Thứ Bảy, 10 tháng 10, 2020

SẤM TRẠNG TRÌNH 7








BẢN VI : MINH ĐIỀN 1948

LỜI NÓI ĐẦU

Vì sao có quyển sấm nầy ra đời ? – Không dám vọng ngữ , quyển sấm nầy cần phải ra đời vì nó quý báu bằng tất cả kho tàng của một nước Đại Việt và hơn nữa, đã đến giai đoạn cần thiết của thời cuộc hiện tại mà lời sấm đã ghi đúng đắn từng li từng tí mỗi một cuộc biến cố xảy ra trong nước.

Bắt đầu từ Cổ Am bị tàn phá cho đến ngày lịch sử cách mạng tháng 8, kế đến giai đoạn Hoàng Đế Bảo Đại về nước, mỗi mỗi đều nhốt tất cả trong 487 câu thơ mà Đức Trạng Nguyễn Bỉnh Khiêm, với một bầu tâm sự đầy nhiệt huyết nhả ngọc phun châu cho vạn cổ anh hùng suy nghiệm.

Hởi các chí sĩ anh hùng trong thiên hạ ! Chớ nên quá ư căn cứ vào khoa học mà chê những truyện sấm giảng là hoang đường, vì có những sấm giảng và sấm giảng.Hoang đường là lời nói vu vơ, ảo mộng không biết bao giờ xuất hiện như lời đã nói. Còn quyển sấm nầy viết từ 400 năm nay mà mỗi mỗi đều ứng nghiệm ngoài đời thực tế cho đến những cái tên riêng của những người chủ trương trong mấy phong trào quá khứ, hiện tại và vị lai cũng đều ứng nghiệm ghi rõ .

Nó là môn khoa học huyền bí vì Trạng chuyên môn lý số nhờ ở bộ ” Thái Ất Thần Kinh ” mà ghi chép ra chứ nó đâu phải ngất ngưởng như bóng với đồng. Nếu không phải khoa học, sao cụ lại được tặng câu ” Annam lý học hữu học Trình truyền ” của Tàu là một nước bao giờ cũng tự hào rằng mình cao hơn hết về khoa lý số.

TỰU TRUNG :
Cũng vì lòng từ bi, bác ái mà đức Trạng có quyển sấm nầy ra cốt để cho các vị trượng phu anh hùng xem lấy mà tránh cái nạn cốt nhục tương tàn.

Cũng vì lòng yêu nước thiết tha mà Đức Trạng có quyển sấm nầy ra là cốt để cho trong tôn giáo, ngoài xã hội xem lấy biết nẻo tôn phò ” lòng trung nghì ai nhớ cho tinh ” và cũng vì lòng hiếu kỳ mà soạn giả khởi đọc quyển sấm nầy hồi 1930 sau cuộc biến động Cổ Am do Quốc Học Tùng San xuất bản. Soạn giả cũng không nệ hà tài hèn hiến cho bạn đọc những đoạn dịch chánh bản và phụ trương mong rằng thích đúng trong muôn một.

Viết ở Sài-Thành mùa đông năm Mậu Tí 1948.
Cư Sĩ MINH ĐIỀN

PHẦN THỨ NHẤT

Dục thức thánh nhân xứ
Đa xuất ứng Bảo giang
Dục thức thánh nhân hương
Thủy lam bảo trung tàng
Dục thức thánh nhân tính
Mộc hạ liên đinh khẩu
Dục thức thánh nhân diện
Tu tẩm trương cú kiến
Giang nam nhị thủy huyện
Tại sơn vô hổ lang
Thất thập nhị hiền tướng
Phụ tá thánh quân vương

Phá điền thiên tử xuất
Bất chiến tự nhiên thành.

…………………….
…………………….

Tư tâm dục thức thánh nhân diện
Lưỡng biên bàn ngạt tùy nhất khối
Thủ túc chánh vương tam lương tự.

PHẦN THỨ HAI

Cuộc đời ai dễ biết đâu
Yêu tinh gian trá bóp hầu thần tiên
Quan làng ỷ thế ỷ quyền
Dân khôn giả dại mới yên phận mình
Mặc ai chia rẽ thị khinh
Việc làng việc nước làm thinh chớ bàn
Ta tin ta mới đặng an
Luận bàn bè bạn chỉ đàng cho nhau
Việc người thì mặc người âu
Nghiêng tai giả điếc lắc đầu làm ngơ
Muốn yên mồn lặng như tờ
Luận bàn việc nước thì khô xác hình
Bởi đời quốc thể bù nhìn
Quan làng tàn bạo sanh linh tơi bời
Lương dân than khổ đòi nơi
Quốc hồn mờ ám hởi ôi thế quyền
Nước nhà nghiêng ngửa ngửa nghiêng
Tham quan hại nước lợi riêng cho mình
Biết chi là ám với minh
Sớm ưa trưa ghét dân tình đời ni
Kim tiền quyền thế tương tri
Không quyền không thế người khi ngu đần
Chớ hà hiếp nhớ siêng cần
Đến nơi Tiên Phật Thánh Thần mới an
Nghèo nàn bổng chốc giàu sang
Đứa ngu đội bạc ra đường dại khôn

Bởi đời toàn lũ vô hồn
Khinh khi nhân nghĩa trọng tôn bạc tiền
Dốt ngu đội lốt Thánh Hiền
Mở miệng thì rặc đồ điên một dòng
Chừng nào cây sắt trổ bông
Đường đen như mực Lạc Hồng tai phi
Trung thần ái quốc dễ khi
Phản thần mãi quốc nên ghi để đời
Thức thời quốc sử bỏ rơi
Ngay không nhầm lúc dĩ hơi hại mình
Vô quân vô tướng vô binh
Trung không cùng chúa cúng kinh ích gì
Chừng nào lú mọc trên chì
Voi đi trên giấy đến kỳ Đông Chu
Trí thời giả điếc giả ngu
Khôn thời giả dại mà tu lấy mình
Cầm quyền toàn lủ yêu tinh
Quan nhiều Mảng Tháo cùng sinh hại đời
Mua quan bán tước lấy lời
Hại dân hại nước coi trời như không
Bì trung cốt nịnh rặc ròng
Kết phe kết đảng giết giòng phải nguy
Nồi da xáo thịt ngộ thay
Miễn mình béo bở mặc ai ốm gầy
Cáo kia mượn thế hại cầy
Mẹ cha ưa nịnh ghét bầy con ngu
Động tâm Thượng Đế dạy ru
Xuống nhiều tai họa xuân thu sửa lần
Gió sầu mưa thảm cõi trần
Thiên luân địa chấn quân thần nó xem
Canh tân sực nức mùi hèm
Mhâm quý bằng lặng ngoại binh đem vào
Giáp thời thấy rõ binh đao
Ất niên chiến họa xâm vào tràn lan
Thiên tai chiến sự đa đoan
Quốc gia nghiêng ngửa tham quan hại đời
Phản thần bán nước khi trời
Gọi rằng trung trực hởi ôi thế quyền

Nhứt hữu liên sơn nhứt hữu bình
Tam giang khí địa nhụ giang kinh
Tu châu tai lạc thế châu khổ
Ngu lại hườn chung khổ hại mình
Xác dân xung tận cung đình
Thiên oai chấn nổ luật hình ban ra
Mười phần mất bảy còn ba
Mất hai còn một mới ra thái bình
Trục kia chọi với đồng minh
Hai sông khô cạn nhựt tinh tỏ ngời
Ra oai đánh dẹp mọi nơi
Năm châu bốn bể thây phơi chập chùng
Mùa xuân gió bấc lạnh lùng
Cua kình trở gọng về cùng lũ dê
Cuộc đời như thể trò hề
Nực cười lũ chó còn mê lợi quyền
Sình ương khó nướng xào chiên
Quốc gia nghiêng ngửa đảo điên bốn bề
Ra đi thì khó nỗi về
Xe kia hết bánh thả rề sông trôi
Chừng nào Chợ Lớn hết vôi
Bề Đông cá đặt cuộc đời lao đao
Lò rèn thiếu thép rèn dao
Hết đồng đúc đỉnh hết thau bán nồi
Chợ đen vốn một lời mười
Gạo châu củi quế lời người than van
Vải bô giá sánh bằng vàng
Kẻ đói người rách lan tràn chợ quê

Tiết trời đánh đổ bông huê
Nhân dân phải chịu thảm thê họa sầu
Theo Âu nên phải lo âu
Mấy ai hiểu nghĩa Bá Di-Thúc Tề
Khỉ đàn vừa gặp lũ dê
Bắc trung phải chịu thảm thê họa đầu
Đại bàng xung phá đài lầu
Ngạc ngư phóng toát thuyền cầu tan hoang
Rồi Nam cũng chịu lầm than
Phương đông ba tỉnh phải mang họa sầu
Trớ trêu cảnh sắp nhiệm mầu
Phồn hoa đô hội thảm sầu đớn đau
Cuộc đời gẫm thiệt cơ cầu

Trung thua quyền nịnh tiên hầu quỉ ma
Khỉ đàn gặp cặp mảng xà
Trăng tròn thiếu một thì ta xuống hầm
Yêu đương cũng phải lạc lầm
Sáu nơi khói lữa sấm gầm Sài môn
Nghèo nàn không có quách chôn
Gian tham quyền thế biết khôn lánh rồi
Nhưng mà họa có đâu thôi
Bồng con bế cái nổi trôi đầy đàng
Đến hồi quốc vận lâm nàn
Chi tiêu ăn mặc cường quan độc quyền
Càng ngày càng đảo càng điên
Dân ta như thể đàn chiên đánh vồn
Ô hô giống khéo giống khôn
Vay thời phải trả xác hồn lìa xa
Thịt rơi xương nát máu sa
Thầy tăng chẳng chịu ở nhà phù tang

Sưu cao thuế nặng ta mang
Đàng xa mới biết xa đàng nặng cân
Thân dậu lánh việc nương thân
Miên thành Sài trấn đến gần bỏ thây
Khỉ bầy bị một gà khi
Cuộc đời như vậy tham chi mà bòn
Gà mừng gặp lúa túc con
Miễn con no dạ mất còn kể chi
Cái năm chiến họa loạn ly
Mưa to gió họa hại gì tham quan
Nhơn dân khốn khổ đa đoan
Mọi điều khốn khổ lại càng bằng hai
Tu hành hiền hậu chết hoài
Sai ngoa gian trá sống dai chật đàng
Cơ trời định vậy chớ than
Tương vong yêu nghiệt hành tàng đấy ư !
Đầu xuân gà gáy hăm tư
Thầy tăng đến hạn họa trư tuyệt kỳ

Thiên cơ máy tạo huyền vi
Tuần hườn máy tạo ai thì có hay
Nực cười cho lủ vô tài

Tôi tôi chúa chúa hôm mai Sở Tần
Xuân phân cho đến thu phân
Quốc gia điên đảo thần dân rối nuồi
Buồn buồn tủi tủi vui vui
Tiếng thì để tiếng muốn lui lắm lần
Rồi đây bày tỏ trung cang
Trời cho Tiên Phật xuống trần trị yêu
Văn minh cơ khí đủ điều
Cọp đồng gấu sắt phi phiêu thủy hành
Phong luân họa giáng lôi oanh
Kết phe lập đảng tranh giành thế ni
Năm châu nổi sóng một khi
Chuồn bay khói tỏa tử thi như bèo
Mưa dầu nắng lửa sấm reo
Hai loài xâu xé họa gieo dân lành
Đảng dân đại bại tan tành
Cầu cùng đảng Cộng ra tranh chiến cùng
Tu binh mãi mã chiêu hùng
Núp lưng đảng cộng trung hưng nước nhà
Rồi sau sanh sự bất hòa
Lại cùng đảng cộng can qua chiến trường
Non cao bể cả đôi đường
Phân ranh biên giới tỏ tường mới an
….

Đảng dân đại bại tan tành
Cầu cùng đảng Cộng ra tranh chiến cùng
Tu binh mãi mã chiêu hùng
Núp lưng đảng cộng trung hưng nước nhà
Rồi sau sanh sự bất hòa
Lại cùng đảng cộng can qua chiến trường
Non cao bể cả đôi đường
Phân ranh biên giới tỏ tường mới an

Vầng hồng rọi khắp bốn phang
Tây phang cuốn gió tìm đàng đào vong
Bập bồng Tần quốc bập bồng
Là nơi chiến địa huyết hồng tràn lan
Hải hồ rửa máu nghỉ an
Tiền Âu hậu Á Thiên Hoàng định thu

Thân gà dạ khỉ đấy chừ
Thì là ngọn lửa mới thu dịu lần
Kỳ phang thay đổi cuộc trần
Chó kia gặp chủ nó cần sủa tru
Quân minh dân sự ôn nhu
Heo kia thong thả ngao du đầy đàng
Chuột mừng gặp cảnh bình an
Trâu kia thong thà nghêng ngang đồn điền
Cọp rày làm chúa lâm điền

CHÓ kia GẶP CHỦ nó cần sủa tru
UÂN MINH dân sự ôn nhu
HEO kia THONG THẢ ngao du đầy đàng
CHUỘT mừng gặp cảnh BÌNH AN
TRÂU kia THONG THẢ nghênh ngang đồn điền
CỌP rày LÀM CHÚA lâm điền
QUÂN THẦN CỘNG LẠC MIÊN MIÊN CỬU TRƯỜNG.

TRẦN CÔNG nãi thị phúc tâm
GIANG HỒ SỬ SĨ đào tiềm XUẤT DU
Tướng thần hệ xuất Y CHU
Thứ ky PHỤC KIẾN ĐƯỜNG NGU thi thành
Hiệu xưng THIÊN HẠ THÁI BÌNH
487.ĐÔNG TÂY VÔ SỰ NAM THÀNH QUỐC GIA.

Thiên cơ máy tạo huyền vi
Tuần hườn máy tạo ai thì có hay
Nực cười cho lủ vô tài
Tôi tôi chúa chúa hôm mai Sở Tần
Xuân phân cho đến thu phân
Quốc gia điên đảo thần dân rối nuồi

KHẢO DỊ

Ngày nay bản Minh Điền có khác vài điểm .
1. Một độc giả cho biết phần I và II của bản này là ở phần Phụ trương của Minh Điền.
Phần I .
Dục thức Thánh nhân xứ
Đa xuất ứng Bảo Giang, ……..
Phần 2:
Cuộc đời ai dễ biết dâu,
Yêu tinh gian trá bóp hầu thần tiên,
Quan làng ỷ thế ỷ quyền,
Dân khôn giã dại mới yên phận mình,
Măc ai chia rẽ thị khinh,
Việc làng việc nước làm thinh chớ bàn,
Ta tinh ta mới dặng an,
Luận bạn bè bạn chỉ đàng cho nhau,
Việc người thì mặc người âu,
Nghiêng tai giả điếc lắc đầu làm ngơ
Muốn yên mồm lặng như tờ,
Luận bàn việc nước thì khô xác hình . . .

Ông bạn cũng cho biết bản Minh Điền cũng tam sao thất bản, tôi không rõ là do chép tay hoặc in đi in lại mà ra thế!
Các bản đều có câu kết giống nhau:
Hiệu xưng THIÊN HẠ THÁI BÌNH
ĐÔNG TÂY VÔ SỰ NAM THÀNH QUỐC GIA.

Theo Phạm Đăng Quế, bản Minh Điền có 487 câu, chỉ có 22 câu giống bản Mai Lĩnh từ câu 374 đến 431, còn lại là khác hoàn toàn. Ông đã trích 50 câu đầu và 30 câu cuối của Mai Lĩnh thì thấy 80 câu này hai bản giống nhau. Tôi chỉ có bản sao của Minh Điền nhưng không có bản chính nên không rõ sự thực như thế nào.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét