Thứ Bảy, 10 tháng 10, 2020

NHỊ ĐỘ MAI – 二度梅








NHỊ ĐỘ MAI – 二度梅


Nhị độ mai là truyện Nôm khuyết danh của Việt Nam, biên soạn theo cuốn tiểu thuyết Trung Quốc Trung hiếu tiết nghĩa nhị độ mai 忠孝節義二度梅. Nhị độ mai nghĩa là hoa mai nở hai lần, trong truyện có chép việc ấy coi là một điềm hay.

Mục lục
I. Họ Mai bị gia thần làm hại
II. Mai Lương Ngọc nương náu ở nhà họ Trần
III. Họ Trần bị hại: Mai Lương Ngọc và Trần Xuân Sinh gặp cảnh lưu ly
IV. Bọn gian thần bị tội: họ Mai và họ Trần được hiển vinh

I. Họ Mai bị gia thần làm hại

Hóa-nhi thăm-thẳm nghìn trùng,
Nhắc cân phúc tội, rút vòng vần xây.
Ngàn xưa mấy kẻ gian ngay,
Xem cơ báo-ứng biết tay trời già.
Tuần-hoàn lẽ ấy chẳng xa,
Chớ đem nông-nỗi mà ngờ cao xanh.
Trời nào phụ kẻ trung-trinh,
Dù vương nạn ấy, ắt dành phúc kia.
Danh thơm muôn kiếp còn ghi,
10Để gương trong sách, tạc bia dưới đời.
Gian-tà đắc chí mấy hơi,
Mắt thần khôn giấu lưới trời khôn dung.
Uy-quyền một chút như không,
Xem bằng lửa đá ví cùng đám mây.
Thanh-nhàn khi tựa hiên tây,
Vui lòng đèn sách, nghỉ tay văn bài.
Truyện ngoài xem “Nhị Độ Mai”,
Nhà Đường truyền vị đến đời Đức-tông.
Thường-châu có kẻ thanh-trung,
20Bá Cao là chữ, vốn dòng họ Mai.
Nền trung-trực dạ trang-đài (?).
Trời cho văn-tử đáng tài trạng-nguyên.
Đặt tên Lương-Ngọc dõi truyền,
Thông-minh rất mực, phượng tiên (?) trong đời.
Nhân-duyên số sẵn tự trời,
Hôn-nhân đã định vào nơi họ Hầu.
Chỉ vì ngoại lỵ bấy lâu,
Chưa trao lễ nhạn mới đầu thiếp canh.
Mai công tri-huyện Lịch-thành,
30Gương trung sáng vặc, túi thanh nhẹ bồng.
Cầm-đường ngày tháng thung-dung,
Tên ngay là tiết, nước trong ấy lòng.
Bấy lâu Lư Kỷ tướng-công,
Tuy quyền-tước lớn, mà phong độ hèn.
Túi tham của đút chật lèn,
Dung bên gian-đảng, ghét bên hiền tài.
Mai-công mấy độ quan ngoài,
Bạn-bè nhờ có mấy người đồng niên.
Trong triều hết sức giữ-gìn,
40Kẻ ngôi Thiêm-sự, người quyền Thượng-thư.
Kìa Đảng Tiến, nọ Đông Sơ,
Kẻ tòa Đô-sát, người tòa Hàn-lâm.
Chu toàn đã ngoại mười năm,
Bè trung chống vững, lòng căm chớ hòng.
Một ngày huyện-vụ vừa xong,
Vào trong ông mới ngỏ cùng phu-nhân.
Rằng : “Ta vốn kẻ trung-thần,
Trên vì nước, dưới vì dân mới là!
Ví dù theo thói người ta,
50Uốn lưng co gối cũng nhơ một đời.
Lọ là cầu-cạnh chi ai,
Chẳng trong lăng miếu, cũng ngoài điền-viên.
Con ta trạc tuổi thanh niên,
Có gương khoa giáp, có nền đỉnh-chung.
Sao cho giữ được chữ trung,
Mới là hiếu-tử nối dòng thư-hương.”
Những là vui chuyện nội đường,
Sảnh ngoài bỗng có hai chàng báo tin:
Mai-công phụng chỉ thăng thuyên.
60Chiếu trời mây vỗ, ân trên mưa nhuần.
Triều ban dự bậc quan thân,
Lại khoa cấp-sự giữ phần gián quan.
Tin đâu khêu tấm trung-can.
Một hai quyết phải trừ gian phen này.
Truyền làm tiệc rượu vui-vầy,
Dặn-dò gia-sự đinh ngày khởi thân.
Tàng tàng chén cúc vài tuần,
Đòi công-tử với phu-nhân dạy lời:
Rằng: ” Bấy lâu những ở ngoài,
70Dạ này tấm-tức với người quyền gian.
Rày vâng Đài-gián thăng quan,
Phen này ta quyết cả gan phen này.
Bấy giờ một dở, một hay,
Họp nhau nào biết có ngày nữa thôi?
Cũng đừng bịn rịn lôi-thôi,
Mẹ con sớm liệu về nơi quê nhà.
Điền-viên vui thú nông gia,
Tiện con đèn sách ấy là lẽ nên!
Ví dù giải kết có tin,
80Bảo nhau sớm liệu tìm miền ẩn thân.
Chờ cho thiên-địa xoay vần,
Sẽ toan-tính với thù-nhân sau này.
May mà vua chứng lòng ngay,
Đàn hồ, lũ thỏ, một ngày quét thanh.
Bấy giờ phu quý, phụ vinh,
Đưa tin sẽ đón thăng kinh cũng vừa.”
Tân bằng mừng rỡ chật nhà,
Tiếp thù ông bận những là hàn-ôn.
Phu-nhân nửa lệ nửa buồn,
90Đòi công-tử đến, mẹ con bàn-hoàn.
Rằng: “Nghe như bố con bàn,
Phen này quyết với quyền gian đối đầu.
Sẻ đàn, phượng một, chắc đâu,
Cái lo này để về sau tày trời.”
Nghe rồi công-tử thưa lời:
“Thế rằng cái đạo làm tôi mới là.
Nhà huyên xin chớ lo xa,
Hễ trời có mắt thì ta lệ gì ?
Hãy cho vẹn tấm trung-nghì,
100Vinh, khô, đắc, táng, sá chi cuộc đời.”
Ông vừa xong việc khách ngoài,
Bước vào trong bỗng nghe lời con thưa.
Vuốt râu cười nói lui ra,
Khen rằng: “Ấy thực đại-gia con nòi!
Trẻ thơ biết đạo làm tôi,
Gương trung-hiếu, lấy một lời mà suy.
Mới hay hổ phụ, lân nhi,
Khéo thay tính trẻ cũng y tính già.”
Nói rồi truyền gọi lại nha,
110Đương đường nhủ hết nỗi xa nỗi gần:
“Làm người biết đạo tu thân,
Việc quan phải giữ lấy nhân làm đầu.
Tiếng thanh bạch để về sau,
Dẫu rằng uống nước, ăn rau chớ nài.
Việc văn án, phải quan-hoài,
Một câu nặng nhẹ mấy người oan-khiên.
Khuyên đừng đổi trắng thay đen,
Ngược dân dưới, dối quan trên, khó lòng.
Giữ-gìn đôi chữ hiếu-trung,
120Sao cho không hổ với trong cao dày.
Ta đây vả tiếng quan thầy,
Giã nhau một chút niềm tây gọi là.
Rồi đây một bước một xa,
Nghe ta hay chẳng nghe ta, mặc dầu!”
Dạy rồi ai nấy gật đầu,
Rằng: “Vâng khuyên nhủ từ sau ghi lòng.”
Trù-phòng dọn dẹp vừa xong,
Một công-tử với hai ông bà ngồi.
Dặt-dìu sẽ rót chén mồi,
130Nghìn câu trân-trọng trăm lời biệt ly.
Người trằn-trọc nỗi về quê,
Kẻ năn nỉ nỗi đường đi giữ-gìn.
Người khuyên cẩn-thận sớ tiên,
Kẻ răn nhắc nhỏm sách-đèn sớm khuya.
Lôi thôi giở nỗi lâm-kỳ,
Ngoài đầy vơi chén, trong mê mẩn tình.
Phu-nhân hỏi: “Buổi đăng Kinh,
Phỏng cho mấy đứa tùy hành theo ông ?”
Mai-công rằng: “Lọ chi đông,
140Một chàng Mai Bạch vốn trong họ nhà.
Gọi là làm bạn đường xa,
Gọi là ngày gió ngày mưa theo hầu.”
Còn đương trò-chuyện trước sau,
Xôn-xao nghe bỗng tiếng đâu gần gần.
Gót giày ông mới động chân,
Trông ra đã chật một sân những người.
Bẩm rằng: “Dân sự chúng tôi,
Tấm lòng xin ngỏ, chút lời xin thưa.
Từ ngày trọng lỵ đến giờ,
150Một đường sao phúc, muôn nhà phật sinh.
Bao nhiêu lại tệ dân tình,
Đuốc soi chẳng chút đỉnh-đinh dám lòa.
Tấc lòng xem bẵng mẹ cha,
Đọc ca mạch-tuệ ngâm thơ cam-đường.
Bấm tay mười mấy năm trường,
Mưa xuân tưới khắp một phương Lịch-thành.
Rày vâng thăng điệu lai Kinh,
Thỏa lòng hồ-thỉ phỉ tình đai cân.
Thênh-thênh nhẹ bước thanh vân,
160Cành cây dám tưởng bận chân loan hoàng.
Nghĩ cho chút phận tầm thường,
Đạo con cái được tựa-nương bấy chầy.
Chỉn e tiếp lỵ sau này,
Lòng thương cân được như rày mấy phân ?
Bấy giờ lễ cách quan dân,
Tưởng công-đức trước, lại năn nỉ nhiều.
Lòng thành nay quyết xin theo,
Làm đơn ái-mộ dâng liều một chương.
Họa là vua nặng lòng thương,
170Thấy tình Trường-xã, lưu chàng Khấu quân.”
Ông rằng : “Vẫn biết lòng dân,
Lời trung-hậu ấy, tình thân-ái này.
Ta làm Huyện-tể bấy nay,
Có chi công-đức đáng rày truy-tư?
Phương chi thế-sự bây giờ,
Dễ dò bụng hiểm, khôn lừa mưu gian.
Họ Lư cưu dạ tham tàn,
Rình như miếng mộc, những toan hại người.
Phỏng mà nghe đặng như lời,
180Hẳn là mua chuộc lòng người hạ ta.
Miệng sàm dệt gấm thêu hoa,
Công nào chưa thấy tội đà đến ngay.
Lại càng mang tiếng chẳng hay,
Yêu đây để xấu cho đây ích gì?”
Dân nghe biết ý quyết đi,
Lui ra, còn dám nằn-nì nữa đâu?
Một đoàn kẻ trước, người sau,
Khen cho rằng khéo bảo nhau một bề.
Lễ đâu đưa đến tức thì,
190Vạn dân-tản, vạn dân-y sẵn sàng.
Thưa rằng: “Gọi chút lễ thường,
Mà lòng tạc dạ ghi xương còn dài”
Ông xem thấy ý vật nài,
Kíp truyền thu lễ, trao lời giã ơn.
Phu-nhân công-tử xuống thoàn,
Mai-công ở lại đợi còn bàn giao.
Ngại-ngùng thay, lúc phân-bào !
Kẻ về tử-lý người vào ngọc-kinh.
Cho hay là kẻ trung-trinh,
200Nặng lòng vương-sự, nhẹ tình gia-mang.
Mặc ai châu lệ hai hàng,
Gác tình nhi nữ xem thường như không.
Vài ngày huyện-vụ giao xong,
Ra thành lên kiệu thẳng giong nhật trình.
Huyện dân chực sẵn tiễn-hành.
Hương-đăng bày án, tràng đình dọn nơi.
Đón đưa khắp mặt thiếu ai,
Mấy tòa quan tỉnh mấy người hương thân.
Người dường ra ý ân-cần.
210Ông thì thủng-thẳng có phần xem khinh.
Giã nhau mười dặm tràng-đình.
Trông theo đã khuất mây xanh mấy trùng.
Nước non đưa đón người trung,
Suối tuôn giòng chảy, núi chồng lớp cao.
Nhởn-nhơ cỏ đón hoa chào,
Hang men móc vượn, cây xào-xạc chim.
Tấc gang kinh-quốc chờ xem,
Đường ngày giục kiệu, điếm đêm đổ cờ.
Kìa chài sớm, nọ cày trưa,
220Gió gần giọng địch, mây xa tiếng tiều.
Quê người phong cảnh đìu hiu.
Trăng thanh gió mát dường chiều chuông ai !
Những màng giong-ruổi dặm dài,
Trông ra bỗng thấy bốn người xa xa.
Hỏi ra mới biết rằng là:
Trong kinh, Lại-bộ sai nha đón mình.
Hoàng hôn gác bóng chênh-chênh,
Truyền tìm quán khách bộ-hành nghỉ-ngơi.
Bốn người tức khắc vâng lời,
230Trước đi tìm chốn thảnh-thơi đón mời.
Tuy rằng quán khách hẹp-hòi,
Chốn nằm cũng tĩnh, chốn ngồi cũng thanh.
Thung-dung hỏi chuyện trong Kinh:
Lư, Hoàng lũ ấy tung-hoành ra sao ?
Thưa rằng: “Chức trọng quyền cao,
Triều-quan quá nửa ra vào làm tôi.
Ai ai khóa miệng bịt hơi,
Ngang vua phú-quí, nghiêng trời uy-linh.
Đại-gia rày ở quan Kinh,
240Theo đòi nhiều ít, thế tình là xong.”
Mai-công nổi giận đùng đùng,
Rằng: “Phen này quyết chẳng dung loài hồ.
Vào đây ta sẽ hay cho,
Đừng Tung, đừng Kỷ, hết Lư, hết Hoàng !
Mặt nào bắt-chước thế thường,
Thiết-tha ban tối, khoe-khoang giữa ngày.”
Gan càng tức, ruột càng đầy,
Truyền thôi cuộc rượu, vào ngay trong bình.
Sáng mai thức dậy trông quanh,
250Treo trên thấy có bực tranh Di, Tề.
Như khêu tấm dạ trung-nghì,
Dạy đem nghiên-bút thơ đề mấy câu.
Than rằng: “Thanh ứng khí cầu.
Người kim cổ, bụng trước sau một đường.”
Lại truyền giục kiệu lên đường,
Trông kinh-quốc đã tấc gang đó rồi.
Một vùng riêng đặt phủ trời,
Hoàng-thành trăm trắm, kỳ-đài cao cao.
Cõi người nước nhược nguồn đào,
260Liền mây ngàn dãy, bày sao trăm tòa.
Chập-chồng vách gấm tường hoa,
Cửa lầu ngũ-phượng, thềm nhà lưỡng long.
Bách quan đóng chặt sân phong,
Tiếng chen xe ngựa, vẻ lồng cân đai.
Tìm vào Lại-bộ tới nơi,
Truyền nha-môn định, ngày mai tiến chầu.
Ngắm xiêm, sụa mũ giờ lâu,
Uốn lưng năm lạy, Khấn đầu ba phen.
Lạy rồi ren-rén tâu lên,
270Chúc câu vạn-tuế, dâng lên cửu-trùng.
Tiếng trời đưa lại bệ rồng:
“Đặt tòa gián-viện kén dùng kẻ trung.
“Sau cho sắt đá một lòng,
“Miệng hùm chớ sợ, vảy rồng chớ ghê.”
Tâu rằng: “Hổ phận ngu-si,
“Đem lòng khuyển mã đền nghì bể sông.”
Tan triều lệnh ngự vào trong,
Bách quan lui xuống đều cùng bước ra.
Mai-công toan trở lại nhà,
280Tiện gần tướng-phủ sang qua vào liền.
Nghiêm-trang cụa thế sân quyền,
Trước bia hạ mã chật lèn ngựa xe.
Ông bèn giả cách vô tri,
Ngồi trăm-trắm kiệu, vào kề nghi-môn.
Môn quan trông thấy thét dồn,
Xôn-xao bẻ-bót, ôn-tồn hỏi tra.
Ông rằng: “Đâu chẳng biết ta,
Huyện-quan về bộ Lại-khoa ngày rày.
Buổi chầu nhân tiện sang đây,
290Nhờ ai trong ấy bẩm thay cho tường.”
Môn-quan rằng: “Lệ phủ-đường,
Có đồ yết lễ, có vàng mấy bao.
Có thì sẽ bẩm cho vào,
Bằng không hãy chực ngoài rào xa xa.”
Ông rằng: “Lệ đặt bao giờ,
Ấy là quốc-pháp hay là phủ-qui ?
Ta đây vốn chẳng cần chi,
Vào thì cũng được, ra thì cũng nên !”
Không xuống kiệu vẫn ngồi trên,
300Tay cầm thủ-bản ném bên thềm ngoài.
Kíp truyền quân kiệu tháo lui,
Sang tòa Đô-sát, họp người đồng niên.
Phùng-công ra đón rước liền,
Chủ tân một hội, hàn-huyên mấy lời.
Sự tình kể-lể lôi thôi,
Ngoài ngàn muôn dặm, trong mười mấy năm.
Xiết bao trò-chuyện tri âm,
Khói hương cao thấp, chén trầm đầy vơi.
Mai-công rằng: “Lúc mới rồi,
310Tức gan mà lại nực cười lắm sao.”
Kể từ tướng-phủ mới vào,
Thế nào khinh-dể, thế nào hỏi han,
Miệng đường lại, mặt môn-quan,
Kẻ xin đòi lễ, mình toan ném tờ.
Đinh-ninh kẽ tóc chân tơ,
Từ đầu đến cuối kể qua một hồi.
Chư công rằng: “Hãy kín hơi,
Nghĩ cho chín, mới là người tri cơ.
Rồi đây trời cũng có ta,
320Làm bao giờ, biết bấy giờ, mới cao.”
Ông rằng: “Như thế thảo nào,
Bè gian trách chẳng quyền-hào lắm ru !
Như bây giờ việc nên lo,
Quấy hôi đặt miệng, bày trò Trào-châu.
Tôi đà tính trước nghĩ sau,
Muốn yên chi khỏi lấy đầu họ Lư ?
Thôi đừng sợ oán sợ thù,
Rày lần mai lữa, nhập-nhù khó coi.
Việc này giao một mình tôi,
330Để mà xem Kỷ với Mai thế nào !
Ví bằng giải kết làm sao,
Giữ-gìn Mai-thị trỏ vào lối sinh.
Già này dù thác cũng vinh,
Suối vàng khuất mặt cũng khinh-khích cười.”
Thoắt thôi từ tạ mấy người,
Tấc lòng thề chẳng đội trời với ai.
Ngày xuân thấm-thoắt đưa thoi,
Lư-công tuổi thọ sáu-mươi vừa tuần.
Định ngày vui mở tiệc xuân,
340Vua cho lễ-vật nội thần đem ban.
Lại truyền văn võ bá quan,
Cứ ngày cùng đến tướng môn lễ mừng.
Phủ-đường dọn dẹp tưng-bừng,
Rỡ-ràng kết thái trương đăng trong ngoài.
Vóc đề chữ, gấm thêu bài,
Vịnh ca Thiên-bảo, chúc lời Nghiêu-hoa,
Dập-dìu chốn vũ nơi ca,
Trò bày bách hí, nhịp hòa bát âm.
Chong giá nến, quạt lò trầm,
350Rót bình rượu ngọc, dâng mâm đào vàng.
Võng đầy cửa ngựa chen đàng,
Khắp triều quan đến, khắp hoàng thân ra.
Bày phô chén ngọc đũa ngà,
Gia-hào mấy vị, trân-la mọi mùi.
Tướng-công thăm-thẳm xa ngồi,
Tiếp tân phó mặc con nuôi họ Hoàng.
Mai-công lễ vật tầm thường,
Miến vài cân với lạp-hoàng vài đôi.
Hoàng Tung trông thấy mỉm cười,
360Tìm Lư-công, đến tận nơi tiến trình.
Tướng công ngồi trước thọ bình,
Chói vàng bông mũ, ngắt xanh hoa bào.
Tứ bề trướng gấm màn đào,
Mùi hương-xạ ngát, tiếng thiều nhạc rung.
Trông ra nhác thấy Hoàng Tung,
Xem đơn lễ mới thung-dung dạy lời:
“Ít nhiều có lễ thì thôi,
Hãy thu lấy đấy, khuyên mời hẳn-hoi.
Tay này là bậc đại tài,
370Để ta mua chuộc làm tôi tớ nhà.”
Cứ lời, Tung mới bước ra,
Chào rằng: “Vâng mệnh ân-gia mời ngồi.
Lễ đơn đây đã thu rồi,
Dám xin vài chén tiệc vui gọi là !”
Mai-công rằng: “Những ở xa,
Chẳng hay quí chức tuổi đà bao nhiêu ?”
Tung rằng: “Tuổi cũng chưa nhiều,
Năm mươi tư tuổi gần theo cõi già.”
Ông rằng: “Thực cũng khéo là,
380Thế mà nghĩa-phụ, thế mà ân-nhi.
Sống lâu thấy lắm chuyện kỳ,
Sao xưa nay vẫn không nghe tiếng đồn ?
Mới hay vượng-khí tướng-môn ,
Năm lên sáu tuổi sinh con đầu lòng.”
Tung nghe ra giọng đâm hông,
Mặt ngăn ngắt tím, mắt sòng-sọc trông.
Các quan biết ý Hoàng Tung,
Giả điều mời rượu Mai-công ép nài.
Ông rằng: “Lượng rượu kém ai,
390Tiệc vui, dù chẳng đợi mời cũng say.
Nghe hơi tử-khí đâu đây,
Dẫu rằng nửa chén đưa cay chẳng màng.
Đến đây vâng mệnh Thánh-hoàng,
Sá vui kèo rót với tuồng quyền-gian.”
Hoàng Tung đỏ mặt sốt gan,
Bất thình-lình bỗng trong bàn mất vui.
Như mèo tiu-nguỷu mất tai,
Chẳng thu một lễ chẳng mời một ai.
Vào trong tức tối một hơi,
400Bên màn Lư Kỷ, kê ngồi nỉ-non.
Nhỏ to chua cái chua con:
“Hôm xưa kiệu đến nghi-môn còn ngồi.
Mới rồi đưa lễ giễu chơi,
Đã câu rủa mát, lại lời đưa chênh.
Gần chùa gọi bụt là anh,
Không văn-pháp nữa, còn danh-giá gì”
Lư rằng: “Con chớ lo chi,
Ra tay, rồi sẽ liệu bề bẻ mai.
Cho vào bạn đảng thì thôi,
410Bấy giờ dẫu nghĩ kêu trời cũng xa !”
Bè gian đang sắp mưu lừa,
Bỗng đâu nội-giám đã ra truyền đòi.
Liền tay thảo sớ một bài,
Theo chân nội-giám vào nơi đền vàng.
Vua Đường rằng: “Buổi thong-dong,
Hứng vui nên triệu tướng-công hầu cờ.”
Bàn son bày sẵn quân ngà,
Lư-công có ý chịu thua hai bàn.
Đứng tâu trước mặt long-nhan,
420″Lòng lo việc nước, nào toan việc cờ.
Ai hay những việc chẳng ngờ,
Lời biên-quan báo, thực là không sai.
Ong trong tay áo có người,
Giao-thông giặc Thát toan bày nọ kia.
Tâu lời nghe những ngô nghê…”
Một tờ đoản biểu tức thì giở ra.
Vua Đường cất lấy xem qua,
Mới hay bạn nghịch ấy là Bá Cao.
Truyền đem chính-pháp thị-tào,
430Lư-công xin để buộc vào có tang.
Ghé tai tâu mật mọi đường:
“Xin làm như thế mới tường đầu đuôi.”
Buổi chầu vừa rạng ngày mai,
Đường-hoàng rằng: “Mới tin ngoài lại tâu.
Ải quan rợ Thát quấy rầy,
Định ngày tiến-thảo ngõ hầu an biên.
Cho Đông Sơ với Lạc Thiên,
Kẻ quyền Tham tán, người quyền Đổng binh ,
Văn-thần ra sức đãng bình.
440Dẹp yên khói giặc, quét thanh bụi Hồ.”
Hai người nghe nói căn-do,
Trước thềm phủ phục, mướt bồ hôi lưng.
Mai-công ra trước tâu rằng:
“Dám bày lòng kiến xin dâng bệ rồng.
Phen này động việc binh-nhung,
Cũng vì Lư Kỷ, Hoàng Tung hai người.
Khéo là bày việc trêu ngươi,
Cầm cơ chẩn-mễ, cướp mồi tiểu-di.
Thóc kho, của nước thiếu chi,
450Xin cho chẩn-thải theo y lệ thường.
Lấy đầu hai gã Lư, Hoàng,
Ắt là Thát trở về hàng không sai.
Can chi gây việc cõi ngoài,
Đem tài qua-giáp, ép người văn-chương.”
Đường-hoàng nổi giận vội-vàng,
Rằng: “Vì giặc Thát tìm đường hoãn binh.”
Kíp truyền đao-phủ chính hình,
Mới hay tấm dạ kiên trinh khác thường.
Hãy còn ngảnh lại triều-đường,
460Miệng còn sỉ-nhục Lư, Hoàng chưa thôi.
Thương thay trung nghĩa như ai,
Sa cơ một phút ra người cửu-nguyên.
Trần Đông Sơ với Lạc Thiên,
Vạ lây cũng phải cách quyền hồi dân.
Hai người thương kẻ trung-thần,
Nghĩ tình bạn-hữu ân-cần thở-than.
Cùng Mai Bạch mới lo toan,
Vào chùa Tướng-quốc bàn-hoàn với sư.
Xin đem linh-cữu để nhờ,
470Giục chàng Mai Bạch về nhà đưa tin.
Mới hay tục-ngữ thế truyền,
Lời rằng: “Họa chí vô đơn”cũng thường.
Lòng chua xót, bước phong sương,
Nửa đường Bạch cũng suối vàng chơi xa.



II. Mai Lương Ngọc nương náu ở nhà họ Trần

Lư-công mạo chỉ truyền ra,
Đến Thường-châu nã một nhà họ Mai.
Ruổi mau lệnh-tiễn hỏa-bài,
Mấy ngày thoắt đã tới nơi châu Tường.
Còn đương trách cứ phủ-đường,
480Mỏng tai may có một chàng Đồ Thân.
Đêm khuya kíp vội dời chân,
Mách công-tử với phu-nhân liệu đường.
Mẹ con xiết nỗi kinh-hoàng,
Cùng xuôi nỗi thảm, vội-vàng trốn đi.
Chia đường tìm chốn trợ thì,
Đỡ khi gấp rút, đỡ khi vận cùng.
Phu-nhân sang đất Sơn-đông,
Có em lỵ đó cũng trong đồng-bào.
Đồ Thân lòng tiết nghĩa sao,
490Tưởng ân-nghĩa trước xin theo đi cùng.
Sửa-sang hành-lý vừa xong,
Một công-tử với Hỉ Đồng đi ra.
Nghi-trưng huyện ấy chẳng xa.
Nhạc-thân lỵ đó tên là Hầu Loan.
Ngại-ngần gặp bước gian-nan,
Người bâng-khuâng mẹ, kẻ bàn-hoàn con.
Trời đà mở lối sinh môn,
Rồng về biển, cọp về non bao giờ ?
Phủ-binh khen khéo hững-hờ,
500Canh năm vừa kéo đến nhà họ Mai.
Trước sau nào có một ai,
Khói nhà lạnh ngắt, tiếng người vắng tanh.
Sai-nha thấy thế nghi tình,
Bảo nhau tầm-nã chung quanh trong làng.
Phu-nhân phận ấy đã cam,
Cũng may được chốn nhà em nương mình.
Thương thay công-tử tuổi xanh,
Long-đong mấy hội, gập ghềnh mấy phen.
Từ khi thầy tớ xuống thuyền,
510Thuận giòng thủy-đạo tới miền Nghi-trưng.
Tới nơi lên bộ dùng-dằng.
Vào nơi phạn-điếm hỏi chừng trước sau.
“Lạ-lùng xin tỏ cho nhau,
Huyện-quan có phải họ Hầu tên Loan ?”
Nhà hàng thấy nói hỏi-han,
Trình rằng: “Thôi chớ hỏi bàn làm chi.
Lòng người ăn xổi ở thì,
“Nặng bên danh-lợi, nhẹ bề thân-hơi.
Cho hay giàu điếc sang đui,
520Tìm vào trước đã lắm người ra không.”
Nghe thôi công-tử ngại-ngùng,
Ngồi bên, khen gã Hỉ Đồng mỏng tai.
Đêm khuya ghé lại rỉ lời:
“Lòng người nham hiểm, thói đời viêm-lương.
Mới rồi nghe chuyện nhà hàng,
Họ Hầu đây cũng là phường lăng-nhăng.
Mà ta lánh nạn băng chừng,
Chúng tôi dại dạ, nghĩ đừng vội tin.
Chấp kinh nếu chẳng tòng quyền,
530Sợ chi muôn một chu-tuyền làm sao ?
Tôi xin thay mặt trước vào,
Nghe tình-hình ở thế nào thử xem.
Bằng ra lòng cá dạ chim,
Tôi đương nạn ấy, người tìm nẻo xa.”
Túi hành-lý gửi vào nhà,
Tớ thầy đổi áo bước ra lên đường.
Lạ-lùng lẫn-lộn hèn sang,
Hỉ Đồng đi trước, để chàng theo sau.
Đồng đà liệu trước mưu sau,
540Mua tì-sương đã buộc đầu đai lưng.
Bước vào cửa huyện Nghi-trưng.
Để công-tử chực nghe chừng một nơi.
Cậy người môn lại thưa lời,
Đưa tin bán-tử họ Mai sang hầu.
Truyền cho vào tận trong lầu,
Hầu Loan hỏi hết gót đầu vân vân.
Hỉ Đồng thưa chuyện xa gần,
Nỗi nhà oan khốc, nỗi thân lạc-loài.
Thoắt thôi giả cách sụt-sùi,
550Nào hay Hầu-thị là người bạc đen.
Dứt lời trở mặt quở liền:
“Tội-nhân ai dễ có quyền dám dong ?
Con ta yểu-điệu khuê-phòng,
Có Tây-tử đó, thiếu đông-sàng nào !
Ở đây mười mắt trông vào,
Rõ-ràng án ấy, tha sao cho đành.”
Kíp truyền ngục tốt giao canh,
“Rồi đây ta sẽ tiến kinh cho rồi !”
Bấy giờ công- tử đứng ngoài,
560Trông vào đã thấy tơi-bời điệu ra.
Quá thương dường muốn hỏi qua.
Hỉ Đồng liếc mắt xa đưa ý chàng.
Trong mình sẵn gói tì-sương,
Giở ra nuốt ực quyết đường quyên-sinh.
Nghĩ người con trẻ thương tình,
Nghĩa thầy-tớ nặng xem thân mình không.
Tưởng là Mai-thị thân vong,
Giả hình ai biết Hỉ Đồng là ai ?
Một đoàn ngục tốt tơi-bời,
570Khiêng ra cửa bắc, táng ngoài đồng không.
Mai-sinh theo hút xa trông,
Viếng thăm làm dấu, mới phong nên phần.
Nghĩ đi nghĩ lại tần-ngần,
Tay không đất khách, một thân quê người.
Biết cùng ai tỏ khúc nôi,
Dở-dang hai lẽ, tới lui khó lòng.
Bước lần bỗng thấy gần sông,
Xuống thuyền nhờ để tìm vùng lánh xa.
Trọn ngày đến bến, lên bờ,
580Trời hôm vào đấy là chùa Thọ-am.
Than rằng: “Tội báo cho cam,
Thế này trời hãy còn làm đến đâu.
Họ Lư tầm-nã còn lâu,
Tấm thân đã biết về sau thế nào ?”
Trong lưng sẵn giải lụa đào,
Cởi ra, sinh đã buộc vào cành cây.
Thương ôi ! Sao khéo đang tay !
Thân này đã quyết với dây ấy rồi.
Trời còn cứu kẻ anh-tài,
590Trong chùa bỗng có một người bước ra.
Lòng lành thấy sự oan-gia,
Trở vào bạch lại sư-già trước sau.
Sư ra dạy cởi xuống mau,
Khương-thang kíp đổ, giờ lâu tỉnh dần.
Thấy người trạng mạo văn-nhân,
Quá thương sư mới hỏi gần hỏi xa.
Nỗi mình đâu dám giở ra,
Sinh bèn chống chế, kêu-ca liệu lời.
Rằng: “Con chút phận tôi đòi,
600Giữ đồ thầy để mất vài bốn bao.
Trở về nghĩ chẳng tha nào,
Cực mình nên phải quyết liều quyên-sinh.
Sư rằng: “Cửa bụt thênh-thênh,
Tòng quyền hãy tạm gởi mình ở đây.
Nhà chùa công việc cũng đầy,
Dẫu rằng lau án, tưới cây cũng là,
Vả trông ra dáng con nhà,
Sẵn nghiên bút viết một vài tờ xem.
Dẫu rằng xấu tốt chẳng hiềm,”
610Sinh bèn đề chữ “Thọ-am tự-thuyền”.
Sư rằng: “Này bút thiên-nhiên,
Lọ tìm Vũ-kiếm, lọ khen Lan-đình.”
Phòng văn giao mặc viết kinh,
Vườn hoa lại phó một mình sửa-sang.
Sức người như giúp hơi dương,
Một vườn tươi-tốt bằng dường thêm xuân.
Những mong bóng Phật nương thân.
Hay đâu bỗng chốc lương-nhân giắt vào.
Nỗi sư nào biết đâu nào,
620Chẳng là tên gọi Nhật Cao họ Trần.
Thám hoa võ-cử xuất thân,
Ba nơi tọa-trấn mấy lần đổng-binh.
Thờ-ơ áng lợi quyền danh,
Vui lòng tuyền-thạch gửi mình thuyền-am.
Trần Đông Sơ ấy là em,
Một ngày thong thả mới tìm sang chơi.
Anh em kể-lể lôi-thôi,
Có khi nhắc chuyện họ Mai khóc thầm.
Mai-sinh riêng dạ nghĩ ngầm,
630Xem trò-chuyện ấy, biết tâm-tích rồi.
Hai ông tìm hứng mua vui,
Giắt tay, sánh bước, chân dời vườn sau.
Xem hoa vừa ý, gật đầu,
Trình anh, mới kể mấy câu nằn-nì:
“Mười năm theo việc vương-kỳ,
Sân Đào mấy lớp, Đông-ly bỏ rèm.
Gốc cằn, cỗi rậm, khó xem,
Cỏ cây ví với am-thuyền kém xa.
Tiểu đây kể khéo có thừa,
640Nhà em bên ấy tạm nhờ một tay.”
Sư rằng: “Anh cũng là may,
Ngày xưa được chú tiểu này bỗng không.
Họ Vương tên gọi Hỉ Đồng,
Bút nghiên tay giỏi, nghi-dung con nhà.
Việc quen sửa cảnh, vun hoa,
Cho về bên ấy nương-nhờ cũng hay !”
Mai-sinh bèn lạy tạ thầy,
Theo về Trần-phủ một giây đến nhà.
Trần-công cười nói lôi-la;
650Đòi công-tử với cùng là phu-nhân.
Tiểu-thư cũng gọi đến gần,
Rằng: “Hôm nay buổi dời chân tham thuyền.
Xin về được gã thiếu-niên.
Cảnh hoa việc biết, bút-nghiên nghề nòi.”
Những xem phong-dạng con người,
Một nhà ai cũng một lời khen lao.
Mai-sinh đành phận biết sao,
Khi ra viết thiếp, khi vào sửa hoa.
Cửa người ngày tháng lân-la,
660Một mình riêng những xót-xa sự mình.
Sinh-ly xa cách huyên-đình,
Một cây bóng ngả mấy cành tang-du.
Sơn-đông non nước mịt-mù,
Niềm thương nỗi nhớ biết hồ có nguôi.
Nghi-trưng một nắm cát vùi,
Vì ai nên nỗi thiệt-thòi đến ai.
Sau này dù nhận có người,
Nghĩa kia biết có đền-bồi được chăng ?
Thành sầu cao ngất tầng tầng,
670Một vườn ngày gió đêm trăng thẫn-thờ.
Hay đâu con tạo lọc-lừa,
Chen vòng hắc vận, trao tơ xích-thằng.
Có phen bên gió dưới trăng,
Buổi man-mác bóng, cơn văng-vắng người.
Trong vườn tha-thướt dường ai,
Xem hoàn đổ lá, giục đòi hái hoa.
Người đâu trong ngọc trắng ngà,
Mặt vành-vạnh nguyệt, tóc ngà-ngà mây.
Lập-lòa mớ đính mớ thay,
680Sắc xiêm hoa dệt, nét giày phượng thêu.
A-hoàn một lũ nối theo,
Quạt tha-thướt phẩy, lò dìu-dặt mang.
Xa xa thoang-thoảng mùi hương,
Mai-sinh trông liếc rõ-ràng tiểu-thư.
Mối tình buộc lấy khư-khư,
Hồn bâng-khuâng quế, phách thờ-thẫn mai.
Của đâu trêu-ghẹo chi ai,
Ấy người cung Quảng, hay người đài Dương.
Tấc riêng, riêng những mơ-màng,
690Chữ tư đề dưới chữ tương ngày ngày.
Nghĩ mình lưu-lạc đã dày,
Chút niềm tâm-sự dám bày cùng ai.
Lại mang cái tiếng tôi-đòi,
Nhân-duyên trời có chiều người cho chăng ?
Thu đông trải mấy gió trăng,
Bông đào chợt đã báo chừng nửa xuân.
Một vườn cảnh-vật tiên-tân,
Mõ xa cành biếc, kệ gần lưỡi oanh !
Trần công nhân buổi dạo quanh,
700Đầy vườn thấy nở chật cành hoa mai.
Tính ngày mai, tối mười hai,
Truyền làm tiệc rượu đặt nơi hoa đình.
Vào trong khi bất thình lình.
Phu-nhân xem thấy ra tình không vui.
Rằng: “Vườn ta cảnh ưa người,
Sắc ông sao bỗng kém tươi, thêm sầu ?”
Ông rằng: “Chẳng đánh mà đau,
Ngày mai sực nhớ giỗ đầu Mai-huynh.
Nghĩa bằng-hữu, bậc trung-trinh,
710Thấy hoa mai, bỗng động tình xót ai.”
Sáng ngày mượn tiếng thưởng mai,
Đem lòng thành-kính, viếng người tinh-anh:
“Có thiêng chăng nhẽ Mai-huynh !
Chớ nề u-hiển, thấu tình anh em.
Bây giờ kẻ khuất đã cam,
Kẻ còn giong-ruổi cho tìm thấy tôi.”
Trông hoa lại nhớ mấy lời :
“Họ Mai còn chút lạc-loài nên thương.
Phỏng ngày sau có ra tuồng,
720Thì hoa mai nở bội thường hơn xưa.”
Hóa-nhi khen khéo thờ-ơ,
Bởi đâu một trận gió mưa đêm trường.
Sáng mai trông lọt bốn tường,
Cành hoa dưới đất, mùi hương trên trời.
Trần-công thấy chẳng nên lời.
Thương tình bạn, giận sự đời, ngổn-ngang.
Gác ngoài phú-quí một tràng,
Mũ-ni, tràng-hạt, quyết đàng xuất-gia.
Phu-nhân, công-tử vào thưa:
730″Xưa nay mưa gió rụng hoa là thường.
Làm chi nhọc bụng lo-lường,
Tuổi già nhà vắng, thêm đường dở-dang.”
Ông rằng: “Thôi chớ bàn ngang.
Một lời nói, dẫu nghìn vàng đổi sao !”
Cả nhà xiết nỗi thảm-sầu,
Tiểu-thư lập chước thưa sau giãi-bày.
Rằng: “Xin đợi lại mấy ngày,
Cầu trời khấn Phật hoa này lại tươi.”
Ông rằng: “Thực có như lời,
740Mai hai độ nở mới dời lòng ta.”
Tiểu-thư ra trước vườn hoa,
Khẩn năm bảy lượt, lạy và bốn phen.
Lòng thành thấu cửu-trùng-thiên
Cành phàm đã chắp hoa tiên bao giờ.
May đâu đến bữa thứ ba,
Mai-sinh thức dậy, bấy giờ còn khuya
Hương đâu phưng-phức tứ bề,
Hoa đâu san-sát đầy khê một vườn.
Tấm lòng mừng-rỡ như son,
750Đề thơ tứ tuyệt thất ngôn một bài.
Đề rồi bẻ một cành mai,
Trao con đòi, cậy đưa lời Trần-công.
Một nhà thấy sự lạ-lùng,
Trước sau lũ-lượt đều cùng tới coi.
Trần-công rằng: “Sự tỏ mười,
Chắc rằng Mai-thị còn người làm nên !”
Nỗi tu gác bỏ một bên,
Truyền đem tửu quả đặt lên hoa-đình.
Trên bày bài-vị Mai-huynh,
760Bấy giờ tình cảnh Mai-sinh thực là.
Tìm nơi đình-tử xa xa,
Trông ngay trước mộc-vị cha, thở dài.
Vô tình ai biết là ai,
Tiểu-thư liếc mắt đưa chơi biết tình.
Sinh xem biết ý chân-thành,
Nỗi nghi dường đã bớt canh-cánh lòng.
Nhớ tên hiệu chữ Mai-công,
Đề vào mảnh giấy dán trong nắp hòm.
Ra vào giấu-giếm, nom-dòm,
770Gọi là tiện chút sớm hôm phụng-thờ.
Trần-công đi lại xem hoa,
Truyền đòi công-tử tên là Xuân-sinh.
Rằng: “Ta xưa những ở Kinh,
Chẳng hay con đã học-hành tiến chưa.
Rày nhân nhị độ mai hoa,
Con đề tức cảnh một thơ tiến trình.”
Còn đương khuyên-bảo Xuân-sinh,
Trông lên đã thấy bên bình có thơ.
Trần công đòi hỏi bấy giờ,
780Mới hay đề đó là thơ Hỉ Đồng.
Khen câu ngọc đúc vàng ung,
Vóc trong miệng, gấm trong lòng vẽ nên.
Xuân-sinh thấy sẵn thơ trên,
Cũng theo vận ấy đề liền bốn câu.
Trần-công vừa ý gật đầu,
Tiểu-thư lại thấy ở đâu đến gần.
Dạy rằng: “Nữ-tử, văn-nhân,
Theo đòi con cũng họa vần thử xem.”
Tiểu-thư cầm bút vâng lời,
790Bên tường cũng vịnh một bài nối sau.
Khen tài nhả ngọc phun châu,
Ba vần già-dặn, bốn câu thanh kỳ.
Yên xong , ông trở ra về,
Cùng phu nhân mới nằn-nì một hai :
“Hỉ Đồng là kẻ có tài,
Ở đây chớ để tôi-đòi xem khinh.”
Mai-sinh thui-thủi bên đình,
Một mình tính quẩn lo quanh việc nhà.
Xưa nay nghe tiếng đồn xa,
800Phồn hoa thứ nhất ấy là châu Dương.
Hôm nay nhân buổi thanh-lương,
Rời chân xem thử phố-phường những sao.
Trập trùng quán thấp lầu cao,
Tạ, Vương mấy chốn, Nguyễn, Đào mấy nơi.
Xe lừa dù có chen vai,
Kìa người đại-cổ nọ người phú-thương.
Màn che mái, gạch ken đường,
Bầu nhà vàng nuột, rèm hàng lưu-ly.
Khắp người viễn khách cư kỳ,
810Tây-dương chung cảng, Cao-ly riêng hàng.
Lớp ngoài một dãy trường-giang,
Tàu chen mũi đỗ, thuyền giương buồm về.
Chài lan san-sát lá tre,
Chiếc đua máy đẩy, chiếc kề bến neo.
Những là mến cảnh noi theo,
Khi về vừa bóng xế chiều tới nơi.
Phòng riêng đã vắng tăm hơi,
Nắp hòm bỏ ngỏ, vị-bài thấy không.
Tìm sau tìm trước lung-tung,
820Nghĩ riêng lòng những giận lòng đòi cơn.
Ai hay trong lúc du-quan,
Tiểu-thư cùng với thúy-hoàn ra chơi.
Mở hòm nhác thấy một bài,
Ngạc-nhiên cất lấy thưa lời đến ông.
Trần-công rằng: “Sự lạ lùng,
Hỉ Đồng này thực Mai-công-tử rồi !”
Đòi thúy-hoàn, mới dạy lời,
Dặn-dò hãy thử ướm chơi thăm tình.
Hoàn rằng: “Hơi hỡi Mai-sinh,
830Toan gieo cái vạ tày đình cho ai ?
Bây giờ Lư-tướng nghe hơi,
Sai về trách-cứ một hai lấy người.
Kẻo còn quanh-quẩn những lời,
“Còn nay Vương-thị, còn mai Hỉ Đồng ?”
Mai-sinh nghe tỏ sự lòng,
Uốn lời thú thực phô sòng van-lơn :
“Mai nay muôn đội ơn hoàn,
Mưu gì cứu được khỏi cơn đường cùng.”
Túy-hoàn mới ngỏ thực lòng :
840″Vâng lời tôi thử ướm lời đấy thôi.
Mới rồi nhân thấy vị-bài,
Rõ tình ông dạy cho lời không sao !”
Mai-sinh ren-rén bước vào,
Nửa mừng nửa sợ biết bao nhiêu tình.
Ông rằng: “Sau những dấu quanh,
Nghĩ là ai, chẳng là mình đấy ư ?
Thế mà bác cứ thờ-ơ,
Thứ cho lỗi ấy từ xưa đến rày.”
Lạy rồi, sinh mới giãi-bày :
850Từ ngày về quán từ ngày nghe oan.
Bao nhiêu tình-tự nguồn cơn,
Sơn-đông chia bước, Hầu Loan trở lòng,
Ơn Đồ Thân, nghĩa Hỉ Đồng,
Dây oan khi cởi, cửa không khi nhờ.
Bước đường xa, cái sống thừa,
Tấc riêng riêng những nào ngờ có nay !
Ông rằng: “Nương-náu ở đây,
Thù kia ắt cũng có ngày trả xong.
Niệm cũng công-tử một phòng,
860Anh em liệu đấy dốc lòng nghiệp nho.
Tình thế-nghị nghĩa giao-du,
Văn-chương tri-kỷ, chuyện trò chiếu-tâm.”
Mặc ai gặp bạn tri-âm,
Ông bà luống những bàn thầm rỉ tai :
“Mai-sinh là bậc thiên-tài,
Câu văn cẩm tú, vẻ người y-quan.
Lòng ta muốn gả Hạnh Nguyên,
Thiên tài, quốc-sắc hai bên cũng vừa,
Chẳng lâu, thấy đó bây giờ,
870Bảng vàng rõ mặt, đuốc hoa định ngày.”
Bà rằng: “Được thế là may,
“Thế thì tuổi-tác lòng này cũng an !”
Thày-lai có một thúy-hoàn,
Ra vào nghe thấy chuyện bàn đinh-ninh.
Lòng riêng, riêng cũng thuận tình,
Khi ra đon-đả với sinh thì-thầm.
Người khuê-các khách thư-cầm,
Ngoài đành đãi ngọc, trong đành tựa mai.



III. Họ Trần bị hại: Mai Lương Ngọc và Trần Xuân Sinh gặp cảnh lưu ly

Ông tơ khen khéo cợt người,
880Đã xe vào, lại thử rời bắc, nam.
Làm cho chí tái chí tam,
Rồi ra đố lại vào ngàm mới thôi.
Phủ Trần chưa hết chuyện vui,
Bỗng đâu có chỉ đến nơi quan-hoài.
Đảng-công, Lư Kỷ ngồi ngoài,
Truyền rằng có chỉ dạy đòi Trần-gia.
Đọc rồi mới biết rằng là:
Biên-quan có nước Sa-đà động binh.
Khói lang, bụi ngựa tung-hoành.
890Khuấy hôi cõi Hán, chọc tanh ải Tần.
Lư-công dâng chước hòa thân,
Truyền đòi con gái họ Trần kết thân,
Ban cho áo mũ Chiêu Quân,
Đảng-công vâng mệnh đưa chân cõi ngoài.
Nghe ra xiết nỗi bồi hồi,
Ấy ai mưu hiểm, giục người sinh-ly ?
Khởi hành đã định nhật kỳ,
Lư-công giục-giã ngận tùy quân sai.
Hạnh Nguyên ra yết nhà ngoài,
900Ngứa gan tấm-tức mấy lời vân vân:
“Vẻ chi một chút Hồ trần,
Những tài thao-lược, kinh luân đâu nào ?
Dẹp yên mượn sức má đào,
Khen ai đặt để cái mưu cũng gìa !
Kiếp này không xé được da.
Kiếp sau quả-báo, oan gia kẻo gì.
Gớm tuồng mộc vị, thần vì,
Mãng thêu hoài chỉ, đai suy uổng vàng.”
Lư-công nghe nói ngang tàng,
910Mắt sòng-sọc khóe, mặt sường-sượng gân.
Tiền-đường dọn tiệc chủ, tân,
Đảng-công cất lẻn vào dần nhà trong.
Trần-công rỉ bảo Đảng-công,
Trỏ Mai-sinh mới giãi lòng một hai.
Rằng: “Này công-tử họ Mai,
Trong khi hoạn-nạn lạc-loài đến đây.
Em cho nương-náu những ngày,
Rắp đem tiểu-nữ sum-vầy kết duyên,
Mưu kia ai vẽ cho nên,
920Để loan chếch bóng cho uyên chia hàng.
Việc nhà nhờ bác sửa-sang,
Cho cùng Trần-điệt lên đường xuất quan.”
Thoắt thôi nghe có lệnh troàn:
Bốn mươi thị-nữ dân-gian kén rồi.
Trong danh-sách bấy nhiêu người,
Cùng ra Phiên-quốc theo đòi Hạnh Nguyên.
Lại truyền không được trì diên,
Trong hai ngày hạn xe tiên lên đường,
Áo Hồ đưa lại một rương,
930Dạy cho nương-tử cải-trang xuất hành.
Nàng rằng: “Quân-mệnh đã đành,
Tủi mình khuê-khổn, liều mình tinh-triên.
Bao giờ khỏi đất Trung-nguyên,
Bấy giờ thay áo Hồ-phiên vội gì.
Chịu trời chăng ! Một chữ thì,
Áo này dù đổi, lòng kia khôn dời !”
Đảng-công khen đã nên lời,
Cứng lòng, thiết-thạch hổ người tu-mi.
Thẹn thay cho kẻ vô-nghì.
940Khi này dạ Sở, lúc kia bụng Tần.
Lời trung khêu ruột gian-thần,
Bưng tai giả điếc, nổi gân bất bình.
Ngoài thì quan-khách linh-đình,
Trong thì nàng cũng đau tình biệt-ly.
Lạy hai thân, kể mọi bề,
Châu-chan nét liễu, dầm-dề giọt mai.
Rằng: “Con chút phận nữ-hài,
Công cha nghĩa mẹ chốc mười mấy niên.
Môn-mi mong những nhờ duyên,
950Ngỡ đem tấc cỏ báo dền ba xuân.
Hiểm thay chước kẻ gian-thần,
Xui nên kẻ Tấn, người Tần như không.
Có ra chi, phận má hồng,
Khôn đem chữ hiếu, đền công chữ cù.
Rồi đây muôn dặm đất Hồ,
Biết câu thập nữ viết vô từ rày.
Xin đừng nhớ đổi, sầu thay,
Liều bằng muôn một những ngày một hai.”
Thoắt thôi sùi-sụt ngắn dài,
960Gập-ghềnh mới ngụ một bài biệt thi.
Giờ lâu lưỡng lự vân vi,
Gọi Xuân-sinh lại nằn-nì rỉ tai :
“Nặng vì chút nghĩa họ Mai,
Ngẫm ra âu cũng có trời ở trong.
Lời cha mẹ nghĩa vợ chồng,
Nhân-duyên chưa ghép, chữ đồng đã in.
Vả xem bậc ấy không hèn,
Rõ gương khoa-giáp, rõ niềm tướng-khanh.
Nhờ em đãi lấy lòng thành,
970Ngoài tình bầu-bạn, trong tình anh em.
Mọi bề trong ấm ngoài êm,
Chị dù chín suối cũng cam tấc lòng.
Chị nhờ em gánh hiếu-trung,
Chồi huyên gần cỗi, gốc thung gần già.
Công-danh tuổi ấy đương vừa,
Trâm-anh, chung đỉnh dấu nhà sẵn đây.
Dù thương đến chị sau này,
Hoặc tuần hàn-thực, hoặc ngày thanh-minh.
Suối vàng rưới một giọt tình
980Nén hương, tờ giấy, chén canh cũng là !”
Lôi-thôi xiết nỗi gần xa,
Trông Mai công-tử dường đưa mối sầu.
Thẹn-thùng khôn nói-năng đâu,
Sóng thu một lét, hạt châu đôi hàng.
Cửa ngoài chực sẵn xe hương,
Lư-công giục-giã lên đường xuất quan.
Kiệu-phu bước nhặt, bước khoan,
Đảng-công một ngựa điệu đoàn vệ-binh.
Đoản-đình thôi lại tràng-đình,
990Bên xe Mai Bích, Xuân-sinh hai chàng.
Bắc, Nam ai kéo đôi đàng,
Ải-quan ai khéo chia đường biệt-ly.
Khi sao cửa các phòng khuê,
Giờ sao thui-thủi một xe đất này.
Hồn mai tỉnh tỉnh say say.
Mới trong vài bữa xem rày mấy niên.
Trông xa, khi khoác rèm lên,
Vòng thành chất-ngất, tòa đền trai lơi.
Kiệu-phu quì bẩm mấy lời :
1000″Hàm-đan huyện ấy có nơi trùng-đài.”
Nàng truyền đóng lại nghỉ-ngơi,
Lên đền dạo cảnh, xem chơi gọi là.
Huyện-thành sắm-sửa gần xa,
Đài vừa dọn sạch, nàng vừa xuống xe.
Hương-đăng vừa đủ lễ-nghi,
Tiện, nàng lên đấy lạy về gia-hương.
Quan quân đóng chật huyện-đường,
Một nàng Hạnh với hai chường cùng lên.
Từng từng đợt dưới, đợt trên,
1010Ngẫm xem phong-cảnh bốn bên trập-trùng,
Cao cao thôi lại từng từng,
Trời như khổ thấp, đất bằng dường xa,
Bảo nhau rồi mới nhận ra,
Đông-nam phương ấy, ấy là cố-hương.
Xuân-sinh đón biết ý nường,
Muốn điều từ-biệt với chường Mai-sinh.
Một mình bước xuống làm thinh,
Mặc ai trên ấy tự tình với ai.
Trông chàng nàng mới rỉ tai:
1020″Trăm năm ghi tạc một lời từ đây.
Bao nhiêu tình-tự xưa nay,
Tóc tơ giãi một chốn này là thôi!”
Mai-sinh nhân lúc vắng người.
Gạt ngang nước mắt, bày lời trước sau:
“Nói càng như gợi cơn sầu,
Trách vì phúc bạc xứng đâu má đào.
Tấc lòng thề với trời cao,
Quản chi trắng tóc, nỡ nào nối dây.
1030Sẵn ngôi phi-hậu dành ngày vinh-hoa.
Riêng ai trách lẫn trời già,
Xe tơ sao khéo hững-hờ cợt ai.”
Nàng rằng: “Lời dạy dường sai,
Tấm thân đã phó cửa Mai những ngày.
Sông dù cạn núi dù lay,
Đã liền xương trắng dám thay lòng vàng.
Đem thân đối với cương-thường.
Tạ lòng người cũ treo gương dưới đời.
Mình nào sánh với tanh-hôi?
1040Mặt nào còn đứng cõi đời được ru!
Khuyên chàng ghi nghĩa xuân-thu,
Mối tình hãy gác, nỗi thù chớ quên.
Cùng em cho tiện sách đèn,
Công-danh gặp hội thanh-niên đương vừa,
Một mai lộc nước phấn vua,
Danh mình cũng rạng, thù nhà cũng xong.
Thân ai đành trọn chữ tòng,
Suối vàng tươi mát, má hồng lây thơm.
Rồi đây kẻ bắc, người nam,
1050Cành thoa xin tặng để làm của tin.
Vật thường gọi chút làm duyên!”
Luật Đường mới ngụ một thiên giãi-bày.
Trùng-đài còn nhớ là đây,
Giã nhau gọi nhớ đến ngày biệt-ly.
Mai-sinh đôi giọt dầm-dề,
Thoa thì chịu lấy, thơ thì họa theo.
Bâng-khuâng lời ít tình nhiều,
Thị-tì đâu đã dập-dìu kéo lên.
Cùng nhau lạy trước đài tiền,
1060Lần thang bước xuống, giục liền gióng xe.
Gia-hương tình nặng bề-bề,
Ải-quan đâu đã gần kề tới nơi.
Tổng-binh sửa chốn nghỉ ngơi,
Đảng-công đã dạy cho mời cải-trang.
Ngắm mình ra vẻ Man-phương,
Xiêm tơi-tả bức, áo lang-lổ mùi.
Lông cài trên mũ một đôi,
Đổi hình khuê-nữ ra người Yên-chi.
Ngựa đâu kéo đến tức thì,
1070Mai-sinh gần đấy phù trì lên yên.
Hình-dung ai vẽ cho nên,
Hương xa đã đổi mã yên bao giờ.
Hai chàng cảm nỗi gần xa,
Đều cùng đọc một câu thơ tiễn-hành.
Lên yên nàng cũng gửi tình,
Đọc rồi mới giục hai sinh trở về.
Ngại-ngùng thay, lúc phân kỳ,
Người về cố-quốc, kẻ đi sa-trường.
Người đồng thất, kẻ tha-phương,
Hàng châu sùi-sụt, bước đường chia đôi.
Nàng còn dặn với mấy lời:
1080″Thù kia chớ để đội trời ở chung.
Sao cho tâm-lực hiệp đồng,
Mổ gan nghịch-tặc, thỏa lòng nữ-nhi”.
Xót người tú các hương khuê,
Mối tình ly-biệt, đường đi phong-trần.
Lạ tai mấy tiếng man-nhân,
Giọng xa ríu-rít giọng gần ét-eo.
Bên trời phong-cảnh đìu-hiu,
Sương soi cỏ áy, gió reo cây già.
Sắc quân hiệu-lệnh càng gia,
1090Tiếng còi lư-diệp, lá cờ ngô-công.
Bước đường ngày một lạ-lùng,
Tiểu-thư ngày một đau lòng biệt-ly.
Quen tài tức cảnh vịnh đề,
Trên yên mới vịnh cổ thi một bài.
Ngựa giong mấy lớp dặm khơi,
Núi cao đã thấy gần nơi điện tiền.
Thổ-binh quỳ trước thưa lên:
Núi Hà-lan ấy có đền Tô-quân,
Bước vào xem tượng truyền-thần,
1100Mặt tròn khuôn nguyệt, môi nhuần vẻ đan.
Tấc lòng kính kẻ trung-can,
Liền tay vịnh miếu, vịnh sơn hai bài.
Lần lần gió tối sương mai,
Đường đi thoắt đã tới nơi đại hà.
Hỏi ra mới biết rằng là,
Ấy sông Hắc-thủy mộ bà Chiêu Quân.
Nàng bèn truyền gọi thổ-nhân,
Đem hòm áo, phó doành ngân tức thì.
Yên xong mới bảo thị-tỳ,
1110Đã thay Hồ-phục để chi áo này.
Ném theo một khúc sông đầy,
Hoa trôi mặt nước, bướm bay giũa dòng.
Vì đâu y-phục bất đồng,
Bỗng đem nữ sức phó cùng thủy hương.
Trông theo tấc dạ thêm càng,
Tả lòng lại ngụ luật Đường bốn câu.
Đương trường dặm ngựa ruổi mau,
Trông lên đã thấy miếu đâu gần gần.
Trên yên dạy hỏi thổ-quân,
1120Thưa rằng: “Miếu ấy Chiêu Quân một tòa.
Xuất thân từ thủa Hán-gia,
Quyết liều đến Hắc-thủy hà trầm châu.
Tiết-trinh khôn đổi được đâu,
Vóc thiêng ngược nước trở đầu về nam.
Cõi này mến chút danh thơm,
Dựng làm miếu-vũ sớm hôm phụng thờ.
Một phương bậc tối linh-từ,
Kể năm, ba bốn trăm thừa đã lâu.
Oai-linh đã khắp đâu đâu,
1130Kẻ xin cứu bệnh, người cầu chiêm-bao.”
Tiểu-thư nghe nói mừng sao,
Trước đền xuống ngựa, bước vào thử coi.
Nguy-nga miếu mạo hẳn-hoi,
Một tòa thần-tượng trên ngồi nghiễm-nhiên.
Oai-linh vóc thánh, dáng tiên,
Lồng màn vẻ trắng, ánh đèn sắc tươi.
Son vàng mặt khảm tay ngai,
Lò trong ngát xạ, đỉnh ngoài bay hương,
Lạnh-lùng bát-ngát hơi dương,
1140Nhìn qua rợn tóc, trông tường sởn gai,
Nữ-đồng, võ-sĩ đủ người.
Hầu trong hai ả, chầu ngoài tám viên.
Đồ thờ cắm giá án tiền,
Một bên bảo-kiếm, một bên tỳ-bà.
Tiểu-thư lưỡng-lự một giờ,
Sụp ngồi bốn lạy xa xa tự tình.
Khấn thầm thở ngọn, than ngành:
“Nỗi chồng oan-uổng, nỗi mình truân-chiên.
Lầm người vì chước hòa Phiên,
1150Đem thân yểu-diệu tới miền hôi-tanh.
Đánh liều bao quản tử sinh,
Thề rằng quyết chẳng nhơ mình tiểu-man.
Thiêng chăng thu lấy hồn oan,
Rộng cho chầu-chực trước ban là nhờ!”
Khấn rồi nghỉ lại miếu thờ,
Đêm trường cho tiện đợi chờ chiêm bao.
Hay đâu mấy bộ Công-tào,
Đã đem lời khấn tâu vào Chiêu Quân.
Phán rằng: “Mới thực hiền-nhân,
1160Nặng bề sơn-hải nhẹ thân yêu-kiều.
Bảng trời hôm nọ mới treo,
Mai-sinh tên đã giật lèo Trạng-nguyên.
Ngày sau phu-phụ đoàn viên,
Nay ta hãy cứu một phen mới là.”
Bèn ban nữ-sứ bước ra,
Đòi hồn nàng lại, nhủ qua ân cần.
Rằng: “Ta là Hán Chiêu Quân,
Cứu cho cũng dự phu-nhân trinh thành.
Rồi ra về đến quê mình,
1170Sau đây phu quí phụ vinh vẹn tròn.”
Dạy rồi phó trả thần-hồn,
Lại đòi lực-sĩ ôn-tồn nhủ qua:
“Đón nàng khi sắp đầu hà,
Đem về đại-quốc vườn hoa Bá Phù.
Người Trung-châu, trả Trung-châu,
Mặc ai trọn nghĩa, báo thù mặc ai.”
Gió đâu lọt cánh cửa ngoài,
Tỉnh ra còn nhớ mấy lời chiêm-bao.
Nghĩ ra nào biết đâu nào,
1180Vững lòng khi dám chắc vào những đâu…
Án tiền ren-rén cúi đầu,
Bước ra lại vịnh bốn câu lưu đề.
Lên yên gióng ngựa ra đi,
Núi cao đã thấy hầu kề tới nơi.
Hỏi tên là Lạc-nhạn-đài,
Trùm mây mờ-mịt, nhất trời bông-lông,
Nàng rằng: “Tích trước ghi lòng,
Chiêu Quân gửi nhạn thư phong chốn này.
Đường đi nhân tiện qua đây,
1190Nhắn chim, bắt chước chuyện ngày ấy chơi.”
Kíp truyền man tốt mấy lời,
Dọn đường núi nhạn, kíp dời gót loan.
Phò nàng ngồi kiệu đăng san,
Hai nàng thị-nữ, một đoàn phiên binh.
Bước cao bước thấp gập-ghềnh,
Quăn-queo đuôi chuột, chênh-vênh tai mèo.
Nương đá quạnh, vịn cành oeo,
Chim xào-xạc lá, vượn reo-rắc cành.
Sẵn-sàng cảnh vật chung quanh,
1200Phong đồn mở phạt, mây xanh buông màn.
Bước lên tuyệt đỉnh tàn tàn,
Trông dường chật đất, với toan đến trời.
Mặt sau lần bước lên chơi,
Nhìn đâu bỗng thấy một nơi có đầm.
Mắt mèo trong vắt nổi tăm,
Rắn quằn-quại khúc, mãng nhăm-nhắp hàm.
Cheo-leo sườn núi trông sang,
Khe kia suối nọ ngổn-ngang mấy trùng.
Nửa ngày nổi trận âm phong,
1210Phất-phơ lật lá, lạnh-lùng thấu xương.
Đất đâu sơn thủy lạ dường ?
Ngẩn-ngơ mình những cảm thương nỗi mình.
Xót thay đôi đức sinh-thành,
Biết bao nguôi được chút tình nhớ-thương.
Một ngày một ngả bóng tang,
Da mồi sạm mặt, tóc sương điểm đầu.
Biết nhau, thêm dở-dang nhau,
Quen hơi bén tiếng bao lâu mà rằng!
Ấy ai chấp mối xích-thằng,
1220Biết mà dứt chỉ, thà đừng vương tơ.
Như lời thần mộng họa là,
Còn duyên chăng nữa, cũng chờ lai sinh.
Đường cùng giữ lấy thơm danh,
Thôi thì gác hiếu với tình một bên.
Chấp kinh, nếu chẳng tòng quyền,
Nữa khi nước đến, e nên cát lầm.
Tấc lòng cả quyết khôn cầm,
Tấm thân phó mặc dưới đầm sâu sâu.
Thị-tỳ trông trước nhìn sau,
1230Nàng đà gieo ngọc trầm châu bao giờ.
Ai ngờ ra sự chẳng ngờ,
Phiên-binh nhớn nhác, nhớn-nhơ một đoàn.
Bảo nhau sắp sẵn mưu gian,
Cải-trang bắt lấy thúy-hoàn để thay.
Miệng bình bưng kín ai hay.
Chăm chăm giục ngựa mấy ngày trẩy sang.
Hấp-him thay nhẽ,Man-vương,
Hững hờ nào biết rằng nường là ai.
Thúy-hoàn riêng được hẳn-hoi,
1240Đổi hình tỳ-thiếp, thay ngôi phi-tần.
Mới hay trời với giai-nhân,
Được riêng chữ tiết, nắm phần chữ danh.
Làm cho chán nỗi thử thanh,
Trải bao nạn trước, mới dành phúc sau.
Tiểu-thư từ xuống đầm sâu,
Hồng-vân một đóa đón đâu nửa chừng,
Ào ào tiếng gió lay rừng,
Giữa trời vũ giá vân đằng đem đi.
Mấy lời thần-mộng xa nghe:
1250″Ta đây vâng mệnh đưa về Trung-hoa!”
Giờ lâu bỗng thấy chân sa,
Nhìn thôi mới rõ một tòa danh viên.
Canh khuya văng-vẳng bốn bên,
Thôi năn-nỉ khóc, lại rền-rĩ than.
Tỉnh mê riêng những bàn-hoàn,
Nào non nước tá ? Ủy ! Vườn tược đâu ?
Chẳng hay là đất Trung-châu,
Nhà quan Ngự-sử là Châu Bá Phù.
Ông đương thượng lỵ Đông-đô,
1260Để lưu con gái với phu-nhân nhà.
Tiểu-thư vả bậc tài-hoa,
Khuê-phòng tiểu-tự gọi là Vân Anh.
Đốt hương vừa buổi đêm thanh,
Nghe đâu ti-tỉ như hình tiếng ai.
Giờ lâu truyền gọi con đòi,
Soi đèn xem thử có người đâu đây.
Tiểu-hoàn vâng lệnh ra ngay,
Soi xem bỗng rụng-rời tay, trở về.
Rằng :”Người đâu của dị-kỳ ?
1270Đỉnh đầu lông hổ, vằn-vè áo lưng.
Ở đâu về đấy nhưng-nhưng,
Ấy rằng quỉ-sứ, hay rằng hồ-tinh!”
Một nhà sào gậy xúm quanh,
Hạnh-Nguyên mới bạch thực tình trước sau.
Thấy người phong-điệu cửa hầu,
Dạy cho vào đến trước lầu hỏi-han.
Hạnh-Nguyên mới hỏi nguồn cơn :
Nỗi nhà tách-bạch, nỗi oan rạch-ròi
Hòa Phiên khi đến nước ngoài,
1280Miếu thần ứng mộng, nhạn-nhai gieo mình.
Phép thiêng cải tử hoàn sinh,
Ở hiền may gặp lại lành đến đây.
Phu-nhân rằng: “Ấy mới hay,
Thế-gian cũng có sự này lạ ghê.
Thần còn cứu kẻ nhân-nghì,
Dễ hầu người chẳng liệu bề xót nhau ?
Ở đây chẳng ngại chi đâu,
Cho làm nghĩa-nữ bạn hầu tiểu-thư.
Rồi sau nhắn bảo mẹ cha,
1290Trời cho khi dễ, họa là gặp nhau.”
Hạnh-Nguyên vâng mệnh trước sau,
Sụp ngồi nàng mới gật đầu mấy phen.
Vân-Anh từ được bạn hiền,
Yêu bên chữ sắc, trọng nhau chữ tài.
Hai người như thể một người,
Ngang tay tú-các sánh vai lan-phòng.
Dệt thêu, học lẫn nữ-công,
Lúc chia hoa ướp, khi chung phấn giồi.
Hạnh-Nguyên khi đứng khi ngồi,
1300Khóc thầm trong vắng, gượng cười ngoài sân.
Nàng đà được chốn an thân,
Xót thay chàng Bích, chàng Xuân hai người.
Ai-quan chân chửa kịp dời,
Mã-bài đã có chỉ đòi Đảng-công.
Chẳng ngờ Lư Kỷ tấu trong,
Thiên-lao đã bắt vợ chồng Đông Sơ.
Hai chàng còn tiễn tiểu-thư,
Cũng ban mật-chỉ truyền cho bắt về.
Đảng-công chống-chế mọi bề,
1310Cấp thêm hành lý giục đi lánh mình.
Cùng nhau hai gã thư-sinh,
Ngẩn-ngơ quê khách, gập-ghềnh đất xa.
Trời hôm xế bóng tà-tà,
Côn-quang đâu bỗng gặp ba bốn người.
Lòng tham còn biết thương ai,
Cướp hành-lý hết, áo ngoài sạch không.
Tạm ngồi trước miếu bên sông,
Thuyền quan nghe có thùng thùng trống canh.
Nghi cho là kẻ gian tình,
1320Nghe hơi kéo một đạo binh lên bờ.
Xuân-sinh kíp lánh đường xa,
Bắt liền Mai Bích mới đưa xuống thuyền.
Chàng bèn cất mặt trông lên,
Thấy trong khoang giữa, ngồi nền một ông.
Mấy lời sang sảng tiếng đồng:
“Tên kia sao dám cả lòng mưu gian ?”
Sinh rằng: “Đâu dám to gan,
Đèn trời xin thấu nỗi oan cho người.
Tôi cùng người bạn anh tôi,
1330″Tìm người thân-thích lạc loài đến đây.
Nào ngờ gặp sự chẳng may,
Dám xin xét tấm lòng ngay được nhờ.”
Ông xem ra dáng con nhà,
Truyền đem nghiên-bút thử và câu chơi.
Chàng vâng lĩnh bút đề bài,
Viết xong Chế-nghệ một bài nộp đi.
Ông rằng: “Nhục nhỡn nan tri,
Thứ cho thì chớ, dù chê dám nài.
Bước lên xin hãy tạm ngồi,
1340Áo đưa một cặp, ngắn dài quản chi.
Họ tên sao đấy ? Ở quê xa gần ?”
Dằn lòng, sinh những ngại-ngần,
Giả danh rồi sẽ nghe dần về sau.
Thưa rằng: “Xin kể gót đầu,
Tên Vinh họ Mục, Thường-châu là nhà.”
Ông rằng: “Quê đấy chẳng xa,
Có quen Mai-thị cùng là ai không ?
Sinh rằng: “Cùng ở môt vùng,
1350Bạn-bè cũng biết có công-tử chàng.
Từ khi gặp biến phi thường,
Chẳng hay đâu đấy tìm phương lánh mình.
Tôi nay vâng đẹp duyên bình,
Xin tường quí tính, đại danh, được nhờ.”
Ông rằng: “Cũng chẳng đâu xa,
Ở Giang-nam tỉnh, tên là Lạc Thiên.
Cách quan về việc bình Phiên,
Rày vâng khai-phục, ra miền Ngọc-kinh.”
Đêm khuya trống đã sang canh,
1360Truyền đem gối đệm, nghỉ mình khoang trong.
Mấy tuần thuận bến xuôi giòng,
Mui bồng trăng tối, buồm dòng gió trưa.
Quan lão-luyện, khách tài hoa,
Cuộc cờ trên lái, đường tơ dưới lèo.
Mây buổi sớm, nước ban chiều,
Thơ ngâm ngoài mạn, rượu kèo trong khoang.
Kinh-thành mong-mỏi tấc gang,
Chìu lòng nước cũng bằng dường như tên.
Bỗng đâu một chiếc kề bên,
1370Hỏi ra mới biết là thuyền Châu-công.
Gặp nhau kể hết sự lòng,
Họ Châu môn-đệ, họ Phùng ân sư.
Châu-công rằng: “Lẽ gọi là,
Kính dâng một lễ, gọi đưa tấc thành.
Hà-nam vâng mệnh tuần-hành,
Một phương xích-tử triều-đình trong tay.
Những là lo-lắng đêm ngày,
Dưới màn ai kẻ đỡ thay tờ bồi.
Ân-sư liên-hữu có ai,
1380Môn-sinh xin được một người là may !”
Phùng-công rằng: “Đã sẵn đây !
Mục-Vinh gặp mấy buổi nay cũng kỳ.
Văn-chương tài-mạo ai bì,
Có chăng là một chữ “thì ” kém ta.
Cánh bằng khi gặp gió xa,
Tung mây chưa biết lên đà đến đâu,
Nhân-duyên may gặp được nhau,
Việc nha xem đỡ, ta sau sá gì.”
Hai ông trò-chuyện dã-dề,
1390Mới đem họ Mục đưa về Châu-công.
Của đưa gọi chút lấy lòng,
Một hòm tân-phục, hai phong nhật trình.
Tiễn rồi lại dặn Mục-Vinh :
“Trượng-phu xin chớ quản tình biệt-ly.”
Yên xong trở mũi thuyền đi,
Kẻ thì phó lỵ người thì tiến kinh.
Thương thay còn một Xuân-sinh,
Liền đêm hôm ấy lánh mình xa xa.
Sáng ngày thức dậy nhớ ra,
1400Sơn-đông quen một người là Thái Câu.
Xưa từng lỵ-phủ Nhiêu-châu,
Cách quan nghe mấy năm sau ở nhà.
Hỏi thăm tìm đến hỏi qua,
Cửa ngoài đã thấy có tờ biên-phong.
Cũng vì Lư Kỷ, Hoàng Tung,
Chứng cho một án giao-thông giặc ngoài.
Xuân-sinh thấy sự kíp dời,
Một mình mặt đất, chân trời bơ-vơ.
Than rằng thung cỗi huyên già,
1410Thiên-lao biết có bao giờ biện oan.
Người tuổi-tác, khách cô-đan,
Để ai tan nghé, rẽ đàn vì ai ?
Xót ai thui-thủi phương trời,
Hồng-nhan khi đã ra người cửu-nguyên.
Hiếu tình đeo nặng hai bên,
Dặn dò những chắc chu-tuyền có ta.
“Mai-kha ơi, hỡi Mai-kha,
Rời nhau một bước nên xa mấy trùng.
Một đêm sương tuyết lạnh-lùng,
1420Khỏi chăng ? hay đã mắc vòng trần ai?
Thương thay trung-nghĩa mấy người,
Kẻ thì oan thác người nơi ngục hình.
Trách vua Đường, ở bất minh,
Dung bên gian-đảng mà khinh hiền-tài.”
Bên lòng trăm mối bời bời,
Trông ra một nước một trời mênh-mông.
Tử sinh xem nhẹ lông hồng,
Quyết liều, sinh đã gieo sông bao giờ.
Hay đâu khéo cũng may mà,
1430Gần đâu đấy, có ngư-gia đóng thuyền.
Giăng chài vớt được chàng lên,
Tỉnh dần, trông rõ hai bên ngồi nhìn.
Trẻ-già một lũ cạn khan,
Đầu cành-cạch tóc, mình nhờn-nhợt da.
Ngồi bên thuyền chủ một bà,
Kề bên một ả mặt hoa tót vời.
Ngồi trông ra rõ mặt người,
Thương ôi ! sao nỡ bỏ hoài tuổi xanh !
Ở đâu mà đến chài mình,
1440Hãy còn im-ỉm khí sinh lạ đời.
Thay quần đổi áo tơi bời,
Ngư-bà mới hỏi mấy lời trước sau:
“Chẳng hay quê, họ nơi đâu ?
Gặp nhau xin tỏ cho nhau biết cùng
Làm sao mà phải gieo sông?
Hay là tội-lệ cát hung thế nào ?”
Xuân-sinh mới kể gót đầu:
“Quê tôi ở huyện Thường-châu cũng gần.
Cha làm quan, họ là Trần,
1450Chẳng may mắc phải gian-thần vu oan,
Tâu vua bắt chị hòa Man,
Thiên-lao lại bắt thung-đường phó giam.
Tôi tiễn chị tôi xuất quan,
Bỗng nghe mật-chỉ sai quan nã về.
Vậy nên tôi phải lánh đi,
Chẳng may gặp lũ gian-phi giữa đường.
Than ôi ! đương hợp mà tan,
Một mình tránh khỏi nguy-nàn tới đây.
Cả liều nào quản vơi đầy,
1460Phúc sao, may khéo là may, gặp người.”
Ngư-bà nghe bấy nhiêu lời,
Nhủ rằng: “Thôi cũng có trời chẳng không !
Năm xưa vớt được giữa dòng,
Một hòm âm-ấp những vòng với thoa.
Khen thầy nó dặn lão-bà,
Để cho con gái tên là Ngọc Thư.
Gặp ông thầy số năm xưa,
Đoán cung-mệnh cháu khen bà phu-nhân.
Gạo công, đòi đủ trăm cân,
1470″Khen đi, khen lại phu-nhân khác thường,
Bây giờ may vớt được chường,
Mà xem tướng-mạo đường đường dáng quan.
Hẳn rằng thiên địa tuần-hoàn,
Mà cho chàng lại trôi ngang vào chài.
Nên nay lại vớt được người,
Hai phen vớt được một đôi rõ-ràng.
Thôi đừng quản thiệt tham hơn,
Băn-khoăn kén cá, phàn-nàn chọn canh.
Ngọc Thư cho kết duyên lành,
1480Họa là phu quí phụ vinh kịp ngày.
Được như số đoán là may,
Vong-hồn cũng thỏa đến thầy nó xưa.”
Xuân-sinh nghĩ đã chót nhờ,
Vả xem phong-dạng Ngọc Thư ra tuồng.
Thưa rằng: “Chút phận tha hương,
Đã thương yêu đến, dám ruồng-rẫy ru !
Xin vâng, nhưng hãy xin chờ,
Bảng vàng rồi sẽ đuốc hoa cũng vừa.”
Bà mừng, kíp gọi Ngọc Thư,
1490Một lời đã định phải ra chào mời.
Thẹn-thùng lững-thững chân dời,
Nàng e còn đứng, chàng coi đã tường.
Quả nhiên nhan-sắc dị thường,
Mai hình tú bộ khác thường ngư-gia.
Khi vui nảy phút hứng thừa,
Khen thầm trong bụng nên thơ một bài.
Thấy chàng, nàng cũng mừng vui,
Dáng người thanh-thú, vẻ người văn-chương.
Chắc rằng có phận giàu-sang,
1500Hứng lòng cũng ngụ luật Đường bốn câu.
Dần-dà quen thuộc bấy lâu,
Mới hay nương-tử họ Châu ấy là.
Nực cười thay ! thú ngư-gia,
Sớm qua Tầm-thủy, tối về Hàn-san.
Ca chèo, nhịp nhặt, nhịp khoan,
Trăng lòn sau lái, gió đàn trước song.
Bốn mùa mặt nước sinh nhai,
Lưỡi câu, sợi chỉ, tay chài mặt sông.
Mặc ai danh-lợi trong vòng,
Xiêm vằn-vặn lưới, đai long-lỏng thừng,
Thoi đưa nấn-ná ba đông,
1510Trải phần đông-quí, sang chừng xuân qua.
Tết trung náo-nức gần xa,
Neo thuyền giặt lưới, giăng bè dựng nêu.
Ngư-bà mới bảo Ngọc Kiều,
Mượn điềm bói cá thay gieo tú cầu:
“Lưới này như được cá đầu,
Duyên con thì định xuân sau kén ngày.
Ví bằng ba lưới không tay,
Thành thân thong-thả sau này sẽ hay.”
Bàn rồi chia việc làm ngay,
1520Kẻ buông tay lưới, người gay cột chèo.
Cầm sào chàng cũng đẩy theo,
Ngọc Thư đỡ lấy có chiều lần-khân.
Lạ gì đôi lứa vừa xuân,
Ai hay rơm bén, lửa gần với nhau ?
Ngư-bà liếc thấy vừa hai,
Nghĩ thầm chuyện ấy có người, có ta!
Người yểu-điệu, kẻ tài-hoa,
Khi vào sát áo, khi ra chạm quần.
Nghe nặng lưới, kẻo lên dần,
1530Lý-ngư đâu đấy trần-trần một đôi.
Sinh rằng: “Ăn những ngồi rồi,
Này xin đem bán chợ chơi một lần”
Cũng liều nhắm mắt đưa chân,
Mà cho trải với thế-nhân đủ điều.
Chàng vừa đi khỏi chợ chiều.
Thuyền ai đâu đã ghé chèo tới nơi.
Trên mui ngồi tót một người,
Nghênh-ngang dáng cậu, nói cười giọng quan.
Một thuyền vâng dạ đã rân,
1540Tiểu-hầu, đầy tớ một đoàn như rươi.
Khoe-khoang một tấc đến trời,
Quần hồ sột-soạt, áo mồi trai lơ.
Trông sang nhác thấy Ngọc Thư,
Xúm quang, rắn ếch, bướm hoa, động lòng.
Đặt ra một mẹo hư không,
Bạc năm mươi lạng một phong sẵn-sàng.
Giao cho đầy tớ đưa sang,
Mua làm tiểu-thiếp, mong đường ép duyên.
Thuận lòng bao quản sang hèn,
1550Tam-bành bà đã nổi lên một hồi.
Ngọc Thư ngấm-nguýt một hai,
Trong khi quá giận, lắm lời sam-sưa.
Khuyển, Ưng một lũ mắt đưa,
Để phong bạc, bắt Ngọc Thư đem về.
Tiếng nàng kêu dậy giang khê,
Một đoàn thuyền-hộ kéo bè la om.
Vác sào quơ gậy ỳ-òm,
Lao-xao nổi tép nổi tôm một vùng.
Lời thô tiếng tục như ong,
1560Kẻ toan cướp lại, người hòng đánh nhau.
Bàn dày, bàn mỏng giờ lâu,
Xuân-sinh trong chợ may đâu vừa về
Can rằng: “Xin hãy im đi,
Khôn không qua lẽ, phép thì có quan.”
Bảo nhau tìm chốn kêu oan.
Giắt theo chứng tá, một đoàn ngư-nhân.
Bước đi bóng đã xế dần,
Nửa đường gặp lũ quan-quân dài dài.
Đèn lồng trước kiệu hàng hai,
1570Hiệu đèn Đề-đốc chữ nhồi nét son.
Giữa đường quì xuống kêu dồn.
Nghe truyền dừng kiệu, ôn tồn hỏi tra.
Thưa rằng: “Chút phận ngư-gia,
Gặp chàng công-tử, họ là họ Giang.
Khinh người hèn, cậy mình sang.
Lấy điều thân-thế, toan đường hiếp ai.
Kề thuyền cướp lấy vợ người,
Chuyện này, muôn đợi đèn trời xét cho.
Cao-minh xin thứ dân ngu,
1580Vội-vàng kêu miệng, nào lo kịp tờ.”
Lệnh quan một tiếng truyền ra :
“Con quan quen ỷ thế cha, cũng thường.
Tên này phong-dạng ra tuồng,
Nhìn xem chưa hẳn là phường ngư-gia!”
Kịp truyền tới bến đại hà.
Bắt Giang công-tử về nha tức thì.
Nguyên-đơn cũng bắt đem về,
Kiệu đi một lúc đã kề đại-doanh.
Hiên-môn vẽ hổ trước bình,
1590Giáo thăm-thẳm dóng, quân sình-sịch hơi.
Thung-dung xuống kiệu sảnh ngoài,
Tiếng loa thị-sự, hồi còi thu quân.
Hầu bên hai dãy biền-thân,
Nệm trăm-trắm trải, nến rần-rật giong (chong).
Ngậm tăm lặng ngắt như không,
Trại ngoài điểm trống, dinh trong đóng kèn.
Một vòng quân khảo như nêm
Hàng giăng giá nọc, chật lèn túi roi.
Giao canh trống mới sang hai,
1600Phạm tù đã thấy lôi-thôi điệu về.
Giang Khôi dường cũng khiếp uy.
Liếc trông mặt sắt lặng nghe tiếng đồng.
Quở rằng: “Cậy thế thị hùng,
Ra ngoài văn-pháp vào trong dâm-tà.
Án này cứ miệng ngư-gia,
Phỏng như tội ấy, nghĩ đà đáng chưa ?”
Kiên gan Khôi cũng lôi-la,
Rằng mua rằng bán, rằng lừa trăm khoanh.
Rồi ra chứng-tá phân minh,
1610Dường cưng-cứng lưỡi, dường quanh-quẩn lời.
Quan-môn biết sự chẳng sai,
Lấy điều nhỏ-nhặt truyền đòi Ngọc Thư.
Hỏi ra mới biết rằng là:
“Liễu dù gặp gió, sen chưa nhuốm bùn!”
Đòi Giang tri-phủ quở dồn:
“Khen làm dân-mục dung con bất tài.
Mắt trông tay trỏ đủ mười,
Phép vua khôn thứ, miệng người khôn che.
Tội con phạt bốn mươi bê,
1620Cha đà biết tội tha về lượng cho.
Nguyên-đơn một lũ họ Châu,
Chờ mai thẩm lại mới hồ tha xong.”
Truyền cho ở lại nha-phòng,
Sáng mai sẽ hỏi xem trong tình đầu.
Ai hay sự bởi vì đâu,
Quan Đề-đốc ấy, họ Khâu gọi là.
Hiếm-hoi mới được mộng xà,
Vân-Tiên một gái mặt hoa khuynh-thành.
Cũng trong họ Mạc chung quanh,
1630Vốn là cậu ruột Mai-sinh đấy mà!
Từ khi khởi nạn Mai-gia,
Phu-nhân sang đó nương nhờ bấy lâu.
Cách đêm vừa sáng hôm sau,
Buông rèm hỏi lũ họ Châu xem tình.
Ngư-bà đâu dám giấu quanh,
Mới đem sự-tích Xuân-sinh kể bày.
Sốt lòng ông mới dạy ngay,
Hãy đem tên rể vào đây hỏi tường.
Xuân-sinh thấy sự rõ ràng,
1640Bấy giờ chàng kể nỗi chàng đầu đuôi:
Từ khi gặp-gỡ họ Mai,
Khi toan xe chỉ, khi đòi xuất quan.
Khi lánh nạn, lúc nghe oan,
Cùng Mai-sinh, nỗi hợp tan mấy lần.
Chàng vừa kể hết xa gần,
Mai phu-nhân bỗng khóc lăn dưới thềm.
Khóc rồi mới bước ra thềm,
Cầm tay chàng mới nhìn xem một giờ.
Dạy rằng: “Gang tấc nên xa,
1650Thế mà già vẫn còn ngờ rằng ai!”
Khâu-công rằng: “Hãy khoan thai,
Dám xin mời cả vào ngồi nhà trong.
Thay quần đổi áo yên xong,
Rồi ta sẽ kể sự lòng với nhau.”
Ngư-bà chưa rõ gót đầu,
Thôi bâng-khuâng nghĩ, lại chầu-hầu trông:
“Ủy, sao nhà kiện, cửa công,
Ra tình nhìn-nhận, ra lòng yêu-thân?”
Thư-phòng rót chén tẩy trần.
1660Một ông với một chàng Xuân bàn-hoàn,
Kể lòng mấy chuyện hợp tan,
Nhà trong cũng mở một bàn tiệc hoa.
Ngôi trên dường tuổi Ngư-bà.
Hai phu-nhân với tiểu-thư hai người.
Nhìn lâu ngợp mắt làng chài,
Mâm vàng chồng-chất, chén mồi đầy-vơi.
Hải vị tốt, yến sào tươi,
Khác màu nấu chuội, khác mùi hơ qua.
Vả trong bồi tiếp việc hoa,
1670Hai nàng tiên-nữ, hai bà phu-nhân.
Mừng thầm con đã yên thân,
Gẫm lời thầy số mười phần chẳng sai.
Khâu-công xong tiệc rượu ngoài,
Mai phu-nhân mới rỉ tai vài lời:
“Nghĩ rằng cậu mợ hiếm-hoi,
Điềm hùng chưa ứng, chúc trai muộn màng.
Nay xem công-tử họ Trần,
Khôi ngô vẻ mặt, đai cân dấu nhà.
Tòng quyền cho nghĩ nương nhờ,
1680Minh-linh rồi sẽ đổi ra đông-sàng.”
Bàn rồi bèn giục-giã chàng,
Thung-dung trước mặt, gia nương khấu đầu.
Vâng lời theo họ là Khâu,
Tên là Khôi, để từ sau gọi thường.
Còn ngư-bà với Ngọc-nương,
Cũng cho nhìn-nhận trong đường thân hơi.
Ngư-bà xin tới bến ngoài,
Tìm người phường bạn, giã lời với nhau.
Ông truyền sắp kiệu theo hầu,
1690Rập-rình gươm trước, ngựa sau ra tuồng.
Ngồi trong ghé ngửa nom ngang,
Phút đâu kiệu đã tới phường bến xưa.
Vội-vàng bước xuống thuyền nhà,
Kẻ quen người thuộc còn ngờ rằng ai.
Giờ lâu nhìn rõ mặt người,
Nọ người khoác nách, nọ người vỗ tay.
Hỏi săn hỏi đón đã đầy,
Kiệu làm sao đấy ? kiệu này của ai ?
Bà rằng: “Kiện-cáo gì tôi,
1700Này này ! anh nó vào ngồi với quan !
Từ rày phường bạn đừng nhờn,
Đủ trăm văn-lý, dư muôn thế-trần!
Giang Khôi rày hẳn biết thân.
Hôm xưa thầy tớ một sân chịu đòn.
Kẻo còn bắt những gầu non,
Kẻo còn hống-hách, kẻo còn dọa hơi.”
Cùng nhau từ-giã mấy lời,
Lại ngồi lên kiệu, kíp dời về dinh.
Khâu Khôi yên phận đã đành,
1710Đường xa này chuyện Mục Vinh còn dài.
Phủ Châu nương-náu cửa người,
Án-tờ xem đỡ, văn-bài tập riêng.
Tài mẫn-tiệp, tính thông-miêng,
Phần chăm việc khách, phần siêng việc mình.
Hà-nam một tỉnh chính thanh,
Châu-công biết sức, thêm tình yêu-đương.
Nghĩ mình có gái Vân-nương,
Quyết lòng đành rắp đông-sàng đợi ai.
Xa nhà chưa dám ngỏ lời,
1720Tin đâu đã có chỉ đòi lai Kinh.
Tỏ tin, bàn với Mục-Vinh:
Khuyên chàng về phủ Đại danh quê nhà.
Băn-khoăn muôn dặm đường xa,
Tư thư mới gửi cho bà phu-nhân.
Trong thư mọi nỗi xa gần,
Dặn-dò lấy lễ sư-tân đãi chàng.
Đinh-ninh một việc đông-sàng,
Chuyện riêng lại phụ mấy hàng dặn sau.
Mục-Vinh sắm-sửa quân hầu,
1730Trỏ đường tư-thất họ Châu trở về.
Tay cung, thanh quất, cây tỳ,
Ngao-du sơn thủy, đề-huề gió trăng.
Hề-đồng theo bốn năm thằng,
Thơ ninh-ních túi, rượu lưng-lửng bầu.
Đường xa giong-ruổi vó câu,
Thoắt đà tới phủ họ Châu bao giờ.
Phu-nhân biết ý trong tờ,
Tình riêng đâu dám hững-hờ như ai.
Riêng mình chàng, một thư-trai,
1740Đồ cung-cấp hậu, vẻ bài-trí thanh.
Cổ thư, cổ họa, buông tranh,
Bên giường triện-bách, trước bình phong-lan.
Giá bày túi sách cạp đàn,
Sẵn hiên ngoạn nguyệt, sẵn vườn thưởng hoa.
Phòng riêng ngày tháng lân-la,
Khi buồn mới giở chiếc thoa ra nhìn.
Càng đau-đớn nỗi Hạnh Nguyên,
Nhớ câu thơ biệt ở trên trùng-đài.
Sẵn nghiên-bút, vẽ ra chơi,
1750Vừa buông tay viết, chẳng rời miệng ngâm.
Càng như khêu mối khổ tâm,
Giấy lòe nét tủi, nghiên dầm giọt thương.
Hay đâu đầy tớ Vân-nương,
Liễu-hoàn một ả Xuân Hương tinh đời.
Thói thường dòm liếc thư-trai,
Gặp chàng vào lúc nhớ người, xem thoa.
Trở về tấp-tểnh, tấp-ta,
Thày-lay mách ả Vân ta mấy lời:
Rằng: “Tướng-công ở nhà ngoài,
1760Thình-lình lắm lúc, tôi coi cũng kỳ,
Tay cầm chẳng biết vật gì,
Mắt thì nhìn kỹ, mặt thì buồn tênh.
Kỳ này ra khổ thất tình,
Kém nhan-sắc trước, khác hình-thù xưa.
Tôi lừa khi vắng lẻn ra,
Chỗ ngồi bắt được cái thoa lạ đời”
Vân Anh xem của nghe lời,
Gẫm tay này hẳn có người tình chung.
Thoa này ai dễ cho không.
1770Dễ hầu biết mặt tin lòng được ai ?
Mục Vinh phải buổi ra ngoài,
Về xem hòm sách tơi-bời giở tung.
Thấy khác dấu, đã chột lòng,
Xem cành thoa ấy lại không thấy rồi.
Khóc-than vật-vã một hồi,
Trách mình lơ-đễnh, giận người tham-lam.
Nghĩ rằng kẻ bắc người nam,
Chắc còn thoa ấy, để làm duyên sau.
Gẫm duyên mỏng-mảnh vì đâu,
1780Tỉ-ti vật mọn cũng hầu tìm đi.
Bệnh đâu dắt đến tức thì,
Cơm hoa biếng nhắp, giấc hòe kém yên.
Chiêm-bao mê-mẩn liền liền,
Trùng-đài trước mặt, Hạnh Nguyên bên mình.
Phu-nhân những hậu vì tình,
Mời thầy thuốc, cắt đồng-sinh giữ-gìn.
Nỗi ngoài họ Mục chưa yên,
Não người, còn nỗi Hạnh Nguyên trong nhà.
Phải khi ngồi với Vân-thư,
1790Thấy cành thoa ấy chân hư rành rành.
Giờ lâu nhìn dấu của mình,
Trùng-đài lưu tặng Mai-sinh những ngày.
Người đâu mà của thấy đây ?
Hẳn rằng bóng hạc xe mây đã đành.
Duyên này đã hẳn ba sinh,
Gặp nhau đành giữ chung tình kiếp sau.
Tấm thương chẳng đánh mà đau,
Lan-sương biếng kẻ, mai-câu biếng giồi.
Tấc riêng riêng những ngậm-ngùi,
1800Bữa thường miệng đắng, đêm dài bóng chung.
Phu-nhân rối tợ bồng-bong,
Khuê phòng ép thuốc, thư-phòng nài thang.
Dạy mua hai cỗ thọ-đường,
Phòng khi nhất đán phi-thường cho ai !
Bỗng đâu một lúc tơi bời,
Nỗi trong nhộn-nhịp, nỗi ngoài dở-dang.
Liễu-hoàn nối gót thư-đường,
Thấy hai phương cũng hung-phương một giờ.
Phu-nhân ghé hỏi sau xưa,
1810Gọi lên đã thấy tiểu-thư tỉnh dần.
Thưa rằng: “Lưu-lạc chút thân,
Bao dong kể đã đội ân nghìn trùng.
Hay đâu số phận mỏng-manh,
Xưa nay mệnh bạc chữ chung má đào.
Phòng khi muôn một thế nào,
Xin ba tấc đất để vào hướng nam.
Con dù chín suối cũng thơm,
Bấy lâu công-đức đã cam phụ người.”
Phu-nhân khuyên-giải mấy lời,
1820Cùng Vân-Thư tới nhà ngoài thăm lênh.
Kề tai mấy tiếng gọi sinh,
Vừa lim-lỉm giấc, thoắt tinh-tỉnh dần.
Xuân-Hương trình trước phòng văn:
“Tiểu-thư vâng mệnh phu-nhân trong phòng.
Ra đây thăm bệnh tướng công,
Dám xin gượng kẻo bỏ lòng chủ-nhân.”
Sinh rằng: “Chút phận gia-thần,
Ân lòng đãi lễ sư-tân bấy chầy.
Những mong báo-đáp có ngày,
1830Ai ngờ nên nỗi nước này như không ?
Vẻ chi thân nhẹ lông hồng,
Thăm lênh để nặng tấm lòng tiểu-thư.
Dù khi giải kết bao giờ,
Phong phần chính bắc xin nhờ ghi cho.”
Bên giường mấy nỗi dặn-dò,
Phu-nhân nghĩ-ngợi thêm hồ-nghi ra.
Cùng nhau bàn mảnh trong nhà,
Xuân-Hương mách-lẻo trình bà phu-nhân:
“Chuyện này xin chớ ngại-ngần,
1840Tôi đà tỏ hết nỗi gần nỗi xa.
Cũng vì có một chiếc thoa,
Kẻ bâng-khuâng nhớ, người ngờ-ngẫn thương.
Hai phòng bệnh cũng một đường,
Mê rồi lại tỉnh, mơ-màng lăng-nhăng.
Vả xem những tiếng trối-trăng,
Kẻ rằng chính bắc, người rằng chính nam.
Chuyện này để vậy chưa cam,
Xin dò nhắc lại xem làm sao đây.”
Theo Vân-thư mới đi ngay,
1850Phen này quyết tỏ lòng này cho ai.
Lẳng-lơ đứng trước thư-trai,
Đem thơ tiễn-biệt Trùng-đài đọc chơi.
Mục Vinh nghe vẳng bên tai,
Bằng dường xét đánh lưng trời bỗng đâu.
Gọi vào, hỏi trước, hỏi sau,
Mỉm cười, Hương mới kể đầu, kể đuôi.
Nỗi nàng mách hết rạch-ròi:
“Khi thần đưa đến, khi người bắt nuôi.
Trộm thoa, tội ấy về tôi,
1860Khiến trong nhìn nhận, để ngoài xót-xa.
Mấy câu tôi đọc bây giờ,
Thơ này bắt được với thoa một lần.
Làm khuây, xin hãy tỉnh dần
Đã đành tài-tử, giai-nhân một nhà.
Vả ông tôi dặn trong tờ,
Đinh-ninh dành gả tiểu-thư cho chàng,
Bây giờ gặp nghĩa cũ-càng,
Chẳng hay duyên mới có mang-mể cùng ?”
Sinh rằng: “Muôn đội ơn lòng,
1870Nỗi bà trân-trọng, nỗi ông yêu-vì.
Ví bằng được hẳn thế thì,
Duyên sau nghĩa trước, hai bề vẹn hai.”
Bỗng như nói nói, cười cười,
Mười phần bệnh, phỏng còn vài bốn phân,
Xuân Hương tức-tốc dời chân,
Tình đầu bạch với phu-nhân bấy giờ.
Lại vào bảo thực Hạnh-thư:
“Mục Vinh ngoài ấy, ấy là Mai-sinh.”
Hạnh Nguyên nghe rõ thực tình,
1880Cất quang-quảng bệnh, nhẹ thênh-thểnh người.
Cho hay những bậc sắc tài,
Thảm vì tình lắm, lại vui vì tình.
Phu-nhân chọn được ngày lành,
Mới truyền dọn-dẹp, mời sinh vội-vàng.
Sửa-sang cuộc rượu hai bàn,
Cách rèm làm lễ truy-hoan một nhà.
Hạnh Nguyên quốc-phục như xưa,
Khoác mành-mành, mới bước ra hỏi chàng.
Rõ mười còn tưởng mơ-màng,
1890Mừng mừng, tủi tủi, khóc than một hồi.
Khóc rồi kể lể đầu đuôi :
Nỗi trên núi nhạn, chuyện ngoài ải mây.
Chết thừa sống thiếu là may,
Bên kia quan gặp, bên này thần đưa.
Bèo trôi, sóng vỗ đến giờ,
Kẻ sang Châu-phủ, người nhờ Phùng-công.
Biết bao nhiêu chuyện đau lòng,
Xuân-sinh lưu-lạc, Sơn-đông cách vời.
Một phen nói, một bồi-hồi,
1900Bâng-khuâng cố-quận ngậm ngùi thiên-lao.
Phu-nhân khuyên-giải thấp cao,
Cùng thôi nước mắt lại vào tiệc hoa.
Tin Kinh bỗng thấy đưa ra:
Châu-công thăng chức hiệu là Thị-lang.
Chỉ ban về lễ từ-đường,
Chàng ra mười dặm đình-trường đón xa.
Ngó trông rợp bóng quan-hà,
Thẻ bài phụng-chỉ ngọn cờ vinh-hương.
Giáp nhau ông đã gặp chường,
1910Song song đôi ngựa trỏ đường cố-gia.
Thu quân hồi trống vào nhà,
Trên yên vách phấn, cắm cờ giá son.
Vào trong thong-thả ôn-tồn,
Một nhà thầy, tớ, vợ, con lạy mừng.
Trong nhà nhộn-nhịp, tưng-bừng,
Âm-thầm thiều nhạc, lẫy-lừng tiệc hoa.
Phu-nhân giả cách lơ-mơ,
Truyền đòi đệ-nhất tiểu-thư ra hầu.
Ông rằng : “Khéo lẽ dối nhau,
1920Hiếm-hoi một gái lấy đâu nhất nhì ?”
Hạnh Nguyên ra trước lạy quì,
Nỗi nàng bà kể mọi bề gian-truân:
“Nghĩ rằng xa, chẳng là gần,
Ai hay con gái bác Trần Đông Sơ !
Tơ đào nghĩ những bao giờ,
Nhân-duyên sớm định về nhà họ Mai.
Hôm xưa lắm chuyện nực cười,
Kẻ trong nhận của, người ngoài mất thoa.
Hai buồng gang tấc nên xa,
1930Thất tình bệnh đã hóa ra mấy ngày.
Tỏ ra mười mấy hôm nay,
Bên kia nhận vợ, bên nây nhận chồng.”
Ông nghe thấu hết sự lòng,
Cả cười, mới dạy rằng: “Trong đạo trời.
May ta gặp cả hòa hai,
Trọn tình bè-bạn, được người thi-thư.
Nghĩ chăng, dở một nỗi nhà,
Tính vào thế ấy, hóa ra thế này !”
Bà rằng: “Tôi cũng nghĩ đây,
1940Xưa nay đôi quả một tay cũng nhiều.
Vả trong hai ả tiểu-kiều,
Mười phần xem đã kính yêu cả mười.
Bấy nay hình-ảnh chẳng rời,
Thờ chung quân-tử một người cũng nên.
Mai-sinh nghĩa cả chưa đền,
Phỏng chừng ép-uổng cũng nên một lòng.”
Châu-công nghe nói thủy-chung,
Liền ra tiệc ngọc thư-phòng với sinh.
Lòng chàng nghe đã tỏ tình,
1950Lẽ nào giấu quẩn giấu quanh được rày !
Thưa rằng: “Chút phận hèn ngây,
Bấy nay giả-dối, tội rày đã cam.”
Ông rằng : “Việc tỉnh Hà-nam,
Bấy lâu cậy một tay làm biết bao ?
Kinh-luân đã tỏ tài cao,
Thớ cong, rễ quánh, thủ dao long-tuyền.
Hiếm-hoi chút gái vụng-hèn,
Nâng khăn sửa túi, xin yên phận nhờ.”
Sinh rằng: “Nguyệt lão xe tơ,
1960Nhân-duyên đã định Trần-gia những ngày,
Làm chi bể ái vơi đầy,
Hạ-đường dám lụy, tiếng này đến ai ?
Vả con hổ phận bất tài,
Tấc lòng e chửa xứng ngôi đông-sàng.”
Ông rằng: “Thôi chớ rẫy-ruồng,
Nhà Ngu xưa có Nga Hoàng, Nữ Anh.
Trượng-phu dù quyết hẹp tình.
Thẹn thay phụ tấm lòng thành lão nô.”
Chàng nghe lạy trước thềm hoa,
1970Xưa còn gia-khách nay ra thân tình.
Năm mây nghe chiếu rành rành,
Thi hương, thi hội, thi đình một phen.
Bàn rồi dường lẽ chưa yên,
Chấp kinh cứ thực họ tên sao đành.



IV. Bọn gian thần bị tội: họ Mai và họ Trần được hiển vinh

Sổ dâng quán chỉ đại-danh,
Quyển đề họ Mục, tên Vinh vào trường.
Đua tài tỉ thí, khoa hương,
Bảng đầu đã rõ tên chàng Mục Vinh.
Phủ Châu mừng-rỡ linh đình,
1980Hết lòng sắm-sửa tiến Kinh cho chàng.
Chân hề, giong-ruổi dặm tràng,
Đứa đeo thơ túi, đứa mang rượu bầu.
Mấy tuần gióng- giả vó câu,
Tràng-an trông đã thoắt đâu tới gần.
Tớ thầy tìm chốn chứa thân,
Chờ ngày nhảy sóng, đợi tuần hóa long.
Chen vai tài-tử, danh công,
Kẻ toan bẻ quế, người hòng tung mây.
Qui-mô trường-ốc ai xây ?
1990Chia khu thập đạo, rào vây bốn thành.
Ba bề chín cửa thênh-thênh,
Cột huyền bảng thẳng, cây đình liệu cao.
Cậy tài sinh cũng xem sao,
Vũ-môn ba đợt sóng đào xem khinh.
Lại còn một nỗi Xuân-sinh,
Khâu-Khôi đã đổi tính-danh những ngày.
Hà-nam nhập bạ phen này,
Đỗ hương cũng định ngày rày tiến Kinh.
Mấy tuần vừa tới đô-thành,
2000Trời kia xui-khiến hai sinh đỗ đầu.
Cửa Phùng Đô-sát gặp nhau,
Người tầm mẫu-cữu kẻ cầu ân-sư.
Quân hầu vâng dặn vào thưa,
Mời hai sinh hãy ngồi nhà nghênh tân.
Kìa thì Mai, nọ thì Trần,
Bâng-khuâng suốt buổi, tần-ngần giờ lâu.
Khóc than kể hết chuyện nhau,
Hợp tan mấy độ, trước sau mấy từng.
Tỏ-tường chân tóc kẽ răng,
2010Kẻ mừng chị sống, người mừng mẹ yên.
Hay đâu Đô-sát Lạc Thiên,
Chiếu theo chủ khảo cầm quyền chưởng văn.
Biết đâu truyền gọi gia-nhân,
Vâng lời ra quán nghênh tân đón vào.
Phùng công mừng-rỡ xiết bao,
Hai sinh kể hết tiêu-hao chuyện mình.
Ông rằng: “Gác chuyện gia-tình,
Trường-quan, Cống-sĩ có hình hiềm-nghi.
Ra ngoài hãy đợi trường kỳ,
2020Nhờ trời khi dễ việc gì cũng xong.”
Hai chàng bái tạ Phùng-công,
Ra chùa Tướng-quốc, trú chung một phường.
Nhân khi vắng-vẻ đêm trường,
Tỏ nguồn cơn trước, kể đường đất xưa.
Mới hay những kẻ tài-hoa,
Bảng vàng trời đã đợi chờ cho ai.
Một phen hội thí đua tài,
Giọng văn tú khẩu, hơi bài cẩm tâm.
Quan trường công-chính không lầm,
2030Khéo thay mực nẩy cân cầm chẳng sai.
Bảng treo trên đã rõ mười,
Mục-Vinh thứ nhất, Khâu-Khôi thứ nhì.
Văn trường đã định nhật kỳ,
Vừa xong thi Hội, lại thi Đình liền.
Thỏa lòng văn nhẹ như tên,
Tài hay có tám, sức lên đến mười.
Ưu phân đáng giá tam khôi,
Mới hay trời có chiều người khi nên.
Phán truyền họ Mục, Trạng-nguyên,
2040Họ Khâu, Bảng-nhãn, hai tên rành rành.
Thiên ân ban trước phong đình,
Ba tuần ngự tửu, hai cành cung hoa.
Hương trời, lộc nước, phấn vua,
Rỡ-ràng bông mãng, lập-lòe vàng đai.
Ba ngày thượng mã du nhai,
Lòng vua ưu hậu mắt người quan chiêm.
Vẻ-vang gấm lại hoa thêm,
Thỏa lòng bẻ quế cung thiềm bấy lâu.
Tân-khoa một lũ trước sau,
2050Cùng sang tướng-phủ vào hầu Lư-công.
Tạ từ ai nấy ra xong,
Mời riêng Bảng-nhãn vào trong rốn ngồi.
Khoản trà lễ mạo hẳn-hoi,
Dập-dìu sớm đã cho mời Hoàng Tung.
Giả điều vua triệu tướng-công,
Khâu, Hoàng ngồi lại vui trong chén quỳnh.
Tung rằng: “Hai chữ khoa danh,
Tướng-công đây những hậu tình quá yêu.
Buồng hương có ả tiểu-kiều,
2060Sàng-đông cũng rắp toan điều cầu thân.
Thôi thì dư thế, dư thần,
Quan sang, chức trọng mười phân đến chàng.”
Khâu-sinh cười nói, thưa rằng:
“Tình người quyến cố xem bằng bể non.
Duyên này đã định tao-khang,
Có đâu phụ nghĩa, tham sang lẽ nào !”
Tung rằng: “Khéo chấp-nê sao,
Xưa nay đổi vợ biết bao nhiêu người ?
Con người sắc nước hương trời,
2070Quá thương khi đã ngỏ lời dễ đâu.
Cạn lòng nếu chẳng nghĩ sâu,
Ăn-năn e nữa đến sau lụy mình.”
Sinh nghe mấy tiếng dỗ-dành,
Đùng đùng nổi giận, bất bình khêu gan.
Mắng rằng: “Một lũ quyền-gian,
Nhơ mình chưa chán, lại toan hại người !
Mình đà là phận con nuôi,
Nửa con hòng lại dắt ai vào cùng.
Ta đây một tấm lòng trung,
2080Quyết đem giãi trước mặt rồng có phen.
Thề không dung kẻ lộng quyền,
Vì dân trừ hại mới nên anh tài.
Khéo tay mối-lái cũng đòi,
Vo-ve tiếng Trịnh nhàm tai phượng hoàng.”
Nói rồi lên kiệu vội-vàng,
Trở về vừa đến nửa đường nghĩ ra:
“Ăn-năn chút chửa xem cơ,
Thôi thôi ! nóng giận đến ta là cùng.
Lánh đi, nếu chẳng quyết lòng,
2090Chân loan chưa dễ lọt vòng lưới gian.”
Bàn riêng hai lẽ vừa an,
Thoắt đà đổi áo thay quan lánh mình.
Chuyện chàng đồn dậy kinh-thành,
Gần xa ai cũng biết tình từ hôn.
Lư-công nổi giận ồn ồn,
Kíp sai binh-mã đổ dồn tìm quanh.
Cách xa mười dặm ngoài thành,
Thấy chàng thoắt đã giao binh điệu về.
Kể khoan, kể nhặt mọi bề,
2100Rằng khinh phép nước, rằng chê lộc trời.
Truyền đem giam cấm một nơi,
Luận xong tội ấy, ngày mai tiến trình.
Trường quan nghe tỏ phong thanh,
Hòng làm sớ tấu giãi tình Khâu Khôi.
Lòng người vốn sẵn lẽ trời,
Mới hay trọng đạo ai ai cũng lòng.
Bấy giờ hội thí vừa xong,
Bốn phương sĩ-tử còn đông Kinh-thành.
Bực mình hai chữ công-danh,
2110Về nhà thẹn mặt, xuất-hành ngại chân.
Tam khôi mừng những đắc nhân,
Nghe tin nhủ-bảo xa gần thiếu ai ?
Họp-hành bàn-bạc mấy lời,
Giận ai ép-uổng, thương người oan-khiên.
Việc này nhẫn-nhục sao yên,
Bè gian rồi nữa lộng quyền đến đâu ?
Lấn cành tầm-gửi chẳng lâu,
Người kia trước, chúng ta sau cũng vừa.
Thôi thì ta lại vì ta,
2120Nhẹ mình nặng nghĩa mới là trượng-phu.
Kẻ rằng xin chớ hồ-đồ,
Đón đường ta sẽ sửa cho một hồi.
Làm cho gian-đảng đi đời,
Hãy khoan văn-bút, thử chơi vũ-bài.
Ở đâu bỗng có một người,
Thưa rằng : “Chuyện ấy xin người chớ nghi.
Phỏng mà có đến lẽ gì,
Đầu đoàn chuyện ấy, em thì xin đương.
Vả em chút phận lỡ-làng,
2130Tên thi vừa hỏng, tư lương cạn rồi.
Về nhà thân-thích không ai,
Xin liều thân ấy, cứu người khôi-khoa.”
Được lời như mở lòng ra,
Kéo nhau một lũ vào tòa Phùng-công.
Lạy rồi thưa hết thỉ-chung,
Ông vừa thảo sớ để hòng vào tâu.
Khen rằng: “Sao khéo bảo nhau,
Việc là việc nghĩa, lẽ đâu bảo đừng.
Chỉn e tai vách mạch rừng,
2140Làm cho kín mít như bưng mới là.”
Vâng lời ai nấy trở ra,
Hẹn nhau chừng nửa canh ba đón đường.
Xin cho bắt được Lư, Hoàng,
Đừng phân trái phải, hãy toan đánh đòn.
Rày đừng vây cánh cha con,
Gian mưu đứt nọc, xảo ngôn hết nghề.
Đã đành tội hữu sở qui,
Rồi ra, ra đến những gì thì ra.
Kẻ rằng: “E lũ chúng ta,
2150Người gần còn có người xa ngại-ngùng.
Xin về một chốn trú chân,
Nhà tôi trọ đấy cũng gần ngọ-môn.
Buổi triều xe ngựa ồn ồn,
Tiện đường đón đấy, nghĩ khôn lên trời.”
Cùng nhau miệng nói chân dời,
Sẵn nhà cùng ở một nơi đợi chờ.
Lặng nghe canh đã sang ba,
Kiệu đâu một lũ trông ra ngoài trường.
Phùng-công kiệu trước thét đường,
2160Kiệu sau Đảng Lục với chàng tân-khoa.
Bảo nhau hai dãy dẹp ra,
Kiệu đâu sao thấy xa xa đến liền.
Tiền hô hậu ủng chật lèn,
Phủ Lư mới tỏ hiệu đèn là đây.
Hai bên chực sẵn đã đầy,
Kẻ trần tay áo, người xoay cánh đoài.
Người bẻ lọng, kẻ giằng roi,
Ầm ầm hơi giận, hồi hồi tiếng la.
Xúm quanh trước kiệu hỏi qua :
2170Khâu Khôi, Bảng-nhãn tân-khoa tội gì ?
Quyền như chú, chắc mạnh bè,
Vu oan cho kẻ trung-nhì được chưa ?”
Bốn bên trận đánh như mưa,
Xé tan xương nịnh, ngay đờ mặt gian.
Trận đòn hội chợ ai can ?
Bướm bay giấy lọng, kiệu tan lũ hầu.
Hoàng Tung kiệu đã đến sau,
Người kéo tóc, kẻ giằng đầu, xúm quanh.
Mảnh xiêm mảnh mãng tan tành,
2180Tối-tăm mắt nịnh thất kinh hồn tà.
Mới hay nhất quỉ nhì ma,
Học trò đến bực thứ ba thực là.
Người kêu dưỡng-tử cứu cha,
Kẻ kêu nghĩa-phụ, ân-gia cứu mình.
Tưng tưng trời mới bình-minh,
Đường hoàng ngự trước, phong đình phân-ban.
Lư, Hoàng thoát khỏi vòng oan,
Bưng đầu theo lũ bách-quan vào quì.
Gượng đau lạy trước đan-trì,
2190Áo tươm-tướp rách, mặt bì-bì sưng.
Khóc than rền-rĩ tâu rằng:
“Khâu-Khôi hôm nọ tự dưng bôn đào.
Bắt về chưa kịp tâu vào,
Hai quan chủ khảo sắp mưu hại người.
Họp hàng sĩ-tử một nơi,
Đón đường, đánh đánh, lôi lôi một hồi.
Cao minh xin tỏ đèn trời,
Tra người vô phép, hỏi người mưu gian.”
Phán rằng: “Ngươi hãy ngồi an,
2200Còn tra dù thực, du gian rạch ròi.
Chỉ đòi Phùng, Đảng hai người,
Làm sao tâu thực mấy lời được hay.”
Tâu rằng: “Chút phận hèn ngây,
Dám cho được dự khoa này chưởng văn.
Đêm ngày lo-lắng trăm phần,
Di tài những sợ, đắc nhân là mừng.
Gieo cho những tiếng hay chăng,
Xét soi nhật nguyệt đôi vầng xin thương.
Phường thi hỏng, với quan trường,
2210Còn chi tình diện toan đường giao-thông.
Chực ngoài lũ ấy còn đông,
Dám xin tra thấu thỉ-chung được nhờ,”
Tiếng vàng sang-sảng ban ra,
Đòi vào sĩ-tử hỏi qua tình đầu.
Bắt vào một lũ theo nhau,
Dưới sân kẻ trước, người sau lạy quì.
Phán rằng trong chốn trường-qui.
“Làm điều bất pháp tội thì tại ai ?”
Muôn tâu: “Hổ phận bất tài,
2220Tranh lèo, giật giải,nhường người quyết khoa.
Nghĩ trong tảo-vấn cũng là,
Bằng bay, côn nhảy còn chờ hội sau.
Phép vua, lời thánh để đâu ?
Tay cầm bìa sách, dám hầu phi vi ?
Việc này lắm mối gian-khi.
Dám xin tâu dưới đan-trì đầu đuôi :
“Khoa này Bảng-nhãn Khâu-Khôi,
Bậc người khoa giáp, vẻ người phong-lưu.
Hôm xưa Tướng-phủ mời vào,
2230Khoe con má phấn, ướm trao chỉ hồng.
Tân-khoa một mực rằng không,
Dám tham phú-quí, phụ lòng tao-khang.
Tâng công bởi tại họ Hoàng,
“Quyết đường ép-uổng, xui đường phân chia.
Sợ vì phép, khiếp vì uy,
Tân-khoa mới phải tìm đi lánh mình.
Nào còn dám tưởng công-danh,
Lư-công biết thóp sai binh nã về.
Làm cho bỏ lúc từ qui,
2240Vu cho phi pháp toan bề tâu gian,
Chúng tôi cả quyết làm đơn,
Muốn vì Bảng-nhãn lo toan giãi bày,
Nào ngờ tướng-phủ đã hay,
Canh khuya đuổi đánh toan bày mưu gian.
Làm ra vò mũ, xé tàn,
Cào mình, rạch mặt, vu oan cho người.”
Ngự nghe thấu hết đầu đuôi,
Lư, Hoàng khi ấy những lời tâu sai.
Phán rằng: “Những chúng vô loài,
2250Thương con, kén rể, bức người ép duyên”
Lư tâu rằng: “Việc nhỏ-nhen,
Tình riêng nhi-nữ lọ phiền hỏi-han ?
Chàng kia vô phép khi quan,
Lũ kia đấu ẩu xin ban nghị hình.”
Ngự nghe thấu hết mọi tình,
Tức thì nổi giận lôi-đình bởi đâu.
Phán rằng: “Gian-đảng họp nhau,
Dối trên hại dưới bấy lâu thông đồng.
Thử xem lòng lại hỏi lòng,
2260Thẹn chưng mũ áo, hổ cùng cân đai.
Nhàm tai, chẳng nói chi dài,
Giao Tam-pháp nghị, rạch-ròi sẽ tâu.
Phùng-công Đô-sát làm đầu,
Thứ nhì Đại-lý, đến sau bộ Hình.”
Ba tòa ngồi trước cung-đình,
Nha-môn chực dưới, long-đình đăt trên.
Kia thì bị nọ thì nguyên,
Một bên sĩ-tử, một bên Lư, Hoàng.
Nọc roi sắp sẵn hai hàng,
2270Sai vào ngục-viện đòi chàng Khâu-Khôi.
Phùng-công dạy trước mấy lời:
“Chào Lư Thái-phó đầu đuôi đồng từ !”
Tư công nói hãy lờ đờ:
“Tôi cùng ba bác có là người đâu ?
Tờ bồi ráo-riết chi nhau,
Rồi ra, tình diện về sau còn dài.”
Quan rằng: “Nói cũng lạ đời,
Tình trong đã vậy, lý ngoài làm sao ?
Ép duyên sai bắt thế nào ?
2280Việc rành-rành, phải đem vào lời cung.”
Lư rằng: “Việc ép thì không,
Con đây chưa dễ sàng-đông thiếu người ?
Còn như chuyện bắt Khâu-Khôi,
Xưa nay quen vẫn làm rồi mới tâu.”
Ông rằng: “Binh sự là đầu,
“Đạo làm thần-tử, dám hầu tự chuyên ?
“Khi quân tội ấy đã nên,
Lại còn nhắc chuyện lộng quyền vi phi.
Bá Cao chết tại tội gì ?
2290Đông Sơ bỏ ngục tội thì tại ai ?”
Lư rằng: “Sao kể đường dài,
Hãy cho xong án Khâu-Khôi đã mà !
Bá Cao với lại Đông Sơ,
Tội làm trở đậu quân-cơ bấy giờ.
Trọng khinh bởi chữ lượng vua,
Như đây có dự chi mà can liên.”
Ông rằng: “Liệu đấy mà xem,
Nếu còn già miệng thì nên mất lòng!”
Còn đương tra hỏi chưa xong,
2300Trông ra đã thấy quan trong, họ Hoàng
Đem vào đặt trước sảnh-đường,
Long-côn một chiếc, niêm hoàng một chương.
Ba tòa tiếp chỉ vội-vàng,
Mấy lời ỏn-ẻn họ Hoàng đã thưa:
“Này đồ phụng chỉ ban ra,
Sao cho tận pháp mới là công minh.
Già tay xin chớ ngại tình,
Phen này hai mạng súc-sinh đi đời.”
Phùng-công hỏi thử mấy lời,
2310Rỉ tai Hoàng mới khúc-nôi kể bày.
Thưa : “Rằng tôi đã tỏ đây,
Đông-cung nghĩ chút đạo thầy, toan bênh.
Mặt rồng nổi giận lôi đình,
Buộc công-pháp lại, gác tình riêng ra.
Thôi ! thì trời cũng chẳng xa,
Xưa nay hãm-hại người ta đã đầy.”
Nói rồi mắm miệng, day tay,
Trông Lư Kỷ, lại rút giày ném theo.
Hung-hăng mắng ít, nhiếc nhiều,
2320Còn the-thé giọng, toan điều nọ kia,
Phùng-công khêu-gợi tỉ-tê;
“Bố mầy dường có thù gì với ai.
Tội đâu có phép đấy rồi,
Can chi mà cứ xơi-xơi nhọc mình.”
Mặt còn men-mét xám xanh,
Được lời, Hoàng mới kể tình xa xưa:
“Rằng tôi có chút cháu nhà,
Lỵ Giang-tây đạo tên là Thái Câu.
Chứng oan mắc phải mưu sâu,
2330Cũng vì thanh giản lấy đâu nhân tình ?
Giặc Hoàng-Thổ trấn dấy binh,
Án thông phỉ ấy, đã dành cho ngay.
Kiến bò miệng chén mau thay,
Mưu kia đã lắm, vạ này cũng thâm.”
Họ Hoàng quen thói thâm-trầm,
Ngoài thơn-thớt miệng, trong tâm-ngẩm lòng.
Cắm gần sẵn có roi đồng,
Dang tay đã diệt Hoàng Tung một hồi.
Bước ra còn nói mấy lời :
2340″Đại-nhân, xin xét một hai cho cùng.”
Ông rằng: “Phải việc nói không,
Lòng người là sắt, phép công là lò.
Bây giờ còn dám quanh-co,
Truyền đòi Hình-bộ, hãy cho giở nghề.”
Dạ rân sát-sạt xa nghe,
Đỉa, giăng thẳng nọc, đuối, vì-vụt roi.
Một sân thịt nát, xương rơi,
Ngất đi một lúc, lại hồi mấy phen.
Lư, Hoàng biết thế khôn kiêng,
2350Xin khoan roi, để việc liền chiêu ra.
Mai, Trần hai án ngày xưa,
Khôi-Khâu một án bây giờ, chịu đoan.
Ba tòa một mực truyền ban,
Sai nghiên-bút, lấy cung đoan mấy tờ.
Phùng-công truyền phó canh giờ,
Rồi xem án tấu, đợi chờ xử phân.
Kíp về tư thất dời chân,
Mời chàng Mai với chàng Xuân dặn dò.
Trời đà chứng kẻ oan vu,
2360Trừ gian, may lại phục thù có cơ.
Mặt rồng gang tấc không xa,
Giãi tình oan khuất, họa nhờ thiên-ân.
Vâng lời dặn-dỗ ân cần,
Hai chàng thảo sẵn sớ-văn hai bài.
Buổi triều vừa rạng ngày mai,
Hơn trăm sĩ-tử chực ngoài hành-lang.
Phùng-công tâu án Lư, Hoàng,
Phân-minh trạng chỉ, rõ ràng tờ cung.
Đường hoàng xem hết thỉ-chung,
2370Phán rằng: “Gian-tặc thông đồng bấy nay.
Bá Cao oan-uổng thương thay !
Đông Sơ bỏ ngục, nào hay tội gì ?”
Cửu-trùng hạ chỉ tức thì:
“Họ Trần tha tội, lại về chức xưa.
Mai-công oan khuất xót-xa,
Chẳng hay con cái bây giờ còn ai ?”
Phùng-công tâu trước mấy lời :
“Chuyện này chân, giả đèn trời xin soi.
Trạng-nguyên ấy thực họ Mai,
2380Mà Khâu Bảng-nhãn hẳn-hoi họ Trần.”
Phán rằng : “Một cửa trung-thần,
Truyền cho hai gã vào sân đan-trì.”
Lễ rồi, trước điện đều quỳ,
Bạch oan sẵn sớ tức thì dâng lên.
Vua Đường xem hết sự duyên,
Phán rằng: “Tung, Kỷ hại liền bấy lâu.
Truyền đem chính-pháp bêu đầu,
Trạng-nguyên Bảng-nhãn đứng đầu hai bên.
Ban cho phục họ, phục tên,
2390Cao minh muôn đội ơn trên chín lần.
Suy ra mới biết trời gần,
Chính-tà một bụng, quỉ-thần hai vai.
Gian-thần chưa chắc nẩy chồi,
Núi băng khi thấy mặt trời hẳn tan.
Trung-trinh dẫu có mắc oan,
Vẫn trơ cây cứng, không chồn gió lay.
Về sau ngay lại ra ngay,
Khỏi tuần hoạn nạn, đến ngày hiển-vinh.
Lư, Hoàng thực đã đáng tình,
2400Đem ra chính-pháp hành-hình một giây.
Tan-tành thịt nát, xương bay,
Nắng bêu mặt nịnh, đất rây máu tà.
Chán lời kẻ lại, người qua:
“Bây giờ thế ấy thuở xưa thế nào ?”
Trần-công ra khỏi thiên-lao,
Ngọ-môn chực sẵn đã vào tạ ân.
Phùng-công mừng-rỡ cố-nhân,
Mời về tư-thất ân-cần thở-than.
Rể con sum-họp một đoàn.
2410Người than chuyện trước, kẻ bàn nỗi xưa.
Nhớ-nhung kẽ tóc chân tơ,
Gian-nan là mấy, nương-nhờ những đâu ?
Bao nhiêu tân khổ bấy lâu,
Giật mình đòi lúc, lắc đầu đòi phen.
hi nên mọi việc mọi nên,
Chiếu trời đâu đã tốc truyền tới nơi.
Định ngày ngự tế họ Mai,
Phong làm Thái bảo dựng bài liệt-trung.
Trạng-nguyên với lại Trần, Phùng,
2420Ban quyền Học-sĩ dự phần yếu thanh.
Còn như Bảng-nhãn Xuân-sinh,
Làm Đô-ngự-sử, quyền hành hạch tâu.
Họ Trần, họ Đảng, họ Khâu,
Trật gia tam cấp đợi sau kén dùng.
Vợ Mai-công, vợ Trần-công,
Lại cùng Trần Hạnh, lại cùng Vân Anh.
Phu-nhân nhất phẩm cực vinh,
Khen cho chữ nghĩa, chữ trinh một nhà.
Vân Tiên với lại Ngọc Thư,
2430Phẩm đề đệ-nhị, cũng là phu-nhân.
Mai-công khai táng đến tuần,
Hoàng-thân tế điện, triều-thần trợ nghi.
Trạng-nguyên nhân tiện đường đi,
Duyên đồ hộ-tống, về quê châu Thường.
Lại ban tuần-thú bốn phương,
Ấn vàng một quả, kiếm vàng một thanh.
Một mình quyền được tiện hành,
Thẳng tay nẩy mực, công bình cầm cân.
Lại cho về việc đại tuần,
2440Hoàn-hôn ngự tứ nghênh thân một ngày.
Lắng tay rõ chiếu năm mây,
Hai chàng vào trước, lạy bày tạ ân.
Xem ngày ngự tế đã gần,
Cho tin báo trước tăng-nhân dọn chùa.
Trạng-nguyên mặc áo thôi-ma,
Trước vào lễ phật, sau ra tảo phần.
Điển-nghi khắp mặt triều-thần,
Một tờ dụ-chỉ, ba tuần rượu hoa.
Cột kết thái, trướng rủ là,
2450Đèn gần chong sáp, đỉnh xa bay trầm.
Trống tam nghiêm, nhạc bát âm,
Mấy mâm sinh lễ mấy mâm tư thình.
Sống trung-liệt thác anh-linh,
Suối vàng thơm phách, mây xanh thỏa hồn.
Đã đành trung hiếu nhất môn,
Ơn vua nhuần gội, tiếng con rỡ-ràng.
Tế rồi linh-cữu lên đường,
Trạng-nguyên lĩnh ấn, gươm vàng ra đi.
Tạ ân vào trước tâu quì:
2460″Việc công đâu dám bận vì tình riêng.
Tưởng khi lánh nạn băng miền,
Theo chân cậy có một tên Hỉ Đồng.
Nghĩ trong thầy tớ xét công,
Mấy cơn nguy-hiểm, mấy vòng gian-nan.
Tìm vào nhạc-phụ Hầu Loan,
Hay đâu cùng với quyền gian một lòng.
Cũng toan bắt nộp lấy công,
Giả hình khi ấy Hỉ Đồng đỡ thay,
Rày nhờ rộng bước đường mây,
2470Ngậm-ngùi đạo tớ, nghĩa thầy chưa quên.
Móc mưa xin tưới cửu-tuyền,
Gọi là tinh-biểu để đền chút công.”
Vua Đường nghe hết thỉ-chung,
Khen rằng tiết nghĩa hiếu-trung một nhà.
Của kho ban dựng miếu thờ,
Chức ban Thất phẩm gọi là tặng phong.
Tạ từ năm lạy đền rồng,
Trở ra rước cữu Mai-công xuống thuyền.
Tiễn đưa xe ngựa như nêm,
2480Trống ran mặt đất, cờ liền bóng sông.
Đồ hiếu-sự vẻ quân-dung,
Sông lồng giới-trượng gió tung biển-kỳ.
Đến đâu quyền được tiện nghi,
Một tay thưởng-phạt hai bề công-minh.
Lần lần gió mát trăng thanh,
Thuyền đà tới phủ Đại-danh bao giờ.
Một vài thầy tớ lên bờ,
Dân tình lại tệ, giả vờ, hỏi chơi.
Khác hình ai biết là ai,
2490Đi lần bỗng thấy một nơi có chùa.
Cửa ngoài thấy có niêm tờ,
Phủ-nha nghiêm cấm kẻ ra người vào.
Nghĩ riêng chưa biết làm sao,
Xưa nay cửa bụt dễ nào hẹp ai ?
May sao gặp lúc vắng người
Dời chân sẽ lẻn vào nơi hậu đường.
Thấy trong thờ-phụng một giường,
Trông lên bài-vị rõ-ràng Lư-công.
Thái-sư chức tước đề trong,
2500Chữ “Hầu Loan phụng” một dòng đề bên.
Cầm tay cất lấy về liền,
Cười rằng cấm cách nhân-duyên thế này !
Về thuyền, quân đã sắp bày,
Vào tòa sát-viện sai ngay đi đòi.
Nghe quan Tuần-phủ đến nơi,
Hầu Loan mình đã bồ-hôi ướt nhè.
Mấy lời truyền hỏi xa nghe:
“Viên kia có mất của gì biết chưa ?
Đồn rằng có ả tiểu-thư,
2510Đông-sàng ngôi ấy bây giờ là ai ?”
Loan nghe chưa hết đầu đuôi,
Rung rung sợ sợ, mở lời không ra
Thưa rằng: “Có chút gái thơ,
Mấy năm trước đã chơi xa suối vàng.
Chức ti phận tiểu tầm thường,
Chẳng hay thượng-hiến, sao tường duyên-do.
Đến mừng chậm-chạp già nô,
Dám xin thượng-hiến thứ cho được nhờ.”
Quở rằng: “Lộc nước ơn vua,
2520Còn lo thất hiếu mà thờ họ Lư !
Cả gan còn dám quanh-co.
Chứ thì bài-vị sau chùa tên ai ?
Nghi-trưng những chuyện mới rồi,
Bấy giờ bắt nộp họ Mai, công gì ?
A-dua chắc những mạnh bè,
Ai hay quyền ấy lại về tay ai ?”
Ruổi mau lệnh-tiễn kỳ-bài,
Đem ra chính-pháp, răn người vô lương.
Oai trời một lưới tứ phương,
2530Rung gan đảng nịnh, ghê xương lũ tà.
Gần gần đã thấu tin nhà,
Châu-công đã khiến người ra đón mời.
Quan quân sắm-sửa tơi bời,
Cờ giăng nhất tự, trống hồi tam liên.
Biển vàng “Tuần-thú đại thiên”,
Một bên bảo-kiếm, một bên lệnh bài.
Phủ Châu thoắt đã tới nơi,
Châu-công ra đón cửa ngoài mừng vui.
Phấn vua rạng vẻ cân đai,
2540Hà-nam gia-khách vẫn người ngày xưa.
Quan cựu lại, bực tân khoa,
Tình nhạc-phụ, nghĩa ân-gia vuông tròn.
Tiệc rồi giãi chuyện hàn-ôn,
Gấm chen vẻ quí, rượu ngon giọng tình.
Sinh rằng: “Nhờ phận khoa danh,
Quốc-gia ơn rộng, môn-đình thơm lây.
Chiếu trời đã tỏ năm mây,
Xong tuần đại thú, đến ngày nghênh thân.
Khâm kỳ nghe đã gần gần,
2550Một nhà xin liệu, định tuần lai Kinh.”
Bước vào làm lễ gia-đình,
Tạ từ sinh đã khởi trình trẩy ra.
Tình cố-hữu, nghĩa thông-gia,
Ông đà sửa lễ, cho đưa theo thuyền.
Xuôi dòng nước chảy như tên,
Buồm giong thoắt đã tới miền Thường-châu.
Gieo neo kề bến mã-đầu,
Sửa-sang nhà trước, vườn sau mấy tuần.
Cho tin đi đón mẫu-thân,
2560Sơn-đông nhà cậu cũng gần chẳng xa.
Mấy ngày bà đã tới nhà,
Ruột dò chín khúc, lệ sa đôi hàng.
Vật mình lăn trước linh sàng,
Khúc oan kể-lể, nỗi thương ngậm-ngùi.
Nhìn chàng, than thở mấy lời,
Nghĩa sâu mẫu-tử, tình dài biệt ly.
Ôm quan khóc-lóc nằn nì,
Nghĩa phu-phụ những nặng vì nước non.
Thảm chồng thôi lại mừng con,
2570Thức cười nước mắt, ngủ hồn chiêm-bao.
Sinh rằng: “Chín chữ cù-lao,
Bể sâu mấy trượng, trời cao mấy trùng.
Bấy lâu nam bắc tây đông,
Bước chân xa cách, tấc lòng quặn đau.
Trời cho rày được tụ đầu,
Nợ xưa nhẹ gánh, phúc sau đền phần.
Con vâng vương-mệnh tại thân,
Vinh qui, hối táng,đại tuần, một phen.
Rồi đây táng tế cho yên,
2580Mẫu-thân xin rước xuống thuyền lai Kinh.
Chẳng lâu con cũng khởi-hành,
Trước lầu ngữ phượng đại thành lễ thân.”
Mấy ngày táng sự đến tuần,
Đã tìm đất tốt phong-thần một nơi.
Chiếc bia “trung-liệt” dựng ngoài,
Đá xanh tạc lấy được ngày treo trên.
Thành phần nóc rạp kéo lên,
Ba vòng giáo dóng, hai bên thái kỳ.
Tầng trong bày-đặt uy-nghi,
2590Ngậm tăm hơi miệng, kéo rề bước chân.
Tiêu thiều nhã nhạc xa gần,
Tam huyền nhịp-nhặt, song vần tiếng khoan.
Đồ điếu-phúng, lễ ngự ban,
Mấy mâm ngũ-thục, mấy bàn tam-sinh.
Chữ vàng đề trước minh-tinh,
Đường-triều Thái bảo chính danh rõ-ràng.
Quan quân tiễn kiệu kéo hàng,
Hạ-liêu mấy lũ, bộ đường mấy ban.
Trạng-nguyên đi trước phù-quan,
2600Phu-nhân nối kiệu buông màn phương-du.
Lập lăng mấy gốc tùng-thu,
Một vùng sảng-khải đắp mồ ngưu-miên.
Bấy lâu táng lễ vừa yên,
Phu-nhân đã giục xuống thuyền đi Kinh.
Trạng-nguyên cứ việc tuần hành,
Nghi-trưng vừa mới nhật trình tới ngay.
Lạ quen cũng một miền này,
Sao xưa trốn-tránh mà rày hiển-dương ?
Thoảng qua sực nhớ mọi đường,
2610Chợt lòng lại động tấm thương Hỉ Đồng.
Tra ra tri-huyện Sử-công,
Môn-sinh Lư Kỷ cũng vòng quyền gian.
Sá chi mọn mảy xẻ đàn,
Nhiêu cho tính mệnh lại hoàn thứ-nhân.
Công-lênh nhớ đến Đồ Thân,
Cho làm huyện lệnh đền ân tấm lòng.
Bắc môn ghi mả Hỉ Đồng,
Dựng bia đá, lấy sắc phong tạc liền.
Lại truyền sửa rạp một bên,
2620Trước mồ tế điện một phen thân hành.
Khóc than kể hết mọi tình:
“Có công-danh ấy vì mình chớ ai.
Vì ta trót đã thiệt đời,
“Đền công, ta cũng nhớ lời khấn xưa.”
Băn-khoăn đường đất cách xa,
Giao Đồ Thân, tự bấy giờ giữ coi.
Phỏng sau kế tự còn dài,
Họ Đồ nhường lại một người họ Vương.
Gọi là phụng tự khói hương,
2630Ấy là tròn hết mọi đường thỉ-chung.
Đồ Thân vâng dạy ghi lòng,
Đem con bèn cải Hỉ Đồng họ Vương.
Lại tìm đến chốn phật đường,
Truyền đem áo tía xe vàng nghênh sư.
Tái sinh may có ơn xưa,
Khấu đầu bách bái tạ thưa mấy lời.
Chàng từ ân oán rạch-ròi,
Cất không gánh nặng, tát vơi bể sầu,
Tuần-hành mọi chốn đâu đâu,
2640Trong lòng phép nước, trên đầu ơn vua.
Công không sót, tội không tha,
Phân hào chẳng lẫn, tóc tơ nào lầm.
Mấy phen mực nẩy, cân cầm,
Trong veo lại tệ, nổi bồng dân ca.
Lần lần đông lại xuân qua,
Một vòng tuần-thú tính đà khắp quanh.
Định ngày phục mệnh lai Kinh,
Sớ-văn một tập, hiện thành tâu lên.
Chín lần đã động tiếng khen,
2650Tấc lòng công chính, mấy phen nhọc-nhằn.
Trên vì nước dưới vì dân,
Ban cho cực-phẩm Tể-thần đền công.
Truyền Khâm-thiên-giám hội-đồng,
Chọn ngày đại-cát động phòng nghênh thân.
Trạng-nguyên thay áo Tể-thần,
Dưới thềm năm lạy tạ ơn khấu đầu.
Nhàn chơi lui tới thiếu đâu,
Phủ Trần đi lại, phủ Khâu ra vào.
Trời xuân minh mị thế nào,
2660Lưỡi oanh ríu-rít, bông đào so le.
Phượng lâu sắp sẵn lễ nghi,
Khâm-thiên đã định nhật kỳ tư tra.
Tháng ba vừa bữa mồng ba,
Là ngày hoàng-đạo, là giờ thiên-ân.
Xiết bao khí ngoạn kim-ngân,
Phủ Mai lĩnh trước, phủ Trần lĩnh sau.
Bạc, vàng, ngà, ngọc, thiếu đâu,
Cung-hương, mã-não, minh-châu, mấy bàn.
Rỡ-ràng phẩm phục mới ban,
2670Mãng-bào hai bộ, hoa-quan bốn tòa.
Hôm sau vừa rạng mồng ba,
Cao cao lầu phượng, xa xa mặt rồng.
Ngai vàng thăm-thẳm bên trong,
Bách quan văn-võ hội đồng bấy lâu.
Trạng-nguyên trước, Bảng-nhãn sau,
Yết câu vạn tuế, khấu đầu lạy xa.
Ban cho ngự tửu, cung-hoa,
Hai yên ngựa trước, bốn tòa kiệu sau.
Trước sau phân đạo ruổi mau,
2680Phủ Trần nhộn nhịp, phủ Châu linh-đình.
Thiếu gì vẻ quí màu thanh,
Rỡ-ràng kết thái, rập-rình trương đăng.
Hai bên tiếp đãi tưng-bừng,
Nhạc râm-rỉ vỗ, hương lừng-lẫy xông.
Khéo là thu-xếp cũng thông,
Châu-công đã hợp Trần-công một nhà.
Mai-sinh lạy bốn ông bà,
Bên là công đẻ, bên là công nuôi.
Vân Anh, Trần Hạnh hai người,
2690Cung-trang sắm-sửa cùng ngồi kiệu hoa.
Bên kia Khâu-phủ xa xa,
Xuân-sinh gióng ngựa cũng vừa tới nơi.
Ông bà Khâu-thị cùng ngồi,
Chàng vào tám lễ, lễ rồi bước ra.
Giường bên bốn lạy Ngư-bà,
Tình là bán tử, nghĩa là tái sinh.
Vân Tiên, Châu Ngọc sắm-sanh,
Kiệu đà ghé bến trước bình cùng lên.
Vừa xong lễ sính đôi bên,
2700Trước sau một lũ kéo liền thẳng giong.
Trạng-nguyên ngựa trước song song,
Khác nào như thể cỡi rồng lên tiên,
Ngựa sau Bảng-nhãn theo liền,
Giải đào chân để, nệm sen mình ngồi.
Rườm-rà chân chỉ hạt trai,
Vàng suy miệng hậu, cừ nhồi mã yên.
Nối sau bốn kiệu kéo liền,
Tám đòn nhận ngọc, bốn bên buông rèm.
Liễu-hoàn, chị chị, em em,
2710Chạy gần che quạt, theo chen ôm lò.
Kiệu hoa nhẹ bước từ từ,
Kiệu theo ngựa trước, ngựa chờ kiệu sau.
Vòng ngoài nhộn-nhịp quân hầu,
Ngửa trông đã thấy phượng-lâu dưới thềm.
Khen rằng sáu gã thanh-niên,
Trai tài gái sắc, hai bên kịp thì.
Thơ đào ngợi chữ vu-qui,
Ban thêm châu ngọc cho về thành thân.
Đôi tài-tử, bốn giai-nhân,
2720Phủ Mai bài trí, phủ Trần sửa-sang.
Đuốc hoa, màn gấm, sẵn-sàng,
Định ngôi gửi rể, chia buồng đông tây.
Rượu mừng mặt, lễ bắt tay,
Nơi vui bàn ngọc, nơi vầy cuộc tiên.
Rạng mai vào lễ thánh tiền,
Ban cho bồi yến ngự diên hai chàng.
Thiên-nhan gần gũi tấc gang,
Nến hoa đối mặt, chén vàng trao tay.
Tiệc vui chầu-chực tối ngày,
2730Lại ban ngự-chức đưa ngay đến lầu.
Dần-dà cách mấy đêm sau,
Ban đòi tân phụ vào chầu từ cung.
Bốn nàng dự yến đền trong,
Ân vua gội thấm, tiếng chồng thơm lây.
Rồi ra yến-ẩm mấy ngày,
Khi vui Mai-phủ, khi vầy Trần-gia.
Mời nhau lần-lượt tiệc hoa,
Thôi bên Trần-thị, lại tòa Khâu-công.
Phong-lưu phú-quí cùng chung,
2740Bõ ngày truân-hiểm, bõ công sách đèn.
Hai tài-tử, bốn thuyền-quyên,
Tiếng người mới, vẫn người quen bao giờ.
Dàn trước gió, rượu bên hoa,
Câu thơ trong tuyết, cuộc cờ dưới trăng.
Xướng tùy đều giữ đạo hằng,
Một nhà hảo-hợp dễ chăng mấy người.
Có phen ôn chuyện trùng-đài,
Có phen nhắc chuyện thoa rơi nực cười.
Có phen nhắc chuyện lôi-thôi,
2750Đền Chiêu Quân điện thủa đời Hán-gia.
Bèn đem tâm-sự tâu qua,
Lại xin ở đấy đợi chờ chiêm-bao.
Canh khuya thấy sứ đòi vào,
Bảo qua mấy tiếng tiêu-hao sự nhà.
Hôm sau đến Hắc-thủy hà,
Gieo châu, bỗng thấy thần đưa đem về.
Đằng vân giá vũ, cũng ghê,
Một giây bỗng thấy đưa về Trung-hoa.
Xin làm ngọc-xuyến, kim-hoa,
2760Mượn người thương khách đem đưa sang Hồ.
Hỏi thăm đến tối linh-từ,
Chiêu Quân là hiệu, bấy giờ tiến lên.
Khấn rằng là của Hạnh Nguyên,
Cho sai đưa đến án tiền tạ ân.
Lại ra các bộ sứ-thần,
Tạ từ cơ thiếp, vân vân mấy lời.
Có phen kể tích Giang Khôi,
Có phen nhớ nỗi vớt chài cầu vui.
Hai nhà phúc hậu vẹn mười,
2770Thung-thăng cõi thọ đứng ngồi đền xuân.
Đông hàng lông phượng gót lân,
Kìa nhà ngũ quế, nọ sân bát đồng.
Đời đời khoa-mục đỉnh-chung,
Rõ nền thi-lễ, nối dòng thư-hương.
Hiếu, trung, tiết, nghĩa đủ đường,
Dựng bia muôn kiếp, để gương nghìn đời.
Cho hay trời cũng ngồi rồi,
Tuần-hoàn đem lại vòng dài rút chơi.
Dữ, lành bỏ lửng mà coi,
2780Sắp đâu vào đấy chẳng sai phân hào !
Gian-tà chớ vội bảnh bao,
Tung lên cho đến, buộc vào tự nhiên.
Trước dù lỏng-lẻo dường thiên,
Sau càng ráo-riết, mới tin tay già.
Trung-lương còn bỏ lửng-lơ,
Xoay trăm nghìn cấp, thử ba bốn lần.
Hãy cho đeo-đẳng đủ phần,
Rõ lòng sắt đá liệu dần gỡ cho.
Voi chẳng đẻ, đẻ thì to,
2790Bấy giờ mới rõ thực lò Hóa-công.
Truyện này xem thấu thỉ-chung,
Suy ra mới biết trời không có lầm.
Dữ, lành trong một chữ tâm,
Cơ thâm thì họa cũng thâm là thường.
Ví hay tu tỉnh mọi đường,
Trước dù chịu thiệt, sau càng thấy hơn.
Bàn riêng mấy bạn kim-lan,
Phường ta bất quá sàn-sàn bực trung.
Dở đâu như Kỷ như Tung,
2800Hay đâu ví với Mai-công mà rằng.
Bình cư giữ lấy đạo hằng,
Hễ người trung-chính xin đừng tự khi.
Đã là nam tử tu mi,
Vào vòng công-nghiệp, ấy thì có vua.
Mới hay từ tóc đến tơ,
Miếng cơm, tấm áo cũng nhờ quân-ân.
Sao cho được chữ trung-thần,
Thờ vua chớ có vị thân mới đành.
Thế rồi trời cũng có mình,
2810Lo gì phúc hậu, công-danh kém người.
Phòng văn nhân buổi ngồi rồi,
Học đòi tấp-tểnh mấy lời nôm-na.
Trước là rõ kẻ trung, tà,
Sau là ta dặn lấy ta mọi bề.
Biết bao lời kệch tiếng quê,
Thôi thôi bất quá là nghề mua vui !

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét