Thứ Sáu, 30 tháng 4, 2021

Nghi thức Tụng Kinh, Tắm Phật Tại Tư Gia Mùa Phật đản



Nghi thức TỤNG KINH, TẮM PHẬT tại TƯ GIA mùa Phật đản : 

  • Bài Chia Sẻ Phật Pháp Của Thượng Toạ Thích Lệ Trang Trưởng Ban Nghi Lễ Trung Ương của GHPGVN TPHCM Trụ Trì Chùa Định Thành Q.10 
  • Phần Tụng Kinh Khánh Đản : BAN NGHI LỄ TRUNG ƯƠNG GHPGVN TPHCM Các Vị Thượng Toạ, Hoà Thượng : Thích Lệ Trang, Thích Quảng Chơn, Thích Minh Thông, Thích Minh Nghĩa,Thích Trí Phát,Thích Hiển Tu, Thích Giác Tường ... 
  • Chư Vị Đại Đức Tăng Chùa Việt Nam Quốc Tự, Chùa Viên Giác, Chùa Ấn Quang, Chùa Định Thành 
  • Hướng dẫn LÀM BÀN THỜ, TỤNG KINH, TẮM PHẬT tại TƯ GIA trong mùa Phật Đản

Mỗi khi quỳ trước Phật đài tụng bài sám khánh đản, chúng ta thấy rõ lòng mình hơn, nhìn sâu cuộc đời mình hơn và quán chiếu về thân phận của mình nhiều hơn. Điều này có nghĩa, mỗi lần tụng sám Khánh đản là mỗi lần chúng ta nhìn lại quảng đường tu tập của mình.


Ðệ tử hôm nay,
Gặp ngày Khánh đản,
Một dạ vui mừng,
Cúi đầu đảnh lễ
Thập phương Tam thế,
Ðiều Ngự Như Lai,
Cùng Thánh, Hiền, Tăng.
Chúng con cùng pháp giới chúng sanh.
Bởi thiếu nhơn lành,
Thảy đều sa đọa;
Tham sân chấp ngã,
Quên hẳn đường về,
Tình ái si mê,
Tù trong lục đạo,
Trăm dây phiền não,
Nghiệp báo không cùng,
Nay nhờ Phật Tổ Năng Nhân,
Dủ lòng lân mẫn,
Không nỡ sinh linh thiếu phước,
Nặng kiếp luân hồi,
Ðêm dài tăm tối,
Ðuốc tuệ rạng soi.
Nguyện cứu muôn loài,
Pháp dùng phương tiện.
Ta bà thị hiện.
Thích chủng thọ sinh.
Thánh Ma Gia mộng ứng điềm lành,
Vua Tịnh Phạn phước sinh con thảo.
Ba mươi hai tướng tốt,
Vừa mười chín tuổi xuân,
Lòng từ ái cực thuần,
Chí xuất trần quá mạnh.
Ngai vàng quyết tránh,
Tìm lối xuất gia,
Sáu năm khổ hạnh rừng già,
Bảy thất nghiêm tinh thiền tọa.
Chứng thành đạo quả,
Hàng phục ma binh,
Ba cõi đều dậy tiếng hoan nghênh,
Muôn vật thảy nhờ ơn tế độ.
Chúng con nguyền,
Dứt bỏ dục tình ngoan cố,
Học đòi đức tánh quang minh.
Cúi xin Phật Tổ giám thành,Từ bi gia hộ.

Chúng con cùng pháp giới chúng sanh, Chóng thành đạo cả.

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.(30 lần)

Nam mô Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát.(3 lần)

Nam mô Ðại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát. (3 lần)

Nam mô Ðại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát.(3 lần)

Nam mô Ðạo Tràng Hội Thượng Phật Bồ Tát. (3 lần)

- Bài in trong “Kinh Nhựt Tụng”. Sen vàng xuất bản - Thành Hội Phật giáo TP. HCM tái bản 1994.

- Ðối chiếu trong "Nghi thức tụng niêm” chùa Xá Lợi Thành Hội Phật Giáo TP. HCM ấn hành 1993.



Sám Khánh Đản – Khúc ca tâm hồn


Ai ra đời để mang lại bình an hạnh phúc cho muôn loài chúng sanh? Người nào xuất hiện để dựng lại những giá trị nhân văn đã sụp đỗ, hoang tàn và mở ra con đường đã bị lãng quên? Bậc tôn quý nào vừa chào đời đã cất tiếng hống sư tử sang phẳng tà kiến thế gian? Sự xuất hiện của vĩ nhân nào đã truyền trao cảm hứng tu tập cho muôn ngàn thế hệ và khơi nguồn sáng tạo cho hàng vạn thiêng anh hùng ca bất tuyệt? Hình ảnh đản sanh của ai cách đây hơn 25 thế kỷ mà ngày nay vẫn được toàn thể nhân loại tôn vinh với tột cùng niềm kính ngưỡng tri ân? Chắn chắn không ai khác ngoài người cha mến thương của chúng ta: đức Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni.

Trong niềm kính ngưỡng và tri ân tột cùng ấy, lễ kỷ niệm ngày Phật đản sanh được các thế hệ Phật tử tổ chức trang nghiêm trọng thể. Có một ca khúc tâm hồn thể hiện niềm kính ngưỡng ấy và được tụng niệm trong tất cả những buổi lễ trang nghiêm. Đó là bài sám Khánh đản.

Sám Khánh đản là một khúc ca tâm hồn. Khẳng định như vậy vì mỗi khi quỳ trước Phật đài tụng bài sám ấy, chúng ta thấy rõ lòng mình hơn, nhìn sâu cuộc đời mình hơn và quán chiếu về thân phận của mình nhiều hơn. Điều này có nghĩa, mỗi lần tụng sám Khánh đản là mỗi lần chúng ta nhìn lại quảng đường tu tập của mình. Hãy bắt đầu quảng đường ấy bằng sự quy kính Tam Bảo, như đoạn mở đầu của bài sám:

Đệ tử hôm nay,
Gặp ngày Khánh đản,
Một dạ vui mừng,
Cúi đầu đảnh lễ
Thập phương Tam Thế,
Điều Ngự Như Lai,
Cùng Thánh, Hiền, Tăng.

Đoạn này khởi đầu điệp khúc chuyển hóa thân tâm bằng hành động quy kính Tam Bảo và tinh thần hoan hỷ. Ngày Khánh đản là ngày mùng tám tháng tư âm lịch theo truyền thống trước đây. Nhưng hiện nay Phật tử toàn thế giới lấy ngày mười lăm tháng tư âm lịch làm ngày kỷ niệm chung cho cả ba sự kiện Đản sanh, Thành đạo và Niết bàn của đức Phật, gọi là Vesak. Hành động quy kính biểu hiện qua câu “cúi đầu đảnh lễ“. Đảnh lễ ai? Đảnh lễ Tam Bảo: Phật bảo – “thập phương tam thế, điều ngự Như Lai“, và Tăng bảo – “cùng Thánh Hiền Tăng“. Pháp bảo được ẩn lược để trình bày ở đoạn sau nhằm tăng thêm phần quan trọng. Tinh thần hoan hỷ thể hiện ở “một dạ vui mừng“. Đây là hai đặc điểm nổi bật nhất của đoạn này: quy kính Tam Bảo và hoan hỷ đón mừng khánh đản. Vui là vui với tất cả tấm lòng tôn kính sâu sa và chí thiết. Mừng là mừng bằng cách dâng trọn thâm tâm để cúng dường và quán chiếu. Có tôn kính Tam Bảo mới mở được cánh cửa chuyển hóa. Phải hoan hỷ vui mừng mới có thể tiếp nhận những giá trị cao cả thiêng liêng. Tại sao vui, tại sao mừng với trọn tấm lòng thành kính? Câu trả lời đến ngay sau đây:

Chúng con cùng pháp giới chúng sanh
Bởi thiếu nhơn lành,
Thảy đều sa đọa;
Tham sân chấp ngã,
Quên hẳn đường về,
Tình ái si mê,
Tù trong lục đạo,
Trăm dây phiền não,
Nghiệp báo không cùng.

Nỗi mừng vui lớn nhất và quan trọng nhất: nhờ Tam Bảo mà chúng ta thấy rõ được thân phận, vị trí, hoàn cảnh, tình trạng và những vấn đề của mình. Đoạn thứ hai này chỉ thẳng những điều đó cho chúng ta. “Chúng con cùng pháp giới chúng sanh” là chúng ta và tất cả những gì tương sinh cộng sinh với chúng ta. Có hay không “thiếu nhơn lành, thảy đều sa đọa” là thân phận hiện tại của chúng ta? Có phải vị trí sinh ra và chết đi của chúng ta là đang “tù trong lục đạo” – giam hãm trong cảnh giới Trời, Người, A Tu La, Địa Ngục, Ngạ Quỷ và Súc Sanh không? Ai nhận thức được rằng hoàn cảnh sinh hoạt tinh thần của chính mình là “tham sân chấp ngã, quên hẳn đường về“? “Tình ái si mê” phải chăng là tình trạng sống chết của chúng ta? Và, tất cả những vấn đề nan giải của chúng ta, có lẻ chắn chắn, không gì hơn khác ngoài “trăm dây phiền não, nghiệp báo không cùng“.

Vì thiếu nhơn lành – thiếu những hành động và ý nghĩ cao đẹp, nên hàng loạt bất hạnh xảy ra trong toàn bộ cuộc đời: sa đọa ăn chơi, chấp ngã cạnh tranh, tù đày trong ân oán tình trường, quấn thắt bởi trăm dây phiền não gia tộc họ hàng, si mê mù quáng, quên đường về chân thiện mỹ. Rõ ràng, cái thiếu ấy là cái thiếu căn bản nhất, sâu xa nhất và thâm kín nhất của chúng ta: thiếu những nhân tố đưa đến phước đức và trí tuệ. Con đường chuyển hóa đã được xác định mục tiêu ngay trong đoạn này: biến sự thiếu nhơn lành thành đầy đủ duyên lành. Cũng bởi vì ý thức phải cải tạo cái thiếu ấy, và vì cái thiếu ấy mà Phật ra đời, mà ngày Khánh đản được kỷ niệm.

Thế là, chúng ta vui mừng chào đón ngày Khánh đản vì, nhờ ngày ấy, chúng ta biết nhìn lại số phận của mình, biết mình thiếu cái gì. Hơn thế nữa, chúng ta vui mừng vì sự xuất hiện của một vĩ nhân – người giải quyết những vấn nạn chung cho toàn nhân loại, người mà sinh ra không phải chỉ để tìm kiếm hạnh phúc cho riêng mình. Người đó là đấng Năng Nhân được nói đến tại đoạn thứ ba:

Nay nhờ Phật Tổ Năng Nhân,
Dủ lòng lân mẫn,
Không nỡ sinh linh thiếu phước,
Nặng kiếp luân hồi,
Đêm dài tăm tối,
Đuốc tuệ rạng soi.
Nguyện cứu muôn loài,
Pháp dùng phương tiện.

Các bạn đừng yêu cầu chúng tôi giải thích Năng Nhân nghĩa là gì. Bởi vì những câu tiếp sau đó đã trả lời cụ thể ý nghĩa của mỹ từ ấy. Ai mang tình thương rộng lớn đến những kẻ thiếu phước đang bị luân hồi tăm tối; người nào sử dụng ngọn đuốc trí tuệ để ứng dụng chánh pháp vào cõi trần cứu khổ chúng sanh, người đó là bậc Năng Nhân. Thế gian này có bao nhiêu bậc Năng Nhân như thế?

Đoạn thứ ba này nêu rõ nguyên nhân vì sao Phật ra đời. Ngài ra đời vì lòng đại từ bi, thương xót những chúng sanh đau khổ bởi thiếu phước, nặng kiếp luân hồi, đêm dày tăm tối – trong đó có chúng ta. Ngài xuất thế với một đại nguyện: nguyện cứu muôn loài. Ngài đản sanh như một đuốc tuệ rạng soi. Cuộc đời Ngài, ngay từ khi mới chào đời đến lúc trút hơi thở cuối cùng, là minh chứng sáng ngời cho tinh thần và hành động cao cả của chánh pháp: đại từ bi, đại trí tuệ và đại nguyện lực. Chỉ cần nhìn lại và quán chiếu ba tinh thần và hành động ấy thôi cũng đã trở thành cơ hội lớn để chúng ta gạn lọc thân tâm. Kinh Thủy Sám đã từng nêu nỗi niềm tâm sự rất chung: “Chúng ta cùng với Bổn sư Thế Tôn đồng là phàm phu, vậy mà ngày nay Thế Tôn thành đạo trải qua kiếp số quá hơn cát bụi, còn chúng ta đây đam mê lục trần, lưu chuyển sinh tử, chưa thấy giải thoát. Điều ấy mới thật đáng xấu hổ nhất“. Nếu bạn vẫn chưa nhận ra sự xấu hổ thì chắc chắn sẽ ý thức được sự kém phước đức của mình đối với vĩ nhân ấy ở ngay đoạn sau đây:

Ta Bà thị hiện,
Thích chủng thọ sinh,
Thánh Ma Gia mộng ứng điềm lành,
Vua Tịnh Phạn phước sinh con thảo.
Ba mươi hai tướng tốt.

Đoạn này cung cấp thông tin con người lịch sử của đức Phật Thích Ca. Ngài sinh ra với thân phận Thái tử, với cha là vua Tịnh Phạn dòng họ Thích Ca, Sakya, mẹ là hoàng hậu Ma Gia. Ngay từ khi mới chào đời Ngài tự trang nghiêm mình bằng sự toàn hảo về phước đức và trí tuệ: ba mươi hai tướng tốt. Bởi sự biểu hiện của những nhân tướng tuyệt mỹ ấy mà tiên nhân A Tư Đà đã khóc ròng sau khi xem tướng thái tử và tuyên bố đinh ninh rằng: chính con người này sẽ trở thành một bậc vĩ nhân tối thượng. Ông khóc nấc. Ông đã quá già và không thể sống đến ngày được nghe vĩ nhân ấy thuyết pháp. Chúng ta may mắn hơn ông ấy trong sự gặp và nghe chánh pháp. Nhưng ít ai trong chúng ta khóc và tiếc như ông ấy trong mỗi lần kỷ niệm Phật đản sanh. Ôi tiền nhân và hậu thế, ai cũng có nỗi niềm vinh hạnh rất riêng!

Không những chỉ rõ đức Phật là một con người mang đầy đủ tính lịch sử, đoạn thứ tư này còn gián tiếp giúp ta quán chiếu thân tâm. Ai kia là thái tử mà đã vất bỏ tất cả ngai vàng điện ngọc, vợ đẹp con ngoan, để xuất gia học đạo? Còn ta thế nào? Ai kia sở hữu vô vàn tinh hoa sắc đẹp và trí tuệ tuyệt đỉnh mà vẫn buông xả hết, để dấn thân vào con đường vô ngã vị tha? Hỏi mình ra sao? Người ta con vua mà dám đi tu; còn mình con bác sĩ đã vội tự cao tự đắc. Người ta thành công mọi mặt mà vẫn khiêm tốn nhẫn nhịn; trong khi mình thất bại dẫy đầy mà chưa một lần cúi đầu nhường bước. Quán chiếu như vậy may ra khích lệ chúng ta tinh tiến đôi chút trên con đường thăng tiến tâm linh. So sánh như trên nhằm cạo gọt bớt phần nào tham sân chấp ngã vốn đeo đẳng theo ta từ muôn kiếp nào. Chúng ta hãy tiếp tục soi chiếu mình vào tấm gương trong vắt của cuộc đời bậc vĩ nhân mà hôm nay chúng ta lễ bày kỷ niệm:

Vừa mười chín tuổi xuân,
Lòng từ ái cực thuần,
Chí xuất trần quá mạnh.
Ngai vàng quyết tránh,
Tìm lối xuất gia,
Sáu năm khổ hạnh rừng già,
Bảy thất nghiêm tinh thiền tọa.
Chứng thành đạo quả,
Hàng phục ma binh,
Ba cõi đều dậy tiếng hoan nghênh,
Muôn vật thảy nhờ ơn tế độ.

Đoạn thứ năm mô tả tóm tắt hành trình sau khi đản sanh đến lúc thành đạo của đức Bổn Sư muôn vàn yêu kính. Hành trình ấy: xuất gia, khổ hạnh, thiền định, hàng phục ma quân và thành đạo, đã trở thành nguồn cảm hứng tu hành bất tuyệt cho bao thế hệ Phật tử. Hôm nay, ngày Khánh đản, chúng ta ôn lại hành trình đó để thực tập những công hạnh: mở rộng lòng từ ái cực thuần, nung nấu chí xuất trần, quyết tránh dục lạc thế gian, nuôi dưỡng hạnh xuất gia, tu khổ hạnh, nỗ lực tinh nghiêm thiền tọa. Nếu một lòng dũng mãnh làm theo những điều đó thì chắc chắn một ngày nào đó ba cõi dậy tiếng hoan hô ta, và muôn vật thảy nhờ ơn tế độ của ta. Đây không phải viễn cảnh vô vọng mà là cuộc viễn hành đầy hữu vọng. Vô hay hữu tùy thuộc vào sự chuyển hóa nội tâm theo gương đức Cha Lành của chúng ta.

Ba cõi hoan nghênh không phải Ngài sở hữu vàng son gấm vóc, mà vì Ngài là hiện thân của con đường tình thương và sự tỉnh thức. Muôn vật thảy nhờ ơn cứu độ bởi Ngài tự giác mà vẫn không quên giác tha giác hạnh viên mãn. Tiếng hoan nghênh kia, hơn 2556 năm, vẫn thường âm vang như sóng hải triều. Ơn cứu độ ấy, dẫu bao thăng trầm lịch sử điêu linh, mãi khắc sâu trong thâm tâm vạn loại hơn cả vầng nhật nguyệt chói lòa. Đức Bổn Sư xứng tánh ứng sự hoan nghênh ca ngợi của ba cõi chúng sanh. Đấng Từ Phụ tùy duyên cảm tâm thành kính biết ơn khắp vạn loại hữu tình. Bởi ước mong xứng tánh và tùy duyên đó mà hôm nay chúng ta phát tâm:

Chúng con nguyền,
Dứt bỏ dục tình ngoan cố,
Học đòi đức tánh quang minh.
Cúi xin Phật Tổ giám thành,
Từ bi gia hộ.
Chúng con cùng pháp giới chúng sanh
Chóng thành đạo cả.

Đoạn cuối cùng, thứ sáu, đúc kết tinh hoa sự nghiệp tu hành để làm món quà ý nghĩa nhất cúng dường ngày Phật đản sanh. Tinh hoa ấy, món quà ấy chỉ gói gọi trong hai câu: dứt bỏ dục tình ngoan cố và học đòi đức tánh quang minh. Và đây cũng là thâu tóm toàn bộ những nốt nhạc căn bản nhất của khúc ca chuyển hóa.

Phải chăng vì ngoan cố chạy theo dục tình nên chúng ta sa chân vào hố sâu phiền não? Có hay không bởi thờ ơ với những đức tánh cao đẹp mà chúng ta dẫy đạp trong biển rộng vô minh? Dục tình ngoan cố hay lòng ta thiếu dũng cảm tự tin? Đức tánh quang minh hay tâm ta tham sân chấp ngã? Ôi, ai can đảm vất bỏ gánh nặng ổ oan để gia nhẹ bay cùng trời xanh mây trắng? Trời, kẻ nào dám bước tới tận sào vực thẳm chết một lần để vạn kiếp hùng anh? Ta tuy chưa dứt bỏ ngay lập tức dục tình thì ít ra cũng nên ý thức tình là dây oan để đừng kết thắt thêm nữa. Ta dẫu chưa đủ dũng khí hành động theo đức tánh quang minh thì cũng nguyện hướng tâm về nẻo thiện tu là cội phúc. Như thế may ra chúng ta mới cảm nhận được sự chứng minh và gia hộ của chư Phật. Duy nhất con đường dứt bỏ dục tình ngoan cố và học đòiđức tánh quang minh ấy mới giúp chúng ta chóng thành đạo quả.

Sám Khánh đản mở đầu với tâm trạng hoan hỷ và tôn kính ba ngôi Tam Bảo để rồi kết thúc với ý chí dũng mãnh tự tin. Toàn bộ dòng chảy nghĩa lý xuyên suốt trong từng câu từng lời phô bày tâm chí người con Phật. Tâm chí ấy khởi đầu bằng sự quán chiếu tình trạng bản thân để thấy mình thiếu cái gì. Tiếp theo, tâm chí ấy được soi sáng qua hình ảnh đức Phật lịch sử nhằm phát khởi những tâm nguyện và hành vi cao đẹp. Cuối cùng, tâm chí ấy đúc kết với một hành động thề nguyện dứt khoát: dứt bỏ Phàm tình và noi theo Phật hạnh. Đức Cha lành của chúng ta đã đản sanh từ tâm chí ấy. Hôm nay, tưởng niệm ngày bậc Vĩ nhân ra đời, bài Khánh đản gợi lại tâm chí ấy để hướng dẫn cuộc đời chúng ta.

Từ sâu thẳm tâm hồn khơi dậy nhiều nỗi niềm tâm trạng mỗi lần tụng bài sám Khánh đản. Hổ thẹn thân phận. Tri ân báo ân. Khấn khích ý chí. Tức giận bản thân. Tự mừng cho mình. Giận mình biết dục tình ngoan cố nhưng nhiều khi vẫn chần chừ chưa dám dứt bỏ. Tức bản thân ý thức đức tánh quang minh song lắm lúc vẫn xem thường giác tánh để hành động gian tà. Hỗ khi thấy mình còn đầy tình ái si mê, sống trong ngục tù ân oán với trăm dây phiền não mà cứ tưởng thiên đường tịnh độ. Thẹn rằng mình đang thiếu phước và đã nhiều kiếp xoay vần trong ổ oan gia mà lắm lúc vẫn tự tung tự tác. Đúng là chúng ta sống trong thế giới thiếu nhơn lành, đang sa đọa và nghiệp báo không cùng. Song, đâu đó vẫn lóe lên một niềm tin mãnh liệt, đủ để quên đi và vượt qua mọi gian nan trở ngại. Tự mừng cho mình đã có lối đi. Chúng ta đã có đường về chứ không phải quên hẳn đường về.

“…Lối đi về đuốc tuệ thường soi, tiếng từ âm mãi thường vang, đường đi trải ánh nắng vàng…”

Chánh Trí

Công Đức Tắm Phật

Trong Kinh Dục Phật Công Đức có chép về tắm Phật có 15 công đức:

"... Những ai chí tâm cúng dường như thế sẽ có được mười lăm công đức thù thắng sau:
1. Thường biết tàm quý;
2. Phát khởi niềm tin thanh tịnh;
3. Tâm ngay thẳng;
4. Được gần gũi bạn lành;
5: Chứng huệ vô lậu;
6. Thường gặp chư Phật;
7. Luôn hành trì chánh pháp;
8. Làm đúng với lời nói;
9. Tuỳ ý sanh vào quốc độ chư Phật;
10. Nếu sanh trong nhân gian thì sanh vào dòng họ tôn quý, được người khác tôn kính, khởi tâm hoan hỷ;
11. Nếu sanh trong nhân gian thì tự nhiên biết niệm Phật;
12. Không bị ma quân gây tổn hại;
13. hay hộ trì chánh pháp trong thời mạt pháp;
14. Được chư Phật trong mười phương gia hộ;
15. Mau thành tựu được năm phần Pháp thân."

Nói sao cho hết công đức của Phật,
trong kinh thường dạy "công đức của Phật không thể nghĩ bàn".

SÁM TỤNG PHẬT KHÁNH ÐẢN (I)
(Rằm tháng tư)

  • Ðệ tử hôm nay,
  • Gặp ngày Khánh đản,
  • Một dạ vui mừng,
  • Cúi đầu đảnh lễ
  • Thập phương Tam thế,
  • Ðiều Ngự Như Lai,
  • Cùng Thánh, Hiền, Tăng.
  • Chúng con cùng pháp giới chúng sanh.
  • Bởi thiếu nhơn lành,
  • Thảy đều sa đọa;
  • Tham sân chấp ngã,
  • Quên hẳn đường về,
  • Tình ái si mê,
  • Tù trong lục đạo,
  • Trăm dây phiền não,
  • Nghiệp báo không cùng,
  • Nay nhờ Phật Tổ Năng Nhân,
  • Dủ lòng lân mẫn,
  • Không nỡ sinh linh thiếu phước,
  • Nặng kiếp luân hồi,
  • Ðêm dài tăm tối,
  • Ðuốc tuệ rạng soi.
  • Nguyện cứu muôn loài,
  • Pháp dùng phương tiện.
  • Ta bà thị hiện.
  • Thích chủng thọ sinh.
  • Thánh Ma Gia mộng ứng điềm lành,
  • Vua Tịnh Phạn phước sinh con thảo.
  • Ba mươi hai tướng tốt,
  • Vừa mười chín tuổi xuân,
  • Lòng từ ái cực thuần,
  • Chí xuất trần quá mạnh.
  • Ngai vàng quyết tránh,
  • Tìm lối xuất gia,
  • Sáu năm khổ hạnh rừng già,
  • Bảy thất nghiêm tinh thiền tọa.
  • Chứng thành đạo quả,
  • Hàng phục ma binh,
  • Ba cõi đều dậy tiếng hoan nghênh,
  • Muôn vật thảy nhờ ơn tế độ.
  • Chúng con nguyền,
  • Dứt bỏ dục tình ngoan cố,
  • Học đòi đức tánh quang minh.
  • Cúi xin Phật Tổ giám thành,Từ bi gia hộ.
  • Chúng con cùng pháp giới chúng sanh, Chóng thành đạo cả.

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.(30 lần)

Nam mô Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát.(3 lần)
Nam mô Ðại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát. (3 lần)
Nam mô Ðại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát.(3 lần)
Nam mô Ðạo Tràng Hội Thượng Phật Bồ Tát. (3 lần)

- Bài in trong “Kinh Nhựt Tụng”. Sen vàng xuất bản - Thành Hội Phật giáo TP. HCM tái bản 1994.
- Ðối chiếu trong "Nghi thức tụng niêm” chùa Xá Lợi Thành Hội Phật Giáo TP. HCM ấn hành 1993.

BÀI TỤNG NGÀY PHẬT ÐẢN (II)

  • Chúng con cung kính nghe rằng:
  • Nhớ lại thuở xa xưa,
  • Ðấng đại bi cứu thế.
  • Ðức Bồ-tát Thiện Huệ,
  • Bổ xứ tại Ta bà
  • Từ cõi trời Suất Ða,
  • Quán nhân duyên thời tiết.
  • Tịnh Phạn Vương cung khuyết,
  • Ứng mộng bà Ma Gia.
  • Cưỡi voi trắng sáu ngà,
  • Mang Thánh thai Bồ-tát.
  • Trong vườn hoa thơm ngát,
  • Một buổi sáng tinh sương,
  • Hoàng hậu đi dạo vườn,
  • Bỗng hạ sanh Thái tử.
  • Tin lan truyền khắp xứ,
  • Rằng Hoàng hậu sanh con,
  • Mừng vui cả nước non,
  • Hân hoan cùng vũ trụ.
  • Hàng Thiên Long ca vũ,
  • Các tầng trời rải bông,
  • Tắm thân có nước chín rồng,
  • Ðỡ gót có hoa bảy đóa.
  • ƯÙng thân mở đường giáo hóa,
  • Linh tích báo việc độ sanh,
  • Ít có mộng đẹp điềm lành,
  • Chẳng không tình thương đạo đức.
  • Trong ngoài thế gian đệ nhứt,
  • Trên dưới trời đất độc tôn!
  • Từ đó: cỏ cây chờ thánh gọi hồn,
  • Người vật đợi thầy truyền đạo.
  • Nhơn gian có thêm tôn giáo,
  • Thiên hạ không thiếu Thánh Hiền,
  • Kiếp sống giảm bớt não phiền,
  • Cuộc đời tăng thêm lợi lạc.
  • Phật Ðản hôm nay khai mạc,
  • Trăng tròn mùa Hạ tháng tư,
  • Hương thơm phụng hiến một lư,
  • Hoa quý cúng dường mấy phẩm.
  • Trước điện cúi đầu suy ngẫm,
  • Công ơn giáo hoùa cao dầy,
  • Dưới tọa ngửa mặt tỏ bày,
  • Hạnh nguyện tín tâm kiên cố.
  • Chớ tạo ác duyên đau khổ,
  • Nên xây thiện nghiệp an vui,
  • Gập ghềnh đường thánh không lui,
  • Tăm tối ngõ phàm chờ đợi.
  • Việc làm: Tự tha lưỡng lợi,
  • Ý nghĩ: Mê ngộ phân minh,
  • Thương người giúp vật như mình,
  • Trọng mạng quý thân của chúng.
  • Thực hiện từ bi diệu dụng,
  • Trau giồi trí tuệ thần thông,
  • Ðạo nghiệp mong thuở thành công,
  • Phước duyên đợi ngày mỹ mãn.
  • Hôm nay đón mừng Phật Ðản,
  • Thành tâm tán tụng hồng danh,
  • Giờ này rước lễ Giáng sanh,
  • Cung kính quan chiêm bảo tượng.
  • Vị Thánh muôn đời vô thượng,
  • Bậc Thầy ba cõi tối cao,
  • Giáng thần vằng vặc bóng sao,
  • Hạ sanh huy hoàng mặt nhật.
  • Chúng con cùng tất cả chúng sinh:
  • Sống kiếp hậu sinh thiếu đức,
  • Sanh đời mạt pháp ít duyên,
  • Rất may gặp đường Từ thuyền,
  • Tốt phước đón nhằm Pháp giá.
  • Mong ơn Ðạo sư giáo hóa,
  • Thắm nhuần lẽ đạo nhiệm mầu,
  • Thỏa lòng mấy thuở nguyện cầu,
  • Vui sống bao đời giải thoát.
  • Cúi mong Thế Tôn đại giác,
  • Từ bi tác đại chứng minh.
  • Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

- Trích Pháp Sự Khoa Nghi Việt Ngữ,HT Thích Hiển Tu, chùa Xá Lợi ấn hành nội bộ, Sàigòn, 1989




“Hôm nay được tắm cho Như Lai
Trí tuệ trang nghiêm công đức lớn
Chúng sanh ba cõi đang chìm đắm
Được thấy trần gian hiện pháp thân…”






Ý NGHĨA LỄ TẮM PHẬT

T.T THÍCH LỆ TRANG




Cách đây 2638 năm tại kinh thành Ca Tỳ La Vệ xứ trung Ấn Độ, giữa loài người chúng ta và trên trái đất xinh đẹp này, một đức Phật đã ra đời đó là đức Thích Ca Mâu Ni.

Theo truyền thuyết thái tử Tất Đạt Đa khi đản sinh đã bước đi bảy bước có hoa sen đở chân, cùng lúc ấy chư thiên tung hoa trời, trổi thiên nhạc đón mừng thái tử ra đời, trên không trung có chín rồng phun nước ấm mát tắm cho thái tử.

Kể từ đó cứ mỗi độ hè về sen nở vào ngày trăng tròn tháng tư âm lịch, Phật giáo đồ khắp năm châu đều đón mừng ngày khánh đản thái tử Tất Đạt Đa. Các chùa làm lễ Phật đản mở đầu bằng một nghi thức tắm Phật, người ta nấu trầm đàn, hương thủy để tưới lên tôn tượng thái tử, diễn lại sự kiện lịch sử bằng một bài thi kệ:

  • Ngã kim quán mộc chư Như Lai
  • Tịnh trí trang nghiêm công đức tụ
  • Ngũ trược chúng sanh linh ly cấu
  • Đồng chứng như Lai tịnh pháp thân.
  • Tỳ Gia thành ly bất tằng sanh
  • Ta La thọ gian bất tằng diệt
  • Bất sanh bất diệt lão Cù Đàm
  • Nhãn trung khán kiến trùng thiêm tiết.
  • Kim triêu chánh thị tứ nguyệt bát
  • Tịnh Phạn Vương cung sanh Tất Đạt
  • Cửu Long phún thủy thiên ngoại lai
  • Bỗng túc liên hoa tùng địa phát.
  • Án mâu ni mâu ni, tam mâu ni tá phạ ha.

 

  • Dịch nghĩa: 
  • Hôm nay được tắm cho Như Lai
  • Trí tuệ trang nghiêm công đức lớn
  • Chúng sanh ba cõi đang chìm đắm
  • Được thấy trần gian hiện pháp thân.
  • Trong thành Tỳ Gia chưa từng sanh
  • Giữa cây Ta La chưa từng diệt
  • Bất sanh bất diệt đức Cù Đàm
  • Mắt sáng rạng soi không vẫn đục.
  • Ngày trăng tròn tháng tư âm lịch
  • Cung vua Tịnh Phạn sanh Tất Đạt
  • Chín rồng phun nước tắm kim thân
  • Mỗi bước hoa sen nâng gót ngọc.
  • Nam mô bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

Bốn câu kệ đầu là bài kệ tắm Phật trong Kinh Dục Phật Công Đức, ý nói nay con được rưới nước tắm gội kim thân của chư Phật, thân Phật là khối công đức được trang nghiêm bởi trí tuệ thanh tịnh. Ước nguyện mọi loài chúng sanh ở trong thế giới đầy năm thứ vẫn đục nầy, mong cho mọi người chuyển hóa khổ đau, thoát ly ô trược, cùng chứng được pháp thân thanh tịnh của Như Lai.

Bốn câu kế tiếp là pháp ngữ trong Đại Tuệ Ngữ Lục. ý nói pháp thân của Như Lai là bất sanh bất diệt, chuyện bồ tát Thiện Huệ giáng trần tại vườn Lâm Tỳ Ni thành Ca Tỳ La Vệ miền trung Ấn, là ngài vì lòng từ bi, vì sự an lạc, hạnh phúc cho chúng sanh mà thị hiện ra đời. Năm mười chín tuổi xuất gia, ba mươi tuổi thành đạo dưới cội bồ đề. Qua bốn mươi chín năm thuyết pháp độ sanh, cuối cùng trong cánh rừng Ta La song thọ ở Câu Thi Na vào lúc nửa đêm tĩnh mịch đức Phật thị hiện niết bàn, một trạng huống Tánh Tịnh Vô Trụ. Ta cần hiểu rõ thêm đạo lý sanh diệt trong Phật giáo: Sanh là biểu hiện, diệt là ẩn tàng. Sự ẩn tàng của giai đoạn này là sự biểu hiện của giai đoạn kế tiếp. Như vậy sanh diệt tiếp nối tương tục, sanh chính là diệt, diệt chính là sanh. Do đó, sanh không thật sanh, diệt không thật diệt. Vì sanh không thật sanh nên gọi là bất sanh, diệt không thật diệt nên gọi là bất diệt. ở góc độ đạo lý sanh diệt thì sự đản sanh, diệt độ của đức Phật Thích Ca Mâu Ni lịch sử cũng là bất sanh bất diệt. Qua cái nhìn pháp thân thường trú, bất sanh bất diệt thì thân Phật là từ thể tánh chơn như thanh tịnh mà dẫn ra, từ bản nguyện độ sanh mà thị hiện nên không có thời kỳ kết thúc. Nếu dùng con mắt phàm phu nhìn pháp thân mà thấy có sanh diệt, thì cái thấy đó chỉ là cái thấy điên đảo, có thêm có bớt, có sanh có diệt. “nhãn trung thiêm tiết - trong tròng con mắt bị bụi nhặm”. Đức Phật vẫn hiện hữu thường trú, nhưng vì chúng sanh mê lầm nên không thấy đó thôi. Đại thừa Trang Nghiêm Kinh Luận chép: “Chậu nước bị bể nên ánh trăng không hiện được, như vậy lỗi ở chúng sanh vì mê chấp, nên không thấy đức Phật luôn có mặt ở cõi đời.”

Bốn câu cuối là nhắc lại việc đản sanh của thái từ Tất Đạt Đa, đức Phật Thích Ca Mâu Ni lịch sử. Hàng năm vào ngày trăng tròn tháng tư âm lịch, các chùa tổ chức lễ hội tắm Phật. Kinh Phổ Diệu chép: “Thái tử vừa đản sanh, khi ấy trong không trung có chín con rồng phun nước thơm xuống tắm gội kim thân thái tử”. Kinh Ưu Bà Di Pháp Môn Tịnh Hạnh chép: “Thái tử vừa đản sinh liền bước đi bảy bước có bảy đóa sen đở gót. Mỗi bước chân thái tử nhìn về một phương: Đông, Tây, Nam, Bắc, Thượng, Hạ, đến bước thứ bảy thái tử một tay chỉ lên trời một tay chỉ xuống đất rồi dõng dạt tuyên bố: “Thiên thượng thiên hạ, duy ngã độc tôn – trên trời dưới trời chỉ có ta là hơn hết.” Kinh Tăng Chi Bộ chép: “Một Người, này các tỳ kheo, khi xuất hiện ở đời là xuất hiện một người không có hai, không có đồng bạn, không có so sánh, không có tương tự, không có đối phần, không có người ngang bằng, không có đặt ngang bằng, bậc tối thượng của loài người. Người ấy là ai? Chính là Như Lai bậc A La Hán Chánh Đẳng Chánh Giác”.

Lễ tắm Phật hàm ẩn một ý nghĩa rất cao siêu. Pháp thân thanh tịnh, thí dụ cho Phật tánh vốn tiềm ẩn trong mỗi người, nhưng vì bụi bặm phiền não tham sân… che lấp, nên Phật tánh không hiển lộ ra được. Muốn hiển lộ Phật tánh, phải mượn nước thơm để tẩy rửa bụi trần. Lễ tắm Phật cũng là một đề tài giúp chúng ta quán niệm đến việc gột rửa thân tâm của chính mình, để tìm lại tự tánh thanh tịnh vốn sẵn có nơi tự tâm. Trong Đại Việt Sử Ký toàn thư có chép: “vào ngày mồng tám tháng tư năm Nhâm Tý (1072) vua Lý Nhân Tông đã ra chùa Diên Hựu dự lễ tắm Phật.” Văn bia tháp Sùng Thiện Diên Linh cũng ghi: “Qua các triều đại, nhà vua thường đến chùa lễ Phật, tổ chức lễ hội kỳ quốc thái dân an và dâng nước thơm tắm Phật vào những ngày sóc vọng.” Sách Lĩnh Nam Chích Quái chép: “ngày mồng tám tháng tư âm lịch, Man Nương tự nhiên thác hóa, nhân dân lấy ngày đó làm ngày sinh của Bụt.” Hàng năm cứ đến ngày này già trẻ, gái trai bốn phương tụ tập về chùa để dâng lễ, chung vui, ca hát, tục lệ này gọi là “Hội Tắm Phật”.

Theo dòng lịch sử dân tộc, lễ Phật đản cùng nghi thức Tắm Phật, đã trở thành một nét sinh hoạt tâm linh cao đẹp trong văn hóa Việt Nam “Mồng tám tắm Bụt không mưa, bỏ cả cày bừa vất cả lúa đi”. Người con Phật với lòng tôn kính Tam Bảo, trên nền tảng của chánh kiến, mỗi khi thắp một nén hương, dâng một cành hoa lên đức Phật, hay rưới những gáo nước thơm tinh khiết lên tôn tượng Như Lai, với một tâm niệm nguyện quay về nương tựa với giác tánh nơi tự tâm, trang nghiêm cho chính mình bằng hương thơm đức hạnh, bằng cành hoa trí tuệ và bằng nước từ bi nhẫn nhục, để có khả năng tùy thuận thích ứng với mọi duyên thuận, nghịch, chuyển hóa tự thân, trang nghiêm tịnh độ. Phải chăng trong giây phút cảm ứng mầu nhiệm, ta cũng thấy được mình đang tắm gội đức Phật của chính mình. Đúng như câu châm ngôn: “Trang nghiêm tự thân chính là trang nghiêm giáo hội”.

Thứ Năm, 29 tháng 4, 2021

Thiền Định











MAI ĐỨC CHÍNH con người sống vì lý trí của chính mình chọn lựa.

Bình thản hơn một chút, cuộc sống sẽ hạnh phúc thêm vài phần. Người bình thản, sẽ không quá cao hứng khi khách quý chật nhà, cũng không ấm ức trong tâm khi người cuối cùng rời đi; khi thành công không quá đắc ý mà ngạo mạn, lúc thất bại cũng không nản lòng thoái chí. Bình thản có thể khắc chế cái tâm bốc đồng, loại bỏ tư tưởng hỗn tạp.
Bình thản là một loại tu dưỡng, một loại cảnh giới, một loại tâm thái ẩn chứa nội hàm sâu sắc, có thể khiến người ta trong gian khổ mà vẫn thong dong tự tại.

Tại mỗi thời điểm, tại từng ngã rẽ đều có những ám hiệu được đưa ra, nhưng khi đó chúng ta lại mờ mịt không biết. Lúc quay đầu nhìn lại, bỗng phát hiện mọi thứ đều rõ ràng trước mắt, mới mỉm cười mà lĩnh ngộ sự thống khổ, bi thương.

Đối với cuộc sống của bạn, người có sức ảnh hưởng lớn nhất là chính bạn. Người quyết định bạn hạnh phúc hay khổ đau cũng chính là bản thân bạn. Nếu không có sự cho phép của bạn, bất kể thứ gì cũng không thể khiến bạn đau buồn hay vui vẻ.
Không ai cướp đi niềm hạnh phúc của bạn. Người có thể cướp đi điều đó là chính bạn, bởi vì bạn giao niềm vui của mình cho người khác nắm giữ. Bạn không cách nào ngăn chặn được cơn lũ, nhưng bạn có thể học cách kiến tạo một con thuyền.

Cuộc sống của chúng ta, không phải vì lấy sự ưa thích của người khác mà tồn tại, chúng ta là tự do tự tại, không cần phải đòi hỏi ai yêu thích mình, có thể vui vẻ mà lưng đeo đại địa, mặt hướng trời xanh. Chỉ cần bạn hiểu được điều này, gông xiềng đã bị phá bỏ, bạn có thể tự do mà hít thở, chỉ có buông bỏ mới khiến chúng ta mạnh mẽ.

Thiền Định giúp ĐỨC CHÍNH được trở về với tính chân như của mình.

Thứ Ba, 27 tháng 4, 2021

Kệ Phước Tài Lộc SIVALI




BẢN NGẮN GỌN

Đệ Nhất Phước Điền

Đức Phật Pháp Tăng Sivali


Kệ Phước Tài Lộc




Sīvali ca mahanamam        Ngài Đại Đức Sīvali bậc đại danh

Sīvali ca mahalabham        Ngài Đại Đức Sīvali bậc đại tài lộc

Sabbalabham bhavissati     Cầu xin tất cả tài lộc sẽ phát sanh

Therassa anubhavena        Do nhờ oai lực của Ngài Đại Đức,

Sabbe hontu piyam mama  Cầu xin Chư thiên và nhân loại

Sada hontu piyaṃ mama    Đều có tâm từ thương mến con.



BẢN ĐẦY ĐỦ

Nam mô thánh tăng Sivali
Kính lễ bậc đức trí
Quả hiện phật chứng tri
Kính phật trời gia bị
Nguyện chúng sinh an hỷ
Tâm từ bi cúng thí
Quả tài lộc vô nghị
Xin thương con hộ trì
Om Vasu Dhare Svaha, Sivali
( kệ tụng sinh phước đức tài lộc )


KỆ CẦU TÀI LỘC - SĪVALI GĀTHĀ


1.”Sīvali ca mahanamam,
Sabbalabhaṃ bhavissati
Therassa anubhavena,
Sabbe hontu piyam mama”.

Ngài Đại đức Sīvali bậc đại danh
Cầu xin tất cả tài lộc sẽ phát sanh
Do nhờ oai lực của Ngài Đại đức,
Tất cả chúng sanh, chư thiên, nhân loại,
Đều có tâm từ thương mến con.


2. “Sīvali ca mahalabham,
Sabbalabham bhavissati
Therassa anubhavena
Sada hontu piyaṃ mama”.

Ngài Đại đức Sīvali bậc đại tài lộc
Cầu xin tất cả tài lộc sẽ phát sanh,
Do nhờ oai lực của Ngài Đại đức,
Cầu xin Chư thiên, nhân loại luôn luôn yêu mến con.

3. “Sīvali ca mahathero,

mama sise thapetvana,
Mantitena jāyomantam,
aham vandami Sabbada”.

Ngài Đại đức Sīvali bậc cao thượng,
Con tôn kính Ngài ở trên đầu con.
Con xin tán dương ca tụng ân đức của Ngài
Con luôn luôn kính đảnh lễ Ngài.











KỆ CẦU TÀI LỘC THEO TRUYỀN THỐNG PHẬT GIÁO NGUYÊN THUỶ
Chùa A Di Đà 

Đó là bài “Cầu mười phương Tam Bảo gia hộ cho mình và nếu người nào tụng theo, an trú tâm bắt đầu cầu từng hướng, hướng đông, đông-nam, hướng nam, tây-nam, hướng tây, hướng tây-bắc, hướng bắc, hướng đông- bắc, hướng trên, hướng dưới cũng giống như chúng ta rãi lòng từ vậy.



Theo truyền thống Phật giáo nguyên thuỷ không khuyến khích nhưng theo thông lệ ở đời và theo pháp lệ hàng Phật tử ai cũng vậy kể cả chư Tăng đều mong muốn có được tài lộc dồi dào trước là để sống đời đạo đức sau là để cúng dường cho Tăng chúng hoặc để xây dựng chùa chiền, phát triển Phật Pháp. Do đó thời pháp hôm nay chúng tôi sẽ đề cập vấn đề cầu tài lộc theo truyền thống Phật giáo nguyên thuỷ và chúng tôi sẽ dựa theo một bài kinh mà chúng tôi mới vừa dịch ra theo nguyên bản Pali Thái Lan, đã được đăng trong Tập Văn Nguyên Thuỷ số 9. Nếu quý vị nào có thấy được bài kinh đó, bài văn đó quý vị thực hành theo thì có lẽ quý vị sẽ dễ dàng có được tài lộc nếu quý vị tin tưởng. Nhưng vì trong tập Văn Nguyên Thuỷ, đất tức là trang in kinh ít ỏi nên Đại Đức Siêu Minh chỉ cho in phần văn tiếng Việt mà thôi, cũng như không biết được bài kinh văn bằng tiếng Pali Thái, hoặc là cách tụng. Trước khi chúng tôi đi sâu vào mổ xẻ vấn đề cầu tài lộc nhân dịp đầu xuân, hiến cho Phật tử một pháp thoại đặc biệt rất cần thiết trong năm mới nhất là trên con đường tu tập. Chúng tôi xin tụng trước bài văn Pali Thái rồi chúng tôi sẽ tụng bài văn tiếng Việt.

Bu ra pha rás sa mĩn, phrá phút thá khú năng;
Bu ra pha rás sa mĩn, phrá thăm mê tăng;
Bu ra pha rás sa mĩn, phrá săng kha năng;
Đúc khá rô khá phá dăng, wí wanh chây dê;
Sặp ba thúc, sặp ba sộc, sặp ba rốc, sặp ba phây, sặp ba khró,
sa nịt chanh rây, wí wanh chây dê.
Sặp bá tha năng, sặp bá la phăng, phá wanh tú mê, rắc khanh tú, su rắc khanh tú.

A khá nây rás sa mĩn, phrá phút thá khú năng;
A khá nây rás sa mĩn, phrá thăm mê tăng;
A khá nây rás sa mĩn, phrá săng kha năng;
Đúc khá rô khá phá dăng, wí wanh chây dê;
Sặp ba thúc, sặp ba sộc, sặp ba rốc, sặp ba phây, sặp ba khró,
sa nịt chanh rây, wí wanh chây dê.
Sặp bá tha năng, sặp bá la phăng, phá wanh tú mê, rắc khanh tú, su rắc khanh tú.

Thăc sỉn rás sa mĩn, phrá phút thá khú năng;
Thăc sỉn rás sa mĩn, phrá thăm mê tăng;
Thăc sỉn rás sa mĩn, phrá săng kha năng;
Đúc khá rô khá phá dăng, wí wanh chây dê;
Sặp ba thúc, sặp ba sộc, sặp ba rốc, sặp ba phây, sặp ba khró,
sa nịt chanh rây, wí wanh chây dê.
Sặp bá tha năng, sặp bá la phăng, phá wanh tú mê, rắc khanh tú, su rắc khanh tú.

Hô rá đi rás sa mĩn, phrá phút thá khú năng;
Hô rá đi rás sa mĩn, phrá thăm mê tăng;
Hô rá đi rás sa mĩn, phrá săng kha năng;
Đúc khá rô khá phá dăng, wí wanh chây dê;
Sặp ba thúc, sặp ba sộc, sặp ba rốc, sặp ba phây, sặp ba khró,
sa nịt chanh rây, wí wanh chây dê.
Sặp bá tha năng, sặp bá la phăng, phá wanh tú mê, rắc khanh tú, su rắc khanh tú.

Pạch chim rás sa mĩn, phrá phút thá khú năng;
Pạch chim rás sa mĩn, phrá thăm mê tăng;
Pạch chim rás sa mĩn, phrá săng kha năng;
Đúc khá rô khá phá dăng, wí wanh chây dê;
Sặp ba thúc, sặp ba sộc, sặp ba rốc, sặp ba phây, sặp ba khró,
sa nịt chanh rây, wí wanh chây dê.
Sặp bá tha năng, sặp bá la phăng, phá wanh tú mê, rắc khanh tú, su rắc khanh tú.

Ba dắp rás sa mĩn, phrá phút thá khú năng;
Ba dắp rás sa mĩn, phrá thăm mê tăng;
Ba dắp rás sa mĩn, phrá săng kha năng;
Đúc khá rô khá phá dăng, wí wanh chây dê;
Sặp ba thúc, sặp ba sộc, sặp ba rốc, sặp ba phây, sặp ba khró,
sa nịt chanh rây, wí wanh chây dê.
Sặp bá tha năng, sặp bá la phăng, phá wanh tú mê, rắc khanh tú, su rắc khanh tú.

Ụ đoon rás sa mĩn, phrá phút thá khú năng;
Ụ đoon rás sa mĩn, phrá thăm mê tăng;
Ụ đoon rás sa mĩn, phrá săng kha năng;
Đúc khá rô khá phá dăng, wí wanh chây dê;
Sặp ba thúc, sặp ba sộc, sặp ba rốc, sặp ba phây, sặp ba khró,
sa nịt chanh rây, wí wanh chây dê.
Sặp bá tha năng, sặp bá la phăng, phá wanh tú mê, rắc khanh tú, su rắc khanh tú.

I sãn rás sa mĩn, phrá phút thá khú năng;
I sãn rás sa mĩn, phrá thăm mê tăng;
I sãn pha rás sa mĩn, phrá săng kha năng;
Đúc khá rô khá phá dăng, wí wanh chây dê;
Sặp ba thúc, sặp ba sộc, sặp ba rốc, sặp ba phây, sặp ba khró,
sa nịt chanh rây, wí wanh chây dê.
Sặp bá tha năng, sặp bá la phăng, phá wanh tú mê, rắc khanh tú, su rắc khanh tú.

A kạt rás sa mĩn, phrá phút thá khú năng;
A kạt rás sa mĩn, phrá thăm mê tăng;
A kạt rás sa mĩn, phrá săng kha năng;
Đúc khá rô khá phá dăng, wí wanh chây dê;
Sặp ba thúc, sặp ba sộc, sặp ba rốc, sặp ba phây, sặp ba khró,
sa nịt chanh rây, wí wanh chây dê.
Sặp bá tha năng, sặp bá la phăng, phá wanh tú mê, rắc khanh tú, su rắc khanh tú.

Pạ thạ wi rás sa mĩn, phrá phút thá khú năng;
Pạ thạ wi rás sa mĩn, phrá thăm mê tăng;
Pạ thạ wi rás sa mĩn, phrá săng kha năng;
Đúc khá rô khá phá dăng, wí wanh chây dê;
Sặp ba thúc, sặp ba sộc, sặp ba rốc, sặp ba phây, sặp ba khró,
sa nịt chanh rây, wí wanh chây dê.
Sặp bá tha năng, sặp bá la phăng, phá wanh tú mê, rắc khanh tú, su rắc khanh tú.

(Nguyên thủy tự, 09-01-2008)


Đó là bài tụng bằng tiếng Pali Thái , bài này được gọi là bài “ Cầu mười phương Tam bảo gia hộ” tức là cầu Tam Bảo ở mười hướng để gia hộ, phù hộ cho mình. Vậy Tam bảo mười hướng độ cho mình như thế nào, quý vị xem bản dịch dựa theo bài kinh Pali Thái này mà chúng tôi mới vừa dịch xong:

Xin ân đức Phật có trong hướng đông,
Xin ân đức Pháp có trong hướng đông,
Xin ân đức Tăng có trong hướng đông,
Hãy độ cho con tránh khỏi tai nạn, bệnh hoạn, khổ sầu.
Hãy độ cho con tránh khỏi tất cả sao xung, hạn xấu, khổ, sầu, bệnh, tai.
Hãy độ cho con có lộc có tài.
Hãy hằng gia hộ độ hoài cho con!

Xin ân đức Phật trong hướng đông-nam,
Xin ân đức Pháp trong hướng đông-nam,
Xin ân đức Tăng trong hướng đông-nam,
Hãy độ cho con tránh khỏi tai nạn, bệnh hoạn, khổ sầu.
Hãy độ cho con tránh khỏi tất cả sao xung, hạn xấu, khổ, sầu, bệnh, tai.
Hãy độ cho con có lộc có tài.
Hãy hằng gia hộ độ hoài cho con!

Xin ân đức Phật có trong hướng nam,
Xin ân đức Pháp có trong hướng nam,
Xin ân đức Tăng có trong hướng nam,
Hãy độ cho con tránh khỏi tai nạn, bệnh hoạn, khổ sầu.
Hãy độ cho con tránh khỏi tất cả sao xung, hạn xấu, khổ, sầu, bệnh, tai.
Hãy độ cho con có lộc có tài.
Hãy hằng gia hộ độ hoài cho con!

Xin ân đức Phật trong hướng tây-nam,
Xin ân đức Pháp trong hướng tây-nam,
Xin ân đức Tăng trong hướng tây-nam,
Hãy độ cho con tránh khỏi tai nạn, bệnh hoạn, khổ sầu.
Hãy độ cho con tránh khỏi tất cả sao xung, hạn xấu, khổ, sầu, bệnh, tai.
Hãy độ cho con có lộc có tài.
Hãy hằng gia hộ độ hoài cho con!

Xin ân đức Phật có trong hướng tây,
Xin ân đức Pháp có trong hướng tây,
Xin ân đức Tăng có trong hướng tây,
Hãy độ cho con tránh khỏi tai nạn, bệnh hoạn, khổ sầu.
Hãy độ cho con tránh khỏi tất cả sao xung, hạn xấu, khổ, sầu, bệnh, tai.
Hãy độ cho con có lộc có tài.
Hãy hằng gia hộ độ hoài cho con!

Xin ân đức Phật trong hướng tây-bắc,
Xin ân đức Pháp trong hướng tây-bắc,
Xin ân đức Tăng trong hướng tây-bắc,
Hãy độ cho con tránh khỏi tai nạn, bệnh hoạn, khổ sầu.
Hãy độ cho con tránh khỏi tất cả sao xung, hạn xấu, khổ, sầu, bệnh, tai.
Hãy độ cho con có lộc có tài.
Hãy hằng gia hộ độ hoài cho con!

Xin ân đức Phật có trong hướng bắc,
Xin ân đức Pháp có trong hướng bắc,
Xin ân đức Tăng có trong hướng bắc,
Hãy độ cho con tránh khỏi tai nạn, bệnh hoạn, khổ sầu.
Hãy độ cho con tránh khỏi tất cả sao xung, hạn xấu, khổ, sầu, bệnh, tai.
Hãy độ cho con có lộc có tài.
Hãy hằng gia hộ độ hoài cho con!

Xin ân đức Phật trong hướng Đông-bắc,
Xin ân đức Pháp trong hướng Đông-bắc,
Xin ân đức Tăng trong hướng Đông-bắc,
Hãy độ cho con tránh khỏi tai nạn, bệnh hoạn, khổ sầu.
Hãy độ cho con tránh khỏi tất cả sao xung, hạn xấu, khổ, sầu, bệnh, tai.
Hãy độ cho con có lộc có tài.
Hãy hằng gia hộ độ hoài cho con!

Xin ân đức Phật có trong hướng trên,
Xin ân đức Pháp có trong hướng trên,
Xin ân đức Tăng có trong hướng trên,
Hãy độ cho con tránh khỏi tai nạn, bệnh hoạn, khổ sầu.
Hãy độ cho con tránh khỏi tất cả sao xung, hạn xấu, khổ, sầu, bệnh, tai.
Hãy độ cho con có lộc có tài.
Hãy hằng gia hộ độ hoài cho con!

Xin ân đức Phật có trong hướng dưới,
Xin ân đức Pháp có trong hướng dưới,
Xin ân đức Tăng có trong hướng dưới,
Hãy độ cho con tránh khỏi tai nạn, bệnh hoạn, khổ sầu.
Hãy độ cho con tránh khỏi tất cả sao xung, hạn xấu, khổ, sầu, bệnh, tai.
Hãy độ cho con có lộc có tài.
Hãy hằng gia hộ độ hoài cho con!

Đó là bài “Cầu mười phương Tam Bảo gia hộ cho mình và nếu người nào tụng theo, an trú tâm bắt đầu cầu từng hướng, hướng đông, đông-nam, hướng nam, tây-nam, hướng tây, hướng tây-bắc, hướng bắc, hướng đông- bắc, hướng trên, hướng dưới cũng giống như chúng ta rãi lòng từ vậy. Nhưng bài này là cầu tất cả những ân đức Phật nào có trong hướng đông chẳng hạn, hoặc ân đức Pháp nào có trong hướng đông hay ân đức Tăng nào có trong hướng đông thì nhờ ân đức đó, nhờ oai lực đó độ cho mình tránh khỏi những tai nạn, những bệnh hoạn, những khổ sầu, tránh khỏi những sao xung, hạn xấu, khổ, sầu, bệnh, tai. Mặt khác tất cả những tài lợi trong hướng đó, hãy độ cho con có lộc có tài và cầu xin oai lực Tam Bảo hãy độ hoài cho mình, độ luôn luôn, độ thường xuyên. Nếu tụng thường xuyên thì phước của họ sẽ nương theo cầu xin Tam bảo mười phương gia hộ cho mình. Trong tập Văn Nguyên Thuỷ có lẽ cũng đã upload lên mạng, quý vị nào muốn lấy bài văn tiếng Việt để tụng hoặc tụng bằng tiếng Pali Thái cũng được.

Chúng tôi sang Thái Lan, thấy người Thái Lan, chư Tăng, Phật tử tài lợi rất dồi dào. Phần lớn người ta có những bài kinh Parita, những bài kinh cầu tài , lộc để trì tụng, nhất là bài này trong khoá lễ nhật tụng hằng ngày, hay lễ bái Tam Bảo nhất định họ phải tụng bài này. Và không phải tụng bài này mới là cầu cho mình, mình được hưởng phần rồi. Nếu tụng cầu cho Phật tử người ta cũng cầu xin oai lực Tam bảo ở các hướng để độ cho người Phật tử. Người ta tụng nghe rất hùng hồn, rất mạnh. Chúng tôi không có được giọng hay nhưng cũng lấy âm giọng na ná tụng cho quý vị nghe, tụng theo. Nếu quý vị có dịp đi Thái Lan hay gặp chư Tăng Thái Lan tụng kinh Paritta có âm lực nghe như có sự đẩy tới.

Chúng tôi xin tụng lại một đoạn

Bu ra pha rás sa mĩn, phrá phút thá khú năng;
Bu ra pha rás sa mĩn, phrá thăm mê tăng;
Bu ra pha rás sa mĩn, phrá săng kha năng;
Đúc khá rô khá phá dăng, wí wanh chây dê;
Sặp ba thúc, sặp ba sộc, sặp ba rốc, sặp ba phây, sặp ba khró,
sa nịt chanh rây, wí wanh chây dê.
Sặp bá tha năng, sặp bá la phăng, phá wanh tú mê, rắc khanh tú, su rắc khanh tú.
Mê là cho mình và tê là cho người

Có lẽ bài kinh này lạ đối với Phật tử Việt-Nam nhưng vì chúng tôi thấy bài này hay, có giá trị nhiều. Có giá trị ở chỗ nhờ ân đức Phật che chở cho chúng ta tránh khỏi tất cả những tai nạn, bệnh hoạn khổ sầu. Đây là những điều chúng ta cần nhất trong cuộc sống, chúng ta có đai ân đại phước hưởng được sự che chở của Tam Bảo, và còn thêm một điều nữa là nhờ uy lực Tam Bảo để đưa đến những lợi lộc,
Sặp bá tha năng ( tất cả tài sản),
sặp bá la phăng (tất cả tài lộc),
phá wanh tú mê ( hãy có đến cho con) ,
rắc khanh tú, su rắc khanh tú. (Hãy độ cho con có lộc có tài.
Hãy hằng gia hộ độ hoài cho con)

Tụng theo âm giọng Pali Thái nghe rất hay. Khi đọc tụng tiếng Việt vẫn có giá trị tương đương. Đọc tụng theo tiếng Pali Thái có cái hùng hồn của tiếng Thái và như có lực đẩy tới để tránh những tai bay hoạ gửi và để phước báu sanh lên. Quý vị nào tin tưởng chắc chắn sẽ đạt được.

Bài cầu tài lộc thứ hai hầu như Phật tử Việt Nam đều thích, tức là bài cầu tài lộc của Ngài Sivali. Có lẽ Ngài Sivali đối với hàng chư Tăng, đối với hàng Phật tử ai cũng thấy được sự linh thiêng, thấy được sự linh nghiệm khi thờ Ngài Sivali hay tụng kinh cầu tài lộc từ Ngài Sivali. Quý vị để ý khi bắt đầu từ khi mình tin tưởng, đeo tượng Ngài Sivali, thờ Ngài Sivali, tụng cầu ân đức Ngài Sivali thì tài lợi càng ngày càng phát sanh. Không kể riêng hàng cư sĩ mà Chư Tăng nào đọc tụng cũng có uy lực có lợi ích đó. Riêng bài cầu tài lợi Ngài Sivali có rất nhiều bài, có nhiều dị bản. Cách đây hơn 20 năm về trước chúng tôi học được bài này, thật ra chúng tôi cũng không mặn mà gì đối với bài cầu tài lộc này nhưng sau này thấy mọi người tụng cầu có kết quả nên cũng bắt chước cầu theo, chúng tôi cảm thấy mỗi ngày tài lộc tăng tiến, còn bài cầu 10 phương Tam Bảo độ mình chúng tôi chỉ mới học hai ba năm nay thôi. Chúng tôi tụng âm giọng có thể không chính xác 100% nhớ đến đâu chúng tôi tụng đến đó và chúng tôi sẽ giải nghĩa.

Sivali ca mahathero ( Ngài đại trưởng lão có tên Sivali)
Devata nara pujito (Đã được sự cúng dường của Chư Thiên, nhân loại)
Soraho paccayadimhi (Đã nhận được sựcúng dường đặc biệt từ nơi các vị đó)
Aham. Vandami tam. Sada ( Tôi xin luôn luôn đảnh lễ Ngài Sivali)

Sivali ca mahathero ( Ngài đại trưởng lão có tên Sivali)
Yakkha davabhipujito (Đã được Chư Thiên và Dạ Xoa cúng dường)
Soraho paccayadimhi (Đã nhận được sựcúng dường đặc biệt từ nơi các vị đó)
Aham. Vandami tam. Sada ( Tôi xin luôn luôn đảnh lễ Ngài Sivali)

Sivali ca mahatherassa etam.( Ân đức đặc biệt của Ngài Sivali đó)
Gunam. Sotthi labham. Bhavantu me ( Xin tài lộc đó hãy phát sanh đến cho tôi)

Sotthi là tài Labham. là lộc. Bhavantu me là xin tài lộc đó hãy phát sanh cho tôi. Ngài Sivali có ân đức tài lộc nào phát sanh đến cho Ngài trong ngày xưa trong đời sống của Ngài đã hưởng và được Đức Phật công nhận và tuyên bố trước mặt chư Tăng là “Đệ nhất về tài lộc” như thế nào thì ân đức tài lộc đó ngày hôm nay. Ngày xưa Ngài đi đến đâu ai cũng hưởng được sự Chư Thiên cúng dường thì ngày hôm nay tôi cầu ân đức đó xuất hiện hay hiện diện nơi tôi, để ân đức đó đưa đến tài lộc cho tôi. Đó là bài cầu tài lộc của Ngài Sivali

Có nhiều bản, bản này bên Thái Lan xem như là bản chính còn có nhiều bản phụ bên Miến Điện hay của những thiền sư Việt Nam sáng tác ra. Bài đó chỉ cần lấy ý ai sáng tác cũng được nhưng có lẽ bài này linh ứng nhất. Chúng ta thấy rõ ràng tại xứ Thái Lan chư tăng Phật tử ai cũng phải thuộc bài Sivali này hết. Xứ Thái Lan được giàu có, ngoài phước báu đời quá khứ ngoài phước báu theo Phật giáo, ngoài vấn đề làm ăn trong xã hội phải nói ít nhiều cũng có ảnh hưởng bài kệ tài lộc này đối với Phật giáo đồ. Không biết bài tụng Sivali bên Miến Điện có linh ứng không nhưng nói chung người Miến Điện vẫn khổ hơn nguời Thái. Do đó bài cầu tài lộc Thái này có lẽ do lâu đời hiển linh và có thể đạt được như ý, và quý vị hãy trì tụng.

Tôi xin chấm dứt thời pháp tại đây.

Nguồn tin: http://minhhanhdp.brinkster.net/

Tác giả: Chánh Hạnh chuyển biên