Thứ Hai, 26 tháng 10, 2020
MINH THIỆN CHƠN KINH
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
MINH THIỆN CHƠN KINH
Ngọc Linh Thánh Tịnh
"PHỤNG LẦU"
NĂM KỶ HỢI (1959)
NỘI DUNG
Đề mục Đấng tả Kinh
_Thánh tựa Vân Hương Thánh Mẫu
_Tỉnh tâm VHTM
_Khuyến phụ nữ thanh xuân(1) VHTM
* Sám nhứt diệu đề Lý Đại Tiên
_Giới khẩu Vân Hương Thánh Mẫu
* Sám nhị diệu đề Nam Hải Như Lai
_Tích thiện phùng thiện Huệ Hoa Công Chúa
_Phụng sự tổ tiên (Đệ I Hạnh) Mai Hoa Công Chúa
_Phụng sự công cô(Đệ II Hạnh) Liễu Hoa Công Chúa
_Khuyến phụ nữ thanh xuân(2) Thủy Cung Công Chúa
_Kỉnh phu tử (Đệ III Hạnh ) Huyền Trân Công Chúa
Sám tam tứ diệu đề Cửu Thiên Huyền Nữ
_Huấn từ nữ (Đệ IV Hạnh) Vân Hương Thánh Mẫu
_Nghinh hôn giá thu (Đệ V Hạnh) Liên Hoa Công Nương
_Huỳnh tuyền Linh Quang Phật Địa
_Khuyến phụ đạo Vân Hương Thánh Mẫu
_Thân tông tộc (Đệ VI Hạnh) Liễu Hạnh Thánh Mẫu
_Trọng về ngũ cốc Quan Am Như Lai
_Mục Hương Lân (Đệ VII Hạnh) Quan Am Như Lai
_Huệ trạch Vân Hương Thanh Mẫu
_Tuất bất tiện (Đệ VIII Hạnh ) Vân Hương Thánh Mẫu
_Thiếu phụ thủ tiết (Đệ IX Hạnh) Thể Liên Tiên Nữ
_Khuyến ly phụ (Đệ X Hạnh ) Thể Liên Tiên Nữ
_Tự hối Định Phước Chánh Thần
TƯỜNG TRÌNH
Tình cờ chúng tôi được đọc quyển Minh Thiện Chơn Kinh này, nhận thấy đây là một tác phẩm rất đặc biệt do Diêu Trì Cung ân tứ tại Ngọc Linh Thánh Tịnh vào những năm 1958-1959 ( Mậu Tuất - Kỷ Hợi ).
Hầu hết quyển kinh do các đấng Nữ Phật, Tiên Nữ, Thánh Mẫu và những Nữ Nguyên nhân đắc đạo thọ lịnh Đức Diêu Trì Kim Mẫu Vô Cực Đại Từ Tôn giáng đàn tả kinh.
Nội dung chính của Minh Thiện Chơn Kinh là bốn Bài Sám
( Sám Nhứt Diệu Đề, Sám Nhị Diệu Đề, Sám Tam Tứ Diệu Đề ) và mười Bài Hạnh
(Đệ Nhứt Hạnh đến Đệ Thập Hạnh)
nhằm giác ngộ và giáo hóa nữ lưu từ thanh xuân đến lớn tuổi trở thành người đạo đức tâm hạnh vẹn toàn.
Điểm đăc biệt là mỗi đấng Thiêng Liêng giáng đàn, trước khi tả kinh bằng quốc ngữ, đều cho một bài thi chữ Nho đạo lý cao siêu, văn chương tuyệt vời, với nhiều điển tích cần tra cứu mới hiểu hết lời Tiên tiếng Phật.
Có điều rất đáng tiếc là các bài chữ Nho chỉ được diển âm quốc ngữ, không kèm theo Hán tự, qua sao chép nhiều lần, hoặc do đọc trại đi, hoặc viết sai chính tả, thành thử có một số từ ngữ không thể tra cứu thấu đáo được.
Tuy nhiên, may có đạo hữu Lê Anh Minh, rất thông thạo chữ Hán nôm và có nhiều tư liệu đạo học, đã sẵn lòng nhận công quả chú giải các chữ khó đồng thời tạm dịch các bài chữ Nho trong quyển Kinh. Khi làm việc này, đạo hữu Lê Anh Minh rất cẩn thận giữ nguyên văn quyển Kinh; chỉ để trong dấu ngoặc những chữ đã sửa đúng chính tả, hoặc ghi nhận những tồn nghi cần tìm hiểu thêm.
Với phần chú giải, nghĩa lý của cac câu kinh càng sáng tỏ, người học đạo càng mau chóng nhập tâm để trau dồi tâm đức.
Ngoài ra, chúng tôi cũng mạo muội soạn thêm mục lục để giúp chư đạo hữu tìm đọc các bài kinh dễ dàng.
Chúng tôi góp chút công quả mọn trên đây với tấm lòng cảm kích ân huệ của Đức Từ Mẫu và công đức của chư Phật, Tiên, Thánh, Thần đã ban bố một quyển Kinh quí báu hầu tận độ nhân sanh, nhứt là đối với hàng nữ phái trên đường xây dựng đời thanh đức trong Tam kỳ phổ độ.
Đồng đạo rất thán phục chư chức sắc chức việc tiền bối tại Ngọc Linh Thánh Tịnh đã dày công thực hiện Minh Thiện Chơn Kinh, lưu truyền gần nửa thế kỷ qua.
Khi quyển Kinh này đến tay quí vị, hãy truyền cho con cháu, anh chị em và đồng đạo cùng xem, học và hành để được ơn của Đức Từ Mẫu và các đấng Thiêng Liêng đã giáng tả bửu Kinh.
Thành kính tường trình.
THIỆN CHÍ
THÁNH TỰA
Sắc phong chế thắng Bảo Hoa Diệu Đại Vương Vân Hương đệ nhứt, Liễu Hạnh Công Chúa, Thánh Mẫu dụ văn:
Dụ viết: (Lời dạy rằng:)
Ngô thị Thiên thượng Bích cung chi đệ nhứt tinh giả, Phụng mạng đế đình giáng bút ư Ngọc Linh Thánh Tịnh đàn, DIÊU TRÌ KIM MẪU chi đình.
(= Sắc dụ rằng: Ta là ngôi sao thứ nhất của cung Bích ở trên trời, nay vâng lệnh Thiên đình mà giáng bút nơi Ngọc Linh Thánh Tịnh đàn, thuộc cung đình của Diêu Trì Kim Mẫu.)
Phụng bút dã [giả] hà: Diệu Thê, Diệu Liên, Diệu Thế, Diệu Tiên, Diệu Long, ngũ hiền sanh nữ , kinh dã [. Kinh giả] nhan viết: “MINH THIỆN QUỐC ÂM CHƠN KINH” dã , kinh [. Kinh] trung sở ngôn dã [giả] hà , yếu [. Yếu] bất ngoại thiên lý, nhơn luân dụng thường hành, phụ dĩ kỉnh [kính] phu, ấu dĩ sự trưởng, tử dĩ sự thân, đệ dĩ sự huynh , [;] ngoại dĩ hương đản [đảng] nội nhi gia đình, năng khuyến thế nhơn, dĩ hành thiện sự, nhi phục tánh linh giả, minh minh nhi thiện thiện, ảo ảo [yểu yểu] nhi minh minh , nhược [. Nhược] năng kiền đọc tụng, phước lộc tự lai thành, nhược [. Nhược] năng quảng ấn tống, phú quí thọ khương ninh, mạng tứ cơ bình, nhi thị di chấp mãi, nhi thị di trọng khinh, dĩ hữu Tư Mạng Táo Quân Tôn Thần, Ngũ Bộ chư dinh vãng lai kiểm soát (nghĩa là xin đừng cất lấy, cũng không được phép bán và không được xem thường vì đã có Tư Mạnh Táo Quân và Ngũ Bộ chư dinh trấn thủ tại Phụng Lầu kiểm soát) phục tấu phân minh Thiên đình, tiểu tắc giảm toán, đại tắc phân hình, tiền sanh cẩu miễn ư dương thế, tử hậu thọ tội ư âm minh (sau chết cũng phải thọ tội dưới âm phủ), miễn chi miễn chi, vô vọng [vong] khuyến ngữ chi đinh ninh, nhi hài cốt tâm minh giả [dã] khả. Thị ví [vi] dụ.
Người tuân lệnh chấp bút là ai? Đó là năm hiền nữ: Diệu Thê, Diệu Liên, Diệu Thế, Diệu Tiên, Diệu Long. Nhan đề kinh là: “Chân Kinh Minh Thiện (thuyết minh về điều thiện) bằng chữ quốc ngữ”. Kinh vốn dạy những gì? Dạy không ngoài lẽ trời, những việc làm hàng ngày theo luân lý con người như: vợ kính trọng chồng, trẻ phải phụng sự bậc huynh trưởng, con phải phụng sự cha mẹ, em phải phụng sự anh; trong gia đình và trong làng xóm cần khuyên bảo người đời thực hành việc thiện để trở lại sự linh thiêng của bản tánh, để làm sáng rỡ sự tốt lành, [để hiểu] sự sâu kín mịt mờ. Nếu kính thành tụng đọc kinh này thì phuc lộc sẽ đến. Nếu có thể in ấn kinh này và phổ biến rộng khắp thì sẽ được ngũ phúc là phú (giàu), quý (sang), thọ (sống lâu), khang (khoẻ mạnh), ninh (yên ổn); bổn mạng bình yên suốt bốn mùa. Chớ có cất trữ, đem bán, coi thường. Có thần Tư Mệnh Táo Quân và các dinh của Ngũ Bộ tuần tra kiểm soát và trở về báo cáo rõ lên Thiên đình. Tội nhỏ thì giảm thọ 100 ngày, tội lớn thì phạt đại hình. Lúc còn sống nếu tránh được hình phạt the gian thì xuống âm phủ cũng phải chịu tội cho đủ. Hãy cố gắng lên, cố gắng lên. Chớ quên lời khuyên dặn hoài hoài của ta, phải ghi tâm khắc cốt thì mới được. Đó là lời dạy của ta.
VÂN HƯƠNG THÁNH MẪU
Đàn Tý thời mùng 3 tháng 6 năm Kỷ Hợi (08.07.1959)
THI:
Sanh ư nam giả trưởng ư nam
Vị tăng [tằng] thưởng thức tăng [tằng] am
Thùy tri thánh bút tam tuần tựu
Hảo bả thần công lưỡng giai tham
Vọng vọng Bắc Triều thô [thổ] trạch tại
Dao dao Nam Hải giáo thanh đàm,
Cứu dân nhứt niệm tâm tâm ấn
Miễn miễn chư sanh nhựt bị đàm
(Ta đã sinh ra trong thân xác nam nhi và trưởng thành cũng vậy,
chưa ai biết được điều đó.
Ai có biết đợt giáng bút của thần tiên sẽ hoàn thành trong một tháng?
Hai bên lưỡng phái tham gia tốt vào công việc tả kinh thần diệu này.
Nơi cuộc đất này mọi người hướng về phương bắc [nơi của Thượng Đế]
và đạo lý được dạy từ Nam Hải xa xôi
Để cứu dân, mot niệm trong tâm chư môn sanh sẽ là tâm ấn
Chư sanh hãy cố gắng mỗi ngày đều tụng niệm đầy đủ.)
Vân Hương Thánh Mẫu, mừng chư môn sanh nam nữ. Hãy tọa thiền nghe Ta tả kinh:
"TỈNH TÂM"
PHÚ:
Hội đào lý thiên luân tự lạc,
Ngàn năm sau bia tạc rành rành;
Tỉnh thân kinh nhứt bộ thơ thành,
Trước Đức Mẹ sau chư linh huệ tứ.
Tâm thử lý hà phân kim cổ,
Dầu không không mà có có như y;
Thiện chi thiên tất phước chi,
Trong cơ báo ứng hào ly không nhầm.
Khuyến nhơn thế tâm tâm như nhứt,
Trước ở lành sau tức hưởng lành;
Vinh hoa phú quí công danh,
Hỏi rằng: Trời Đất riêng tình với ai?
Vô đơn chí bất trùng lai,
Không lầm mảy tóc, không sai tơ hào;
Vật vị thiên cao, cao tại thượng,
Mà thiếu điều tin tưởng nơi lòng.
Cầu tắc ứng, cảm tắc thông,
Thần minh chỉ chứng cho lòng kỉnh tin;
Vật vị thiên huyền, huyền thả mặc,
Mà trong lòng nhỏ nhặt làm càn.
Đức báo đức, oan báo oan,
Hai ben Thần Thánh sẵn sàng chứng minh;
Thiện thơ tảo tảo phụng hành,
Sau rồi Trời, Đất chứng minh hộ trì.
THI:
Bạch lộ hà phương nhứt trọng phu,
Thơ thành sổ quyển hà thần hưu;
Tỉnh thân nhị tự minh kim thạch,
Bửu huấn chương chương vạn cổ lưu.
(Sương trắng nơi nào, [???]
Viết kinh thành vài quyển, sáng sớm nào mới ngưng?
Bản thân hai chữ “Tỉnh thân” làm rõ ý nghĩa vàng đá.
Lời dạy quý báu sáng rực rỡ lưu truyền tự ngàn xưa.)
Để chứng minh lời Ta dạy đó, chư môn sanh giữ điển đồng,
Ta truyền cho HUỲNH MAI lâm đàn để minh chứng sự cảm ứng:
Tiếp điển:
THI:
Kham ta Nguyệt Lão thái vô đoan,
Hồ điệp thâm khuê nhứt mộng tàn;
Triêu hướng thê phong bi bạch thủ,
Dạ huy minh nguyệt oán hường [hồng] nhan.
Sầu oan chích nhạn sông Tiền [song tiền] lãnh,
Muọn đối sông [song] uyên trưởng ngoại hàn;
Ý tự thanh sơn từ biệt hậu,
Qui lai thủy quốc lệ lang bang.
(Phải cam chịu ông Tơ bà Nguyệt đa ấn định chẳng có đầu mối gì,
Nơi khuê phòng, ta vỡ tan giấc mộng.
Sáng sớm, đón cơn gió thê lương, buồn cho cảnh tay trắng.
Đêm về, chỉ tay trăng sáng, oán hận cho phận má hồng.
Sầu cho một bóng nhạn lạnh lẽo trước song cửa sổ
Buồn trông đôi uyên ương giá rét ở bên ngoài
Sau khi từ biệt ngọn núi xanh,
trở về nước cũ nước mắt tuôn trào.)
Nguyên Giám đốc Kinh Thành Cấm Môn Doãn Công Chúa mừng chư hiền đệ muội. Ta thừa sắc lịnh Thánh Mẫu lâm đàn để đem lai lịch của Ta giảng cho chư hiền đệ muội, hầu minh chứng những lời của Thánh Mẫu vừa dạy.
TRƯỜNG THIÊN:
Ta đây cũng phận đàn bà,
Quê nhà vốn ở tỉnh Hà, HUỲNH MAI;
(Ta trước đây gốc ở Hà Tiên tên là HUỲNH MAI)
Vì chồng sớm cách Diêm Đài,
Cho nên ta phải lạc lài [loài] đến Kinh.
(Vì chồng Ta chết sớm nên ta lưu lạc ra Kinh Thành)
Ơn Vua giữ cửa cấm thành,
Lúc ra Đông Các, lúc canh Tây, Tàu;
Lúc thời du ngoạn vườn đào,
Nhiều khi thong thả ra vào hoa viên.
Chỉ vì giữ dạ trinh kiên,
Thờ chồng phải chịu thiếu niên một bề;
Khăng khăng giữ phận gia tề,
Chỉ gần vàng đá, chỉ kề sắt son.
Chỉ vì phận gái không con,
Sớm chiều vui thú nước non tánh tình.
Tưởng là uổng kiếp xuân xanh,
Ai hay Tạo hoá ngọc thành cho Ta;
Hưởng dương đặng tám mươi ba,
Mãn duyên Đức Mẹ Diêu Toà rước lên.
Chữ Trinh được mẹ đáp đền,
Sắc phong Công Chúa trước đền Kim Hoa;
Lời khuyên phận gái quần thoa,
Ở sao cho được như Ta mới mầu.
Khuyên chung phận gái má đào,
Dầu chồng chức trọng quyền cao thảo hiền;
Ở sao cho được chính chuyên,
Khuyên rằng chớ có ỷ quyền dể ngươi.
Lúc nào mặt cũng vui tươi,
Kẻo mà sau lại bị người đã duyên;
Như chồng đã cách Huỳnh tuyền,
Có con thì phải để quyền cho con.
Nếu mà bạc phận không con,
Nhà chồng cha mẹ món ngon phụng thờ;
Khuyên đừng đem dạ thờ ơ,
Ở sao như lúc ban sơ sanh thành.
Mẹ chồng nào khác mẹ mình,
Cha chồng như thể cha chung một niềm;
Mẹ cha nếu đã qui thiên,
Thờ chồng phục [phụng] sự gia tiên một lòng.
Khuyên đừng mong bắc ước đông,
Nhớ câu nữ tắc trắng trong giữ mình;
Cũng đừng hoa nguyệt phong tình,
Đàn ông không đến gần mình mới ngoan.
Giữ mình như thể giữ gian,
Kẻo mà sau lại phải mang tiếng cười;
Giữ sao cho vẹn cả mười,
At là cũng được như người HUỲNH MAI.
THI:
Ngàn năm bạc phận hồng nhan,
Nằm nghĩ đêm thâu lệ chứa chan;
Chiếc gối gió đưa thêm lạnh lẽo,
Nửa đêm trăng giọi lại mơ màng.
Màu châu chớ để cho phai bạc,
Nét ngọc đừng cho lợt nét vàng;
Một tấm kiên trinh kềm giữ dạ,
Ngàn năm chữ thục tạc bia vàng.
Trước đây, Ta cũng như chư hiền muội, lớn lên cha mẹ gả lấy chồng. Ba ngày sau đám cưới chồng Ta bị bạo bịnh mà thác. Ta buồn rầu bèn ra chốn Kinh Thành, lại được ơn vua cho làm Giám Thủ Cấm Thành. Dù đã được quyền cao chức trọng ở trước chốn thành kinh, có biết bao nhiêu văn nhơn tài tử; nhưng tấm lòng kiên trinh của Ta vẫn không dời đổi. Thọ thế được 83 năm, Đức Mẹ đem Ta về cung Diêu Trì phong làm Doãn Công Chúa đứng hàng thứ 12 trong thập nhị Công Nương. Nay phụng lịnh Thánh Mẫu tả chơn kinh.
Vậy ta xin kiếu.
Tý thời 17 tháng 6 năm Kỷ Hợi (22.7.1959)
THI:
Từ Nam chí Bắc tiếng vang lừng,
Ngọn núi Sùng Sơn biết mấy từng;
Hai cánh trâm vàng cài mái tóc,
Một thân kiếm bạc giắt bên lưng.
Tấm lòng son sắt cao tày núi,
Tấc dạ đoan trinh chất ngập rừng;
Khúc vắn tình dài khôn siết kể,
Ban lời bút chép bức thi mừng.
Vân Hương Thánh Mẫu, mừng chư môn sanh nam nữ. Đây là một bổn kinh
“KHUYẾN PHỤ NỮ THANH XUÂN”
PHÚ:
Hồng nhan ! hồng nhan ! hồng nhan !
Trinh mà giữ được là ngoan trong đời;
Khuyên đừng cười nói lả lơi,
Cử chỉ ấy là người bất chánh.
Liệt nữ nhứt trinh tâm tợ cảnh,
Cang thường vạn cổ thọ như sơn;
Hãy noi theo gương kẻ tiền nhơn,
Giữ cho vẹn tấm tâm đơn là mới quí.
Như dương liễu, như phù dung, như yêu đào, như hồng lý,
Trọng tiết trinh mà giữ chí ngọc băng hồ;
Một gái lành nết hạnh phải điểm tô,
Nếu xủ tiết danh ô không mua chuộc được.
Phận bồ liễu mười hai bến nước,
Biết bến nào là trược là trong;
Giữ sao cho giữ trọn chữ tòng,
Đừng quên chữ má hồng hay phận bạc.
Đã được liệt vào hàng khuê các,
Nhưng hành vi phải khác kẻ nam nhi;
Có hay chi một tấm tình si,
Mà để nhục cho thì cha mẹ.
Thà ở vá còn hơn làm lẻ,
Trước những điều nặng nhẹ phải làm thinh;
Tuổi xuân xanh chớ lụy vì tình,
Trong hay đục, nhục hay vinh là chỗ ấy.
(còn tiếp)
THI:
Đôi lời nhắn nhủ khách hồng nhan,
Trinh tiết quí hơn cả ngọc vàng;
Tứ đức tam tùng tròn bổn phận,
Chung thời cũng được thượng tiên bang.
Đến đây ta tạm xuất cơ… thăng.
Tý thời mùng Một tháng 5 năm Mậu Tuất (17 - 6 -1958)
THI:
Tích niên giáo đệ giả nhựt thâm,
Thất tự truyền nhơn khả vị tầm;
Tử tử nhập sơn thành nhập hảo,
Do hà cố thán động thiên tâm.
Huỳnh hoa thoại khí đăng tiên cảnh,
Liễu diệp huy hoàng võ tợ giâm;
Chấp bôi cảm vọng kim chung khởi,
Sắc chiếu hồng trần hiệp cổ âm.
(Năm xưa dạy chư hiền đệ, đến nay cũng đã lâu
Bảy chữ truyền dạy cho người, có thể chưa tìm
Người người vào núi, đó là việc tốt
Tại sao lại than thở làm động lòng Trời?
Hoa vàng khí tốt lên cảnh tiên
Lá liễu rực rỡ, mưa như đổ
Nâng chén, cảm động hướng về tiếng Chuông vàng trỗi lên
Lệnh cho trần gian hoà theo tiếng Trống giục.)
(Chiết tự: Lão, Lý đại Tiên giáng). Chư hiền nam nữ, chiết bài thi coi hôm nay ai giáng đàn. Nực cười thay! Trải 33 năm học Đạo Thầy, Lão nhận thấy nhiều môn sanh đã tự xưng mình học đến bực đại Thượng thừa, khoe mình đảm nhận nào là chức sắc. . . vân vân… Nếu biết thiên thời, địa lợi, tri nhơn hoà thì mới đảm đương chức vị ấy. Thế mà Lão chưa thấy ai phát huệ thì thử hỏi làm sao đến trước Hội Long Hoa hầu trở về ngôi vị?
Hôm nay Lão lâm đàn nhận thấy rằng chư hiền có ý muốn cầu Đức Đại Từ Tôn giáng lâm, nhưng không thể theo lời yêu cầu của chư hiền đặng. Vậy Lão giúp cho chư hiền đệ muội một bài kinh sám hối: không phải tụng sám hối một hai đêm cầu Mẹ lâm đàn. Lẽ thì bài kinh này đã ra từ lâu, hầu chư hiền đệ muội tụng mà cầu Đức Đại Từ Tôn mỗi khi cúng tứ thời. Bài kinh ấy gọi là “Nhứt Diệu Đề” như sau đây:
SÁM NHỨT DIỆU ĐỀ
Dặn lòng hai buổi dưa tương,
Đừng ham mỹ vị cao lương cho phiền;
Đã nguyền học Đạo Cao Thiên,
Ở ăn khiết tịch cho thiền con tâm.
Muốn về đến cỏi [cõi] muôn năm,
Chay lòng là gốc, để tầm ngôi cao.
Trước khuyên bỏ tánh tự hào,
Đừng khoe mình đã đạo cao hơn người.
Cũng đừng tranh cạnh đua bơi,
Bôn chôn nơi dạ lắm lời thị phi;
Trên đường sáng [xán] lạn cứ đi,
Môn sanh nam nữ xét suy phận mình.
Cầu cho tâm tánh quang minh,
Để tìm đường lối đăng trình ban sơ;
Ngọc Kinh Thượng Phụ trông chờ,
Đoàn con linh chưởng lên bờ vinh quang.
Đạo lành Thầy đã truyền ban,
Cửa từ mở rộng bảo toàn môn sanh;
Hãy lo chánh niệm tu hành,
Dồi trau nhơn nghĩa thiệt hành sớm trưa.
Mưu sâu kế độc tránh chừa,
Trong trần con chịu nắng mưa dãi dầu;
Cầu xin Thượng Phụ Đài Cao,
Ban ơn đức cả liên châu rước về.
Bởi lòng con trẻ muội mê,
Đắm say vật chất nặng nề tội con;
Cúi đầu lạy trước điện son,
Nghiêng mình chịu tội, tên con xin đề.
Có ngày con được vinh huê,
Phụng lời Thánh Huấn chẳng hề đơn sai;
Đường xưa con nguyện trở quày,
Quyết lòng về đến Thiên đài an thân.
Muôn năm gặp hội non thần,
Linh tiêu một bước, nhựt tân quảng hành;
Dạo sơn dạo thủy vân thanh,
Thủ tâm nhứt diệu cảnh lành Thầy ban.
Mộ triêu trau phận hành tàn [tàng],
Được xa lục đạo khỏi màn hồi luân;
Non cao hữu cảnh hữu phần,
Vô tam ác đạo hữu nhân hữu hiền.
Vì sao tri phước tri duyên,
Tri nhơn tri nghĩa tâm thiền bat tri;
Sớm lo học Đạo vô vi,
Bất sanh bất diệt mới thì trường sanh.
Muốn cho công quả viên thành,
Tứ thời tương hiệp, ân lành Thầy ban;
Làm sao thấu đến Thiên Đàng,
Tư phong lịch đạo mối đàng sơ giao.
Vàng tươi ngọc tốt xuê màu,
Thiết [thiếc] chì há dễ sánh sao ngang hàng;
Thương người thủ phận tằm tang,
Ghét người chẳng được vẹn toàn nghĩa nhân.
Thương người tế thế độ nhơn,
Ghét người dạ chẳng chánh chơn mị tà;
Thương người học ĐạoTrời Cha,
Ghét người theo dõi đường ma suốt đời.
Thương người tưởng có Phật Trời,
Ghét người độc ác khắp nơi tiếng đồn;
Thương người bảo trọng linh hồn,
Ghét người hoả tánh loạn ngôn không vì.
Thương người kề cận Đào nghi,
Ghét người cửa ngục A Tỳ đề danh;
Thương người báo nghĩa sanh thành,
Ghét người không gốc đạo lành dựa nương.
Thương người công quả khắp phương,
Ghét người tội lỗi biển lường còn dư;
Thương người bần sỹ [sĩ] tâm từ,
Ghét người phú túc ích tư riêng mình.
Thương người lãnh đạo minh minh,
Đã vì sanh chúng hữu tình Tây Phương;
Cho con biết Đạo mà lường,
Nam mô hóa sắc bổn lương con thành.
Thầy ban nhứt sám kim danh,
Cho con nhứt diệu đài thanh bồ đề;
Đến ngày mãn quả trần mê,
Thuyền linh Thầy rước cựu quê theo Thầy.
Môn sanh nam nữ đó đây,
Trước Long Hoa Hội có Thầy dắt lên;
Hôm nay phụng chỉ Ơn Trên,
Mẹ ôi con nguyện đáp đền tội kia.
Ngày xưa một bước không lìa,
Chiếc thân vàng ngọc phân chia ngậm ngùi;
Bởi vì con trẻ ham vui,
Đắm say vật chất xa nơi cội lành.
Vì con khờ dại hiếu danh,
Lãng quên lời mẹ dỗ dành nhủ khuyên;
Lỗi cùng Phật, Thánh, Thần, Tiên,
Việc lành thì ít, dữ kiềng bên thân.
Con nay hiểu nghĩa phú bần,
Đê đầu vọng bái Thiên ân trạng đề;
Cõi trần con đã chán chê,
Cúi xin Thầy, Mẹ dắt về đường xưa.
Bao nài lao nhọc nắng mưa,
Ăn năn sám hối quyết chừa tội qua;
Mẹ ôi ! xin Mẹ thứ tha,
Cứu cho con trẻ thoát xa bể trần;
Đê đầu vọng bái Thiên ân,
Cầu xin Đức Mẹ lâm trần dạy con.
(Lạy 3 lạy mỗi lạy 3 gật)
Niệm: Nam Mô Diêu Trì Kim Mẫu Vô Cực Đại Từ Tôn.
Tý thời 20 tháng 6 năm Kỷ Hợi (25 7 1959)
THI:
Hoá hoá sanh sanh hoá hoá sanh,
Nghiễm nhiên vi tượng kiến chơn hình;
Tuyết mi hoa mạo tinh sơ lạc,
Liễu nhãn đào tư nguyệt bán minh.
Sương [song] kiếm hoành yêu oai lẫm lẫm,
Hà y tuẩn [tuẫn] thể bộ khinh khinh;
Anh hoa tả xuất truyền chơn bút,
Tinh thái trường lưu nhứt bộ kinh.
(Sinh ra rồi biến hoá cứ như vậy mãi,
Nhưng nay bỗng trang trọng thấy được hình dạng chân chính của mình.
Chân mày trắng như tuyết, vẻ mặt như hoa, vì sao mới mọc.
Mắt liễu, vẻ hoa đào, mặt trăng sáng một nửa.
Song kiếm trừng trị yêu quái, uy nghi lẫm liệt,
Áo màu ráng trời đi theo thân thể, bước chân nhẹ nhàng
Anh hoa phát tiết, giáng bút tiên truyền lại
Tuyển chọn tinh tế để lưu truyền một bộ kinh.)
Vân Hương Thánh mẫu, mừng chư môn sanh nam nữ. Chư môn sanh được phép tọa thiền hầu nghe Ta tả kinh nhơn dịp lễ kỷ niệm Đức Nam Hải Như Lai. Ta thấy rằng: bổn kinh thời nhiều, nhưng thời giờ rất ít; nên Ta phải lâm đàn hầu tả cho kịp. Đàn sau sẽ có Đức Như Lai giáng lâm. Hôm nay Ta lại tả “kinh giới khẩu”, còn bài kinh “Khuyến Phụ Nữ Thanh Xuân” phần sau Ta nhượng lại cho Thủy Cung Thánh Mẫu sẽ lâm đàn nay mai để tả tiếp. Vậy chư hiền đệ muội nam nữ hãy tịnh lòng, hầu giúp cho điển đồng tiếp trọn.
GIỚI KHẨU KINH
THI BÀI:
Người dương thế thường hay lầm lỗi,
Biết vì đâu nên nỗi sai ngoa;
Cũng vì cái miệng nói ra,
Những lời bất chánh mới gia tội tình
Khuyến nhơn thế vật khinh khinh thị,
Hãy dăn lòng trước nghĩ sau phân;
Cổ lai quân tử hiền nhân
Dặt dè lời nói như bưng miệng bình.
Nhứt ngôn xuất phi vinh tắc nhục,
Nói sao cho kẻ phục người vì;
Miệng mà lắm tiếng thị phi,
Ăn càng [càn] nói bướng khổ thì về sau.
Dễ nói ra lấy vào rất khó,
Chớ tưởng rằng không có làm sao;
Hai bên vai giác [vác] chép vào,
Huyên thiên cái miệng dạ nào nghĩ cho.
Muốn nấu cơm phải vo sạch gạo,
Mà sao lời bất hảo không chừa;
Hãy noi gương những người xưa,
Mỗi khi muốn nói lọc lừa từ câu.
Trên Bắc Đẩu Nam Tào soi xét,
Cái miệng mà thót mét chi đây;
Nhiều lời tai nạn còn dài,
Nghe lời Ta dạy để rày nghe theo.
Bao nhiêu kẻ tiếng tiêu miệng ớt,
Ngọt như đường muốn sớt của cho;
Nhưng mà lòng quá đắn đo,
Khuyên chư môn đệ giữ cho được lời.
Hãy nghe kỹ Ta thời dạy bảo,
Để trở nên người đạo mai chiều;
Một là chớ có lắm điều,
Hai đừng xảo ngữ ra chiều đẩy đưa.
Ba thấy kẻ đi trưa về tối,
Chớ bày điều nên mối thị phi;
Rồi ra tiếng bấc tiếng chì,
Đã dơ cái miệng ích gì cho ta.
Bốn khi đến Phật Toà lễ bái,
Giữ tâm tâm van vái Phật Trời;
Chớ hề lắm tiếng nhiều lời,
Phước chưa được hưởng tội thời thấy ngay.
Năm Ta dạy những ngày còn bé,
Ăn nói cho có lễ có nghi;
Trên thời cha mẹ kỉnh vì,
Mẹ cha có hỏi con thì sẽ thưa.
Sáu là dạy khi đưa khi đón,
Mẹ cha chồng săn đón nhỏ to;
Chớ hề khi ban khi mua,
Khi nhiều khi ít, càng đùa khi khinh.
Bảy, là dạy nghe kinh tụng niệm,
Giữ tấc lòng đốn tiệm siêng cần;
Khuyên đừng miệng đọc lăng nhăng,
Rồi ra câu được câu chăng ích gì.
Tám, là dạy khi đi với bạn,
Lời thiệt hơn phải rán nghe nhau;
Chớ hề nói trước nói sau
Giữ lời chánh trực ai hầu dám khinh.
Chín là dạy giữ mình làm trước,
Ở làm sao cho được như lời;
Chớ hề nhạo báng chê cười,
Mười phần ở được trọn mười như kinh.
Mười, là day chớ bình phẩm bạn,
Muốn nói ra lóng gạn từ câu;
Ai mà giữ đúng đuôi đầu,
Thì người ấy được theo hầu Phật Tiên.
Bút Thần giáng trước đàn tiên,
Gọi là “Giới Khẩu” một thiên truyền đời.
NGÂM:
Giã từ Ta thượng thiên đài
Tịnh lòng tiếp lịnh Như Lai lâm đàn
Tiếp điển
THI:
NAM Bang phước gặp đạo huyền thâm,
HẢI khổ mong sao khỏi nịch trầm;
NHƯ nguyện dắt dìu qua bến giác,
LAI Bồng an hưởng cả muôn năm.
Bần Đạo mừng chư môn sanh lưỡng phái. Vậy hãy tọa thiền tịnh tâm nghe Bần Đạo để đôi lời giáo huấn. Nhơn dịp lễ kỷ niệm của Bần Đạo mà chư môn sanh đã có lòng thiết lễ nguyện cầu. Bần Đạo chứng minh cho tấc lòng thành ấy. THIỆN MINH, hiền đệ nên để ý, trước đây Đức Lý Giáo Tông đã cho “Sám Nhứt Diệu Đề” nay Bần Đạo cho “Sám Nhị Diệu Đề” những bài sám này sẽ in vào quyển “Minh Thiện Chơn Kinh”. Vậy hiền đệ nên nhớ còn những sám tam, tứ Diệu Đề, một hai đên sau các vị Thiêng Liêng sẽ dạy tiếp.
SÁM NHỊ DIỆU ĐỀ
TRƯỜNG THIÊN
Âm dương hỗn hợp hoà giao,
Hoạ đồ đất hẹp Trời cao sáng ngời;
Hoá sanh vạn vật khắp nơi,
Phổ thông Tam Giáo cuộc đời chủ trương.
Bức tranh cơ Tạo thông thường,
Giang san chung đúc bốn phương giác đồng;
Chí minh, chí Thánh chí công,
Chí tinh chí hiển hư không Phật Trời.
Điển mô huấn cáo những lời,
Tổng chi bát quái biến dời âm dương;
Khảm cung thuộc thủy chuyển thường,
Cung ly chơn hoả độ lường càn khôn.
Bổn ngươn liễu ngọ tâm tồn,
Tốn phong hoi hóp thần hôn lai hườn;
Chấn thời sấm sét Cấn sơn,
Càn trên thuộc phế điểm đơn vận hành.
Kim năng sanh thủy Đoài danh,
Khôn thời tụ sản lòng thành trược trung;
Thủy Hỏa Ký Tế tương phùng,
Ban ban hống tựu khắp cùng tào khê.
Khuyết trung giản chấp bạch quê,
Thất hườn cửu chuyển đề huề Tiên thiên;
Vận trù mộc bổn thủy nguyên,
Khảm hườn thận thủy diệu huyền siêu sanh.
Phạm vi Thiên địa tổng danh,
Long hàng hổ phục phối tranh đao hằng;
Tý, Ngọ, Mẹo, Dậu bổn căn,
Tìm con Ô Thố triều thăng chế hòa.
Bút thần họa khách hà sa,
Vạch mây Cung Quảng chưởng qua đắc hườn;
Sản thai luyện thuốc huyền chơn,
Thủy chung hô hấp tiếng đờn duy tâm.
Tiền khiên giũ sạch nợ trần,
Phong lưu rất mực phước phần vào đây;
Ngày đêm luyện chí theo Thầy,
Đừng lòng miệng chác tà tây khổ điều.
Vui người nhẫn nhịn mai chiều,
Cười đời háo thắng lòng kiêu chẳng vì;
Vui người đi đứng chẳng ly,
Cười đời làm tướng phân bì cao sâu.
Vui người điêu trách bồng châu,
Cười đời lắm ách mà hầu phước duyên;
Vui người khắc kỷ tâm thiền,
Cười đời tự đắc bút nghiên khoe mình.
Vui người chí khí phân minh,
Cười đời bợ đỡ cầu vinh khắp cùng;
Vui người tánh ở thủy chung,
Cười đời bất nhứt phục tùng bao la.
Vui người mộ Đạo Kỳ Ba,
Cười đời bỏ luống lần qua tháng ngày;
Vui người lòng thảo dạ ngay,
Cười đời mượn tiếng ăn chay nhiều lời.
Vui người tế độ khắp nơi,
Cười đời dối Đạo Phật Trời chơn tu;
Vui người đạo khí trăng thu,
Cười đời ớn kẻ ngao du gạt lường.
Vui người thủ tiết phụ sương,
Cười đời trắc nết chẳng tường họa thâm;
Vui người luyện ấn nhẫn tâm,
Cười đời chẳng xét chi lâm phân bì.
Vui người học đạo vô vi,
Cười đời lãnh chức ít khi đoái hoài;
Vui người mộ đức cao tài,
Cười đời lẻo mép sơ sài công phu.
Vui người quảng cả chơn tu,
Cười đời xương thịt tu du trách phiền;
Vui người hội hiệp đàn Tiên,
Cười đời tham lạm để truyền tục hư.
Vui người ăn ở nhơn từ,
Cười đời khắc bạc lời dư tiếng thừa;
Vui người nghe lỗi liền chừa,
Cười đời xảo ngữ đẩy đưa ngọt ngào.
Ưa người lòng xét như sao,
Buồn đời còn bị Thiên Tào bôi danh;
Ưa người vận hiệp nam thanh,
Buồn đời lạc nẻo đường quanh ban đầu.
Ưa người luyện chữ Ni Mâu,
Buồn đời không gốc, không cầu, không căn;
Ưa người bổn tánh thiện năng,
Buồn đời thân thể ngục hằng giương cung.
Ưa người chánh trực cang hùng,
Buồn đời bụi đắp mà vun đẩu thiền;
Ưa người thủ chấp long viên,
Buồn đời tiếng gọi Phật Tiên bao hàm.
Bước lên Nhị Diệu phương cam,
Môn sanh nam nữ phải đam vào lòng;
Ngày đêm luyện chí dạ hồng,
Người đời một giấc đèn chong tâm bào.
Hai vừng nhật nguyệt làu làu,
Soi trong thế giới mảy hào không sai;
Đạo là đường cả chông gai,
Kiên gan bền chí giồi mài thì nên.
Người người vốn có tánh linh,
Bởi mê thế sự mà quên quày đầu;
Chữ rằng: thương hải ruộng dâu,
Có câu: tang quyến huống âu người đời.
Muốn cho rõ sự cơ Trời,
Trì trai giới sát ngõ lời Minh Sư;
Xuất gia cầu đạo tam tư,
Bổn lai diện mục chơn như đắc truyền.
Dốc lòng học Đạo Phật, Tiên,
Sẵn sàng y bát hữu duyên hiệp hòa;
Tổ xưa bội pháp qui gia,
Hòa quan [quang] hồi tục tu nhà tinh chuyên.
Đức linh hồng thệ Phật Tiên,
Tiên cơ mật thiết thọ truyền đạo tâm;
A Di Đà Phật thâm thâm,
Môn sanh nam nữ truy tầm độ thân.
Trong bài”Sám” này có tất cả 108 câu. Từ nay chư hiền đệ muội sau khi cúng thời Tý, Ngọ, Mẹo, Dậu hãy đọc bài ấy mà tịnh. Mội câu lần một hạt chuỗi, đủ 108 hạt tức là xong bài………………
Vậy bần đạo thăng
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét