Thứ Năm, 4 tháng 3, 2021
PHẬT TRỜI ĐẤT NGƯỜI (P4): ĐẤT
PHẬT TRỜI ĐẤT NGƯỜI (P4): ĐẤT
Kiều Nguyên Tá
Trước khi viết chương sách này, tôi đã giành cả một tuần lễ chay tịnh, dọn mình tinh khiết. Sáng nay thức dậy những ý tưởng về Đất hiện lên tràn ngập trong trong trí óc tôi. Sau khi tắm gội sạch sẽ, pha một ấm trà dâng lên Mẹ Đất một chén với tâm thành. Chén trà với hương thơm ngào ngạt, tỏa bay lan như khói như sương, ban mai một ngày của mùa xuân đẹp nhất trong đời. Tôi khấn nguyện trong thầm lặng thanh tịnh, lòng tôi êm ả, ấm áp lạ thường và tôi bắt đầu viết chương sách về Đất, đối với tôi Đất là Mẹ, Đất là tất cả….
Đất đã cho ta sự sống đời đời, Đất đã cho ta vật thực, cho cây to bóng mát che nắng, che mưa, Đất cho những thảm cỏ mềm mại ta ngồi mỗi khi đi xa mệt mỏi. Đất cho ta gạo ngon cơm ngọt, Đất cho ta cây trái rau đậu. Đất dung dưỡng muôn vật để con người chúng ta hưởng thụ, cho hoa thơm ta ngắm nhìn. Đất cho ta sông biển mát mẻ ta tắm ta bơi, Đất cho ta cá ngon tôm lạ, Đất cho ta nối liền mạch sống từ làng này sang xã kia, Đất cho ta nối liền nước này với nước khác, Đất cho ta mảnh đất cất nhà để ở, Đất cho ta đình cao, chùa rộng, Đất cho ta ngọc ngà quí báu, Đất cho ta vàng bạc, kim cương, Đất cho ta vải mặc chống nắng, chống rét. Đất cho ta cảnh lạ núi đồi ta nhìn ta ngắm ta xem, cái gì lại không từ Đất lấy lên để tạo những sản phẩm tuyệt vời, đời này qua đời khác mãi mãi và mãi mãi.
Đất gánh chịu tất cả khổ đau, Đất quằn quại chống đỡ cả 6 tỷ người, Đất cung cấp tất cả mọi sự cho cuộc sống con người. Đất cung cấp tất cả mọi nguyên vật liệu để thỏa mãn dục vọng con người đời này sang đời khác tiến hóa đi lên. Đất chịu đựng, nhẫn nại chịu đựng những đòi hỏi và mọi khát vọng của con người cùng vạn vật. Đất còn nhận chịu những xác thân rã nát thối ình khi con người ta chết đi trả về cho Đất, cả những thứ rác rưởi hàng ngày con người thải ra cũng đều do Đất gánh chịu cất giữ.
Hàng ngày có cả triệu triệu lượt những chiếc tàu lớn xe to với trọng tải cả trăm ngàn tấn, mười tám tấn, đến các xe nhỏ lăn chạy rầm rầm trên đất. Đất đón nhận những chiếc đinh bằng gỗ, bằng sắt, bằng xi măng to lớn, nặng hàng tấn đóng xuống để xây dựng cầu đường, nhà máy, nhà ở, nhà làm việc. Đất gánh chịu mọi hậu quả, mọi nhu cầu do sự đòi hỏi phát triển của con người. Đất chứa những kho bom kho đạn của con ngời dùng để giết con người. Đất được người đào xới để tìm lấy nguyên liệu, vật liệu chế tạo xe tăng, xe hơi, tàu chiến tàu ngầm, máy bay chuyển chở con người từ nước này sang nước kia.
Đất nhận chịu tất cả sự thải hồi những cặn bã dơ bẩn nguy hiểm nhất, Đất được người ta đâm sâu, đóng chặt. Ôi tất cả mọi khổ đau, mọi nát tan, mọi băm vằm, mổ xẻ của con người Đất vẫn nhẫn nhục chịu đựng đời đời kiếp kiếp. Đất chẳng bao giờ thở than, chẳng bao giờ trách móc. Đất vẫn như điếc, như câm, nín bặt, im dìm. Có ai thấu hiểu nỗi cho nỗi lòng của Đất. Có ai biết rỏ một giọt lệ, có ai biết thở than lo lắng cho Đất, có ai và có ai hiểu cho Đất không?
Người ta khi đi du lịch, ngắm những thắng cảnh thiên nhiên bao la hùng vĩ, tươi đẹp chỉ để thỏa mãn sau những tháng ngày làm việc, thường ai cũng vậy thôi. Những lần ngồi trên máy bay khi sắp đáp xuống phi trường, nhìn những con đường thẳng tắp, những tòa nhà cao đẹp chọc trời, những chiếc xe hơi xinh nhỏ vun vút lao chạy, và nhiều hoạt động khác tạo nên vẻ đẹp như bức tranh sinh động của một họa sĩ tài tình nào đó chắc chắn người ta không nghĩ đến công ơn của Đất đã chứa đựng tất cả những cảnh và vẻ đẹp đó.
Trở về đề tài chính chương này bây giờ tôi xin nói đôi điều về sự khởi đầu của Đất.
Từ thuở hồng mông, Trời Đất mới chỉ có một bầu không khí mù mịt đen huyền, rồi từ bầu khí hỗn nguyên đó chuyển xoay, xoay chuyển mãi mới lọc lừa rồi nảy sinh ra khí sáng hơn mà đến nay người ta đặt tên là Thái Cực. Lại từ Thái Cực chuyển xoay, chuyển xoay mãi để rồi tiến hóa nảy sinh ra cái mà sau này người ta đặt tên là Lưỡng Nghi. Từ Lưỡng Nghi người ta bắt đầu có khái niệm về Trời và Đất để khẩu truyền cho đến mãi về sau này con người mới biết sáng tạo ra tiếng nói cùng chữ để lại văn tự cho những đời sau.
Từ Thái Cực sinh Lưỡng Nghi tức là có Âm có Dương là hai khí Nguyên Âm, Nguyên Dương. Rồi lại chuyển xoay tiến mãi để có khí Nguyên Dương thật nhẹ, thật sáng, nhẹ làm TRỜI, như chúng ta thường gọi bây giờ nào là Cha, là Trời, là Phật, là Chúa, là Thượng Đế v.v… thì cũng vậy thôi. Nguyên khí nhẹ TRỜI (làm Trời sáng, trắng).
Khí Nguyên Âm cũng không ngoài luật chuyển xoay tinh luyện để rồi biến hóa ra khí Nguyên Âm. Khí Nguyên Âm vẫn có phần không hình không tướng để con người không thể thấy biết được. Từ khí Nguyên Âm mới lọc lựa ra để có phần đông đặc đó là Âm, Âm này nặng cho nên làm Đất. Nguyên Khí nặng Âm (làm Đất tối, đen).
Khi có hai Nguyên Khí là đã phân ra có Đất có Trời không còn mù mịt như thuở ban đầu nữa. Nhẹ làm Trời, Nặng làm Đất. Người Việt Nam khi chưa có Đạo Phật, Đạo Chúa thường gọi là CHA TRỜI, MẸ ĐẤT. Đất là Âm, Trời là Dương. Âm Dương quấn quít khăng khít nhau, tình tứ nhau không bao giờ rời xa mới sinh ra muôn loài vạn vật: mặt Trời, mặt Trăng, Tinh Tú là ba ánh sáng bao trùm khắp Càn Khôn Vũ Trụ do ba ánh sáng Nhật, Nguyệt, Tinh rồi tỏa ra tứ phương tám hướng, nào là Đông, Tây, Nam, Bắc, Đông Nam, Đông Bắc, Tây Nam, Tây Bắc, tám hướng bao trùm mới gọi là Trời vậy. Còn Đất nắm vai trò trung tâm của Càn Khôn Vũ Trụ còn gọi là Trung Ương Mồ Kỷ chính là quả Địa Cầu có loài người sinh sống này. Cho nên người hiểu đạo nghĩ về Âm về Đất đã kính cẩn phương danh Đất là MẪU MẸ.
Ta cũng hiểu có Cha Trời Mẹ Đất mới có con là Người. Cho nên Tam Tài là vậy, Trời Đất Người cứ quấn quyện lấy nhau để tồn tại và tiến hóa đời đời. Không có Người thì không có Trời Đất, không có Trời Đất thì đâu cần có Người làm gì. Bỏ một trong ba thì ra trống rỗng hết, vô nghĩa và miễn phải bàn luận.
Con người từ Trời Đất mà ra nếu con Người ra đi để học hỏi tiến hóa, biết thức tâm tìm đường quay trở về nguồn cội là những con Người biết thức tâm để biết mình là ai, từ đâu tới, sẽ đi về đâu? Con người lại tìm biết Cha thật của mình là ai, từ đâu tới, sẽ đi về đâu? Con người lại tìm biết Cha thật của mình là ai, Mẹ thật của mình là gì? Con người đó phải tu để trở về nơi nó đã ra đi đằng đẵng từ muôn tỷ kiếp.
Con người ra đi mà quên cả gốc nguồn cho nên lao đầu vào việc truy tìm văn minh vật chất, khoa học kỹ thuật, tạo nhiều vật tín cặn bã tung vào khí quyển, chôn vùi chất độc vào lòng đất là những con Người mê muội tăm tối và tư tưởng chỉ còn biết đến duy vật, duy nhân thì con Người đó đắm chìm rồi chìm đắm mãi vào danh vọng, vào dục vọng tình ái, vào vật chất hoa mỹ phỉnh gạt, con Người đó có ngồi trên xe Roll Roy, Mercedes, Cadilac v.v… thì rất tất cả cũng tan rã vùi chôn vào lòng đất đen tối tức địa ngục mà thôi.
Còn nói về Thái Cực, về Lưỡng Nghi, về Tứ Phương Tám Hướng, về Ngũ Hành Sinh Khắc, về Âm Dương, về Càn Khôn Vũ Trụ hay đến thế nào đi chăng nữa cũng chỉ là để nhắc nhở để con Người có phương tiện tìm về bờ bến cũ tuyệt vời cao đẹp của chính mình. Có cắt nghĩa có giải thích tài tình đến đâu, dù cho là Ông Trời, Ông Phật, Ông chúa, dù cho là Mẹ Quan Âm, Mẹ Diêu Trì, Mẹ Maria, có muốn mang con mình về cõi Thiên Đàng, cõi Niết Bàn, cõi Giải Thoát đi chăng nữa cũng không được. Vì những đứa con kia cứ ngoan cố, cứ ham mê của cải vật chất ở trần gian và nó không chịu thức tỉnh tìm đường trở về. Nó tưởng ở thế giới, ở Địa Cầu này là thật và nó quên nó là Trời, là Đất, là Người thì nó cứ đi và đi xa mãi Chân Lý thôi.
Bằng những câu hỏi tương đối, bằng những lối suy tư đúng đắn, chúng ta có quyền đặt những câu hỏi để truy nguyên ra nguồn gốc cũng như lai lịch của vũ trụ để hiểu biết với tầm vừa phải mà thôi. Nếu cứ tận cùng hỏi mãi thì khó có ai đủ khả năng để trả lời cho chúng ta thỏa mãn, và nếu cứ dồn hỏi tới, tới mãi tận cùng thì chẳng hóa ra chúng ta trở thành kẻ điên loạn mà không hay.
QUẢ ĐỊA CẦU CHÚNG TA
Liệt vào hàng số 68 như đã nêu ở trên, khi quả cầu chúng ta Thuần Dương thì Hệ Thống Thái Dương Hệ sẽ có 108 Hệ. Nay mới chỉ có 107 Hệ Thống Thuần Dương mà thôi. Mỗi Hệ Thuần Dương có 1.062 quả địa cầu. Để biết con số trái đất đã Thuần Dương chúng ta nhân lên, sẽ thấy một con số khổng lồ ở đó sự luân hồi của chúng ta đã trải qua. Kiếp này ta biết được con số đó quả là đã trầy da tróc vẩy với bao thăng trầm đau khổ của muôn vạn kiếp làm người. Nay hiểu ra nhìn lại chặng đường đã đi qua những kẻ đạt đạo chỉ biết cúi mặt xuống nhìn Đấng Cha Trời khóc nức nở cho thân phận lưu đày trùng trùng điệp điệp kiếp luân hồi ra đi và ra đi mãi (chứ không phải 23 năm lưu đày từ Việt Nam qua Mỹ đâu). Cho nên những người đạt đạo cứ muốn gào thét, cứ muốn hét lớn để anh em mình những người cùng Cha cùng Mẹ (Cha Trời Mẹ Đất) thức tỉnh mà quay ngược đầu tìm về nẻo chính, nẻo chính đây là từ một Đấng Tạo Hóa sinh ra tất cả. Chúng ta phải trở về tức là phải ngược đường mới thấy ánh sáng của Chân Lý. Còn thuận đời tức là đi luôn, đi mù đui, đi không có ngày trở lại, đó là đi vào địa ngục (tiền, tình, danh, lợi).
Theo quy luật tuần hoàn của các Hệ Thống Thái Dương Hệ, quả Địa Cầu chúng ta sẽ đúng tuổi để Thuần Dương vào năm 2000 hoặc xê dịch vài ba năm. Dịp này trái đất và con người sẽ thay đổi gấp rút. Hai khí Âm Dương sẽ giao hòa thuận hợp. Thời khí sẽ xuống không còn thất thường như bây giờ nữa. Phân định 2 mùa Xuân Thua rõ rệt, mùa Xuân cây cỏ tốt tươi, khí hậu ấm áp ôn hòa. Mùa Thu trời nóng xanh mát, nắng ấm gió nhẹ đúng như ước mơ của muôn nhà. Con người sẽ sống trong một đời cực kỳ sung sướng và văn minh đạo đức. Đời sống này gọi là đời Tân Dân Minh Đức tôi đã cho biết ở cuốn: Người, Aids, Thượng Đế và Việt Nam Thất Sơn Thánh Địa.
Ở cuốn Việt Nam Thất Sơn Thánh Địa tôi cũng đã nói rõ về phần thế giới loài người phải trả nghiệp quả một cách khổ sở vô cùng từ các năm 97-98-99 đến 2017-2018-2019 cho nên tôi không nhắc lại ở phần viết này.
Để mở rộng tầm hiểu biết một cách khoáng đạt vô chấp vào: ngã, ta, tà, chánh, tôi gởi đến quý bạn những lời lẽ diễn giải của chính Mẹ Diêu Trì, Mẹ Địa Mẫu tùy duyên quý vị lãnh hội, tùy duyên quý vị tin hay không tin, tùy duyên, tùy căn cơ, tùy thức của quý vị mà hiểu biết rồi thức hay ngủ cũng đều do quý vị toàn quyền quyết định về những lời tuyệt vời siêu diệu dưới đây của Mẹ Đất:
ĐỊA MẪU CHÂN KINH
Hồi mới tạo Thiên Lập Địa, vua Bàn Cổ xuất thế trị đời trước nhất, Ngài mới sắp đặt ngôi thứ, vì lẽ tự nhiên Ngài phong tặng cho Mẫu đây đến bậc tối cao tối đại. Âm Dương hai khí đủ rồi mới kết cấu cùng nhau hiệp thành hôn phối. Nhờ có gió thuận mưa hòa, hợp tác mới hóa sanh ra muôn loài vạn vật. Ấy vậy ai mới để bước vào đường đạo đức thì phải trì kinh Địa Mẫu này trước hơn hết mới nhằm Đạo Hạnh, trên thì cầu xin với Hoàng Thiên hoan lạc hỷ xả tội lỗi cho tất cả chúng sanh. Còn dưới thì khẩn nguyền cùng Địa Hậu vui lòng bảo hộ muôn dân cho đặng an nhàn trường cửu. Kể từ đây Đất Trời đã phân biệt rồi, chẳng còn mù mịt mờ ám nữa. Đất là Âm, Trời là Dương. Âm Dương mới khăng khít cùng nhau chẳng hề rời rã. Thông đồng khắp cả cùng Trời Đất thấu đáo Nhật, Nguyệt, Tinh là ba ánh sáng. Và bao trùm tất cả Càn Khôn Vũ Trụ chẳng còn sót hướng nào. Bắc, Nam, Đông, Tây là bốn góc chánh trụ. Hiệp với Tây Bắc, Tây Nam, Đông Bắc, Đông Nam là 8 hướng bao vòng quanh nơi ngoài thì gọi rằng Trời đó.
Còn Mẫu đây, Mẫu có thủ trung ương Mồ Kỷ gọi rằng Đất. Bởi vậy cho nên Mẫu bảo dưỡng cho muôn loài từ hồi đời Tiên Thiên nhất khí, kêu là đời Thượng cổ dĩ chí đời Hậu Thiên, kêu là đời Hậu lai ác thế cấu trọng. Còn phu quân Mẫu vốn thiệt là một vị Đồng Tử trường sanh bất lão, huyền diệu cao minh vô cùng. Ngài thì điếc, còn Mẫu đây thì câm. Đôi ta kết bạn cùng nhau rất nên hòa nhã, sách có chữ rằng: Thiên lung Địa á. Thần là Dương, Khí cũng là Âm, lúc ban sơ Dương thịnh Âm suy phối hợp mới tiến hóa ra Trời Đất.
Đến chừng tạo Thiên Lập Địa rồi thì Dương khứ Âm lai. Khí Thần giao cảm mới hóa sanh loài người hiền lành chân chánh. Chân khí là Mẫu đây. Mẫu đây mới thật là Âm khí. Còn Chân Thần thì biến trở lại làm chúng sanh của Mẫu. Chân Thần là nhất điểm Linh quang, ấy là Dương Khí đó. Âm Dương hội hiệp gọi rằng Đấng Tạo Hóa. Tạo Hóa ra Thiên Địa trước hết, rồi sau mới hóa sanh ra Chúa Thánh tôi hiền. Tuy là chẳng thấy Âm Dương giao cấu như phàm tục, thế nhưng mà có thật, vì Thiên Can với Địa Chi thường thường luân chuyển sanh sanh hóa hóa ra hoài chẳng dứt. Tam + cửu là 12, ấy à thập nhị Địa Chi: Tý, Sửu, Dần, Mẹo, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi. Còn Nhị Bát là 10 ấy là thập Tiên Can: Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mồ, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý, Can Chi là Âm Dương đó. Tử với Mẫu chẳng rời nhau thì thọ thai liền. Thai nghén cưu mang như vậy cho đến 10 năm chẵn.
Mười năm thẳng thét mới đúng quẻ hào đã định, vì trong bát quái có phân chia làm 8 hướng, mỗi hướng chia ra làm 8 quẻ, mỗi quẻ tẻ ra làm 6 hào, cộng chung lại là 64 quẻ, tẻ ra làm 384 hào. Đúng giờ mãn nguyệt trúc cơ, thì trong thân Mẫu xuất hiện ra sáu vị Thánh Đế Minh Quân kể ra dưới đây: Một là vua Thiên Hoàng, hai là vua Địa Hoàng, ba là vua Nhân Hoàng, bốn là vua Phục Hy, năm là vua Thần Nông, sáu là vua Hiên Viên. Qua đến đời vau Phục Hy thì Ngài hiểu rõ máy biến hóa ra Trời Đất. Ngài bèn phân định hai khí Âm Dương và họa ra một cái bát quái Tiên Thiên chỉ rõ 8 hướng trong Càn Khôn Vũ Trụ. Đến đời vua Thần Nông thì Ngài tiên đắc tìm kiếm ra được năm giống lúa và sáu thứ gạo. Đến đời vua Hiên Viên thì Ngài kiếm ra đủ cách chế tạo ra y phục và các đồ vật dụng cho người đời cần dùng chẳng sót món nào.
Con người mà được ăn no mặc lành kể từ hai đời vua đó. Rồi lưu truyền kiểu mẫu lại cho hợp thời tiết và hợp phong thổ. Phật Địa Mẫu phát lạc rằng: ba kiếp Phật xuất thế, kiếp nào cũng ở trong thân Mẫu mà ra. Chư vị Bồ Tát cũng vậy, chẳng có vị nào lìa xa khỏi thân Mẫu rồi, họ nương ngụ ở xứ nào cho được bao giờ. Vì bởi khắp cùng Đông, Tây, Nam, Bắc đã có 4 Bộ Châu của Mẫu bao trùm tất cả các xứ rồi. Cùng là Xuân, Hạ, Thu, Đông bốn mùa tám tiết trở xây cùng do nơi Mẫu tạo thành. Nào là sông, rạch, hồ biển đâu đâu cũng chẳng rời ra khỏi thân Mẫu. Cùng muôn nước chín Châu cũng do nơi Mẫu vun dưỡng trưởng thành.
Trải qua các đời Vương Đế đại danh chưa có ai lìa ra khỏi thân Mẫu. Cùng cả thảy lớn bé trong cung điện, cũng do nơi Mẫu vun dưỡng trưởng thành, khắp trong thiên hạ có Mẫu Nhạc là năm tòa danh sơn thắng cảnh hơn hết. Cùng là núi cao rừng thẳm cổ thụ ngàn năm cũng do Mẫu vun dưỡng trưởng thành. Các sắc nhân dân trăm họ đâu có ai lìa ra khỏi thân Mẫu được. Cùng năm giống lúa, sáu thứ gạo cũng do nơi Mẫu vun dưỡng tốt tươi. Bảy mươi hai cảnh thanh lương địa kia, chẳng phải ở ngoài thân Mẫu này được. Cùng muôn loài cầm thú, cây cũng do Mẫu vun dưỡng trưởng thành. Con người trần thế mà sống được đây thì cũng do nhờ ăn uống vật thực của Mẫu mới sống.
Đến chừng chết rồi cũng phải chôn thây cất xác trở vào trong mình Mẫu, sách có chữ rằng: Sanh tại thổ tử hoàn tại thổ. Tất cả châu, quận, phủ, huyện cũng chẳng rời xa khỏi thân Mẫu được. Nào là am tĩnh, quán xá, chùa miễu, thư viện, lâu đâì cũng nhờ lấy tài liệu và vật chất trong thân thể của Mẫu mới làm ra được vững bền tốt đẹp. Thánh, Thần, Tiên, Hiền lớn nhỏ cũng nhờ Mẫu phong thưởng đặt bầy lớp lang. Còn các Chư Phật mà được kim thân bất hoại thì cũng nhờ Mẫu chứng nhận công quả cho mới được đắc thành Chánh Giác. Huỳnh Kim là vàng ròng của Mẫu ban bố un đúc ra vóc ngọc mình vàng của các Chư Phật kia. Thật là quí báu hơn tất cả chân châu bửu ngọc trong bốn phương Trời. Thiếu chi người ham muốn vọng tưởng đến chừng kết cuộc rồi, có mấy ai được đắc thành sở nguyện.
Còn nào là những vàng thoi bạc nén, cùng các loại kim khí khác nữa cũng phải do nơi Mẫu sản xuất mới có. Vậy chúng con xét lại đó mà coi còn sót món nào ở ngoài thân Mẫu này được chăng. Các nhà Vương hầu tiểu nhược quốc nhờ Mẫu phong tặng tôn kính. Còn trải qua các nhà Đế Vương đại cường quốc thì cũng nhờ Mẫu sùng tôn cho, mới được an hưởng thịnh trị lâu dài. Nước nào mà bị giặc giã cưỡng bức lấn lướt cũng do nơi Mẫu vận chuyển phạt hành mới có can qua tranh đấu khởi. Vậy mà chẳng thấy nước nào biết kính đến thân danh của Lão Mẫu ráo trọi. Lãnh, nhiễu, the, lụa, vải bô, thứ nào cũng do Mẫu sản xuất. Cùng là bông hoa, cây trái, rau cải đủ thứ cũng do nơi Mẫu vun dưỡng trưởng thành. Các loại chua ngọt, đắng cay, do nơi Mẫu sản xuất. Cùng thuốc uống, lúa ăn trong bốn mùa cũng do nơi Mẫu vung dưỡng trưởng thành. Hành, tỏi, hẹ, nén, kiệu do nơi Mẫu sản xuất. Cùng là gừng, đường, tiêu, ớt cũng do nơi Mẫu vun dưỡng trưởng thành. Khắp trong thiên hạ, đàn ông cho đến đàn bà, con nít đều sanh ra nhiều chứng bệnh. Bởi vậy cho nên Mẫu tạo ra sẵn sàng cả muôn thứ thuốc để phòng điều trị. Lại cũng có hiếm hạng người nam nữ chẳng ưa dùng tửu nhục mỹ vị. Vì vậy cho nên Mẫu đã tạo sẵn nào là dầu, muối, tương, giấm được cho chúng nó dùng cho vừa miệng. Món nào món nấy cũng do nơi Mẫu sản xuất. Trăm ba vạn sự cũng do nơi Mẫu vung dưỡng trưởng thành tất cả. Phật Địa Mẫu than rằng: Mẫu đã hao tâm tổn huyết với chúng con tận tuyệt rồi. Công lao tiêu tứ ấy biết lấy bút mực nào mà tả ra cho hết được. Vì tình mẹ thương con nam nữ, dầu lao khổ cách mấy Mẫu cũng chẳng sờn. Sách có chữ: Phụ Mẫu ái tử chi tâm vô sở bất chí. Vậy mà chúng con nỡ lòng nào quên mất ơn sâu nghĩa cả của Mẹ cho đành.
Vật ăn phẩm uống trang sức cân đai gì cũng Mẫu tạo hóa. Hễ Mẫu tạo hóa ra món nào, Mẫu hết lòng vun dưỡng trưởng thành món ấy, còn hoài cho đến ngày chung cuộc cuối cùng mà thôi. Mẫu cũng có thể chế biến ra tiền bạc đủ thứ và đủ kiểu cho chúng con mua bán chi dụng hàng ngày. Vậy mà chẳng thấy ai để lòng tưởng niệm đến Mẫu một tiếng thử. Trên đời này chẳng còn sót món nào ở ngoài thân Mẫu. Ấy vậy muôn loài vạn vật cũng hoàn lại một tay Mẫu tạo hóa sanh thành tất cả không? (Nam Mô Nhất Tâm Thành Kính, Nam Mô A Di Đà Phật, thật y như lời của Mẫu truyền bảo chẳng sai). Trước khi Mẫu hóa sanh có một vật thổ sản mà thôi, gọi rằng quả Địa Cầu. Rồi nơi quả Địa Cầu ấy Mẫu tích trữ chẳng biết bao nhiêu tài liệu và phẩm thực dành để cho sáu ngã luân hồi cần dùng chẳng hay gì hết được.
Trên đời này chỉ có một mình Trời là lớn hơn hết mà thôi, chứ có ai nào biết đến Mẫu. Chứ như Địa Mẫu này sánh cùng Hoàng Thiên kia cũng đồng một bậc đó mà. Khi nào trên Trời mưa xuống một giọt nước cam lồ thủy, thì dưới Đất bèn hóa sanh ra các loại ngũ cốc đầy đồng lấp ruộng. Tuy là hạt mưa ngọt ngào trong sạch kia rơi xuống đất rất đượm thuần mát mẻ, vậy mà có ai biết được gốc hạt mưa ấy bởi nơi nào đâu mà ra chăng? Cũng bởi rút hơi nước ở trong cốt thủy tin vi của Mẫu đem lên không trung làm mây, rồi mây ấy bèn đông đặc lại thành giá, giá ấy gặp một luồng điện quang chiếu diệu vào liền tan ra rơi xuống đất, thành ra mưa đó. Rồng, Cù tàng ẩn ẩn dạng dưới ngàn sông, muôn suối cũng chưa ra khỏi thân Mẫu được. Bởi vậy cho nên bão tố, gió mây gì cũng do nơi Mẫu vận chuyển thực hành tất cả. Nếu Mẫu chẳng điều khiển Rồng làm gió làm mây thì ai thấy có Rồng nào tự chuyển làm mưa xuống xứ nào được. Xứ nào mà chẳng có Rồng, Cù tàng hình ẩn dạng ở dưới. Hễ nghe lệnh Mẫu hô phong hoán vũ thích lịch lôi đình nơi nào thì Rồng nơi đó hiện ra làm mưa làm gió liền.
Nhắc tới nhắc lui mà nghe chứ việc nào cũng do nơi Mẫu vận trù quyết sách cả thảy. Vậy mà người đời có mấy ai để tâm xét đến. Mẫu đau lòng xót dạ, nhọc nhằn cay đắng bao nhiêu thì để cho thân Mẫu chịu. Còn mặc tốt ăn ngon thì chúng con toại hưởng vui cười. Phật Mẫu phát lạc rằng: Từ xưa đến nay Mẫu chẳng hề nhắm mắt. Hễ Mẫu nhắm mắt lại rồi, ắt có tai to nạn lớn sắp xảy đến cho tất cả chúng sanh liền. Chẳng đợi tới giờ nhắm mắt làm chi, nếu Mẫu xây lưng sấp mặt trong chừng một giờ, thì con cá Ngao to lớn kia nó trở mình lăn qua một cái nó sẽ sử tiêu sạch bách. Trời thì tan, Đất thì rã. Trời Đất đâu còn thấy nữa, trên đời này sẽ thành ra một tràng không trống trơn trống lỏng rồi đó.
Chừng đó các Chư Phật Như Lai cũng phải tàng ẩn ra ngoài cõi ngoại Càn Khôn. Còn các vị Bồ Tát thì sẽ đào tẩu biệt hình dạng. Nào vua chú, quan quân dân sẽ bị tận diệt tiêu tan hết rụi. Trời Đất Thánh Thần sẽ bị tiêu tan rã rời, cũng như bị thiêu trong lò bát quái kia vậy. Sẽ chẳng còn biết đâu là đâu. Đông, Tây, Nam, Bắc chẳng còn nhận ra hướng nào cho được. Đến chừng đó muôn loài vạn vật sẽ bị nát biến ra như tro bụi kia vậy.
Phật Mẫu hứa rằng: Nếu có kẻ nào gia tâm nghiên cứu sưu tầm thấu đáo chân lý của Mẫu và biên rải ra cho người đời. Chừng Mẫu khả sát lại nếu quả Chân Lý Diệu Màu Mẫu sẽ độ tận kẻ ấy liền. Mẫu sẽ giảng bút truyền cho Ngọc Linh Chi hiện xuống nhập vào tâm kẻ ấy để trở nên sáng suốt phi thường. Rồi đích thân Mẫu sẽ phản bổn hoàn nguyên chân khí lại đúng thời tiết cho kẻ ấy xuất hiện ra Chân Thần chẳng sai. Hễ ai dưỡng tánh tu tâm cho được hoàn toàn thì tinh thần mới hội hiệp lại được. Còn tinh thần với khí mà khối lại được tròn tỏ chặt chẽ thì chỉ có mình Mẫu này tạo ra được mà thôi. Nếu như Tiên, Phật, Thánh Hiền nào bỏ qua, chẳng cần quan kháng Chân Lý trong kinh Địa Mẫu này, thì chớ khá khoe tài sóng sức nơi chốn đô hội đông người. Còn quân thần văn võ nào bỏ qua, chẳng cần quan kháng Chân Lý trng kinh Địa Mẫu này thì cũng như họ đã quên đứt ơn sâu nghĩa cả của Từ Mẫu này rồi đó. Còn những kẻ văn chương học thức, nông gia, thầy thợ, thương nghiệp nào mà bỏ qua, chẳng cần quan kháng Chân Lý trong kinh Địa Mẫu này nữa, thì cũng như họ chẳng cần đền đáp ơn nghĩa cho Mẫu, họ lại còn bội bạc nghịch nghi là khác. Nếu chúng con làm ngơ, giả vờ chẳng biết chánh pháp chân truyền của Mẫu này là màu nhiệm mà học đòi theo, cứ bo bo hành theo ý tư tưởng riêng của chúng con hoài như vậy, thì sẽ bị đọa đày muôn kiếp chẳng được tái sanh trở lại làm người. Nếu chúng con muốn biết căn nguyên danh tánh của Mẫu là ai kia mà dám ăn nói cao giác như vậy, thì phải dỏng tai mà nghe cho rõ: Lão Mẫu này vốn thật là Lão Bà Hỗn Độn hóa sanh ra hồi thuở còn mù mù mịt mịt chưa có phân chia Trời Đất kia. Rồi đó Mẫu mới sống ở đời được mười hai muôn. Chín ngàn sáu trăm tuổi thọ, trong thời gian xuất thế ấy Mẫu đã chịu cực nhọc khổ lao với chúng con đã dư ngàn dư muôn rồi đó.
Mà cẳng ngờ đến thời kỳ diệu độ Mẫu hóa thân trở về cõi hư không vô thượng một cách mau lẹ như chớp nhoáng kia vậy. Từ ấy đến nay, nào là trai hiền gái thảo của Mẹ đâu, chẳng thấy đứa nào. Ngồi thuyền ra giữa sông Trường Giang khóc kể đến Mẫu một tiếng mà coi thử. Như vậy mà Mẫu chẳng hề phiền trách, nếu chúng con muốn cho Mẫu sẽ được trùng phùng tương hội lại một lần nữa, thì phải ráng ẩn nhẫn tu hành chờ đến hội Tý hoặc hội Sửu thì Mẹ con ta sẽ được gặp nhau trong lúc Khai Thiên Lập Địa.
Cuốn Đại Mẫu Chân Kinh này có một trăm tám mươi hai câu mà thôi. Câu nào câu nấy là chánh lời nói của Mẫu thuyết ra chứ chẳng phải của ai đâu mà nghi ngờ lầm lạc. Nếu nhà nhà đều biết trì niệm mãi thì mùa màng sẽ được trúng no đủ, lại còn được thọ hưởng lạc thú của đời thịnh trị nữa. Đã chẳng bị tai to nạn lớn nhồi nhập dồn dập. Thiện nam Tín nữ trong các nhà ấy sẽ được hưởng khương ninh trường cửu.
Những danh xưng như: Mẹ Địa Mẫu, Mẹ Đất, Địa Mẫu Ngươn Quân, Diêu Trì Phật Mẫu, Diêu Trì Thánh Mẫu, Vô Cựu Từ Tôn Tây Thiên Bá Chủ Vương Cung Tây Mẫu, Diêu Trì Kim Mẫu, Lão Bà Hỗn Độn v.v… cũng chỉ là một Đấng hóa sinh tất cả mà thôi. Chúng ta muốn niệm Hồng Danh của Mẹ thì tùy theo sở nguyện của chúng ta.
Dưới dây là thơ dạy của Mẹ Diêu Trì Kim Mẫu tức Mẹ Địa Mẫu:
DIÊU TRÌ KIM MẪU, ĐỊA MẪU NGƯƠN QUÂN
VÔ CỰC ĐẠI TỪ TÔN ĐẠI THIÊN TÔN
Diêu Cung Mẹ gởi xuống miền
Bảo con cố gắng làm hiền hồi quy
Lời Vàng mẹ đã ra đi
Dặn con cố gắng từng đi bước đường
Sao con dại khinh thường lời Mẹ
Sắp phong ba con trẻ điêu tàn:
Nghe trên phán lệnh Phụ Hoàng
Chắc rằng tiêu diệt trần gian không còn!
Mẹ nghe khổ thon von nước mắt
Sai thơ đồng dẫn dắt con qua
Con Mẹ trai gái xa hoa
Mê giàu mê có mê nhà cao sang
Quên bà Mẹ Mẫu Hoàng Vô Cực
Cứu chúng con bể vực hố sâu
Con ơi lòng Mẹ đỉnh đầu
Tạo ra đầy đủ thiếu đâu bớ trần
Mẹ hóa thân đủ phần con hưởng
Nào chức ngôi dung dưỡng xa xuê
Cửa nhà đẹp đẽ sẵn bề
Món ăn đủ chất con mê nhiễm trần
Quên Bà Mẹ hối thân vất vả
Sợ chúng con tan rã tiêu hồn
Đó là Vô Cực Càn Khôn
Mẹ Già lưu loát trường tồn khuyến răn
Phải nghe lệnh mẹ xưa kia quay bước
Lên thuyền Trời về được hồi quy
Con ơi Đức Mẹ Diêu Trì
Mắt Trời rơi lệ vậy thời không ngưng
Con khờ dại vui mừng cảnh giả
Đâu biết rằng Mẹ đã than van
Nghe Cha phán lệnh phạt tràng
Mẹ Già bỏ chạy lâm đàng xuống đây
Để dạy trẻ sửa xây cho kịp
Nếu không thì mất kiếp ra tro
Bao năm Mẹ xuống đưa đò
Rước con về được chuyện trò Diêu Cung
Sai con xuống đoạn cùng con dặn
Nơi trần gian bể vắng tanh hôi
Xuống đây mê chức mê ngôi
Quên lời Mẹ dặn đảnh đồi quê xưa
Giờ đã cận mây mưa gần kéo
Màn Trời ra ắt kẻo cận kề
Dù con ba lớp bốn bề
Cũng không tránh nổi nặng nề đâu con
Sắp khổ sở hao mòn khắp cả
Chốn Hoàn Cầu Mẹ đã chuyển xoay
Càn Khôn Vũ Trụ giờ này
Cũng do Mẹ sắp một giây rã rời
Chắc tiêu diệt lập đời trở lại
Mẹ sanh con có gái có trai
Chia ba rẽ bảy nhân lai
Đánh nhau cấu xé dạn dày dữ hung
Tròn nhiệt huyết trong Bầu có Một
Con không lo chí cốt nhiệt tình
Quên lời Bà Mẹ cứu tinh
Bao la biển khổ rộng thinh diệu vời
Nếu con cái Mẹ lu mờ tan hoang
Trẻ khờ dại theo đàng Ma Quái
Không lo thân còn cãi Mẹ Hiền
Mê cao sang cả của tiền
Quên Bà Mẹ khổ Kiền Thiền Từ Tôn
Ba bước nữa hồn con tiêu hủy
Nghe lệnh phân thế kỷ Phụ Vương
Con ơi trăm mối nghìn đường
Chắc rằng cát bụi tan thương điêu tàn
Trời thâu hết trần gian khắc khổ
Thâu nhân loại không chỗ mà nương
Thâu nhân, thâu vật, thâu đường
Tất cả thâu hết trăm phương nghìn trùng
Con quên Mẹ chập chùng hình bóng
Thương chúng con mơ mộng từng cơn
Thấy con còn mãi tranh hờn
Lòng Già rơi lệ trong cơn thuyết trình
Thuyền của Mẹ linh đinh sóng bủa
Xuống nơi đây nhơ nhớp biển trần
Rước con về ngự Các Lân
Con quên mẹ dặn toàn phần làm sao!?
Các cấp bậc ngôi cao chỉ Một
Cũng trong Bầu Chí Cốt mà thôi
Dù con tài chức cao ngôi
Cũng trong lòng Mẹ chớ hồi thoát đâu!
Quên Bà Mẹ rồi sầu rồi thấy
Con phải xa cạm bẫy tới nơi
Từ đây do lệnh của Trời
Nói cho con biết vậy thời đôi câu
Rồi các nước Ngũ Châu cũng rụi
Nay mai đây gặp buổi nguy nan
Làm sao tránh khỏi thở than
Thâu về lập lại Đại bàn chúng sanh
Thôi con chớ mạnh tranh chi nữa
Trời Thiên bang mở cửa hạ phàm
Cho nên khổ sở Kỳ Tam
Diêu Trì Hoàng Mẫu luận đàm chút thi
Thôi con trẻ Lưu ly ẩn núp
Mẹ trao lời đặng giúp chúng con
Kỳ Ba thác đổ từ hòn
Con nghe lời Mẹ thì còn hồi hương
Nam Mô A Di Đà Phật
Diêu Trì Kim Mẫu, Địa Mẫu Ngươn Quân Vô Cực Đại Từ Tôn Đại Thiên Tôn.
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét