Thứ Năm, 4 tháng 3, 2021

PHẬT TRỜI ĐẤT NGƯỜI (P1)





PHẬT TRỜI ĐẤT NGƯỜI (P1): ĐẮC ĐẠO
Kiều Nguyên Tá



LỜI MỞ ĐẦU


Bằng ngôn từ chữ viết Việt Nam, tôi mộc mạc viết ra cuốn sách này để mọi người ở thế giới này biết về những gì gọi là: PHẬT, TRỜI, ĐẤT, NGƯỜI. Từ thuở khai Thiên lập Địa sơ khai, mù mù mịt mịt cho đến nay con người vẫn lặn ngụp trong việc nghiên cứu, tìm hỏi để hiểu ra mọi liên hệ giữa PHẬT, TRỜI, ĐẤT, NGƯỜI. Lâu thật lâu lắm rồi có thể nói hàng ngàn, vạn tỷ tỷ năm. Người ta vẫn mù mịt và tận tình khai thác để hiểu rõ những từ ngữ trên.

Dù cho đã có bao lời giải thích, chứng dẫn từ đời này qua đời khác để chứng minh có sự ràng buộc giữa: PHẬT, TRỜI, ĐẤT, NGƯỜI, xong có mấy ai hiểu và cũng có mấy ai tin. Chu trình tiến hóa của Vũ Trụ, vạn vật không thể tính cũng không thể đem sự hiểu biết của hai chục kiếp người giãi bày, nói ra hiểu cho nổi. Bởi mỗi con người nhỏ nhoi với sự suy tưởng từng kiếp của bộ óc bé nhỏ sao có thể thấu đạt được sự huyền bí mênh mông vô cùng, vô tận của Vũ Trụ Càn Khôn.

Cho dù những bậc chân nhân đạt Đạo hoặc đắc Đạo ở một tầng giới hoặc nhiều tầng giới nào đó trải qua nhiều kiếp can đảm, kiên trì, nhẫn nại để điêu luyện cũng chỉ có thể hiểu được phần nào cái gọi là: Phật, Trời, Đất, Người gồm thâu trong đó trùng trùng, điệp điệp sự tiến hóa không ngừng nghỉ trải qua hàng tỷ tỷ năm của muôn vật, của hằng hà sa số hành tinh được bao bọc trong vòng khí THIÊN TIÊN bất tận, vô cùng không thể nào tưởng nghĩ như những tưởng nghĩ thường tình. Những người gọi là đạt Đạo, đắc Đạo đó cũng mang theo về cõi kác sau khi hoàn tất một kiếp học hỏi, tu hành. Bởi tất cả nằm tron cái gọi là: Thiên Cơ Bất Khả Lậu. Như vậy, chuyện Thiên cơ bất khả lậu có thật sự là một chuyện bí mật hay huyễn hoặc không? Hiển nhiên không phải như vậy, bởi một vị, hay cho đến hàng ngàn vị đắc Đạo chăng nữa cũng không thể nói cho một người tin. Muốn tin phải thực hành, muốn hành phải rèn luyện để tự mở ra cho chính mình sự hiểu biết, sự thông đạt mới có thể tỏ ngộ ra Phật, Trời, Đất, Người là gì để mà tin hay không tin chuyện: Không không, Có có.

Khi nghe nói đến “Sắc, sắc, không không” đã bắt người ta phải có một sự suy tưởng nhận biết một cách khoáng đạt bằng tâm cảm chân chính, bằng trí óc nghĩ suy. Nếu chỉ phiến diện hiểu qua “Không” là không có gì, hoặc giả đi tìm “Chân không” để hiểu được về chữ không thì thật là một lầm lẫn vô cùng. Muốn hiểu về chữ KHÔNG trong Chân Không Diệu Hữu cũng cần phải trải qua nhiều công trình học hỏi, tìm hiểu bằng TÂM. Tuyệt nhiên không thể dùng trí óc bình thường như ta suy nghĩ, học hỏi ở sách vở thường tình được.

Việc viết cuốn sách này không phải để phô bày về một người đắc Đạo. Bởi một người đắc, đạt Đạo không có gì để chứng minh vì các trường đại học ở dưới thế giới này lấy tư cách gì để cấp bằng cho một người đắc Đạo. Người đắc Đạo từ xưa cho đến nay không bao giờ cho biết là mình đắc Đạo, cũng do không ai hểu được thế nào là đắc Đạo. Cho nên những bí mật cứ từ đời này qua đời khác không bao giờ được phổ biến ra. Khi nói người ta không hiểu đành miễn cưỡng dùng câu: “Thiên cơ bất khả lậu” để buông xuôi vấn đề thôi. Tuy thế thôi cũng khẳng quyết rằng chỉ có những người đắc Đạo mới có thể tường tận hiểu ra rằng thế nào là Phật, Trời, Đất, Người còn kỳ dư đều hiểu theo cách nghe người ta nói, hoặc tin theo các thuyết lâu đời từ các tôn giáo để rồi cứ bán tín bán nghi hoặc đàm tiếu, hý ngôn, chỉ mất thì giờ chứ không thể nào hiểu biết tường tận về: Phật, Trời, Đất, Người.

Đã đến lúc không còn gì che đậy nữa cho nên những danh từ này cần được trình bày cho sáng tỏ. Một lần duy nhất và cũng là lần cuối cùng kể từ khi KHAI THIÊN LẬP ĐỊA cho đến nay, mong mọi người ở riêng quả cầu này hiểu ra sự thật là có: PHẬT, TRỜI, ĐẤT, NGƯỜI. Vì sao phải cho mọi người hiểu? Vì cơ tạo đã đến lúc phơi bày trước khi Vũ Trụ Càn Khôn, Phật, Trời, Đất, Người đổi thay sang một chu trình tiến hóa mới, trong đó có sự đổi thay của hành tinh có con người đang ở tức thế giới này, quả cầu này. Và cũng để giảm bớt đi những giảng giải sai lệch, cùng những lợi dụng khai thác trục lợi của những giáo chủ tôn giáo theo các sách vở truyền giảng sai lạc, chật hẹp hàng bao ngàn năm.

Mọi vận hành để biến đổi hằng hà sa số hành tinh đã được chu đáo tiến hành từ nhiều ngàn năm qua cho đến nay chỉ còn là khoảnh khắc, trong đó có hành tinh của con người. Tính theo năm tháng ngày giờ nơi chốn có loài người đang ở (có thể sai sót một chút vì thời gian xê dịch các hành tinh có khác nhau) thì chỉ có hai ba năm nữa là cùng. Để bước sang kỷ nguyên mới, thế kỷ 21 con người sẽ trọn vẹn sống trong một đời sống siêu văn minh, siêu khoa học, hòa bình, an lạc vĩnh cữu… phối hợp chặt chẽ giữa Phật, Trời, Đất, Người (dĩ nhiên phải là người đã được chọn lọc và thật sự là con người toàn thiện, toàn chân, toàn mỹ).

Với tấm lòng tha thiết, tha thiết xin cúi đầu cầu mong mọi người bỏ đi lòng đố kỵ, sự cố chấp về tài trí của ta hơn người, của tôn giáo ta là chánh, tôn giáo người là tà. Chỉ vì chấp mê vào tà chánh, thanh trược mà chiến tranh không bao giờ ngừng nghỉ giữa con người với con người, giữa tôn giáo với tôn giáo, giữa ý thức hệ này với ý thức hệ khác. PHẬT, TRỜI, ĐẤT, NGƯỜI có bao giờ phân biệt, có bao giờ muốn chúng ta khổ đau. Mọi khổ đau, vui sướng đều bởi chính dục vọng của con người tạo ra cả. Người viết cuốn sách này cốt giải bày tâm tình với mọi người để có ai hiểu được cũng vạn phần thỏa nguyện, bằng không ai hiểu cho cũng lại đành mang theo khi hết kiếp làm người như bao người đi trước cũng ngậm ngùi cho thân phận con người. Rồi đành ra đi mang theo cái biết hòa tan vào cõi thinh lặng hư không ngàn đời câm nín. Quả là tiếc lắm thay!

Núi Dinh Bà Rịa Vũng Tầu 2018
DẪN

Trải qua hàng triệu tỷ năm, bầu Trời, trái Đất, mặt Trăng, mặt Trời cùng triệu triệu hành tinh chuyển xoay để chuyển hóa và tồn tại đời đời, để sinh ra rồi hủy diệt, hủy diệt rồi lại sinh ra. Cứ thế! Cứ thế vòng chuyển luân vô cùng tận cứ chạy quay, quay chạy mãi. Trong cái vòng luân thường chuyển kia có con người không cách gì tách lìa ra được. Ngàn vạn đời đời, kiếp kiếp để rồi con người đến một lúc nào đó tự đặt ra câu hỏi: Tại sao có con người, có Phật, Chúa, Trời, Đất thật không? Hiểu rằng sự hiểu nào đây với khả năng nhỏ bé của con người, với sự muôn vàn vĩ đại của hư không trùng điệp to lớn mênh mông, làm sao để thấu hiểu?

Mời quý vị ngược dòng thời gian trở về thời xa xưa khi chưa có Trời Đất Người. Ở vào thời còn mù mù, mịt mịt, chỉ có một màn đen đặc, chưa có bất cứ một vật thể, một sự sống nào. Lúc đó chỉ có khí hỗn nguyên sư khai đen huyền có trước tất cả. Cũng từ đó ta tạm gọi hoặc tạm hiểu là khí hỗn nguyên. Từ cái bắt đầu đó sau này thời gian dài đằng đẵng tự hóa sinh khai mở ra đều gọi là tạo THIÊN lập ĐỊA. Cái bắt đầu đó ta gọi là MẸ bởi từ sự không biến hóa thành có, mà cái không thường được người đời sau gọi là PHẬT. Cho nên phải hiểu tất cả khởi từ “Vô thủy Vô chung” PHẬT MẪU hiển nhiên có trước tất cả. Người đời về sau này còn gọi với danh xưng kính cẩn là: “HẮC BÌ PHẬT TỔ”.

Ở ngôi vị KHÔNG ÂM KHÔNG DƯƠNG này Phật Mẫu hay Hắc Bì Phật Tổ chỉ là một, để từ đấy biến hóa ra PHẬT, TRỜI, ĐẤT, NGƯỜI. Phật thì hằng hà sa số. Trời có vạn tỷ cõi Trời, Đất có muôn triệu trái Đất, có tất cả rồi. Đến lúc ấy con người được hình thành ra để sống ở trái Đất, Trung Ương của muôn vàn tinh cầu, đó là sự thể bất khả luận bàn về con người có mặt ở quả địa cầu này. Quả cầu của chúng ta đang ở là Trung Tâm chính của Càn Khôn Vũ Trụ, chịu sức hút của Ngũ Hành Sinh Khắc. Chịu luật cân bằng của Âm và Dương, Âm nặng là Đất, Dương nhẹ là Trời. Quả Đất con người ở phải chịu lệ thuộc vào luật Ngũ Hành kết hợp bởi: Đất, Nước, Gió, Lửa. Khí Thở anh hưởng quy luật này, con người phải chấp nhận luân hồi nhân quả.

Đã làm người là mang một trọng trách nặng nề, vừa hoàn thành kiếp làm người hoàn trả nợ nần quả nghiệp của kiếp trước, tìm học đạo để thoát khỏi vòng luân hồi sinh tử trở thành Phật nhỏ, Phật lớn tùy theo căn bậc và công năng vun bồi để không trở lại vòng luẩn quẩn tái sinh nữa. Mỗi lần tái sinh là một lần chịu sự bao bọc nặng nề của Ngũ Hành và sức hút nặng trược của âm cực. Thế cho nên mịt mờ, mờ mịt, ít có ai tìm đường tu đạo, lại chỉ gắng công bon chen vào đường tiền tài, danh lợi, tình ái nên hết kiếp này đến kiếp khác cứ đắm chìm đen tối… càng ngày thêm đắm chìm và đen tối hơn không thể tìm con đường sáng mà trở về. Đây gọi là chỉ có ra đi chứ không có ngày trở lại.

Ngoài ra còn có nhiều hành tinh khác cũng có sự sống nặng hay nhẹ tùy theo sự vận hành, tiến hóa trước hoặc sau mà hưởng sự thanh nhẹ hay trược bẩn. Ở các hành tinh thật trong sạch, có đời sống văn minh cao vời vợi hơn hẳn con người. Những hành tinh đó dành để những khối sáng suốt ngự lãm. Cũng có hành tinh riêng cho các chư vị đắc quả Phật, Tiên, Thánh, Thần an hưởng. Dĩ nhiên các cõi này không sống ở thể hữu hình như con người. Nơi đây sự sống biến hóa, tưởng nghĩ nhanh như chớp sẹt.

Còn có những hành tinh có nền văn minh khoa học bằng cảm nhận, cao hơn loài người nhiều. Gần đây những tín hiệu gửi đi từ nơi họ, đã được các máy móc tinh vi của con người chế tạo, đón nhận và tìm cách mã giải để hiểu xem họ muốn nói gì với con người ở địa cầu. Cũng ý thức và nhận biết được tầm quan trọng do nhiều chuyển biến giữa các hành tinh bao bọc chung quanh thế giới, các cường quốc ở mặt đất mới từ bỏ chiến tranh lạnh và đang liên kết dốc lực vào các chương trình khám phá không gian ở những năm gần đây cũng như sau này.

Lần lượt tôi sẽ đưa các bạn xem từng khúc phim quay chậm từ thuở hỗn độn để tiến tới kiến tạo PHẬT, TRỜI, ĐẤT, NGƯỜI. Có kiên nhẫn lấy trí để tri, lấy tâm để cảm mới thấu hiểu lý huyền vi màu nhiệm và nhận biết ra rằng trong cái không không hiển nhiên đã tạo ra cái có có. Đến thời kỳ này không thể còn tâm thức chấp mê vào tôn giáo, vào những vị giáo chủ có pháp lực, thần thông, biến hóa nữa. Nếu chỉ tin mê vào những sự việc như vậy không thể nào hiểu thấu được việc khởi đi từ đầu cho đến bây giờ. Cuốn sách này sẽ đem đến cho các bậc thiện trí thức, các vị thầy đang loay hoay với các kinh sách chưa có đường ra, chư vị có nhiệm vụ nhận lãnh Phật sự, Thiên mệnh xuống trần thực thi Đạo vụ, Thiên vụ sáng tỏ đôi phần, nắm chắc Chân Lý Siêu Diệu bừng thức hoàn thành sứ mệnh.

Cũng tùy duyên, tùy trí, tùy tâm của từng vị khi đọc qua cuốn sách này biết đâu lại không có duyên lành gặp được người đi trước chỉ dẫn cho đúng Pháp để tiến tới: Ngộ, Giác và Đắc Đạo sẽ hiểu ra được lợi ích của quyển sách này. Người viết mừng lắm tay. Mời quý vị lần lượt đọc từng chương của sách.
ĐẮC ĐẠO

Từ ngàn xưa đến bây giờ, trong cái vòng luân luân, chuyển chuyển lên xuống vô thường, sinh trụ hoại diệt bất biến của dòng đời, dòng đạo, nảy sinh những sự việc bình thường và cũng trỗi lên việc không bình thường. Giữa dòng đời triền miên: Vua, Quan, Dân miệt mài vào dựng đời, lại có người trí thức tách ra khỏi nơi đua tranh giành giật lợi danh, tình tiền để đi tìm một cái gì đó khác đời. Có phải họ đã đi tìm chân lý, xong chân lý lại biệt vô âm ngôn làm sao để có thể tìm cho ra. Thế đấy họ vẫn đi dù đường đi có lên thác xuống ghềnh, có chịu trăm cay ngàn đắng, lặn lội qua suối sâu, đi qua rừng thẳm, trèo lên núi cao để đào tìm cho ra chân lý. Bằng lòng can đảm vô biên với sự nhẫn và nhẫn tận cùng của một con người tầm sư học đạo để biết ra sự thật. Có người đã phải bỏ cả thân mình mà chân lý vẫn tìm chưa ra.

Tuy khó khăn như thế vẫn có người tìm ra… Chính thế đã để lại trong dân gian biết bao câu chuyện truyền khẩu thần kỳ cũng như tốn không biết bao nhiêu giấy mực để nói về những bậc chân nhân đắc đạo. Từ nhiều thập niên qua chỉ riêng ở Việt Nam đặc biệt ở miền Nam nước ta cũng đã có nhiều vị để lại cho đời nhiều hương thơm ngào ngạt của mùi vị đạo hạnh như: Ngọc Thanh Tiên Trưởng (Cậu Bảy Hồng Y), Phật Thầy Tây An, Sư Vãi Bán Khoai, Đức Phật Trùm, Ông Đạo Nguyễn Văn Thới, Đức Tổ Sư Minh Đăng Quang, Đức Dẫn Đạo Ngô Minh Chiêu, Ông Đạo Dừa Nguyễn Thành Nam, Ông Tổ phái Vô Vi Đỗ Thuần Hậu, Đức Huỳnh Giáo Chủ, Ông Thanh Sĩ, Ông Lương Sĩ Hằng v.v… Đây chỉ tạm kể ra một số vị có sứ mạng khai đạo, mở đạo hoặc truyền đạo mới nhất ở Việt Nam. Dĩ nhiên còn hàng ngàn hàng vạn người khác mai danh ẩn tích trong rừng sâu núi thẳm, trong các hang động không có bóng người. Đấy là những vị đắc đạo còn nằm chờ cơ đạo, mở đạo hoặc truyền đạo mới nhất ở Việt Nam. Dĩ nhiên còn hàng ngàn hàng vạn người khác mai danh ẩn tích trong rừng sâu núi thẳm, trong các hang động không có bóng người. Đấy là những vị đắc đạo còn nằm chờ cơ đạo cũng như Phật lệnh, Thiên lệnh vào các năm tháng sắp tới đây.
LUỒNG ĐIỂN MƯỢN XÁC, NHẬP XÁC

Để tránh có hiểu lầm về bản thể người đắc đạo với người được một số bậc siêu hình mượn xác, tôi lần lượt diễn tả từ các trạng thái, đồng cốt, nhập xác, mượn xác để rồi nói đến các vị tự rèn luyện, dày công điêu luyện khai thông bản thể dẫn tới có hào quang, điển quang cũng như Thánh Linh. Từ những vị do có chân mạng lâm trần, đến chư vị có nhiều ngàn kiếp tu hành để đến nay cuối thời mạt pháp cũng như gần kề đến niên kỷ tân tạo trở lại của càn khôn, cho nên riêng ở mảnh đất miền Nam Việt Nam mới xuất hiện nhiều chuyện lạ cũng như nhiều vị chân như Đắc Đạo xuống làm việc để đưa Việt Nam lên đài danh thơm ngát mùi Phật Pháp nhiệm màu.
ĐỒNG CỐT

Trước hết phải kể đến hiện tượng đồng cốt (không phải hiện tượng lên đồng) đã có ở nước ta nhiều trăm năm qua. Muốn đạp đồng được dĩ nhiên phải có một cái cốt, cốt có nghĩa là một người sinh ra và lớn lên đã có duyên nghiệp với nghề này. Khi có những người muốn hỏi chuyện làm ăn, tìm thân nhân thất lạc cũng có khi tìm hồn của người đã chết mà gia đình thân nhân không biết chết ở đâu. Người ta đều phải mượn cốt để có một vị khuất mặt nào đó qua xác đồng cốt nhập về cho biết các tin tức trong cõi vô hình, cũng có khi gọi hồn người đã chết trở về để hỏi han tại sao mà chết, chết ở đâu? V.v… Chuyện này là chuyện ngày xưa, dĩ nhiên thời xưa còn lạc hậu và còn nhiều mê tín dị đoan, xong hẳn là phải có ứng nghiệm nên mới được người tin và tồn tại hàng trăm năm. Đến nay hiện tượng đồng cốt này đã hầu như không còn nhưng lại chuyển sang hình thức mới đó là hình thức nhập xác.
MƯỢN XÁC

Có chân thì có giả, vào thời kỳ mạt pháp rất nhiều người bị mượn xác, hoặc cướp xác cướp hồn mà không biết. Như chúng ta đã thấy nhiều hiện tượng ở miền Nam Việt Nam khi bị mượn xác, người nữ lại nói tiếng nam, hoặc người nam nói tiếng nữ, đó là những hiện tượng của việc bị một luồng điển nào đó nhập xác. Người bị mượn xác là người thích cầu vào tha lực, không tự tin nơi mình, không làm tròn bổn phận của một con người, phần hồn yếu đuối thiếu dũng. Mỗi lần bị mượn xác thì hồn của người đó phải đi sang một cõi khác đó cũng là do quả nghiệp còn nặng. Phần hồn vô minh cũng có khi vì tham lam nghe lời quyến dụ ham lợi lộc vật chất tiền tài. Có khi bị khối vô hình lừa gạt phong cho là Phật, là Tiên, hoặc mai sau làm vua làm quan v.v… thật ra chỉ có Phật, Tiên, vua ma mà thôi.

Điều đang nói nhất là mỗi con người đều có chủ quyền của mình, đều do tự mình quyết định lấy mọi hành động việc làm, công hay tội là do chính mình tạo ra. Tại sao lại bỏ quên tiểu vũ trụ và đem cầm bán cho người khác, dù người khác có là Phật, là Trời chăng nữa nhưng ông tu ông đắc, bà tu bà đắc. Vậy đã may mắn cho một thân người, đã may mắn có một hồn người trú ngụ vào thân chúng ta nên bảo trọng hồn và xác của mình. Đừng nên nghe lời khuyến dụ ngon ngọt mà bán xác bán hồn, thời mạt pháp cuối cùng này là thời các giáo chủ vô hình rất mong muốn mượn được xác được hồn của những kẻ nhẹ dạ yếu lòng.

Nói về nhập xác cũng có nhiều hình thức, nhiều trạng thái, nhiều hiện tượng cứ theo thông thường để mà nói thì đúng có, sai có, chánh có, tà có. Cho nên việc mượn xác qua rất nhiều dạng thức… Có xác khi được nhập xưng Phật, xưng Tiên, xưng Thần, xưng Thánh, xưng Cha này, Mẹ kia. Nhiều lời phát ra từ xác thân này có khi rất trúng, rất đúng với nhiều người muốn hỏi, muốn biết về quá khứ, vị lai. Có nhiều người tin vào những lời dẫn này vượt biển thoát nạn. Có người được chỉ dẫn mà thoát khỏi tù đày hoặc quy ẩn đi tu. Có người trở nên giàu có v.v… Những người có xác cho nhập này có thể nói phần lớn là tự nguyện, ta nên hiểu hiện tượng này nhất thiết do một tần số điển của một vị thiêng liêng nào đó mượn xác cho nên lúc có lúc không. Có nhiều khi phải chờ giờ khai lễ hương hoa nhang khói chuông mõ thỉnh mời mới được vị nào đó ở cõi vô hình nhập vào. Thường do sự chờ đợi của một số đông người tin tưởng mong cầu mà nhập về giảng đạo hoặc chỉ dẫn mọi việc rất tường tận, xong có khi cũng không mấy chính xác.
NHẬP XÁC

Người được điển nhập xác này khi tiếp điển nói ra nhiều điều rất cao siêu thường ngày họ không thể nào có trình độ để trình bày. Bởi những người này phần lớn là không có kiến thức về văn hóa, hay tu hành cũng như thật dốt vì không biết chữ. Những lời thuyết giải khi điển nhập lại thì minh bạch khúc triết và phần lớn nói về cơ đạo. Những người này khi luồng điển thăng đi họ không còn nhớ gì hết. Đặc biết trước khi điển nhập vào họ thường bị nấc cụt hoặc ợ khan. Như thế cho biết bản thể họ chưa hề được thanh lọc. Tuy vậy sau nhiều năm tiếp điển họ có thức tâm tìm đường tự tu, tự tiến họ cũng sẽ mau chóng lãnh hội được phần nào để dẫn tới đường giải thoát.

Có một số người lại thường tiếp điển để học hỏi qua hình thức đàn cơ. Đàn cơ khác với cầu cơ vì cầu cơ chỉ cần một hay hai người, với một quân cơ và một bàn cơ nhỏ. Chờ khi thanh vắng họ xúm nhau vào cầu thẳng danh vị của một vị nào đó thường là các vị thần núi, thần sông hoặc là sơn thần thổ địa. Thường việc này chỉ thỏa thích tính tò mò chứ không giải quyết được những việc hệ trọng. Việc cầu cơ coi như hình giải trí về khuya của một số người tò mò chứ không phải việc có tính linh thiêng nào cả.

Hiện tượng nhập xác gần nhất đã làm nhiều người trên thế giới phải lưu ý vì những hành động của những luồng điển này có sức mạnh ghê gớm, làm tin mê hàng vạn tín đồ. Những luồn điển này nhập vào các xác thể nam có, nữ có, họ đã được chọn lựa từ lâu để đúng đến thời kỳ cuối cùng thời mạt pháp mới đem các con cờ này ra thi thố. Tất cả các xác thân được lựa chọn này đều do một giáo chủ, hoặc nhiều vị giáo chủ vô hình lựa chọn để điều khiển. Những vị giáo chủ vô hình này đã tu luyện khi còn thân xác cho đến lúc không còn thân nữa nhưng họ đã có thể để lại hóa thân như các vị tu luyện ở trên núi Hy Mã Lạp Sơn họ đã luyện đạo đến mức có thừa khả năng thần thông biến hóa sai khiến các xác thân làm mọi việc theo ý các vị giáo chủ này muốn. Đây là những vị giáo chủ nằm trong khối trược còn nhiều ham muốn quyền năng chinh phục địa cầu và phá cơ đạo của Phật Trời muốn chuyển xoay cho thế giới loài người bước sang đời sống an hòa thái bình thịnh trị.
VỤ WACO, TEXAS

Tại sao các vị giáo chủ kia lại phá cơ đạo, bởi vì khối trược ở nhiều cõi vẫn muốn thi thố tài năng, chúng muốn chứng tỏ quyền phép của chúng phải cao hơn đức hiếu sinh của Phật, của Trời. Những xác thân khối trược mượn rất nhiều ở khắp mọi nơi thị hiện gần nhất họ tung hoành chống phá, cũng như quyến dụ hàng vạn tín đồ ở Mỹ có vụ Waco, Texas do David Koresh chỉ huy. Hắn có tài thao thao bất tuyệt giảng kinh Thánh và nhớ kinh Thánh như một máy Cassette phát ra, anh ta đẫ sắp đặt trận đồ để đối đầu với FBI ở tận chiến siêu hình tại Waco.

Thuyết giảng Thánh kinh qua dạng thức điển quang David Koresh đã quy tụ hàng trăm tín đồ thề tử chiến với FBI chứ không chịu đầu hàng. David Koresh hùng cứ một trung tâm tín ngưỡng biệt lập. Hắn rao giảng Thánh kinh hấp dẫn tạo cho người nghe thích thú tiếp nhận vì phù hợp với lòng ham muốn của tín đồ, dĩ nhiên đây là sở trường của thầy David Koresh. Người nghe tưởng như David Koresh là một nhà tân cách mạng tâm linh nói lên tiếng nói của Chúa.

Nếu người nghe sáng suốt và có kiến thức về tâm linh rất dễ nhận ra bởi hắn đã phung phí tinh lực qua việc giao hoan với tất cả những người vợ của hắn. Hắn có rất nhiều vợ, những người vợ này cung ứng âm khí cho hắn giống như câu chuyện trong sách kiếm hiệp của Kim Dung đã diễn tả qua: Hấp tinh đại pháp, Cửu Âm Chân Kinh v.v… Cho nên cách luyện như thế làm sao có đủ tinh khí thần chân chính. Đây chỉ là cách luyện đạo của Thiên Ma mà thôi.

Vụ Waco, ở Texa đã tiêu phí của chính quyền Mỹ hàng trăm triệu Mỹ Kim, đã hủy diệt mạng sống của cả trăm người. Cái tai hại trầm trọng không phải ở nhân mạng và tài chính. Nó để lại phần tác hại lâu dài về mặt tinh thần, nó khởi dậy lòng mê muội của hàng trăm triệu người cũng như đánh thức tâm hồn của những kẻ ham mê vào quyền năng Thần Thông biến hóa. Đấy mới là việc chính mà giáo chủ của David Koresh muốn làm. Dĩ nhiên phần thua thiệt về tinh thần ngoài FBI của chính quyền Bill Clinton, còn cả những người dân lương thiện của Hoa Kỳ phải lãnh nhận.
HIỆN TƯỢNG SHOKO Ở NHẬT

Hiện tượng Shoko Ashahara ở Nhật Bản: Tên thật là Chizco Matsumoto lập nên hệ phái AUM’S SUPEREME MASTER tại Nhật. Shoko chỉ huy hệ phái này sau khi qua Hy Mã Lạp Sơn tìm thầy học đạo. Ở đây hắn đã bị thầy hắn bắt hồn rồi mượn xác để khi xuống núi trở về Nhật tung hoành với tài thần thoong biến hóa một thời. Với tài thần thông quyền phép biến hóa hắn đã có dưới tay hàng ngàn đồ đệ vào hàng Bác Học, Bác Sĩ, Tiến Sĩ, Kỹ Sư chưa kể hàng vạn tín đồ tăm tối mê muội. do đó việc áp dụng vô hình vào hữu hình đã được thị hiện qua tài làm bom khí độc của hắn và hàng đệ tử không có gì phải ngạc nhiên cả.

Shoko cũng không ngần ngại ca tụng nhắc nhở tới Adolf Hitler qua việc chế biến vũ khí Bom hơi ngạt “Sarin” thời Đức Quốc Xã. Thời đó hàng triệu người Do Thái đã phải bỏ mạng trong các lò sát sinh không lối thoát của Đức. Đại bản doanh của Shoko nằm ở núi Phú Sĩ (mount Fugi) từ đây chúng đem hơi ngạt trải dưới đường xe điện ngầm ở Nhật để hòng giết hàng trăm ngàn người. Ý đồ độc ác này đã gây rúng động chính giới Nhật Bản cũng như dân chúng Nhật.

Theo tài liệu của chính Shoko tung ra trong cuốn sách: “The Cult at the end of World”, Shoko đã trá hình trong vai một người lãnh đạo tôn giáo đạo mạo. Hắn cho dựng tượng đài Thích Ca Phật Tổ, hắn bắt tín đồ tuyệt đối ăn chay trường, cấm tuyệt sát sanh, chẳng khác nào Hitler dương cờ chữ vạn che đậy loài người và cũng để qua mặt các cơ sở tình báo quốc tế. Chẳng thế mà hắn đã lừa được cả Đức Phật sống tại Đạt Lai Lạt Ma của Tây Tạng.

Với tội chứng giết người bằng bom hơi ngạt dưới đường hầm xe điện tại Nhật, cuối cùng thì Shoko Asahara trùm sỏ của phái đạo AUM’S SUPEREME MASTER đã bị cảnh sát Nhật còng tay đem nhốt tại nhà giam để đền tội. Thế nhưng các xác ấy chỉ trơ lại là thân hình của một Chizco Matsumoto mà thôi chứ luồng điển thâm nhập vào xác này đã cao chạy xa bay về Hy Mã Lạp Sơn rồi. Con mắt tình báo, cảnh sát Nhật cũng như tình báo và cảnh sát quốc tế nào có hay biết.

Các hiện tượng nhập xác qua các xác thể người Việt ở hải ngoại sẽ được lần lượt chứng minh qua:
HIỆN TƯỢNG LƯƠNG MINH ĐÁNG

Hiện tượng nhân điện Lương Minh Đáng. Tự xưng là Tổ Sư Lương Minh Đáng được một tần số điện của vị Tổ Sư người Ấn Độ nhập vào chính Lương Minh Đáng cho biết thầy ông có tên là: “Shirada” tuy thế nhưng Lương Minh Đáng lại chối bỏ Tổ Sư Ấn Độ của mình sau khi qua Ai Cập một thời gian. Con đường nhập cảnh vào Hoa Kỳ của ông Lương Minh Đáng cũng được thêu dệt một cách thật thần kỳ, với sự tích lạ lùng ông kể lại: (tất cả còn trong cassette của phái nhân điện lưu giữ) ông không có xin thủ tục xuất cảnh, do tự chính quyền Cộng Sản Việt Nam mời lên cho lập giấy tờ rời khỏi nước. Qua Mỹ ông đi thuyết đạo ở một số môn phái sau đó tự nhận chỉ có chính mình mới là Tổ Sư mà thôi. Ông lấy Massachusett làm trụ sở chính để thu thập tín đồ. Cũng có nhiều người bác sĩ, kỹ sư, luật sư ào ào bỏ cửa bỏ nhà chạy trốn chết theo ông khi ông tiên tri California sẽ sập vào năm 1992.

Hiện tượng Lương Minh Đáng đã không còn chánh hồn qua việc bị Thầy Ấn Độ mượn xác hồn một thời gian để chữa bệnh cho nhiều người, qua việc chữa bệnh này đã hút các phần hồn khi bàn tay nhân điện của Tổ Đáng mó vào các luân xa trên bản thể. Rồi Tổ Đáng được mời qua Ai Cập lại được một tần số điện cao hơn của các phần hồn đang lập lờ ẩn hiện trong các Kim Tự Tháp đánh văng ông Tổ Ấn Độ ra để vị thầy mới này thi thố tài năng phá đời ở thời cuối của thế kỷ 20. Tổ Sư Lương Minh Đáng đã không chỉ huy được phần hồn của mình nữa (mất hồn rồi) cho nên phần điện của giáo chủ Ai Cập xâm chiếm và muốn mượn xác này để chiếm Thánh Địa Việt Nam cho nên Lương Minh Đáng tự may Cẩm Bào và tự xưng là Vua Gia Long. Hiện tượng này cũng do chính Lương Minh Đáng không có tu chân chính nên bị các đấng vô hình mượn xác với giao ước là Lương Minh Đáng sẽ được lợi về danh lợi và tiền tài.

May mắn cho nhiều người, nhiều phần hồn u minh sau khi xuất hiện một thời gian ngắn, Tổ Sư Lương Minh Đáng cũng không thể qua mặt được FBI truy lùng. Ngài bèn tìm đường bỏ trốn và im lặng từ mấy năm nay. Cho nên việc mượn xác nhập xác thường không kéo dài lâu vì đó là các hiện tượng của một giai đoạn. Đó cũng là một bài học cho những ai tin mê vào thần thông, tin mê vào tà thuật, tà thuyết. Ở thời hạ ngươn này việc các phần hồn sơ cơ thấp căn mới đầu thai lên là chuyện rất thường tình, tưởng cũng không lấy gì làm lạ cả.
CHA NHẪN HÒA

Hiện tượng cha Nhẫn Hòa Trần Văn Trường: Tự xưng danh vị Thượng Đế, Vua Bảo Hòa, Minh Vương Việt Nam. Trần Văn Trường một thanh niên Việt Nam tật bệnh triền miên từ nhỏ, điên điên khùng khùng, có lúc chết không ra chết, sống thì nửa tỉnh nửa mê. Nơi sinh của Trần Văn Trường có long mạch chảy suốt từ trước nhà đến sau nhà. Tự nhận là sẽ có sứ mạng rất lớn cho Việt Nam sau này và cho cả thế giới nữa. (Điều này được chính Trần Văn Trường nói lên trong một tờ truyền đơn rải tại Orange Country vào tháng 11-1997).

Trước đây 10 năm Trần Văn Trường đã xuất hiện xưng là Cha Nhẫn Hòa, Thượng Đế giáng lâm, chỉ chưa đầy 6 tháng đã thâu hết 3 Thiền Viện và nhiều thiền đường của phái Vô Vi. Đã bắt nhiều bô lão bảy tám mươi tuổi chui qua háng để Trường giải nghiệp. Trường luôn la hét đánh đập những ai chống đối hoặc không tuân theo ý chỉ của Cha Nhẫn Hòa. Trường xuất hiện như cơn bão lốc thật mạnh, thật hung dữ và rồi cũng do Trường tiết lộ thì vì: “Những lúc ấy nghiệp quả của người Việt Nam còn quá nặng, vốn lời trả chưa hết, cũng như dân trí của con người trên quả đất này lúc bấy giờ còn thấp kém hơn so với hiện tại”… Nay theo Trường thì đã đến giờ lành cho nên Trường lại xuất hiện để “Đứa thì than khóc, đứa kêu cha” theo Vua Trường cho biết là sẽ xuất hiện vào tháng 12-1997 và để tránh sự hiếu kỳ tò mò vô ích cũng như sự vô tình phạm thượng. Người nào mở tâm ra bắt được ý trời (hiểu được Thiên Cơ)… thì hãy mua vé 100 Mỹ Kim để vào cửa nghe Trường thuyết giảng về đề tài Chính Trị Việt Nam. Đây là một vấn đề thời sự nóng bỏng nhất xảy ra vào cuối tháng 12-1997 tại Orange Country Hoa Kỳ.

Hiện tượng Trần Văn Trường gây nhiều ồn ào trong cộng đồng người Việt từ 10 năm qua, nhất là vùng Orange Country không còn lạ gì tài biện thuyết của Trường qua các lần xuất hiện biểu tình tại một vài nơi ở những năm 1994-1995. Đặc biệt là trên các làn sóng phát thanh, trên tần số truyền hình của đài Ti Vi Mẹ Việt Nam mà Trường và vợ là cô Nguyễn Thị Kim Thanh điều hành. Đến lúc tôi viết những dòng này thì cả đài phát thanh và đài Ti Vi của Trường không còn nữa. Có thể chỉ còn lại tờ báo “Tiếng nói trung thực” mà thôi.

Đây là hiện tượng nhập xác mạnh mẽ của một giáo chủ siêu hình qua tần số điển nhập vào Trần Văn Trường cho nên một thanh niên mới ngoài ba mươi đã có một lập luận và lý giải rất thao thao. Tuy nhiên người hiểu biết tâm linh và được học hiểu qua đường chính đạo thì hiện tượng Trần Văn Trường phải xảy ra vào những năm tháng trước 1999. Cái đó chính Trường tự nhận: “Sống thì nửa tỉnh nửa mê” tự xưng Cha, Thượng Đế, Minh Vương và vua Bảo Hòa đã cho chúng ta thấy việc nhập xác, chiếm hồn vào thời mạt pháp đã được nhiều vị chân nhân cho biết từ trước một hai ngàn năm rồi. Người có trí lấy trí mà tri, người có tâm lấy tâm mà xét thì đen trắng đều hiện ra rõ ràng.
VÔ THƯỢNG SƯ THANH HẢI

Hiện tượng cuốn hút gây nhiều bàn tán xôn xao nhất phải kể đến là người tự xưng Vô Thượng Sư Thanh Hải. Bằng với các phương pháp chắp vá, mổ xẻ tân kỳ thời cực thịnh văn minh khoa học kỹ thuật. Một ni cô sinh ra và lớn lên từ vùng “đất cày lên sỏi đá” đã biến thành như một vương phi xuất hiện trên màn ảnh vô tuyến truyền hình không còn là một người đàn bà tỉnh Quảng Nam xấu xí nữa. Giống như những Điêu Thuyền làm mê mẩn Đổng Trác và biến Lữ Bố người con nuôi của Đổng Trác giết cha chỉ vì tranh giành sắc đẹp nghiêng thành khuynh nước của một Điêu Thuyền. Giống như một Tây Thi lấy lại giang san cho Vua Việt Vương Câu Tiễn từ tay Ngô Phù Sai bằng sắc đẹp của Tây Thi. Giống như Từ Hy Thái Hậu chuyên quyền làm đảo lộn cuối đời nhà Thanh.

Vô thượng Sư Thanh Hải đã làm gì để cho bao đấng nam nhi “quân tử mày râu” hậu Việt quy hồi? Nhờ vào tài ứng thuyết, nhờ vào sắc đẹp sửa sang của nhiều tay phù thủy ở các thẩm mỹ viện tân thời? Giống như một câu chuyện truyền kỳ, Thanh Hải Vô Thượng Sư đã thâu hồn thâu xác bao nhiêu “hảo hán” đời nay?

Trở lại gốc gác của một Thanh Hải khi còn là một cô gái quê mùa ở Quảng Nam, cho đến lúc cuộc chiến tranh Nam Bắc Việt Nam đến hồi tàn khốc… Người đàn bà này cũng như ngàn vạn người đàn bà Việt Nam khác truân chuyên trôi nổi bồng bềnh và bèo dạt hoa trôi sang tận Đức rồi có chồng một bác sĩ người Đức. Rồi theo duyên quả nghiệp cũng phải xa chồng… Từ đấy dẫn đến con đường tìm cửa Phật. Thanh Hải đã trở thành một ni cô sau khi quy y với một thượng tọa Việt Nam lánh nạn tại Đài Loan. Con đường tu hành đã đẩy đưa Thanh Hải phiêu dạt sang tận núi Hy Mã Lạp Sơn để rồi ở đây gặp được giáo chủ. Trong sự bí mật truyền tâm ấn của sư phụ hay là sự trao đổi có ưng thuận của đôi bên Thanh Hải xuống núi và cũng như những xác được nhập khác đi truyền tâm ấn cho các hàng đệ tử.

Hiện tượng “Truyền Tâm Ấn, Tức Khắc Khai Ngộ” của Vô Thượng Sư Thanh Hải (Superme Master Ching Hai) làm giáo chủ trong một bản tin nội bộ của Thanh Hải số 45 nơi trang 24 có bài với tựa đề: “Khai Ngộ Để Đánh Thức Lực Lượng Khẳng Định”. Cho biết như thế này: “…Quý vị cũng được khai ngộ, nhưng đó là Tiểu Thừa, quý vị chỉ giải thoát một mình. Còn pháp môn Quán Âm thì giúp siêu sanh thân nhân, bà con, bạn bè, có thể lên đến bảy hoặc thậm chí đến chín đời, những người mà quý vị chưa hề biết đến, tổ tiên của quý vị, kể cả những đời kế tiếp, cháu chắt của quý vị chưa được sanh ra v.v… vì có liên hệ huyết thống, nên họ cũng sẽ được giải thoát” (tác giả đưa ngay phần chú thích ở đây: Theo Lão Tử dạy thì: “ĐẠO” là đường tự nhiên, không nên can dự vào chuyện người khác, bởi duyên nghiệp chồng chất của mỗi cá nhân, hiển nhiên là phải tự tư tự đắc). Để nhấn mạnh về quyền năng thần thông Vô Thượng Sư: “Một vị Minh Sư có chìa khóa Khai Ngộ”. “… Tâm Ấn là một hình thức của nghi lễ khai mở trí tuệ vô hình, không cần bánh trái, không cần nhang đèn, không cần lễ bái, không cần tượng Phật, không cần nhà thờ, không cần quý vị và lực lượng khẳng định của quý vị. Khi quý vị ngồi đó một mình thì Sư Phụ sẽ chỉ linh hồn của quý vị đi đâu để lấy lại cùng một lúc hai lực lượng khẳng định và lực lượng phủ định, hiểu không?”. “Điều này thì thật trừu tượng là những điều kỳ diệu của lực lượng vô hình”… “Sau đó quý vị sẽ biết được khai ngộ vì quý vị thấy được ánh sáng tiếp nhận được giáo lý từ Thiên Đàng, qua Âm Nhạc”… “Đó là Tâm Ấn” và “…Có thể sư phụ cũng không có mặt ở đó nữa. Bởi vì lúc đó quý vị sẽ ở với toàn thể vũ trụ… bây giờ thật khó mà hiểu. Nếu quý vị không hiểu thì cứ đến thọ Tâm Ấn rồi sẽ hiểu”.

Theo Vô Thượng Sư vì là thế giới vô hình siêu diệu, trừu tượng đẹp lắm và tốt lắm cho nên không thể không đến mà tin được, cho nên muốn tin quý vị phải trực tiếp đến để Sư Phụ truyền Tâm Ấn tức khắc sẽ tin ngay.

Còn về ái dục, Thanh Hải giải thích như thế này: “Cách giảm thiểu về ham muốn tình dục”. “…Điều này Sư Phụ không có kinh nghiệm”. “…Không uống rượu sâm banh, sâm banh là tệ nhất, chỉ dành cho những ngày cưới hỏi. Quý vị biết hả? Sư phụ không biết. Sư phụ chỉ nghe nói vậy thôi”. Về luân hồi và nghiệp chướng, Thanh Hải nói như thế này: “…Ồ! Sư Phụ đốt hết, Sư Phụ quăng nó vào thúng rác rồi nổi lửa và chấm dứt”.

Sự thật Vô Thượng Sư Thanh Hải đã nói dối môn đệ bởi vì bà đã có chồng là một bác sĩ người Đức. Tập tục người Âu Châu những bữa tiệc hoặc những bữa ăn đều có uống sâm banh, là vợ một bác sĩ thì việc uống sâm banh là rất thường tình. Thế mà Thanh Hải lại chối, cũng như khi có chồng làm sao sư phụ không cùng ông bác sĩ người Đức ân ái. Chỗ này đã chứng tỏ phần điển nhập xác chưa có kinh nghiệp vợ chồng. Cũng như lại là một xác nữ dĩ nhiên sẽ và đã trở thành Mẹ Mẫu Nghi Thiên Hạ để nhiều đại nhạc sĩ, bác sĩ, ca sĩ cúc cung phủ phục qua các cuốn băng CD và Video các năm vừa qua.

Cũng ở bản tin nội bộ nơi trang 29 nói về việc: Tâm Ấn là truyền pháp từ bên trong: “…Dù quý vị ngồi sát bên cạnh nhau, quý vị cũng không biết người đó ở trình độ nào hoặc là vị sư phụ đã truyền gì cho người ấy ở bên trong”.

Qua một vài trích đoạn từ chính tài liệu của Vô Thượng Sư Thanh Hải truyền bá trong nội bộ cho chúng ta cái nhìn về một người đàn bà bị nhập xác. Có chăng đây là một luồng điển với thần thông và pháp lực mạnh mẽ, qua những biến cải của thân xác để gây mê hồn cho các đấng “mày râu”, còn có một hấp lực ma thuật thu hút các giới đàn bà nhẹ dạ cả tin vào các điều mê tín. Những người này thường lười biếng tự tu, tự tiến, lại chỉ thích tin vào các điều thị phi mê hoặc làm cho điên đảo u mê phần hồn tạo cho luồng điển tà thuật với phép thần thông thu hút phần hồn để chiếm phần xác.

Như những người vững tâm vững chí, phần hồn không bị chao đả vào những sư phụ có phép màu thời hạ ngươn mạt pháp này họ sẽ nhận chân ra ngay lời khuyến dạy qua các giáo lý nhà Phật đã dạy rằng: “Tự Tu tự Đắc, vợ tu vợ đắc, chồng tu chồng đắc” duyên nghiệp ai nấy trả. Làm sao sư phụ Thanh Hải có thể trả giùm nợ và giải được nghiệp lực của chúng sanh lại còn đòi trả luôn cho cửu huyền thất tổ của môn đồ Thanh Hải nữa quả thật là một việc lấp bể vá trời.

Gần đây sau vụ Waco của David Koresh ở Texas, Hoa Kỳ và vụ Shoko ở Nhật, Thanh Hải đã mau chóng biến đổi danh xưng để che dấu mọi việc làm mờ ám. Tên mới được gọi là SUMA CHING HAI. Chúng ta nên hãy chờ xem bao giờ thì ni cô Thanh Hải trở lại nguyên hình một người đàn bà Việt Nam… Có thể sau khi luồng điển nhập của vị giáo chủ kia biến mất hoặc bị Pháp Phật nhiệm mùa nhốt lại thì Vô Thượng Sư Thanh Hải sẽ không còn nữa kể cả những nhà tỷ phú Đài Loan, Hồng Kông, Trung Quốc đứng sau lưng mượn đao để mưu cầu tham vọng chính trị, kinh tế như hiện nay cũng sẽ vĩnh viễn không còn.
ĐÀN CƠ

Về đàn cơ khác hẳn và cao hơn các hiện tượng đồng cốt, nhập xác. Vì việc lập đàn cơ thường được một số những người đã theo một giáo phái nào đó. Họ với một đức tin tuyệt đối nên dựng đàn trang nghiêm để thỉnh mời các vị tổ thầy về thuyết đạo. Đặc biệt nhất và sáng tỏ nhất là Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ Cao Đài thường có những đàn cơ chính thức vào các ngày lễ trang trọng. Muốn được chư vị Thầy Tổ, các Đức Tiên Ông, Chư Phật lai lâm cần phải có một dàn tín đồ chay tịnh nhiều ngày. Tắm gội ăn mặc sạch sẽ theo nghi lễ để rồi trước một bàn thờ uy nghi có đầy đủ hương đăng, trà quả, lớp lang khấn nguyện, thỉnh mời, cầu xin chư vị giáng lâm dạy đạo. Thường những lần như thế quả là một công trình cũng như lòng thành của giáo đồ… Các ngài giáng xuống tùy theo giờ giấc của từng vị sẽ lần lượt khai đạo để lập nên những tân thuyết, tân luật. Như chúng ta đã biết về Cao Đài Giáo Việt Nam đã có cuốn:
THÁNH NGÔN HIỆP TUYỂN và TÂN LUẬT PHÁP CHÁNH TRUYỀN

Trường hợp đặc biệt có một không hai và chỉ xảy ra một lần trong khoảng thời gian một vài năm kể từ năm 1926. Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế vì nhu cầu của cơ đạo, nên Ngài đã chính thức khai mở đàn cơ để mở Đạo Cao Đài một môn phái mới xuất hiện tại Việt Nam vì nhu cầu của Thiên Cơ. Đồng thời cũng là việc làm Huyền Bí của Thượng Đế để thực hiện giai đoạn Tam Giáo Quy Nguyên, Ngũ Chi Hiệp Nhất. Đó là cơ Đại Đạo xuất hiện tại miền Nam Việt Nam (xin coi chương nói về các giáo phái mới xuất hiện tại miền Nam Việt Nam). Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế thực hiện việc giáng điển dạy Đạo qua các đàn cơ do Đại Đạo Cao Đài tiếp điển như chúng tôi trình bày dưới đây.

Do việc trang nghiêm thiết lập đàn cơ cung thỉnh các tần số Điển quang của NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ đến THÁI THƯỢNG LÃO QUÂN, TỀ THIÊN ĐẠI THÁNH, THÁI BẠCH KIM TINH, GIÁO ĐẠO NAM PHƯƠNG, NAM HẢI QUAN ÂM, QUAN THÁNH ĐẾ QUÂN, THÁI THƯỢNG ĐẠO TỔ, LỤC NƯƠNG DIÊU TRÌ CUNG v.v… Giáng điển để rồi được các hàng chức sắc của Cao Đài Việt Nam tuyển chọn đúc kết nên THÁNH NGÔN HỢP TUYỂN làm Tân Luật cũng như trở thành PHÁP CHÁNH TRUYỀN của CAO ĐÀI.

Như vậy ta thấy diễn biến của những sự việc nhập, giáng để khai giảng, mở mang kiến thức tâm linh không phải chuyện nhỏ và có thể coi thường cho được. Duy có một điều tùy theo diễn biến và nhu cầu đòi hỏi của từng giai đoạn, từng thời kỳ để mở lần khúc mắc cho con người tiến dần từ thấp đến cao, rồi chung cuộc nhìn các gương sáng tự tu, tự tiến, tự khai mở con đường giải thoát tự đắc đạo, chặng cuối cùng của nhu cầu tìm chân lý của con người.
NGƯỜI ĐẮC ĐẠO

Không thể diễn tả được nguồn vui vô bờ vô bến của người đắc đạo. Như mùa xuân ấm áp dịu dàng, như ngàn hoa đua nở trăm màu ngàn sắc, như cỏ cây xanh mướt một màu, như nụ non đâm chồi nảy lộc, như chim ca bướm lượn, thêu dệt một vùng trời mênh mông bát ngát liên tu bất tận, nỗi vui sướng hoan ca, bản hợp tấu âm ba trùng điệp. Hơn cả ngày đăng quang của một vị vua lên ngôi Thiên Tử. Hơn cả một người nghèo khổ tận cùng tự nhiên sớm dậy thấy nhà mình biến thành cung đài điện ngọc và đầy ắp kim cương, vàng, ngọc. Người ĐẮC ĐẠO nhận lãnh sự vinh quang với kết tập của ngàn vạn Chư Phật muôn phương, muôn hướng chào đón và cung thỉnh lên ngôi cao chót vót của giải thoát. Không một ngôn ngữ nào diễn tả hết nỗi vui mừng của một người Đắc Đạo…

Dù cho có là vua, quan, có tiền rừng bạc biển, có cả ngàn cung nữ tuyển chọn khắp thế gian cuối cùng nhắm mắt xuôi tay không một ai mang theo những vật đó xuống được tuyền đài. Nhưng người đắc đạo thì mang được tất cả những gì mình đã đạt được sau kỳ công gian khổ rèn luyện và chịu đựng. Của cải người Đắc Đạo mang theo đó là sự sáng đời đời. Báu vật ấy người thường không nắm bắt được, không sờ mó được, không nhìn thấy được. Chỉ có người Đắc Đạo mới nhìn, sờ, nghe, ngửi đó là sự bất tử, sự giải thoát, sự đi lên mãi mãi vô cùng. Đó chính là Hào Quang, Điển Quang, và cũng là sự hội nhập về với chính ngôi vị của mình. Ngôi vị Phật, ngôi vị Trời, ngôi vị Thượng Đế. Ngôi vị này không thể mua, bán bằng tỷ tỷ Mỹ Kim ở dưới thế trần.

Tuy vậy để đạt được sự vinh quang bất tử này những người Đắc Đạo đã phải trải qua ngàn vạn triệu năm rèn luyện, thăng trầm. Họ phải trải qua hàng vạn kiếp luân hồi, tái sinh rồi luân hồi, tái sinh nữa. Đã từ cây cỏ, côn trùng, vạn vật trưởng thành từ muôn kiếp lên làm người. Từ người đần độn ngu dốt, đến làm người dân thường và trải qua các kiếp làm quan, làm vua, làm chúa. Rồi từ vua chúa tội lỗi tiến đến các vua chúa anh minh, thương dân thương nước. Lại cũng từ vua chúa đó cho đến mãi về sau mới thức tâm chán bỏ ngôi cao quyền quý tỉnh ngộ phát nguyện tu hành. Trải qua nhiều kiếp, mỗi một kiếp tu trả lần những nghiệp quả đã gieo ra… Như vay mượn, cái ăn, cái mặc, sự vun bồi hiền đức, lòng quyết tâm trả sạch nợ trần gian. Nếu như phát tâm tu hành cũng phải muôn ngàn kiếp mới đạt tới điều gọi là Đắc Đạo.

Cũng phải trải qua các pháp huyền bí của chư Phật đi trước ban ra để rồi từng bước từng bước một luyện rèn, kiên nhẫn và kiên nhẫn Cho đến một kiếp nào đó nghiệp lực đã trả đủ, duyên lành đã đến sẽ gặp được đúng chánh pháp: Từ thanh lọc thân xác, đến vận khí thở đúng cách, tỷ như người luyện đan để thành thuốc trường sanh bất tử, hoặc như các bậc sĩ phu nấu sử sôi kinh tham dự các khoa thi tiến sĩ đỗ đến trạng nguyên. Nhưng người luyện thở công phu lại khác vì vận khí vào đơn điền để thanh lọc dần trược bẩn sơ sẩy hỏa tam muội chưa sạch mà khí trược lên đầu thế nào cũng bị cái gọi là tẩu hỏa nhập ma dẫn đến điên khùng.

Lại phải qua nhiều năm ăn uống chay tịnh để thanh lọc thân xác, có thanh lọc thân xác mới có thân trong sạch có hồn trú ngụ yên bình để hồn luyện đạo. Cũng nhờ việc ăn chay này tạo cho con người ngồi yên được. Khi ngồi yên tĩnh mới bước vào thiền tịnh để khai mở tìm ra các tội lỗi cũ để từ bỏ cũng như không bao giờ vấp phải mọi tội lỗi mới trong thời gian tu hành. Người tu ở giai đoạn này chỉ có trả nợ chứ không vay thêm nợ mới. Nhận chịu tất cả những sỉ vả, nhiếc mắng nếu có của chúng sanh, nhận chịu tất cả mọi cay đắng khổ ải về vật chất tinh thần, đó mới là nguyện lực quyết tâm trả nghiệp.

Để tiến tới một người Đắc Đạo, những điều kiện sau đây hành giả phải trải qua và phải đạt được: KHAI THÔNG HAI HUYỆT MẠCH NHÂM ĐỐC, MỞ TUỆ NHÃN (con mắt thứ ba), mở HUYỆT BÁCH HỘI (luôn 9 huyệt phụ gọi là cửu khứu). Tôi sẽ nói rõ hơn về Mạch Nhâm Đốc và các luân xa khai mở để tiến tới nhận biết một người ĐẮC ĐẠO phải trải qua các công trình và phương pháp tu luyện.

Nhờ các phương pháp thanh lọc thân, tâm, khẩu ý, qua việc ăn chay, tịnh khẩu, qua các phương pháp thở tùy duyên kiếp từng người, qua các pháp thiền cũng tùy theo duyên kiếp của từng người. Bởi có những pháp thiền đã học qua các kiếp trước kiếp này sẽ gặp pháp thiền mới. Tuy thế chung quy cũng phải trải qua: ĂN CHAY, THỞ, THIỀN. Nhờ pháp thở mà mở được 7 luân xa chánh trong bản thể con người (bất cứ ai cũng có bảy luân xa chánh này).
MẠCH ÂM DƯƠNG VÀ NHÂM ĐỐC

Trong cơ thể con người có 2 huyệt mạch tối ư trọng hệ đó là mạch Nhâm và mạch Đốc. Mạch Nhâm thuộc Âm, mạch Đốc thuộc Dương. Mạch Nhâm nằm trước bụng (rốn), mạch Đốc nằm sau lưng. Người luyện đạo qua các pháp thở mục đích là làm sao nối liền hai mạch Nhâm Đốc này để chuyển chạy một vòng tròn liên tu bất tận, từ sự chuyển chạy của mạch Nhâm và Đốc này mới hút được lửa Tam Hỏa Muội đốt cháy hết các khí ô trược trong bản thể. Tác dụng lớn lao này còn có nhiệm vụ chuyển vận khí lửa tiến lên qua đường xương sống đốt thông các bế tắc để khai mở cửa Thiên Môn (Huyệt Bách Hội) mở các huyệt nhỏ là Cửu Khiếu. Tiếp dẫn khí Thiên Tiên từ đỉnh đầu vào, để mở Đệ Tam Nhãn (Tuệ Nhãn).

Khi mạch Nhâm Đốc nối liền và khai thông cơ thể sẽ tiếp khí Tiên Thiên để đốt cháy hết các khí trược bẩn trong bản thể con người. Cũng chính nhờ Nhâm Đốc nối liền mà các vị Đắc Đạo không bị nhiễm các vi trùng cho nên không bao giờ còn bệnh tật cả. Con người tiếp được khí Thiên Tiên con người đó sẽ trở nên thần thông đắc quả:

“Vận khí thông quan xoi cốt tiết,

Tự nhiên Tinh đủ dưỡng ngươn thần”

Bản thể con người khi mạch Nhâm Đốc hội ngộ là lúc Âm Dương hội hiệp hành giả tìm ra CHÂN LÝ, Tuệ Nhãn mở, Huyệt Bách Hội thông đã đến lúc Trời Đất mở Hội Hoa Đăng đón chào quả vị của một người ĐẮC ĐẠO, họ đi vào thế giới ĐIỂN QUANG, HÀO QUANG, THÁNH LINH là lẽ thường tình vậy.
BẢY LUÂN XA CHÁNH

LUÂN XA 1: luân xa này nằm yên ở tam giác vàng, giữa bộ phận đại tiện và tiểu tiện. Luân xa này có 4 cánh màu đỏ đậm theo tiếng Phạn gọi là Kundalini nghĩa là con hỏa xà. Phái mật tông Tây Tạng dùng thần chú “Lam” để là Muladhara, năng lực của nó vô song, mọi phát động giao cảm náo tủy đến tạng phủ, còn là nơi giao tiếp năng lượng bên ngoài vũ trụ chuyển vào hệ thống thần kinh não bộ. Nếu luân xa này được khai mở con người sẽ đạt kết quả lục thông (tâm, nhĩ, mắt, tai,miệng, mũi). Trung tâm năng lực Muladhara không tạo ảnh hưởng riêng biệt nào ở một tạng phủ, trái lại thể hiện năng lực tiềm tàng của nó đến tất cả mọi cơ quan tạng phủ trong bản thể con người. Vì thế luân xa 1 đóng vai tròng chủ yếu hơn các luân xa khác.

Có nhiều vị đã đạt được sự khai mở luân xa này nhưng chẳng bao giờ khoe khoang, thị lộ trước nhân sinh bởi họ là các bậc nhân ngã. Cũng không sao tránh khỏi đã có kẻ vì mở được luân xa này tự xưng mình là Phật, Chúa, Thánh, Thần để rồi sẽ bị mai một theo luật tiến hóa của vũ trụ bởi: “Thuận ý trời thì sống, nghịch ý trời là thác”. Luân xa 1 khai mở giống như con Hỏa Xà như một luồng hơi cực mạnh bò theo xương sống (mạch Sushumuna) đi dần từ xương khu đến tận đỉnh dầu (Thiên Môn). Theo nhiều phái thiền gọi là: Luyện Hỏa Tam Muội để đã thông 7 huyệt đạo (luân xa) đi từ hỏa hầu xông phá thẳng cửa trời. Luân xa 1 nằm tại điểm cuối cùng của Hạ Thừa trong cơ thể con người nhưng có thể dẫn con người qua cửa Thiên Môn hợp nhất với Thượng Đế. Đây gọi là Tam Hỏa Chân Muội Khai Đạo.

LUÂN XA 2: phía sau thuộc phạm vi xương mông và ở phía trước thuộc phạm vi dưới thuộc về thủy có màu cam, có 6 cánh. Phái Mật Tông Tây Tạng có tên thần chú độc là: “Oam” khi đọc lên làm cho luân xa này quay. Luân xa này có tác dụng làm cho sinh lực cường thịnh dồi dào rất khỏe mạnh về đường sinh lý. Người luyện đạo dùng luân xa này để đưa tinh khí lên não bộ luyện thần thức. Sự kết hợp Tinh Dương với Khí Âm tạo thành Thánh Thai còn được gọi là Xá Lợi Tử hay Mô Ni Châu để trở thành thai Điển Quang. Chính lúc này là Âm Dương hợp nhất trong cơ thể con người. Người luyện đạo khác với người đời là biết cách đem Tinh Khí hướng thượng ngược lên bộ đầu để tạo Thánh Thai, còn người đời chỉ biết dục vọng hạ thừa chỉ tạo nên phàm thai. Ngườicó Thánh Thai là người có hiểu biết phi phàm, minh triết.

LUÂN XA 3: nằm tại xương sống đối diện với đơn điền (lỗ rốn) màu vàng cam, có 10 cánh thuộc hỏa. Luân xa này có trách nhiệm điều khiển bộ phận tiêu hóa bao gồm: dạ dày, lá lách, gan, đại, tiểu trường. Lúc ở tình trạng hoàn hảo có người có sức sống dồi dào. Nhờ luân xa này con người có thể luyện đạt tới thần thông. Để có tinh thần và thể xác tráng kiện người luyện đạo phải biết vận dụng luân xa 3 để đạt tới: gan dạ, can trường, khí tiết, dũng liệt đều do sự luyện rèn từ luân xa 3 mà ra cả.

LUÂN XA 4: nằm ngay trên xương sống khúc đối diện trái tim, Luân xa này có màu xanh như hình hoa sen có 12 cánh. Luân xa này nằm giữa ba luân xa hạ và ba luân xa thượng. Chúng ta coi đây là cánh cửa Tâm từ đây người luyện đọa mở được luân xa này sẽ có một tình thương vô bờ bến đến khắp mọi vật lẫn muôn người. Bởi luân xa này chính là trung tâm của tình thương, của từ bi bác ai, của tha thứ thương yêu. Khi luân xa này khai mở tất cả các tế bào trong bản thể sẽ rung động với tần số cao vượt ra ngoài không gian muôn chiều để phối hợp với Phật, Trời và có mãnh lực tạo cho người ta có cảm thông với muôn loài vạn vật, cảm thông với vũ trụ càn khôn. Luân xa này khai mở sẽ trở thành trung tâm điều trị tất cả mọi bệnh tật trong ngoài của một con người.

LUÂN XA 5: bao gồm các bộ phận hô hấp như phổi, mũi, thanh quản, da (lỗ chân lông). Nằm phía trước là yết hầu, phía sau là xương bả vai, có màu xanh da trời, huyền âm, như hoa sen có 16 cánh. Luân xa gồm có tai, lưỡi, miệng và hệ thống khí quản, thuộc phạm vi siêu linh, luyện thành luân xa này đến tới Thiên Nhĩ Thông. Luân xa này còn có liên hệ đến hai cánh tay và hai bàn tay. Từ luân xa 5 trở lên thuộc về thượng giới, thần thức. Luân xa này được khai hoa nảy lộc con người sẽ thuộc về thế giới siêu linh. Luân xa 5 cũng có thể thông đạt với các luân xa thượng và hạ để dễ diễn đạt trong quán tưởng tri thức vị tha một cách quán triệt.

Tạo hóa như một phép lạ ban tưới hồng ân qua luân xa 5 để cho những ai đạt mở luân xa này có thừa năng khiếu hùng biện, cương quyết mạnh dạn tạo nên các âm hưởng huyền diệu liên tưởng đến các luân xa khác linh thiêng thông đạt và hòa hợp với vũ trụ bên ngoài. Sự thông đạt vi diệu giữa con người với Phật Trời đều qua bộ máy vi diệu của luân xa 5.

LUÂN XA 6: màu xám, được gọi là đệ tam nhãn, CON MẮT THỨ BA nằm giữa hai chân mày, bên trong hạch mũi chỉ có hai cánh, trung tâm của Thần Nhãn. Nếu luân xa này được mở sẽ nhìn được quá khứ vị lai. Các pháp khai mở luân xa này mau nhất là 6 tháng, chậm là 12 năm, cũng có người trọn kiếp cũng không mở được. Luân xa này còn được gọi là Thiên Nhãn. Giống như hoa sen có hai cánh lớn nhưng trong đó tỏa ra có đến 96 cánh nhỏ kết tập thành. Khi sử dụng thiên nhãn linh ảnh sẽ hiện lên quá khứ, hiện tại và tương lai của bất cứ ai, có thể phóng lên hư không để nhìn biết các hành tinh cùng nhìn thấu thiên văn địa lý, thanh trược hay thiên tai xảy ra ở một nơi nào đó trên quả đất này.

Khi luân xa 6 này được mở là lúc ngời tu đạo gần kề đến thành công viên mãn rồi. Người mở được đệ tam nhãn cũng được gọi là Huệ Nhãn là nơi Âm Dương hệp nhất tiến vào thế giới siêu diệu. Người mở được huệ nhãn là những người có khả năng chữa tất cả mọi loại bệnh cho chính mình và cho chúng sanh nữa. Nhà Phật gọi là Thiên Nhãn, tùy theo sự tu tiến ít hay nhiều kiếp mà hành giả nhận được hào quang, Điển quang lớn hay nhỏ để nhìn thấy các cõi trời, cõi đất và tiền kiếp hậu kiếp của con người.

LUÂN XA 7: có màu tím, thuộc về thần thức, nằm trên đỉnh đầu hay gọi là đỉnh Thiên Môn. Nhà Phật gọi là Hắc Bì Phật Tổ, Lão Giáo gọi là Huyệt Bách Hội và các nhà châm cứu cũng gọi là Huyệt Bách Hội. Luân xa 7 biểu tượng như một hoa sen có 960 cánh, màu sắc từ đỉnh đầu đi xuống gồm có các màu: tím, xanh, vàng, đỏ nhạt. Người đạt đạo thường tỏa màu vàng chói sáng. Thường những vị có thần nhãn thấy được màu sắc, hào quang, với những hành giả có huệ nhãn nhìn bộ đầu của những vị có hào quang ắt biết ngay họ đã đạt Đạo đến cấp nào. Hiển nhiên chỉ những vị tu luyện theo chánh đạo khi mở luân xa 7 (bách hội) được khai mở trên đỉnh đầu bắt buộc phải có một lỗ hổng huyền bí để thông công với vũ trụ. Mở luân xa này cũng tự nhiên đón nhận (hút) hào quang, điển quang liên lạc trực tiếp với Đại Thiên Địa. Cũng như còn thêm chín huyệt phụ nữa trên bộ đầu, chỉ có những ai hoàn toàn ĐẮC ĐẠO mới mở thêm được chín cửa nhỏ nữa, thường gọi là Cửu Khiếu.

Và đến lúc đó chúng ta đừng quên Nguyễn Công Trứ đã đề thơ:

“Khí Hạo Nhiên chí đại chí cương

So chính khí đã đầy trong trời đất”


TÓM LƯỢC CHƯƠNG I

Khi chư vị đọc qua chương I ta đã thấy tác giả trình bày sơ lược về những khó khăn của một người Đắc Đạo. Cũng như chúng tôi phải trình bày thêm về các hiện tượng đồng cốt, mượn xác, nhập xác. Đúng ra phần này không cần thiết vì nhắc đến tên của một vài người không đáng nhắc. Tuy nhiên chúng ta không nên chấp vào tên của một vài cá nhân hữu hình, thật ra điều chúng tôi cần quý vị lưu tâm tới là các hàng giáo chủ vô hình đứng đằng sau những nhân vật chúng tôi nhắc tên qua có liên hệ đến cơ vô hình mà các giáo chủ của triệt giáo đang cố gắng tranh giành với cơ tân tạo.

Các giáo chủ triệt giáo này rất mong muốn giành chiếm cũng như tận tình phá hoại cơ lập đạo dựng đời Tân Dân Thánh Đức. Bởi nếu chúng thua trận đồ này chúng sẽ bị hủy diệt hoàn và muôn ngàn ức niên sau chúng mới có thể có cơ hội tiến hóa đầu thai. Xuyên qua việc nhắc đến các vị giáo chủ thần thông biến hóa, tài phép không thua gì Phật Trời có liên quan đến những chương sau, mong quý vị theo dõi. Tác giả cũng không hoàn toàn cho rằng bản thể một người tu đạo nhất thiết phải trải qua những giai đoạn như tác giả đã nêu trên. Bởi vì có hàng ngàn, hàng vạn pháp môn khác cũng có thể đưa hành giả đến Đắc Đạo. Tuy nhiên với cái nhận biết của tác giả hiểu như thế và biết như thế nên khiêm nhường trình bày lại để chư vị cùng tham khả mà thôi.

Vạn sự việc trên đời này không việc nào giống việc nào, cho nên việc tùy duyên đón nhận của quý vị đã là một khích lệ vô cùng hoan hỷ đối với tác giả rồi. Thiên hạ đa nan sự, đời đa nan việc, đạo lại càng muôn trùng huyền bí, khó một ai có thể quyết đoán rằng việc mình làm, mình nói là đúng trong Trời Đất này còn biết bao điều chúng ta phải học hỏi mãi mãi, học hỏi đời đời.

Cũng như nhiều vị Phật, Tiên, Thần, Thánh đều tình nguyện lâm phàm vào những năm chót của thế kỷ 20 để chuẩn bị cho việc dựng đời mới được gọi là đời TÂN DÂN MINH ĐỨC. Các vị này cũng phải qua hình thức đầu thai, rồi cũng như mọi người lớn lên, sinh sống thích hợp với người đời. Chư vị này cư trần xong không nhiễm trần, rồi đến một lúc nào đó cũng phải mượn qua các pháp tu của thế gian mà khai mở hồn xác. Những vị này khác hẳn các vị Đắc Đạo do công trình tu tập nhiều kiếp ở thế gian. Bởi các vị này luôn luôn được theo dõi và dẫn dắt của chính hồn trên các cõi thượng giới, đây là Chư Vị có sứ mạng độ đời lâm phàm.

Vào thời kỳ mạt pháp cuối cùng này có bao người hy sinh bỏ danh, bỏ lợi, bỏ lại tiền tài để dấn thân vào con đường tìm đạo. Tất cả quý vị này chắc hẳn dã nhìn thấy thấy dòng đời chỉ như là nước chảy, bèo trôi. Một kiếp người ngắn ngủi sáu bảy chục năm rồi cũng qua đi trong chớp mắt. Mới ngày nào bỏ nước ra đi, đến nay cũng đã hai mươi hai năm rồi. Nhìn lại những người trong nước cũng chẳng hơn gì những người phải bỏ nước ra đi. Người trong nước nhìn ra bên ngoài thấy những anh em lưu lạc mà ngậm ngùi cho thân phận, cho một kiếp lưu đày… và dĩ nhiên ai lại không nuôi một tia hy vọng một ngày nào đó đất nước mình, người dân mình cùng cả mọi người trên quả cầu này được an hưởng một đời sống an hòa thật sự.

Những điều ghi lại trong chương sách này chỉ là một phần mở ra để quý vị theo dõi tiếp những liên hệ và diễn tiến được tiếp nối ở các chương sách kế tiếp. Đó là ý nguyện của tác giả viết cuốn sách này. Mong chư vị theo dõi tiếp chương II.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét