Thứ Ba, 22 tháng 12, 2020

VẠN VẬT NGŨ HÀNH




NGŨ HÀNH KINH


I- KHAI KINH


Ngũ hành vạn vật đổi thay
Phong ba dời đổi chuyển ngay thế phàm
Nay cuộc thế nhân gian biến chuyển
Luật ngũ hành dời đổi phong ba
Kim, Mộc, Thủy can qua chuyển biến
Thổ, Hỏa, thời dời đổi địa danh.



Sự thật sắp tới cho thế nhân.
- Kim tượng trưng cho vũ khí (sắt thép)
- Mộc tượng trưng cho nhân phàm (con nmgười, cây cỏ)
- Thủy tượng trưng cho đại dương to lớn (bốn bể, dòng điện âm)
- Thổ tượng trưng cho đất địa (quả địa cầu)
- Hỏa tượng trưng cho núi lửa (Sơn hỏa, dòng điện dương)
Đến giai đoạn hủy diệt (hoại không) ngũ hành trần thế không còn tương sinh, tương hỏa, tương giao mà chỉ có tương khắc. Ngũ hành trần thế thời mạt hạ nầy không còn ứng dụng như thời xa xưa, không thể tiên đoán vận mệnh con người trong khoa tử vi, không còn áp dụng vào Đông y để định bệnh, chửa bệnh cho con người.
Thời nay trong cảnh nhân gian
Bảy chìm ba nổi lầm than một giờ!

· Tâm con người thể hiện bằng hành động, lời nói, việc làm thể hiện trong sự sinh hoạt hằng ngày trong thế nhân. 

· Đạo: không có cái tâm. Đạo vô sắc, vô tướng, vô tâm (đạo chỉ về sự giải thoát, không có tam tâm tứ tướng).

Ngũ hành kinh là kinh nói về sự sinh hoạt của địa cầu từ lúc hóa tạo cõi Địa hư đến thời hủy diệt.

Ngũ hành là gì? Tại sao phải có và dùng nó? Định luật ngũ hành từ đâu mà có?

- Ngũ: là năm điều mà Thiên Địa kết nối mới có được định luật ngũ hành.

Thiên ở đây chỉ về khoảng không gian vô tận.

Địa ở đây chỉ về Địa cầu có sự sống. Có nghĩa là một hành tinh trong không gian vũ trụ. Khoảng không gian mênh mong vô tận, ta không đo được, không biết được sự khởi điểm và tận cùng. Ở đây chúng ta biết được thời gian vô lượng (không lường được), từ thời gian nầy chúng ta mới thấy ngộ được cực dương và cực âm vũ trụ.

- Cực dương chỉ về Thiên, ở cực dương nầy phát sinh ra không khí, mà không khí là sự vận chuyển của ngũ hành làm ra: mưa, gió, bão, sấm sét, trốt...

- Cực âm chỉ về Địa, ở trên Địa bị cuốn hút từ sự vận hành của Thiên mới tạo thành: sông, suối, núi non, biển cả. Từ sự vận chuyển của ngũ hành mới phát sinh ra vạn vật.

- Hành là sự vận chuyển của không gian Trời Đất. Trong sự vận chuyển của không gian Đất Trời nầy làm ra: mây mưa, gió bão, sấm sét chỉ về Thiên, chỉ về Địa là sông suối, núi non, nước, lửa...

Trong sự vận hành lưu chuyển giữa Thiên Địa được kết nối bằng cực dương điển và cực âm điển để tạo ra vạn vật, tức là Đại điển quang cực dương và đại điển quang cực âm.


Giứa cực dương, cực âm kết nối lại mới phát sinh ra động vật muôn loài mà hôm nay chúng ta gọi là ngũ hành.

Vậy ngũ hành là gì?


Là sự linh hoạt vận chuyển linh động của thời gian tạo thành. Núi thì có núi cao, núi thấp, có đồi, có thác, có dốc, có nơi tạo thành suối, sông thành đại dương to lớn mà chúng Ta gọi là THỦY.

Theo thời gian những nơi nào hút ít cực dương, nên ẩm thấp thì sẽ sinh ra cây cỏ... nên chúng ta gọi là MỘC. Những nơi nào hút cực dương mạnh thì sẽ sinh ra núi lửa tức là HỎA.

Những nơi nào thiếu sự cuốn hút của cực dương thì là bải đất hoang, chúng ta gọi là THỔ. Có những nơi cân bằng sự cuốn hút giữa âm dương thì có sỏi đá gọi là KIM.

- Những vùng đất có sỏi đá, có ánh sáng chúng ta gọi là THỔ khắc KIM.


- Ở những vùng có sỏi đá, có cây cỏ thì chúng ta gọi là KIM khắc MỘC.

- Những vùng có hơi nóng thì không có sông suối, những nơi có HỎA thì cây cối không thể sinh tồn được nên chúng ta gọi là HỎA khắc MỘC.

- Cho nên những nơi có sỏi đá, có ánh sáng lòng thủy thì chúng ta gọi là THỦY sinh KIM.

- Những vùng có nước thì cây xinh tốt, chúng ta gọi là THỦY sinh MỘC.
Đó là sự tạo hóa ngũ hành.

Sự chứng đắc đầu tiên của các Đại điển dương đều phải mang theo ảnh hưởng của dương và âm ngũ hành, cho nên các ngài mới lấy âm dương ngũ hành đem vào cơ thể con người trong kinh mạch của chúng trần.

- Khí là dự hít thở dung hòa âm dương con người

- Huyết là sự trôi chảy luân lưu thông suốt trong cơ thể con người như những dòng suối nên chúng ta gọi là THỦY

- Những kinh gân nhỏ bé trong cơ thể con người giống như những dòng điện sấm sét nên chúng ta gọi là DƯƠNG.
Sự cấu tạo nên cơ thể con người đi theo định luật ngũ hành mà kết thành.

- Da giống như là ĐẤT (THỔ), bị rã đi khi không còn thở, tức không còn sự sống,

- Tim như ngọn núi lửa gọi là HỎA, khi ngưng sẽ chết, mà núi lửa phun trào thì tàn phá một nơi,

- Xương giống như cây mọc trong đất. Đất nuôi sống che chở cho cây.

- Phổi giống như hành KIM, phổi tốt mạnh khỏe da dẻ hồng hào, huyết mạch lưu thông.

Đó là ngũ hành nội thể. Con người liên đới với Trời Đất âm dương và phải thay đổi theo âm dương ngũ hành.

Luật ngũ hành ảnh hưởng đến sự sống của con người và vạn vật thì phải theo chu kỳ sinh, lão, bệnh, tử.

Sau khi chứng đắc, các chơn vị trong hàng thập bát chơn dương trụ điển công phu tu luyện chiếc hơn điển quang, hoặc dùng huyền công hóa pháp thành những tiểu điển. Các tiểu điển nầy tiếp tục công phu biến thành nhân thiên.

Những nhân thiên nầy tiếp tục tu luyện chứng đắc thành những Đại quang điển, lúc bấy giờ các chơn vị Thập bát chơn dương hợp lại thành lập cõi Thiên hư, tức là Cỏi Trời theo danh từ phàm thế.




II- HÓA TẠO CÕI ĐỊA HƯ

Khai công hóa đạo chơn như

Thiên khai chiếc hóa lập từ nhơn Thiên
Tiểu quang để lại trần duyên
Cơ trời xoay chuyển hóa miền Địa hư.


1*- Thời tiền cổ lúc Địa giới phát sanh nhơn phàm
Luật khai hóa ra nhơn phàm ở cõi Địa giới đầu tiên thì ở cõi Thiên mở cửa luân hồi, tức là để tạo ra nhơn phàm đầu tiên. Sự khai hóa ra nhơn phàm đầu tiên do các vị từ khối dương bị đọa trở về. Giai đoạn đầu tiên phát sinh nhơn phàm có dương chẳng có âm, tức có nam không có nữ.

1/- Giai đoạn đầu tiên:

Đầu tiên nhơn phàm chỉ có những nguồn vui. Những vị nầy vào thời tiền cổ bị đọa xuống Địa giới đầu tiên làm chúng sanh. Họ chưa có những cái gọi là tri giác như hôm nay, họ chưa biết điều gì, không cần ăn, không cần uống, không có sự sống và chết, không có nơi nào để trú thân. Trong cõi Địa giới nầy mênh mông, họ đi trong sương, họ nằm trong cỏ, họ ở trong hang. Họ chẳng biết giàu sang danh lợi là gì. Lúc bấy giờ cõi địa giới mênh mông, chúng sanh chỉ chiếm ngự một phần cõi địa giới mà thôi, họ có bao nhiêu thì còn bấy nhiêu, chẳng sinh chẳng diệt.


Trải qua như vậy không biết bao nhiêu thế kỷ, nếu nói về ngươn thì họ sống như vậy có hơn 7 ngàn ngươn tại cõi địa giới. Theo thời gian, cõi địa giới từ từ phát sinh ra ngũ hành, tức là đã thọ dương phát sinh ra ngũ hành, tức là đã thọ khối dương phát sinh ra vạn vật, trong lúc đó tại cõi Thiên đã có cửa hồi sinh.

Cửa hồi sinh nầy trải qua bao nhiêu thế kỷ luân hồi của những quang điển dương. Sau thời gian chuyển kiếp ấy, những quang điển thọ ký âm nhiều, tức là các gốc ở trên cao mà bao nhiêu kiếp đã bị đọa cửa hồi sanh xuống thấp hơn, không thăng tiến. Như vậy quang điển của họ thọ khí âm quá nhiều. Những quang điển nầy phải bị đọa trầm luân vào cõi địa giới.

Từ cửa hồi sanh nầy trầm luân xuống cõi địa giới, quang điển bị đọa sẽ hóa thành những giống nữ mà xuống thế. Trải qua không biết bao nhiêu thế kỷ ở cõi địa giới từ khi có giống nam mới có giống nữ.
Sau khi phát sanh ra giống nữ tại thế phàm thì họ cũng như giống nam trước kia, lúc bấy giờ giống nam nhơn bắt đầu có chút tri giác, nghĩa là qua thời gian thọ luật ngũ hành, họ biết có sự sống. Chưa phân tách được âm dương, tức là hai giống nam và nữ sống hòa với nhau như cây cỏ.

Trải qua bao nhiêu thế kỷ, giống nữ thọ luật ngũ hành bắt đầu biết sự sống. Lúc bấy giờ giống nhơn nam đã biết phân tách được âm dương, từ đó họ bắt đầu tách rời giống nữ, tìm nơi chốn ẩn thân. Còn giống nữ vẫn tự nhiên trong cõi Địa giới như chẳng biết gì.
Đây là giai đoạn đầu có giống người tại Địa giới. Bây giờ cõi Địa giới đã có giống nhơn phàm đầu tiên xuất phát.

2/- Giai đoạn kế tiếp

Định luật tạo hóa gầy dựng truyền giống những giống nhơn phàm cho đến ngày hôm nay, những giống nhơn xuất phát đầu tiên tại cõi địa nầy nam lẫn nữ sau khi thọ ký ngũ hành âm dương vào trong tứ thể của họ rồi, thì bắt đầu có những giác quan, họ biết được sự sống và sự chết, sự ăn uống và bắt đầu trong tứ thể họ phát xuất lục căn, lục trần, lục giác, ngũ uẩn.

Kể từ lúc họ có được ngũ quan giống nữ, họ cũng tách rời tìm nơi trú ẩn. 

Kẻ thì lên non, người thì xuống biển, kẻ vô rừng, kẻ ở lại đồng bằng; phần nam cũng vậy. Thường thì phần nam tìm nơi non cao ẩn dật nhiều hơn. Từ lúc đó họ chưa nhiễm trược về thế trần, họ chỉ phát tâm lục trần, cho nên sau bao nhiêu thế kỷ họ chưa biết mùi trần thế và chưa nhiễm gì về cảnh vui khổ, đau buồn. Lúc bấy giờ họ chỉ biết ẩn dật tu thân, họ luyện tập tứ thể của họ, họ công phu tỉnh tọa, bởi vì ngoài việc tỉnh tọa ra họ chẳng biết gì trong chốn trần gian nầy. Họ ra công sức tu luyện, họ hớp những thanh khí. kẻ thì ngồi trong màn sương, người thì ngồi dưới ánh ngọc, kẻ thì ngước mặt thọ khí dương, người thì nhìn xuống thủy thọ khí âm. Kẻ thì điềm nhiên tỉnh tọa rút cả âm dương, nghĩa là họ ra sức công phu mà chẳng biết làm như vậy để được gì, bởi vỉ thời khắc trống trải, còn cõi địa giới thì mênh mông.

Trải qua thời gian công phu như vậy, họ đắc thành trong tự nhiên. Giống nam kẻ thì thành Thần nhơn, kẻ thành Thánh nhơn, người thì thành Tiên nhơn. Còn giống nữ thành chúa đảo, vị thì thành Bà, vị thành Thần nữ, tất cả đều chứng đắc trong luật quả âm dương.

Những vị chứng đắc tại cõi âm nầy đã bắt đầu biết về luật ngũ hành âm dương phát sinh nhân loại, từ đó họ bắt đầu kết ước nam lẩn nữ. Trong thời đó họ truyền giống bằng cách giữa một nam và nữ chung sức công phu. Họ tinh tọa công phu đâu lưng dựa kề để quang điển giữa âm dương kết hợp nhau. Trong lúc giữa âm dương điển quang kết hợp nhau, thì tự phát luồng ánh sáng giữa đất trời, họ gắn sức công phu cùng nhau phát điển. Khi quang điển của họ đã vững chắc, thì bắt đầu từ trong khối âm dương nầy hóa cốt hài nhi. Dương mạnh thì hóa nam, âm mạnh thì hóa nữ, nghĩa là người nào trội hơn về công phu thì kẻ đó gây giống cho mình.
Trải qua như vậy trong một thời gian thì những cốt hài nhi nầy thọ luật âm dương ngũ hành lớn dần. Lúc bấy giờ các vị nam nữ nầy bắt đầu tách rời, tự tìm mỗi người một nơi một hướng. Cốt nam về nam, cốt nữ về nữ. Kể từ đó những hài cốt phát sinh nầy khi lớn lên hiểu biết về sự sống chết, có đầy đủ tri giác, lục căn, lục trần. Những vị nầy mở đạo khai hóa nhơn sanh.

Tiên đạo thì họ dạy những cốt hài nhi nầy về những đạo đức, sinh hoạt tại cõi địa giới.
Thánh đạo dạy điều lễ nghĩa.
Thần đạo dạy điều trung nghĩa.
Nhân đạo dạy họ cách cư xử ăn ở với nhau, phải có đầy đủ về nhơn, nghĩa lễ, trí, tín.

- Tiên dạy về trí

- Thánh dạy về lễ
- Thần dạy về nghĩa
- Nhơn dạy về tín

Tức là đã có đầy đủ nhơn, nghĩa, lễ, trí, tín, ngay cả giống nữ cũng vậy. Họ truyền cho hài cốt của họ những đạo hạnh. Họ dạy cho giống nữ biết đầy đủ công dung ngôn hạnh. Sau khi họ tạo giống nhơn chúng sanh rồi, họ trở thành những bậc Thần nhân, Thánh nhân tại thế. Từ đó những công đức của họ đã lập được ở thế trần, quang điển của họ bắt đầu sáng trở lại, rồi tự cái thân tứ đại của họ tan rã trở về ngũ nhành, quang điển của họ được cửa hồi sanh chiếu theo luật Thiên rút trở về. Từ đó họ được trở về cửa hồi sanh và chiếu theo công đức chứng quả tại thế phàm mà xếp vào các cửa để trở lên cõi dương.

Lúc đó quang điển của họ từ các cửa bay vượt qua khỏi cửa hồi sinh (cửa hồi sinh nầy ở giữa trong cõi âm và dương).

Cho nên khi qua cửa hồi sanh, họ hoàn toàn ở trong cõi dương, từ đó mới được xếp hạng chiếu theo công đức thế trần: Thần, Thánh, Tiên, nhưng trong cấp nầy họ được phân ra từ giống nhơn phàm đắc đạo. Từ đó tiếp tục tu luyện và chứng đắc tại cõi Thiên.

Đây là giai đoạn đầu tiên phát sinh ra giống nhơn phàm. Giống nhơn phàm nầy trụ tại cõi địa giới, tức là giống nhơn phàm bắt đầu ở địa giới không còn được trở về cõi Thiên. Đây là giai đoạn thật sự có chúng sanh và định luật tạo hóa có nhân loại truyền giống từ cổ chí kim.


3/- Cảnh thế trần


Trong cõi địa giới lúc bấy giờ cảnh trần thế bắt đầu có sự vui buồn, khổ và sự sống chết. Giống nhơn phàm lúc bấy giờ đã biết cơ tạo hóa, tự tìm ra kế mưu sinh. Giai đoạn nầy giống nhơn phàm chưa có trí tuệ, mà chỉ có tâm linh. Họ chỉ biết tạo dựng cuộc sống bằng những vật chất để che thân, lúc bấy giờ họ chỉ biết ở trong hang hóc, họ tìm vào những hang đá để làm chỗ trú thân.

Trải qua nhiều thế kỷ, họ đã biết theo luật ngũ hành, âm dương, giữa nam và nữ liên kết cấu tạo sự sống do sự sắp xếp của bộ máy tạo hóa. Từ đó họ truyền giống nhơn từ đời nầy sang đời khác.

Trải qua nhiều thời gian, giai đoạn dần dần những giống nhơn nối tiếp bắt đầu có những linh hoạt, tự mình dùng sức mình tạo ra vật chất. Kể từ giống nhơn có sự linh hoạt, thì lúc bấy giờ mới có sự tuần hoàn luân chuyển: sinh, lão, bệnh, tử.

Khi đã có luân chuyển sinh, lão, bệnh, tử rồi thì lúc bấy giờ thế trần có sự luân hồi, quả báo, sống chết, có sự phân chia cõi địa giới và cõi u minh, tức là chúng sanh bắt đầu có chiếc bóng mà ta gọi là linh hồn. Bởi vì theo định luật thời gian thọ âm dương, thọ thanh thiên khí, cho nên luật ngũ hành giúp cho nhơn sanh chiếc bóng gọi là linh hồn. Kể từ giống nhơn do quang điển tạo hình, họ truyền lại giống nhơn nầy hôm nay do khí âm dương tạo thành giống nhơn nầy, họ đã trưởng thành phát ra chiếc bóng mà cảnh giới gọi là cõi Địa Thiên, họ trụ quang tại đây. Đây là chiếc bóng linh hồn thuộc về vong âm mà phát xuất từ cõi âm.


2*- Những linh hồn từ cõi dương trở về thành giống nhân


Kể từ khi nhân loại có định luật: sinh, lão, bệnh, tử thì lúc bấy giờ giữa Thiên và Địa có sự liên hệ âm dương. Tại cõi Thiên có định luật giao cảm mở cửa hồi sanh để những phần linh điển của khối dương xuống phàm lập công đức. Sau khi có định luật sinh, lão, bệnh, tử tại cõi trần thì tại cõi Thiên có định luật Thần, Thánh, Tiên bị đọa phải qua cửa hồi sinh mà xuống phàm. Một vị từ trên Thiên bị đọa xuống phàm thế chỉ đi bằng một tiểu linh quang nếu trường hợp Tiên, Thánh, Thần bị đọa nầy khi trở xuống phàm vào cửa luân hồi để làm người nhân thế, các vị nầy không còn quang điển dương trụ tại cõi Thiên. Khi các ngài xuống phàm thì quang điển các Ngài hóa thành chiếc bóng mà bay xuống phàm thế để chờ ngày nhập thể.

Trường hợp các phân điển, hoặc hóa công điển bị đọa, thì chính cái gốc của mình còn niếu giữ lại phần quang điển, khi xuống phàm thế vẫn còn dương điển tại khối dương (cõi Thiên). Lúc bấy giờ nơi khối âm có những linh quang trải qua nhiều thế kỷ thọ ký âm dương cũng hóa thành chiếc bóng rồi cũng phải vào cửa luân hồi nhờ thân tứ đại để nhập thể. Thân tứ đại của phàm nhân được tạo hóa bằng sự thọ âm dương ngũ hành. Thịt da do địa hóa sanh, cốt xương do sắt hóa thành, ngũ quan do sông núi hóa thành. Các ngũ hành âm dương tạo hài cốt tứ đại nầy nếu kẻ nào không ở trong định luật đó thì không bao giờ có đặng hài cốt tứ đại.

Tại cõi phàm trần bắt đầu có sự âm dương lẩn lộn, theo định luật tạo hóa, thì lúc bấy giờ chúng sanh nhân loại đã có trí tuệ sang suốt, cảnh trần thế đã có màu sắc, thì bắt đầu khối trược phát sanh.
Khối trược: là cõi hữu hình uế nhiễm, đầy đủ tất cả lục tà.
Đây là giai đoạn đầu tiên phát khởi chúng sanh đi sâu vào khối trược nầy.

Giai đoạn đầu tiên từ cõi Thiên phải chiếc những phần quang điển xuống phàm để độ nhân sanh. Họ đứng ngoài chúng phàm tuy rằng vẫn mang thân tứ đại. Giai đoạn độ pháp đầu tiên của họ là dạy cho nhân sanh những điều nhơn, nghĩa, lễ, trí, tín. Vào thời tiền cổ, tại cõi phàm nầy chúng sanh sống trong sự an vui no ấm, quảng đời họ chưa biết khổ là gì, họ chỉ sống theo định luật đúng 100 niên xác trần thế. Một đời người của nhân loại phải là 100 niên theo tiền cổ, có vị đến 200 niên kỷ cũng không chừng. Thời nầy việc việc sinh, lão, bệnh, tử đúng theo qui luật sinh tử, chớ không phải thác oan, thác ức. Cho nên vào đời xưa họ sống rất đạo đức, mãi đến thời độ pháp của Thích Ca, tức là vào ngươn thứ 17 của hạ ngươn (như vậy loài người đã trải qua 17x21000 năm=357000 ngàn năm). Một ngươn gồm có: thượng trung hạ, mỗi thời thượng trung hạ là 7000 năm.

Đến thời Thích ca độ pháp là đến giai đoạn bắt đầu loài người mất nguồn gốc, nghĩa là thiếu sự nhơn, nghĩa, lễ, trí, tín.

Trước thời độ pháp của Thích Ca là đầu ngươn thứ 17 do Di Lặc đương lai độ pháp, trung ngươn thứ 17 là do Chuẩn Đề độ pháp (18 cánh tay là biểu lộ: lục căn, lục trần, lục thức). Hai Ngài nêu trên dùng quang điển để độ pháp, không mang xác phàm, cho đến thời Thích Ca là thời mạc hạ nên phải mang xác phàm để dễ dàng dẫn dắt nhân sinh.

Nói về vận hành, nói về âm dương vũ trụ nầy, tức là lúc phát sinh nhật nguyệt để nuôi sống nhân loại đến thời kỳ Thích Ca độ pháp là ngươn thứ 17 của quả địa cầu phát sinh. Trong vũ trụ các hành tinh âm dương theo thời gian sẽ bị loại, bị hủy diệt, rồi mới phát sinh âm dương khác.

1/- Những linh quang từ trên đi xuống.


Khi những linh quang từ cõi Thiên bị đọa xuống phàm thì phải qua cõi trung giới. Ở cõi trung giới có chư Thần canh giữ linh quang trước khi xuống phàm. Phần linh quang bị đọa khi xuống đến cõi trung giới thì mất hẳn linh quang, chỉ còn lại là chiếc bóng mờ, khi xuống cõi phàm trần gọi là linh hồn.

Sau khi linh hồn qua cõi trung giới, qua cửa thế trần thì có các chư vị chư Thần đưa xuống. Các vị nầy là 2 vị Thần vai vác canh giữ. Khi đã nhập vào cửa luân hồi, hai vị Thần vai vác có trách nhiệm phải giữ gìn chiếc bóng cho đến đúng hạn kỳ theo luật tạo hóa âm dương 9 trăng 10 ngày bước ra cửa luân hồi. Khi sắc tướng và hình tướng đã thọ ký ngũ hành âm dương đúng hạn kỳ qua cửa luân hồi, thì lập tức 2 vị Thần vai vác đẩy chiếc bóng kia nhập vào thân tứ đại. Lúc đó 2 vị nầy bắt đầu ghi chép sổ sách khi linh quang nhập thể. Số mệnh của linh quang nầy nằm trong sổ ở tại các cửa hồi sanh (luân hồi) do Ngài Thiên Ân chưởng quản. Một linh quang bị đọa căn số đã được xét xử ghi chép rõ ràng trong sổ bộ khi bước qua cửa hồi sanh.

Thí dụ: Phần linh quang nầy bị đọa xuống phàm phải như thế nào, hoặc xuống phàm lập công đức hay trả nghiệp quả, hoặc hưởng phước đức cứu độ nhân sanh. Đinh số nầy ghi rõ ràng về mệnh cũng như về căn số của linh quang bị đọa.

Trong lúc linh quang nhập thể thân tứ đại, 2 vị nầy có trách nhiệm khá nặng nề, đây cũng là dịp lập công của 2 vị qua cõi địa giới, gồng gánh tất cả những sai trái, tội lỗi, hay phước đức của linh quang nầy tâu lên cửa hồi sanh dâng cho Thiên Tào ghi chép.

Từ khi linh quang bước qua cửa luân hồi nhập thể, 2 vị nầy ghi chép đúng giờ, khắc, đúng định mệnh trao về cho vị chưởng quản của hồi sanh. Vị chưởng quản nầy lật sổ hồi sanh xem xét về xuất xứ của linh quang nầy từ đâu bị đọa xuống phàm. Khi biết rõ nguồn gốc của linh quang, vị chưởng quản cửa hồi sanh trao nguồn cội linh quang cho Ngài Tử vi Đại Đế.

Từ lúc sơ sanh đến năm 18 Ngài bắt đầu bấm quẻ Tử vi. Đây mới là định số rõ ràng chắc chắn ấn định tại thế phàm. Lúc sơ sanh phải theo dõi tiểu hài xem số mệnh tử vi duyên căn kẻ bị đọa đày có hồi sanh trong thời gian sơ sanh đến 18 niên, khoảng 12 niên trở lại Ngài Tử vi xem số định phân mà Ngài Thiên Tào đã ghi rõ tiểu hài nầy cội gốc nào xuống phàm, rồi Ngài mượn tiểu quang đồng gốc với linh quang bị đọa trình qua vị chưởng quản tức là Mẹ đỡ đầu, Mẹ sanh hay Cha sanh. Nếu gốc bị đọa là phần nữ xuống thế phần nam, thì vị chưởng quản cho 12 tiểu quang điển, tức là 12 vị đồng tử cùng một loạt xuống tại cõi Địa Thiên (trung giới) trong sự giao cảm giữ gìn ấu sơ sanh cho đến 12 niên. Nếu nữ biến thành nam thì có 13 vị Thần canh giữ. Thời gian canh giữ là sợ cõi âm cướp đi, hoặc chúng mượn quang điển của chúng mà nhập vào linh quang để trở về cõi Thiên. Khi trẻ sơ sanh đến 12 trăng tức là một niên thì bắt đầu được các linh Thần tức là 12 mụ bà và 13 đức Thầy trao trả cho Mẹ đỡ đầu, mẹ sanh, cha sanh nắm giữ hồn sanh, còn các vị giữ hồn tử.

Đúng 12 niên đứa trẻ trưởng thành, linh quang đã cứng, lúc bấy giờ không còn có sự canh giữ, mà chỉ còn có mẹ sanh hay cha sanh mà thôi.

Đúng 12 niên đứa trẻ trưởng thành, linh quang đã cứng, phần âm trong cõi u minh không còn giành giựt. Có những trường hợp giựt giành của phần âm mà không thể kể hết được. Mục đích của chúng là lợi dụng linh quang ấu nhi còn yếu, chúng có thể cướp thân tứ đại để nhập linh quang chúng vào, ý muốn là tạo cho giống âm của chúng thật nhiều. Từ 12 niên trở lên, lúc linh quang đã trưởng thành, đúng 18 niên mới có đinh số Thiên mệnh. Kể từ 18 niên trở lên 2 vị Thần 2 bên vai vác mới ghi chép tội phước rõ ràng trao về vị chưởng quản hồi sinh để phán định, vì vị nầy có quyền phán xét các linh quang xuống thế. Điều phúc đức trao về cho Ngài Tử vi Đại Đế để ghi vào mệnh số và trao cả tội phước cho vị chưởng quản hồi sinh. Việc phước đức trao về cho Tử vi thì số mệnh thay đổi hằng niên.

Thí dụ: Số nầy đến lúc 20 niên đến 21 niên kỷ bị tai nạn, khi bấm tử vi Ngài thấy phúc đức nhiều hơn, thì tai nạn rủi ro sẽ được chư Thần che chở, cứ một niên như vậy thì mệnh số thay đổi một lần.

Thí dụ: Tuổi nầy niên 30 hay 40 được giàu sang vinh hiển mà không được phúc đức ghi chép cũng hủy số đi thay vào đó sự rủi ro, ... cho nên đa số các vị sư trần thế bấm quẻ sai là như vậy.

Cũng có tuổi vào trăng nầy phải gặp tai nạn, niên nầy phải gặp tai nạn rủi ro, nhưng khi xét vào định số sổ ghi quá nhiều phúc đức, thì sự ấn định ngày tháng năm rủi ro không xẩy đến hay chỉ lướt qua mà thôi.

Kể từ 18 niên trở lên là có định mệnh tử vi, còn việc sao hạn do Ngài Kim Tinh Thái Ất chưởng quản. Khi coi tử vi xong, ngài Tử vi theo sự phúc đức hay tội lỗi đã ghi chép cho Ngài Kim Tinh Thái Ất để chấm sao hạn, tức sao chiếu mệnh (xem coi vị xuống phàm nầy xuất thân là vua, quan hay dân chúng, sang, hèn, rồi bắt đầu bấm quẻ chấm sao chiếu mệnh).

2/- Nghiệp quả những linh quang xuống thế


Có thể xuống phàm vào đường giàu sang, phú quí, người thì vào đường khanh tướng, công hầu, người thì vào đường đạo đức thánh hiền. Thường thì những linh quang bị đọa xuống thế đều có mang nghiệp quả sau những lần chuyển kiếp. kẻ thì xuống trả nợ, người thì xuống để hưởng, hoặc xuống để tạo lập công đức. Xuống thế để lãnh cái nghiệp của mình đã làm. Không hưởng, không trả, không tạo mà đang lúc phải chịu sự đọa đày. Kẻ chịu sự hình phạt đọa đày là kẻ phải chịu sự đau khổ khốn cùng nhất, có thể là kẻ tàn tật khất thực bần hàn lam lũ trong giữa chúng trần. Những kẻ nầy nếu trong kiếp đọa đày không biết hối ngộ, không tự tu dưỡng cho mình, chỉ ần biết tu trong tâm, không biết giành giựt, không tham lam trộm cắp, tránh được điều lục dục, trong bần hàn khốn khổ mà giữ được mình thanh tâm trong sạch, họa chăng sau lần chuyển kiếp sẽ được chiếu theo công đức mà thay đổi. Bằng như không biết hối ngộ, ăn năn thì xem đây là bị đọa và sẽ trầm luân, nghĩa là không được quay về cõi Thiên nữa.

Còn những kẻ bị đọa xuống trần để tạo lập công đức, thường là những linh quang trong tiền kiếp không phạm luật, không tạo nghiệp, chỉ biết an thân, không biết giúp người, nhưng không hại ai, thì là những kẻ thiếu phúc đức. Cho nên bị đọa xuống phàm lập đức trở lại cõi Thiên. Còn những kẻ ở trong giàu sang, phú quí thì thường trong tiền kiếp biết bố thí, biết tạo phúc đức bằng chơn tâm, mà tạo phúc đức nầy để mong thụ hưởng, cho nên những linh quang nầy cũng sẽ hưởng những điều đã tạo. Nếu biết lập thêm phúc đức sẽ được hưởng lâu dài, bằng như hưởng hết không biết tạo lập thêm, đến lúc suy di rồi thì đến giai đoạn ta phải vay và trong lần chuyển kiếp tới ta trả vậy.

Những kẻ đứng trong đường khanh tướng công hầu thường những kẻ đó trong tiền kiếp đi qua đã tạo phúc đức bằng cách bố thí cái tâm, nghĩa là vị tha bác ái đối với tất cả chúng sanh.

Còn những kẻ phải đi vào đường trả nghiệp, thì những kẻ nầy trong tiền kiếp không tạo phúc đức cho mình mà còn vay phúc đức của người, thì kiếp xuống phàm nầy trả nợ cho hết nghiệp đó. Kẻ sống trong cảnh nghèo khổ, làm tôi tớ cho người, hoặc phải vất vả thân xác mà vẫn đói nghèo, lúc nào cũng phải làm thân trâu ngựa, đó là những kẻ đang trả nghiệp vậy. Những kẻ trả nầy lúc vừa phải trả vừa tạo phúc đức, hầu mai sau còn trở lại kiếp cũ của mình, bằng như trong lúc trả nghiệp mang thân khốn khổ, còn sanh tâm lục tà, không biết giữ tâm trong trắng, không biết điều phước thiện tu nhơn, hết kiếp trả nầy vẫn còn bị đọa đày sau lần chuyển kiếp luân hồi kế tiếp.


3*- Những linh hồn từ cõi âm (u minh) trở lên thành giống nhân


Tất cả linh hồn sau khi bỏ xác phàm đều được về cửa thứ 1 u minh điện hay cửa thứ 1 trong thập nhị môn quan chờ đưa về cửa lục vấn để tra xét.

Sau khi được phán xét ở cửa lục vấn thì được đưa về 3 cửa chuyển tiếp đi vào 5 đường định luật.

1- Những vong linh nào được đi đầu thai thì đưa về cõi nhân địa, tức là đường thứ 3 trong luật định.

2- Có những vong linh khi còn mang phàm xác chưa lập công bồi đức, cũng không mang trọng tội được đưa về cõi Thánh Địa để được chư Thần cõi u minh dẫn dắt tu học đến khi có một quyền năng khai mở thần thức, từ đó mới được về phàm lập công bồi đức. Khi đã lập công bồi đức thì mới thoát khỏi u minh.

Sự tu học ở cõi Thiên Địa nầy không phải tu luyện về đạo pháp mà học về đạo đức, nhơn nghĩa, hiếu trung. Qua một thời gian học các vong linh sẽ được trong sáng và gọi là linh quang điển, tức là linh hồn có một phần trong sang, có quang điển hay nói cách khác là quang điển còn có phần linh hồn. Quang điển nầy khác với quang điển ở cõi Thiên. Cho nên khi được trở về phàm mượn xác đó là cô cậu trạng Địa, khi độ nhân sanh thường trong việc làm ăn buôn bán, bói toán trong việc đỏ đen. Cho nên trong việc hành mà các phần linh quang điển nầy còn chấp tướng, còn có cái ta trong bãn ngã, khác với Thiên điển, cho nên nhân sanh thường lầm lẫn cho họ là Thần, Thánh, Tiên mà còn nặng phàm tục.



Thời gian linh quang điển nầy ở cõi Thánh địa không hạn định thời gian, nhưng nếu 3 lần sau khi trở về trần lập công bồi đức để thoát đường u minh mà lập được nhiều công hơn tội được về cửa lục vấn phán xét, thì linh quang điển nầy được đưa về cõi nhơn địa chờ đầu thai.

3- Những vong linh thác oan uổng tử, chiến binh, khi bỏ xác phàm được đưa về cửa thứ 1 chờ chư Thần cõi u minh lọc lừa, chon lựa để đưa qua cửa khác, thường trốn thoát cõi u minh trở về phàm quấy nhiễu nhân sanh. Sở dĩ phàm thế ma quỷ lộng hành, có những linh hồn vất vơ vất vưởn là do những phàm nhơn tự tử thác oan, thác vì đau bịnh, trốn thoát khỏi u minh.

Theo qui luật đường âm thì những vong linh nầy phải trải qua một thời gian lâu dài lập công bồi đức mới được đưa về cửa lục vấn để tra xét, phải lập nhiều công đức mới được phán xét đầu thai làm nhơn phàm, còn không thì sẽ vào cõi âm thủy.

4*- Những linh hồn từ cõi âm thủy trở lên thành giống nhân



Trường hợp những vong linh ở cõi âm thủy đã qua thời gian tu luyện lập công bồi đức được trở về phàm thế đầu thai, thì được đưa thẳng về cõi nhân địa chờ ngày đầu thai làm nhơn phàm, vì những vong linh nầy từ cõi âm thủy trở về, họ đã đi qua nhiều cửa tra xét của đường âm thủy, được trở về cõi âm của dương thì linh hồn họ được trong sáng, chờ thời gian hạn định mà đầu thai.

Tất cả những qui luật đường âm đều phải đi qua cửa u minh, dù cho là tà vương hỷ lộng thần thông tài phép đến đâu cũng phải nhờ cửa u minh mà trở về dương thế. Những tà vương nầy ở cõi trung Thiên là những quang điển dương chiếc hóa thời tiền khai đã thọ nhiễm ngũ hành kể từ khi chuyển hóa nhơn phàm.

5*- Sơ lược sự hành đạo của Cửu Phẩm cứu vớt nhân sanh


Diêu Trì cung có tám cửa tức là Bát cảnh cung do 8 vị giáo chủ chưởng quản trực tiếp độ nhơn phàm cứu khổ nhơn sanh, còn gọi là cửu vị nữ nương nương.

Cung thứ 1 là Diệu Thiên cung do Nhất nương chi phật giáo chủ chưởng quản, có danh thế phàm là Quan Âm Bồ tát Diệu Thiên

Hạnh cứu khổ, cứu nạn, cứu vớt mọi đau khổ của nhơn sanh.

Cung thứ 2 là Ngọc Chúa cung do bát nương chi phật giáo chủ chưởng quản có danh thế phàm là Chúa Ngọc.

Hạnh độ phần nữ phàm thuộc về hồng nhan bạc mệnh.

Cung thứ 3 là La Thánh cung do tam nương chi phật giáo chủ chưởng quản có danh thế phàm là Thánh Anh La sát.
Hạnh trừ tà tróc quỷ cứu khổ nhơn sanh nghe đến danh Ngài ma quỷ phải sợ.

Cung thứ 4 là Cửu Thánh cung do tứ nương chi phật giáo chủ chưởng quản có danh thế phàm là Cửu Thiên Huyền nữ.
Hạnh độ mệnh phần nữ nhân phàm thế, đây là vị giáo chủ chưởng quản về bổn mệnh, cũng là vị trừng phạt nữ nhân sanh.

Cung thứ 5 là Chúa Tiên cung do ngũ nương chi phật giáo chủ có danh phàm là Chúa Tiên.
Hạnh độ mệnh cứu khổ về phần nữ, dẫn dắt soi đường chúng sanh quay về đường đạo.

Cung thứ 6 là Hoa Tiên cung do lục nương chi phật làm giáo chủ chưởng quản, có danh phàm là Nữ Hoa.
Hạnh độ phần nữ má phấn môi hồng truân chuyên, là vị giáo chủ chưởng quản các loài tinh yêu ma quái.

Cung thứ 7 là Thanh Nữ cung do thất nương chi phật giáo chủ chưởng quản có danh thế phàm là Tây Vương Mẫu.
Hạnh độ nữ nhân trung ngay tiết liệt. Mở trường dạy đạo cho những linh hồn (linh căn, linh tử) bị sa đọa là Lê Sơn Thánh Mẫu, giáo chủ chưởng quản.

Cung thứ 8 là Lê Thánh cung do nhị nương chi phật làm giáo chủ.

Trong 9 vị công chúa đắc quả có 6 vị trực tiếp độ nhơn phàm, tức là Mẹ sanh của nữ nhơn phàm. Còn quan Âm Diệu Thiện, Tây Vương Mẫu độ nhơn phàm bằng quang điển vô hình. Có một vị chứng đắc cao nhất là Hà Tiên Cô. Ngài chứng đắc quả vị Tiên thoát hồn lẫn xác (theo truyền thuyết Bát tiên), nên Ngài không lâm phàm cứu độ nhơn sanh, mà độ bằng pháp đạo trực tiếp trong cõi vô hình cho nữ giới.

Trong cõi vô hình Ngài mở trường dạy đạo độ pháp cho các nữ Tiên ở cõi Thiên. Nếu nói về công phu tu luyện hóa quang có danh nơi phàm thế chứng đắc quả nữ Tiên trong giới nữ Tiên cao nhất, còn nói về vô hình Ngài là một đại quang điển chứng đắc.


III- HỘI LONG HOA

Trước Phật lịch 2017 có cuộc Long Hoa khai mở kỳ đại hội nầy tiên đoán sẽ có cuộc Long hoa khai hội vào phật lịch 2517 của thời hậu thế tương lai.


Tại sao có cuộc hội Long hoa? Trước phật lịch 2517 hội Long hoa khai mở như thế nào? Trước thế kỷ phật tổ ra đời thì loài người cũng chỉ phát sinh, có một cuộc hội gọi là Liên hoa. Cuộc hội nầy do Thập bát điển quang chủ trì và khai sáng, cùng các phần Đại quang điển khai sinh ra giống nhơn trên quả địa nầy.

Tất cả mọi vị đều tự chiếc điển thành hình những cây liên hoa để lập hội và cho lời tiên đoán sau nầy. Các Ngài mượn những cây liên hoa trong hội nầy tượng trưng cho giống nhân h
ậu thế.

Lời tiên đoán của các Ngài là:
- Hằng hà sa số những cây liên hoa nầy do các Ngài tạo ra, sau nầy chúng sẽ là những phàm nhơn thời hậu thế.
- Trong cuộc hội các Ngài hóa công làm gió làm mưa. làm nắng, bảo táp xuống vườn liên hoa để thử thách sức chịu đựng và để lại lời tiên đoán cho hậu thế ngày sau:

Lần thứ 1: Vườn liên hoa chỉ còn lại 2/3 tươi tốt vươn mình, còn 1/3 rũ cành.

Lần thứ 2: Hao đi phân nửa (1/2) trong số 2/3 còn lại.
Lần thứ 3: chỉ còn lại 1/3 trong số lần thứ 2. Sau 3 lần khảo thi, các Ngài để lại lời tiên đoán cho từng thế kỷ. Các Ngài bắt đầu lo sợ, vì lời tiên đoán cho biết là: Hội Long hoa lần thứ 1 thì còn Thần, Thánh, Tiên, phật. Hội Long hoa lần thứ 2 thì còn trung và hiếu, còn được tôi ngay.
Hội Long hoa lần thứ 3 nầy ngay đến giống nhơn cũng không còn, chỉ còn lại một phần it chơn tu chân chánh.

Tại sao gọi là Long hoa khai hội?

Long hoa khai hội tức là vua chúa ra đời khảo thí nhơn sanh. Long hoa đây nói về chúng sanh, nói về cuộc nhơn sanh nơi đây, tức là giống con Rồng cháu Tiên, mà sự phát sinh đầu tiên là những cây liên hoa do các Ngài tạo lập.
Long hoa mở tại thế phàm, Long hoa chỉ về vua chúa ra đời, nếu nói đúng hơn thì đây là cuộc hội liên hoa và đây là cuộc thi của giống nhơn tất sẽ bị khảo đảo. Trong hiện tại hội đang mở và tiếp nối hằng ngày để khảo thí chúng sanh. Khi nghe hội mở khai là lúc kết thúc cuộc khảo thí để tuyển chọn nhân tài hiến đức. Ngày khai hội là ngày kết thúc việc tuyển chọn, cho nên ngay bây giờ phải đi hành đạo đức. Những việc bồi công lập đức hằng ngày là những bài thi mà ta phải làm, đến khi ngày khai hội ta đem chấm điểm.

Theo lời tiên đoán của các Ngài trong Thập bát điển quang là: hậu thế hôm nay sau kỳ khảo hạch Liên hoa đến ngày khai hội chỉ còn 1/3 mà thôi. Để cứu vớt chúng sanh ra khỏi bể trầm luân, nên các Ngài chiếc ra những quang điển thành hình cho xuống phàm thế, còn đào luyện một số linh hồn tại trần thế được tụ hình thành quang điển Thần, Thánh để kỳ 3 hậu thế nầy các Ngài cho xuống phàm nhập điển mà cứu vớt nhơn sanh.

Chúng sanh lầm tưởng rằng ta lạc chay, niệm phật để nhìn thấy hội Long hoa có Thần, Thánh, Tiên, phật làm phàm, chớ biết đâu Long hoa hội là cuộc khảo hạch chúng sanh lập đời mai hậu. Trong kỳ 3 hậu thế nầy kẻ nào được tồn sinh giữa thảm cảnh núi xương sông máu, thì kẻ đó đã được vào hội nầy. chẳng có Thần, Thánh, Tiên, phật xuống phàm mở hội mà đa số nhân sanh lầm tưởng. Những ai nhìn thấy hội Long hoa tức là sẽ nhìn thấy sự điêu tàn, sự đau khổ, sự chết chóc thảm thương, máu xương chồng chất đến ngày vua chúa ra đời, quan quân võng lộng, ngọc ngà châu báu... Đã qua được những điều trên là đã thấy và đã vào hội Long hoa vậy.

1*- GIAI ĐOẠN NGŨ HÀNH ĐẢO LỘN ÂM DƯƠNG BẮT ĐẦU TÁCH RỜI
Theo luật ngũ hành âm dương thì trong âm có dương, trong dương có âm. Trong âm và dương nếu thiếu dương âm hay âm dương thì sẽ mất sự cân bằng bình thường. Trong sự mất bình thường nầy sẽ có những đột biến trong sự sống của loài người.
- Điều trước tiên sẽ nhận thấy được (HỎA)
+ Sự chấn động giữa âm dương. Sự chấn động nầy làm ra địa chấn trên khắp toàn thế giới, không chỉ là núi lửa bắt đầu mà những nơi không có núi lửa cũng bị chấn động như thường.
- Điều thứ hai:
Chúng sanh sẽ được nhìn thấy đó là NƯỚC (THỦY).
Thủy tràn sóng cuộn biết bao phố phường
Từ cơn thủy nhỏ đến luồng thủy to.
- Điều thứ ba:
Sẽ có bùng nổ gió mưa
Đất trời sấm sét chuyển đưa rồng vào.
- Điều thứ tư:
Chúng sanh nạn đói dâng trào
Chúng sanh máu đổ lệ trào khắp nơi.
- Điều thứ năm:

Chiến tranh chém giết ngoài khơi
Ôi thôi giông bão đến nơi hồng trần
Luật Trời chớ có phân vân
Đến rồi sẽ đến chúng trần xem coi
Tu thời đã quá ít oi!
Tâm thành không thấy, chỉ thấy lời dối dang!
Mở màng cuộc chiến điêu tàn
Long Hoa khai pháo, trần gian biển sầu
Bắc Nam một cuộc bể dâu
Nam thời hứng chịu, chìm sâu biển trầm
Bắc thời lánh nạn đùng ầm
Mưa rơi pháo nổ như ong vỡ bầy.
Bây giờ nói đến phương Tây
Ôi thôi pháo nổ lạc bầy tháo lui
Bắc Nam đóng kín cửa Trời.
Nhân gian không chổ đứng ngồi yên thân
Ấy là một trận cân phân
Mở màng hậu thế LONG VÂN ra đời



Thánh Anh Cửu phẩm


Đời nay để ý xem nào!
Lân bang sẽ thấy lệ trào máu rơi
Nay lưu bút chép thời để lại
Để cháu con xem tới thượng nguơn
Dân Hồng Lạc giang sơn dời đổi
Máu Rồng Tiên sắp trổi ngọn cờ
Đông Tây Nam Bắc đợi giờ khởi binh
Đất Nam Việt rồng Thiên sắp nổi
Giống Lạc Hồng sắp nổi binh đao
Lệ rơi thây chất thành hào!
Máu tuôn thành biển mới mào âu ca!
Giống nòi tự tạo can qua
Nồi da xáo thịt, giết mà lẫn nhau!
Ấy rồi mới đến Tam trào
Hùng cường quốc chiến nhảy vào can qua!
Tam trào kiến quốc xảy ra!
Bấy giờ thế chiến mới là nổ tung
Huyền cơ mách bảo một lần!
Nói xa nhưng việc đến gần sắp đây.
Trận nầy là trận phủ vây
Trở thành thế chiến đông đầy mưa giăng!
Một thế chiến trời long đất lở!
Bởi mưa bom, đạn pháo nổ tung
Tiếng gầm thét Chim trời phun lửa
Tiếng ầm vang Hổ dữ mưa bom
Nhân tai là chuyện của người
Thiên tai là chuyện của Trời ban ra
Cảnh nầy là cảnh màn ba
Chúng sanh kinh hải khóc mà khắp nơi!
Nào là máu chảy lệ rơi!
Nào là mưa pháo khắp nơi giăng đầy!
Thôi thì, đau khổ sắp đây!
Thôi thì hãy để, ý thời lưu tâm.
THÁNH ANH CỬU PHẨM
12/14/2016


Biển Đông dậy sóng vang Trời
Máu loang biển đỏ, biển khơi thành dòng (thành đất)
Rồng Thiên trổi dậy, mưa hồng rớt rơi!
Rồng Thiên ẩn dật khắp nơi
Đợi giờ trổi dậy, phất thời cờ Tiên
Đến hồi trận chiến liên miên
Lân bang giáp chiến giúp Tiên phất cờ
Dậu Đinh cuộc chiến ngoài khơi
Bắt đầu thế giới nổi thời binh đao
Năm Đinh Dậu tai Trời ách nước
Nổi phong ba từng bước thế trần
Thảm sầu tai ách Long Vân!!!
Nạn thứ nhứt Trời phân thấy rõ
Địa chấn đang khắp cõi thế gian
Nạn thứ hai hồng thủy dâng trào
Nạn thứ ba núi lở, lửa phun
Nạn thứ tư mưa giông bão xoáy
Nạn thứ năm đại dương nổi giận, sóng dữ dâng cao
Bão xoáy, bão tuyết tàn phá địa cầu
Năn châu bốn bể điêu tàn!
Đó là Thiên nạn liên hồi viếng thăm!
Nhân nạn là chiến tranh bắt đầu khắp năm châu.


Từ niên Tuất trở đi loạn lạc khắp nơi. Khởi đầu từ những nước đánh nhau, dần dần thành thế chiến thứ ba đến năm 2030 thế giới mới đạt được thái bình lập đời THƯỢNG NGUƠN.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét