Thứ Năm, 4 tháng 3, 2021

PHẬT TRỜI ĐẤT NGƯỜI (P5): NGƯỜI



PHẬT TRỜI ĐẤT NGƯỜI (P5): NGƯỜI

Kiều Nguyên Tá





Chắc quý vị cũng sẽ đồng ý với tôi ngay, khi viết về con người là cả một thiên tiểu thuyết liên tu bất tận. Chỉ có con người mới có nhiều chuyện thật vĩ đại và cũng thật kinh hoàng ở trên quả đất này. Người ta, vì con người đã tốn không biết bao nhiều giấy mực để tô điểm cho pho trường thiên tiểu thuyết về Người.

Người có nhiều loại: Người đàn ông, Người đàn bà, Người già, Người trẻ. Người Mỹ, Người Nga, Người Tàu, Người Nhật, Người Tây, Người Đức, Người Anh, Người Đại Hàn, Người Nga, Người Tàu, Người Nhật, Người Tây, Người Đức Người Thái Lan, Người Việt Nam, Người Châu Á, Người Châu Âu, Người Châu Phi, Người Châu Mỹ, Người Châu Úc. Người da trắng, da vàng, da đen, da đỏ, da nâu v.v… và v.v… thứ người.

Người là một báu vật giữa Trời và Đất. Không có Người thì không cần có Trái Đất. Bởi thế Trời Đất Người (Tam Tài) cứ quấn quít quyện chặt với nhau, không cách, không chia, không phân, không rã. Trời Đất có gì con người hưởng đủ thứ đó Trời Đất biến hóa ra vạn vật, muôn hình cũng chỉ với một mục đích duy nhất. Cho con người hưởng.

Người có người thiện, người hiền, người ngay, người thẳng, người nhân từ, người đạo đức, người phò nguy cứu vua, người anh hùng cứu nước, người trung nghĩa, người đảm lược, người hùng, người tài, người cốt cách phi thường v.v… và cũng không ít người gian, người vô đạo, người độc ác, người tham lam, người ăn cướp, người ăn trộm, người dâm đãng, người độc ác, người tham lam, người cướp chồng người khác, ôi chán vạn con người. Thôi thì đủ mọi loại người, đủ mọi hạng người tốt xấu, hàng ngày phơi bày trước thế gian như một pho tuồng liên tu bất tận, đời này sang đời khác, kiếp này đến kiếp kia con người cứ thế và cứ thế biến đổi và biến đổi mãi cho đến khi nào họ không còn tốt xấu, họ không còn chánh tà, họ không còn một bài học nào không trải qua, đến lúc đó họ mới thật là người. Khi họ là người lành người. Khi họ là người thật cũng là lúc họ hội nhập vào với Trời, Đất, Phật và chính họ là Trời, là Đất, là Phật an nhiên tự tại cực thanh, cực động chính là họ không gì lay chuyển nổi. Họ cũng là kim cương bất hoại đời đời được chiêm ngưỡng.

Con người đứng trên Đất, dưới Trời, mới chỉ tay lên Trời, xuống Đất mà nói: “Thiên Thượng Thiên Hạ, Duy Ngã Độc Tôn”. Cũng chính vì con người quan trọng và cao cả, cũng chính con người thấp hèn ti tiện tận cùng như thế cho nên con người mới “coi Trời bằng vung”, mới chửi cả Trời, cả Phật, mới đâm chém, mới giết nhau một cách tàn bạo không gớm tay. Con người giết nhau bằng gươm giáo chưa đủ thỏa mãn, con người phải chế tạo nhiều loại vũ khí giết nhau. Chỉ trong nháy mắt hàng ngàn, hàng vạn người có thể phải chết tức thì bằng một trái bom nguyên tử, bằng một trái bom khí độc v.v…



CON NGƯỜI CÙNG TRỜI ĐẤT

Nằm trong lý Âm Dương của Trời Đất. Người cùng Trời và Đất hiệp lại hòa hoãn với nhau, dẫn dắt nhau nên mới gọi Tam Tài, hay là Ba Ngôi: ngôi thứ nhất là Cha (TRỜI), ngôi thứ hai là Mẹ (ĐẤT), ngôi tứ ba là Con (NGƯỜI). Trời cùng Đất giao hòa sinh lý ân ái mãi mãi để rồi thụ thai ra loài người. Từ chỗ người lông lá, xấu xí, cù lần tiến lên đẹp tươi, rụng lông dần dần để hoàn mỹ như con người có hiện nay là đã trải qua hàng tỷ muôn kiếp. Nói về con người ở Trái Đất này bắt buộc phải nằm trong lý Âm Dương của Trời và Đất. Kẻ nào không chấp nhận và còn đặt ra hàng ngàn vạn câu hỏi để muốn biết con người từ đâu có? Thì đến Trời và Đất cũng không thể trả lời cho nổi. Bởi vì Trời thì câm lặng, Đất thì lại điếc rặc cho nên không nghe nổi câu hỏi của Con Người.

Người ta lý luận nhiều về cái lý không mà có, có mà không. Thật ra có gì đâu mà phải hỏi với trả lời. Không là không khí. Có là Trái Đất. Đất với Trời nâng đỡ nhau, ấp ủ nhau để nở ra Con Người, chuyện đã rành rành là có Trời, có Đất, có Người mà con hỏi với trả lời cái gì nữa. Cho nên KHÔNG: PHẢI LÀ KHÔNG KHÍ ĐIỂN; CÓ: PHẢI LÀ CÓ TRÁI ĐẤT, có bầu trời, có các hành tinh, có con Người và có vạn vật, cho nên người “NGU” hiểu như thế là đúng, kẻ thông minh học cho nhiều ồi hỏi cho nhiều thì chỉ là những kẻ ngu thật sự. Chỉ những kẻ ngu như các nhà khoa học, các nhà bác học mới đi tìm Trời. Bởi vì Trời ở đâu mà tìm? Trời là Không mà tại sao đi tìm cái không thì không có tìm thấy là cái chắc chắn rồi.

Ngày nay khoa học đem những cục sắt, gắn những con mắt thủy tinh để đi tìm Trời, thật là nực cười, con người dù có lên cung trăng, lên sao Hỏa, sao Mai? Làm sao lên được vì con người bằng thể xác này không cách gì thích nghi được sự sống ở đó. Muốn đi về các cõi đó phải đi bằng Hồn, bằng Điển Quang, bằng Tinh Khí Thần trụ Đỉnh, lẽ dĩ nhiên phải trải qua kiếp tu hành thiền định rồi trả hết nghiệp quả mới tùy duyên, tùy công sức của mình mà về các cõi đó trong chớp mắt. Cho nên gọi người tu là những người ĐẠI NGU chỉ ngồi một chỗ cũng thấy Trời và đến với Trời một cách dễ như trở bàn tay.

Sự liên hệ và ràng buộc giữa con Người cùng Trời Đất thường được gọi là Tam Thiên, Đại Thiên Thế giới hay là Ba Ngôi Vô cực, Vô Sắc Giới, ngoài Càn Khôn. Ngôi này thông suốt mọi biến hóa và sự tịch diệt hư vô, còn gọi là cõi tịch diệt khắp cả Tam Thiên Đại Thiên thế giới (Ngôi Mẹ).

Thái Cực: còn gọi là cõi sắc giới (Càn Khôn), Ngôi ngày vận chuyển các thế pháp tức là Ngôi Tạo Hóa (Ngôi Cha)

Âm Dương cõi tích cực, dục giới bao gồm mọi hành động của thế gian, của các hành tinh thuộc về Ngôi Ba (Ngôi Con)

Cả ba ngôi này hợp lại gọi là lý Tam Tài, Tam Thiên, Đại Thiên Thế Giới

Cõi Vô Cực là nơi có con người thuộc về hạng Đại Thượng Trí, người giải thoát, cõi này là cõi các vị Đại Phật, Đại Trời an ngự. Cõi này là một trung tâm điều hành Tam Thiên. Chư vị ở cõi này cũng giống như Bộ Tổng Chỉ Huy Vũ Trụ Càn Khôn. Cõi này trong sáng, mạnh mẽ vô cùng vô song, cõi này là khối Điển Quang vĩ đại được điều hành bằng một tần số Điển Quang khủng khiếp ở sự sáng suốt vi diệu cực kỳ nhạy bén. Cõi này khó đem ngôn ngữ thế gian để luận bàn mà hiểu cho nổi. Chỉ có những Chân Nhân kể như các hàng Phật Thầy trở lên mới có thể ngự được. Người tiến đến ngôi Vô Cực hẳn phải là Phật Thầy trở lên mới có thể ngự được. Người tiến đến Ngôi Vô Cực hẳn phải là Phật Tròn ở thế gian, đã thông suốt lẽ tịch diệt, để về Ngôi Vô Cực và rồi cũng vẫn lại học hiểu mãi.

Chư vị về đến Vô Cực là đã trải qua bao kiếp mê trầm trong khổ não, trong vui sướng, và cũng trải qua bao cơn mê, hết mê lại tỉnh, hết tỉnh lại mê. Bởi con người khi tỉnh lại mê Pháp, mê say đạo, say mê đến nổi không còn hiểu được lương tri của chúng sanh còn hay mất, bởi chúng sanh có lương tri khác nhau. Mỗi Thập Nhị nhân duyên của chúng snah toàn là Âm, khi hiểu được âm rồi mới nhờ đến các pháp mà giải hết sự đần độn u mê. Nhờ giải được các xuẩn động si mê lại cứ bám lấy Pháp tưởng rằng pháp là Phật. Thật ra đến Phật không còn là Pháp.

Kẻ tri nguyên được cái giả đã là những kẻ ở ngôi Thái Cực mới thức ngộ và hiểu ra mình không còn là chúng sanh nữa. Lúc đó mới quẳng sách vở trên vai, mới bỏ con thuyền Pháp, vứt và vứt hết để chuyển từ Thập Nhị nhân duyên Âm sang Thập Nhị nhân duyên Dương mới chuyển lên Ngôi Vô Cực không còn nặng gánh Âm và Dương nữa. Cũng không còn Âm Dương nên không còn đau ốm bệnh hoạn, không còn thích dâm, thích ngủ, thích ăn lúc đó trở thành Kim Thân. Chủ nhân ông thu hút điển quang khắp vạn nẻo và tạm giải nghiệp si mê. Về đến Ngôi Vô Cực tức là đã lọc lừa sàng sẩy, trải qua bao nhiêu chờ đợi chiết hết từ thân Phật này đến thân Phật kia để hoàn toàn xứng với vị trí về Ngôi Vô Cực.

Thái Cực: Người đạt vào Ngôi Thái Cực là người đã thông suốt cả hai ngôi Thái Cực và Ngôi Âm Dương, luôn rao giảng về chân lý. Dù đã không còn ô nhiễm bụi trần nhưng còn ham Pháp, mê Pháp, ôm Pháp. Những người ở Ngôi này chăm sóc chúng sanh như con, không còn phân biệt màu da chủng tộc, không còn phân biệt đạo với đạo, đời với đời. Một lòng vì chúng sanh mà cứu độ quên cả thân mình. Giống như hàng Bồ Tát đạt đến Ngôi này là những người đã từ chúng sanh đi lên. Cũng vì mãi chăm lo cho chúng sanh mà hàng Bồ Tát ở Ngôi Thái Cực đã quên hẳn cả hành Pháp để tiến lên Ngôi Vô Cực. Vì hàng Bồ Tát này còn quan tâm đến hàng chúng sanh vì mãi mê vào con đường sanh tử, mãi mê vào sự sống, mãi mê vào danh lợi. Vì thế ngôi Thái Cực cứ luôn bành trướng thế lực Pháp đạo để mưu cầu giải thoát cho chúng sanh. Vì nghiệp lực chúng sanh cứ mãi đào hố cái Thập Nhị Nhân Duyên , cứ chôn xuống mãi chứ không chịu đào lên cho nên chúng sanh cứ theo Ma giáo nhiều, tức là theo Thập Nhị nhân duyên Âm. Thời mạt pháp này Âm thịn cho nên Ngôi Thái Cực lại càng lo dạy và cứu chúng sanh, trong khi đó Ma Giáo lại trót cột chúng sanh càng ngày càng chặt hơn. Bởi Ma giáo thì thích hợp cho người chỉ biết cho ăn no, chỉ biết dâm dục, chỉ biết ngụp lặn trong Thập Nhị nhân duyên Âm, tình tiền danh lợi. Cho nên nếu Ngôi Thái Cực cứ mãi mê vì chúng sanh mà quên bổn phận mình là Thái Cực phải thi tiến lên Ngôi Vô Cực. Ma giáo thời này quá mạnh, chúng lấy quyền làm người để đòi dân chủ, đòi tự do, đòi nhà, đòi thống nhất thiên hạ, và dĩ nhiên là hàng Ma Giáo thì không tòng phục lẫn nhau cho nên chúng sẽ trở mặt và tranh đấu, đấu tranh để giết nhau. Vị nào cảm thấy mình qua ngôi Thái Cực thì bây giờ cũng là lúc cần ngoảnh mặt làm ngơ để đi một đường thẳng mà về ngôi Vô Cực.

Ngôi Âm Dương: con người có tinh ba không gom lại, không tích tụ TINH, KHÍ, THẦN lại thì TAM BẢO tản mát, cho nên con người phải quy y Tam Bảo để tụ lại tinh khí thần. Tụ được Tinh Khí Thần mới tìm thấy cả một Hệ Thống Thái Dương Hệ trong bản thể của mình cũng đủ Ba Ngôi Trời Đất Người, cho nên mới gọi là Tiểu Vũ Trụ. Còn Trời Đất Người bên ngoài gọi là Đại Vũ Trụ, còn gọi là Càn Khôn, gọi là Vũ Trụ Quan. Khi con người gồm thâu cả ba thể Tinh Khí Thần con người mới có sáng suốt nhận biết ra đủ các pháp, không cần moi móc ở đâu xa nữa. Con người đang ở cõi dục giới, thường thích tham gia vào mọi hành động. Cũng do Thập Nhị nhân duyên Âm chuyển mà con người cứ quay trong cái vòng luẩn quẩn tội lỗi, quay trong vòng công danh, quay trong vòng tiền bạc, quay trong vòng tình ái. Còn quay là còn đắm chìm trong biển trầm luân và ngụp lặn trong cái gọi là địa ngục của chính mình.

Nhìn các hàng danh tướng từ thuở xưa cho đến đời nay đều có dáng dấp của một sự oai vệ, cái tướng oai nghi của vua quan, cái tướng oai nghi của Tiên Phật đều là giả tướng mà thôi. Có mấy ai thức tỉnh để nhìn lại quãng đường mình đã đi qua trông chẳng khác nào mấy ông kép đóng tuồng trên sân khấu cải lương. Cũng vua quan, tướng lãnh, cũng phú gia đại dịch, cũng cường hào phú hộ, cũng con ở, thằng nô bộc đầy tớ, khi đóng vai trung, lúc giữ vai gian tuốt luốt hạ màn lại tơ ra trần trụi vào đào với kép cũng chỉ là người ta. Cũng ăn, ngủ, tình dục, rồi đại tiểu tiện, và cuối cùng thì cũng đều là lũ bần tiện. Đấy là cái tuồng đời của con người cũng lê thê lết thết, cũng lâm li bi đát, cũng oai hùng như Hạng Bá nhưng rồi tuồng vẫn là tuồng. Người ta cũng vậy thôi, đời kiếp này sang đời kiếp khác diễn đi diễn lại trên một sân khấu vĩ đại của thế gian và nếu không thức tâm quay ngược trở lại thì cứ nghìn trùng xa cách và đi mãi không về. Cũng do thức tâm con người mới đi tầm chân lý, đi tầm thức là tìm, tìm là sẽ thấy mau hay chậm mà thôi. Giống như một cuộc biến đổi, để đi trở lại từ Âm Dương về đến Thái Cực để hiểu tròn về Âm Dương con người mới bỏ được tham sân si, là do con người biết tầm Pháp và hành Pháp để giải bỏ dục vọng, còn dục vọng là còn âm. Con người có Pháp hành tức là đã muốn tìm về ba báu Tinh Khí Thần. Người không chịu quay về tìm ba báu là người đem Tinh ra trải vào các cuộc truy hoan, dâm dục. Tinh cạn là sẽ tự chuốc lấy bệnh vào thân, tinh cạn thì Khí cũng suy. Còn đem thần nghĩ suy mưu định để tìm ra của cải, châu bóc, ngọc ngà, vật dụng đầy kho, tiền tài đầy ắp trong nhà băng. Nhưng thần cũng chỉ có giới hạn cho nên đến một lúc nào đó thần phải tán, thần tán thì tướng cốt suy đổ vì bệnh nghiệp kéo đến, có tiền muôn bạc ức chăng nữa thân người không còn lấy đâu mà giữ của cải, vợ con, gia sản nữa. Đến lúc chết vẫn còn nuối tiếc và chờ đến kiếp sau lại như thế nữa cho nên cứu mãi vun bồi rồi lại như Dã Tràng xe cát đổ biển Thái Dương.

Con người còn dục vọng là còn Âm, còn âm còn đen tối vì trung tâm thần kinh lúc nào cũng đen nên mới sinh ra tham muốn, mới sanh ra đa bệnh. Dâm căn còn nặng nên không thể có điều hòa âm dương. Nếu một người biết điều hòa âm dương tức âm dương hòa hiệp con người sẽ không còn ham muốn chuyện dâm dục nữa. Sở dĩ con người vì lòng tham vọng nên dù có bao nhiêu mối đạo cũng không xoa dịu được phàm tánh cho nên con người sống không có bình đẳng, vì không bình đẳng nên con người còn mãi giết nhau. Nếu có một quốc gia nào đó thật sự làm gương mẫu cho sự bình đẳng không nói, không kêu gào cửa miệng thì mới may ra đem lại bình đẳng thật sự cho muôn người. Cũng vì cuộc sống ở thế giới này còn quá kém nên sự sinh tồn thiếu tổ chức. Nói chung là quả địa cầu còn nhiều sân hận, cho nên càng làm cho dân trí thấp kém và bon chen mà thôi. Con người vì còn nặng nền nên bảo thủ, cho đến bây giờ vẫn còn kẻ nói rằng: Đạo Phật hoặc Đạo Chú là có đủ Nhân Lễ Nghĩa Trí Tín, có đủ Từ Bi Hỷ Xả và thật bình đẳng, thật cao thâm. Đó chỉ là nói trên cửa miệng hoặc đọc trong sách ra nói. Kẻ nói như vậy chỉ làm cho chúng sanh thêm thù hận nhau chứ không thể làm cho chúng sanh tiến hóa được. Vì lời nói ngu muội xuẩn động đó chỉ gây thêm thù hằn giữa tôn giáo này với tôn giáo kia.

Còn nhiều người lại chê người này ăn chay, kẻ kia ăn mặn, đó cũng chỉ là còn vọng tâm phàm tánh, nghĩ cho cùng khi không để tâm vào ba chuyện ăn uống chay mặn mà chỉ một tâm sạch sẽ để mọi người nương theo đó tùy duyên chay mặn giải đi cái nghiệp lực của chính chúng mà thôi. Người nào còn vay nợ máu rồi ra kẻ đó cũng sẽ trả bằng máu, kẻ nào còn chấp đạo này đạo kia, đạo tao đạo mày kẻ đó sẽ phải luân hồi nữa để trả cho sạch cái nghiệp chấp mê phân chia. Nhiều người mê giáo pháp như một kẻ nghiện xì ke, vì chỉ có thầy tôi mới có thể nói tôi tin nghe, thầy người nói thì người nghe. Con người không tiến hóa được là chỉ dựa vào mọi hình thức bên ngoài. Vì mê chấp mà mãi không hiểu được lý trí của mình, mãi chấp thiện, chấp ác và cứ đi mãi trên con đường đen tối.

Bảo thế nào là thiện? thì ngơ ngơ ngáo ngáo. Bảo thế nào là ác? Thì như thằng ngốc và rồi y chang như một cái máy giảng thuyết thao thao bất tuyệt, giống y như thằng học trò học thuộc lòng bài học, chỉ cần mở máy là âm thanh tự phát ra, rõ chán. Cũng vì thời mạt pháp nhiều kẻ mang danh đi nói pháp nhưng chẳng hiểu pháp là gì cả. Rồi ma nhập tâm nổi giọng khen chê, chê cả Pháp của Phật mà chúng đang giảng, chê mãi, đến pháp môn niệm Phật chúng cũng chê. Quả thật là hết thuốc chữa bởi những kẻ si mê vì không làm sao giải cho được cái ngu từ muôn kiếp của chúng tạo ra từ cõi này sang cõi kia, kiếp nào chúng cũng si mê.

Cũng có nhiều chư vị đã giảng giải cho con người là đừng tin ai, mà chỉ tin vào chính mình. Cũng như một kẻ mang bệnh chính kẻ đó phải biết nó đau ở đâu, nó đau như thế nào? Nhưng nó chỉ mãi đi tìm bác sĩ, để rồi bác sĩ cũng phải hỏi nó mới có thể biết mà cho toa thuốc. Còn nếu kẻ bệnh kia tự chữa lấy cho mình thì nó lại lười biếng hoặc giả nó tham ăn, tham uống nên sinh bệnh thì nó phải biết tiết giảm cái sự ăn, sự uống kia đi thì bệnh sẽ tự nhiên thuyên giảm chứ gì. Cũng như nếu nó có một cái áo đẹp nó thích và cứ mặc mãi không chịu cởi ra giặt thì làm sao chiếc áo kia sạch mãi cho được, xác thân cũng vậy thôi phải năng tắm gội mới sạch sẽ, mới thơm tho đứng ngồi bên người khác mới không bị bịt mũi ngó nhìn hoặc xa lánh.

Trong bản thể con người thình thoảng cũng phải nhịn ăn để tẩy bớt những vật thực nặng nề. Có lần tôi đã nói bao tử của con người chẳng khác gì một cái nghĩa địa, tức là địa ngục vì nó nhốt đủ loại thú và đủ loại vật vào bao tử, nếu nó không thanh tẩy cái bao tử kia thì các loại thú nó ăn vào ngày nọ qua ngày kia, và nó cứ vác cái bụng toàn xác chết đi đây đi đó.

Nếu con người gồm thâu được đủ ba báu Tinh Khí Thần thì mới có thể có được luồng điển quang chuyển chạy và mới đủ sức giải đi cái nghiệp nợ máu mỗi khi ăn thịt các loại thú vào thân mình. Con người giải bớt được nghiệp ăn là tâm từ sẽ lớn dần. Được thế là con người sẽ bước từ từ vào cõi tịnh.

Cũng trải qua hằng hà sa số kiếp, nhiều vị đã xuyên qua làm chúng sanh để tu hành rồi trở về cõi Thái Cực. Từ Thái Cực tu nữa học nữa, hành nữa rồi tiến về ngôi Vô Cực. Ai cũng chỉ vậy mà thôi không có con đường nào khác để tiến lên cả. Kể cả Đức Phật Thích Ca lâm trần cũng phải vay Pháp, mượn Pháp, rồi trả Pháp mà tiến về ngôi vị Phật Thầy, Phật Tổ. Rất nhiều chư vị trong thời mạt pháp này đã từ cung trời 67 mang hạnh nguyện cứu thế kỳ ba mà đầu thai xuống trần để đưa loài người quả cầu 68 này sắp thuần dương tiến lên đời Thánh Đức Tân Dân.

Như đã trình bày ở chương viết về Đất, chúng tôi đã đưa ra sự liên hệ chặt chẽ giữa Trời Đất và Người cho nên cũng cần nhắc lại một chút để quý vị có thể tiện để theo dõi phần nói về con người. Nghe nói đến Ba Báu và Tinh Khí Thần thì ai cũng ham kể cả các hàng tu sĩ, cho nên có người đã bỏ vào rừng, hoặc ngồi lỳ trong cốc, 7 ngày, 49 ngày, có vị 100 ngày. Người ngoài đem thức ăn nước uống để mà luyện Tinh hóa Khí, luyện Khí hóa Thần, luyện Thần hoàn Hư. Luyện mãi cũng chẳng đi đến đâu, chẳng tới được ý muốn vì không thông hiểu được nguyên lý của Tinh Khí Thần. Nó tan loãng khắp châu thân, muốn gom tụ phải thanh lọc cho thông các huyệt, các mạch trước đã. Vì nếu trong cơ thể con người con tắc nghẽn làm sao Tinh Khí Thần có thể chuyển chạy được mà kết tụ lại về cái gọi là Tam Hoa Tụ Đảnh, hoặc giả để cho Anh Nhi Xá Lợi xuất hiện cũng như tạo Thánh Thai mà xuất tánh xuất hồn cho được.

Muốn đạt được những điều mong muốn con người phải đi từng bước một từ nhịn ăn để có một giải pháp an toàn quy tụ Tinh Khí và Thần, rồi còn thở bằng pháp lý Vô Vi để nuôi dưỡng Ngũ Ấm và bình Ngũ Ấm. Thì Thánh Thai mới thụ được, khi đã thụ thai rồi nó cũng phải đủ ngày giờ nó mới xuất ra được. Cho nên tu đến bậc là hàng tu sĩ lại càng phải cần chăm lo vun khí tựu thần thì mới mong có thánh thai mà xuất tánh được đến khi ấy là lý Âm Dương đã tròn, Tam Hoa đã Trụ Đảnh có khó gì mà không đục thủng cửa Trời hội nhập với Vũ Trụ (cửa trời là huyệt bách hội).

Con người vì vô minh nên không biết mình ở đâu, là ai, từ cõi nào tới cho nên không biết được người. Đã không biết mình là ai? Thì làm sao biết người khác là ai được. Đã không biết mình từ cõi nào tới đây cho nên mới bị cái màng u minh của thân tứ đại giả hợp che khuất không thể nào nhớ lại nguyên lai của mình. Cho nên để biết để hiểu con người cần phải quay trở vào trong tìm hiểu bản thể của mình. Bao nhiêu vị thầy, bao nhiêu vị minh sư cũng chỉ bảo con người có vậy thôi. Tìm vào bên trong, thông suốt bên trong rồi sẽ hiểu mọi cảnh sắc, mọi vật bên ngoài một cách “nhất lý thông vạn lý minh” là vậy.

Một người kiên nhẫn tu học, chịu chấp nhận ngồi thiền, thở, ăn chay chắc chắn sẽ tuần tự khai mở bản thể của họ nhờ ba báu Tinh Khí Thần đầy đủ là lúc họ sẽ mở toang ra cái gọi là lục thông:

Thiên Nhãn Thông: Sự thông này là do nhìn mà không nhìn, nhắm mắt mà thấy tất cả, bởi con mắt thứ ba, con mắt này nằm giữa hai chân mày. Nhờ Tinh Khí đầy mà sung phá làm cho huyệt thiên nhãn mở. Khi mở được Thiên Lý Nhãn con người có thể nhìn thấu các tầng trời, nhìn xuyên qua các tầng đất, nhìn thấy quá khứ tiền kiếp của mình và của người. Trời cũng thế khi quả cầu tròn đầy Tinh Khí Âm Dương, khí nóng của mặt Trời chiếu vào Trái Đất, Đất xông đồng nhất thể và nhìn thấu biết sự tiến hóa của nhau.

Nếu một trong ba, cụ thể là Người mà hết Tinh Khí chắc chắn là phải bỏ xác, còn người mà chịu nuôi Tinh Khí tu học để mở được Thiên Nhãn thì cũng bằng Trời Đất vậy. Vì khi mở Thiên Nhãn cũng giống như ánh nắng chiếu vào đám mây, mây tan thì ánh sáng sẽ chan hòa để như là Trời thấy được Người và Người thấy được Trời mới gọi là Thiên Nhãn Thông.

Thiên Nhĩ Thông: Khi một người tu học đạt được Thiên Nhĩ Thông tức là nghe được những vi âm cực nhỏ, cực thanh. Chỉ cần ngồi một chỗ mà nghe được những tiếng động phát ra từ vạn dặm. Đạt đến trình độ này là bởi người tu học đã đến mức toàn tri, toàn giác, không còn mê chấp việc đời, ở đời mà không nhiễm đời nữa. Vì sự nghe không còn làm rối động tinh thần, Thiên Nhĩ Thông cũng còn tàng ẩn những nhận biết mọi chuyển biến trong các cõi hư không tịch mịch. Chính cái biết này mà hàng tu học mới có thể giải được ý đồ đen tối trong tâm chúng sanh.

Tha Tâm Thông: Người đạt được Tha Tâm Thông là người đã mở được tâm từ, cũng như Phật mở Huệ Từ Bi. Người mở được Tha Tâm Thông thường có lòng quảng đại thấu hiểu mọi lẽ khổ đau trên quả đất này, cảm thông cùng trời đất, vạn vật, cảm thông mọi tầng giới. Biết nổi thống khổ đọa đày của nhân sinh, dốc một lòng muốn cứu khổ ban vui. Người đạt Tha Tâm Thông cũng biết những mưu định của ma để dùng cái phá mê, phá chấp bên ngoài của ma mà hàng phục chúng, giúp chúng sanh tiến lên quả vị lai Phật mai này.

Thần Túc Thông: Tâm thức hay thần thức của hàng tu học này đã đạt đến trình độ an nhiên tự tại. Đã có thể ngồi một chỗ mà chuyển xoay thế cuộc, thấy được những biến đổi trong Trời Đất. Người đạt đến Thần Túc Thông là người có thể dùng vi diệu pháp không còn nghiêng lệch nữa, mà là một sự cân bằng giống như mọi xoay chuyển của các cõi nhưng vũ trụ vẫn lặng lẽ bình yên. Người đạt Thần Túc Thông là người đã tròn chân ngã, biết được người biết được mình, và cũng không còn cần đến pháp nào của thế gian nữa. Người này đã biết dùng vô pháp để tỏa ra muôn pháp.

Trí Mạng Thông: Đạt đến Trí Mạng Thông là tròn chân ngã, thông suốt mọi lẽ vận hành của Càn Khôn, sự tịch diệt của Hư Vô. Sinh tử là thường hằng, không còn mê sống và sợ chết, đủ khả năng phá bỏ luôn nghiệp lực cho chúng sanh nếu chúng sanh tự thức muốn giải nghiệp. Người đạt đến Trí Mạng Thông là người cũng hiểu biết mọi nghiệp lực của chúng sanh và nghiệp của ai nấy trả, tuy nhiên người đạt đến Trí Mạng Thông đâu có bao giờ bỏ bổn phận của mình là cứu cánh cho nhân loại. Mặc tình cho thế sự đảo điên người Trí Mạng Thông an nhiên tự tại và bình an áp dụng vạn pháp quy tâm.

Lậu Tận Thông: Đạt được Lậu Tận Thông là đã nắm biết được ba cõi từ lúc có duyên khởi, duyên dụng và duyên diệt. Hàng tu học này đã viên mãn tròn đầy nên không còn phân biệt Âm Dương, Nam Nữ nữa. Người đạt Lậu Tận Thông tức là người đã có đủ lục thông, họ quán triệt hết các cõi bên ngoài, các cõi bên trong từ Trời Đất, cho đến con người và muôn vật, từ đây họ sẽ đem Lục Thông để đi Lục Độ cho chúng sanh.

Những người ở trần mà đạt đến lục thông là giống như đã thành ông Phật, điển quang bao trùm thân thể, giúp cho người đau hết bệnh. Những người này kể từ gần 100 năm nay đã xuất hiện nhiều ở Miền Nam Việt Nam để chuẩn bị cho cơ mạt pháp hạ màn và xây dựng đời Tân Dân Thánh Đức.

Phần trên là nói về những người trí thức tìm đường tu học để trở về căn bản gốc cội. Còn những người bình thường gọi là THẬT NGƯỜI tôi cũng xin đưa một vài tiêu chuẩn để quý vị tự xét mình đã ở vào trình độ nào trong cái gọi là Thần, Thánh, Tiên, Phật.

Khi quý vị đã dọn sạch sẽ bản thể, phần hồn trong sáng tinh khiết, quý vị có thể tự soi cho mình để biết mình ở vào giai tầng nào. Dĩ nhiên thân tâm trong sạch, tùy ý chí, lời nói, hành động thuần nhã từ tiêu chuẩn ấy quý vị có thể thấy được mình nhẹ hay nặng, trong sạch cao cả hay nhơ bẩn thấp hèn thì ta cần xét ta từ Hạ, Trung, Thượng. Nếu ta là người trong sạch thì ta cần có đức tính hiên ngang, trung thành, ngay thẳng với mọi người, bình đẳng với mọi vật, tinh thần trong sạch, tốt đẹp. Có lòng đại từ đại bi, thường bỏ qua những chuyện cũ của ngày hôm trước, việc đã qua không nhắc lại, xả thân cầu đạo, xả phú cầu bần, tha thứ mọi chuyện, cho nhà cho cửa, cho cơm cho áo, tất cả cho mọi người, một mình một ngựa thanh tịnh tu hành việc tốt xấu đã bước qua không bước trở lại, hoan hỷ bao la, thấu suốt ba cõi ta bà này là khổ, ra sức tận độ diệt khổ cho mọi người hưởng sướng đó là đã thực thi cái hạnh hành của Phật rồi đó.

Nếu trong tâm thức ta luôn hiền hòa, không lo nghĩ nhiều điều trái ngang ở thế gian, mở miệng nói ra như hoa quả ngọt ngào, dịu dàng hiền đức, đi đứng khoan thai ung dung trong khuôn thước lễ độ mà không cường điệu, lúc nào cũng chu toàn lời nói và việc làm, hứa đâu có đó, tha thứ nhân sinh, lòng rộng bao la, quảng đại từ bi, tâm không chấp trước nhược bẩn, thanh cao, tâm thường tỉnh giấc, coi mọi việc ở thế gian nhẹ tựa lông hồng. Đấy là ta đã có tâm quảng đại của một vị Tiên rồi đó.

Nếu trong ta có những đức tính của một vị chân Thần thì thường biểu tỏ tính tình hiên ngang, đối với người trên thì trung thành, đối với người dưới thì không ỷ mạnh hiếp yếu, chia sẻ miếng cơm manh áo, đùm bọc người bần hàn trong cơn đói lạnh, sống lúc nào cũng chứng tỏ nghĩa cử công bằng giúp đỡ kẻ khác. Đó là người sống ở đời mà giống như đã có Thần trong người.

Người hiền đức nói đâu có đó, nói sao làm vậy, hy sinh đại nghĩa sống chết đều không màng, dốc lòng hy sinh cho đại cuộc, nghĩa khí, đảm lược, cứu nước, cứu dân, anh hùng bất khuất, gian nan không sờn, oai phong lẫm liệt tỏa sáng hào quang người tốt đẹp, phương phi hùng dũng, thân xuất tướng hình, cốt cách phi phàm đó là những hình ảnh và tướng tốt tỏ lộ một vị Thánh nhân trong người. Người như thế có thể so được với hàng Thánh lâm trần rồi đó.

Những điều nêu trên cũng là những điều cần yếu cho một con người chuẩn bị sống làm dân ở đời Tân Dân Minh Đức. Những người như thế sẽ sống tại Đại Nam Quốc Độ một nước Thiên Đàng tại thế và cũng là một nước đứng đầu 18 nước chư bang nay mai tại Á Châu, cũng như dẫn đầu và làm gương cho thế giới sau này học sống đời đạo hạnh. Đó là Việt Nam của chúng sẽ chuyển biến vào những năm gần khi nhân loại bước sang kỷ nguyên mới.
VIỆT NAM NHIỀU CHUYỆN LẠKỂ TỪ NĂM 2012 ĐẾN 2021



Mọi dẫn giải ở các chương trên, mọi điều nói về vấn đề tu hành, học đạo để đi đến phần này. Để nói về một nước Việt Nam, về người Việt Nam khởi đi từ thế kỷ 21. Nước Việt Nam, người Việt Nam có đủ trình độ tương đồng với hàng Phật, Tiên, Thánh xuống thế lập đời.

Người Việt Nam này đã được tuyển chọn từ các hàng linh căn có công tu học của khắp các cõi Trời, trên Quả Địa Cầu này từ hàng ngàn vạn năm. Đến thế kỷ 21 là đã trải qua các màn sàng lạc, thanh tẩy, đã qua thời mạt pháp, đã xong ngày phán xét cuối cùng. Người Việt Nam nghiễm nhiên được chọn để đứng đầu thế giới mới, thế giới siêu văn minh, thế giới siêu khoa học, thế giới đại đồng, thế giới của toàn người hiền đức trong sạch tinh khiết, thế giới của những người đẹp tươi như loài hoa quý nhất của Đất Trời. Thế giới lúc đó sau năm 2021 thật sự là một Thiên Đàng Tại Thế.

Con người Việt Nam lúc ấy đem đạo trị đời, con Người hợp ý với Trời, với Đất. Bởi con người sống vào những năm sau này là những người có đủ lục thông. Đã khai mở bản thể để thường nhật thông công với Đất Trời. Do con người đã khai mở được lục thông nên con người biết hết mọi nơi mọi chỗ chỉ nhắm mắt không cần tìm cũng biết chỗ nào có mỏ báu, có vật quý. Khi nói về một người không học mà biết người ta sẽ cười cho rằng nói khoác, thật ra người tu ngồi yên lặng để thiền định tiến tới định thần, luyện thở để đem khí Tiên Thiên vào bản thể mở các huyệt mạch. Nhờ mở các huyệt mạch mới không cần học mà biết là vậy.

Đời khoa học kỹ thuật hiện nay là đời văn minh vật chất, các kỹ sư, bác sĩ, kiến trúc sư v.v… phải bỏ ra từ 4 đến 6 năm để đậu được mảnh bằng rồi mới đem tài năng học được kia ra phục vụ mọi người. Trên tinh thần của sách vở như ở Mỹ hiện nay những gì khi thực hành gặp khó khăn người ta đều phải tra cứu lại từ sách vở, để truy tìm mọi căn bệnh. Từ bệnh của người, đến bệnh của vật, cũng như bệnh của xe hơi, tàu thủy, máy bay, cứ theo sách mà chữa.

Mai này là đời sống văn minh siêu khoa học, đời sống được thực hiện bằng những người tu hành, thường là những người có khả năng thanh tịnh cao và nhờ mở được các Huyền Quang Khiếu cho nên tầm nhìn vừa xa vừa chính xác. Do đó không phải học bác sĩ mà chữa bệnh như thần vì nhìn rõ tất cả mọi bế tắc trong thân của người bệnh bằng Thiên Lý Nhãn. Cũng như một người không học kỹ sư mà lại có khả năng nhìn biết hết mọi hầm mỏ nằm dưới mặt đất, nên khi nhìn là thấy ngay và chỉ cho những người có nhiệm vụ đào lên là có những vật liệu cần dùng.

Một người không cần học về ngành kiến trúc nhưng lại vẽ những họa đồ, hay biểu đồ vĩ đại để dựng nhà dựng cầu đường một cách khoa học tinh vi. Cùng tất cả mọi ngành nghề người tu không cần học mà lại biết tất cả vì họ đã mở ra được một thức mới đó là thức thứ 8, do đó chỉ nhìn là biết và hiểu tất cả mọi ngành nghề và do vậy mà không cần học bác sĩ, kỹ sư, kiến trúc sư v.v… nữa vì con người sống ở đời Tân Dân Minh Đức là những con người siêu con người. Vì toàn là người đã tu nhiều kiếp, đã mở lục huệ, đã mở 7 luân xa trong bản thể, lại có một thần thức thứ 8 nữa đem ra áp dụng, phục vụ đời sống cho con người.

Sống ở thời kỳ Tân Dân con người không cần phải học như lối học bây giờ, lên lớp, lên cấp, không cần qua trung học, đại học mà chỉ cần từ 1 đến 3 năm ngồi học thiền là có đủ trí huệ và trí tuệ phục vụ đời. Ai ai cũng cùng có một trình độ tâm linh cao, ai ai cũng có một tình độ trí thức cao thì hiển nhiên đời sống lại càng thanh nhàn và sung sướng hơn hẳn ngàn lần đời sống văn minh vật chất hiện nay là chắc chắn rồi.

Trong đời sống điện tử hiện nay cái gì lại không lấy căn bản từ âm dương và nguồn năng lượng chính của văn minh là điện lực, từ điện lực mới khai thác sức đẩy, phóng, nâng cao, ấn xuống đều áp dụng bằng sức mạnh của điện lực mà thôi. Một mai đây loài người chỉ còn sử dụng Khí điều hợp được hai khí Âm và Dương trong vũ trụ là điều hành được tất cả những gì mình muốn một cách thật nhẹ nhàng và thàn công mà không tạo ra tiếng động, khí ô nhiễm v.v…

Có người đọc đến đây sẽ hỏi rằng làm thế nào để có một đời sống thiên đàng như vậy? Xin thưa ngay, từ nay cho đến trước năm 2020 là thế giới đã trải qua một cuộc biến thiên để thanh lọc và đổi đời. Việc này tôi đã cho biết trong cuốn Việt Nam Thất Sơn Thánh Địa xuất bản năm 1997 vừa qua, sách ấy nay đã hết. Dĩ nhiên muốn có một thế giới như thế là phải thanh lọc toàn thể từ các tầng, các cõi Trời, từ các tầng các cõi Đất, từ các tầng các cõi người. Đó là một công trình tiến hóa vĩ đại của Tam Thiên, Đại Thiên Thế Giới được tính toán và chuẩn bị kỹ càng từ lâu rồi. Đây không phải là chuyện của một con người cho nên chuyện đặt ra những câu hỏi dư thừa không cần phải trả lời.
THÁNH ĐỨC TÂN DÂN

Sẽ do các chư Phật ở cõi Trời 67 chiết thân xuống để xây dựng cho một thế hệ mới, gồm khắp cả thế giới. Tại sao Phật còn phải xuống, Phật là không bao giờ hết trầm luân. Nhưng sự trầm luân của Phật không phải như sự trầm luân của chúng sanh. Có nhiều hình thức để Phật đầu thai lâm trần:

1) Đầu thai ngay vào nam nữ khi giao cấu

2) Đầu thai bằng linh điển, trong khi một xác đau, hồn của xác xuất ra, linh điển trụ vào.

3) Dùng Linh điển chiếu vào một xác, gọi là đồng tử để giáng cơ, dạy đạo

4) Mượn tất cả xác, khi Long Hoa Đại Hội bế mạc

Chư Phật dùng phương tiện nào thuận tiện nhất, thì áp dụng ngay để độ đời.

Từ 70 năm nay, chư Phật lại đầu thai bằng cách ngự vào bào thai nhiều hơn. Từ ngày Đại Đạo Cao Đài giáng cơ mở đạo có hằng hà sa số các linh căn hạ trần, đầu thai để chờ dịp Thánh Đức Tân Dân chuẩn bị lập đời mới. Khi Đức Thượng Đế khai mở đạo tràng rồi cũng lại bế (đóng) đạo tràng. Có mở là có bế. Chính thế, không phải Ngài mới mở Đạo Cao Đài từ năm Bính Dần (1926) mà đã từ nguyên thủy. Nay kỳ Ba đến, thời kỳ của thế hệ mới nên Ngài dùng phương tiện chiếu điển giáng cơ để nhắc lại cho chúng sanh thấu hiểu mối đạo lành ngõ hầu khỏi sa vào đường ngạ quỷ, súc sanh mà thôi.

Ngài giáng cơ chỉ Pháp môn hành đạo chứ không chỉ đạo để thành Ngài. Vì không hành cũng không thành gì cả, khi chịu hành Pháp môn thì sẽ thành Ngài. Sở dĩ Ngài dạy mà Ngài không dạy để thành Ngài là ở chổ đó. Vì Ngài là chúng ta, cho nên có dạy để thành Ngài là không bao giờ thành cả. Nhưng con người tự dạy con người để thành Ngài thì được. Ngài không chỉ đạo, vì Ngài biết rằng đạo là giả tạm. Phi thường ở chổ không thấy, nhưng chịu thực hành mới là đạo. Khi con người muốn thấy bằng cách chiếu điển thì có hàng triệu người đã thấy. Nhưng cũng có hàng ức người chưa thấy, nên chưa tin. Bởi thế con người chờ thấy mới tin là đã quá trễ rồi.

Kỳ ba, tức là kỳ chót. Con người cũng biết mình là màn chót, nhưng lại không tin mình là màn chót, cứ thập thò trong buồng không chịu ra hát để khán giả mãi chờ đợi kép ra. Màn chót này. Để tạo cho mình một thế hệ mới, trong 5000 năm chứ không phải màn chót để tu rồi thành Phật. Đã là chiết thân của hằng hà sa số kiếp, việc gì phải cầu đến kiếp này mới thành. Đó là sự đầu thai ngay trong bụng mẹ. Nhưng cũng bởi vô minh, hiện tại còn hằng hà sa số người chưa tỉnh, thì sự bế đạo tràng kia đúng vào cái vô minh của con người vậy. Chính Thượng Đế cũng mượn xác loài người khi giáng cơ khai đạo và không riêng gì Đức Thượng Đế, mọi người đều đã mượn xác, đây là cách đầu thai làm con người. Chưa tính đến ngạ quỷ, súc sanh được hồng ân, chúng cũng mượn xác tất cả để diệu dụng thời gian tính của quả địa cầu mà thành đạo của chúng. Nhưng ai được là sẽ được, ai không được là chẳng khi nào được.

Tất cả là của chung biết hưởng sẽ được hưởng, khi không biết hưởng thì cầm ngọc cũng nói là đá. Trong hiện tại đá ngọc lẫn lộn, nhưng ít nhất cũng phải biết cái gì là đá, cái nào là ngọc. Chứ nói đá ngọc lẫn lộn thì chỉ còn xuẩn động. Chê đá không có giá trị nào? Ngọc có giá trị nhưng ngọc dùng ở chỗ nào? Đó là những điều cần biết ở trong sự hành động. Chứ mãi nói lý thuyết suông vàng thau lẫn lộn. Nói mà không biết mình thau hay vàng, lại tự đề cao mình là vàng, không dè chỉ là bùn, chứ không được là thau nữa. Sự chung đụng hàng ngày có kẻ nói tại anh chị không chịu tu. Nhưng không dè kẻ hỏi đó là kẻ chưa tu! Còn người không trả lời câu hỏi là người không tu nhưng đã hoàn thành rồi. Còn kẻ đặt câu hỏi kia chính là kẻ cần phải tu.

Trên thực tế, những người ở nơi bào thai của người nữ sinh ra, ai ai cũng bị vô minh che lấp. Sự vô minh của mọi người có tầng lớp thì đừng nên có trách Trời, trách Đất gần xa. Nếu khi xuống biết lựa vào gia đình nào đó để đầu thai thì cũng biết được cái vô minh tận của gia đình đó đến đâu. Đã biết trước mới lựa xuống, đã chấp nhận rồi thì đừng trách là tại sao tôi không được như người, bởi do nghiệp lực của mọi người mà có, cái nghiệp lực đó không gần cũng không xa. Miễn sao biết được nó thì màn vô minh cũng được xé liền. Có nhiều người đã nói ráng tu để trở về ngôi vị cũ. Nhưng họ không biết ngôi vị cũ đó ở đâu. Hiển nhiên là nơi họ đã chiết thân ra đi, ngôi vị cũ vẫn thường hằng. Còn chiết thân này cần phải hành mới trở về ngôi vị cũ được. Vậy sự thành hay hoại là do trong một kiếp này, không còn dịp may nào khác để thành ngôi vị cũ nữa cả.

Ba thời kỳ, nhất kỳ, nhị kỳ, tam kỳ đều ở trong sự cứu thế tất cả. Nhưng do vô minh không biết được sự cứu thế mới sanh tâm đi vào con đường Ma giáo. Đã biết mọi người đều là Phật, không hành để là Phật thì là Ma. Đó là bổn phận của kẻ từ trên đầu thai xuống bụng người nữ, nên phải ráng làm cho xong, cái không thành cái có rồi từ cái có trở về cái không. Chứ không phải chui ra rồi lo tạo cái có để khi về gánh theo. Sự nghiệp của con người là tạo cái có ở trần gian nên mới gắng đem theo để đi nơi khác mà trả.

Khi chưa cần gấp thì lại đầu thai vào bụng mẹ, để đủ thời gian tính mà gieo giống lành cho gia đình kia, vì không cơ hội nào dễ độ hơn là đầu thai ngay vào gia đình đó để độ, độ cho cả làng, cả xã, cả quận, cả tỉnh. Bằng lời nói, hành động từ khi lọt lòng mẹ, đến khi thành Phật có biết bao nhiều là việc độ. Một cử chỉ tốt để mọi người đều mến thương đó là sự độ. Do đó khi thành Phật mọi người đều nhớ lại hành vi của đứa trẻ kia, con người nhớ lại từ tiền kiếp, từ hơi thở từ lời nói rồi phá được cái mê cho mình và sự vô minh của kẻ khác. Đó là sự đầu thai để độ.

Còn một hình thức khác là khi cần trợ duyên cho một thế hệ, cũng có thể mượn ngay vào những xác sắp lìa trần để kịp trong dịp lập đời Thánh Đức. Bởi thế trong giai đoạn này rất nhiều người bị mượn xác nhưng nào ai biết được. Nay thì mình, mai cũng xác này nhưng tiếng nói đã lại khác, và hành động cũng khác hẳn, rồi không ai biết kẻ đó là ai. Bởi vì không biết được mình trước nên mới bị mượn xác này. Nếu cần biết mình có hiện tại, biết vợ mình, biết con mình, biết cha mẹ, thì sự biết đó sẽ khỏi bị mượn xác. Nếu bị mượn xác là tại con người chưa làm tròn nghĩa vụ của mình, nên mới bị mượn xác, nếu quyết tâm hành cho tròn thì chư Phật cũng không có lý do gì để mượn xác nữa.

Sau khi bị mượn xác thì linh hồn của người đó đi vào các cõi, để trả thêm quả đã gây nên, và cũng có thể là không đi nữa để mãi vơ vẩn vào cõi hạ tầng của hư không, chờ ngày phán xét chung. Khi mà khí Âm Dương hòa hợp nhau, các linh hồn này không đủ sức chịu đựng nên bị khí âm dương ép tiêu tan luôn, vì quá trình không tính được đường tu cho mình. Cũng bởi khi linh hồn còn tại thế hay là qua nhiều kiếp vô minh nên con người không biết mình để sống cho đúng là Người.

Khi Đại Hội Long Hoa bế mạc, là toàn thể tam cơ đều sàng sẩy rồi. Nhất kỳ, Nhị Kỳ, Tam kỳ. Tam kỳ là kỳ thứ ba là giai đoạn chót, con người rất cần sự tu hiền, nếu không sớm muộn cũng phải trả cái quả điêu tàn. Nếu vào giai đoạn chót con người thích ứng được với khí Âm Dương là sẽ đắc Kim Thân mới thoát qua khỏi cảnh Trời Đất u ám, con người lơ lơ, lẩn lẩn không quyết định được ý chí của mình, dù là hạng Bích Chi, Bồ Tát, Duyên Giác, kể cả các vị Phật mê cũng sẽ như kẻ mất hồn, bởi nhiễm trần quá nặng.

Khi âm dương hòa, Trời Đất đen tối. Mặt Trời, mặt Trăng đều hóa sanh ra các xạ để tiến hóa, thân xác nào chưa đắc Kim Thân sẽ được chư Phật mượn xác. Ngoại trừ các hạng Bích Chi, Duyên Giác và Bồ Tát tạm có thể không bị mượn nếu họ hành đúng như hạng bậc của họ. Còn hành giả thì sẽ tạm gọi là bị mượn xác như thường. Đủ 96 ức linh căn. Sự sinh tồn sẽ cao hơn. Mức sống quân bình vì xác đó nhưng hồn là của chư Bồ Tát, duyên giác Bích Chi và chư Phật. Nên dù có dốt đến đâu hay si mê cách nào đến lúc đó cũng đều sáng suốt. Vì đều là những phần hồn sáng suốt của chư vị giáng lâm. Những phần hồn bị trục xuất ra khỏi xác, đến lúc đó mới hiểu ra lý âm dương huyền diệu của Đại vũ trụ là dường nào. Khi chúng ta biết chuyển nó thì chính chúng ta cũng thay hồn đổi xác khi chúng ta thành thật tu hành. Kẻ tu hành chân chính không đợi đến lúc Đại Hội Long Hoa bế mạc mới thay hồn đổi xác, mà ngay khhi còn tại thế, biến thiên chưa đến đã biết tu để đắc thành Kim Thân chính là lúc thay hồn đổi xác một cách dễ dàng.

Sự chiếu điển để giảng dạy về dạo màu chính là vào dịp Hạ Ngươn và cũng chỉ một thời gian thôi, rồi các cơ đều bế (đóng lại). Vì Tiên Thiên điển cũng biết rằng Ma nó sẽ lợi dụng thời cơ để mượn cớ làm ván bắc cầu cho chúng kép hàng mê tín về với chúng. Nên cơ Tiên Thiên chỉ giáng một thời gian rồi lại bế ngay. Đến giai đoạn Thánh Đức, chính là giai đoạn này, cơ cũng chưa hẳn giáng mà cũng có cơ giáng để làm ván cho Thánh Đức. Có thể nói rằng sự tu trong đời Thánh Đức là do tâm. Do mọi lẽ công bằng xuất hiện, thì tâm mới bình. Nếu còn giai cấp trong con đường tu thì đó là đi ngoài căn bản của chân tánh. Con người có chân tánh là do sự bình đẳng mà ra. Nếu còn nghi ngại, chức cao quyền lớn trong đạo thì chân tánh chưa rồi. Bởi thế Ấn Tiên Thiên là Ấn của người đã đạt thành cái bình đẳng.

Phá được sự mê muội thì chân tánh xuất hiện, mọi thành công đã thành. Đó là con người trong đời Thánh Đức, nếu ai muốn lập đời Thánh Đức thì phải có năng lực Tự Tại Vô Ngại. Còn ỷ vào thần quyền, không bao giờ có kết quả gì cả. Tin tưởng nơi mình, đừng tin tưởng nơi nào khác, vì không tự tin nơi mình là con người chưa tiến hóa. Đừng thần tượng một kẻ nào, đừng ỷ lại vào thần quyền là đạo sẽ đến với người muốn giải thoát. Nếu vay mượn của người, của thần quyền là chính ta chỉ vay thêm nợ. Hãy lo dọn một con đường siêu thoát mà bước đường thứ nhất là tâm thanh tịnh, có thai tịnh rồi mới giải thoát cho muôn loại được. Đi từng bước một cho chắc, vì nếu chỉ mong mau thành Phật nhưng hành Pháp môn thì lại không hành thành thử hỏi làm sao thành Phật.

Thử hỏi con người tu mà không hành thì đã thật là con người chưa? Nhất định là chưa rồi. Cứ mãi tin mê vào sự mê tín, lạy cúng thì biết đến bao giờ mới biết được ta và người. Tự tin là tự tại, tự biết là vô quán ngại. Phật là chỉ tin nơi mình chứ không mượn được ai tin dùm mình. Có những pháp môn đốn giáo là phương tiện cho con người đi đến Thánh Tâm. Nếu chư vị rốt ráo thì mình sẽ tìm gặp được chính chân sư của mình. Phá được cái vọng là đã đi được 90 phần đường rồi, tự nhiên tu, tự nhiên đắc. Đừng dựa vào lý thuyết thần quyền để cho Ma mượn xác.

Như đã nói ở trên khi chư Phật, chư Tiên, Thánh có mượn xác là mượn hẳn, chứ không thể mượn theo lối hiện nay là ợ ợ, ngáp ngáp rồi xưng ông này bà nọ. Điều này rất tai hại cho đường tu. Nếu ỷ vào thần quyền thì thà là đừng tu nữa. Khi chư Phật, Tiên, Thánh mượn xác, thì cái xác kia sáng như mặt trời chứ không khi sáng khi tối. Cho biết rõ hơn, hiện tại có nhiều xác tự xưng là vị này vị nọ, chỉ là các đồng tử tạm mượn để nói đạo, hai là các Ma mượn để giáo đạo Ma. Chắc chắn rằng chư Tiên, Phật, Thánh mượn xác thì cái xác đó phải là Tiên Phật Thánh, không còn vọng động, không còn nhiễm trần nữa. Như thế nói là mượn xác hẳn. Còn ca, còn hát, còn kẹt giới thì chính là Ma mượn. Phá bỏ si mê những pháp đó mới thành quả vị Bồ Đề trong giai đoạn Thánh Đức này.

Thật cũng không có gì khó. Nếu thấy tâm trạng mình quá vọng, đòi hỏi quá đáng, mà trước kia chính mình không muốn, hay không bao giờ muốn, thì hay tẩy trược lưu thanh bằng cách cho nhịn ăn một thời gian thì Ma nào cũng phải chạy. Cha mẹ, vợ chồng kinh nghiệm việc này, là khi trong nhà có người có những biến chứng đó, nên cho nhịn ăn ngay, để Ma không ám ảnh kẻ trong gia đình. Ma nó rất lộng trong giai đoạn này nếu không thận trọng thì sẽ bị chúng kéo về với áp lực ủa khối âm.

Tu là do dọn quét cơ thể, dùng điển từ giúp mình và giúp kẻ khác. Đừng ỷ vào cái biết phàm đem ra dạy dỗ người như là cúng lạy, thiền định theo lối cây nhang, là những cây búa bổ vào óc người. Nếu cúng lạy, nhang đèn, hay thiền định mà mở tâm thì bao nhiêu người đã thành Phật cả rồi.
THIỀN ĐỊNH

Ai cũng tưởng rằng Thiền định là ngồi rồi quán tưởng cảnh giới chư Phật. Làm như thế là những điều có tể nói rằng bắt đầu đi dưỡng trí viện ở các bệnh viện thần kinh rồi đó. Thiền tức là xét lại những lỗi lầm của mình đã mắc phải khi đã lầm rồi nên thiền ngay cái lỗi lầm đó. Là kẻ si mê nên dùng pháp tưởng này. Đối với kẻ tỉnh hơn khi gặp phải sự xung đột thì thiền ngay đừng để sự việc xảy ra rồi mới thiền. Một hơi thở vừa qua, là thiền ngay xem hơi thở đó có được chánh không? Hay là cái ngó, cái nghe, cái ngửi, cái nói đều phải thiền tất cả. Để cái nghiệp si mê của mình, đó là sự thiền. Mỗi việc đều thiền, không phải chờ đến tối về mới ngồi thiền thì những lỗi lầm kia sẽ quên đi, nhưng lại tàng ẩn trong trí của chúng ta, sẽ khó giải mà nó còn sanh to lớn hơn.

Có người nói rằng: pháp đi, đứng, nằm, ngồi thiền quá cao, không thể những người thường hành được, thì phải hành pháp này pháp nọ. Nhưng thật ra con người nói đó còn ngu xuẩn hơn là chúng sanh. Vì việc lầm rồi không ăn năn, chờ tối mới ăn năn, hay chờ đến ngày Rằm mùng Một mới vô chùa sám hối, có phải chăng đã si mê đần độn chăng? Tại sao không sám hối ngay và đừng bao giờ phạm nữa mới là sám hối. Còn chờ đợi đến ngày hẹn mới sám hối, nghĩa là lạy để cho hết tội, thì ai cũng làm ra tội rồi để lạy cho hết.

Những điều si mê cần nên tự giải lấy, đừng để ai dẫn dắt chúng ta đi vào con đường tội lỗi đó nữa. Một phút qua là chúng ta đã gây ra hằng hà sa số tội. Nhưng không giải quyết ngay lại chờ 15 ngày sau hay 1 tháng sau thì làm sao còn nhớ được. Tự tại vô ngại là đừng sợ những cái lầm lỗi và cũng đừng sợ rằng mình không sửa được. Mọi việc đều làm được chính bởi sức mạnh của mình.

Sự tham thiền là phá cái vọng vừa qua, chứ không phải tham thiền để thành Phật. Khi con người thiền định là sửa ngay cái lỗi lầm của mình, tâm sẽ sáng lên đó là thành Phật. Sự thiền định có ích lợi là phá cái mê, phá cái bệnh. Khi phá được bệnh lý và bệnh căn thì người tỉnh táo, nhẹ nhàng, mặt mày phương phi mọi hành động sáng suốt. Tâm hồn như một đứa trẻ, quang minh, quảng đại là phá được cái vô minh rồi. Tham thiền là sửa các tật xấu của mình, như đã nói trên là đi, đứng, nằm, ngồi, ăn, uống, ngủ, thức đều tham thiền, khi vừa xảy ra một số hành vi tội lỗi nhỏ bé. Nhập định là khi sửa xong cái tội nhỏ bé kia tâm sẽ trở nên sáng suốt minh mẩn tri trí gọi là nhập định, vì nhập được là lý trí khôn ngoan, định là biết được chiều hướng đi vào cõi tịnh. Phá được cái si mê của mình là giới, phá được cái lỗi của min là định, nhập được là trí huệ. Con người thành Phật nhờ ở chổ biết mà ra. Nếu đã sửa được từ hơi thở, từ tiếng nghe mắt ngó chính là nhập định.

Nếu con người để trí chạy ra ngoài lời nói, lại chỉ cầu vọng những cái bên ngoài thì sẽ phân tâm, sự phân tâm này là nguyên nhân chính gây nên con người hư hỏng. Nếu một phút qua, việc sai vừa xảy ra mà không sửa được thì chưa phải là con người, vì nó đã nhập tâm cái xấu nên nó chỉ chất chứa hận thù. Phá được cái chất chứa kia, con Người thành Quả Vị. Nếu không phá được thì vạn kiếp cũng chưa phải là con người. Đừng bước thêm bước nữa, nếu đã thấy cái lỗi của mình, dù phút trước lầm lỗi không thấy, nhưng sau khi lầm lỗi đã thấy, thì đừng bước thêm bước nữa. Nếu còn dám bước thì chính là loài ngạ quỷ súc sinh.

Con người là không bao giờ làm mà không tri nguyên trước, họ làm ở chổ biết thấy trước, nên không bao giờ họ thất bại một việc gì, dù là đời hay đạo. Trái lại một người khác cũng là người nhưng tâm hồn ngạ quỷ, súc sinh quá tham vọng trong việc làm nên hoàn toàn thất bại. Như con đường tu chẳng hạn, khi họ đã khổ thì nhào vô đường tu, tu rút như là đổ bèo, rồi quỵ ngã, trầy da tróc vảy, rồi bỏ tu chạy ra đời tạo thêm nghiệp lực tiếp. Cũng có kẻ tu ôm mãi cái mê tín, dị đoan, không lìa các Pháp thì nó là cái tận cùng vô minh của người tu. Tu riết rồi rủ xương chứ không bao giờ phát ra được trí huệ. Chỉ ôm mãi cái biết của họ ngoài ra không cái nào hơn. Do vậy có người mê lầm đến nổi bảo thủ lập trường của họ không ai lay chuyển nổi. Tu cũng giống như một nhà khoa học phải tìm kiếm phải khám phá mãi mãi.

Con người tu cũng thế càng ngày, tu càng phải tiến hóa, nếu cứ khư khư bắt chước Đức Thích Ca mà ngồi gốc cây Bồ Đề thì cũng không ai có thể thành được trong giai đoạn Thánh Đức này. Nếu ai cũng ngồi gốc cây Bồ Đề thì ai là người dâng của cúng dường cho Phật nữa. Bởi thế đời Thánh Đức Phật phải đi cúng dường cho chúng sanh: Phật làm ra gạo, cất nhà cho chúng sanh ở, mọi ngành gì trong xã hội này Phật cũng phải làm ra hết để cúng dường cho chúng sanh hưởng, chứ Phật không nói nữa. Nếu còn nói là còn sai. Bởi thế Phật, Chúa sẽ làm, hằng hà sa số Phật và Chúa sẽ làm để cúng dường cho chư hành giả ở cả thế giới này hưởng những của cúng dường đó. Lấy trung tâm điểm là Việt Nam mà làm gương cho thế giới tương lai cho mọi người tu hành chân chính đó là Niết Bàn, là Thiêng Đàng tại thế vậy.

Niết Bàn hay Thiên Đàng là do Tứ vô lượng Tâm của con người mà ra, chứ không có trên chín tầng mây xanh. Mà là sẽ có ở dưới trần gian, nếu mọi người đều có 4 cái tâm kia thì Niết Bàn hay Thiên Đàng cũng chỉ ở đó mà thôi. Đừng tin ai hơn tin mình, đừng tìm Niết Bàn ở đâu hơn Niết Bàn của mình sáng lập.

Sau đây tôi xin đưa ra một vài ấn chứng về chuyện không học mà biết:
BỘ LẠC KOGI Ở NAM MỸ

Vào năm 1987 một chiếc trực thăng bay lạc vào một rặng núi cao vời vợi quanh năm sương mù bao phủ, nhờ vào một toán thám hiểm đi tìm trực thăng nên đã có cơ duyên khám phá ra một giống dân có tên là KOGI đã có mặt trên quả địa cầu khoảng 8 ngàn năm về trước. Một điều kỳ diệu là hàng ngàn năm qua bộ lạc này hiện hữu trên mặt địa cầu mà mãi đến năm 1987 mới có thể khám phá ra???? Sau đây là một vài nét đặc thù của Bộ Lạc KOGI làm cả thế giới kinh ngạc:

Họ không bao giờ giao tiếp với thế giới bên ngoài

Ăn chay trường suốt cả cuộc đời và có đời sống rất lâu, ít nhất cũng cả trăm tuổi thọ, họ dùng lá cây làm y dược, ít bệnh tật và rất khỏe mạnh.

Dù không có phương tiện liên tạc tối tân như thế giới bên ngoài, nhưng họ lại có khả năng thấy hết những gì xảy ra quanh thế giới.

Tất cả những thanh niên trẻ đến tuổi 18 là phải vào các hang động quay mặt vào vách đá, suy nghiệm các diễn biến của bản thể và của vũ trụ. Những thanh niên này dĩ nhiên được các bậc trưởng lão theo dõi và hướng dẫn. Cho đến 29 tuổi mới được ra khỏi hang động và có quyền lấy vợ.

Những bậc trưởng lão cũng như những thanh niên diện bích kia hiển nhiên là có khả năng lục thông cho nên họ giao tiếp với thế giới Hư Không một cách bình thường và liên tục. Họ tự nhận là Thế Hệ Đàn Anh Tâm Linh, còn loài người chúng ta là Thế Hệ Đàn Em. Vào năm 1993, họ cho là ngày giờ đã điểm nên cho một nhóm phái viên của đài BBC được phép đặt chân vòa nơi ở của Bộ Lạc KOGI với điều kiện đài BBC phải chuyển một THÔNG ĐIỆP CUỐI CÙNG cho cả nhân loại nhân ngày ĐỊA HỘI LIÊN TÔN của thế giới họp tại CHICAGO. Bộ lạc này không có tôn thờ một tôn giáo nào, họ chỉ nhận duy nhất có CHA TRỜI, MẸ ĐẤT. Họ nhìn nhận trái đất là MẸ. Theo họ cho biết thì ngày giờ đã điểm nên họ cho phép phái viên đài BBC được tiếp xúc với họ qua thông điệp gửi tới nhân loại để được phổ biến tại Đại Hội Liên Tôn Tôn Giáo Thế Giới có đoạn như sau:

“Hỡi đàn em yêu dấu! Các em bảo văn minh cái gì? Tiến bộ cái gì?! Các em đã hủy hoại trái đất, ô nhiễm khí quyển, đào bới mồ mả Tổ Tiên mà chẳng biết hậu quả khôn lường. MẸ chúng TA đau đớn vô kể vì sự tham vọng tàn bạo điên cuồng của các em; chỉ có mỗi một con đường là MẸ sẽ chết để rửa tội cho các em, đó là ngày TẬN DIỆT của NHÂN LOẠI trong sớm tối, nguy lắm rồi, nên ĐÀN ANH cấp thiết báo cho các em: MAU MAU TỈNH NGỘ, ĂN CHAY, SÁM HỐI, ĐỀN TỘI LỖI CỦA CÁC EM đã làm nát lòng MẸ chính là quả địa cầu của chúng ta. Lời cảnh tỉnh này cũng là lần đầu. Mà cũng là lần cuối!!! (Trích Thông Điệp của những người anh Tâm Linh)
CON TÀU TITANIC

Nhà văn Morgan Robertson viết một câu chuyện về một chiếc tàu thủy có tên là Titan chiếc tàu được gọi là “Một tòa lâu đài nổi không thể chìm”, chiếc tàu du lịch khổng lồ sang trọng nhất trong lịch sử hàng hải. Chiếc tàu hạ thủy với một nghi lễ vĩ đại chưa từng có và bắt đầu chuyến hải hành đầu tiền và duy nhất chở theo hơn một ngàn nhân vật giàu có, lừng danh sang trọng… nhưng chiếc tàu đã chạm vào một khối băng sơn và chìm sâu vào lòng biển.

Câu chuyện giả tưởng ấy đã đi vào và quên lãng nhưng mười bốn năm sau đã gây kinh hoàng cho cả thế giới vì một chiếc tàu có tên là Titanic vừa mới hoàn thành và hạ thủy chở theo 1.512 hành khách sang trọng, toàn bộ chiếc tàu Titanic cũng đúng như kích thước, chiều cao, chiều dài, chiều rộng như nhà văn Morgan Robertson đã mô tả 14 năm trước đó. Chỉ khác có một tí là con tau thật bị đắm có thêm hai chữ ic. Sự kiện trùng hợp của câu chuyện mà nhà văn Robertson mô tả với con tàu đồ sộ mệnh danh là “tòa lâu đài nổi không bao giờ chìm” đã chìm vào ngày 14 tháng 4 năm 1912.

Cùng với những sự kiện trùng hợp trên nhà báo nổi tiếng của Mỹ là T.Stead (một ký giả nổi danh thời bấy giờ) cũng viết một truyện ngắn kể về một chuyến hải hành của con tàu có tên là Titanic. Theo câu chuyện thì chiếc tàu này cũng bị đụng vào khối băng sơn chìm xuống đáy biển. Mặc dù ký giả T.Stead đã viết một chuyện đắm tàu khủng khiếp như thế, câu chuyện đã 20 năm cũ nhưng cho đến năm 1912, khi chiếc tàu thủy du lịch vĩ đại nhất lúc bấy giờ hạ thủy và khởi hành cũng có tên thật sự là Titanic, cũng đồ sộ và mệnh danh là “tòa lâu đài nổi không bao giờ chìm” và đặc biệt là cũng có mặt ký giả T.Stead trên con tàu ấy và dĩ nhiên ký giả T.Stead cùng chiếc tàu và 1.511 người khác nằm sâu mãi trong lòng biển. Câu chuyện này cho đến cuối thế kỷ 20, hai hãng điện ảnh của Hollywood đã chung vốn thực hiện và mọi người đã được coi vào dịp đầu năm 1998 (minh chứng cho việc thấy trước của con người)
NGƯỜI MỞ LUÂN XA SỐ 5

Tại huyện Tứ Kỳ tỉnh Hải Dương Việt Nam có một người tên là Nguyễn Văn Liên đã có một khả năng đặc biệt là nhìn xa hàng ngàn cây số. Ông có khả năng nhìn tìm ra những nơi chôn người đã chết hàng ngàn năm và hàng ngàn cây số xa.

Với những người tu học thì hiểu là ông đã mở được luân xa 5 có nghĩa là Tiên Nhãn Thông, cho nên ông chỉ ngồi một chỗ mà nhìn thấu biết những chỗ mình muốn biết, muốn tìm. Khả năng này rồi đây nhiều người sẽ có để thích ứng với đời sống của thế kỷ 21.

Nhưng những nhà khoa học và nghiên cứu ở Hà Nội lại gọi là “nhà ngoại cảm” (biết cái ở bên ngoài) tên của các báo Sài Gòn đặt cho và báo Người Việt ở Orange theo đó mà loan tin. Căn cứ vào số báo 4.318 ra ngày thứ sáu 5-12-1997 đã loan tin như dưới đây:

… “Xin đăng tiếp những tin tức mới về “nhà ngoại cảm” Nguyễn Văn Liên đang giúp dân chúng miền Bắc Việt Nam tìm hài cốt của các binh sĩ Bắc Việt bị hy sinh khi Cộng Sản xâm chiếm miền Nam cũng như khi đánh nhau ở biên giới Hoa Việt”.

Phóng viên báo Thanh Niên ở Sài Gòn đã tìm kiếm thêm nguyên nhân vì sao ông Liên có khả năng tìm mộ ở xa hàng ngàn cây số như vậy. Khảo sát một số hiện tượng ngoại cảm thời gian qua trên thế giới, các nhà khoa học thường nhắc đến những “hoàn cảnh” đặc biệt đã làm nảy sinh ra các khả năng phi thường ở một số người.

Ví như trước đó các nhà ngoại cảm này chỉ là những người con bình thường như hàng ngàn con người khác xung quanh họ. Nhưng sau một số tai biến “định mệnh”, như bị sét đánh, hoặc rơi từ trên cao xuống, hoặc phải trải qua một căn bệnh hiểm nghèo vô phương cứu chữa… những con người này chợt phát hiện thấy mình có những khả năng khác thường như một bậc “siêu nhiên”. Và đấy chính là hoàn cảnh ra đời của không ít các nhà ngoại cảm có tên tuổi trên thế giới.

Nhà ngoại cảm Nguyễn Văn Liên ở Hải Dương cũng có một hoàn cảnh “xuất xứ” khá đặc biệt. Về đời tư cách đây 6 năm, ông Liên là một thanh niên nông thôn bình dị, chất phác, tính tình xuề xòa, dễ chịu. Cách đây hơn chục năm, ông Liên đã trải qua một vụ “thập tử nhất sinh” khi bị đau ruột thừa. Khi tiến hành phẩu thuật, các bác sĩ thấy chỗ ruột thừa bị vỡ của ông đã được bao bọc lại bởi một khối mỡ. Đây là một trường hợp hy hữu, bởi đau ruột thừa cấp tính, nếu không được mổ kịp thời trong vòng 3 giờ, người bệnh sẽ chết. Nhưng ông Liên vỡ ruột thừa “dai dẳng” đến 10 ngày mà vẫn khỏi, đây là cả một hiện tượng “độc nhất vô nhị” trong y học Việt Nam từ trước đến nay?

Các nhà phẫu thuật cho rằng chính khối mỡ bao bọc chỗ ruột thừa vỡ ra đã “cứu sống” ông Liên, còn việc khối mỡ ấy hình thanh do một “cơ chế” kỳ bí khó biết nào đó thì phải chăng chỉ có khả năng ngoại cảm xuất hiện sau này của ông Liên mới cắt nghĩa hết? Sau tai họa ruột thừa nói trên, ông Liên bệnh liên miên kéo dài hơn một năm rưỡi, có lúc tưởng chừng đã “thở hắt ra”. Nhưng rồi một năng lực phi thường nào đó đã giúp ông vượt qua “bạo bệnh”. Phải chăng sau đó, khả năng ngoại cảm đặc biệt xuất hiện?

Khi phát giác ra khả năng đặc biệt của mình, theo kiểu tự phát, ông Liên chỉ giúp đỡ mọi người chung quanh vùng ông cư trú ở Tứ Kỳ Hải Dương. Đã có thời gian, chính quyền địa phương nơi ông ở đã ngăn cản cấm không cho ông dùng khả năng đặc biệt của mình để giúp đỡ người khác. Được biết cho tới nay, ông Nguyễn Văn Liên chưa đi đến một địa phương nào khác ngoài tỉnh Hải Dương quê ông và thành phố Hà Nội là nơi ông đang tham gia chương trình trắc nghiệm nói trên. Nhưng ông có thể mô tả địa hình, địa danh ở các địa phương xa xôi (kể cả tên gọi địa danh ngày xưa của vùng đất đó) một cách khá chính xác.
TÌM THẤY DI HÀI CỦA MỘT BÀ HOÀNG PHI

Theo Trung tâm khoa học ứng dụng (UIA) cho biết, ông Liên có thể lập gia phả hàng mấy chục đời là một chuyện bình thường. Ngôi mộ lâu đời nhất mà ông Liên đã hướng dẫn tìm thấy có niên đại cách đây hơn 1000 năm. Đây là ngôi mộ cổ của dòng họ đã bị thất lạc lâu đời ở Hải Dương. Ngôi mộ này của một Bà Hoàng Phi mà khi tìm thấy đã phải huy động tới trên năm chục người khiêng vác. Di hài của bà Hoàng Phi được mai táng trong gỗ trầm và được ướp tẩm theo kiểu xác ướp của người Trung Quốc, trong một lớp keo mật đặc biệt, được xay giã công phu trộn với các loại hương liệu theo một công thức bí mật. Việc tìm thấy ngôi mộ cổ này diễn ra trước khi tiến hành cuộc trắc nghiệm của các cơ quan khoa học nên được coi như một tài liệu tham khảo cần thiết.

Kết quả trắc nghiệm

Trong việc hướng dẫn tìm mộ của Trung tá tình báo Lý Văn Tố, ông Liên chưa bao giờ tới Huế, nhưng tấm sơ đồ ông vẽ có những địa danh A Sao, A Lưới, Hương Trà v.v… với những chỉ dẫn chi tiết, cụ thể đã làm kinh ngạc không ít những người sống ở địa phương đó. Theo xác định bằng phương pháp thống kê khoa học, trong việc hướng dẫn tìm di hài Lý Văn Tố, ông liên đã đưa ra 52 thông tin ban đầu, và có tới 36 thông tin đúng hoặc gần đúng (70%), 1 thông tin sai (2%). Cho đến thời điểm này, chương trình trắc nghiệm tìm mộ liệt sĩ thất lạc bằng khả năng đặc biệt của ông Nguyễn Văn Liên đã tiến hành được 3 tháng tại Trung Tâm UIA Hà Nội và các nhà khoa học dự định sẽ tổ chức một hội nghị về chương trình này vào cuối tháng 12 năm 1997.

Hiện số mộ tìm được trong chương trình trắc nghiệm này khá nhiều. Nhưng chỉ mới có 20% kết quả được bảo vệ, và chương trình trắc nghiệm đang tổ chức thu nhặt kết quả việc tìm mộ theo hướng dẫn của ông Liên ở các địa phương. Để xác định xác suất độ tin cậy của các thông tin hướng dẫn mà ông Liên đưa ra.

Nhà nước CSVN sẽ dành một khoản chi phí cho chương trình này; trước mắt kinh phí triển khai công việc chủ yếu là do UIA tài trợ cùng với viện khoa học Hình Sự, Bộ Nội Vụ. Nhưng do vốn chi phí có hạn, nên rất khó tổ chức được các chuyến vào Nam và các tỉnh xa xôi để khảo sát kết quả. Vì chỉ mới 100 trường hợp mộ đã tìm thấy bước đầu, nếu tổ chức đi thu thập thông tin thực địa với các loại máy móc cần thiết thì phải cần tới số tiền khoảng 600-700 triệu đồng.

Một giải pháp được đưa ra không tốn kém của nhà nước, đó là tìm một số gia đình có thân nhân liệt sĩ quy tụ tại Hà Nội (nơi ông Liên đang thực hiện cuộc trắc nghiệm) rồi lại mời ông Liên gặp. Họ sẽ ra đề nghị tìm mộ người thân của họ. Nếu ông Liên nói chính xác thì quả có sự kỳ diệu thực sự. Còn không cần xét lại hiện trường trên.

Một vài ấn chứng tôi đưa ra ở phần trên và miễn bình luận. Với khả năng và trí tuệ của từng vị chúng tôi tin tưởng rằng sẽ có vị nhận biết ra con đường tu học. Đương nhiên chỉ có con đường tu học mới khai mở được bản thể từ đó hiểu biết tất cả những gì đã viết trong cuốn sách này.

Với năm chương sách vừa qua tất cả mọi liên hệ giữa Trời, Phật, Đất và Người như một sợi dây vô hình liên kết chặt chẽ với nhau, Trời không lìa Đất, Đất không xa Người, và cứu thế luân chuyển trong vòng chuyển luân của Phật Trời Đất Người. Có viết mãi cũng chỉ luẩn quẩn mà thôi nếu như con Người không chịu thực hành các Pháp đã có ở thế gian. Tất cả còn tùy duyên lành của chư vị. Chúng tôi luôn cầu chúc tất cả mọi người ở thế gian này sớm đắc thành quả vị để sống đời Tân Dân Thánh Đức.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét