Đầu xuân 2016 tôi chúc tết thầy Thích Lệ Minh ở chùa Thiện Mỹ (facebook Thích Lệ Minh) , thầy cho tôi một cái lộc có in hình vị thánh tăng SĪVALI , đó là vị thần tài của phật giáo , hôm nay tôi cùng cầu nguyện tới ngài
Nam mô thánh tăng SivaliKính lễ bậc đức tríQuả hiện phật chứng triKính phật trời gia bịNguyện chúng sinh an hỷTâm từ bi cúng thíQuả tài lộc vô nghịXin thương con hộ trìOm Vasu Dhare Svaha, Sivali( kệ tụng sinh phước đức tài lộc )
KỆ CẦU TÀI LỘC - SĪVALI GĀTHĀ
1.”Sīvali ca mahanamam,
Sabbalabhaṃ bhavissati
Therassa anubhavena,
Sabbe hontu piyam mama”.
Ngài Đại đức Sīvali bậc đại danh
Cầu xin tất cả tài lộc sẽ phát sanh
Do nhờ oai lực của Ngài Đại đức,
Tất cả chúng sanh, chư thiên, nhân loại,
Đều có tâm từ thương mến con.
2. “Sīvali ca mahalabham,
Sabbalabham bhavissati
Therassa anubhavena
Sada hontu piyaṃ mama”.
Ngài Đại đức Sīvali bậc đại tài lộc
Cầu xin tất cả tài lộc sẽ phát sanh,
Do nhờ oai lực của Ngài Đại đức,
Cầu xin Chư thiên, nhân loại luôn luôn yêu mến con.3. “Sīvali ca mahathero,mama sise thapetvana,Mantitena jāyomantam,aham vandami Sabbada”.Ngài Đại đức Sīvali bậc cao thượng,Con tôn kính Ngài ở trên đầu con.Con xin tán dương ca tụng ân đức của NgàiCon luôn luôn kính đảnh lễ Ngài.
Đó là bài “Cầu mười phương Tam Bảo gia hộ cho mình và nếu người nào tụng theo, an trú tâm bắt đầu cầu từng hướng, hướng đông, đông-nam, hướng nam, tây-nam, hướng tây, hướng tây-bắc, hướng bắc, hướng đông- bắc, hướng trên, hướng dưới cũng giống như chúng ta rãi lòng từ vậy.
Theo truyền thống Phật giáo nguyên thuỷ không khuyến khích nhưng theo thông lệ ở đời và theo pháp lệ hàng Phật tử ai cũng vậy kể cả chư Tăng đều mong muốn có được tài lộc dồi dào trước là để sống đời đạo đức sau là để cúng dường cho Tăng chúng hoặc để xây dựng chùa chiền, phát triển Phật Pháp. Do đó thời pháp hôm nay chúng tôi sẽ đề cập vấn đề cầu tài lộc theo truyền thống Phật giáo nguyên thuỷ và chúng tôi sẽ dựa theo một bài kinh mà chúng tôi mới vừa dịch ra theo nguyên bản Pali Thái Lan, đã được đăng trong Tập Văn Nguyên Thuỷ số 9. Nếu quý vị nào có thấy được bài kinh đó, bài văn đó quý vị thực hành theo thì có lẽ quý vị sẽ dễ dàng có được tài lộc nếu quý vị tin tưởng. Nhưng vì trong tập Văn Nguyên Thuỷ, đất tức là trang in kinh ít ỏi nên Đại Đức Siêu Minh chỉ cho in phần văn tiếng Việt mà thôi, cũng như không biết được bài kinh văn bằng tiếng Pali Thái, hoặc là cách tụng. Trước khi chúng tôi đi sâu vào mổ xẻ vấn đề cầu tài lộc nhân dịp đầu xuân, hiến cho Phật tử một pháp thoại đặc biệt rất cần thiết trong năm mới nhất là trên con đường tu tập. Chúng tôi xin tụng trước bài văn Pali Thái rồi chúng tôi sẽ tụng bài văn tiếng Việt.
Bu ra pha rás sa mĩn, phrá phút thá khú năng;
Bu ra pha rás sa mĩn, phrá thăm mê tăng;
Bu ra pha rás sa mĩn, phrá săng kha năng;
Đúc khá rô khá phá dăng, wí wanh chây dê;
Sặp ba thúc, sặp ba sộc, sặp ba rốc, sặp ba phây, sặp ba khró,
sa nịt chanh rây, wí wanh chây dê.
Sặp bá tha năng, sặp bá la phăng, phá wanh tú mê, rắc khanh tú, su rắc khanh tú.
A khá nây rás sa mĩn, phrá phút thá khú năng;
A khá nây rás sa mĩn, phrá thăm mê tăng;
A khá nây rás sa mĩn, phrá săng kha năng;
Đúc khá rô khá phá dăng, wí wanh chây dê;
Sặp ba thúc, sặp ba sộc, sặp ba rốc, sặp ba phây, sặp ba khró,
sa nịt chanh rây, wí wanh chây dê.
Sặp bá tha năng, sặp bá la phăng, phá wanh tú mê, rắc khanh tú, su rắc khanh tú.
Thăc sỉn rás sa mĩn, phrá phút thá khú năng;
Thăc sỉn rás sa mĩn, phrá thăm mê tăng;
Thăc sỉn rás sa mĩn, phrá săng kha năng;
Đúc khá rô khá phá dăng, wí wanh chây dê;
Sặp ba thúc, sặp ba sộc, sặp ba rốc, sặp ba phây, sặp ba khró,
sa nịt chanh rây, wí wanh chây dê.
Sặp bá tha năng, sặp bá la phăng, phá wanh tú mê, rắc khanh tú, su rắc khanh tú.
Hô rá đi rás sa mĩn, phrá phút thá khú năng;
Hô rá đi rás sa mĩn, phrá thăm mê tăng;
Hô rá đi rás sa mĩn, phrá săng kha năng;
Đúc khá rô khá phá dăng, wí wanh chây dê;
Sặp ba thúc, sặp ba sộc, sặp ba rốc, sặp ba phây, sặp ba khró,
sa nịt chanh rây, wí wanh chây dê.
Sặp bá tha năng, sặp bá la phăng, phá wanh tú mê, rắc khanh tú, su rắc khanh tú.
Pạch chim rás sa mĩn, phrá phút thá khú năng;
Pạch chim rás sa mĩn, phrá thăm mê tăng;
Pạch chim rás sa mĩn, phrá săng kha năng;
Đúc khá rô khá phá dăng, wí wanh chây dê;
Sặp ba thúc, sặp ba sộc, sặp ba rốc, sặp ba phây, sặp ba khró,
sa nịt chanh rây, wí wanh chây dê.
Sặp bá tha năng, sặp bá la phăng, phá wanh tú mê, rắc khanh tú, su rắc khanh tú.
Ba dắp rás sa mĩn, phrá phút thá khú năng;
Ba dắp rás sa mĩn, phrá thăm mê tăng;
Ba dắp rás sa mĩn, phrá săng kha năng;
Đúc khá rô khá phá dăng, wí wanh chây dê;
Sặp ba thúc, sặp ba sộc, sặp ba rốc, sặp ba phây, sặp ba khró,
sa nịt chanh rây, wí wanh chây dê.
Sặp bá tha năng, sặp bá la phăng, phá wanh tú mê, rắc khanh tú, su rắc khanh tú.
Ụ đoon rás sa mĩn, phrá phút thá khú năng;
Ụ đoon rás sa mĩn, phrá thăm mê tăng;
Ụ đoon rás sa mĩn, phrá săng kha năng;
Đúc khá rô khá phá dăng, wí wanh chây dê;
Sặp ba thúc, sặp ba sộc, sặp ba rốc, sặp ba phây, sặp ba khró,
sa nịt chanh rây, wí wanh chây dê.
Sặp bá tha năng, sặp bá la phăng, phá wanh tú mê, rắc khanh tú, su rắc khanh tú.
I sãn rás sa mĩn, phrá phút thá khú năng;
I sãn rás sa mĩn, phrá thăm mê tăng;
I sãn pha rás sa mĩn, phrá săng kha năng;
Đúc khá rô khá phá dăng, wí wanh chây dê;
Sặp ba thúc, sặp ba sộc, sặp ba rốc, sặp ba phây, sặp ba khró,
sa nịt chanh rây, wí wanh chây dê.
Sặp bá tha năng, sặp bá la phăng, phá wanh tú mê, rắc khanh tú, su rắc khanh tú.
A kạt rás sa mĩn, phrá phút thá khú năng;
A kạt rás sa mĩn, phrá thăm mê tăng;
A kạt rás sa mĩn, phrá săng kha năng;
Đúc khá rô khá phá dăng, wí wanh chây dê;
Sặp ba thúc, sặp ba sộc, sặp ba rốc, sặp ba phây, sặp ba khró,
sa nịt chanh rây, wí wanh chây dê.
Sặp bá tha năng, sặp bá la phăng, phá wanh tú mê, rắc khanh tú, su rắc khanh tú.
Pạ thạ wi rás sa mĩn, phrá phút thá khú năng;
Pạ thạ wi rás sa mĩn, phrá thăm mê tăng;
Pạ thạ wi rás sa mĩn, phrá săng kha năng;
Đúc khá rô khá phá dăng, wí wanh chây dê;
Sặp ba thúc, sặp ba sộc, sặp ba rốc, sặp ba phây, sặp ba khró,
sa nịt chanh rây, wí wanh chây dê.
Sặp bá tha năng, sặp bá la phăng, phá wanh tú mê, rắc khanh tú, su rắc khanh tú.
(Nguyên thủy tự, 09-01-2008)
Đó là bài tụng bằng tiếng Pali Thái , bài này được gọi là bài “ Cầu mười phương Tam bảo gia hộ” tức là cầu Tam Bảo ở mười hướng để gia hộ, phù hộ cho mình. Vậy Tam bảo mười hướng độ cho mình như thế nào, quý vị xem bản dịch dựa theo bài kinh Pali Thái này mà chúng tôi mới vừa dịch xong:
Xin ân đức Phật có trong hướng đông,
Xin ân đức Pháp có trong hướng đông,
Xin ân đức Tăng có trong hướng đông,
Hãy độ cho con tránh khỏi tai nạn, bệnh hoạn, khổ sầu.
Hãy độ cho con tránh khỏi tất cả sao xung, hạn xấu, khổ, sầu, bệnh, tai.
Hãy độ cho con có lộc có tài.
Hãy hằng gia hộ độ hoài cho con!
Xin ân đức Phật trong hướng đông-nam,
Xin ân đức Pháp trong hướng đông-nam,
Xin ân đức Tăng trong hướng đông-nam,
Hãy độ cho con tránh khỏi tai nạn, bệnh hoạn, khổ sầu.
Hãy độ cho con tránh khỏi tất cả sao xung, hạn xấu, khổ, sầu, bệnh, tai.
Hãy độ cho con có lộc có tài.
Hãy hằng gia hộ độ hoài cho con!
Xin ân đức Phật có trong hướng nam,
Xin ân đức Pháp có trong hướng nam,
Xin ân đức Tăng có trong hướng nam,
Hãy độ cho con tránh khỏi tai nạn, bệnh hoạn, khổ sầu.
Hãy độ cho con tránh khỏi tất cả sao xung, hạn xấu, khổ, sầu, bệnh, tai.
Hãy độ cho con có lộc có tài.
Hãy hằng gia hộ độ hoài cho con!
Xin ân đức Phật trong hướng tây-nam,
Xin ân đức Pháp trong hướng tây-nam,
Xin ân đức Tăng trong hướng tây-nam,
Hãy độ cho con tránh khỏi tai nạn, bệnh hoạn, khổ sầu.
Hãy độ cho con tránh khỏi tất cả sao xung, hạn xấu, khổ, sầu, bệnh, tai.
Hãy độ cho con có lộc có tài.
Hãy hằng gia hộ độ hoài cho con!
Xin ân đức Phật có trong hướng tây,
Xin ân đức Pháp có trong hướng tây,
Xin ân đức Tăng có trong hướng tây,
Hãy độ cho con tránh khỏi tai nạn, bệnh hoạn, khổ sầu.
Hãy độ cho con tránh khỏi tất cả sao xung, hạn xấu, khổ, sầu, bệnh, tai.
Hãy độ cho con có lộc có tài.
Hãy hằng gia hộ độ hoài cho con!
Xin ân đức Phật trong hướng tây-bắc,
Xin ân đức Pháp trong hướng tây-bắc,
Xin ân đức Tăng trong hướng tây-bắc,
Hãy độ cho con tránh khỏi tai nạn, bệnh hoạn, khổ sầu.
Hãy độ cho con tránh khỏi tất cả sao xung, hạn xấu, khổ, sầu, bệnh, tai.
Hãy độ cho con có lộc có tài.
Hãy hằng gia hộ độ hoài cho con!
Xin ân đức Phật có trong hướng bắc,
Xin ân đức Pháp có trong hướng bắc,
Xin ân đức Tăng có trong hướng bắc,
Hãy độ cho con tránh khỏi tai nạn, bệnh hoạn, khổ sầu.
Hãy độ cho con tránh khỏi tất cả sao xung, hạn xấu, khổ, sầu, bệnh, tai.
Hãy độ cho con có lộc có tài.
Hãy hằng gia hộ độ hoài cho con!
Xin ân đức Phật trong hướng Đông-bắc,
Xin ân đức Pháp trong hướng Đông-bắc,
Xin ân đức Tăng trong hướng Đông-bắc,
Hãy độ cho con tránh khỏi tai nạn, bệnh hoạn, khổ sầu.
Hãy độ cho con tránh khỏi tất cả sao xung, hạn xấu, khổ, sầu, bệnh, tai.
Hãy độ cho con có lộc có tài.
Hãy hằng gia hộ độ hoài cho con!
Xin ân đức Phật có trong hướng trên,
Xin ân đức Pháp có trong hướng trên,
Xin ân đức Tăng có trong hướng trên,
Hãy độ cho con tránh khỏi tai nạn, bệnh hoạn, khổ sầu.
Hãy độ cho con tránh khỏi tất cả sao xung, hạn xấu, khổ, sầu, bệnh, tai.
Hãy độ cho con có lộc có tài.
Hãy hằng gia hộ độ hoài cho con!
Xin ân đức Phật có trong hướng dưới,
Xin ân đức Pháp có trong hướng dưới,
Xin ân đức Tăng có trong hướng dưới,
Hãy độ cho con tránh khỏi tai nạn, bệnh hoạn, khổ sầu.
Hãy độ cho con tránh khỏi tất cả sao xung, hạn xấu, khổ, sầu, bệnh, tai.
Hãy độ cho con có lộc có tài.
Hãy hằng gia hộ độ hoài cho con!
Đó là bài “Cầu mười phương Tam Bảo gia hộ cho mình và nếu người nào tụng theo, an trú tâm bắt đầu cầu từng hướng, hướng đông, đông-nam, hướng nam, tây-nam, hướng tây, hướng tây-bắc, hướng bắc, hướng đông- bắc, hướng trên, hướng dưới cũng giống như chúng ta rãi lòng từ vậy. Nhưng bài này là cầu tất cả những ân đức Phật nào có trong hướng đông chẳng hạn, hoặc ân đức Pháp nào có trong hướng đông hay ân đức Tăng nào có trong hướng đông thì nhờ ân đức đó, nhờ oai lực đó độ cho mình tránh khỏi những tai nạn, những bệnh hoạn, những khổ sầu, tránh khỏi những sao xung, hạn xấu, khổ, sầu, bệnh, tai. Mặt khác tất cả những tài lợi trong hướng đó, hãy độ cho con có lộc có tài và cầu xin oai lực Tam Bảo hãy độ hoài cho mình, độ luôn luôn, độ thường xuyên. Nếu tụng thường xuyên thì phước của họ sẽ nương theo cầu xin Tam bảo mười phương gia hộ cho mình. Trong tập Văn Nguyên Thuỷ có lẽ cũng đã upload lên mạng, quý vị nào muốn lấy bài văn tiếng Việt để tụng hoặc tụng bằng tiếng Pali Thái cũng được.
Chúng tôi sang Thái Lan, thấy người Thái Lan, chư Tăng, Phật tử tài lợi rất dồi dào. Phần lớn người ta có những bài kinh Parita, những bài kinh cầu tài , lộc để trì tụng, nhất là bài này trong khoá lễ nhật tụng hằng ngày, hay lễ bái Tam Bảo nhất định họ phải tụng bài này. Và không phải tụng bài này mới là cầu cho mình, mình được hưởng phần rồi. Nếu tụng cầu cho Phật tử người ta cũng cầu xin oai lực Tam bảo ở các hướng để độ cho người Phật tử. Người ta tụng nghe rất hùng hồn, rất mạnh. Chúng tôi không có được giọng hay nhưng cũng lấy âm giọng na ná tụng cho quý vị nghe, tụng theo. Nếu quý vị có dịp đi Thái Lan hay gặp chư Tăng Thái Lan tụng kinh Paritta có âm lực nghe như có sự đẩy tới.
Chúng tôi xin tụng lại một đoạn
Bu ra pha rás sa mĩn, phrá phút thá khú năng;
Bu ra pha rás sa mĩn, phrá thăm mê tăng;
Bu ra pha rás sa mĩn, phrá săng kha năng;
Đúc khá rô khá phá dăng, wí wanh chây dê;
Sặp ba thúc, sặp ba sộc, sặp ba rốc, sặp ba phây, sặp ba khró,
sa nịt chanh rây, wí wanh chây dê.
Sặp bá tha năng, sặp bá la phăng, phá wanh tú mê, rắc khanh tú, su rắc khanh tú.
Mê là cho mình và tê là cho người
Có lẽ bài kinh này lạ đối với Phật tử Việt-Nam nhưng vì chúng tôi thấy bài này hay, có giá trị nhiều. Có giá trị ở chỗ nhờ ân đức Phật che chở cho chúng ta tránh khỏi tất cả những tai nạn, bệnh hoạn khổ sầu. Đây là những điều chúng ta cần nhất trong cuộc sống, chúng ta có đai ân đại phước hưởng được sự che chở của Tam Bảo, và còn thêm một điều nữa là nhờ uy lực Tam Bảo để đưa đến những lợi lộc,
Sặp bá tha năng ( tất cả tài sản),
sặp bá la phăng (tất cả tài lộc),
phá wanh tú mê ( hãy có đến cho con) ,
rắc khanh tú, su rắc khanh tú. (Hãy độ cho con có lộc có tài.
Hãy hằng gia hộ độ hoài cho con)
Tụng theo âm giọng Pali Thái nghe rất hay. Khi đọc tụng tiếng Việt vẫn có giá trị tương đương. Đọc tụng theo tiếng Pali Thái có cái hùng hồn của tiếng Thái và như có lực đẩy tới để tránh những tai bay hoạ gửi và để phước báu sanh lên. Quý vị nào tin tưởng chắc chắn sẽ đạt được.
Bài cầu tài lộc thứ hai hầu như Phật tử Việt Nam đều thích, tức là bài cầu tài lộc của Ngài Sivali. Có lẽ Ngài Sivali đối với hàng chư Tăng, đối với hàng Phật tử ai cũng thấy được sự linh thiêng, thấy được sự linh nghiệm khi thờ Ngài Sivali hay tụng kinh cầu tài lộc từ Ngài Sivali. Quý vị để ý khi bắt đầu từ khi mình tin tưởng, đeo tượng Ngài Sivali, thờ Ngài Sivali, tụng cầu ân đức Ngài Sivali thì tài lợi càng ngày càng phát sanh. Không kể riêng hàng cư sĩ mà Chư Tăng nào đọc tụng cũng có uy lực có lợi ích đó. Riêng bài cầu tài lợi Ngài Sivali có rất nhiều bài, có nhiều dị bản. Cách đây hơn 20 năm về trước chúng tôi học được bài này, thật ra chúng tôi cũng không mặn mà gì đối với bài cầu tài lộc này nhưng sau này thấy mọi người tụng cầu có kết quả nên cũng bắt chước cầu theo, chúng tôi cảm thấy mỗi ngày tài lộc tăng tiến, còn bài cầu 10 phương Tam Bảo độ mình chúng tôi chỉ mới học hai ba năm nay thôi. Chúng tôi tụng âm giọng có thể không chính xác 100% nhớ đến đâu chúng tôi tụng đến đó và chúng tôi sẽ giải nghĩa.
Sivali ca mahathero ( Ngài đại trưởng lão có tên Sivali)
Devata nara pujito (Đã được sự cúng dường của Chư Thiên, nhân loại)
Soraho paccayadimhi (Đã nhận được sựcúng dường đặc biệt từ nơi các vị đó)
Aham. Vandami tam. Sada ( Tôi xin luôn luôn đảnh lễ Ngài Sivali)
Sivali ca mahathero ( Ngài đại trưởng lão có tên Sivali)
Yakkha davabhipujito (Đã được Chư Thiên và Dạ Xoa cúng dường)
Soraho paccayadimhi (Đã nhận được sựcúng dường đặc biệt từ nơi các vị đó)
Aham. Vandami tam. Sada ( Tôi xin luôn luôn đảnh lễ Ngài Sivali)
Sivali ca mahatherassa etam.( Ân đức đặc biệt của Ngài Sivali đó)
Gunam. Sotthi labham. Bhavantu me ( Xin tài lộc đó hãy phát sanh đến cho tôi)
Sotthi là tài Labham. là lộc. Bhavantu me là xin tài lộc đó hãy phát sanh cho tôi.
Ngài Sivali có ân đức tài lộc nào phát sanh đến cho Ngài trong ngày xưa trong đời sống của Ngài đã hưởng và được Đức Phật công nhận và tuyên bố trước mặt chư Tăng là “Đệ nhất về tài lộc” như thế nào thì ân đức tài lộc đó ngày hôm nay. Ngày xưa Ngài đi đến đâu ai cũng hưởng được sự Chư Thiên cúng dường thì ngày hôm nay tôi cầu ân đức đó xuất hiện hay hiện diện nơi tôi, để ân đức đó đưa đến tài lộc cho tôi. Đó là bài cầu tài lộc của Ngài Sivali
Có nhiều bản, bản này bên Thái Lan xem như là bản chính còn có nhiều bản phụ bên Miến Điện hay của những thiền sư Việt Nam sáng tác ra. Bài đó chỉ cần lấy ý ai sáng tác cũng được nhưng có lẽ bài này linh ứng nhất. Chúng ta thấy rõ ràng tại xứ Thái Lan chư tăng Phật tử ai cũng phải thuộc bài Sivali này hết. Xứ Thái Lan được giàu có, ngoài phước báu đời quá khứ ngoài phước báu theo Phật giáo, ngoài vấn đề làm ăn trong xã hội phải nói ít nhiều cũng có ảnh hưởng bài kệ tài lộc này đối với Phật giáo đồ. Không biết bài tụng Sivali bên Miến Điện có linh ứng không nhưng nói chung người Miến Điện vẫn khổ hơn nguời Thái. Do đó bài cầu tài lộc Thái này có lẽ do lâu đời hiển linh và có thể đạt được như ý, và quý vị hãy trì tụng.
Tôi xin chấm dứt thời pháp tại đây.
Nguồn tin: http://minhhanhdp.brinkster.net/
Tác giả: Chánh Hạnh chuyển biên
NGÀI SĪVALI - VỊ THÁNH TĂNG ĐỆ NHẤT TÀI LỘC
Đã có lúc nào ta thắc mắc thực ra ai là thần tài? Tại sao lại được gọi là thần tài nhỉ? Đạo Phật có một Ngài “thần tài” do thiện nghiệp của Ngài trong quá khứ đúng thời trổ quả nên sự hanh thông, tài lộc lan tỏa tới tất cả đại chúng xung quanh.
Ngài Đại đức có tên gọi “Sīvali” nghĩa là: dập tắt mọi nóng nảy, lo sợ của những người thân yêu, đem lại sự mát mẻ, an vui cho mọi chúng sinh.
Ngài Đại đức Sīvali là con của bà công chúa Suppavasa thường được mọi người đem lễ vật đến dâng nhiều vô số kể. Để thử biết quả phước thiện của bà công chúa Suppavasa, người ta đem hạt giống đến nhờ bà đụng tay vào. Những hạt giống đó đem về gieo trồng thì kết quả thu hoạch thật là phi thường: gấp trăm ngàn vạn lần! Khi thu hoạch xong, đem đổ vào kho, rồi mời bà công chúa Suppavasa đụng tay vào cửa kho, thì lúa dù được đổ vào ít, nhưng vẫn tràn đầy kho ngay. Khi lấy lúa ra khỏi kho, nếu được công chúa Suppavasa đụng tay vào kho, thì dù lúa lấy ra bao nhiêu đi nữa, kho lúa vẫn không hề giảm bớt. Khi nấu cơm để phân phát cho mọi người, nếu được bà công chúa Suppavasa đụng tay vào vành nồi cơm thì cơm xới ra phân phát cho bao nhiêu người cũng vẫn đủ, cơm vẫn không vơi trong nồi, cho đến khi bà công chúa Suppavasa bỏ tay ra khỏi vành nồi cơm.
Mọi người nhìn thấy quả phước thiện phi thường của bà công chúa Suppavasa trong thời gian bà mang thai Ngài Đại đức Sīvali. Sự thực bà công chúa Suppavasa chỉ là người chịu ảnh hưởng quả phước thiện của thai nhi: Ngài Đại đức Sīvali đang nằm trong bụng mẹ.
NGÀI SĪVALI Ở TRONG BỤNG MẸ SUỐT 7 NĂM 7 NGÀY
Thông thường, sau khi thọ thai, khoảng chín hoặc mười tháng, thì người mẹ sinh con. Nhưng khi công chúa Suppavasa mang thai Ngài Đại đức Sīvali thì đã qua tháng thứ 10, tháng thứ 11, rồi tròn một năm mà vẫn chưa sinh. Mặc cho mọi người trong hoàng tộc và dân chúng xứ Koliya nóng lòng trông chờ sự ra đời của đứa trẻ phi thường.
Ngày tháng cứ trôi qua, trong sự mong chờ đến nóng nảy của mọi người. Ngày này qua ngày khác, tháng này đến tháng khác của năm thứ hai đã trôi qua, mà đứa con phi thường trong bụng bà công chúa Suppavasa vẫn chưa ra đời. Cứ như vậy qua năm thứ ba, rồi… thứ tư, thứ năm, thứ sáu, cho đến năm thứ bảy đã trôi qua, mà người ta vẫn chưa thấy bà công chúa Suppavasa sinh con. Thật là một điều lạ thường, chưa từng nghe, chưa từng thấy bao giờ! Đặc biệt, thai nhi nằm trong bụng mẹ lâu như vậy, mà vẫn không làm cho bà công chúa Suppavasa thấy khó chịu một chút nào, bà công chúa vẫn sống an vui, tự nhiên và quả phước thiện mỗi ngày vẫn tăng trưởng phi thường.
NGÀI SĪVALI RA ĐỜI
Bà công chúa Suppavasa mang thai tròn đủ bảy năm vẫn bình an, nhưng bước sang bảy ngày kế tiếp, thì bà phải chịu đựng một sự đau khổ đến cùng cực từ thai nhi. Vốn là người cận sự nữ, có đức tin trong sạch nơi tam bảo, bà công chúa Suppavasa muốn được chiêm bái Đức Phật trước khi chết. Với mong muốn thiết tha đó, bà bày tỏ với hoàng tử Mahāli:
- Thưa phu quân, xin hãy vì thiếp và đứa con trong bụng thiếp, mà đi thỉnh Đức Phật cùng chư Đại đức Tăng về đây cho thiếp được chiêm bái và cúng dường.
- Đang nóng lòng vì thời gian mang thai của ái thiếp quá lâu, cùng với những hiện tượng phi thường mà mọi người đều thấy nơi bà công chúa Suppavasa, nghe lời thỉnh cầu của ái thiếp, hoàng tử Mahali liền đến bạch với Đức Phật theo nguyện vọng của phu nhân.
Bằng nhãn thông, Đức Thế Tôn thấy rõ quả báo ác nghiệp của thai nhi và người mẹ đã mãn. Ngài truyền dạy lời chúc lành đến bà công chúa Suppavasa và thai nhi rằng:
“Sukhinī vata hotu Suppavasa,
Koliyadhitā sukhinī arogā
Arogam puttam vāyatu”
“Công chúa Suppavasa xứ Koliya.
Được sự khỏe mạnh và an lành hạ sinh đứa con khỏe mạnh”.
Khi Đức Thế Tôn chúc lành xong, tại cung điện, công chúa Suppavasa hạ sinh đứa con trai dễ dàng như nước từ trong bình đỗ ra, trước khi hoàng tử Mahāli trở về. Bà công chúa Suppavasa nhìn thấy đứa con trai mặt mày khôi ngô tuấn tú, quả phước thiện tròn đủ, thì vô cùng vui mừng sung sướng.
Sự ra đời của hài nhi làm cho hoàng tộc cũng như dân chúng thành Koliya dập tắt được mọi sự nóng lòng lo sợ cho công chúa Suppavasa và công tử, đem lại sự mát mẻ an vui cho tất cả mọi người, nên đứa bé được đặt tên là Sīvali (Mát mẻ, an vui).
Trên đường trở về cung điện, nhìn thấy mọi người đều vui mừng, hoan hỷ, hoàng tử Mahāli biết rằng điều tốt lành đã đến với công chúa Suppavasa phu nhân và đứa con của mình. Về tới cung điện, ông lập tức vào thăm phu nhân và thuật lại lời chúc phúc của Đức Phật đến công chúa Suppavasa và đứa con trai., công chúa Suppavasa sẵn có đức tin trong sạch nơi Đức Phật, Đức Pháp, Đức Tăng, đồng thời vô cùng hoan hỷ nhìn thấy đứa con đại phước mới ra đời, bèn tâu với phu quân:
- Xin cho thiếp được thỉnh Đức Phật cùng 500 chư Tỳ-khưu tăng, ngày mai đến cung điện cho thiếp được làm phước thiện suốt 7 ngày gọi là “Vayamangala” (hạnh phúc sinh con).
Công tử Sīvali mới sinh ra đã mau lớn lạ thường, biết đi, đứng, ngồi, nằm… biết ăn uống, nói chuyện và có trí tuệ hiểu biết thật phi thường!
Đức Phật cùng chư Đại đức Tăng ngự đến cung điện của công chúa Suppavasa và hoàng tử Mahāli dự lễ làm phước “Hạnh phúc sinh con”, suốt 7 ngày.
Đến ngày thứ 7, Đức Thế Tôn truyền dạy Ngài Đại đức Sariputta thuyết pháp. Ngài Đại đức Sariputta thuyết bài pháp về sự khổ sinh, sự tái sinh là khổ. Công tử Sīvali lắng nghe và thấu hiểu một cách rất sâu sắc về sự khổ sinh, vì chính công tử đã phải chịu khổ nằm trong bụng mẹ suốt 7 năm lẻ 7 ngày: đó là những gì mà công tử đã trải qua.
Khi ấy, Ngài Đại đức Sariputta bèn hỏi công tử rằng:
- Này con, con nằm trong bụng mẹ lâu đến 7 năm lẻ 7 ngày, con đã cảm thọ sự khổ nhiều phải không?
- Kính bạch Ngài Đại đức, con đã cảm thọ khổ nhiều!
- Như vậy, con có muốn xuất gia để giải thoát khổ sinh hay không?
- Kính bạch Ngài Đại đức, nếu cha mẹ con cho phép, con sẽ xuất gia.
Công chúa Suppavasa nhìn thấy con trai của mình đang nói chuyện với Ngài Đại đức Sariputta, trong tâm vô cùng hoan hỷ, muốn biết con mình đang nói gì với Ngài Đại đức Sariputta. Bà công chúa Suppavasa đến hầu gần chỗ Ngài Đại đức, rồi bạch rằng:
- Bạch Ngài Đại đức, con của đệ tử đang nói chuyện gì với Ngài?
Ngài Đại đức Sariputta thuật lại rằng:
- Công tử Sīvali nói rằng: Con đã chịu bao nhiêu nỗi khổ khi còn đang nằm trong bụng mẹ, nếu cha mẹ con cho phép, con sẽ xuất gia để giải thoát khổ sinh”.
Nghe xong, công chúa Suppavasa vô cùng hoan hỷ bạch rằng:
- Kính Bạch Ngài Đại đức, Sādhu! Sādhu! Lành thay! Lành thay! Con kính xin Ngài từ bi tế độ đứa con của đệ tử được xuất gia.
- Ngài Đại đức Sariputta dẫn công tử Sīvali về chùa. Ngài dạy giới tử Sīvali về đề mục thiền định căn bản “Năm thể trược trong thân” (tóc, lông, móng, răng, da). Ngài còn dạy giới tử Sīvali tiến hành thiền tuệ thấy rõ, biết rõ khổ sinh, mà Sīvali đã cảm thọ suốt 7 năm lẻ 7 ngày trong bụng mẹ. Giới tử Sīvali liền thấu hiểu rõ mục đích xuất gia là để giải thoát khỏi khổ tái sinh.
CÔNG TỬ SĪVALI XUẤT GIA SA DI
Công tử Sīvali sau khi thọ giáo lời dạy của vị thầy tế độ là Ngài Đại đức Sariputta, liền được Ngài Đại đức Moggallāna cạo tóc. Trong khi cạo tóc, giới tử Sīvali tiến hành thiền định căn bản, năm thể trược ở trong thân, và tiến hành thiền tuệ biết rõ khổ của sự tái sinh của danh pháp, sắc pháp. Khi Ngài Đại đ ức Moggallana vừa đặt dao cạo tóc, giới tử Sīvali liền chứng ngộ chân lý tứ thánh đế, chứng đắc nhập lưu thánh đạo, nhập lưu thánh quả. Cạo đường tóc thứ nhất, giới tử Sīvali chứng ngộ chân lý tứ thánh đế, chứng đắc Nhất lai thánh đạo, Nhất lai thánh quả. Cạo đường tóc thứ hai, giới tử Sīvali chứng ngộ chân lý tứ thánh đế, chứng đắc Bất lai thánh đạo, Bất lai thánh quả. Cạo tóc vừa xong, đồng thời giới tử Sīvali chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc A la hán thánh đạo, A la hán thánh quả, trở thành Bậc thánh Arahán tột cùng, cao thượng trong Phật giáo.
Kể từ ngày Đại đức Sīvali xuất gia làm Sadi, hằng ngày không chỉ có hàng cận sự nam, cận sự nữ đem 4 món vật dụng: Y phục, vật thực, chỗ ở, thuốc men trị bệnh đến dâng cúng Ngài Đại đức và chư Tỳ-khưu Tăng, ngày càng đầy đủ, dồi dào sung túc, mà trước đây chưa từng có.
QUẢ ÁC NGHIỆP CỦA NGÀI SIVALI
Một hôm, nhóm Tỳ-khưu đang ngồi bàn luận về Ngài Đại đức Sīvali là Bậc Đại trí. Ngài đã chứng đắc từ bậc Thánh nhập lưu đến Bậc Thánh A la hán trong khoảng thời gian cạo tóc xong. Ngài còn là Bậc Đại Phước, kể từ khi Ngài xuất gia thành Sadi, 4 món vật dụng đã phát sinh, không chỉ đến cho Ngài Đại đức Sīvali, mà còn đến tất cả chư Tỳ-khưu Tăng một cách đầy đủ, dồi dào sung túc mà trước đây chưa từng có. Vậy do quả ác nghiệp nào khiến cho Ngài phải nằm trong bụng mẹ chịu khổ suốt 7 năm lẻ 7 ngày?
Lúc ấy, Đức Thế Tôn vừa ngự đến bèn hỏi rằng: Này chư Tỳ- khưu, các con đang bàn luận về chuyện gì vậy?
Nhóm Tỳ-khưu bạch Đức Thế Tôn rõ, họ đang bàn luận về Ngài Đại đức Sīvali, Đức Thế Tôn bèn dạy rằng: - Này chư Tỳ- Khưu, Sīvali chịu khổ do quả ác nghiệp đã tạo ở kiếp quá khứ.
Trong quá khứ, tiền kiếp của Sīvali là Thái tử con của đức vua trị vì ở kinh thành Baranasi. Khi phụ vương băng hà, thái tử lên ngôi vua. Lúc ấy, có vị vua của nước láng giềng mưu toan kéo quân chiếm kinh thành Baranasi. Trên đường tiến quân, vị vua này lập doanh trại cho quân lính nghỉ đêm.
Đức vua ở kinh thành Baranasi hay tin bèn bàn tính với bà Hoàng Thái hậu, tìm cách ngăn cản đội quân xâm lược, rồi đem quân vây quanh bốn cửa doanh trại suốt 7 ngày đêm không cho một ai ra vào.
Lúc ấy, chư Phật Độc giác đang ngự ở chùa Migadayavihara thuyết giảng dạy về pháp thiện, pháp ác, khuyên bảo mọi người không nên gây nghiệp ác, mà hãy cố gắng tạo nghiệp thiện. Đức vua ở kinh thành Baranasi, sau khi nghe pháp hiểu rõ nghiệp thiện, nghiệp ác, liền truyền lệnh mở vòng vây 4 cửa doanh trại quân địch, thả cho vị Vua láng giềng và quân lính trốn thoát chạy về nước.
Do quả ác của nghiệp vây hãm doanh trại suốt 7 ngày đêm ấy, Đức vua kinh thành Baranasi sau khi chết đọa địa ngục, chịu khổ suốt thời gian lâu dài. Nay đến kiếp hiện tại này, được tái sinh vào lòng bà công chúa Suppavasa, là hậu thân của bà Hoàng Thái hậu ở tiền kiếp, đã đồng tình với Vương nhi vây hãm doanh trại kẻ thù. Do quả của ác nghiệp ở thời quá khứ còn dư lại, nên khiến cho Ngài Đại đức Sīvali và công chúa Suppavasa cùng chịu khổ trong suốt 7 năm lẻ 7 ngày.
SADI SĪVALI TRỞ THÀNH TỲ-KHƯU
Ngài Đại đức Sīvali tròn 20 tuổi. Ngài thọ Cụ Túc Giới, trở thành Tỳ-khưu, bốn món vật dụng lại càng phát sinh dồi dào hơn đến chư Tỳ-khưu Tăng. Hễ mỗi khi Chư Tỳ-khưu Tăng đông đảo phải đi vân du trên đường qua những vùng hẻo lánh, dân cư thưa thớt, ít ỏi, nhưng nếu có Ngài Đại đức Sīvali đi cùng, thì 4 món vật dụng, phát sinh đầy đủ sung túc đến chư Tỳ-khưu Tăng, do nhờ oai lực quả phước thiện của Ngài Đại đức Sīvali, chư thiên đã hóa ra xóm làng, thị thành và dân cư đông đúc để dâng cúng y phục, vật thực, chỗ ở và thuốc men chữa bệnh đến đoàn chư Tỳ-khưu Tăng. Khi đoàn chư Tỳ-khưu Tăng đã đi qua khỏi nơi ấy, thì xóm làng, kinh thành đó liền biến mất.
Một thuở nọ, Đức Phật cùng đoàn chư Tỳ-khưu Tăng đông đảo đến ngự đến khu rừng, nơi ở của Ngài Đại đức Revata. Khi Đức Phật cùng đoàn chư Tỳ-khưu Tăng đi đến đoạn đường có lối rẽ. Ngài Đại đức Ananda bạch với Đức Phật rằng:
- Kính bạch Đức Thế Tôn, có hai con đường, Đức Thế Tôn nên ngự đi con đường nào trong hai con đường này:
- Một con đường dài 30 do tuần, đầy nguy hiểm và có nhiều phi nhân, không có nơi khất thực và chỗ ở.
- Một con đường dài 60 do tuần, được an toàn, vì có làng xóm, chỗ ở và khất thực dễ dàng.
Đức Thế Tôn dạy: - Này Ananda, Sīvali có đi trong đoàn Tỳ-khưu phải không?
- Bạch Đức Thế Tôn, có Ngài Đại đức Sīvali cùng đi trong đoàn.
Đức Thế Tôn dạy:
- Như vậy, chư Tỳ-khưu nên đi theo con đường dài 30 do tuần. Để biết rõ được quả phước thiện của Sīvali.
Đức Phật cùng đoàn Tỳ-khưu Tăng đông đảo ngự theo con đường dài 30 do tuần. Tất cả chư thiên hay tin Đức Phật cùng đoàn Tỳ-khưu Tăng đông đảo, trong đó có Ngài Đại đức Sīvali kính yêu của họ, đang ngự dọc theo con đường này, nên vô cùng hoan hỷ. Cứ mỗi do tuần, chư thiên lại hóa ra một kinh thành trù phú có dân chúng đông đúc, có những ngôi chùa lớn, trong mỗi ngôi chùa, lại hóa ra một cái cốc lớn dành cho Đức Phật và những cốc nhỏ dành cho những vị Tỳ-khưu. Trong các cốc đó có đầy đủ những vật dụng cần thiết của bậc xuất gia, để tiếp đón Đức Phật và đoàn Tỳ-khưu Tăng.
Khi Đức Phật cùng chư Tỳ-khưu Tăng đi đến đâu chư thiên lại hóa ra các cận sự nam, cận sự nữ có đức tin trong sạch nơi Tam bảo, hộ độ cúng dường 4 món vật dụng đầy đủ sung túc.
Tất cả chư thiên đến hầu đảnh lễ Đức Phật xong, bạch Đức Thế Tôn rằng:
- Kính bạch Đức Thế Tôn, Ngài Đại đức Sīvali của chúng con ở đâu?
Khi gặp được Ngài Đại đức Sīvali, tất cả chư thiên vô cùng hoan hỷ, cho nên các món vật dụng y phục, vật thực, chỗ ở và thuốc men chữa bịnh phát sanh đến chư Tỳ-khưu Tăng dồi dào, sung túc cho đến khi đức Phật và đoàn chư Tỳ-khưu Tăng rời khỏi nơi ấy.
Đức Phật cùng đoàn chư Tỳ-khưu Tăng mỗi ngày đi được 1 do tuần, cứ mỗi do tuần chư thiên hóa ra các kinh thành trù phú, dân cư đông đúc như vậy để hộ độ Đức Phật và đoàn chư Tỳ-khưu Tăng, trên suốt quảng đường dài 30 do tuần, cho đến khu rừng, nơi trú ngụ của Ngài Đại đứcRevata.
Ngài Đại đức Revata hay được tin Đức Phật cùng đoàn chư Tỳ-khưu Tăng đông đảo đến thăm, Ngài dùng thần thông hóa ra ngôi chùa lớn để Đức Phật thuyết pháp và là nơi hội họp của chư Tỳ-khưu Tăng; hóa ra cốc Gandhakuti đầy đủ tiện nghi dâng lên Đức Phật, và những cốc nhỏ khác cho những vị Tỳ-khưu. Cũng bằng thần thông, Ngài Đại đức Revata hóa ra một con đường lớn và xinh đẹp để đón rước Đức Phật và chư Tỳ-khưu Tăng. Đức Phật cùng đoàn chư Tỳ-khưu Tăng ngự đi trên con đường đó đến ngôi chùa lớn, rồi Đức Phật ngự tới cốc Gandhakuti, tất cả chư Tỳ-khưu mỗi vị vào nghỉ một cốc nhỏ đã hóa sẵn.
Chư thiên ở trong rùng vô cùng hoan hỷ đón rườc Đức Phật và Chư Tỳ-khưu Tăng, trong đó có Ngài Đại đức Sīvali vô cùng kính yêu của họ. Chư thiên cũng hóa thành những cận sự nam, cận sự nữ biết được đã quá giờ thọ thực nên họ chỉ làm nước trái cây dâng lên Đức Phật cùng chư Tỳ-khưu Tăng. Mỗi ngày, chư thiên hoan hỷ cúng dường 4 món vật dụng đến đức Phật và chư Tỳ-khưu Tăng. Rất đầy đủ sung túc. Do quả phước thiện của Ngài Đại đức Sīvali, suốt nửa tháng đức Phật cùng đoàn chư Tỳ-khưu Tăng ngự ở khu rừng luôn được chư thiên kính yêu và dâng lên các món y phục, vật thực, chỗ ở và thuốc chữa bệnh một cách đầy đủ, dồi dào sung túc chưa từng có bao giờ.
Một hôm, chư Tỳ-khưu hội họp bàn về chuyện Ngài Đại đức Sīvali có nhiều quả báu phước thiện đặc biệt nhất, không chỉ phát sinh 4 món vật dụng đến Ngài Đại đức Sīvali mà còn đến cả chư Tỳ-khưu Tăng dù bao nhiêu cũng vẫn sung túc đầy đủ. Thật là điều phi thường! Không chỉ có các hàng cận sự nam cận sự nữ đem 4 món vật dụng đến cúng dường Ngài Đại đức Sīvali và chư Tỳ-khưu Tăng, mà còn có cả chư thiên, Long Vương… cũng đem 4 món vật dụng lên dâng cúng Ngài Đại đức Sīvali và chư Tỳ-khưu Tăng nữa. Các Tỳ-khưu đang bàn luận, khi ấy Đức Thế Tôn ngự đến bèn hỏi:
- Này chư Tỳ-khưu, các con đang bàn về chuyện gì thế?
Chư Tỳ-khưu bạch Đức Thế Tôn rằng:
- Kính bạch Đức Thế Tôn, chúng con đang bàn về quả phước thiện đặc biệt nhất của Ngài Đại đức Sīvali đã làm cho phát sinh 4 món vật dụng đến Ngài Đại đức và Chư Tỳ-khưu Tăng dù nhiều bao nhiêu cũng vẫn đầy đủ sung túc.
Nhân dịp ấy, Đức Thế Tôn chủ trì một buổi hội chư Đại đức Thánh Tăng. Đức Thế Tôn tuyên dương cho toàn thể các hàng đệ tử biết rằng:
“Etadaggam bhikkhave mama sāvakānam labhinam yadidam Sīvali”.
- Này chư Tỳ-khưu, Sīvali là bậc Thánh Thanh văn đại Đệ tử có tài lộc bậc nhất trong các hàng Thánh Thanh văn đệ tử của Như Lai.
Đức Thế Tôn dạy rằng:
- Này chư Tỳ-khưu, Sīvali có tài lộc nhiều là do nhờ quả báo của phước thiện đã tạo ở những kiếp quá khứ.
KỆ CẦU TÀI LỘC - SĪVALI GĀTHĀ
Có nhiều bản, bản này bên Thái Lan xem như là bản chính còn có nhiều bản phụ bên Miến Điện hay của những thiền sư Việt Nam sáng tác ra. Bài đó chỉ cần lấy ý ai sáng tác cũng được nhưng có lẽ bài này linh ứng nhất. Chúng ta thấy rõ ràng tại xứ Thái Lan chư tăng Phật tử ai cũng phải thuộc bài Sivali này hết. Xứ Thái Lan được giàu có, ngoài phước báu đời quá khứ ngoài phước báu theo Phật giáo, ngoài vấn đề làm ăn trong xã hội phải nói ít nhiều cũng có ảnh hưởng bài kệ tài lộc này đối với Phật giáo đồ. Không biết bài tụng Sivali bên Miến Điện có linh ứng không nhưng nói chung người Miến Điện vẫn khổ hơn nguời Thái. Do đó bài cầu tài lộc Thái này có lẽ do lâu đời hiển linh và có thể đạt được như ý, và quý vị hãy trì tụng.
Tôi xin chấm dứt thời pháp tại đây.
Nguồn tin: http://minhhanhdp.brinkster.net/
Tác giả: Chánh Hạnh chuyển biên
NGÀI SĪVALI - VỊ THÁNH TĂNG ĐỆ NHẤT TÀI LỘC
Đã có lúc nào ta thắc mắc thực ra ai là thần tài? Tại sao lại được gọi là thần tài nhỉ? Đạo Phật có một Ngài “thần tài” do thiện nghiệp của Ngài trong quá khứ đúng thời trổ quả nên sự hanh thông, tài lộc lan tỏa tới tất cả đại chúng xung quanh.
Ngài Đại đức có tên gọi “Sīvali” nghĩa là: dập tắt mọi nóng nảy, lo sợ của những người thân yêu, đem lại sự mát mẻ, an vui cho mọi chúng sinh.
Ngài Đại đức Sīvali là con của bà công chúa Suppavasa thường được mọi người đem lễ vật đến dâng nhiều vô số kể. Để thử biết quả phước thiện của bà công chúa Suppavasa, người ta đem hạt giống đến nhờ bà đụng tay vào. Những hạt giống đó đem về gieo trồng thì kết quả thu hoạch thật là phi thường: gấp trăm ngàn vạn lần! Khi thu hoạch xong, đem đổ vào kho, rồi mời bà công chúa Suppavasa đụng tay vào cửa kho, thì lúa dù được đổ vào ít, nhưng vẫn tràn đầy kho ngay. Khi lấy lúa ra khỏi kho, nếu được công chúa Suppavasa đụng tay vào kho, thì dù lúa lấy ra bao nhiêu đi nữa, kho lúa vẫn không hề giảm bớt. Khi nấu cơm để phân phát cho mọi người, nếu được bà công chúa Suppavasa đụng tay vào vành nồi cơm thì cơm xới ra phân phát cho bao nhiêu người cũng vẫn đủ, cơm vẫn không vơi trong nồi, cho đến khi bà công chúa Suppavasa bỏ tay ra khỏi vành nồi cơm.
Mọi người nhìn thấy quả phước thiện phi thường của bà công chúa Suppavasa trong thời gian bà mang thai Ngài Đại đức Sīvali. Sự thực bà công chúa Suppavasa chỉ là người chịu ảnh hưởng quả phước thiện của thai nhi: Ngài Đại đức Sīvali đang nằm trong bụng mẹ.
NGÀI SĪVALI Ở TRONG BỤNG MẸ SUỐT 7 NĂM 7 NGÀY
Thông thường, sau khi thọ thai, khoảng chín hoặc mười tháng, thì người mẹ sinh con. Nhưng khi công chúa Suppavasa mang thai Ngài Đại đức Sīvali thì đã qua tháng thứ 10, tháng thứ 11, rồi tròn một năm mà vẫn chưa sinh. Mặc cho mọi người trong hoàng tộc và dân chúng xứ Koliya nóng lòng trông chờ sự ra đời của đứa trẻ phi thường.
Ngày tháng cứ trôi qua, trong sự mong chờ đến nóng nảy của mọi người. Ngày này qua ngày khác, tháng này đến tháng khác của năm thứ hai đã trôi qua, mà đứa con phi thường trong bụng bà công chúa Suppavasa vẫn chưa ra đời. Cứ như vậy qua năm thứ ba, rồi… thứ tư, thứ năm, thứ sáu, cho đến năm thứ bảy đã trôi qua, mà người ta vẫn chưa thấy bà công chúa Suppavasa sinh con. Thật là một điều lạ thường, chưa từng nghe, chưa từng thấy bao giờ! Đặc biệt, thai nhi nằm trong bụng mẹ lâu như vậy, mà vẫn không làm cho bà công chúa Suppavasa thấy khó chịu một chút nào, bà công chúa vẫn sống an vui, tự nhiên và quả phước thiện mỗi ngày vẫn tăng trưởng phi thường.
NGÀI SĪVALI RA ĐỜI
Bà công chúa Suppavasa mang thai tròn đủ bảy năm vẫn bình an, nhưng bước sang bảy ngày kế tiếp, thì bà phải chịu đựng một sự đau khổ đến cùng cực từ thai nhi. Vốn là người cận sự nữ, có đức tin trong sạch nơi tam bảo, bà công chúa Suppavasa muốn được chiêm bái Đức Phật trước khi chết. Với mong muốn thiết tha đó, bà bày tỏ với hoàng tử Mahāli:
- Thưa phu quân, xin hãy vì thiếp và đứa con trong bụng thiếp, mà đi thỉnh Đức Phật cùng chư Đại đức Tăng về đây cho thiếp được chiêm bái và cúng dường.
- Đang nóng lòng vì thời gian mang thai của ái thiếp quá lâu, cùng với những hiện tượng phi thường mà mọi người đều thấy nơi bà công chúa Suppavasa, nghe lời thỉnh cầu của ái thiếp, hoàng tử Mahali liền đến bạch với Đức Phật theo nguyện vọng của phu nhân.
Bằng nhãn thông, Đức Thế Tôn thấy rõ quả báo ác nghiệp của thai nhi và người mẹ đã mãn. Ngài truyền dạy lời chúc lành đến bà công chúa Suppavasa và thai nhi rằng:
“Sukhinī vata hotu Suppavasa,
Koliyadhitā sukhinī arogā
Arogam puttam vāyatu”
“Công chúa Suppavasa xứ Koliya.
Được sự khỏe mạnh và an lành hạ sinh đứa con khỏe mạnh”.
Khi Đức Thế Tôn chúc lành xong, tại cung điện, công chúa Suppavasa hạ sinh đứa con trai dễ dàng như nước từ trong bình đỗ ra, trước khi hoàng tử Mahāli trở về. Bà công chúa Suppavasa nhìn thấy đứa con trai mặt mày khôi ngô tuấn tú, quả phước thiện tròn đủ, thì vô cùng vui mừng sung sướng.
Sự ra đời của hài nhi làm cho hoàng tộc cũng như dân chúng thành Koliya dập tắt được mọi sự nóng lòng lo sợ cho công chúa Suppavasa và công tử, đem lại sự mát mẻ an vui cho tất cả mọi người, nên đứa bé được đặt tên là Sīvali (Mát mẻ, an vui).
Trên đường trở về cung điện, nhìn thấy mọi người đều vui mừng, hoan hỷ, hoàng tử Mahāli biết rằng điều tốt lành đã đến với công chúa Suppavasa phu nhân và đứa con của mình. Về tới cung điện, ông lập tức vào thăm phu nhân và thuật lại lời chúc phúc của Đức Phật đến công chúa Suppavasa và đứa con trai., công chúa Suppavasa sẵn có đức tin trong sạch nơi Đức Phật, Đức Pháp, Đức Tăng, đồng thời vô cùng hoan hỷ nhìn thấy đứa con đại phước mới ra đời, bèn tâu với phu quân:
- Xin cho thiếp được thỉnh Đức Phật cùng 500 chư Tỳ-khưu tăng, ngày mai đến cung điện cho thiếp được làm phước thiện suốt 7 ngày gọi là “Vayamangala” (hạnh phúc sinh con).
Công tử Sīvali mới sinh ra đã mau lớn lạ thường, biết đi, đứng, ngồi, nằm… biết ăn uống, nói chuyện và có trí tuệ hiểu biết thật phi thường!
Đức Phật cùng chư Đại đức Tăng ngự đến cung điện của công chúa Suppavasa và hoàng tử Mahāli dự lễ làm phước “Hạnh phúc sinh con”, suốt 7 ngày.
Đến ngày thứ 7, Đức Thế Tôn truyền dạy Ngài Đại đức Sariputta thuyết pháp. Ngài Đại đức Sariputta thuyết bài pháp về sự khổ sinh, sự tái sinh là khổ. Công tử Sīvali lắng nghe và thấu hiểu một cách rất sâu sắc về sự khổ sinh, vì chính công tử đã phải chịu khổ nằm trong bụng mẹ suốt 7 năm lẻ 7 ngày: đó là những gì mà công tử đã trải qua.
Khi ấy, Ngài Đại đức Sariputta bèn hỏi công tử rằng:
- Này con, con nằm trong bụng mẹ lâu đến 7 năm lẻ 7 ngày, con đã cảm thọ sự khổ nhiều phải không?
- Kính bạch Ngài Đại đức, con đã cảm thọ khổ nhiều!
- Như vậy, con có muốn xuất gia để giải thoát khổ sinh hay không?
- Kính bạch Ngài Đại đức, nếu cha mẹ con cho phép, con sẽ xuất gia.
Công chúa Suppavasa nhìn thấy con trai của mình đang nói chuyện với Ngài Đại đức Sariputta, trong tâm vô cùng hoan hỷ, muốn biết con mình đang nói gì với Ngài Đại đức Sariputta. Bà công chúa Suppavasa đến hầu gần chỗ Ngài Đại đức, rồi bạch rằng:
- Bạch Ngài Đại đức, con của đệ tử đang nói chuyện gì với Ngài?
Ngài Đại đức Sariputta thuật lại rằng:
- Công tử Sīvali nói rằng: Con đã chịu bao nhiêu nỗi khổ khi còn đang nằm trong bụng mẹ, nếu cha mẹ con cho phép, con sẽ xuất gia để giải thoát khổ sinh”.
Nghe xong, công chúa Suppavasa vô cùng hoan hỷ bạch rằng:
- Kính Bạch Ngài Đại đức, Sādhu! Sādhu! Lành thay! Lành thay! Con kính xin Ngài từ bi tế độ đứa con của đệ tử được xuất gia.
- Ngài Đại đức Sariputta dẫn công tử Sīvali về chùa. Ngài dạy giới tử Sīvali về đề mục thiền định căn bản “Năm thể trược trong thân” (tóc, lông, móng, răng, da). Ngài còn dạy giới tử Sīvali tiến hành thiền tuệ thấy rõ, biết rõ khổ sinh, mà Sīvali đã cảm thọ suốt 7 năm lẻ 7 ngày trong bụng mẹ. Giới tử Sīvali liền thấu hiểu rõ mục đích xuất gia là để giải thoát khỏi khổ tái sinh.
CÔNG TỬ SĪVALI XUẤT GIA SA DI
Công tử Sīvali sau khi thọ giáo lời dạy của vị thầy tế độ là Ngài Đại đức Sariputta, liền được Ngài Đại đức Moggallāna cạo tóc. Trong khi cạo tóc, giới tử Sīvali tiến hành thiền định căn bản, năm thể trược ở trong thân, và tiến hành thiền tuệ biết rõ khổ của sự tái sinh của danh pháp, sắc pháp. Khi Ngài Đại đ ức Moggallana vừa đặt dao cạo tóc, giới tử Sīvali liền chứng ngộ chân lý tứ thánh đế, chứng đắc nhập lưu thánh đạo, nhập lưu thánh quả. Cạo đường tóc thứ nhất, giới tử Sīvali chứng ngộ chân lý tứ thánh đế, chứng đắc Nhất lai thánh đạo, Nhất lai thánh quả. Cạo đường tóc thứ hai, giới tử Sīvali chứng ngộ chân lý tứ thánh đế, chứng đắc Bất lai thánh đạo, Bất lai thánh quả. Cạo tóc vừa xong, đồng thời giới tử Sīvali chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc A la hán thánh đạo, A la hán thánh quả, trở thành Bậc thánh Arahán tột cùng, cao thượng trong Phật giáo.
Kể từ ngày Đại đức Sīvali xuất gia làm Sadi, hằng ngày không chỉ có hàng cận sự nam, cận sự nữ đem 4 món vật dụng: Y phục, vật thực, chỗ ở, thuốc men trị bệnh đến dâng cúng Ngài Đại đức và chư Tỳ-khưu Tăng, ngày càng đầy đủ, dồi dào sung túc, mà trước đây chưa từng có.
QUẢ ÁC NGHIỆP CỦA NGÀI SIVALI
Một hôm, nhóm Tỳ-khưu đang ngồi bàn luận về Ngài Đại đức Sīvali là Bậc Đại trí. Ngài đã chứng đắc từ bậc Thánh nhập lưu đến Bậc Thánh A la hán trong khoảng thời gian cạo tóc xong. Ngài còn là Bậc Đại Phước, kể từ khi Ngài xuất gia thành Sadi, 4 món vật dụng đã phát sinh, không chỉ đến cho Ngài Đại đức Sīvali, mà còn đến tất cả chư Tỳ-khưu Tăng một cách đầy đủ, dồi dào sung túc mà trước đây chưa từng có. Vậy do quả ác nghiệp nào khiến cho Ngài phải nằm trong bụng mẹ chịu khổ suốt 7 năm lẻ 7 ngày?
Lúc ấy, Đức Thế Tôn vừa ngự đến bèn hỏi rằng: Này chư Tỳ- khưu, các con đang bàn luận về chuyện gì vậy?
Nhóm Tỳ-khưu bạch Đức Thế Tôn rõ, họ đang bàn luận về Ngài Đại đức Sīvali, Đức Thế Tôn bèn dạy rằng: - Này chư Tỳ- Khưu, Sīvali chịu khổ do quả ác nghiệp đã tạo ở kiếp quá khứ.
Trong quá khứ, tiền kiếp của Sīvali là Thái tử con của đức vua trị vì ở kinh thành Baranasi. Khi phụ vương băng hà, thái tử lên ngôi vua. Lúc ấy, có vị vua của nước láng giềng mưu toan kéo quân chiếm kinh thành Baranasi. Trên đường tiến quân, vị vua này lập doanh trại cho quân lính nghỉ đêm.
Đức vua ở kinh thành Baranasi hay tin bèn bàn tính với bà Hoàng Thái hậu, tìm cách ngăn cản đội quân xâm lược, rồi đem quân vây quanh bốn cửa doanh trại suốt 7 ngày đêm không cho một ai ra vào.
Lúc ấy, chư Phật Độc giác đang ngự ở chùa Migadayavihara thuyết giảng dạy về pháp thiện, pháp ác, khuyên bảo mọi người không nên gây nghiệp ác, mà hãy cố gắng tạo nghiệp thiện. Đức vua ở kinh thành Baranasi, sau khi nghe pháp hiểu rõ nghiệp thiện, nghiệp ác, liền truyền lệnh mở vòng vây 4 cửa doanh trại quân địch, thả cho vị Vua láng giềng và quân lính trốn thoát chạy về nước.
Do quả ác của nghiệp vây hãm doanh trại suốt 7 ngày đêm ấy, Đức vua kinh thành Baranasi sau khi chết đọa địa ngục, chịu khổ suốt thời gian lâu dài. Nay đến kiếp hiện tại này, được tái sinh vào lòng bà công chúa Suppavasa, là hậu thân của bà Hoàng Thái hậu ở tiền kiếp, đã đồng tình với Vương nhi vây hãm doanh trại kẻ thù. Do quả của ác nghiệp ở thời quá khứ còn dư lại, nên khiến cho Ngài Đại đức Sīvali và công chúa Suppavasa cùng chịu khổ trong suốt 7 năm lẻ 7 ngày.
SADI SĪVALI TRỞ THÀNH TỲ-KHƯU
Ngài Đại đức Sīvali tròn 20 tuổi. Ngài thọ Cụ Túc Giới, trở thành Tỳ-khưu, bốn món vật dụng lại càng phát sinh dồi dào hơn đến chư Tỳ-khưu Tăng. Hễ mỗi khi Chư Tỳ-khưu Tăng đông đảo phải đi vân du trên đường qua những vùng hẻo lánh, dân cư thưa thớt, ít ỏi, nhưng nếu có Ngài Đại đức Sīvali đi cùng, thì 4 món vật dụng, phát sinh đầy đủ sung túc đến chư Tỳ-khưu Tăng, do nhờ oai lực quả phước thiện của Ngài Đại đức Sīvali, chư thiên đã hóa ra xóm làng, thị thành và dân cư đông đúc để dâng cúng y phục, vật thực, chỗ ở và thuốc men chữa bệnh đến đoàn chư Tỳ-khưu Tăng. Khi đoàn chư Tỳ-khưu Tăng đã đi qua khỏi nơi ấy, thì xóm làng, kinh thành đó liền biến mất.
Một thuở nọ, Đức Phật cùng đoàn chư Tỳ-khưu Tăng đông đảo đến ngự đến khu rừng, nơi ở của Ngài Đại đức Revata. Khi Đức Phật cùng đoàn chư Tỳ-khưu Tăng đi đến đoạn đường có lối rẽ. Ngài Đại đức Ananda bạch với Đức Phật rằng:
- Kính bạch Đức Thế Tôn, có hai con đường, Đức Thế Tôn nên ngự đi con đường nào trong hai con đường này:
- Một con đường dài 30 do tuần, đầy nguy hiểm và có nhiều phi nhân, không có nơi khất thực và chỗ ở.
- Một con đường dài 60 do tuần, được an toàn, vì có làng xóm, chỗ ở và khất thực dễ dàng.
Đức Thế Tôn dạy: - Này Ananda, Sīvali có đi trong đoàn Tỳ-khưu phải không?
- Bạch Đức Thế Tôn, có Ngài Đại đức Sīvali cùng đi trong đoàn.
Đức Thế Tôn dạy:
- Như vậy, chư Tỳ-khưu nên đi theo con đường dài 30 do tuần. Để biết rõ được quả phước thiện của Sīvali.
Đức Phật cùng đoàn Tỳ-khưu Tăng đông đảo ngự theo con đường dài 30 do tuần. Tất cả chư thiên hay tin Đức Phật cùng đoàn Tỳ-khưu Tăng đông đảo, trong đó có Ngài Đại đức Sīvali kính yêu của họ, đang ngự dọc theo con đường này, nên vô cùng hoan hỷ. Cứ mỗi do tuần, chư thiên lại hóa ra một kinh thành trù phú có dân chúng đông đúc, có những ngôi chùa lớn, trong mỗi ngôi chùa, lại hóa ra một cái cốc lớn dành cho Đức Phật và những cốc nhỏ dành cho những vị Tỳ-khưu. Trong các cốc đó có đầy đủ những vật dụng cần thiết của bậc xuất gia, để tiếp đón Đức Phật và đoàn Tỳ-khưu Tăng.
Khi Đức Phật cùng chư Tỳ-khưu Tăng đi đến đâu chư thiên lại hóa ra các cận sự nam, cận sự nữ có đức tin trong sạch nơi Tam bảo, hộ độ cúng dường 4 món vật dụng đầy đủ sung túc.
Tất cả chư thiên đến hầu đảnh lễ Đức Phật xong, bạch Đức Thế Tôn rằng:
- Kính bạch Đức Thế Tôn, Ngài Đại đức Sīvali của chúng con ở đâu?
Khi gặp được Ngài Đại đức Sīvali, tất cả chư thiên vô cùng hoan hỷ, cho nên các món vật dụng y phục, vật thực, chỗ ở và thuốc men chữa bịnh phát sanh đến chư Tỳ-khưu Tăng dồi dào, sung túc cho đến khi đức Phật và đoàn chư Tỳ-khưu Tăng rời khỏi nơi ấy.
Đức Phật cùng đoàn chư Tỳ-khưu Tăng mỗi ngày đi được 1 do tuần, cứ mỗi do tuần chư thiên hóa ra các kinh thành trù phú, dân cư đông đúc như vậy để hộ độ Đức Phật và đoàn chư Tỳ-khưu Tăng, trên suốt quảng đường dài 30 do tuần, cho đến khu rừng, nơi trú ngụ của Ngài Đại đứcRevata.
Ngài Đại đức Revata hay được tin Đức Phật cùng đoàn chư Tỳ-khưu Tăng đông đảo đến thăm, Ngài dùng thần thông hóa ra ngôi chùa lớn để Đức Phật thuyết pháp và là nơi hội họp của chư Tỳ-khưu Tăng; hóa ra cốc Gandhakuti đầy đủ tiện nghi dâng lên Đức Phật, và những cốc nhỏ khác cho những vị Tỳ-khưu. Cũng bằng thần thông, Ngài Đại đức Revata hóa ra một con đường lớn và xinh đẹp để đón rước Đức Phật và chư Tỳ-khưu Tăng. Đức Phật cùng đoàn chư Tỳ-khưu Tăng ngự đi trên con đường đó đến ngôi chùa lớn, rồi Đức Phật ngự tới cốc Gandhakuti, tất cả chư Tỳ-khưu mỗi vị vào nghỉ một cốc nhỏ đã hóa sẵn.
Chư thiên ở trong rùng vô cùng hoan hỷ đón rườc Đức Phật và Chư Tỳ-khưu Tăng, trong đó có Ngài Đại đức Sīvali vô cùng kính yêu của họ. Chư thiên cũng hóa thành những cận sự nam, cận sự nữ biết được đã quá giờ thọ thực nên họ chỉ làm nước trái cây dâng lên Đức Phật cùng chư Tỳ-khưu Tăng. Mỗi ngày, chư thiên hoan hỷ cúng dường 4 món vật dụng đến đức Phật và chư Tỳ-khưu Tăng. Rất đầy đủ sung túc. Do quả phước thiện của Ngài Đại đức Sīvali, suốt nửa tháng đức Phật cùng đoàn chư Tỳ-khưu Tăng ngự ở khu rừng luôn được chư thiên kính yêu và dâng lên các món y phục, vật thực, chỗ ở và thuốc chữa bệnh một cách đầy đủ, dồi dào sung túc chưa từng có bao giờ.
Một hôm, chư Tỳ-khưu hội họp bàn về chuyện Ngài Đại đức Sīvali có nhiều quả báu phước thiện đặc biệt nhất, không chỉ phát sinh 4 món vật dụng đến Ngài Đại đức Sīvali mà còn đến cả chư Tỳ-khưu Tăng dù bao nhiêu cũng vẫn sung túc đầy đủ. Thật là điều phi thường! Không chỉ có các hàng cận sự nam cận sự nữ đem 4 món vật dụng đến cúng dường Ngài Đại đức Sīvali và chư Tỳ-khưu Tăng, mà còn có cả chư thiên, Long Vương… cũng đem 4 món vật dụng lên dâng cúng Ngài Đại đức Sīvali và chư Tỳ-khưu Tăng nữa. Các Tỳ-khưu đang bàn luận, khi ấy Đức Thế Tôn ngự đến bèn hỏi:
- Này chư Tỳ-khưu, các con đang bàn về chuyện gì thế?
Chư Tỳ-khưu bạch Đức Thế Tôn rằng:
- Kính bạch Đức Thế Tôn, chúng con đang bàn về quả phước thiện đặc biệt nhất của Ngài Đại đức Sīvali đã làm cho phát sinh 4 món vật dụng đến Ngài Đại đức và Chư Tỳ-khưu Tăng dù nhiều bao nhiêu cũng vẫn đầy đủ sung túc.
Nhân dịp ấy, Đức Thế Tôn chủ trì một buổi hội chư Đại đức Thánh Tăng. Đức Thế Tôn tuyên dương cho toàn thể các hàng đệ tử biết rằng:
“Etadaggam bhikkhave mama sāvakānam labhinam yadidam Sīvali”.
- Này chư Tỳ-khưu, Sīvali là bậc Thánh Thanh văn đại Đệ tử có tài lộc bậc nhất trong các hàng Thánh Thanh văn đệ tử của Như Lai.
Đức Thế Tôn dạy rằng:
- Này chư Tỳ-khưu, Sīvali có tài lộc nhiều là do nhờ quả báo của phước thiện đã tạo ở những kiếp quá khứ.
KỆ CẦU TÀI LỘC - SĪVALI GĀTHĀ
1.”Sīvali ca mahanamam,Sabbalabhaṃ bhavissatiTherassa anubhavena,Sabbe hontu piyam mama”.Ngài Đại đức Sīvali bậc đại danhCầu xin tất cả tài lộc sẽ phát sanhDo nhờ oai lực của Ngài Đại đức,Tất cả chúng sanh, chư thiên, nhân loại,Đều có tâm từ thương mến con.2. “Sīvali ca mahalabham,Sabbalabham bhavissatiTherassa anubhavenaSada hontu piyaṃ mama”.Ngài Đại đức Sīvali bậc đại tài lộcCầu xin tất cả tài lộc sẽ phát sanh,Do nhờ oai lực của Ngài Đại đức,Cầu xin Chư thiên, nhân loại luôn luôn yêu mến con.3. “Sīvali ca mahathero,mama sise thapetvana,Mantitena jāyomantam,aham vandami Sabbada”.Ngài Đại đức Sīvali bậc cao thượng,Con tôn kính Ngài ở trên đầu con.Con xin tán dương ca tụng ân đức của NgàiCon luôn luôn kính đảnh lễ Ngài.
Quý vị có thường nghe câu nói "Thờ Thánh Tăng Sivali như thờ một vị Thần Tài - sẽ không lo sợ bị đói " Chúng ta hãy cùng tìm hiểu về vị thánh tăng này và xem cách thờ cúng như thế nào để mang lại may mắn tài lộc cho gia chủ, quý vị nhé!
Thánh tăng Sivali - vị thánh tăng đệ nhất tài lộc
Tương truyền rằng, Thánh Tăng Sivali là con của vị công chúa Suppavasa. Khi nàng mang thai, chúng thần dân trong cả nước luôn thường xuyên mang tặng quà cáp, lương thực.
Do thấy được công đức vô lượng của bà, một người dân đã thử đem hạt giống cho bà chạm thử, thì kết quả mùa vụ tốt tươi gấp trăm lần. Cũng có sách ghi chép lại rằng, chỉ cần bà chạm tay vào vật gì thì vật đó sẽ không vơi, chẳng hạn như chạm tay vào bồ lúa vơi thì bồ lúa sẽ luôn đầy; hoặc khi phân phát cơm cho dân chúng bà chạm tay vào thì cơm không bao giờ vơi.
Sự thật thì công đức này là nhờ vào thai nhi trong bụng bà. Sau khi ra đời, ngài đã nghe lời khuyên của 1 vị cao tăng đắc đạo đi theo con đường tu sĩ. Ông chính là người trẻ tuổi chứng quả La Hán và làm đệ tử của đức Phật thích ca mâu ni thời Phật còn tại thế.
Sivali có nghĩa là dập tắt những lo sợ nóng nảy, chỉ mang lại an vui cho mọi chúng sanh. Từ khi thánh tăng Sivali đi theo con đường tu đạo. Chẳng biết từ đâu mà mọi lương thực, vật dụng cần thiết đều tự nhiên đến với ngài. Ngài đi đến đâu đều được dân chúng tôn kính quỳ lạy đến đó, như thể cha mẹ sinh thành của họ vậy.
Qua đó, có rất nhiều kinh sách đã ghi chép rằng chỉ cần có tượng ngài ở đâu, chắc rằng nơi đó sẽ trở nên đầy đủ, sung túc không cần lo lắng quá nhiều về chuyện cơm ăn áo mặc hằng ngày. Ngài nhất định sẽ phù hộ cho gia chủ làm ăn phát đạt, tài lộc dồi dào, công việc thuận buồm xuôi gió.
Đặc biệt, nếu quý vị thành tâm tôn kính tôn tượng ngài, thì các thành viên trong gia đình cũng sẽ được nhiều người yêu mến, như chính cái cách mà ngài được chúng sanh thương yêu vậy.
Tôn tượng của ngài được khắc họa đứng hoặc ngồi với một số vật dụng và ý nghĩa của chúng như sau:
- Cây dù : Nhằm ngăn chặn những người mang đến điều bất hạnh
- Gậy chống : Cung cấp hỗ trợ và giúp đỡ của quý nhân trong những lúc cần thiết.
- Bát khất thực: Đây là hình ảnh thường thấy trong đạo Phật, nếu một nhà sư thực hành tốt đi khất thực, thì bát chắc chắn sẽ được lấp đầy với thực phẩm.
- Quạt : Để tránh phiền nhiễu, quấy rầy.
- Giỏ : Hình ảnh này chỉ việc tích lũy và giữ lấy tài lộc.
Cho nên, hết thảy những gì xung quanh ngài thánh tăng Sivali đều khắc họa nên một vị thánh của tài lộc, chở che và mang lại hạnh phúc may mắn, vui vẻ cho mọi chúng sanh.
Cách thờ cúng thánh tăng Sivali
Lập bàn thờ và thờ như thế nào cho đúng thì không phải bất kì đạo hữu Phật tử nào cũng dễ dàng nắm rõ. Thờ đúng cách sẽ mang lại điềm lành, may mắn. Thờ sai cách sẽ gây ra nhiều điều trắc trở. Cho nên, quý vị cần lưu ý một số nhân tố sau:
Nếu thờ thánh tăng sivali cùng với thờ Phật, thì quý vị cần đặt tượng Phật ở vị trí cao nhất và chính giữa. Bởi vì Phật là thầy của hết thảy chúng sinh khắp mười phương ba cõi, kể cả những người đã khuất.
Tượng thánh tăng đặt dưới tượng Phật hoặc đặt về hướng bên trái của bàn thờ, đặt hướng bên trái là để học hạnh bố thí xả ly của Ngài chứ không phải là chiêu tài lộc.
Cần đặt tượng ở nơi tôn nghiêm, sạch sẽ, hướng ra phía cửa chính của căn nhà. Bàn thờ Phật, tăng cần phải được thiết kế cao hơn đầu người nếu không có một gian phòng thờ riêng. Còn nếu nhà quý vị có điều kiện về không gian, hãy dành một căn phòng cao nhất và thờ Phật Pháp Tăng.
Đồ để cúng cho thánh tăng phải có đĩa đựng riêng, không nên bày vàng mã và đồ mặn lên bàn thờ, những điều này là phạm cấm kỵ.
Nếu đã chọn ngày thỉnh thánh tăng Sivali về thờ quý vị nên chuẩn bị xong tất cả mọi thứ một cách hoàn hảo trước khi thỉnh.
Thỉnh tượng thánh tăng Sivali cần chọn đơn vị cung cấp có tâm và uy tín. Nên chọn đơn vị tạc tạo tượng tại Việt Nam, vì như kinh Phật đã nói Tượng nước nào thì mang dáng dấp của người nước đó nên nếu thỉnh tượng du nhập sẽ làm mờ đi nền văn hóa dân tộc.
Hy vọng với những gì được viết trên đây, quý vị có thể biết được ý nghĩa tuyệt vời của việc thờ tượng thánh tăng Sivali và thờ như thế nào cho đúng để chiêu tài lộc, đem lại an vui cho gia đình.
Câu kệ "CẦU TÀI LỘC"
1.
"Sīvali ca mahanamam,
Sabbalabhaṃ bhavissati
Therassa anubhavena,
Sabbe hontu piyam mama"
Phiên âm:
"Sivali ca mahana măn,
Sắp ba la băm ba ví sati
Tê rát sanubavena,
Sắp bơ hô tu pi dăm ma ma.
Nghĩa:
Ngài Đại Đức Sīvali bậc đại danh
Cầu xin tất cả tài lộc sẽ phát sanh
Do nhờ oai lực của Ngài Đại Đức,
Tất cả chúng sanh, Chư thiên, nhân loại,
Đều có tâm từ thương mến con.
2.
"Sīvali ca mahalabham,
Sabbalabham bhavissati
Therassa anubhavena
Sada hontu piyaṃ mama"
"Sivali ca mahana măn,
Sắp ba la băm ba ví sati
Tê rát sanubavena,
Sắp bơ hô tu pi dăm ma ma.
Nghĩa:
Ngài Đại Đức Sīvali bậc đại danh
Cầu xin tất cả tài lộc sẽ phát sanh
Do nhờ oai lực của Ngài Đại Đức,
Tất cả chúng sanh, Chư thiên, nhân loại,
Đều có tâm từ thương mến con.
2.
"Sīvali ca mahalabham,
Sabbalabham bhavissati
Therassa anubhavena
Sada hontu piyaṃ mama"
Phiên âm:
"Sivali ca mahala băm,
Sắp ba la băm ba ví sati
Tê rát sa a nút bavena
Sada hô tu pi dăm ma ma."
Nghĩa:
Ngài Đại Đức Sīvali bậc đại tài lộc
Cầu xin tất cả tài lộc sẽ phát sanh,
Do nhờ oai lực của Ngài Đại Đức,
Cầu xin Chư thiên, nhân loại luôn luôn yêu mến con.
3.
"Sīvali ca mahathero,
mama sise thapetvana,
Mantitena jāyomantam,
aham vandami Sabbada"
"Sivali ca mahala băm,
Sắp ba la băm ba ví sati
Tê rát sa a nút bavena
Sada hô tu pi dăm ma ma."
Nghĩa:
Ngài Đại Đức Sīvali bậc đại tài lộc
Cầu xin tất cả tài lộc sẽ phát sanh,
Do nhờ oai lực của Ngài Đại Đức,
Cầu xin Chư thiên, nhân loại luôn luôn yêu mến con.
3.
"Sīvali ca mahathero,
mama sise thapetvana,
Mantitena jāyomantam,
aham vandami Sabbada"
Phiên âm:
"Sivali camaha tê rô,
Ma ma si sơ ta pơ vana,
Măn titena da dô man tăm,
A năn vadami sắp ba đa."
Nghĩa:
Ngài Đại Đức Sīvali bậc cao thượng,
Con tôn kính Ngài ở trên đầu con.
Con xin tán dương ca tụng ân đức của Ngài
Con luôn luôn kính đãnh lễ Ngài.
Các bác đọc đến đó thì xin đọc tiếp phần dưới đây luôn nha!
Giống nào người đã gieo trồng
Quả ấy sẽ trỗ cho ông bội phần
Như người làm thiện ân cần
Quả lành sẽ trỗ, đặc ân lạ gì
Còn người hành ác khác chi
Khổ đau là quả tránh đi đường nào
Đức Sīvali danh cao
Cầu xin tài lộc sanh vào cho con
Do nhờ oai lực vẹn toàn
Ngài Sīvali mãi còn thế gian
Cầu mong thiên chúng các hàng
Cùng chung nhân loại vô vàn mến con
Đức Sīvali tợ non
Lộc tài Đại Đức hoàn toàn cao thanh
Cầu xin tài lộc phát sanh
Cho con hưởng quả an lành Ngài ban
Cầu mong thiên chúng các hàng
Cùng chung nhân loại vô vàn mến con.
Ân Sīvali mãi còn
Bậc Thầy cao thượng cho con đội đầu
Kính Ngài là bậc nhiệm mầu
Con luôn đảnh lễ, mong cầu lạc an.
Bài chú Si-va-lý cầu tài đến đây là hết rồi đó các bác.Ở trên là em đã phiên âm cho các bác dễ đọc luôn rồi đó!
Bài kinh cầu tài lộc Thánh Tăng Sivali hầu như Phật tử Việt Nam đều thích .
Có lẽ Ngài Sivali đối với hàng chư Tăng, đối với hàng Phật tử ai cũng thấy được sự linh thiêng, thấy được sự linh nghiệm khi thờ Ngài Sivali hay tụng kinh cầu tài lộc từ Ngài Sivali.
Quý vị để ý khi bắt đầu từ khi mình tin tưởng, đeo tượng Ngài Sivali, thờ Ngài Sivali, tụng cầu ân đức Ngài Sivali thì tài lợi càng ngày càng phát sanh. Không kể riêng hàng cư sĩ mà Chư Tăng nào đọc tụng cũng có uy lực có lợi ích đó.
Riêng bài cầu tài lợi Ngài Sivali có rất nhiều bài, có nhiều dị bản.
Cách đây hơn 20 năm về trước chúng tôi học được bài này, thật ra chúng tôi cũng không mặn mà gì đối với bài cầu tài lộc này nhưng sau này thấy mọi người tụng cầu có kết quả nên cũng bắt chước cầu theo, chúng tôi cảm thấy mỗi ngày tài lộc tăng tiến
Sivali ca mahathero ( Ngài đại trưởng lão có tên Sivali)
Devata nara pujito (Đã được sự cúng dường của Chư Thiên, nhân loại)
Soraho paccayadimhi (Đã nhận được sựcúng dường đặc biệt từ nơi các vị đó)
Aham. Vandami tam. Sada ( Con xin luôn luôn đảnh lễ Ngài Sivali)
Sivali ca mahathero ( Ngài đại trưởng lão có tên Sivali)
Yakkha davabhipujito (Đã được Chư Thiên và Dạ Xoa cúng dường)
Soraho paccayadimhi (Đã nhận được sựcúng dường đặc biệt từ nơi các vị đó)
Aham. Vandami tam. Sada ( Con xin luôn luôn đảnh lễ Ngài Sivali)
Sivali ca mahatherassa etam.( Ân đức đặc biệt của Ngài Sivali )
Gunam. Sotthi labham. Bhavantu me ( Xin tài lộc đó hãy phát sanh đến cho con )
Sotthi là tài , Labham là lộc. Bhavantu me là xin tài lộc đó hãy phát sanh cho con
Ngày xưa trong đời sống của Ngài đã hưởng và được Đức Phật công nhận và tuyên bố trước mặt chư Tăng là “Đệ nhất về tài lộc” như thế nào thì ân đức tài lộc đó ngày hôm nay.
Ngày xưa Ngài đi đến đâu ai cũng hưởng được sự cúng dường thì ngày hôm nay con cầu ân đức đó xuất hiện hay hiện diện nơi con để ân đức đó đưa đến tài lộc cho con . Đó là bài cầu tài lộc của Ngài Sivali.
TÔN GIẢ THI BÀ LA (SIVALI) – ĐỆ NHẤT TÀI LỘC
Trong dân gian có phong tục cúng Thần Tài vào ngày 10/01 âm lịch hằng năm để cầu tài lộc dồi dào bằng cách mua cá lóc nướng về cúng rồi ăn. Việc thờ cúng như vậy chỉ gieo thêm nghiệp sát sinh vào cuộc đời, vậy liệu rằng, việc làm đó có thực sự linh thiêng?
Từ cuộc đời vĩ đại của Đức Phật và các vị Thánh A La Hán, trong đó có Tôn giả Thi Bà La (Sivali) – Đệ Nhất Tài Lộc, đã cho chúng ta thêm niềm tin rằng Nhân quả báo ứng là có thật và luôn hiện hữu. Để có phước tài lộc dồi dào, chúng ta luôn thành tâm cúng dường và tôn kính các bậc Thánh giác ngộ, thực hành bố thí rộng lớn không chấp công dù chỉ là một việc nhỏ. Làm được như vậy, mọi người sẽ được may mắn về đường tài lộc, gia đình sung túc, bình an, thịnh vượng – đây là một lối sống chân chính và đúng với Luật Nhân quả nghiệp báo.
“Lộc tài bất tận bao la
Bởi tâm bố thí sâu xa dạt dào
Mênh mông biển rộng sóng trào
Đức ân ban rải khắp vào thế gian
Cuộc đời nắng sớm sương tan
Nhưng còn lại đó muôn vàn tình thương.”
"Sivali camaha tê rô,
Ma ma si sơ ta pơ vana,
Măn titena da dô man tăm,
A năn vadami sắp ba đa."
Nghĩa:
Ngài Đại Đức Sīvali bậc cao thượng,
Con tôn kính Ngài ở trên đầu con.
Con xin tán dương ca tụng ân đức của Ngài
Con luôn luôn kính đãnh lễ Ngài.
Các bác đọc đến đó thì xin đọc tiếp phần dưới đây luôn nha!
Giống nào người đã gieo trồng
Quả ấy sẽ trỗ cho ông bội phần
Như người làm thiện ân cần
Quả lành sẽ trỗ, đặc ân lạ gì
Còn người hành ác khác chi
Khổ đau là quả tránh đi đường nào
Đức Sīvali danh cao
Cầu xin tài lộc sanh vào cho con
Do nhờ oai lực vẹn toàn
Ngài Sīvali mãi còn thế gian
Cầu mong thiên chúng các hàng
Cùng chung nhân loại vô vàn mến con
Đức Sīvali tợ non
Lộc tài Đại Đức hoàn toàn cao thanh
Cầu xin tài lộc phát sanh
Cho con hưởng quả an lành Ngài ban
Cầu mong thiên chúng các hàng
Cùng chung nhân loại vô vàn mến con.
Ân Sīvali mãi còn
Bậc Thầy cao thượng cho con đội đầu
Kính Ngài là bậc nhiệm mầu
Con luôn đảnh lễ, mong cầu lạc an.
Bài chú Si-va-lý cầu tài đến đây là hết rồi đó các bác.Ở trên là em đã phiên âm cho các bác dễ đọc luôn rồi đó!
Bài kinh cầu tài lộc Thánh Tăng Sivali hầu như Phật tử Việt Nam đều thích .
Có lẽ Ngài Sivali đối với hàng chư Tăng, đối với hàng Phật tử ai cũng thấy được sự linh thiêng, thấy được sự linh nghiệm khi thờ Ngài Sivali hay tụng kinh cầu tài lộc từ Ngài Sivali.
Quý vị để ý khi bắt đầu từ khi mình tin tưởng, đeo tượng Ngài Sivali, thờ Ngài Sivali, tụng cầu ân đức Ngài Sivali thì tài lợi càng ngày càng phát sanh. Không kể riêng hàng cư sĩ mà Chư Tăng nào đọc tụng cũng có uy lực có lợi ích đó.
Riêng bài cầu tài lợi Ngài Sivali có rất nhiều bài, có nhiều dị bản.
Cách đây hơn 20 năm về trước chúng tôi học được bài này, thật ra chúng tôi cũng không mặn mà gì đối với bài cầu tài lộc này nhưng sau này thấy mọi người tụng cầu có kết quả nên cũng bắt chước cầu theo, chúng tôi cảm thấy mỗi ngày tài lộc tăng tiến
Sivali ca mahathero ( Ngài đại trưởng lão có tên Sivali)
Devata nara pujito (Đã được sự cúng dường của Chư Thiên, nhân loại)
Soraho paccayadimhi (Đã nhận được sựcúng dường đặc biệt từ nơi các vị đó)
Aham. Vandami tam. Sada ( Con xin luôn luôn đảnh lễ Ngài Sivali)
Sivali ca mahathero ( Ngài đại trưởng lão có tên Sivali)
Yakkha davabhipujito (Đã được Chư Thiên và Dạ Xoa cúng dường)
Soraho paccayadimhi (Đã nhận được sựcúng dường đặc biệt từ nơi các vị đó)
Aham. Vandami tam. Sada ( Con xin luôn luôn đảnh lễ Ngài Sivali)
Sivali ca mahatherassa etam.( Ân đức đặc biệt của Ngài Sivali )
Gunam. Sotthi labham. Bhavantu me ( Xin tài lộc đó hãy phát sanh đến cho con )
Sotthi là tài , Labham là lộc. Bhavantu me là xin tài lộc đó hãy phát sanh cho con
Ngày xưa trong đời sống của Ngài đã hưởng và được Đức Phật công nhận và tuyên bố trước mặt chư Tăng là “Đệ nhất về tài lộc” như thế nào thì ân đức tài lộc đó ngày hôm nay.
Ngày xưa Ngài đi đến đâu ai cũng hưởng được sự cúng dường thì ngày hôm nay con cầu ân đức đó xuất hiện hay hiện diện nơi con để ân đức đó đưa đến tài lộc cho con . Đó là bài cầu tài lộc của Ngài Sivali.
TÔN GIẢ THI BÀ LA (SIVALI) – ĐỆ NHẤT TÀI LỘC
Trong dân gian có phong tục cúng Thần Tài vào ngày 10/01 âm lịch hằng năm để cầu tài lộc dồi dào bằng cách mua cá lóc nướng về cúng rồi ăn. Việc thờ cúng như vậy chỉ gieo thêm nghiệp sát sinh vào cuộc đời, vậy liệu rằng, việc làm đó có thực sự linh thiêng?
Từ cuộc đời vĩ đại của Đức Phật và các vị Thánh A La Hán, trong đó có Tôn giả Thi Bà La (Sivali) – Đệ Nhất Tài Lộc, đã cho chúng ta thêm niềm tin rằng Nhân quả báo ứng là có thật và luôn hiện hữu. Để có phước tài lộc dồi dào, chúng ta luôn thành tâm cúng dường và tôn kính các bậc Thánh giác ngộ, thực hành bố thí rộng lớn không chấp công dù chỉ là một việc nhỏ. Làm được như vậy, mọi người sẽ được may mắn về đường tài lộc, gia đình sung túc, bình an, thịnh vượng – đây là một lối sống chân chính và đúng với Luật Nhân quả nghiệp báo.
“Lộc tài bất tận bao la
Bởi tâm bố thí sâu xa dạt dào
Mênh mông biển rộng sóng trào
Đức ân ban rải khắp vào thế gian
Cuộc đời nắng sớm sương tan
Nhưng còn lại đó muôn vàn tình thương.”
Mùa an cư thứ mười bốn năm ấy, Đức Phật cùng năm trăm vị Tỳ kheo về thăm nơi Tôn giả Ly Bà Đa đang độc cư thiền định, tại một khu rừng keo nằm sâu trong núi rừng u tịch. Con đường đến nơi đó rất chông gai, đầy rẫy nguy hiểm, cả quãng đường xa xôi mà không có lấy một ngôi làng, thật khó khăn để có thể khất thực. Có vị Tỳ kheo lo lắng cho Thế Tôn và Chư Tăng sẽ vất vả. Thế Tôn điềm tĩnh đáp lời:
– Trong đoàn có Tỳ kheo Thi Bà La đi với chúng ta, vậy các con đừng lo.
Trong suốt quãng đường, những điều kỳ diệu liên tiếp xảy ra trước sự ngỡ ngàng của Tăng chúng. Bất cứ chỗ nào Chư Tăng dừng chân thì ngay lập tức, khu rừng rậm đầy gai nhọn trước mặt biến thành những tinh xá khang trang, đầy đủ thức ăn, thuốc men và nước uống. Suốt chặng đường xa xôi ấy, dân chúng khắp nơi, chư Thiên tử các tầng trời và quỷ thần cùng đổ về, thay nhau cúng dường, đảnh lễ Đức Phật cùng Tăng chúng.
Trước những điều kỳ diệu như vậy, chư vị Tỳ kheo vô cùng cảm kích và biết ơn. Sau đó, Thế Tôn tán dương rằng: “Trong số những Tỳ kheo đệ tử của Như Lai, nhận được sự cúng dường tối thắng là Tỳ kheo Thi Bà La”.
Trong một kiếp, Tôn giả Thi Bà La là một vị vua tài năng, đức độ. Ngài hết lòng chăm lo đời sống và dạy đạo đức cho muôn dân. Dân chúng khi nghe những lời dạy cao quý ấy, khi mạng chung đều sinh lên cõi trời Đao Lợi, hưởng phước báu nghìn năm. Vì thế, lúc nào cũng có vô số Thiên tử ước mong được theo chân cúng dường lên Ngài để đền đáp ân nghĩa kiếp xưa. Một kiếp khác, Tôn giả Thi Bà La là một vị Sa môn tu hành, Ngài đã để lại câu chuyện vô cùng cảm động về hạnh bố thí tột cùng. Vì chúng sinh, Ngài sẵn sàng cho đi những gì tốt nhất có thể, kể cả khi phải xả thân mình cứu giúp.
Phước lực của Ngài vô cùng dồi dào bởi tâm hạnh bố thí bao la trong vô lượng kiếp. Ngài đã dốc lòng ban tặng mọi điều, xả thân vì chúng sinh chẳng bao giờ chấp công. Vì thế, ân đức của Tôn giả ngập tràn khắp nhân thiên. Tại đất nước như Thái Lan hay Miến Điện, người dân tôn thờ Tôn giả như một vị Thánh Tài Lộc. Họ xây dựng nhiều đền đài tưởng nhớ và để được che chở trong phúc lành vô lượng của Ngài.
Ngày nay, cuộc sống hiện đại đầy rẫy ganh đua dễ khiến cõi lòng con người trở nên nhỏ hẹp. Hình ảnh của Ngài trở thành biểu tượng thiêng liêng của tình thương yêu bao la, đồng hành cùng nhân loại dựng xây một thế giới tương lai không còn đói nghèo, hận thù, bất công…
Trích “Thánh Độ Mệnh – Tôn giả Thi Bà La” (Sivali) – Thượng tọa Thích Chân Quang.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét