
55 Võ Văn Tài Thần (Thần Tài)
56 Định Phước Táo Quân (Ông Táo)
57 Môn Thần
58 Thất Nương MU (Má)
59 Sàng MU (Má)
60 Lôi Bộ Ngũ Nguyên Soài Rạp
61 Lôi Công-Điện Mẫu
62 Vũ Sư (Thần làm mưa)
63 Phong Bá (Thần làm gió)
64 Long Vương
65 Thờ Bạch Hổ
66 Tổ chức Thiên Đình (theo Wikipedia tiếng Việt)
67 Nhị thập bát tú (theo Thiên Văn Học)
68 Pháp Chủ Công
69 Tế Công Hoạt Phật-Phụ lục: - Tế Công Thánh Huấn
70 Hòa Hợp Nhị Tiên: - Hàn Sơn, Thập Đắc
71 Khai Chương Thánh Vương
72 Tam Sơn Quốc Vương
73 Thanh Thủy Tổ Sư (bốn bài)
74 Thương hiết Tổ Sư
75 Thạch Cảm Đương (Bua đá trấn yếm)
76 Đẳng cấp của Thánh Thần



Vài lời ngỏ của dienbatn : Qua 76 mục tập 1 cuốn THẦN THÁNH TRUNG HOA do bác Nhược Thủy dịch ta thấy hệ thống Thần Thánh của Trung Hoa vô cùng phức tạp và có ảnh hưởng rất lớn đến tín ngưỡng thờ cúng của người Việt nam. Hiện nay, rất nhiều người đi lễ tại các Đình, Chùa, Miếu, Đường ... không hề biết đến sự tích các vị Thần Thánh mà mình đang vái lạy như thế nào ? Tác phẩm này của bác Nhược Thủy đem lại cho chúng ta một hiểu biết cơ bản khi tiếp xúc với hệ thống Thần Thánh của Trung Hoa trong các dịp du ngoạn của mình. Xin trân trọng cảm ơn tâm huyết của bác Nhược Thủy.
dienbatn cũng có ý định trong mục MẬT TÔNG - ĐẠO PHÁP - HUYỀN MÔN này sẽ sưu tầm và biên soạn lần lượt các sự tích về Thần , Thánh của Ấn Độ, Thái Lan, Căm Pu Chia.... Các dân tộc ít người của Việt nam..để làm cơ sở dữ liệu cho các bạn nghi nghiên cứu. Thân ái. dienbatn.



THẦN THÁNH TRUNG HOA
( TẬP 2 )
******
*Source :- http://www.tianyabook.com/zongjiao.htm
http://gb.taoism.org.hk/ MỤC LỤC

01.- Ngũ Lão Quân

02.- Ngũ Tinh Thất Diệu Tinh Quân
03.- Li (Lê) Sơn Lão Mẫu
04.- Lâm Thủy Phu Nhân
05.- Lục Đinh -- Lục Giáp
06.- Bành Tổ
07.- Huỳnh Đế
08.- Xích Tùng Tử
09.- Ninh Phong Tử
10.- Quảng Thành Tử
11.- Dung Thành Công (Tử)
12.- Quỷ Cốc Tiên Sinh
13.- An Kỳ Sinh
14.- Âm Trường Sinh
15.- Hà Thượng Công
16.- Tứ đại Thiên Sư
17.- Tam Mao Chân Quân
18.- Ma Cô (Nữ Thọ Tinh)
19.- Vương Linh Quan
20.- Vương Kiều
21.- Thanh Hư Chân Nhân
22.- Thanh Linh Chân Nhân
23.- Thái Cực Chân Nhân
24.- Thái Hòa Chân Nhân
25.- Cát Tiên Ông
26.- Hoài Nam Bát Công
27.- Vương Thường Nguyệt
28.- Ngưng Dương Chân Nhân
29.- Trần Đoàn Lão Tổ
30.- Điền Đô Nguyên Soái
31.- Tạ Tiên Tổ
32.- Thanh Hư Huyền Diệu—Trương Chân Quân
33.- Hồng Ân Linh Tế Chân Quân
34.- Ngũ Tổ Thất Chân
35.- Ngộ Chân-Tử Dương Chân Nhân
36.-Hạnh Lâm-Thúy Huyền Chân Nhân
37.-Đông Hoa Đế Quân Vương Huyền Phủ
38.- Chính Dương Đế Quân Chung Ly Quyền
39.- Thuần Hựu Đế Quân Lưu Hải Thiềm
40.- Thuần Hữu Đế Quân Vương Trùng Dương
41.- Trường Xuân Chân Nhân Khưu Xử Cơ
42.- Vô Vi Chân Nhân Mã Ngọc
43.- Uẩn Đức Chân Nhân Đàm Xử Đoan
44.- Trường Sinh Chân Nhân—Lưu Xử Huyền
45.- Ngọc Dương Chân Nhân—Vương Xử Nhất
46.- Quảng Ninh Chân Nhân Hách Đại Thông
47.-Thanh Tịnh Tản Nhân Tôn Bất Nhị
48.- Vương Linh Thiên Quân
49.- Dược Vương
50.- Ôn Thần
51.- Tàm Thần
52.- Xí Thần