Thứ Ba, 27 tháng 10, 2020
THÁNH-ÐỨC CHƠN-KINH
THÁNH-ÐỨC CHƠN-KINH
1.- THÁNH TỰA
Cuộc âm dương luân chuyển, cơ Tạo-Hóa vần xây. Cuối thế kỷ 20, nhơn loại đổi dời, cơ đời xáo lộn. Các Tôn-Giáo cũng vì trào lưu mà biến cải chơn truyền, đã đành mạt pháp. Cuộc tang thương sẽ đến làm cho thương hải biến tang điền.
Cơ hoạn nạn hầu kề, khiến phu phụ, Quân Vương, cang thường đều bại hoại. Ðấng HUYỀN-KHUNG-CAO THƯỢNG-ÐẾ chiếu theo Thiên-Cơ, vì quá thương nhơn sanh giữa cuộc tai nàn, mới tá danh là CAO-ÐÀI TIÊN-ÔNG ÐẠI-BỒ-TÁT MA-HA-TÁT, giáo Ðạo nơi cõi Á-Ðông gọi là ÐẠI-ÐẠO TAM-KỲ PHỔ-ÐỘ, qui nguyên các giáo, phục nhứt Ngũ Chi.
Từ ngày hoằng khai mối Ðạo đến nay, trải bao phen khó nhọc vì đời, biết mấy lúc truân chuyên với Ðạo, cũng bởi tại văn minh, vật chất, mồi ăn, chỗ ở, sự sang cả của đời, thường xúi giục người tranh danh đoạt lợi. Ðương lúc lòng người điên đảo đem mối Ðạo truyền cho, dạy ăn chay làm lành, thì ai cũng ngờ vực giữa danh lợi và Thiên-Cơ.
Lại nữa, bởi các Tôn-Giáo lâu đời, nên nhơn sanh không ái mộ và chẳng còn tin Trời, Phật, Thánh, Thần. Nay CHÍ-TÔN đem sự cơ bút dạy đời, thì người kính phục, vì tin có Phật Trời giáo hóa. Ấy cũng vì máy linh Trời Phật dạy, đặng độ rổi chúng sanh, nhưng cơ Trời còn hoài bảo, cho chư Phật, Tiên, Thánh, Thần giáng cơ giáo Ðạo tứ phương khắp xứ Nam-Kỳ. Lại còn truyền ra các lân bang ngoại quốc, vì bấy lâu còn tùy theo lòng nhơn sanh mà phổ độ, dạy dỗ tu hành nên chưa đem trọn mối chơn truyền chỉ giáo.
Nay đã sắp đến thời kỳ khổ nạn, con người đặng bước lên đường Ðạo khá cao, nên Hội Quần-Tiên mà ban Kinh THÁNH-ÐỨC.
Năm Ất-Hợi, Hội Quần-Tiên NGỌC-VÂN-ÐÀN tạm nơi TRƯỚC-LÝ MINH-ÐÀI ra quyển thứ nhứt, thức tỉnh người biết mối Ðạo đại đồng, và dạy rành nhơn luân nghĩa vụ, gọi là "THÁNH-ÐỨC CHUYỂN-MÊ".
Ðến nay là năm Bính-Tý, Hội Quần-Tiên tại Ngọc-Minh-Ðài ra quyển thứ nhì dạy người đời lên đến chỗ cực điểm tinh thần và biết nhìn nhau đồng một lý Ðạo, nên gọi là "THÁNH-ÐỨC CHƠN-KINH".
Pho THÁNH-ÐỨC nầy gồm các chơn-truyền, các giáo lý, mà dạy rành cái chỗ tuyệt đối Ðạo mầu, nên cả chúng sanh trên địa cầu, bất luận là Tôn-Giáo nào, màu da nước tóc nào, cũng đều xem, đều học được. Nhưng xem Kinh phải lãnh hội các nguyên lý cao siêu của Thánh Tiên dạy bảo, điều nào chưa rõ thì phải suy nghĩ lại cho rành mà hành theo mới đúng. Chớ xem Kinh cho qua buổi mà không thật hành thì cũng như ăn bánh vẽ mà thôi.
Những người biết trọng kỉnh Kinh nầy mà hành theo thì có Lục-Ðinh, Lục-Giáp hộ mạng, các vị Bồ-Tát hộ thân. Bằng xem Kinh mà chẳng hành, hoặc chê hủy thì ắt bị quả báo chẳng sai.
Từ khai Ðạo cũng nhiều Thánh-Ngôn, cũng nhiều Kinh-Kệ, nhưng nhiều quá rồi nhơn sanh hủy hoại, và lại những Thánh-Ngôn ấy đều là khuyến tu mà thôi, nên chẳng có can hệ cho lắm. Còn bổn Kinh nầy là một bổn chơn-truyền, thuyết minh lý Ðạo.
Khuyên nhơn sanh phải biết trọng kỉnh và thật hành sau khỏi điều tội lỗi.
Tiết Trung-Thu, năm Bính-Tý
LÝ-THÁI-BẠCH
2.- THÁNH TỰA 2
_____
THÍCH-CA NHƯ-LAI
__________
Cuộc bể dâu đổi dạng, tranh vân cẩu thay hình. Cõi trần ai biến động đao binh, nơi thế sự ngắm nhìn càng chan chứa. Mối Ðạo Trời mười một (11) Thu lần lựa, tuy không dài mà xem quá muôn năm. Ðường văn minh mấy lúc dập dồi, đã khó nhọc lại xem dường nháy mắt. Trào lưu lôi cuốn, hoàn cảnh trở xây, cuộc dinh hư chưa thỏa kiếp phong trần, nền luân lý cang thường đà bại hoại. Nỗi vạn sanh dưới quyền chế cải của thời đại văn minh, tài chi ai chống chỏi giữ gìn cho vẹn vẽ thuần phong mỹ tục. Cuộc đời dời đổi, tuy không mấy lúc, mà mối nhơn luân, nền phong hóa phút chút suy đồi. Việc chuyển luân xét chẳng là bao, mà nhơn tâm thế thái xem đà mòn mỏi. Cuộc biến thiên sẽ đến đưa cho đời nhiều cảnh đau thương.
Nền Ðạo-Ðức vừa sang ban cho khách lắm điều phước đức.
Người đời không mấy lát, như gió tạt ngọn đèn, sự biến thiên dành để trước kia, dầu trí thức cũng đầm đìa giọt ngọc, tiếng nhơn sanh than khóc, câu vạn vật thở sầu. Nỗi phong trần nền văn hiến Á Âu, thêm cõi thế tạo những sự thảm sầu trong cơ binh khí. Thời đợi đến bực anh hùng dầu long trời dậy đất cũng còn phải đem thân liên lụy, huống chi người trong trần sao khỏi đau thương.
ÐỨC NGỌC-HOÀNG không nỡ xem cuộc thế tang thương, mới hội Quần-Tiên đặng ban Kinh THÁNH-ÐỨC. Xưa đời Ðông-Châu Liệt-Quốc, khi dời đô đã mất bộ "Quốc-Phong Nhã-Tụng", nên nhân dân xao xuyến với thất-hùng ngũ-bá tranh cường, sái phép cần vương, xa điều chánh pháp. Ðức Khổng-Thánh tác Xuân Thu sửa mối giềng.Nay cơ Ðạo chinh nghiêng phân trăm phái ngàn phe rối động, kinh luật đà có hình không bóng. ÐỨC THƯỢNG-ÐẾ mới hội Quần-Tiên mà ban bố Thánh-Kinh, gồm có cổ kim đời Ðạo như chiếc Ðại Bát-Nhã Thuyền đưa người từ phàm tục đến Niết-Bàn.
Rất lành thay! Rất lành thay!
Khuyên thế sự nhơn gian đồng trọng kỉnh và tuân hành.
Tiết Trung-Thu, năm Bính-Tý
TAM-GIÁO hội phê chuẩn
3.- THÁNH-ÐỨC CHƠN-KINH
Ðêm mùng một tháng tám năm Bính-Tý (1936)
__________
THI:
KHƯƠNG thạnh đời yên nước trị vì,
THÁI bình chánh đại buổi khuynh nguy,
CÔNG trình phổ độ ban Kinh Thánh,
Giáng thế Phật Tiên phước hộ trì.
Chào chư Thiên-Ân nam nữ. Chư Thiên-Ân nghe lịnh: Hội Bạch-Ngọc-Kinh ba ngày để luận đàm ra KINH THÁNH-ÐỨC, thì trước Ðiện Ngọc Ðức Lý-Giáo-tông cầu xin Từ-Bi ban bố cho chư hiền lập thành bổn THÁNH-ÐỨC kỳ nhì. Vậy chư hiền thành tâm tiếp giá Ðức Từ-Bi phê chuẩn cho.
Bần-Ðạo ban ơn chư hiền.
(Tiếp điển)
THI:
NGỌC ẩn cao sơn đã lố màu,
HOÀNG Thiên xem thế chạnh lòng đau,
THƯỢNG truyền thánh bút ban lời chánh,
ÐẾ rải từ-bi giáo lịnh cao,
Phê chuẩn Kinh vàng cho vạn loại,
THÁNH ân Thiên điển giục yên hào,
ÐỨC công giồi luyện tâm thành kỉnh,
KINH báu cứu an cuộc thế trào.
Thầy mừng các con nam nữ. Các con nghe:
BÀI:
Nhìn cuộc thế chứa chan dạ ngọc,
Xem cơ đời đau khóc lòng già,
Từ bi chẳng nở bỏ qua,
Chuẩn phê Kinh báu để mà độ con.
Nhìn các trẻ nước non thêm chạnh,
Thương vạn sanh ấm lạnh lầm than,
Xét suy trong cõi dinh hoàn,
Biển trầm luân lấp biết an bao ngày.
Quyển THÁNH-ÐỨC thứ hai đã định,
Chiếu CHÍ-TÔN hạ lịnh nhiều lần,
Lòng chia rẽ, trí phân vân,
Ðau lòng Từ-Phụ trách phần tại đâu.
Nay sắp đặt yên chầu Quần-Thánh,
Rày đã xong đức hạnh giáo dân,
Ðêm Thu lần gậy đến trần,
Lời đinh ninh dạy con cần cần lo.
Hiệp nam nữ chống đò Bát-Nhã,
Qua sông mê biển cả sóng dồi,
Bình an mong đặng về ngôi,
Phỉ tình cá nước gặp hồi nhuận ban.
* * *
Các con thành tâm có DIÊU-TRÌ ngự. Thầy ban ơn các con.
(Tiếp điển)
THI:
DIÊU-Trì động báu dạo rừng Thu,
ÐIỆN ngọc liếc nhìn kẻ thế tu,
TỪ bố điển quang truyền chánh Ðạo,
TÔN lăng trông đợi chẳng hề lu.
MẸ mừng các con nam nữ, các con nghe:
BÀI:
Ðược chiếu chỉ ban Kinh THÁNH-ÐỨC,
Mẹ vui sao hết sức là vui,
Vui cho con trẻ hưởng mùi,
Trân châu linh đức khỏi vùi tấm thân.
Ðêm thanh vắng giáng trần phê bút,
Lúc canh khuya trong đục tỏ lời,
Cam lồ giọt ngọc con ôi!
Vén rèm cho đặng về ngôi Mẹ truyền.
Lòng Từ-Mẫu muôn phiền thương nhớ,
Cũng vì con mắc nợ trần ai,
Ðem đò cứu kẻ còn sai,
Ngỡ ngàng phận Mẹ, lạc loài thân con.
Hỏi thử trẻ thế còn bao nả,
Mà chí công chưa thỏa còn gây,
Rằng trong sự khổ đã đầy,
Ðớn đau trăm nỗi chua cay vạn phần.
Hễ biết Ðạo ân cần lo Ðạo,
Dầu bao nhiêu quả-báo cũng tan,
Ðừng lòng tấn thối lưỡng nan,
Ðạo mong có phẩm, đời mang tước quyền.
Hỡi con nghe thữa lời truyền.
* * *
Có TAM-GIÁO ngự, MẸ ban ơn các con.
(Tiếp điển)
THI:
KHỔNG-Thánh thừa Thiên mạng ngự đàn,
TỬ sanh cuộc thế buổi nào an,
TIÊN truyền chơn giáo rành linh cảm,
SƯ dạy lý chơn đặng vững vàng.
THI:
THÁI cực thừa cơ giáng bút đề,
THƯỢNG truyền Thánh-Ðức mấy hàng phê
ÐẠO mầu khuya sớm cần chuyên học,
TỔ giáo truyền tâm Bạch-Ngọc về.
THI:
THÍCH rành chơn lý cứu trần mê,
CA tụng cho nhuần chớ bỏ bê,
NHƯ thử ngũ châu đồng ngộ Ðạo,
LAI tâm nhứt mạch có chi hề,
Giáng bày Thánh-Tựa dìu sanh chúng,
Ngọc bút đức ân vớt kẻ mê,
Minh lý khá xem cho cạn lý,
Ðài mây thong thả buổi hồi quê.
Ban ơn chư môn đệ.
(Tiếp điển)
THI:
LÝ hòa non nước bủa kiền khôn,
THÁI nhựt minh soi nhuận xác hồn,
BẠCH hạc chỉnh phê mừng THÁNH-ÐỨC,
Giáng đàn tiếp lịnh sắc Hoàng Tôn.
Lão chào chư hiền nam nữ.
THI:
Cuộc trần lắm nỗi biến đau thương,
Biết Ðạo cần chuyên bước thẳng đường,
Giấc mộng huỳnh-lương đà gặp hội,
Thánh truyền nhỏ giọt được tươi hường.
BÀI:
Tươi hường đượm sắc thiên nhiên,
Thong dong tự toại phỉ nguyền ước ao.
Cuộc thế sự ba đào chuyển động,
Nẽo trần hoàn có sống mấy năm,
Làm cho cơ Ðạo cao thâm,
Ðương cơn sáng tỏ bị vầng mây che.
Vì thế cuộc sụt sè lắm nổi,
Nạn tai càng lại trổi tấn thêm,
Khêu đèn sáng tỏ vững bền,
Chặt gìn cơ lý đắp nền Ðạo cao.
Chỉnh thế thái lao rao gió phất,
Ngọn sóng tình vùi lấp khí âm,
Chén thù chén tạc canh thâm,
Cho nên sát khí sa hầm hố sâu.
Chuyển mê hồn hồi đầu tỉnh ngộ,
Luật chuyển xây tế độ sanh linh,
Làm cho tai nạn đao binh,
Lần lần thuyên giảm sự tình bày phô.
THI:
Phô bày chơn giáo chuyển mê hồn,
Rọi đuốc thần oai sáng đạo môn,
Thương bấy anh hùng đương ngộ nạn,
Ðoái xem cuộc thế thể hoàng hôn.
Cuộc thế hiện thời còn đương lao-nhao lố-nhố, lấn lấn, chen chen, giựt giành, cấu xé miếng đỉnh chung. Thế là tự mình giam hãm lấy mình vào cái khuôn chật hẹp, thì biết chừng nào mà thoát ly ra ngoài vòng vật chất?
Lão giáng phê Kinh THÁNH-ÐỨC, vậy chư hiền tiếp QUAN-THÁNH.
(Tiếp điển)
THI:
QUAN thành chơn Ðạo rải năm nơi,
THÁNH-Ðức Chơn-Kinh độ rổi đời,
ÐẾ khuyết minh cơ truyền diệu lý,
QUÂN chào liệt vị rõ cơ Trời.
Ta chào chư hiền nam nữ.
(Tiếp điển)
THI:
THƯỜNG tình giọt nước rải ân ban,
CƯ thế trải sang ánh diệu hoàng,
NAM Bắc gội nhuần KINH THÁNH-ÐỨC,
HẢI hà nêu sử đáo vân sang,
QUAN minh chơn giáo noi gương Ðạo,
ÂM tỏa rành trong cuộc thế tàn,
NHƯ thử kiền khôn ban rải khắp,
LAI đàn chứng chiếu rọi thanh quang.
Bần-Ðạo chào chư hiền nam nữ. Bần-Ðạo giáng giờ nay mừng cho chư hiền gội nhuần ân huệ của ÐỨC PHỤ-HOÀNG. Rất quí hóa thay!
THI:
Vui mừng gặp hội Ðại-Quần-Tiên,
Minh-Ngọc hiện thời rất hữu duyên,
Ngọn đuốc tinh thần khêu sáng tỏ,
Hết cơn mê mộng giữa Nam miền.
BÀI:
Miền Nam Bắc đượm nhuần giọt nước,
Bố hồng ân sum tược nảy đơm,
Sen vàng cúc trổ mùi thơm,
Ngọt bùi quả đức vun đơm hiệp hòa.
Lý mầu vi ai mà rõ đặng,
Lẽ thiên nhiên sơn đẳng rán tìm,
Chợt nhìn thấy cảnh phù diêm,
Hồn mau giác ngộ theo miền Thiên-Thai.
Xem cuộc thế châu mày ứa lụy,
Thấy thoáng qua bền bỉ đặng nào,
Sao mà cứ vọng tâm bào,
Khiến cho linh tánh khó vào hoàng cung.
Rất tiếc thay con Hồng cháu Lạc,
Rất uổng thay xơ xác tâm hồn,
Khiến nên TỪ-PHỤ khai môn,
Hội Quần-Tiên-Thánh độ hồn nhơn sanh.
THI:
Nhơn sanh nhao nhố lắm than sầu,
Ðau dạ Phụ-Hoàng mở cửa thâu,
Anh kiệt nữ hùng gìn chặt dạ,
Một lòng son sắc giải qua mau.
Bần-Ðạo vui cùng chư hiền.
4.- HỘI QUẦN-TIÊN PHÊ CHUẨN
__________
KHƯƠNG thạnh đời yên Ðạo hóa hoằng,
THÁI bình nhơn vật đức thanh tăng,
CÔNG minh THÁNH-ÐỨC truyền chơn giáo,
Giáng thế Phật Tiên rất nhọc nhằn.
Chào chư Thiên-Ân. Nay là ngày Hội Quần-Tiên, vậy chư vị phải nghiêm lễ đặng ta đi thỉnh các vị Ðại-Tiên, chẳng nên vô lễ. Chư vị tịnh đàn.
Ta đi thỉnh CHUẨN-ÐỀ ÐẠO-NHƠN đến.
(Tiếp điển)
THI:
CHUẨN pháp linh căn đáo bổn nguyên,
ÐỀ tâm chiếu diệu lộ chơn truyền,
BỒ đoàn mạt ám kỳ minh giáo,
TÁT sĩ lương tri đắc lịnh Thiên.
Bần-Ðạo mừng chư hiền-sĩ.
THI:
Bồ đoàn tịnh tọa trí thanh nhàn,
Linh dược một bầu độ rổi an,
Giáng thế mừng pho Kinh THÁNH-ÐỨC,
Vui thay chuyển vận cõi dinh hoàn.
BÀI:
Dinh hoàn lắm lúc đổi xây,
Vui trong chút lát sum vầy tưởng hay.
Nhìn cơ Ðạo ái hoài ta thán,
Chỉnh đời mê xem chán cho đời,
Tỏ mù mây phủ trên khơi,
Gió mà thổi mạnh thì rơi xuống liền.
Chỉ có Ðạo thâm uyên tối trọng,
Ngán cho lòng cứ vọng thấp cao,
Màng chi chủng loại đồng bào,
Kể chi những giọt máu đào rơi châu.
THI:
Rơi châu chuyển máy độ con Hồng,
Lụy thảm cho đời quyết thẳng xông,
Ðề bút một chương mừng THÁNH-ÐỨC,
Ðạo truyền thoát khỏi chốn hồng trần.
(Tiếp điển)
THI:
TIẾP độ chúng sanh đến cảnh nhàn,
DẪN người đạo đức lánh Tiên bang,
ÐẠO mầu tưới nhuận nơi trần thế,
NHƠN nghĩa chi nao cuộc đá vàng.
Chào chư hiền sĩ.
PHÚ:
Cuộc đá vàng với cảnh đời tàn vương vấn,
Thảm bấy ôi! Nghĩ người đời khác nào Lử-Thấn phải linh đinh,
Nay mà hữu duyên gặp đặng mối Ðạo Huỳnh,
Người thiện niệm mới tự biết mình là hữu phước.
THI:
Sống thác xem trong cuộc đổi dời,
Máy linh cơ Tạo thạnh an đời,
Biết tu khuyên thế gìn ngôn Thánh,
Hiểu Ðạo cần lo học phép Trời.
PHÚ:
Trời chuyển Ðạo cuối hạ-nguơn hết lời hoài bảo,
Truyền Chơn Kinh dạy Thánh-giáo để cứu nàn,
Cuộc biến thiên thế giái thấy chứa chan,
Cơ xáo lộn hồng trần thêm bi lụy,
Bớ khách tục gìn lòng chí khí,
Giữ Thiên-Cơ chung thỉ đặng vẹn tròn.
THI:
Tròn Ðạo thì thân mới đặng tròn,
Chí thành xem rõ nước cùng non,
Non phơi màu tuyết phân thanh bạch,
Nước ửng hơi vàng trải dấu son,
Tiếng hạc chiều thu lòng bận bịu,
Hơi cầm bên suối dạ càng mòn,
Thương đời quyết độ lên đường Ðạo,
Bao quản xa xuôi với héo hon.
Bần-Ðạo chào chư hiền sĩ.
(Tiếp điển)
THI:
ÐẠO đức trau tria đắc phỉ nguyền,
HẠNH duyên thắm thía thỏa kỳ nguyên,
THIÊN cơ từ bấy nào ai hản,
TÔN pháp giao cho bực Thánh Tiên.
Bần-Ðạo chào chư hiền sĩ.
THI:
Tiên truyền Ðạo mạch kẻ hiền nhơn,
Một bức đồ-thư khá lóng đờn,
Khoan nhặt tiếng khuya nghe thảnh thót,
Phù trầm giọng sớm tỏ keo sơn,
Tâm tình nung nấu hòa cam lộ,
Trí tính thông minh luyện thuốc đơn,
Như thử do hà khuynh đáo giác,
Tùy cơ ứng dụng rõ nguồn cơn.
BÀI:
Nguồn cơn rõ giọng đờn ai oán,
Tiếng du dương mà thán cuộc đời,
Thi cầm ca vịnh hôm mơi,
Ðêm ngày bể Bắc lưng vơi đã đành.
Mang nặng triệu chúng sanh phú thác,
Nợ non sông rán hoạt động tình,
Cho mầm thủy thổ nêu hình,
Quốc-vương ai khéo tạo thành ra đây.
Linh cơn pháp hội nầy cứu ngặt,
Ðờn vô dây thẻo thắt ngày đêm,
Chí thành cảm ứng cung thềm,
Phỉ nguyền sở đắc thể rèm đêm đông.
Ai là giống Lạc-Hồng chủng loại,
Ai là người biết phải há ngơ,
Làm cho nhơn chúng mịt mờ,
Bao chừng thoát khỏi cuộc cờ tang thương.
THI:
Thương hải tang điền thấy thảm ghê,
Thần sầu quỉ khóc lụy tràn trề,
Bao chừng ráo lệ nhìn đau thảm,
Mấy thuở ngưng châu khỏi ủ-ê,
THÁNH-ÐỨC nhị pho qui thức diệp,
CHƠN-KINH sinh cửu đáo sơn khê,
Giấc huỳnh lương mộng chiêu chương tánh,
Khuyến thế an tâm lối não nề.
Vậy khá tiếp giá Ðức NGUƠN-THỈ THIÊN-TÔN, ta ban ơn chư hiền sĩ.
(Tiếp điển)
THI:
NGUƠN hạ Ðạo khai giáo chúng sanh,
THỈ chung khuyên thế rán tu hành,
THIÊN ân phận sự tròn lòng thiện,
TÔN giáo ngàn thu tiếng để dành.
Chào chư hiền sĩ.
THI:
Ðể dành Ðạo vị bước về sau,
Mừng cuộc đời tàn lại gặp CAO,
Phật Thánh giáng cơ truyền THÁNH-ÐỨC,
Thần Tiên hạ bút dạy Kinh đào,
Ngày Trời mưa nắng nguyền cho vẹn,
Ðêm đợi lòng nhơn hiệp trước sau,
Thế sự một bầu tâm kỉnh Ðạo,
Thoát vòng mê tín mới là cao.
BÀI:
Cao ban đắc lộc Thiên-Ðình,
Giáng cơ Tiên Phật dạy Kinh độ đời.
Ước sao thế sự nhớ lời,
Tu hành học tập rạng ngời tiếng xa.
Hữu phần ngộ Ðạo kỳ ba,
Lánh thân khỏi biển ái hà mới nên.
Cảnh Tiên còn tạc tuổi tên.
Có THÔNG-THIÊN GIÁO-CHỦ đến. Ta ban ơn chư hiền sĩ.
(Tiếp điển)
THI:
THÔNG thường giáo lý Ðạo mầu vi,
THIÊN chức vẹn xong chớ trễ kỳ,
GIÁO khuyến tâm tu qui thống nhứt,
CHỦ quyền tự trị đến tinh vi.
Bần-Ðạo mừng chư hiền sĩ.
THI:
Ngán đời cho bấy giọt sầu chan,
Nghĩ gẩm xót thương cõi mộng hoàng,
Chung thỉ qui tùng cơ bổn thủ,
Tam gia hội ngộ buổi đời an,
Kinh luân dị lộ triều quang thức,
Ðáo để mộng hành cuộc thế gian,
Chí sĩ hiền tài lòng mỏi đợi,
Noi theo huấn giáo hội Tiên bàn.
BÀI:
Tiên bàn chỉnh lập đào-nguyên,
Cuộc cờ phấn đấu cho yên quốc thời.
Vì Ðạo cả noi nơi thán oán,
Cuộc đao binh xem ngán cho lòng,
Chợt nhìn hắc khí đao binh,
Tấm lòng sôi nổi đinh ninh một lời.
Chí cương quyết chớ lơi tấc dạ,
Chí mong thành nợ trả non sông,
Mai sau lên cõi Tiên-Bồng,
An vui muôn thuở hồng trần có chi.
THI:
Có chi sang cả nơi trần,
Hưởng chút mùi hoa phải lụy thân,
Chí bẵng tu hành tầm tịnh thoát,
Linh quang sản xuất đảnh Tiên chân.
Có HẢI-TRIỀU THÁNH-NHƠN đến. Ta ban ơn chư hiền sĩ.
(Tiếp điển)
THI:
HẢI đảo đò đưa được mấy tiền,
TRIỀU dưng nước bích cứu đời yên,
THÁNH Kinh một bổn xem càng quí,
NHƠN thiện hiểu xa lý diệu huyền.
Chào chư hiền sĩ.
BÀI:
Diệu huyền tỏ cạn cao sâu,
Phân rành lý Ðạo nhiệm mầu cứu nhơn.
Trí cảnh tỉnh tu hườn triết lý,
Tâm siêu quần định trí lập tâm.
Có XÍCH-MI LÃO-TỔ đến, ta ban ơn chư hiền sĩ.
(Tiếp điển)
THI:
XÍCH thằng buộc trói nợ tiền căn,
MI đóa trà thơm tiếng gọi rằng,
LÃO giáo khuyên tu hành Chánh Ðạo,
TỔ sư chỉ giáo Ðạo cao thăng.
Chào chư hiền sĩ.
BÀI:
Cao thăng phận sự Ðạo mầu,
Học cho rõ lý cao sâu mới tường.
Mặc khách tục con đường lận đận,
Thương người tu lở vận than thầm,
Biết rằng chơn lý cao thâm,
Tu hành học Ðạo mới cầm Thiên-Cơ.
Ðặng hồi sơ,
Biết cuộc cờ,
Gánh đồ thơ,
Thơ truyền một bổn cho đời,
Là KINH THÁNH-ÐỨC khá mời khách xem.
Ta ban ơn chư hiền sĩ, có NAM-CỰC TIÊN-ÔNG đến.
(Tiếp điển)
THI:
NAM Việt nhỏ nhen gặp Ðạo Trời,
CỰC lòng Tiên Phật giáng truyền lời,
TIÊN bang khuyên kẻ trần gian học,
ÔNG chánh tu cầu khỏi nạn đời.
PHÚ:
Ðời thảm trạng khiến nhơn tình chuyển thay nhiều hạng,
Mối huyền vi mấy kẻ hiểu tri, cầu cho hản sự linh thiêng,
Cũng vì ham ván bán thuyền, mà đến nỗi lỡ vận lỡ nguyền rồi chẳng bước yên trên bước Ðạo,
KINH THÁNH-ÐỨC cả kêu bớ khách trần gian mau cổi lòng mộng ảo,
Hội Quần-Tiên chi giáo,
Bớ người đời khá biết lý Ðạo huyền thâm,
Ðức truyền tâm con quốc lặng than thầm,
Nhơn vớt kẻ còn luân trầm ngoài bến khổ.
THI:
Khổ tiếng quốc than dưới mé triền,
Quốc kêu cảnh tỉnh Ðạo qui nguyên,
Quốc sầu nhơn loại trong vòng khổ,
Quốc thảm chúng sanh dưới đảo huyền,
Quốc trách người sao lòng mến tục,
Quốc khuyên kẻ rán học làm Tiên,
Quốc ban THÁNH-ÐỨC Kinh rành rạnh,
Quốc chuyển tiếng sầu giọng não phiền.
Có ÐÔNG-PHƯƠNG-SÓC đến. Ta ban ơn chư hiền sĩ.
(Tiếp điển)
THI:
ÐÔNG nam ngộ Ðạo đắc chơn truyền,
PHƯƠNG chước Ðạo Trời hội nhứt nguyền,
LÃO ái vạn sanh cam phận khổ,
TỔ dìu nhơn loại lánh tiền khiên.
Chào chư hiền sĩ.
THI:
Hữu phước thay cho mối Ðạo Trời,
Kinh vàng truyền bá khắp năm nơi,
Chơn ngôn Tiên Phật ban từ chữ,
Thánh bút thần cơ dạy cạn lời,
Cuộc thế nhộn nhàng lằn phi thị,
Tuồng đời ấm lạnh nỗi mù khơi,
Thiết tha trong cảnh U-Minh thế,
Ðặng gặp đèn soi ngỏ sáng ngời.
Vui cho nhơn loại, mừng cho nhơn loại! Ðến thời kỳ nầy là thời kỳ các Tôn-Giáo đều mạt pháp, tu nhiều thành ít, mà đặng quyển THÁNH-ÐỨC nhị kỳ chỉ tường chơn giáo thì còn chi quí bằng!
Từ đây thế gian không tu bị sa địa-ngục, hết kêu nài vì không Kinh sách nữa.
Chư hiền thành tâm tiếp lịnh TÂY-PHƯƠNG-SÓC.
(Tiếp điển)
THI:
TÂY phương một cảnh quí ngàn thu,
PHƯƠNG học Ðạo mầu vẹn đức tu,
SÓC kỷ Ðơn-Kinh truyền xuống thế,
Ngự cơ THÁNH-ÐỨC cạn lời nhu.
Chào chư hiền sĩ.
THI:
Lời truyền thế sự biết cơ Trời,
Nguơn hạ lo phương chuyển cuộc đời,
Vạn loại đồng thoàn qua bỉ ngạn,
Muôn dân đều bước đến ngoài khơi,
Kẻ mê còn phải trong vòng khổ,
Người tỉnh tu hành đặng thảnh thơi,
THÁNH-ÐỨC ban truyền cùng khắp chốn,
Kỷ xem thoát khỏi chỗ lưng vơi.
Ta ban ơn chư hiền sĩ. Có LINH-BỬU ÐẠI-PHÁP-SƯ đến.
(Tiếp điển)
THI:
LINH thiêng máy nhiệm với cơ Trời,
BỬU đức chuyển mê sửa cuộc đời,
ÐẠI-Ðạo Tam-Kỳ qui vạn loại,
PHÁP truyền chánh giáo độ năm nơi.
SƯ tình đệ nghĩa duyên thành ngộ,
Giáng thế khuyến tu đắc lộc Trời,
Ngọc bích ngân ngân trau vẻ ngọc,
Ðài mây đang ngự buổi hôm mơi.
Mừng chư hiền sĩ.
THI:
Ngoài cuộc trần ai mấy kẻ nhàn,
Tiên-Ông thong thả máy hành tàng,
Thấy đời lận đận mà đau dạ,
Xem thế khổ sầu cũng xót gan,
Một bộ Kinh Trời nay giáng lập,
Ngũ Châu Quốc Ðạo đặng chiêu an,
Thức thời đồng hưởng ân cam lộ,
Biết trọng đức tin Thánh Ðạo tràng.
(Giải thuyết)
Cuộc thế đổi dời, cơ đời biến động, năm Châu bốn bể đều bị ngọn sóng văn minh dồi dập dưới thế lực hữu hình nên mắc phải tam tai bát nạn. Cõi Á Ðông xứ Nam-Việt sớm gặp được Ðạo Trời, đem giọt nước nhành dương cứu lửa binh vạn loại, truyền KINH THÁNH-ÐỨC chỉ rõ Ðạo mầu.
Rất hân hạnh thay! Nếu chúng sanh kỉnh trọng tu hành thì ắt đặng siêu sanh thoát tục.
Ta ban ơn chư hiền sĩ. Có CÙ-LƯU-TÔN giáng.
(Tiếp điển)
THI:
CÙ dậy biển đông sóng gió xao,
LƯU truyền hậu thế tiếng hoa đào,
TÔN lăng phép nhiệm dìu nhơn chúng,
Giáng bút mừng pho THÁNH-ÐỨC cao.
Bần-Ðạo mừng chư hiền sĩ.
THI:
Lưu tồn vạn đại chuyển mê hồn,
Pháp bửu tay cầm độ tử tôn,
Chiêu lạc an khương câu chánh kỷ,
Mộ người tài đức thoát Kiền-Khôn,
Thiên cơ dĩ định ai qua đặng,
Luật pháp đành rành cửa Phật ngôn,
Tế thế luân trầm đời mê mộng,
Giải nguy cứu cấp được sinh tồn.
BÀI:
Sinh tồn linh tánh an ninh,
Ðộ mê trầm nịch Ðạo Huỳnh noi theo.
Lần qua vịnh xuống đèo chi nệ,
Lướt truông mây nào kể thân hình,
Chèo thoàn từ ái huỳnh minh,
Thoát vòng khổ não non đình vui thay.
Dòm thế sự miệt mài lắm lúc,
Chẳng biện phân un đúc tinh thần,
Rán tâm nghiên cứu nền nhân,
Thung dung tự toại đại đồng lý sâu.
THI:
Lý sâu yếu nhiệm đoạt công đầu,
Từng trải lắm phen chịu giải dầu,
Cay đắng chi sờn bền sức cả,
Ðau thương cho khách khắp năm châu.
Ban ơn chư hiền sĩ. Có LÝ-THIÊN-VƯƠNG ngự.
(Tiếp điển)
THI:
LÝ triết cao thâm đạo đức truyền,
THIÊN thần tựu đảnh hội Quần-Tiên,
VƯƠNG trần lắm lúc tan rồi hiệp,
Ngự bút tỏ phân Bát-Nhã thuyền.
* * *
Thuyền từ cứu vớt chúng sanh linh,
Biết Ðạo khá lo thoát khổ hình,
Ðức cả một lòng hồi cựu vị,
Công đầy mới đặng đến Thiên-Ðình.
Chánh truyền Thánh-Ðức khuyên người tục,
Chơn giáo chuyển mê dạy kẻ minh,
Hữu chí hữu căn gần phước cả,
Gắng tâm noi dấu Ðạo Tiên Huỳnh.
(Giải thuyết)
Ta lấy làm hân hạnh cho chúng sanh tiếp đặng quyển thứ nhì.
Kinh THÁNH-ÐỨC hội Quần-Tiên đã đem phô diễn tất cả những ý tưởng của nhơn sanh và chỉ rõ mối Ðạo tu hành, cao siêu thoát hóa. Ta rất vui mà đặng dự hội Quần-Tiên. Ta rất mừng cho chúng sanh và ước sao quyển THÁNH-ÐỨC thứ nhì được mỗi mỗi đều tuân hành đặng cả, thì còn chi quí bằng! Nếu đặng như thế thì cảnh trần ai sau nầy sẽ hóa ra Tiên cảnh vậy. Ta ban ơn chư hiền sĩ.
5.- HỘI BÀN ÐÀO PHÊ CHUẨN
__________
THI:
THỂ dục gieo trồng rõ trước mai,
LIÊNG thu sớm tối để chơn hoài,
TIÊN ban phước nhuận cho người sáng,
NỮ Việt Ðề-Oanh trước bửu đài.
Chào chư Thiên-Ân nam nữ. Vậy chư Thiên-Ân thành tâm tiếp giá TÂY-VƯƠNG-MẪU. Ta chào chư hiền sĩ.
(Tiếp điển)
THI:
TÂY tạo công tu phải chí thành,
VƯƠNG trần nhiều nỗi thảm thâm canh,
MẪU Hoàng thương nhớ con hiền ngỏ,
Ngự bút Thánh-Kinh giáo dạy rành.
Mừng chư hiền sĩ.
THI:
Thoi dệt nhẹ đưa bóng ác thiều,
Máy Trời thu tạnh thảm muôn chiều,
Trái oan cuộc thế còn đeo đẳng,
Duyên phước cảnh Bồng ngắm quạnh hiu,
Thơ thới sen hoa chào khách tục,
Thung dung phụng trổi giọng tiêu diêu,
Thương người trần tục cơn buồn thảm,
Cảnh tỉnh khuyên mau biết luật điều.
BÀI:
Ðiều trần hơn thiệt than đời,
Bớ chư sĩ tử nghe lời tạo tâm.
Tu hành phải biết cao thâm,
Phải lo sửa tánh phải tầm giới thân.
* * *
Tâm trong sạch nhứt trần bất nhiễm,
Mới là người được chiếm Ðạo mầu,
Tánh tình khoan hậu chẳng câu,
Thương nhơn mến vật mới hầu biết tu.
Thờ THƯỢNG-ÐẾ công phu tâm tánh,
Học Tiên-gia phải định chí thành,
Cúng Trời lạy, dạ tịnh thanh,
Biến nên cam lộ đào xanh kỉnh thờ.
Lạy Phật rán kịp giờ suy nghĩ,
Thần quang minh chơn lý treo lên,
Ðôi đèn sáng tỏ hai bên,
Là tâm với trí hòa nên thiện từ.
Tấm khảm trải cho dư cho phủ,
Là khoan hồng dạ đủ ái tha,
Nhang trầm tư tưởng cao xa,
Mùi hương đạo đức bay xa khắp đời.
Rót chén nước tứ thời đảnh lễ,
Suy cho cùng có thể hiểu cao,
Lý chơn xét kỷ mà trau,
Biết câu Bác-Ái ghi vào chớ lơi.
THI:
Lơi lả rồi qua cũng một đời,
Không tu sau chớ vội than trời,
Trời truyền THÁNH-ÐỨC cho người học,
Học Ðạo chuyên cần lúc thảnh thơi.
Ban ơn chư hiền sĩ, khá tiếp điển LINH-SƠN THÁNH-MẪU.
(Tiếp điển)
THI:
LINH thoàn thần tỉnh chiếu mồ khan,
SƠN thượng lịnh phê sắc tái hoàng,
THÁNH-Ðức Chơn-Kinh qui vạn loại,
MẪU từ chiếu diệu độ đời an.
Bần-Ðạo chào chư sĩ tử.
THI:
Âm dương chuyển động cứu cơn nghèo,
Linh hoạt sánh so cứu nạn eo,
Thế dục liên hành Thiên vạn tải,
Chuyển đời mê ảo phải nương vèo.
BÀI:
Nương vèo độ khổn trần ai,
Thoát vòng đau khổ phướng đài khá noi.
Dụng nhơn trí tầm tòi rõ tánh,
Ðạo lý chơn cứu cánh hoàn toàn,
Mộng hồn thần tỉnh mộ khan,
Chưởng gieo đức tánh tham thoàn rõ mau.
Lòng ái truất tâm bào hao kém,
Bởi muội mê chẳng kiếm lý sâu,
Làm cho mắc phải nạn sầu,
Lao tâm tiêu tứ khá âu độ người.
Tìm manh mối rẻ ròi sâu cạn,
Khá biện phân mà hản thiệt hư,
Thoát vòng lầm lạc bấy chừ,
Mới là đáng mặt anh thư cứu đời.
Khá thông thuộc các nơi xác đáng,
Khá hiểu rành ngay thẳng bao lăm,
Dạy người tỉnh giấc luân trầm,
Thoát vòng luân chuyển Ðạo thâm chuyên lòng.
THI:
Chuyên lòng đạo đức để làm gương,
Thử hỏi mấy ai kiếp đoạn trường?
Lăn lóc dày bừa cơn gió bụi,
Xót lòng mê mệt lánh tai ương.
Vậy khá tiếp giá LƯ-SƠN THÁNH-MẪU. Ta ban ơn chư hiền sĩ.
(Tiếp điển)
THI:
LƯ động nguyền cho chúng khỏi nàn,
SƠN xuyên đang ngộ cảnh gian nan,
THÁNH Kinh một bổn khuyên tu học,
MẪU tử tình thâm đắc phước ban.
THI:
Từ-bi trái chín để lên thờ,
Vái Ðức Thiên-Hoàng chứng dạ thơ,
Một quả lý chơn xin xẻ lột,
Tìm ăn cho được tịnh như tờ.
* * *
Như tờ lặng lẽ cả ngoài trong,
Hơn thiệt lợi danh chẳng bận lòng,
Lòng dạ thanh nhàn tâm dạ tĩnh,
Mới là rõ đặng Ðạo "Hư Không".
* * *
"Hư Không" chẳng phải biểu đừng làm,
Làm đặng mà lòng tịnh mới ham,
Chưởng đức bồi công hành thiện quả,
Lòng "Không" trong trẽo Ðạo lưu hàm.
* * *
Hàm châu huê bút cạn lời khuyên,
Thập thủ Ðạo tâm đã bố truyền,
Truyền xuống ban cho chư sĩ tử,
Học hành tu luyện khá cần chuyên.
Chư sĩ tử thành tâm cầu THANH-HOA THÁNH-MẪU.
(Tiếp điển)
THI:
THANH tịnh Bồng-Lai hưởng thú nhàn,
HOA thơm bát ngát rải trần hoàng,
THÁNH Kinh bố hóa đời tường lý,
MẪU ái chúng sanh mới thở than.
Mừng chư sĩ tử.
THI:
Thập thủ liên hườn thức tỉnh đời,
Dịu dàng khuyên trẻ để từ lời,
Ðạo mầu muốn đặng ngàn thu hưởng,
Tu thiệt khuyên đừng tính luyện chơi.
* * *
Luyện chơi cho biết Ðạo cao siêu,
Từ thuở chưa ai đặng ít nhiều,
Sửa tánh tu tâm chi có chí,
Rồi sau thuốc báu mới ngưng triều.
* * *
Ngưng triều định trí học tâm cơ,
Lý chánh xét suy phải biết giờ,
Bớ khách trần gian mau hiểu Ðạo,
Ðạo tâm cao thượng chớ bơ thờ.
* * *
Bơ thờ chẳng hiểu được đường Tiên,
Mãn kiếp trong vòng nợ thảm phiền,
Hỏi Ðạo chưa ai tường lý Ðạo,
Người hiền nhiều kẻ lại khoe hiền.
* * *
Khoe hiền ngoài mặt chẳng nên chi,
Tu niệm phải cho cốt lẫn bì,
Tâm lóng sạch trong thờ chánh giáo,
Ngày sau mới khỏi lúc lâm nguy.
* * *
Lâm nguy khẩn niệm ÐỨC DIÊU-TRÌ,
Rửa sạch tâm trần đặng hiển vi,
Thờ kỉnh nơi lòng thanh tịnh Ðạo,
Cúng cầu những quả kết Từ-Bi.
* * *
Ðạo chánh xưa nay hiếm kẻ xưng,
Mà sao thế sự cũng chưa từng,
Ngoài môi ngon ngọt lời tao nhã,
Trong dạ đắng cay tiếng quá chừng,
Hiền hậu khi bàn ai cũng tập,
Dữ hung cơn đến lại không vưng,
Ác thân, ác ý, tâm thêm ác,
Như thế bảo sao khỏi đọa trừng.
* * *
Trừng trị luật Trời chẳng vị ai,
Hiền thăng dữ đọa cứ roi hoài,
Tội tình một mãi không lầm lạc,
Phước đức hai điều chẳng lợt sai,
Bủa lưới tuy thưa đời khó thoát,
Giăng dò đã rộng thế kiên oai,
Giả chơn lành dữ đều ghi chép,
Chép để thưởng răn chọn kẻ tài.
* * *
Kẻ tài nhớ giữ đặng lòng chơn,
Biết Ðạo chẳng cần sự thiệt hơn,
Giả trá một đời khôn khỏi hận,
Chơn tâm mãn kiếp chẳng ai hờn,
Trời hành tội lỗi người lòng giả,
Luật thưởng phước cao kẻ dạ chơn,
Chơn giả trong đời tua chọn lấy,
Lấy sao cho khỏi cuộc tuần hườn.
* * *
Tuần hườn chuyển thế đến nay mai,
Khổ nạn nhiều thay đọa trẻ hoài,
Trau tánh mê thân hườn bổn thể,
Kỳ duyên hội ngộ phục hườn lai.
Vậy khá nghiêm tịnh tiếp giá ÐÀO-HOA THÁNH-MẪU. Ta ban ơn chư sĩ tử.
(Tiếp điển)
THI:
ÐÀO viên hưởng hứng dạ thành tâm,
HOA tốt Trời xuân lá ướt dầm,
THÁNH-Ðức chuyển mê còn mộng ảo,
MẪU từ sum hiệp lúc canh thâm.
Bần-Ðạo mừng chư sĩ tử.
THI:
Cuộc đời nghiêng ngữa giữa mùa thu,
Thánh giáo truyền gương vẹt ngút mù,
Chuyển vận kiền khôn qui bổn thể,
Xây quanh trời đất lẽ ôn nhu,
Linh quang sáng hiện hòa chơn khí,
Chơn tánh lưu thông hóa phép tu,
Linh dược trau tria bồi cửa Ðạo,
Cứu nguy sanh chúng giữa trời thu.
BÀI:
Trời thu êm gió tươi nhuần,
Cỏ cây chim hót bâng khuâng tấc lòng.
Thế thảm tình thong dong bước tới,
Huỳnh cơn đông thơ thới tâm hồn,
Chợt nhìn lố ánh non côn,
Ước ao bao thuở vĩnh tồn cứu an.
Bầu linh dược huyền quang nhứt khí,
Luyện âm dương biết lý chánh truyền,
Thờ chơn nguyên thỉ non Tiên,
Ðoanh vòng nhựt nguyệt hống diên than trần.
Chí nung nấu theo lằn thanh điển,
Hấp thụ đồng phanh luyện chơn như,
Hòa đồng cơ tạo khắc khư,
Chế theo linh hoạt tiêu trừ oan khiên.
Dìu vạn loại tiền khiên trả sạch,
Dẫn khách trần xuống bách thuyền nan,
Vững lèo lướt sóng qua giang,
Cứu nguy nghèo ngặt Ðạo vàng rưới cho.
Khá hiểu máy con đò Tạo-Hóa,
Khá biện phân chí cả hoàng sinh,
Luật Trời cơ tạo máy linh,
Chuyển xây vận mạng thân hình tùy nương.
Lòng cải quá tang thương sắp đến,
Chớ lòng vôi lướt đến Ðộng-Ðào,
Nghĩ đời thế thái lòng đau,
Lòng nào yên ổn giọt đào nào nguôi.
Dòm cuộc thế ngậm ngùi đau thảm,
Nguyện một tình vớt đám sanh linh,
Nơi đàng khổ hải trầm mình,
Tự mình gieo cảm cho mình chớ ai.
Chí vẹt ngõ chương đài thí hội,
Vén ngút sương thi đối đề văn,
Khoa trường liếc mắt lăng xăng,
Chớ nào ai thấy lẽ hằng xưa nay.
Chí tiến dẫn thần oai là trước,
Chớ nào lo phận nhược liễu bồ,
Thân hình nhi nữ lệ đồ,
Sơn xuyên khuất dạng cam lồ rưới chan.
Lòng chí quyết noi đàng yếu lý,
Lòng sắc son chung thỉ một lòng,
Thảm cho phận gái quần hồng,
Thảm cho trẻ dại khuê phòng giữ trinh.
CÔNG siêng sắn lo gìn Ðạo cả,
Cùng mẹ cha cho thỏa lòng vui,
Chớ cho người phải sụt sùi,
Giữ lòng thanh bạch cầm cùi náu nương.
DUNG hãy giữ lẽ thường là gốc,
Rán vun bồi chí dốc lo tròn,
Hết tình tươi nhuận sắc son,
Giữ lòng cao khiết hằng bòn âm công.
NGÔN gìn giữ một lòng cho vẹn,
Giữ từ lời vun bén Ðạo cao,
Làm sao rõ mặt nữ hào,
Làm sao đặng phận Nam-Tào ghi tên.
HẠNH un đúc tâm bền trau sửa,
Giữ nết na cư xử thanh tâm,
Ðời cùng em chị một lòng,
Cùng người ngoài giáo cũng đồng chở che.
Nguyện chung sức dặt dè tâm giới,
Chiếu bảng son khá đợi nhau cùng,
Tấm lòng càng đậm thung dung,
Phỉ nguyền mơ ước chập trùng lắm đau.
Ðừng thái quá ngày sau thất vọng,
Giữ điều hòa thì trúng cơ Trời,
Cũng đừng bất cập trò ôi!
Mai sau khó đứng khó ngồi yên nơi.
Giữ chính đính cơ Trời sẽ hản,
Mối cơ quan ân nặng thế đồ,
Chỉ cho người biết điểm tô,
Lưới trời lồng lộng Cực-Ðồ Bửu-Châu.
Hằng chiêm ngưỡng canh thâm cơ Ðạo,
Ðoạt huyền vi hóa tạo chứng tri,
Minh hoàng lai đáo đơn vi,
Yên thông tổ thuật sáng kỳ bàn nguyên.
Ðộng sơn khê thỉ nguyên như thử,
Chiếm luật đồng quá khứ tường thông,
Vị lai tương phản tương đồng,
Hiện thời thức dụng luật công lẽ thường.
Ngày chí luận chiến đường u thảm,
Tuyết sương gieo giao cảm tiến hành,
Luật Trời thông thấu huyền linh,
Lựa vèo độ rổi đao binh khỏi nàn.
Nữ Nam-Việt noi đàng hướng thiện,
Phận quần thoa chánh kiến thành tâm,
Giữ lòng trinh tiết cố cầm,
Huyền cơ sẽ đoạt thoát trầm mê tân.
THI:
Mê tân rán vẹt thấy cơ Trời,
Thiện nữ toan lo rõ cuộc đời,
Yếu lý tầm phăng cơn sóng bủa,
Nhiệm mầu kiếm hiểu lúc lưng vơi,
Kềm lòng thanh khiết tâm nhàn lạc,
Giữ mực công bằng chí thảnh thơi,
Chánh giác Ðạo Trời hòa nhứt mạch,
Chèo thuyền bể Bắc dạo ngoài khơi.
Bần-Ðạo ban ơn chư sĩ tử.
(Tiếp điển)
THI:
KIM thạch ẩn nương chỗ Ngọc-Tuyền,
QUANG huy ánh giọi động đào Tiên,
THÁNH truyền diệu pháp vì thương chúng,
MẪU yến đơm hoa phỉ dạ nguyền.
Bần-Ðạo mừng chư hiền sĩ.
BÀI:
Dòm bóng thảm mùi hương bát ngát,
Ðêm canh chầy cởi hạc Kỳ-Sơn,
Canh chầy nào nệ thiệt hơn,
Giáng phê THÁNH-ÐỨC nguồn cơn tỏ bày.
Lòng sở nguyện gái trai nhứt dạ,
Thấu cung Diêu ổn thỏa lòng thầm,
Gậy nương lần vịnh canh thâm,
Thần cơ bút Thánh thâm trầm khải reo.
Giọng rỉ rả lên đèo xuống ải,
Chỉ cho trò quấy phải biện phân,
Khá toan nung nấu tinh thần,
Linh quang sáng tỏ trong ngần trời thu.
Gió thổi đến bi thu cuống ngọc,
Gió lao rao giám đốc tự mình,
Trời nhìn chan chứa bình minh,
Hoát khai Ðạo mạch tận tình cứu nguy.
Ðạo Trời thật huyền vi yêm ẩn,
Ðạo của Trời tinh tấn quang minh,
Ðạo Thầy biết thế tùy hình,
Ðạo soi sáng tỏ phát minh khắp cùng.
Ðạo hiểu thấu rất xinh tươi tốt,
Ðạo của Trời giữ một không hai,
Ðạo Thầy như bóng sương mai,
Ðạo nguyền dẫn dắt gái trai khắp cùng.
Ðạo là Ðạo như khuôn đúc dạng,
Ðạo của Thầy ai hản mà nên,
Ðạo Thầy cứu cả dưới trên,
Ðạo Trời bí diệu tạc nên muôn ngày.
Ðạo Trời vốn không lay không chuyển,
Ðạo của Trời qua tiến thiên nhiên,
Ðạo Thầy chẳng dụng tước quyền,
Ðạo Thầy như thể bình yên nước bầu.
Ðạo chớ luận cơ cầu quá đáng,
Ðạo nhiệm mầu như đám huỳnh sen,
Ðạo Thầy không lựa trắng đen,
Ðạo không kén chọn trăng đèn sáng lu.
Ðạo Trời thể trăng thu sáng tỏ,
Ðạo hằng dìu dắt ngõ quần linh,
Ðạo tâm phát triển non đình,
Ðạo thâm vi diệu dìu mình nương theo.
THI:
Nương theo thuyền bách độ nhơn nguyên,
Giữ mối cơ quan phỉ dạ nguyền,
Lóng rõ tiếng kê đang gáy sáng,
Tịnh tâm mới đoạt ngọc kim tiền,
Vàng chìm sông Lệ mau tìm vớt,
Ngọc ẩn Kỳ-Sơn khá giữ nguyên,
Giấc mộng huỳnh-lương mau thức giấc,
Lo tu học Ðạo đặng bình yên.
Khá tiếp giá QUI-LINH THÁNH-MẪU. Bần-Ðạo ban ơn chư hiền sĩ.
(Tiếp điển)
THI:
QUI tùng vạn pháp đắc huyền công,
LINH tánh lý chơn mối đại đồng,
THÁNH-Ðức Chơn-Kinh cơ mộng điệp,
MẪU từ hiệp tác giữ tâm không.
Chào chư hiền sĩ.
THI:
Tâm không lặng lẽ tợ như tờ,
Ðịnh trí hiểu thông mối chuyển cơ,
THÁNH-ÐỨC qui người trong một thể,
CHƠN-KINH giác luận bổn Thiên-Thơ,
Tuyên truyền yếu lý bươn theo giỏi,
Thông thấu lý chơn thoát khỏi bờ,
Vi thiện yểu minh nghe lặng lẽ,
Kỳ truyền sẽ bước thoát gian cơ.
BÀI:
Cơ mầu nhiệm bơ thờ sao đặng,
Mối linh mầu đăng đẳng qui tùng,
Châu hườn hiệp phố hư cung,
Nữ Tiên hạ giáng thung dung canh chầy.
Ðèn tim lụn nào khuây dạ ngọc,
Bởi dầu hao lăn lóc sương trần,
Linh cơ chuẩn máy xoay vần,
Rọi đèn bác ái từ lần cứu mê.
Khuyên các trẻ đường dê lóng rõ,
Khá lãm tường linh thọ huyền vi,
Thảm sầu máy nhiệm ly kỳ,
Tương đương phong phú ẩn vi lệ thường.
Làm cơ chuyển ái thương ái kỷ,
Khá vén màn chơn lý cho thông,
Mới nên đáng mặt quần hồng,
Mới nên rạng vẽ tổ tông nước nhà.
Chiêu liệt sĩ giác tha lập đức,
Khuyên chí công đánh thức tâm hồn,
Thấy hình rõ bóng hoàng hôn,
Cứu an sanh chúng vĩnh tồn hậu lai.
Gìn đạo hạnh không lay không chuyển,
Gìn lòng son chớ luyến tài hoa,
Sá chi cái cuộc ngân hà,
Làm cho chịu khổn xót xa hằng ngày.
Luật nhơn quả không sai một mảy,
Hễ làm lành chế cải tâm không,
Thưởng ban phước đức ân hồng,
Con người gieo cảm khó mong hưởng nhờ.
Chi phải chịu bơ thờ lãnh đạm,
Bởi gieo truyền ác cảm từ lâu,
Than van rên siết được nào,
Luật công ghi chép Thiên-Tào không tư.
THI:
Không tư một mảy chúng dân nào,
Âm chất vun bồi được phước cao,
Nhỏ giọt cam-lồ cho nhuận tốt,
Hồng ân ban bố chẳng ly hào,
Ác tâm, ác miệng, gây thêm quả,
Thiện hạnh, thiện căn, tạo cảnh đào,
Công lý Thiên-Ðình hằng giữ sổ,
Hằng ngày chiếu rõ luật âm hao.
Bần-Ðạo ban ơn chư sĩ tử. Có MẢ-LỰC TIÊN-NƯƠNG đến.
(Tiếp điển)
THI:
MẢ hạnh trường đồ có mấy ai,
LỰC hành trông rõ sức anh tài,
TIÊN truyền Ðạo cả dìu nhơn loại,
NƯƠNG bút chuyển phê thoát cõi ngoài.
Bần-Ðạo mừng chư sĩ tử.
THI:
Cung-điện ngự xem thấy cảnh trần,
Lao-nhao lố-nhố phải vùi thân,
Giáng trần độ kẻ lầm mê muội,
Nương bút thần cơ khuyến thế cần,
Lựa dịp mê tâm dầm động bích,
Kiếm cho hiểu thấu lẽ huyền thâm,
Thỉ tài vận hội an nhơn chúng,
Ðoái lại đau thương bởi sự lầm.
BÀI:
Lầm lạc bến mê đồ phải lụy,
Giải tuyết sương chí khí tu tầm,
Ðạo nên luyện hóng thăng trầm,
Cửu quang mở hoát cao thâm ban truyền.
Lòng từ thiện chèo thuyền độ khách,
Lòng ái nhơn tư cách làm gương,
Cho đời tỉnh giấc mộng trường,
Hết cơn điên đảo tai ương đưa lần.
Chịu cảnh khổ phong trần cảm bấy,
Bởi hôn mê chịu lấy nào than,
Quyết tâm tầm lấy Ðạo vàng,
Cho ra manh mối nhặt khoan luân hành.
Máy linh động cứu sanh an chúng,
Nẽo vô-vi Thầy định riêng phần,
Cho người biết phép Tiên Thần,
Biết phanh biết luyện tinh thần xuất dương.
Kềm lòng chánh khoa trường chiếu giám,
Rõ lý mầu như đám hoa thu,
Trời trong gió mát cọng phù,
Tùy hình ẩn dạng hườn hư có ngày.
Miễn nhứt dạ ném đai cân rảnh,
Miễn là lo tụ đảnh nê hườn,
Tiên-Thiên bổ óc thành đơn,
Xá-Lợi chưng hấp hườn đơn cọp rồng.
Chí vững quyết non Bồng hứng cảnh,
Ðộng sơn khê xa lánh cuộc đời,
Kết tình cây cỏ chiều mơi,
Một mình thơ thới tứ thời tịnh an.
Vậy mới rõ huyền quang chi khí,
Vậy mới thông yếu lý nhiệm mầu,
Cơ Trời ẩn dạng cao sâu,
Ven lằn mây phủ sơn đầu thiệt hơn.
Tinh Khí Thần hiệp hườn nhứt thể,
Luyện anh nhi bổn thể kim đơn,
Nấu nung cho đúng chớ sờn,
Ðại hồng thệ nguyện linh đơn chỉ rành.
Lòng vọng động khó rành đoạt thấu,
Máy âm dương chưng nấu có chừng,
Chăm nom từ phút từ lần,
Mai sau Tiên cảnh vui chơn phỉ tình.
Cùng bạn Thánh tiên-đình hiệp hội,
Một cội nguồn thâu nhịp ngày giờ,
Ngâm thi vịnh phú chơi cờ,
Ngàn năm trần thế sánh so được nào.
Chịu một kiếp tương rau khổ não,
Ðộ khách mê mộng ảo thoát vòng,
Nương thoàn từ huệ thẳng xông,
Ðặng ngôi thoát tục lánh vòng trần ai.
Ngày định tịnh một hai quét sạch,
Giữ thanh tâm như bách sông chiều,
Trời đêm lạnh ngắt tiêu thiều,
Vẳng nghe nhạc trổi tiêu diêu giữa trời.
Mấy vì ấy thảnh thơi quá đổi,
Xác tục trần đã cổi từ lâu,
Bởi người trước chịu dãi dầu,
Nên nay mới đặng thoát đầu hồi nguyên.
THI:
Hồi nguyên cựu vị lánh mê hồn,
Thoát tục khỏi rồi độ tử tôn,
Áo bả hài gai yên tịnh trí,
Cân đai ném bỏ thấm duyên tồn,
Lựa vèo rước khách bồi âm chất,
Quyết một tình nay độ tỉnh hồn,
Thơ thới tâm can lòng mới vững,
Vui thay chi xiết cảnh non Côn.
Bần-Ðạo ban ơn chư hiền sĩ, khá tiếp giá LINH-BỬU NƯƠNG-NƯƠNG.
(Tiếp điển)
THI:
LINH nguyên căn cũ tại nơi Trời,
BỬU pháp trao tay chiếu ánh ngời,
NƯƠNG ngọn bút đề chiêu nữ liệt,
NƯƠNG thoàn Bát-Nhã đợi chiều mơi.
Chào chư sĩ tử.
THI:
Châu ngọc xưa nay hiếm kẻ còn,
Ðạo lành vun đắp chí vuông tròn,
Học thông lý Ðạo đường sông cạn,
Tìm hiểu cơ quan thể núi mòn,
Thanh khí Tiên-Thiên bền dạ kiếm,
Ðục trong máy nhiệm chí công bòn,
Thượng thừa qui tắc tùng noi giữ,
Thâm lý biến thiên dạ sắc son.
HỰU:
Sắc son triết lý chí nghiên tầm,
Khảo soát cho ra mới gọi rằng,
Lầm lạc khó toan tìm lý chánh,
Rõ đờn tao nhã giọng phù trầm,
Náu nương dưa muối qua ngày tháng,
Gánh vác cho nhau chí học tầm,
Vạn pháp qui tông gìn vững đạt,
Keo sơn gắn bó rõ cơ thâm.
BÀI:
Cơ thâm yếu lý nhiệm mầu,
Học thông pháp chánh cơ cầu phá mê.
Lòng toan tính chỉnh tề nung nấu,
Quyết tìm ra tích dấu cơ Trời,
Tỉnh hồn khỏi nạn hôm mơi,
Hậu lai sẽ được thảnh thơi linh hồn.
Chớ gây dữ dập dồn oan nghiệt,
Chớ tranh đua nhiệt liệt mà chi,
Làm cho lỗi đạo tiết nghì,
Làm cho phải chịu ai bi tháng ngày.
Ngày sáu khắc canh chầy tim lụn,
Bởi lầm đường lúng túng khó ra,
Tứ tường bao phủ xót xa,
Lụy tuôn cho trẻ thật thà chịu nguy.
Cũng tại bởi khinh khi Tam-Giáo,
Chẳng màng chi là đạo đức khuyên,
Miễn lòng no ấm phỉ nguyền,
Xác thân tiêu tứ trần duyên dẫy đầy.
Trời mở Ðạo CAO-ÐÀI cứu thế,
Thả nhã đò phổ tế vạn linh,
Trách thay sanh chúng tự mình,
Chớ nào phải đạo đao binh hại đời.
Bởi những tưởng thiên thời quá vản,
Bởi vậy nên gây cảm tội tình,
Bao chừng thoát khỏi đao binh,
Lắm phen ứa lụy chữ trinh nào còn.
Thân phận gái giữ tròn khiêm tốn,
Giữ nết na chốn chốn tận lòng,
Mới mong hiểu Ðạo HUYỀN-KHUNG,
Mới mong thoát khỏi não nùng chua cay.
Khuyên đừng tách lá lay đôi mách,
Chữ tiết trinh thiết thạch nơi tâm,
Kềm lòng rõ máy cao thâm,
Diệt xô bản ngã tư tâm mới là.
Chí đại đồng sâu xa lắm trẻ,
Thần lý chơn nhậm lẹ ghi công,
Chờ người lòng dạ đại đồng,
Không phân đẳng cấp một lòng như ai.
Khá hiểu lý chương đài chiêm ngưỡng,
Luật đại đồng ảnh hưởng chung nhau,
Phân da nước tóc một màu,
Xem như cật ruột đồng bào thịt xương.
Mới biết phá tứ tường bể nát,
Mới gọi rằng hiển đạt cơ mầu,
Linh quang phát triển cao sâu,
Giao hòa vũ trụ chung bầu kiền khôn.
THI:
Kiền khôn vũ trụ cũng trong trời,
Ai dám thoát ra thử mấy người,
Lăn lóc phong trần mơ ước mộng,
Dày vò sương tuyết lụy đầy vơi,
Bớ ai mở mắt theo đường trí,
Hỡi kẻ tu mi rán gượng cười,
Ngọn gió hắc hiu lao thổi đến,
Buồn cười cho khách trớ trêu ngươi.
Bần-Ðạo ban ơn chư sĩ tử, có THẤT-NƯƠNG ngự.
(Tiếp điển)
THI:
KIM thạch ẩn nương chiếu lố màu,
NHÀN thanh cứu cánh rõ âm hao,
NGỌC lành ngự bút thiên cơ chuyển,
NỮ ái Kỳ-Sơn giọt lệ đào.
Chào chư vị Thiên-Ân, tôi đắc lịnh NHỨT-NƯƠNG giáng báo đàn, vậy chư Thiên-Ân thành tâm tiếp giá.
(Tiếp điển)
THI:
NHỨT dạ tâm tu chốn học trường,
NƯƠNG thuyền Bát-Nhã cứu tai ương,
Giáng minh Thánh-Ðức người tường tận,
Ðàn nội trung thiên luật giáo đường.
Chào chư hiền nam nữ.
BÀI:
Ðường thiên lý luật công rành rạnh,
Lẽ thiên nhiên chuông thánh reo vang,
Thần cơ diệu bút Thánh-Hoàng,
Nương theo phưởng phất an nhàn tầm duyên.
Ðêm canh lụn chèo thuyền xuống ải,
Ðộ trầm luân thế thái được lên,
Lên nơi hải-đảo cung-thềm,
Vén màn di-mị tâm bền lướt qua.
Chư hiền khá tiếp giá NHỊ-NƯƠNG. Ta chào chư Thiên-Ân.
(Tiếp điển)
THI:
NHỊ hiền chấp chưởng hội bàn-đào,
NƯƠNG ngọn thần cơ trí ước ao,
Tiếp giá châu phê hành thửa lịnh,
Giáng minh lý Ðạo rõ vàng thau.
Chào chư hiền nam nữ.
BÀI:
Vàng thau lẫn lộn khó phân,
Mở bừng mắt dậy tỏ lần mới hay.
Khá biện lý xưa nay cho rõ,
Hiểu cho rành lời ngỏ quanh co,
Hết khi điên đảo đặng dò,
Thoát cơn khổ nạn xuống đò lần qua.
Chìu theo sóng gió nà thổi mạnh,
Giữ bườm loan thuận cảnh Tây-Phương,
Chí thành cảm ứng thông đường,
Kêu ca thù kiết an bường mấy khi.
Hễ biết đặng có chi là khó,
Quyết chí tâm tìm rõ nguồn cơn,
Tận lòng son sắc nghe tròn,
Không lay không lạc không mòn tấn lên.
Khá hiểu Ðạo dưới trên thuận thảo,
Thương cúc côi hoài bảo tình thương,
Giữ lòng khoan ái cần bươn,
Ðặng dìu theo dõi náu nương qua ngày.
Vậy chư hiền tiếp giá TAM-NƯƠNG. Ta chào chư hiền.
(Tiếp điển)
THI:
TAM Hoàng, Ngũ Ðế phục đời an,
NƯƠNG bách thuyền nan cứu rổi đàn,
Giáng bút châu phê pho THÁNH-ÐỨC,
Ðàn minh rõ lý chiếu cung Hoàng.
Chào chư hiền nam nữ.
THI:
Bàn-đào hội viện cứu sanh linh,
Thỏa vọng Thiên nhan ý vị bình,
THÁNH-ÐỨC chuyển đời chiêu phục mạng,
Thông linh diệu lý hội tương huỳnh.
BÀI:
Tương huỳnh phản đối đời mê,
Khá toan lánh chốn não-nề bươn mau.
Thân hoạt động ái đào tươi tốt,
Cảnh màu thiền ủ dột hoa chiều,
Tỉnh say lố cảnh hắt-hiu,
Phiêu phao chấp chưởng tâm thiều khúc nôi.
Dắt cảnh bèo linh trôi nỗi thảm,
Ủ dột sương gieo đám hồng sa,
Thanh lương tri kỷ mặn mà,
Tái lòng nát ruột cỏ hoa đượm nhuần.
Gió thổi đóa hoa tùng phưởng phất,
Hột sương gieo ngơ ngác tâm hồn,
Chiêu hình rù quến Tạo-côn,
Sơn-kỳ hải tú sinh tồn vạn linh.
Qui chinh bắc sơn-đình mai ẩn,
Bạn cỏ cây yêm ẩn một tình,
Ai nào rõ máy tàn linh,
Ngưỡng nhờ từ huệ chứng minh cho cùng.
Vậy chư hiền tiếp giá TỨ-NƯƠNG. Ta chào hiền sĩ.
(Tiếp điển)
THI:
TỨ đức đề oanh hội nhứt gia,
NƯƠNG theo máy nhiệm chỉnh nhơn hòa,
Giáng đàn cơ lịnh chiêu hiền đức,
Mừng các chư nho đặng một nhà.
Chào chư hiền sĩ.
THI BÀI:
Nhà đồng cơ tạo, đào viên,
Một lòng bổ cứu phỉ nguyền trước sau.
Lòng nhi nữ âm hao khổ lụy,
Lòng xét xem bền bỉ đặng nào,
Chất hình nặng trịu quá cao,
Làm cho linh tánh úa xào linh thông.
Xưa kia vẫn đạo đồng nhứt mạch,
Nay Thánh-Kinh chỉ rạch lòng ngay,
Ðời nay trau chuốc lưỡi dài,
Tinh thần hao kém khó quày vị ngôi.
Luật xả thân khá bồi đầy đủ,
Lòng ái nhơn rán thủ như bình,
Ðộ người giữa lúc hoàng minh,
Nhờ nương theo đấy thân hình khỏi nguy.
Nầy hiền sĩ khá suy nghĩ cạn,
Vẹt mây mù cứu nạn đồng bang,
Rõ câu nhân ái dẫy tràn,
Hậu lai tên tạc bản vàng mới hay.
Khá tiếp giá NGŨ-NƯƠNG. Ta chào chư hiền sĩ.
(Tiếp điển)
THI:
NGŨ đạo quân thiên định sắc đề,
NƯƠNG qua bỉ ngạn trở hồi quê,
Giáng phê Thánh-Ðức, Thần, Tiên, Phật,
Ðàn cứu giấc say kíp trở về.
BÀI:
Trở về nơi thâm khê tứ hải,
Lựa dịp may chế cải tấm lòng,
Chuộng người đạo đức tinh thông,
Cứu nhơn thoát khỏi trần hồng đăng Tiên.
Gió thổi đến bình yên như thử,
Chiếm thượng thừa hai chữ nhơn luân,
Tỉnh người hồ điệp băng chừng,
Hết cơn não ruột bâng khuâng tấc lòng.
Rán để hết tâm không suy luận,
Phải đề phòng tỷ hứng cảnh xưa,
Làm cho đặng sắc phụng thừa,
Thiên cơ tròn giữ sớm trưa một lòng.
Chư hiền tiếp giá LỤC-NƯƠNG.
(Tiếp điển)
THI:
LỤC dạ xem đời phải chạnh thương,
NƯƠNG dòng dục trí bực thông thường,
Giáng chiêu an lịnh pho Kinh báu,
Ðàn điện hoa sen nở sắc hương.
Chào chư hiền nam nữ. Ta giáng mừng Kinh THÁNH-ÐỨC cho chúng sanh được nhuần gội, chư hiền khá tiếp giá THẤT-NƯƠNG. Ta mừng cho chư hiền.
(Tiếp điển)
THI:
THẤT lạc bấy chừ hội hiệp đây,
NƯƠNG vèo thuận cảnh lụy vơi đầy,
Giáng khuyên lời ngọc an tâm trí,
Ðiển chớp kiền khôn khắp cỏ cây.
Chào chư hiền nam nữ. Hôm nay hội Bàn-Ðào mừng KINH THÁNH-ÐỨC. Thiếp mừng bổn Kinh báu độ đời, ban ơn chư hiền.
6.- THÁN CUỘC ÐỜI
__________
THI:
Thương đời rán sức lập nên Kinh,
Muôn thuở còn lưu lại thế tình,
Chẳng nệ sức già lo thỉnh rước,
Ðàn tiền chư sĩ rán thành minh.
* * *
KHƯƠNG-THÁI-CÔNG
Chư thiên phong nam nữ cùng quí em:
Phải biết không mấy khi mà Hội Quần-Tiên ra KINH THÁNH-ÐỨC để cứu độ chúng sanh thoát khỏi vòng sông mê biển khổ.
Từ xưa đến nay chưa hề có ngày nào đặng vậy!
Nếu chư hiền thành tâm cho đến cùng, kết thành Kinh báu công đức vô ngần danh lưu tại thế tiếng rạng muôn thu. Thử hỏi có chi quí bằng?
Vậy chư hiền khá nghiêm tịnh đặng ta đi thỉnh BÁT-TIÊN.
(Tiếp điển)
THI:
Quảy bầu linh dược với nhành dương,
Giáng thế khuyến Kinh giáo Ðạo đường,
Hai miệng đồng tâm ưa diễn khách,
Chữ đề tiên bản hội huỳnh tương.
(Chiết tự bạch giải..........................................)
- Thôi dưng cho ta một cốc rượu rồi ta giải cho:
Hai miệng là chữ LỮ.
Chữ Ðồng có ba chấm thí là chữ ÐỘNG.
Khách ưa diễn luận là chữ TÂN.
Tức là LỮ-ÐỘNG-TÂN. (cười...................)
THI:
Chơi cho thỏa chí của Tiên-gia,
Rượu tục sao cho sánh rượu già,
Sức giỏi linh đơn không thế nói,
Tài hay tiên tửu chẳng chi qua,
Thừa ưa gặp Hội Quần-Tiên giáng,
Thỉnh đảo đàn cơ cũng đến mà,
Ðem phép Tiên ban cho khách tục,
Chí tu rồi trẻ chớ không già.
Chào chư hiền nam nữ.
BI-THU
Một năm một tiết trời Thu,
Mà trăng như oán như thù chi ai.
THI:
Cảnh Thu ngắm đến chạnh đau lòng,
Nhựt nguyệt tỏ mờ chẳng vẹn trong,
Chìm nổi cánh bèo trên lượn sóng,
Linh đinh bọt nước dưới dòng sông,
Tiếng quyên réo rắt trên cành bá,
Cầm trổi nhặt khoan dưới cội tòng,
Tuyết điểm rừng thung châu hóa ngọc,
Sầu thu vạn vật ngóng chờ đông.
* * *
Nương bút tả chơi một ít hàng,
Cho đời biết rõ cảnh sầu than,
Trăm cay chưa dứt đường vinh nhục,
Ngàn đắng còn vương nỗi ngỡ-ngàng,
Một kiếp phù sanh rồi cũng rụi,
Ba đời vinh nhục thế mau tàn,
Cõi đời hiển hiện đời còn bận,
Nhìn kỷ thương ai lụy chứa chan.
BÀI:
Chứa chan chạnh nỗi cuộc đời,
Vinh hư tiêu trưởng ai thời nghĩ suy.
Chán mắt Thánh ẩn vi vũ trụ,
Nhàm tai người có đủ tinh thần,
Khác nào gió, khác nào vân,
Mới than nỗi khổn, rồi ân hận lòng.
Trước thế sự não nồng danh lợi,
Sau nhơn sanh khêu gợi lý quyền,
Người mua thảm, kẻ mua phiền,
Trăm năm rồi cũng huỳnh tuyền xa chơi.
Lầm tưởng đặng trên đời cao giá,
Nào hay đâu chưa thỏa lòng vui,
Một thân ba tấc đất vùi,
Vợ con tiền của ngậm ngùi khó theo. (Cười...)
Ðời những tưởng mình nghèo thê thảm,
Nào hay đâu chẳng giảm sống còn,
Dầu cho vào cúi ra lòn,
Mộ lài cũng một tấc son khác nào.
THI:
Khác nào mây áng mặt trăng lờ,
Cuộc thế nhộn nhàn tạo nghiệp cơ,
Kim cổ hỏi người còn hay mất,
Thì gương xưa để trước sờ-sờ.
Chư hiền cầu Ðức HỚN-CHUNG-LY.
(Tiếp điển)
THI:
Tình cờ HỚN Sở cạnh tranh ngôi,
Trách nghĩa CHUNG tình đến ngậm ngùi,
Sanh tử LY lưu lòng bao nở,
Thiết tha Giáng thế tiếng hòa đôi.
Chào chư hiền nam nữ.
THI:
THÁNH-ÐỨC Thầy ban rất quí mầu,
Xem qua tỏ rõ thật cao sâu,
Bớ đời lập chí ngày đêm học,
Học Ðạo cần chuyên được nhiệm mầu.
BÀI:
Màng chi cuộc thế văn minh,
Tạo ra những sự đao binh chiến trường.
Trời giáo Ðạo tầm phương học biết,
Biết rèn tâm oanh liệt từ-bi,
Sửa đời cứu lúc khuynh nguy,
Biết đời giả dối chớ đi theo đời.
Thân người, Trung hiếu:
Thân người ba thước giữa trần,
Hữu duyên đặng biết đến thân sửa giồi.
THI:
Giồi luyện tánh thành đặng sạch trong,
Có thân thì phải biết nơi lòng,
Mạnh đau đâu hẹn người hay trước,
Sanh tử nào kỳ sẽ biết đông,
Tiết trở đủ rần thân thảm dạ,
Mưa xây thấy chịu phận đau lòng,
Vùi tro chải bụi lo cho thế,
Nắm đất rồi đây khó thoát vòng.
Thoát vòng sông,
Thảm nỗi lòng,
Khó mà mong.
Mong chi danh lợi bớ người,
Biết đâu nhiều khóc ít cười hay chăng?
Rõ thế sự lăng xăng mê mệt,
Lánh sao ngoài sự chết đặng nhàn,
Cũng vì danh lợi buộc ràng,
Mồi ăn chỗ ở nên than thở hoài.
Kẻ bất hiếu làm trai hổ mặt,
Người quên trung nên đặc nịnh thần,
Hiếu trung rồi cũng xây vần,
Cuộc đời đâu dễ vẹn phần đặng sao.
Nhớ từ lúc phong trào đổi biến,
Nhớ sơ khai vận chuyển Tam-Hoàng,
Nhớ đời Ngũ-Ðế chứa chan,
Nhớ lòng thêm nỗi đoạn tràng thiết tha.
Kìa Hạ-Kiệt vua cha cầm mối,
Bởi quên điều phước tội chẳng trung,
Sắc tài tửu khí mê chung,
Ðọa đày trung nghĩa Long-Phùng khổ thân.
Thành-Thang cậy lòng nhân cứu quốc,
Ðổi quốc hồn lập thất cơ đồ,
Nam-Sào Hạ-Kiệt thân cô,
Thảo ngay Y-Doãn nghiệp đồ Thành-Thang.
Nhà Thương mới chiêu an quốc chánh,
Ðến Trụ-Ân lại lãnh sắc tài,
Cơ đồ xã tắc khô thay,
Lầm than dân quốc vùi mài quan trung.
Khiến xây đổi khôn cùng thể thống,
Cả chư hầu đều chống chẳng phò,
Văn-Xương nhơn nghĩa thơm tho,
Ðổi ngôi thế vị như đò trở day.
Xem cuộc thế châu mày ứa lụy,
Bực quân vương còn bị não sầu,
Huống chi người thế mà âu,
Tranh danh đoạt lợi khó cầu cho nên.
Chư hiền tiếp TRƯƠNG-QUẢ-LÃO. Ta ban ơn chư hiền.
(Tiếp điển)
THI:
TRƯƠNG-Lương chiêu mộ bực tài lành,
QUẢ lực nhơn gian chốn cảnh thanh,
LÃO sắc chỉ phê pho THÁNH-ÐỨC,
Giáng mừng chư vị tỏ minh rành.
Lão mừng chư hiền nam nữ.
THI:
Cuộc đời nghĩ lại lắm đau lòng,
Nhơn sự chia phe tách rẽ xong,
Chán nản tinh thần xơ xác Ðạo,
Tình thâm liên ái rán noi phòng.
BÀI:
Phòng ẩn dạng chim lồng xòe cánh,
Ðóa hoa sen nắng hãnh tươi nhuần,
Ðau thương cho khách nhơn quần,
Lắm phen lao lụy vì chưng quen tình.
Lần lượt qua phù sinh mấy lát,
Phút chút đâu mây tạt gió đùa,
Làm cho tiều tụy căn xưa,
Ðòi phen giở táp chỉnh thừa nơi tâm.
Há chẳng rõ Ðạo thâm lố dạng,
Lý mầu vi thấp thoáng bày hình,
Tinh thần nung nấu sử kinh,
Toàn xong nghĩa vụ mới xinh lòng Trời.
Ðời hỗn độn Ðạo Trời ra mặt,
Phổ tế nhơn còn mắc tứ tường,
Thân hình mắc phải tai ương,
Linh quang ban cấp khá thương giống dòng.
Ngày tháng lụn cứ mong chen lấn,
Chẳng màng chi những đấng cứu tinh,
Các vì Tiên Thánh hội huỳnh,
Thả thuyền Bát-Nhã non đình hồi nguyên.
Vầng nhựt nguyệt phỉ nguyền ao ước,
Lùm sen vàng tha thướt vân mây,
Thỏa lòng cúc trổ sum vầy,
Linh căn hội hiệp đó đây một nhà.
Yến ẩm thưởng thức hoa từ-ái,
Niệm tâm tình chế cải phù ba,
Làm cho rõ mặt san hà,
Làm cho thức giấc nam-kha thấy hình.
THI:
Hình bóng chiêu gương đã lố màu,
Vầng hồng xây trở bước thang đào,
Chỉnh xem thế sự dường mây chớp,
Phút chút tiêu tan lượn gió rào.
Chư hiền thành tâm tiếp giá TÀO-QUỐC-CỰU. Ta ban ơn cho chư hiền.
(Tiếp điển)
THI:
Chỉnh đời TÀO nguyện cứu nhơn sanh,
Chỉ bảo QUỐC gia rõ ngọn ngành,
Ðạo luật CỰU nguyên qui bổn thủ,
Ta hồ Giáng tiếp chỗ đua tranh.
Chào chư hiền nam nữ.
THI:
Giang hồ giấc điệp tựa sương gieo,
Cứu cánh linh căn phải lựa đèo,
Thả Bát-Nhã đò sông vị khởi,
Quần-Tiên Hội Thánh cứu cơn nghèo.
BÀI:
Cơn nghèo gặp hội rồng mây,
Vững tâm phấn đấu trần ai vén rèm.
Lòng chí sĩ cung thềm chinh bắc,
Não nề tâm sẽ đắc như nguyền,
Cành thung gió tạnh mưa yên,
Hết cơn xơ xác thủy nguyên chung đồng.
Lưu loát hiểu nho phong quốc tổ,
Chiếm bảng son thi thố trung cang,
Quyết lòng vững chắc sơn giang,
Rạng danh quốc đạo mở mang sử đề.
Chí dõng mãnh đề huề đảnh khứu,
Nhìn non sông lụy ứa đôi hàng,
Ngặt đời nhiều nỗi tân tang,
Khiến cho xáo lộn nhiều đàng thảm cay.
Ngán cho đời miệt mài thế cuộc,
Gẩm cho trần bó buộc mấy khi,
Tự nên mình tạo lỗi nghì,
Cho nên tai nạn khuynh nguy khắp cùng.
Miếng đỉnh chung não nùng giành giựt,
Ðám hoa tàn ai rứt mà tranh,
Làm cho tiều tụy tinh thần,
Hớ hinh xác tục não nồng giấc say.
Luồng hắc khí quá dày bao phủ,
Bủa chung quanh vần vũ mịt mù,
Rọi đèn bác-ái ôn-nhu,
Chuyển mê nhơn chúng diêm phù thoát tai.
THI:
Tai nàn thoát khỏi chốn vinh hư,
Ao ước phỉ tâm chốn mịt mù,
Vầy lũ hiệp đoàn toan dốc chí,
Phù vân cổi sạch nạn tiêu trừ.
Chư hiền thành tâm tiếp giá HÀ-TIÊN-CÔ.
(Tiếp điển)
THI:
HÀ đồ phanh luyện khí Tiên-Thiên,
TIÊN nữ hóa mây giá ngự truyền,
CÔ quả học Tiên nên có phép,
Giáng minh Thánh-Ðức lý cơ huyền.
Chào chư hiền nam nữ.
Nay Bần-Ðạo đắc lịnh giáng mừng THÁNH-ÐỨC. Ðức NGỌC-ÐẾ hội Quần-Tiên mà phát minh truyền pho THÁNH-ÐỨC đặng thức tỉnh nhơn tâm cho bớt cơn điên đảo.
Pho THÁNH-ÐỨC cũng tỷ như ngọn đuốc soi khắp cả năm châu. Ðó là một dịp rất may mắn ít khi có đặng.
Vậy chư Thiên-Ân phải để hết tâm cầu nguyện cho các Ðấng Thiêng-Liêng giáng truyền linh điển hầu lập Kinh THÁNH-ÐỨC được giá trị cao siêu, mới có đủ tinh thần mà vẹt ngút mây mù cho nhơn sanh thấy cái ánh sáng, nương theo chế cải nhơn tâm hấp thụ những tinh thần của các vị Tiên Thánh mới đủ nghị lực can đảm chống chỏi với các cảnh đau thương, thoát khỏi vòng trụy lạc. Noi KINH THÁNH-ÐỨC mà thực hiện, thì điểm linh-quang lần lần sẽ phát triển tiếp xúc giao cảm cùng điển quang trong võ trụ, thì linh hồn mau tiến thủ lắm, mà lại được thấu triệt các luật ẩn vi huyền bí của Trời.
THI:
Luật Trời thẩm thẩm lý mầu vi,
Chuyển động âm dương bước kịp thì,
Un đúc linh căn hồi cựu vị,
Ðồng thoàn nương náu đoạt khoa thi.
BÀI:
Khoa thi đoạt máy cơ Trời,
Tỏ lòng hiểu Ðạo năm nơi hội nguyền.
Ðời mê mẫn tước quyền tiền của,
Mãng đắm say theo đóa phù vân,
Lấn xô bóc lột xây vần,
Tung hoành võ lực nhọc nhành lao thân.
Ngày đêm lụn ai hòng rõ thấu,
Mối cơ Trời tranh đấu mãi nhau,
Khiến nên xơ xác úa xào,
Làm cho tiêu tứ nan đào bôn phi.
Mê trần thế lắm khi đau khổ,
Mê mùi đời lố nhố lao lung,
Luân hồi trả quả bao lần,
Thân hình lắm lúc nhọc nhằn đớn đau.
Ăn năn muộn cớ sao chịu thảm,
Bởi vì chưng mê đám vinh hoa,
Khiến cho u ám linh gia,
Của Trời ban cấp thiết tha lắm lần.
THI:
Lắm lần chua xót xác thân hình,
Chịu nỗi đòi phen ứa lụy tình,
Cội phúc vun nền cơ đạo-lý,
Cuộc đời hình bóng trớ trêu mình.
Chư hiền thành tâm tiếp giá Ðức LÝ-THIẾT-QUẢ. Ta ban ơn chư hiền.
(Tiếp điển)
THI:
Nương mây lần bước đến Tiên đàn,
LYٍ Ðạo thành minh thọ sắc ban,
THIẾT thạch lời châu khuyên thế tỉnh,
QUẢ nhiên cứu cánh buổi thương tang.
Chào chư hiền nam nữ.
THI:
Bởi đời cùng cuối khiến đua tranh,
Nên nhọc Phật Tiên giáng dạy lành,
THÁNH-ÐỨC ban truyền ơn cứu tử,
CHƠN-KINH chỉ rõ nghĩa dìu sanh,
Quyết đem thuyền bách đưa người tục,
Bao quản thiêng liêng lối nhọc nhành,
Kỉnh tụng tu cầu là phước đức,
Dày vò chê hủy tội cam đành.
HỰU:
Cam đành chớ trách quả cùng căn,
Lý chánh lời chơn chớ gọi rằng,
Chư sĩ đêm hôm cầu chẳng nệ,
Thần Tiên giáng dạy để khuyên răn,
Ngữa nghiêng cảnh thế rồi đây khổ,
Lận đận nhơn sanh khó nỗi phăng,
Một bộ Kinh vàng đưa khách tục,
Khuyên đời kỉnh tụng đặng siêu thăng.
HỰU:
Siêu thăng thượng giới học Tiên truyền,
Hơn chốn phàm trần vướng nợ duyên,
Lần lựa cánh hồng cam gió ngữa,
Tiêu tan thuyền nhỏ sóng nhồi nghiêng,
Cam lồ đem đở cơn phiền muộn,
Ðạo chánh giúp cho lúc chẳng yên,
Trọng Ðạo trọng Kinh về cựu vị,
Khinh Tiên dễ Phật xuống huỳnh tuyền.
Chư hiền thành tâm tiếp giá LAM-THỂ-HÒA. Ta mừng cho chư hiền nam nữ.
(Tiếp điển)
THI:
LAM bườm lướt gió đến đài Tiên,
THỂ đức ngọt bùi chỉ trái duyên,
HÒA hiệp cũng đồng trong cảnh thế,
Lai đàn bước thẳng đến đào nguyên.
Chào chư hiền nam nữ.
BÀI:
Ðào nguyên tịnh tọa vui vầy,
Thương đời lao nhọc kiếp chầy tang thương.
Chỉ truyền thánh chiếu lương phương,
Thuốc thần THÁNH-ÐỨC cứu ương cho đời.
Ðời lẫn lộn nhiều người, nhiều bực,
Bực trượng phu hữu đức mấy ai,
Ai ôi! tỉnh giấc mộng hoài,
Hoài công chen lấn có ngày khổ tâm.
THI:
Tâm truyền lời ngọc tỉnh đời mê,
Lợi lộc mà chi tiếng nhún chề,
Cuộc khổ đẩy đưa lừa khách tục,
Tuồng đời qua lại ghẹo người quê,
Vành trăng dầu sáng không gần đặng,
Ngọn lửa dẫu lu được cận kề,
Danh lợi bày trò trong một lúc,
Sao bằng đạo đức đến bồ-đề.
HỰU:
Bồ-đề lãnh đặng mới là hay,
Hay giỏi bườm trương lượn sóng dài,
Dày gió dạn sương đừng não dạ,
Dạ cam đành chịu nỗi chua cay,
Cay co rồi đặng ngàn thu hưởng,
Hưởng của trần gian đặng mấy ngày,
Ngày tháng lần theo con sóng lượn,
Lượn lừa khó nhọc bởi vì say.
HỰU:
Say sưa nên mới lỗi năm thường,
Ðạo nghĩa đành cam thất mọi đường,
Nhắc hiếu dầu thua lòng Thuấn-Ðế,
Khuyên trung cũng rán học Trương-Lương,
Hung nô Tô-Võ xa ngàn dặm,
Thành Tống Nhạc-Phi chịu đoạn trường,
Trường thế chọn lừa người tuấn kiệt,
Thành danh trung nghĩa để nêu gương.
HỰU:
Gương trong chỉ vẽ rạng danh thơ,
Ðạo đức truyền Kinh lịnh kịp giờ,
Giờ đã hầu gần khuyên chữ dạ,
Tiếp HÀNG-TƯƠNG-TỬ đến đàn cơ.
Ta ban ơn chư hiền.
(Tiếp điển)
THI:
Trễ đò HÀNG phải đến giờ sau,
Nam nữ TƯƠNG xin một tiếng chào,
Chào bạn TỬ sanh còn lận đận,
Rán lo tu niệm đặng thanh cao.
THI:
Thanh cao mới đặng hưởng phần cao,
Cuộc khổ cũng như cửa mở vào,
Bước trái học đòi gương Phật-tử,
Ðường ngay chớ tập tánh Ngưu-Cao,
Bắn xa nhờ sức trương cung mạnh,
Ðứng vững cậy nơi khỏi gió rào,
Tiếng dạy thông thường nhiều ý nghĩa,
Khuyên đời lãnh hội trước cùng sau.
Chư quí vị BÁT-TIÊN giáng đủ mặt, vậy chư hiền thành tâm, ta dạy bài "THÁN CUỘC ÐỜI":
BÀI:
Cuộc đời dời đổi rủi may,
Ngẩn ngơ khách mến vùi mài người mê.
KINH THÁNH-ÐỨC đầu đề tỏ cạn,
Hội Bát-Tiên dạy hản sự lòng,
Bớ ai trong cõi trần hồng,
Mau mau tỉnh giấc mặn nồng thiết tha.
THI:
Thiết tha từ trước đến đời nay,
Người thế mê man mảng miệt mài,
Cha chết con noi gương lấn một,
Vua băng tôi nối chí tranh hai,
Lần lừa đắp điếm sương cùng cát,
Qua lại ẩn thân dưới dạ đài,
Kim cổ thường tình nào sót một,
Biết thân đừng trọng, đến Thiên đài.
PHÚ:
Ðài Bạch-Ngọc dạy Thánh-Kinh khuyên người đời cần tu học.
Chốn phàm gian truyền đạo đức cứu thế rán trau vóc đặng lo lường.
Mối chơn truyền xưa đã đặng nên gương.
Nền luân-lý luật cang-thường sẽ sắp phong cương mà thành tựu.
Kìa khách tục mơ màng chẳng khác như người còn đang mê ngủ.
Nọ nhân gian chưa đủ trí thông thần.
Cõi hồng trần mảng trọng lấy cái xác thân.
Nơi dị lộ mà chẳng gần chi cho đặng.
Xác là thuyền, thuyền rán trương bườm hầu dặm thẳng.
Ðạo như nước, nước phải lo cho mau đặng có hoài.
Bớ người đời biết cạn chớ hề sai.
Rán lãnh hội đừng để cho sự rủi may của xác thịt.
Phật-Tổ Sĩ-Ðạt-Ta xưa Thế-Tôn cứu độ người đời còn phải Niết-Bàn nhập tịch.
Thái-Thượng Lý-Lão-Quân đắc Tiên ban đặng thanh nhàn độ thế còn ẩn thân hầu để tiếng ích máy huyền vi.
Ðời Tam-Hoàng khai sáng nên dân nước được trị vì.
Ðến Nhị-Ðế dạy đời đều y như thuần phong mỹ tục.
Nhưng mà nào mặt Tam-Hoàng hay tay Nhị-Ðế trong lúc thế kỷ hai mươi nầy.
Tần-Thủy-Hoàng bạo ngược quyết gồm xây.
Lập tràng-thành thâu lục quốc, mà nào hưởng đặng đến ngày nay tái thế.
Than ôi! Hạng-Vương trước tám ngàn người môn đệ, oai danh bốn bể nhưng cuối hạ-nguơn nầy còn thấy chi đâu.
Nã-Phá-Luân chọc nước khuấy trời.
Danh tể tướng năm châu đều khiếp mặt.
Mà hưởng cuộc đời có chắc bao lâu.
Sống trường sanh 800 tuổi Ðức Bành-Tổ biết đặng Ðạo mầu.
Nhưng đến hậu thế có thấy đâu là hình với tướng.
Chết quá yểu 31 tuổi Nhan-Uyên thật là yểu tướng.
Số định rồi khó nỗi van cầu.
Nghèo ai hơn Tăng-Sâm với Yến-Tử, tơi tả áo xiêm, dày vò gió bụi mà Ðạo mầu hằng trau học.
Giàu đâu sánh Thạch-Sùng, Vương-Khải, của muôn xe tận số thì hình vóc cũng chẳng còn.
Xét cho cùng thương cuộc thế rất chìu lòn.
Cuộc giả tạm thiệt rằng không nên chí lý.
Nhắc cho kỷ cổ kim với chung thỉ.
Phân từ lời nhỏ tý đặng khuyên đời.
Xưa Phật Thánh Tiên còn bỏ xác mới về Trời.
Huống chi người phàm tục hầu chiều mơi lo sang đoạt.
Ðời nháy mắt bóng quang-âm nhặt đưa thắm thoát.
Mượn chiếc đò thần hầu gánh vác mối Ðạo mầu.
Lập công đừng nệ sự dãi dầu.
Ðưa khách tục rán làm cầu cho sanh chúng.
Thoảng mảng ngày qua rồi tháng lụn.
Rảnh nợ duyên hầu đến chốn thanh nhàn.
Bạn Phật Tiên bỏ giấc vu sang.
Về Bạch-Ngọc lãnh bộ Tiên ban thiệt là thanh nhàn thú vị.
Bớ khách trần rán tâm mà suy với nghĩ.
Dầu khó khăn chung thỉ rán cho tròn.
Tu sao cho vẹn nước non...
THI:
Nước non đứng giữa cõi trần ai,
Lăn lóc tu hành mựa đắm say,
Xác tục đừng lầm trau quá rủi,
Tinh thần chẳng sái học là may.
BÀI:
May với rủi mấy ai biết đặng,
Thạnh cùng suy rồi chẳng làm gì,
Lánh đời cầu khỏi hồn nguy,
Xác thân dầu trọng làm chi cho bền.
Kìa những kẻ ngồi trên thiên hạ,
Hống hách oai quyền đã ngang tàng,
Hầu trong kỵ nữ muôn ngàn,
Vệ ngoài nha trảo rộn ràng lửa binh.
Rồng chầu mạng trước đình vân phủ,
Quân hầu thân có đủ võ văn,
Nào hay một nắm mộ lăng,
Sương gieo nắng táp bóng trăng soi chồn.
Kìa những khách quyền môn thế cả,
Trên quân vương dưới tả lính chầu,
Mà nay trong cuộc bể dâu,
Nằm yên dưới cỏ ngấc đầu không lên.
Tài ra trước đường tên mũi đạn,
Sức long trời đất hạng chẳng vừa,
Muôn binh ngàn tướng bẩm thưa,
Mà nay thân phải dày bừa bụi tro.
Kìa những kẻ văn nho tột bực,
Nọ những trang hiền đức xưa nay,
Có tài thiệt rất có tài,
Mà không qua khỏi mộ lài cỏ hoang.
Những nữ sắc hường nhan tươi tốt,
Gót rải sen nhạn thốt cá cười,
Rồi trong hơi thở cát vùi,
Nào ai thăm viếng tới lui bao giờ.
Bực phú quí khôn chờ giá rạng,
Tài nam nhơn chiếm bảng quán quân,
Mà nay dưới đất mấy từng,
Bên truông ve khóc, dựa rừng dế than.
Thương cuộc thế chứa chan giọt lụy,
Rán cậy cơ bút chỉ cho tàng,
Ðời ôi! đời rất ngỡ ngàng,
Lâm ly chết thảm, lở làng sống vui.
Cảnh tục lụy sóng vùi mà lụy,
Ðường Tiên bang ai nghĩ đến cùng,
Cạn lời chỉ dạy thỉ chung,
Bớ ai trong cuộc lao lung thức nào.
Ðức công hôm sớm dồi trau...
THI:
Trau gương kim cổ xét cho rành,
Sự thế lạ gì tục với thanh,
Biết Ðạo biết mình tua biết phận,
Ðừng ham tài sắc lợi cùng danh.
7.- CHƯ PHẬT GIÁNG MỪNG KINH THÁNH-ÐỨC
__________
THI:
KHƯƠNG truyền Ðại-Ðạo khắp năm châu,
THÁI nhựt minh soi thoát bể dâu,
CÔNG lý chiêu hiền qui cựu vị,
Giáng phê Thánh-Ðức giải cơn sầu.
Ta ban ơn cho chư hiền nam nữ. Khá thành tâm tiếp giá DI-ÐÀ PHẬT-TỔ.
(Tiếp điển)
THI:
DI sơn đảo hải lập công đầu,
ÐÀ chiếu gương soi khắp Á-Âu,
PHẬT hội công đồng khai Thánh-Ðức,
TỔ truyền diệu pháp lý siêu mầu.
Bần-Ðạo chào chư hiền sĩ nam nữ.
Hôm nay Bần-Ðạo giáng phê Kinh Thánh-Ðức, vậy Bần-Ðạo ban ơn chư sĩ, có HỒNG-QUÂN LÃO-TỔ đến.
(Tiếp điển)
THI:
HỒNG điệp giấc kha phải để lòng,
QUÂN thần phụ tử nợ non sông,
LÃO truyền mùi Ðạo càng thâm diệu,
TỔ giáng luật phê mối đại đồng.
Thầy chào chư hiền sĩ nam nữ.
THI:
Chia lòng vì bởi giấc chiêm bao,
Chẳng kịp biện phân có thấu nào,
Hỏi thử tinh thần cho thấu lý,
Xem qua tỷ lệ cõi sen đào.
BÀI:
Sen đào xây đó đây chung trí,
Nối gót theo một ý chung tình,
Nghĩ cho sanh chúng chia phanh,
Cũng vì mưu kế phải đành lấn xô.
Dòm thế sự ô hô thảm khổ,
Thấy nhơn tâm lố-nhố thân phàm,
Một lòng bước đến vân am,
Thế tình lôi cuốn đừng làm khổ thân.
Dầu cho cuộc phong trần ép buộc,
Cũng rán lo kết cuộc khoa thi,
Chuyển luân, luân chuyển kịp kỳ,
Hoát khai chơn giáo hội thi mong gần.
Lòng toan tính cho cần mới hản,
Lựa dịp may phân đoán cho rành,
Hết lòng son sắc đinh ninh,
Ðào non xuống bể thân hình quyết mong.
Lịnh truyền ban lo xong thí hội,
Chiếm bảng son tuyệt đối tranh tài,
Chớ rằng như thể sương mai,
Lập thân quyết định non đài ngao du.
Chia tình nghĩa cọng phù lắm nổi,
Sớt gánh gồng chịu lối cam eo,
Ðụt xông tên đạn qua đèo,
Lướt dòng nước biếc thủy gieo cội nguồn.
Ðáo sơn khê ôn tồn lý hội,
Mượn thuyền nan sớm tối cho đời,
Dằn lòng nhu sĩ nhớ lời,
Phá mê nhơn chúng cơ đời xôn xao.
THI:
Xôn xao quần chúng bởi tranh quyền,
Xạo sự chia phanh sở đắc nguyền,
Một bức giang san vân cẩu biến,
Năm nơi quốc túy khá như nguyền,
Chiêu lòng anh kiệt cho nên mặt,
Mở đức trung cang đặng hữu duyên,
Lần lượt tháng ngày qua rất lẹ,
Bôn ba chớ vội cảnh than phiền.
Chư hiền sĩ thành tâm tiếp giá DI-LẠC THIÊN-TÔN.
(Tiếp điển)
THI:
DI luân chuyển động mối cơ Trời,
LẠC thú thông đồng đặng thảnh thơi,
THIÊN võng khôi khôi nào có lậu,
TÔN truyền yếu nhiệm sửa cơ đời.
Bần-Ðạo chào chư hiền sĩ nam nữ.
THI:
Giang san cẩm tú bực nhơn tài,
Thức đạo chung cùng thức giấc say,
Thừa lịnh sắc phê đàn Thánh-Ðức,
Gặp cơ hội ngộ giáng phô bày,
Ðạo truyền chánh luật tinh chuyên lấy,
Ðời để xét xem cứu nạn tai,
Ngơ ngác tâm hồn vòng trụy lạc,
Ðảo điên thế sự giọt sương mai.
BÀI:
Sương mai tựa như hồ khói tỏa,
Chỉnh xem qua nong-nả giáng bày,
Phá mê cho khách nhơn tài,
Tỉnh hồn thấu đáo Thiên-Thai cảnh Bồng.
Vì chủng tộc mắc vòng mây ám,
Bởi không lòng vẹt đám mù sai,
Làm cho thân phận lạc loài,
Chịu cơn điên đảo hình hài lao tâm.
Cuộc trần hoàng phù vân tuyết bủa,
Gẩm cho trần chịu úa xào thân,
Lăm le cái cuộc phong trần,
Mê mùi chung đỉnh tinh thần đau thương.
THI:
Ðau thương cho khách bị giam cầm,
Nghĩ xét bấy lâu ứa lụy dầm,
Chỉnh phục non sông cơn nước lửa,
Chấn hưng đạo mạch đặng minh tâm.
Ta ban ơn chư hiền sĩ nam nữ. Tái cầu có ÐẠI-THÁNH TỀ-THIÊN đến.
(Tái cầu)
THI:
TỀ tựu đồng tâm học Ðạo mầu,
THIÊN cơ chỉ rõ lý cao sâu,
ÐẠI thừa triết học huyền thâm chiếu,
THÁNH-Ðức chuyển mê cứu nạn sầu.
Chào chư hiền nam nữ, chư hiền khá nghiêm tịnh.
THI:
Triết học huyền thâm đức hóa nhơn,
Thiền tăng chánh giác lịnh tiên hườn,
Lâm nguy thế sự hà phân đoán,
Mạt kiếp kỷ tương sắc hạ nguơn.
Chư hiền nghe:
Máy huyền thâm xây chuyển, người thiện căn huấn luyện tinh thần.
Cơ Tạo-Hóa đổi dời, kẻ có đạo đức học đòi Tam Giáo.
Như ta lãnh mạng chiếu, giáo Minh-Tân thọ đạo, độ nhơn sanh truyền chơn-lý cứu nguy.
Cơ tạo xây lắm nỗi chuyển di.
Máy thiên-lý khó tri thời thế.
Nay ta phụng thừa giáng chiếu Ngọc-Minh.
Ðề bút tả mấy câu vào Thánh-Ðức.
THI:
Thánh-Ðức thiên cơ chỉ hạp thời,
Nhơn sanh xáo lộn biến nguy đời,
Tối tân văn hiến bày điều hại,
Bần khổ nhơn dân chịu nỗi trôi,
Chánh giáo khôn phân cùng vạn loại,
Thiên cơ khó chuyển với người ôi!
Nhờ Kinh giác tỉnh đời mê mộng,
Thức giấc huỳnh-lương rõ Ðạo Trời.
Chư hiền thành tâm cầu GIA-TÔ GIÁO-CHỦ đến. Ta ban ơn chư hiền.
(Tiếp điển)
THI:
GIA truyền Thánh-Ðạo cõi Âu Tây,
TÔ đức bồi công dốc dựng gầy,
GIÁO hóa chúng sanh qui mỹ tục,
CHỦ ban phước huệ đặng đồng giây.
Chào chư hiền đồ nam nữ.
THI:
Phụng chỉ Hoàng-Thiên hạ chiếu trần,
Giáo truyền Thánh-Ðức cứu nhơn dân,
Kỳ duyên tu niệm về ngôi vị,
Phước quả thành tâm khỏi nợ nần,
Chớ có đỏng đưa theo tục lụy,
Dạ đài phải chịu lấp vùi thân,
Thương đời đánh chết đời chưa rõ,
Giọt máu nhà tiên rải hiệu thần.
Chư sĩ nghe:
Một đấng Cứu-tinh giáng thế Ngôi-Hai nơi Bạch Ngọc Huyền-Khung.
Vì lòng bác-ái thương đời phải gởi mạng trần nơi cây thập-tự.
Ôi nhơn tâm! Ôi nhơn tâm! vì nhơn tâm mà làm cho đau đớn, vì nhơn tâm mà con xa cha, chồng xa vợ, tớ hại thầy...
Du-Gia ngày xưa không phải là một vị môn đồ yêu quí của ta đó ru?
Thương thay, nếu ta có đủ quyền lực mà cải với lẽ tự nhiên của Tạo-Hóa, thì ta có nỡ nào để cho một vị môn đồ thành tro mạt.
Ðáng thương tiếc ôi! ta hằng nói với chúng sanh rằng: Tự ta thì ta không có đem phước hay là tội cho ai được. Ta chỉ liều mình mà chịu tội cho chúng sanh.
Khuyên chúng sanh rán cải dữ về lành, thì Cha ta ở trên Trời sẽ ban phước và định ngôi cho.
Ðạo lưu-ly luân chuyển, đời tranh cạnh cuốn lôi.
Mối chơn truyền rồi cũng vì trào lưu mà lợt lạt máy huyền vi.
Ta huyền diệu thật, Ta phép tài thật.
Kẻ đau được mạnh, kẻ cùi được lành, kẻ khổ được khỏi, kẻ đói được no, một miếng bánh mì ta sẽ biến thành 5000 người ăn đủ.
Thế mà không có Cha ta ở trên Trời thì ta chẳng làm gì.
Bởi vậy ta khuyên chư môn sanh, khá biết mối Ðạo nơi cuối Hạ-Nguơn Tam-Kỳ Phổ-Ðộ nầy, Cha ta ở trên Trời đã đem một chiếc từ thoàn mà độ tận chúng-sanh.
Ta khuyên cả thảy chúng sanh phải nhớ rằng:
Ta có tiên tri trong 2000 năm, ta sẽ tái lâm mà cứu thế.
Ðến thời kỳ nầy đã đủ, tuy là ta không hứa có ta làm giáo chủ Ðạo Cao-Ðài, mà biết đâu ta là một tay sai của Ngài khi trước, vậy ta khuyên cả môn sanh khá biết cạn lời nầy mà tu hành thì sau khỏi điều ăn năn tự hối.
Thôi ta ban ơn chư hiền sĩ, có NGUYỆT-TÂM CHƠN-NHƠN đến.
(Tiếp điển)
THI:
NGUYỆT điện quảng hằng chiếu khắp nơi,
TÂM trí nhơn loại hiểu nhiều đời,
CHƠN truyền xưa tỏ Âu-Châu thiệt,
NHƠN đạo nay bày Á-Việt chơi,
Giáng bút phụng thừa Hoàng lịnh mạng,
Ngọc cơ roi dấu Thánh Tiên lời,
Minh tâm biết cạn ta văn học,
Ðài thượng ngàn mây rạng cõi đời.
Chào chư hiền nam nữ.
THI:
Ðời tàn muôn sự phải lầm sai,
Văn hóa đời nay mấy kẻ tài,
Học rộng để nuôi con với vợ,
Trí cao đành tính việc chông gai,
Sách ta ngàn cuốn người xem thử,
Từ cõi Âu-Châu đến xứ ngoài,
Thấy cuộc trò đời nay giả tạm,
Mấy hàng nhắn nhủ khách anh tài.
Ta ban ơn chư hiền. Có THÁNH-NỮ JEANNE D?ARC đến.
(Tiếp điển)
THI:
THÁNH-Ðức phụ công bố mạng truyền,
NỮ nam đồng bái trước Ðàn Tiên,
(JEANNE) Răn đời châu ngọc ngàn thu tạc,
(D'Arc) Ða giáo giá lâm tiếng dạy khuyên.
Chào chư hiền nam nữ.
THI:
Cuộc thế đổi dời buổi nạn ương,
Tiên tri ta đã chỉ cho tường,
Hồng ân võ lộ cầu Trời Phật,
Phước huệ trân châu nguyện đặng thường,
Nước loạn một tay dìu dắt nước,
Ðường xa mấy mặt bước cùng đường,
Chăn chiên ngày trước đời nghe tiếng,
Cứu quốc khỏi nguy tiếng để gương.
Chư hiền nam nữ nghe:
THI:
Ngán nỗi nhơn tâm cõi thế tình,
Khen chê thương ghét kỉnh rồi khinh,
Lòng Tiên thậm trách tâm người tục,
Vì bởi còn say cuộc thế tình.
BÀI:
Ðêm khuya sao rạng trăng lờ,
Phụng thừa Thiên mạng giáng cơ Ngọc-Ðài.
Lập THÁNH-ÐỨC cứu tai vạn loại,
Truyền CHƠN-KINH chế cải phàm phu,
Ðể lời tỏ nỗi người tu,
Nhơn tình thế thái công phu mấy người.
Từng trải hết cuộc đời đen trắng,
Ðã thông tri việc nặng trần gian,
Nghĩ thân hổ với giang san,
Chăn chiên mà có mở mang chi nào.
Người khinh dễ thấp cao đủ tiếng,
Kẻ dày bừa những chuyện khổ tâm,
Trải qua cõi tục mấy năm,
Ðã tường thế sự nhơn tâm thường tình.
Khi khổ nạn đao binh chẳng thấy,
Chẳng thấy ai ra đấy lãnh phần,
Trốn trong bụi rậm dưỡng thân,
Chẳng còn hay giỏi phong trần là chi.
Lên ngựa thiếp giải nguy tế độ,
Rày Thánh nhân tạo sổ công thần,
Cười thay thế khéo xây vần,
Mới con cái tục, rày Thần Thánh đây.
Hỏi người thế sao gây chuyện quấy,
Quấy làm sao trông thấy mà đau,
Ở đời hay lấy mặt mày,
Hay thương ngoài miệng, hay chào ngoài môi.
Cười thế sự người ôi giả dối,
Giả dối sao đến đổi ghê hồn,
Lần lừa cuộc thế học khôn,
Khôn ăn hiếp dại tiếng đồn xưa nay.
Khi thạnh thời nhiều tay giúp đỡ,
Lúc lâm nguy sờm sở một mình,
Nghèo không bạn, sang lắm tình,
Càng gần thân mật, càng nhìn của tiêu.
Trách lòng tục khéo khêu chi khách,
Kẻ cơ bần ép bách chẳng thương,
Lấy ta mà để nên gương,
Sửa tâm công chánh đường đường mới nên.
Người có nhớ hay quên ta đó,
Nếu lòng ta xấu có nên chi,
Nhờ lòng tốt, nhờ trí tri,
Trời ban phước cả, Phật qui chơn truyền.
Lòng thành hẳn đặng linh thiêng...
Chư hiền nam nữ đồng bái mạng MẪU-HOÀNG giá ngự. Ta ban ơn chư hiền.
(Tiếp điển)
THI:
BÁC ái từ bi tập tánh thành,
NƯƠNG nhau em chị rán tu hành,
Lâm nguy bất cứu phi hiền nữ,
Ðàn đạo đồng tâm được tịnh thanh.
Chào chư Thiên-Ân nam nữ. Chư Thiên-Ân khá tịnh đàn có MẪU-HOÀNG ngự bút. Ta ban ơn chư hiền.
(Tiếp điển)
THI:
DIÊU động đào nguyên vạn tải vân,
TRÌ tâm giá ngự đến hồng trần,
KIM phê chứng dạ con hiền ngỏ,
MẪU ái tình thâm rạng giá ngần.
Mẹ mừng các con nam nữ.....
8.- ÐỜI ÐẠO TƯƠNG ÐỐI
__________
THI:
Sân trình cửa Khổng đã dày công,
Ðức hạnh Nho gia tạc lấy lòng,
MẠNH-TỬ xưa còn người thế tặng,
Giáng Ðàn mừng bộ đức Kinh rồng.
MẠNH-TỬ chào chư nho.
THI:
Cuộc thế vần xây khiến đổi đời,
Lòng người nghĩ đến lúc đầy vơi,
Chí tâm học Ðạo ngàn thu tạc,
Tạc tiếng lưu lai giữa cõi đời.
Chư nho cầu Ðức Sư-Phụ KHỔNG-TỬ. Ta chào chư nho.
(Tiếp điển:)
THI:
KHỔNG giáo quán trần ai,
THÁNH hiền hậu thế lai,
TIÊN cơ hồ mạc trắc,
SƯ phụ, Ðức Cao-Ðài.
Mừng chư hiền đồ.
THI:
Tan hiệp từ xưa mối Ðạo truyền,
Hậu đời mạt kiếp rõ qui nguyên,
Nhứt ngôn thiết thạch niềm huynh đệ,
Tam-Giáo đồng noi chánh lý nguyền.
Cội đức sửa trau gương Thánh-Ðức,
Tâm hiền gìn vẹn đạo nhơn hiền,
Trào lưu luân chuyển qua thời đại,
Ðại hội Long-Hoa đắc quả Tiên.
THI:
Bửu pháp từ xưa đã dạy rành,
Thiên cơ đừng vọng kiếp phù sanh,
Gắng tìm chơn lý ra trần tục,
Ðược đến Tiên-Bang hưởng phước lành.
Tôn-Giáo:
Cuộc Thiên Ðịa tuần hườn, châu nhi phục thỉ. Từ xưa đến nay, mỗi khi đến thời kỳ nhơn loại đổi dời, luân thường biến cải, thì có một Tôn-Giáo ra đời, bất câu là đời nào, hay Tôn-Giáo nào, đều có lịnh Huyền-Khung-Cao Thượng-Ðế ban cho. Mối Ðạo truyền xuống thế hằng chia rẻ phân phái phân phe là cái sở hữu của mỗi người còn mến riêng quyền lực. Nên Ơn-Trên cũng đành để cho cuộc thế liệu lượng lấy mà thi hành đạo đức đặng cứu độ chúng sanh.
Nay đến thời kỳ cuối hạ nguơn chuyển động, cuộc tang thương hầu kề. Nhơn loại hiện thời đang chìm đắm trong biển khổ sông mê, ngọn sóng văn minh dập dồi lận đận. Các tôn-giáo cũng đến kỳ mạt pháp, nên đều đưa xuôi theo ngọn thủy triều, để phú thác cho lượn sóng văn minh mặc tình nhồi sửa. Ðức CHÍ-TÔN hội Quần-Tiên thuyết cơ giáo Ðạo khai Tam-Kỳ tá danh CAO-ÐÀI để sửa đời cho trở nên Thánh-Ðức, chuyển các tôn-giáo lại làm một, gọi là qui nguyên Tôn-Giáo, hay là ÐẠI-ÐẠO CAO-ÐÀI, có cái định nghĩa cứu cánh vạn sanh thoát khỏi vòng trần lao tục lụy.
Người sanh trong võ trụ đều tùy theo kiếp tấn hóa đặng tiến hành. Trải qua một cuộc đoạt lợi tranh danh, sa mê thế sự, mong đặng cái kết quả tốt đẹp cuộc đời riêng của cá nhơn, thì chưa đoạt mục đích kỳ cùng, dầu đoạt mục đích cũng trong vòng danh hão lợi huyền.
Hồi tưởng lại cuộc đời dĩ vãng thì chẳng chi mà gọi vui thú ngàn năm, vì sự thế thoạt còn thoạt mất. Bởi vậy, nhìn cuộc biến thiên của võ trụ, xem cơ thay đổi của nhơn quần, hoặc cảnh ngộ biến đưa, hay cuộc đời cay nghiệt, thì con người mới tỉnh giấc mộng hồn, bước chơn lên con đường Ðạo, ép mình vào tôn-giáo, chịu trong khuôn khổ của kỷ luật tu hành, để đem mình đoạt đến cõi cực lạc an nhàn, hoặc thành Phật thành Tiên đặng lánh nơi danh hão lợi huyền của thế sự.
Một phen con người trải qua thời kỳ mến Ðạo vào tôn giáo để sửa tánh tu tâm, lập công bồi đức đã kết thành cái quả nhơn ái tràn trề, thì con người lần lần đem tâm từ ái ấy mà rải cho chúng sanh, mới đáng mặt tu hành đạo-đức.
Cửa từ bi mở rộng, bông đạo đức trổ màu; khiến nhơn sanh đến cõi đời cao, qui vạn loại vào đường chánh đại. Vã lại cửa tôn giáo đồng với thời kỳ dĩ vãng của Càn-Khôn Võ-Trụ.
Cuộc đời tang thương xây đổi sắp đến bên. Ðời sẽ khiến vào vòng tiêu tan khổ lụy, thì làm sao mà cứu cánh cho đặng. Nên phải dùng phép Tôn-Giáo mà sửa trị lòng người. Chuyển đoạt máy huyền vi, hầu rước người từ cõi phồn hoa vinh nhục cho đến nơi thanh tịnh Bồng-Lai, thì con người phải còn sự ngờ vực giữa Thiên-Cơ cùng nhơn trí.�����
ÐẠI-ÐẠO đã có cái chủ nghĩa cứu tử hoàn sanh, qui nguyên nhứt bổn, mà tại sao chia rẻ nhiều chi nhiều ngánh, là cũng tại lòng người dời đổi, tánh tục phân vân, nên phải chịu cảnh đoạn trường diêm lương cách trở. Rồi lần lựa mãn thời kỳ ấy, con người sẽ biết nhìn nhau. Hoặc là nhiều đạo hữu, đông tín đồ, rồi thừa dịp ấy kẻ hướng đạo mới đồ danh trục lợi, phân phái chia phe để dành quyền lợi riêng mà tạo nên cõi đời u ám. Ấy vậy, Tôn-Giáo là thuyền�����
đưa khách từ biển trầm luân đến đời nhàn lạc, mà cũng tùy thuyền lựa bến, nhiều khi cái giả cảnh ấy cũng hằng chìu chuộng theo lòng người, mà dắt người vào cõi tối tăm.
BÀI:
Nền giáo lý con thuyền tế độ,
Cõi trần ai biển khổ minh mông,
Sóng dồi danh lợi giữa dòng,
Chuyển thay mối nước lớn ròng linh đinh.
Người trong cõi mộng huỳnh ảo tưởng,
Vụng nghĩ suy phải vướng nợ nần,
Lao lung mệt trí nhọc thân,
Khó cho trọn kiếp phong trần nhàn yên.
Vừa rảnh nợ tiền khiên oan trái,
Bước chơn lên đường đại quang minh,
Mặc ai lợi lộc ái tình,
Lòng phàm gội rửa sông huỳnh sạch trong.
Hồi tưởng lại trong vòng thế khổ,
Xét thương cho phận số nhọc nhành,
Mảng theo danh lợi giựt giành,
Ðời trăm năm nghĩ chẳng thành chi cho.
Nỗi hoàn cảnh lắm trò cay nghiệt,
Nỗi nhơn tâm tha thiết dối lường,
Thấy đời gần cuộc tang thương,
Mối nhơn luân đã trăm đường biến thay.
Quân bất minh sắc tài mê mệt,
Thần vô lương ép hiếp nhơn quần,
Còn hạ bực ấy thứ dân,
Khiến cho rối loạn luân thường đảo điên.
Phụ bất từ, tử nguyền bất hiếu,
Phu bất trung, thê liệu bất hòa,
Ðệ vô lễ, huynh bất hòa,
Lòng lao lụy nỗi gần xa xét lòng.
Biết cuộc thế không xong chi cả,
Rõ tuồng đời vất vã chiêm bao,
Thân người khổ nạn đớn đau,
Biết thời vụ phải gìn trau tinh thần.
Vào tôn-giáo lánh thân khỏi tục,
Qui luật điều rèn đúc chơn linh,
Mai nở nhụy, cúc đơm huỳnh,
Bốn mùa tám tiết, chuông in trí nồng.
Mặc thế sự gạn trong lóng đục,
Thấy trò đời chen chút lợi quyền,
Rảnh rang tịnh tọa tham thiền,
Tìm phương cứu thế lựa điềm độ dân.
Ðem giáo lý tinh thần phổ hóa,
Ðộ sanh linh thoát họa trầm luân,
Ðường ngàn dặm, khách băng chừng,
Bên truông dấu thỏ, gần rừng tiếng ve.
Trải bao cuộc nắng mưa che đậy,
Dở dang đời xem thấy mà đau,
Trách người hướng đạo chẳng cao,
Lấy quyền riêng để làm màu dối dân.
Muốn tấn hóa tinh thần đạo đức,
Phải thành tâm rán sức lập công,
Xá thân mà phải xá lòng,
Lòng trong như thể nước trong một màu.
Lập đức hạnh thanh cao tế độ,
Lo dìu đời đến chỗ thanh nhàn,
Từ tâm lần lựa bước đàng,
Thương đồng môn thể đồng sàng đồng tâm.
Mở chí cả cao thâm ái chủng,
Khai lòng nhơn gìn bụng thương đời,
Việc lành dầu nhỏ đừng rời,
Ðiều dữ dầu nhỏ lánh thời mới nên.
Lần trổi gót đài Tiên học tập,
Ðoạt chơn truyền cao thấp màng chi,
Miễn là gìn dạ từ bi,
Vạn sanh được khỏi tai nguy cuộc cờ.
THI:
Cuộc cờ thắng bại chẳng hề chi,
Rốt cuộc con bàn vốn mực ghi,
Nhập trận thấp cao lòng ái truất,
Sau bằng ngồi nghĩ nỗi đời suy.
HỰU:
Ðời suy Thánh-Ðức chuyển mê đời,
Giáo lý Phật Tiên dạy cạn lời,
Chỉ rõ giả chơn rành chánh pháp,
Người tư tôn-giáo nhớ theo thời.
Chư hiền đồ thành tâm tiếp giá GIA-TÔ GIÁO-CHỦ. Ta ban ơn chư hiền đồ.
(Tiếp điển)
THI:
GIA lý chơn thành Ðạo mới cao,
TÔ son điểm phấn vẹn muôn màu,
GIÁO khai chánh pháp cho người tục,
CHỦ khảo tâm linh rõ trước sau.
Chào chư hiền đồ.
THI:
Thiện ác cuộc đời lắm đổi thay,
Hạ-Nguơn rán học Ðạo Cao-Ðài,
Ðường lao bước kịp là quân tử,
Nẽo khổ lần đi mới trượng tài.
Quả đức hành xong mùi rất ngọt,
Bông nhơn chẳng vẹn chất thêm cay,
Hỡi người tục lụy gìn tôn-giáo,
Qui hiệp cứu nhơn khỏi đọa đày.
BÀI:
Tôn-Giáo của từ-bi cứu thế,
Chơn truyền trên phổ tế sanh linh,
Hữu duyên sanh gặp Ðạo Huỳnh,
Chí công lãnh chiếu sơn trình độ nhơn.
Người hướng đạo tinh thần cho đủ,
Ðặng Chí-Tôn ban phú cứu đời,
Ðừng ham vốn, chớ tin lời,
Ðem thân hành thiện thay Trời giáo dân.
Tình đồng môn cân phân lượng cả,
Nghĩa nương nhau lập quả bồi công,
Ðừng sanh tâm bưởi dạ bòng,
Chia niềm bằng hữu đổi lòng ái tha.
Rừng nên rậm chung hòa nhiều cội,
Cồn nên cao cát nỗi bụi trầm,
Hễ quân tử, hiểu cao thâm,
Chung cùng giáo lý nở cầm lòng riêng.
Có lắm kẻ cậy quyền đạo-đức,
Có lắm người cậy sức thông minh,
Rằng ai khác đạo không nhìn,
Phải tùng qui tắc của mình mà thôi.
Kìa con nhạn cúc côi ngoài núi,
Nọ ve than thân tủi một mình,
Loài điểu thú có tánh linh,
Lạc bầy còn biết nhớ tình cùng nhau.
Huống chi người một màu chia rẻ,
Rẻ đệ huynh lại rẻ Phật Trời,
Tình đồng đạo đã rả rời,
Nghĩ cơn nghiêng ngữa nhớ lời tiên tri.
Thuyền lửng đửng cơn nguy giữa sóng,
Mặc tình ai chèo chống phải chìm,
Muốn khỏi nạn lại trọn niềm,
Kết năm bảy chiếc thì êm sóng nhồi.
Bớ khách tục chia đôi trí tưởng,
Lời chơn thành liệu lượng mà lo,
Ðã liều thân nhọc chống đò,
Bất tri thời vụ sau mò đáy sông.
Hỡi khách tục đứng trong Tôn-giáo,
Trời đã truyền mối Ðạo một nguồn,
Ðừng chia rẻ Trời Ðất buồn,
Rồi lằn hắc khí hại luôn đến đời.
Thấy tôn-giáo hiện thời chia rẻ,
Nên lòng ta phải hé máy linh,
Ðến kỳ cơ Ðạo huỳnh minh,
Thì không còn giữ một mình đặng thân.
Sớm hiểu sự phong trần giả tạm,
Lòng nhơn sanh lãnh đạm lắm điều,�����
Ði tu lánh sự ấp yêu,
Lánh nơi lao trí lánh điều thị phi.
Thì phải biết trí tri cách vật,
Ðừng toan mưu lập chước tranh quyền,
Rồi đây hồn xuống huỳnh-tuyền,
Có chi chắc đặng phỉ nguyền hay không?
Nếu chẳng sớm dẹp lòng bản ngã,
Thì gần đây tai họa liền liền,
Bớ người cõi tục nghe khuyên,
Lời Âu-Châu giáo Nam miền tạc tâm.
THI:
Tâm phàm thường dắt kẻ mê say,
Biết phận chớ nên mến tục hoài,
Tôn-giáo qui nguyên về cựu vị,
Thánh truyền hiệp nhứt hóa trần ai,
Thiên cơ đem lộ huyền thâm cảm,
Máy nhiệm đã bày sự dở hay,
Khuyên kẻ tu hành mau biết Ðạo,
Ðạo Trời hành phạt chẳng vì ai.
Chư hiền thành tâm tiếp giá THÁI-THƯỢNG. Ta ban ơn chư hiền đồ.
(Tiếp điển)
THI:
THÁI hòa địa lợi cả năm châu,
THƯỢNG nhựt qui tăng giải nạn sầu,
ÐẠO đức trau tria gìn vẹn vẻ,
TỔ truyền diệu pháp lý cao sâu.
Mừng chư hiền đồ.
THI:
Vần xây cuộc thế giữa cơn nguy,
Chuyển máy âm dương phải biện thì,
Giữa lúc hoàng hôn trời vần vũ,
Trong cơn điên đảo đất khuynh nguy,
Rọi đèn từ huệ cho thêm tỏ,
Nương Bát-Nhã đò cứu nạn suy,
Nhờ giọt cam-lồ người hưởng hứng,
Nhành dương quét sạch khá lần đi.
BÀI:
Lần theo vịnh qua đèo xuống ải,
Vững một lòng chế cải tâm phàm,
Nương thoàn Bát-Nhã kỳ tam,
Tận tình son sắc dẫn đàng nhơn sanh.
Khá quày bước chí thành cảm ứng,
Vững tâm thiền gầy dựng Ðạo cao,
Phấn tâm đáng mặt yên hào,
Quyết tình nhứt đức Nam-Tào chiếu phê.
Cơn sóng gió đề huề nong nã,
Lướt băng ngàn chớ khá lơi tâm,
Nguyện lòng tìm thuốc cao thâm,
Cứu nguy sanh chúng khỏi lầm khổ go.
Lựa dịp may khá dò xét cạn,
Khá biện phân mà hản cơ Trời,
Nếu lòng quyết chí chiều mơi,
Việc chi không rõ nhớ lời già khuyên.
Xem thế cuộc gây phiền chác oán,
Dòm chúng sanh thê thảm nhiều điều,
Vì chưng xác tục trớ trêu,
Thân hình tiều tụy khó chìu đường Tiên.
Một phương pháp chỉ truyền vạn loại,
Ấy trau tâm phải trái chớ nê,
Gìn lòng bác-ái tràn trề,
Tình thương chan chứa một bề đởm đương.
Lần sẽ đạt rõ đường yếu nhiệm,
Lần rõ thông phải kiếm lý sâu,
Thoát qua cơn khổ giải dầu,
Khỏi lòng nghi kỵ đâu đâu mới là.
Thiên cơ ẩn sâu xa vi diệu,
Biết bao chừng thấu hiểu huyền thâm,
Tự lòng kẻ hiếu tu tầm,
Thì ra manh mối như rằm trăng thanh.
Ngoảnh sự thế ai đành ngơ mắt,
Bởi vậy nên dẫn dắt lầm sai,
Làm cho mê mẫn miệt mài,
Làm cho linh tánh khó quày đường minh.
Dùng vật chất hữu tình cơ chuẩn,
Dùng mưu mô đi đứng quên nghề,
Bởi nên cơ đạo khó xuê,
Vì lòng ám muội chỉnh ghê cuộc đời.
Nay Lão khuyên một lời cùng cuối,
Khá quan tâm đeo đuổi vững vàng,
Lý chơn khá vẹt rõ ràng,
Ðem ra thi thố cứu an vạn loài.
Vậy mới xứng anh tài cõi Việt,
Mới gọi rằng thấu triệt quán thâm,
Vững tâm cuộc thế cơ cầm,
Gặp cơn xáo lộn cứ tầm Ðạo chơn.
Miễn là được cứu tồn bá tánh,
Miễn giúp đời cứu cánh tròn xong,
Làm cho chung giống Lạc-Hồng,
Phỉ nguyền ao ước đại-đồng lý chơn.
Ðạo Thầy vốn như đờn ngâm khúc,
Ðạo Thầy Trời trong đục cũng tường,
Ðạo soi đèn Thánh cho tường,
Ðạo Thầy cứu cánh tai ương thế nào.
Ðạo là Ðạo anh hào nể mặt,
Ðạo hùng cường xã tắc cọng hòa,
Ðạo là cơ thể Tiên gia,
Ðạo là một mực điều hòa chánh chơn.
Ðạo Thầy vốn keo sơn gắn chặt,
Ðạo Thầy nguyền dẫn dắt thần tinh,
Ðạo Thầy như bóng với hình,
Ðạo cao vi diệu thâm tình qui nguyên.
Ðạo Thầy cứu cửu-huyền thất-tổ,
Ðạo Thầy không lựa chỗ nào đâu,
Ðạo là Tạo-Hóa một bầu,
Ðạo Thầy tận tụy tóm thâu đại-đồng.
Hễ biết Ðạo thong dong thơ thái,
Hễ rõ mùi thì phải bươn mau,
Lẹ chơn cứu vớt đồng bào,
Trí tri cách vật anh hào mới nên.
Ðường ngàn dậm tâm bền chí cả,
Ðường quan san mới thỏa lòng vàng,
Ngựa hay đường vắn đâu tàng,
Ðường xa mới đặng rõ vàng hay thau.
Ðường thiên-lý ai nào thấu đặng,
Mối cơ quan khó hản trí cơ,
Tạo công khéo sắp cuộc cờ,
Làm cho sanh chúng phải ngơ ngẩn lòng.
Một phương thuốc đại-đồng chánh lý,
Từ từ lần dỉ chí kỳ cùng,
Ðởm đương phấn đấu nên gương,
Mới mong ngôi vị Thiên-Ðường tạc tên.
Các hiền đồ sức bền theo dõi,
Lòng nương lèo chớ mỏi gió tây,
Rán chèo theo nước không lay,
Một tình chí dốc há nài lao tâm.
Thầy NGỌC-ÐẾ cao thâm nguyên thủy,
Vén màn loan sắc chỉ Quần-Tiên,
Ca ngâm vịnh phú Ðạo truyền,
Cờ Tiên rượu Thánh hội miền Bồng-Lai.
Thầy chỉ chút thiên oai cho trẻ,
Khá lưu tâm Thầy hé từ lần,
Cho trò nhuần gội hồng ân,
Cho trò phát triển tinh thần quang minh.
THI:
Minh tâm kiến tánh rõ cơ Trời,
Lưu loát cao hùng rán chí ôi!
Quảy túi Càn-Khôn cho xứng phận,
Mang bầu nhựt nguyệt há rằng chơi,
Vẹt đường mờ mịt dìu sanh chúng,
Phá lối mê tân cứu nạn đời,
Thạch động thanh nhàn vui lý Ðạo,
Non Tiên tửu hứng buổi hôm mơi.
HỰU:
Dời non đổi bể khó chi mà,
Cũng bởi các trò chẳng tính xa,
Chí dốc theo Thầy noi chánh giác,
Thành tâm học Ðạo đến Long-Hoa,
Diềm dà sơn thủy về Tiên cảnh,
Sung nẩm non sông tới Phật đà,
Cội phúc vun trồng cho đặng phúc,
Hoa tươi phân bón mới nên hoa.
HỰU:
Hoa tàn cúc rụi chớ say mùi,
Lẩn thẩn bên tay dạ ngậm ngùi,
Chia đắng chia cay tình đạo đức,
Sớt phiền sớt não nghĩa chung vui,
Tinh thần nung nấu ngôi Tiên đến,
Xác thịt điểm tô nẽo tục hồi,
Ao ước phỉ tình lo gánh vác,
Tu hành cho đặng chớ phanh phui.
Cuộc đời thế thái chen lấn nhộn nhàng, mạnh hiếp yếu, sang hiếp hèn, bốn bể tranh hùng, năm châu chiến địa, cùng vì miếng đỉnh chung mà lao tâm tiêu tứ, khổ xác nhọc hồn, quanh quẩn lôi cuốn trong vòng đau thương khổ lụy. Ôi! rất thương tâm cho đứa khờ ngây.
Thương thay cho linh căn của Thầy ban cấp, mà đành để cho nó phải chịu lu mờ, thì biết chừng nào mà phản bổn hườn nguyên qui hồi cựu vị. Khó chấn chỉnh lại cho được thuần phong mỹ tục. May thay Ðạo Trời hoằng hóa cứu vớt đám sanh linh, mượn Bát-Nhã thuyền vớt kẻ còn đang chơi vơi nơi khổ hải. Thiệt rất hữu phước thay! Ðương cơn tối tăm mê muội, thình lình có ngọn đuốc cứu tinh soi đường sáng tỏ, nhơn sanh trông thấy cái ánh huyền quang, thức giấc mê man, quày đầu theo con đường chơn giáo. Ðạo Trời phổ thông cũng ngoài mười thu có lẽ, Bần-Ðạo khuyên các hiền sĩ từ nay khá để hết tâm cho thấu đáo, chớ đừng lòng hoài nghi mà có điều thất vọng. Mỗi việc chi chi cũng phải nhớ danh Thầy, thì có cái năng lực tinh thần tiếp ứng.Hễ chư môn đồ chí tâm hành Ðạo, thì việc chi cũng đắc thành như nguyện, chớ đừng bán tín bán nghi, rồi lần lần ngôi Tiên Phật sẽ được gần kề, hầu vui hưởng cùng tình xưa bạn cũ. Ôi! có chi bằng hưởng một giờ trên cõi Tiên, dầu ngàn năm trần thế cũng khó sánh đặng. Thế thì ai lại dại gì mà đành đem linh hồn vùi lấp dưới trần mê bến khổ. Có một phương pháp rất hay là rán tìm tòi mục đích tối cao, thoát khỏi vòng tương đối, nghĩa là dẫn dắt quần sanh cho biết đường chánh giác, đem con người cho khỏi bị mối thương tâm thảm mục, thù hềm, ganh gổ, buồn vui, được thoát qua con đường cứu cánh, cõi thanh tịnh vô vi là Ðạo vậy.
THI:
Vô vi Ðại-Ðạo lý cơ huyền,
Chơn lý rải gieo hội bổn nguyên,
Tìm tõi Ðạo vàng cho thấu đáo,
Kiếm tầm đời thảm cứu nhân nguyên,
Hỡi ai mở mắt tâm thanh tịnh,
Bớ kẻ biết khôn giữ thệ nguyền,
Chánh kỷ rồi đưa người lạc lối,
Hóa nhơn một mực ngộ kỳ truyền.�����
Ta ban ơn chư hiền.
THI:
Người đời chưa rõ chánh tâm tu,
Cũng bởi chẳng lo vẹt ngút mù,
Sa đắm hồng trần danh với lợi,
Trông mong cõi Ðạo phép công phu,
Quên vì phận sự người quân tử,
Nhớ lúc thành thân kẻ trượng phu,
Kể lể mọi điều mong kết quả,
Nên còn lận đận chốn diêm phù.
PHÚ:
Cuộc thế khổ nhắm xem nhơn tình càng nhao nhố.
Cơ Ðạo truyền khá chuyên cần sớm lo rổi độ khách trần ai.
Biết đời tàn lo ẩn thân dưới bóng mát Ðạo Cao-Ðài.
Thì phải biết mối Ðại-Ðạo hoằng khai cứu nạn tai cho thế sự.
Hành Thiên Ðạo rán phấn tâm mà cư xử.
Gìn cơ mầu phải toan ưu nơi trí lự với tinh thần.
Làm sao cho đắc lịnh cứu thần dân.
Ðừng mơ tưởng những sự diệu thần rồi phải chịu xa thân nơi cửa Ðạo.
Thiên lý dục hòa minh, sáng soi cuộc đời máy huyền thâm hằng hoài bảo.
Nhơn tâm chỉ hiểu hẹp, trong khuôn Trời chẳng biết cùng chung thỉ, khi mong chẳng thành rồi đành bỏ Ðạo ra một bên.
Bớ kẻ chí tu trước muốn bước đường xa thiên lý thì phải gắn chí cho bền.
Nầy người mộ Ðạo khi thức lòng tường chơn lý thì phải giữ bền nơi tâm ái Ðạo.
Lắm kẻ mê man trong vòng giả tướng rồi cho là tinh thần mộng ảo.
Chớ đâu có tường hữu duyên thì thấu đáo đặng cơ Trời.
Bởi dục tâm nên rày đây mai đó luống kiếm sự đổi dời.
Không định trí hầu yên nơi nào cả thảy.
Làm như vậy nên ngoài đời cho kẻ tu là lủ dại.
Nên mối chơn truyền đã sái biệt từ lâu.
Nầy chúng sanh phải rán chí lo âu.
Bền đạo đức dầu cho ngộ đến cảnh than sầu cũng đừng phai tấc dạ.
Tu thì phong trần phải dẹp còn chơn tâm như đá.
Học Ðạo Trời phải nhớ lời thiết hóa với nguyền xưa.
Nếu đắc công thì chiếm bản thượng-thừa.
Mới yên tịnh như Lão hồi xưa kia đặng.
Bườm gặp gió rán trương lèo một đường hầu dặm thẳng.
Chớ nên mong những điều cay đắng của trần gian.
Biết lý chơn tu tâm học lấy lời Thánh ngọc với tiếng khuyên vàng.
Sao cho cạn với mấy hàng là rõ Ðạo.
THI:
Ðạo chánh lòng tu phải tập tành,
Tinh hoa cảm động thế nhơn sanh,
Dục tâm sái phép huyền vi chiếu,
Hành Ðạo phải cần tịnh với thanh.
Chư hiền đồ thành tâm tiếp giá THÔNG-THIÊN GIÁO-CHỦ. Ta ban ơn chư hiền.
(Tiếp điển)
THI:
THÔNG truyền tôn-giáo buổi đời nguy,
THIÊN Ðạo hiểu thông khá biện thì,
GIÁO lý tương truyền câu bác ái,
CHỦ quyền giữ trọn đắc tinh vi.
Bần-Ðạo mừng chư hiền sĩ.
THI:
Tiên truyền đạo mạch lý huyền thâm,
Bát-Nhã đưa qua cố sức tầm,
Vùi lấp lý chơn ai thấu đặng,
Tâm hồn tu học đắc siêu thăng,
Ðạo mầu rải khắp cùng Âu Á,
Ðời biến nạn tai ứa lụy dầm,
Công lý quan tâm phân biện bạch,
Tình đồng đạo chánh cứu nguy lầm.
THI:
Lầm than khổ não bởi mê trần,
Linh tánh lộn quanh chốn đảnh tần,
Núi Ngự sông Hương tìm chánh đạo,
Non xanh nước bích thủy khê vân,
Ðạo mầu thâm diệu ai mau tỉnh,
Ðời mảng lấn chen cuộc nợ nần,
Chiêu mộ hiền tài lừa lọc lấy,
Noi gương Mạnh-Tử giữ thanh bần.
HỰU:
Bần thanh mới biết nợ quân vương,
Lý chánh tầm tu vẹt rõ đường,
Thân phận rán bươn cho kịp bạn,
Linh căn trau sửa thoát tai ương,
Chung đồng tất cả càng thêm quí,
Chia rẻ mà chi phải đoạn trường,
Vạn vật tương đồng chung cọng hưởng,
Hòa bình thế giới chốn khoa trường.
BÀI:
Khoa trường đoạt máy cơ Trời,
Chọn người chí sĩ một lời lướt qua.
Vì nhơn chúng ái hà mê mệt,
Thấy nhơn tâm mài miệt lý quyền,
Tạo thành nhơn quả trái duyên,
Làm cho tiêu tứ linh nguyên của Trời.
Thế cuộc ngắm chiều mơi chua thảm,
Bởi vì chưng ác cảm trùng trùng,
Bao quanh xác tục khó dùng,
Làm cho linh tánh thung dung được nào.
Ðừng ỷ lại đài cao quá lắm,
Ðừng cậy quyền mà đắm có ngày,
Khá nên cải chế cân đai,
Chớ nên hơ hỏng thần oai không vì.
Mối Thiên cơ khá suy thấu hản,
Lẽ siêu hình rạnh bản sắc son,
Nếu lòng chẳng đặng vẹn tròn,
Nào lòng nghi kỵ khó bòn âm công.
Khuyên trẻ hãy để lòng son sắc,
Khá quan tâm dè dặt cho cần,
Thực hành cơ Ðạo cao thâm,
Chìu lòng qua buổi mới tầm cội nhân.
Quá ỷ lại cơ Thần Tiên Thánh,
Mỗi việc chi cứu cánh thoát nàn,
Nhưng lòng còn lắm tân toan,
Làm cho mất điểm linh quang lưu truyền.
Mối cao thâm như nguyền bổn thủ,
Máy chuyển luân ai chủ đặng nào,
Duy mình có một Trời cao,
Chủ quyền vạn loại chiếu hào linh nguyên.
Xem sanh chúng cứ chuyên một phía,
Dòm nhơn tâm thắm thía đau lòng,
Ưu phiền não dạ sầu đông,
Thảm cay trí não mong lòng thành Tiên.
Luật qui điều rạnh biên có bản,
Các giáo chi đâu hản đặng nào,
Xem tường cơ Ðạo thấp cao,
Chưa người phân đoán đồng bào hiệp tâm.
Vì ái chủng cao thâm nhuận rưới,
Giọt cam-lồ đã tưới hiện thời,
Hiển nhiên trước mặt trò ôi,
Rán tìm ra mối cho đời khỏi mê.
Thân giúp đời chớ nề cực nhọc,
Thân liều thân ái quốc đởm đương,
Quyết tâm xem nỗi đoạn trường,
Huyết lưu chan chứa thảm thương bấy chừ.
Cả hoàn cầu khó trừ tai nạn,
Bởi vì là chưa hản phù vân,
Như điều quyền tước tiền nhân,
Kể chi linh tánh tinh thần chi đâu.
Miễn thỏa vọng mặc dầu ai khổ,
Miễn ấm thân có chỗ hưởng nhàn,
Ðau lòng quốc túy giang san,
Tấm lòng sôi nổi dẫy tràn rơi châu.
Dòng thủy triều vọng cầu tha thiết,
Nợ non sông ai biết cơ thâm,
Khiến chi các trẻ lạc lầm,
Chịu cơn đau thảm khó tầm đường Tiên.
Ðạo chỉ mối cơ huyền yếu lý,
Lẽ nhiệm mầu chánh kỷ làm gương,
Vẹn xong lãnh hội chiêu chương,
Thông thường cơ đạo chung đường nương nhau.
Cũng chủng loại đồng bào máu thịt,
Cũng linh quang mục đích tinh thần,
Giao thông hấp thụ chơn thần,
Tách ra mỗi đứa một phần linh quang.
Xuống phàm gian học làm âm chất,
Hiểu luật điều các vật trần ai,
Mới mong thoát khỏi diêm đài,
Mới mong lên chốn Thiên-Thai hưởng nhàn.
Nhìn thế thái chưa tàng chơn giả,
Mỗi điều chi thì khá tưởng Thầy,
Vẹt đường cho hết mù mây,
Sáng trong tỏ rõ hiệp vầy đạo tâm.
Mối huyền bí thừa khâm lịnh sắc,
Do máy Trời sắp đặt huyền cơ,
Tương đồng gió phất như cờ,
Lý chơn tối trọng bơ thờ sao nên.
Hễ biết Ðạo phải bền gắn chí,
Hiểu cơ quan chung thỉ một tình,
Trau giồi linh tánh quang minh,
Mới là hiểu được Ðạo Huỳnh Trời ban.
Khá hết dạ chiêu đàng nhơn ái,
Lý cao thâm quảng đại lương từ,
Có tâm chánh giáo khắc khư,
Mới là đạt máy Thiên cơ ban truyền.
THI:
Truyền ban lịnh pháp đắc như nguyên,
Ðạo cả sưu tầm đến cảnh Tiên,
Thạch động líu lo hồng nhạn gáy,
Non thần réo rắt giọng ve quyên,
Ðạo đồng chung sức nào chia rẻ,
Hiệp tác nghiêng vai đắc sở nguyền,
Cội đức sớm trồng cho nhuận sắc,
Khoe màu rực rỡ động Ðào-Nguyên.
* * *
Bần-Ðạo nhắm cơ đời thay đổi, cũng tùy theo nhơn tâm mà luân chuyển xây vần. Nhưng con người cứ còn tánh quá mê nên ỷ lại làm cho mất cái chí tiến thủ, thì còn chi là sinh thú nữa đặng.
Bất cứ việc chi cũng cậy nơi thần quyền, mà chẳng biết tự chủ nơi lương tâm, vì vậy nên phải còn sai lầm lạc lối. Chẳng biết biện phân suy tầm nghiên cứu cho thấu hiểu mọi lẽ thiệt hư, phân điều tà chánh.�����
Lại có cái chí cương quyết rằng:
Cái huyền diệu thiên cơ là cần thiết cho người đời nên cứ ỷ lại mà chẳng lo tu tâm dưỡng tánh. Theo lẽ chơn thật, phải tự mình lo liệu lấy, hành động lấy rồi Trời Phật mới ban cho, mình phải tìm cái mục đích nhứt định thì mới giải thoát ra ngoài vòng tương đối.
Ðó là cái lý tuyệt đích vậy.
Bần-đạo thấy có phần đông quá ỷ lại oai thần, mà dòm lại chẳng thật hành theo chuẩn thằng chánh pháp. Như ba chữ cũ kỷ là Công-Bình, Bác-Ái, Từ-Bi, nào có ai thiệt hành cho trọn đặng.
Cứ những tưởng là thành Tiên, tác Phật trong nháy mắt. Nào dè đâu đó là một lớp vỏ huyễn tưởng mà thôi. Hễ có xảy ra việc chi thì cứ câu chấp hẹp hòi, ích kỷ, sân nộ.
Mấy lớp vỏ ấy nó bao phủ đầy bít điểm linh tánh làm cho phải chịu phản ảnh lờ lu.
Ðó là tự nơi trò gây tạo, chớ nào phải tại nơi Thần Tiên chi!
THI:
Lu lờ linh tánh tự nơi mình,
Than trách mà chi việc thế tình,
Bác-ái, công-bình noi chánh pháp,
Từ-bi giác ngộ rõ thâm tình,
Giáo trường thi hội Long-Hoa cạn,
Ðạt máy Thiên-cơ rõ Ðạo Huỳnh,
Cửa Phật chen vào lòng nhứt định,
Ðường Tiên chung trí hội huỳnh minh.
Chư hiền thành tâm cầu HỒNG-QUÂN LÃO-TỔ. Ta ban ơn chư hiền.
(Tiếp điển)
THI:
HỒNG điệp cõi đời có mấy lâu,
QUÂN thần toan đoạt kế mưu sâu,
LÃO vi thiện đức truyền chơn lý,
TỔ hóa từ-bi độ nạn sầu.
THI:
Nạn sầu cuộc thế đến nay mai,
Vưng chiếu Phật Tiên hội Ngọc-Ðài,
Giảng Ðạo truyền Kinh dìu thế khổ,
Thuyết minh giáo lý cứu đời sai,
Biển mê thoát đặng người hưng chấn,
Khổ ái lần qua khách thiện tài,
Ðạo lý một đường khuyên vạn loại,
Kiếp tu mau lánh nợ trần ai.
BÀI:
Trần ai luống những miệt mài,
Giải dây oan nghiệt ra ngoài kiền-khôn.
Trăm năm danh tiếng vĩnh tồn,
Vạn bang gội đức nhuận hồn tinh vi.
Thương cuộc thế khuynh nguy hôm sớm,
Cảm người tu chưa đởm thanh tân,
Cậy riêng nơi Phật Tiên Thần,
Hành theo giáo lý mấy lần đơn sai.
Thoát trần ai,
Lánh thân ngoài,
Nỗi đắng cay,
Cay go chim cá chậu lồng,
Ðớn đau khó thoát ra vòng đớn đau.
Gặp mối Ðạo khá trau sửa lỗi,
Ngộ chơn truyền tự hối ăn năn,
Máy linh chẳng vẹn trang bằng,
Chẳng suy cho hiểu thiên nhan chứng lòng.
Khó mà mong,
Thoát khỏi vòng,
Phận long đong,
Long đong giữa biển ái hà,
Nỗi thương việc nước, nỗi tha việc mình.
Tập bản ngã gọi linh riêng phận,
Bày tư tâm lại thẩn thơ lòng,
Làm cho chia bá rẻ tòng,
Ðệ huynh cách mặt xa lòng đớn đau.
Biết làm sao?
Giữa phong trào,
Ðạo đức trau,
Trau gương hôm sớm tập tành,
Sửa sao lý đạo lo hành chánh chơn.
Ðừng mê tín như đờn lạc nhạn,
Mà khiến tâm xao lãng chẳng thành,
Trong vòng khổ não tu hành,
Cậy gươm thần huệ đoạn đành trái oan.
Cuộc đời tàn,
Lòng đã an,
Ðạo đức toàn,
Toàn cầu đạo đức ngàn thu,
Biết trong cảnh thế diêm phù chẳng chi.
Tự hiểu đặng trí tri sửa tánh,
Noi thiên cơ mới lánh tà quyền,
Máy linh Trời Phật mới truyền,
Biết trong luật ẩn cơ huyền cảnh Tiên.
Vậy mới yên,
Ðặng qui nguyên,
Xuống chung thuyền,
Thuyền từ Ðông-Ðộ chèo sang,
Rước người ngán cuộc dinh hoàn lo tu.
Nghĩa đạo cả ngàn thu tạc để,
Câu thiên ân hữu thệ hoàn thành,
Chẳng vì ép bức tu hành,
Không quyền không lợi không danh mới mầu.
Lý Ðạo sâu,
Cuộc bể dâu,
Ðời phải âu,
Âu lo tế độ quần sanh,
Thân người hướng đạo nhiệt thành mới nên.
Ðừng cậy thế ngồi trên vạn loại,
Chớ thi hành những kế vô lương,
Dục tâm muôn việc đặng tường,
Mới tu mà muốn đến đường thành Tiên.
Chẳng đặng thuyền,
Bởi trái duyên,
Rồi ngữa nghiêng,
Ngữa nghiêng thân lở tấn thành,
Thối tâm bước trái ngoài vành đạo tâm.
Ôi như thế lạc lầm biết mấy,
Người chí tu xem lấy ghi lòng,
Ðừng mê mệt cõi trần hồng,
Phận tha thiết nỗi chưa xong bên nào.
Phải biết trau,
Tánh tình cao,
Giữ một màu,
Màu thiền hôm sớm gìn tâm,
Dầu khi nạn khổ chẳng cầm mà say.
Vầng nhựt nguyệt đêm ngày soi tỏ,
Rủi mây giăng rồi gió cũng tan,
Ðường xưa đạo đức vững vàng,
Nghĩa ân tế độ thân an lo đời.
Khổ chớ lơi,
Nhọc đừng rời,
Bớ trò ôi!
Trò ôi lãnh mạng độ đời,
Gặp khi nghiêng ngữa nhắm thời mà đi.
Dầu biển cạn lòng ghi đừng cạn,
Dẫu non mòn chớ lãng tâm mòn,
Thế gian mấy kẻ lo tròn,
Gặp cơn khổ nạn chẳng còn đức tin.
Chẳng tận tình,
Không giữ gìn,
Còn vô minh,
Vô minh nên ngóng tin mầu,
Thử thăm mối Ðạo cạn sâu cho tường.
Ðặng lợi dụng con đường Tiên Phật,
Nhồi người mê vào chất bến mê,
Nghe tin bước kịp hầu kề,
Nghe người bàn thối thì mê theo người.
Thấy mà cười,
Ngắm hổ ngươi,
Thảm cho lòng,
Người tu lấy miệng qua ngày,
Ðề danh Ðại-Ðạo Cao-Ðài trước kia.
Ðể cho thế làm bia tụng niệm,
Rồi mặc ta đi kiếm lợi quyền,
Cậy thần cơ gọi linh thiêng,
Ðem tâm giả đạo mà truyền người mê.
Thấy thảm thê,
Khó trăm bề,
Cứu đời mê,
Mê man giấc điệp giữa trần,
Biết đâu thuyền bách đò thần mà đi.
Người lở vận lâm nguy khổ nạn,
Kẻ thảm sầu mới hản máy linh,
Nương theo bóng ngóng theo hình,
Người xa trăm vạn thì mình cũng xa.
Thiệt thiết tha,
Biển ái hà,
Khó mà qua,
Qua đò linh bửu về tây,
Mặc đời mê muội thế gây nạn sầu.
Biết phận sự dãi dầu chớ nệ,
Rõ linh căn chớ để lạc lầm,
Bớ người mối Ðạo tay cầm,
Dầu xa xuôi mấy cũng tầm mới nên.
Ấy đứng trên,
Ðể đắp nền,
Nhớ đừng quên,
Ðừng quên thiên mạng khổ thân,
Dầu khi buôn tảo bán tần cũng tu.
THI:
Tu đức khuyên ai giữ một lòng,
Nhọc nhằn chi cũng rán cho xong,
Tiên tri tâm sự không ly một,
Ðạo đức từ nay khá để lòng.
Ban ơn chư hiền đồ, có THÍCH-CA ngự.
9.- CON ÐƯỜNG TRUNG-ÐẠO
__________
THI:
THÍCH lý đạo trung giữa cuộc sầu,
CA ngâm bửu kệ cứu tang dâu,
NHƯ ngôn Phật lý huyền thâm học,
LAI ngộ đài sen đắc nhiệm mầu.�����
Mừng chư hiền đồ.
THI:
Cảnh thế hà phương giải thoát ngoài,
Cuộc cờ trăm đắng với ngàn cay,
Bửu linh pháp Phật huyền thâm học,
Cực-Lạc ngôi xưa đặng trở hài,
Chẳng nệ sáu thu ngồi tịnh tọa,
Vì thương ba cõi vẫn còn sai,
Con đường TRUNG-ÐẠO ghi vào dạ,
Hành thiện đắc công hưởng có ngày.
* * *
Bớ chúng sanh, chúng sanh nghe ta giải CON ÐƯỜNG TRUNG-ÐẠO mà học hành hầu giải thoát cho khỏi nơi sông mê bể khổ nầy.
Cuộc đời dời đổi, cơ Ðạo biến màu, người sanh trong cõi thảm trạng, linh đinh khổ sở. Luật tuần hườn chuyển thế, đạo quả báo xây tròn. Ðặng thân phàm sanh giữa cảnh đời khác chi thuyền lửng đửng giữa dòng sóng lượn. Cũng bởi tại tâm trần vương vấn mà khiến nên nghiệt chướng đeo hoài. Bởi vì đời sa đắm mê say, chẳng hiểu sự trần ai là bể khổ.
Trải qua một thời kỳ lao tâm tiêu tứ, thảm trạng khổ sầu, thức khuya dậy sớm, cạnh tranh hơn thiệt, buôn quan bán phận, lợi lộc quyền hành, đã tàn một kiếp thân sanh rồi phải cam đành ngàn thu di hận.
Than ôi! muốn cho đoạt đặng phần thanh cao của thế, nên cả đời đành để tâm lo, rồi cuộc bể dâu đổi dạng, tranh vân cẩu thay hình, thì ô hô một kiếp phù sanh đành gởi thân cho cây cỏ.
Vậy có phải đời là nơi biển khổ đó chăng? Sanh là khổ, Tử là khổ, Bịnh là khổ, Lão cũng khổ, gần người ghét cũng khổ, xa người thương cũng khổ, muốn mà chẳng đặng cũng khổ, đặng mà chẳng vừa cũng là khổ!
Ôi! Khổ khổ khổ... Muôn hình vạn trạng sự khổ, ấy cũng vì chúng sanh cứ nung nấu sự khổ mà ra. Ðường đời thảm liệt, tấm thân phàm tha thiết, giữa cuộc nhiệt huyết sóng trần, mảng mài miệt tấm thân mà quên mình chen vào nơi thảm trạng.
Người trần ai đâu tường những chuyện giả trá của giác quan gạt gẩm, nên đánh giá những cái danh hảo, lợi huyền là cao sang tốt đẹp, biết đâu sự rủi may đặng thất trong cảnh chẳng thật kia. Lại còn một con đường cao siêu thoát hóa, giải họa trầm luân, mà thế gian chưa hề biết đến đặng, cũng bởi tại vật chất bao quanh, cơ đồ biến đổi, ngày qua tháng lụn, vẫn để tâm chuyên chú vào cõi đời hạnh phúc, mà chẳng biết rằng nhiều công nhọc xác đến chừng nào thì lại gặp cái cảnh ngộ khắc khe đến chừng nấy.
Thế mà bao nhiêu năm đớn đau với phận sự, lo cho tiền, của, vinh, sang, lầu cao, các rộng, chỉ làm cho vừa với lòng ham muốn, chớ có biết đâu thân giả tạm phải đành vùi lấp nơi bụi cát kia rồi, mà nhọc lắm thì cũng chẳng chi, vì buồn thảm phải nhiều hơn vui thú. Ðể bước đến cảnh Thiền thì chán đời mê mộng, lừa lọc kiếp tu hành, rồi cũng vì khổ lụy với lợi danh mà phải cam đành lột đạo-y, quăng dép cỏ. Cũng vì cái lòng dục vọng bày trò, trí tham nhàn kiếm kế. Ôi! thất thủ cũng hườn ra thất thủ!
Giữa cõi trần ai rồi cũng vướng nợ trần ai, thế mà biết làm sao cho vẹn, có một phần khi xả thân cầu Ðạo thì chí quyết làm cho đặng ông Phật ông Tiên, cứ những vọng tưởng cái lý ấy hoài, mà phải đơn sai trong con đường đạo đức.
Than ôi! từ Tam-Kỳ khai sáng nẽo Ðạo, Trời đã dành mười một thu đăng đẳng, mà mấy mặt đắc đạo, mấy người tu hành, hay là những mảng giựt giành quyền kia thế nọ.
Ôi! đời quá dữ, tội tình quá dữ. Lòng từ-bi bác-ái vô lượng vô biên của Phật mà đem chan tưới cho tắt những ngọn lửa dục tâm, phá tan cái thành kiến ích kỷ kia bấy lâu đã vô hiệu quả! Thương thay! thảm thay! đến thời kỳ nầy ÐỨC CHÍ-TÔN hội Quần-Tiên khai KINH THÁNH-ÐỨC giáo hóa chúng sanh cho biết hồi đầu thị ngạn, mà biết đâu ngày sau nầy cuộc thế sẽ ra sao?
Con đường đạo đức của ta đem mà chỉ rành dạy rõ cho chúng sanh đây là ta mong cho chúng sanh mau hồi tỉnh giấc điệp huỳnh-lương, đặng thức biết cuộc đời là khổ, biết đời khổ rồi phải biết tìm phương diệt khổ mới siêu thoát khỏi chốn trầm luân.
Nầy chúng sanh! Cái bánh xe đương lăn, đương cán người kia, ai biểu chúng sanh đem mình vào cho nó cán, mà gọi rằng đau đớn khổ sầu? Máy luân hồi quả báo cũng vậy. Nếu chúng sanh biết Ðạo, lấy sự tu mà trả quả rồi lần lượt hết quả thì bước trái ra mà đi thẳng tới cõi Niết-Bàn. Nó có tài tình chi hầu theo ngăn đường đón ngỏ chúng sanh cho được?
Than ôi! cũng tại chúng sanh còn mê mùi thế tục chẳng thức tỉnh tâm hồn. Bởi dốt nát không biết cuộc đời là sao và người đời ra thể nào, cứ nhắm mắt đánh liều theo trò thế sự, thì bảo sao chẳng khổ cho thân tâm. Hai lẽ của ta giải rành trên kia là thái quá và bất cập.
Nay ta đem cái Ðạo TRUNG mà dạy cho chúng sanh đặng biết nẽo tu hành, biết đường thoát tục. Nếu chúng sanh xét cho hiểu đặng rõ ràng mà ghi tạc vào tâm linh để trau giồi cách ăn thói ở, thì ta rất vui mà đặng thấy chúng sanh siêu thoát ngoài vòng. Dầu hồi ta còn mang xác hồng trần ta cũng hằng dạy chúng sanh phải biết giữ cái đạo tu hành cho quang minh sáng suốt, đừng dung dưỡng lấy cái lòng ích kỷ mà bị cái nạn tối tăm rồi nó sẽ đem vào ngục tối. Cả chúng sanh phải sáng biết mà tu tạo lấy phước đức thanh nhàn. Dầu ta có thương thì chỉ đường chớ không thế nào ta bồng ẩm chúng sanh lên cõi thiêng liêng cho đặng. Tự mình làm rồi Trời sẽ giúp (Aide-toi le ciel t'aidera).
Vậy một điều cần yếu mong cho đời giải thoát lấy thân.
Ta mà giáng cơ đến thời kỳ nầy là vì chúng sanh còn mơ màng trên nẽo Ðạo, chưa hết dạ thật hành. Mấy lời cần yếu của ta ghi vào Thánh-Ðức đây để nhắn nhủ chúng sanh mau bước đến nẽo tột thiện thì sẽ gặp ta chỉ bảo.
THI BÀI:
Con đường thoát khổ tỏ bày,
Bớ người trong cảnh trần ai hiểu lòng.
Vì dốt nát khó mong biết đặng,
Bởi dục tâm nên chẳng bền công,
Mê man trong cuộc bụi hồng,
Ðắm sa danh lợi não nồng căn tu.
Biết lánh khổ ngàn thu nhàn lạc,
Biết nguồn Tiên mau giác nẽo đời,
Biết mình còn chịu lưng vơi,
Thì tua nhớ kỷ Phật Trời dạy khuyên.
Bỏ ích kỷ lo truyền chánh giác,
Dẹp tư tâm mới đạt huyền linh,
Thân người cũng tỷ thân mình,
Dầu cho điểu thú cũng tình cũng thương.
Nương được đời xây vần tấn hóa,
Phải nhờ nhau khỏi họa trầm luân,
Biết rằng đạo lý vui mừng,
Ðộ đời lựa thế chớ đừng lãng xao.
Biết thế khổ tâm cao diệt khổ,
Bỏ lòng tham còn chỗ khổ nào,
Không danh, không lợi, không giàu,
Không gây quả báo, không trau nghiệp sầu.
Thì thử hỏi còn đâu là khổ,
Bởi người chưa trí độ quang minh,
Hoặc là biết đặng Ðạo huỳnh,
Mà còn dung dưỡng tánh tình phàm phu.
Nên cửa Ðạo đường tu còn khổ,
Rán gia tâm lánh chỗ đoạn trường,
Dạy không hành, thiệt hết thương,
Bớ đời mau thức lên đường kẻo trưa.
Lòng cho chánh không vừa thân thích,
Hằng treo gương hữu ích cho đời,
Chí tâm hôm sớm tài bồi,
Cho cao trí tưởng cho rồi tâm tu.
Trí tư tưởng cọng phù ngay chánh,
Ðừng cậy quyền hay mạnh hiếp người,
Giữ lòng tư tưởng vui tươi,
Công-bình chẳng vị những người thân nhơn.
Làm ăn phải keo sơn ngay thật,
Chớ nên làm sơ thất lý chơn,
Tự tâm xử lấy tội nhơn,
Xét trong lý tưởng đặng hườn quả công.
Ngày chí tối tạc lòng ngay thẳng,
Chẳng nên buồn mà chẳng nên lo,
Mặc trong thế sự diễn trò,
Biết mình xử trí sao cho đặng thành.
Nguyền một lý chúng sanh lướt sóng,
Phá mê đồ cho chóng mới hay,
Thiếu chi những bực thiện tài,
Gặp cơn nguy biến ra tài giải vây.
Lòng từ thiện dẫn bày trẻ dại,
Lòng xót thương quảng đại khoan hồng,
Ðời cùng nhơn vật đạo đồng,�����
Cùng chung một chuyến thuyền rồng đưa chơn.
Tình cương quyết giọng đờn réo rắt,
Giọng thanh tao sẽ đạt chơn truyền,
Vẹt màn hắc ám keo sơn,
Rõ câu nhơn nguyện linh hồn phát minh.
Ðêm canh vắng Huỳnh-Ðình tụng niệm,
Rõ mùi hương rán kiếm Ðạo mầu,
Thoát vòng thế sự tang dâu,
Chuyển linh đêm mộng giải dầu líu-lo.
Nhìn cảnh tượng ơ-hờ chán nản,
Thực hiện rồi mới hản Ðạo thâm,
Máy linh xây chuyển đêm rằm,
Trăng thanh gió mát cơ cầm chen mây.
Vầng ô lặn tưởng Thầy cầm mối,
Thế giái đồng chớ đổi tâm thành,
Giữ theo một mực thi hành,
Nối cơ quan hiện tác thành Kiền-Khôn.
Mở Ðạo cả độ hồn sanh chúng,
Mở cửa Trời hiệp trúng nhơn tâm,
Huyền vi Thầy lộ từ lần,
Cho người tỉnh thức mau chơn bước vào.
Tình tu học có nào khó nhọc,
Bởi tại người không dốc thật hành,
Cho nên mối Ðạo chia phanh,
Tùy theo sanh hoạt mà hành đạo chơn.
Vì sanh chúng cưu hờn trước mắt,
Nạn biến thiên thắt ngặt cũng gần,
Ðộng lòng Từ-Phụ nương chân,
Giáng trần mở Ðạo cứu nhơn thoát nàn.
Vì chủng loại lầm than khốn khổ,
Tại vô minh trí độ nan phân,
Lắm lời nhiều nỗi phân vân,
Làm cho mối Ðạo nhiều lần chinh nghiêng.
Dùng phép nhiệm cơ huyền thức giấc,
Lúc huỳnh hôn vật chất lan tràn,
Tìm tòi manh mối rõ ràng,
Thiên cơ nhơn trí khá toàn thiệt hư.
Lòng ân đức đại từ mở rộng,
Ðộ chúng sanh nhứt thống phục hồi,
Lai-Bồng ca vịnh khúc nôi,
Thung dung tự toại mấy hồi đoàn viên.
THI:
Ðoàn viên hưởng hứng rất sâu xa,
Cửa Phật Thánh Tiên cũng hiệp hòa,
Giữ mối cơ quan lo tế chúng,
Gìn nguồn đạo mạch độ mê hà,
Xuôi bườm lướt gió băng ngàn dậm,
Quyết một tình thâm chỉnh Lạc-Già,
Chí dạ cần chuyên Kinh Kệ Sám,
Tâm tình un đúc Ðạo âu ca.
* * *
Âu ca đắc Ðạo lẽ thiên nhiên,
Bồ-Tát độ an giữ mối giềng,
Thánh-Ðức cứu nguy đời xáo lộn,
Chơn-Kinh tế độ Ðạo qui nguyên,
Tri cơ thức giấc tầm tu học,
Rõ máy huyền thâm bí diệu truyền,
Dở túi Càn-Khôn thâu chủng loại,
Trương thoàn từ ái độ nhơn nguyên.
* * *
Nhơn loại hiện thời bị ngọn sóng văn minh dồi dập đè nén cả tâm hồn, lôi cuốn vào vòng trụy lạc.
Phần nhiều nhơn sanh cho đời là bể khổ, chớ biết đặng mục đích của đời thì vốn là nơi trường học để cho các linh hồn học hỏi đặng tiến cho hợp với cơ Trời. Cũng tỷ như cái trường học, hễ học trò siêng năng giỏi dắn thì sẽ đậu cao, còn biếng nhác không lo thì cuối năm phải thi rớt, chớ nào phải tại cái nhà trường đâu. Ấy là tại mình.
Còn Ðạo cũng vậy. Hễ rán lo tu không gây quả ác thì được Bồng-Lai hưởng nhàn. Còn biếng nhác không lo tu tâm sửa tánh thì phải chịu cái cảnh khổ dập dồn, phải chịu tâm bợn nhơ. Nếu người đời không suy nghĩ, cứ đinh ninh cho đời rằng khổ. Ấy bởi tại mình còn mang những lớp vật dục, nên còn bị tối tăm mờ ám, cứ gây tạo mãi cái quả nghiệp mà không tự xét lấy mình, cứ trách rằng Trời sao quá cay nghiệt làm cho ta phải đổ lụy thương tâm.
Những cái đau khổ đó bởi chính tại nơi người đào tạo nơi tiền kiếp, rồi cái nghiệp quả ấy nó tạo ra cái cảnh, tức nhiên cái hoàn cảnh ấy nó phải trả lại cho người, đó là lẽ thiên nhiên đã định.
Vậy cái đau khổ ấy, mình đã thấu đáo cái nguồn gốc, cái nguyên thỉ của nó rồi, thì phải lo tìm phương pháp nào mà giải khổ. Có một phương pháp tuyệt đối là: hằng ngày người phải giữ cho trí não yên tịnh, tư tưởng thật thanh cao, chớ cho các tư tưởng xấu xông vào kích thích mà làm cho trí não bợn nhơ. Giữ gìn từ lời nói và cách hành động cho xứng hợp với cơ Trời, điều hòa cùng thiên lý. Dầu khi gặp cảnh ngộ tai nàn, hoặc làm cho đớn đau đến xác thịt thì cũng vui mừng vì được trả quả hiện thời và cảm đội ơn của các vị Nam-Tào Bắc-Ðẩu cho người được mau trả nợ (theo luật quả báo trên kia).
Tâm trí phải cho trong sạch, đừng cho một tư tưởng nào xông vào mà làm cho nhiễm cái tư tưởng thanh cao của người. Mỗi lời thốt ra thì phải hữu ích, dễ thương và hợp với chơn-lý, chớ lời nào mà không có ba điều ấy thì tốt hơn là làm thinh. Còn việc hành động cũng vậy, hễ làm việc chi hữu ích cho đời đúng với Thiên-lý thì mới nên làm. Dầu việc làm rất hữu ích cho mình mà phải làm cho nhơn sanh không vừa lòng thì chớ nên làm. Ðó là phương pháp thoát khổ.
Mà phải hằng ngày lựa dịp giúp cho đời, bất kỳ việc nhỏ hay lớn. Dầu cực nhọc xác thân cho mấy đi nữa, cũng vui lòng thi hành liền, chớ không buồn lòng nản dạ.
10.- CHƠN TRUYỀN ÐẠO GIÁO
__________
THI:
DI truyền chơn-giáo buổi tang thương,
LẠC đạo nhàn tâm kẻ biết đường,
TUYÊN bố mối giềng cùng chúng khổ,
QUANG minh chơn lý với tai ương,
PHẬT đà pháp nhiệm chưa ai rõ,
Giáng thế huyền vi mấy kẻ tường,
Ngọc điệp lưu ly trau quí giá,
Ðàn Tiên học tập lánh trần dương.
Mừng chư hiền sĩ.
THI:
Lộ máy huyền vi xuống cõi đời,
Chúng sanh mới rõ pháp truyền lời,
Học thông lý Ðạo gìn tâm thiện,
Phật Pháp cổ kim chẳng đổi dời.
Chư chúng sanh nghe:
Từ xưa đến nay trải bao cuộc tang thương biến đổi, cồn dâu hóa bể, thương hải tang điền. Mối Ðạo hoằng khai chuyển cơn hồ điệp, vì chúng sanh gần nơi thế tục, mê kiếp đọa đày làm điều tội lỗi, khiến nên mối Ðạo phải tùy thời mà truyền bá, đặng sửa trị lòng người cho trở nên Thánh-Ðức, thì những qui tắc luật điều Tôn-giáo cũng đồng nhau, dầu muôn Kinh ngàn điển thì cũng bài cửa dữ, dạy nơi lành, làm chủ lấy lương tâm cho đặng rồi mới có thể mà tiến lên mấy bước cao siêu. Ðó là cái chơn truyền cổ kim hằng hữu. Nhưng than ôi! Cuối hạ nguơn nhơn loại đổi dời, tâm người giả dối, khiến nên các chơn truyền trụy lạc, mối Ðạo cả phiêu lưu, kẻ thế gian cậy thế quên mình, người đạo đức giả tu cầu tiếng!
Bởi vậy mà máy huyền vi chẳng có, cơ tấn hóa vốn không, sự yếu trọng hơn hết là cõi lòng, mà con người còn lầm lạc, sân, si, hỉ, nộ, huống chi là việc lớn lao như siêu phàm nhập Thánh, có thế chi mà con người đặng đến cõi từ bi!
Ðời bây giờ người tu một cách khác hẳn với đời Thượng-Cổ. Tu mà văn minh quá thì cái đời tu ấy chẳng thành chi. Người đời tu là cầu làm sao cho cao chức lớn quyền, bắt đàn em đở khiêng đưa rước, mà người đời hàm hở đặng bước đến con đường nguy cấp trầm luân, mà người đời lại tự xưng là cao Ðạo.
Than ôi! nếu từ xưa đến nay, cái chỗ huyền thâm Ðạo pháp tu như vậy mà được thành, thì thế gian nào còn kẻ tục, ngôi Tiên Phật ắt là sập đi rồi. Vì người tu chẳng có quyền, có tước, có thế lực, dầu tu hay không, miễn có một phần đông thì xưng đặng. Coi người phàm có quyền hơn Tiên Phật, cậy thế lực của Tôn-giáo mà ép bức Tôn-giáo, mà thế gian lại lắm vọng cầu. Thế nên ta cho cái thời kỳ nầy trừ ra kẻ chí tâm hành thiện, người xả thân giúp đời, thì còn bao nhiêu là lập phe kết đảng để bóc lột sự vinh sang, mà tự xưng là đạo đức.�����
Những kẻ bước chơn vào cửa Ðạo đem mình quì trước Thiên-nhan, miệng vái cầu đủ tiếng tu hành mà tâm tham lợi, mến danh không dời đổi, ấy là những kẻ sát nhơn đoạt tài, mà khi bị tra khảo nó đều chối tội. Thế gian cũng vậy khác nào.
Nay muốn đem cái máy siêu việt ra mà bày bố cho nhơn sanh thì khó nỗi chỉ rõ dạy rành vì sợ người đời giả tu cướp lấy.
Kìa như đời NGŨ-TỔ truyền Ðạo cho LỤC-TỔ HUỆ-NĂNG còn phải lén mà trao, nhưng rồi cũng không khỏi bị Thần-Tú rượt theo cướp đoạt.
Than ôi! Ðời giả dối sao sự tu hành cũng giả dối, thì làm sao mà thoát khỏi bể trầm luân?
Ta muốn tóm tắc một điều, truyền cho người đời học lấy mà tu hành. Chừng thuần quen tâm tánh rồi thì ta sẽ đem cái chánh giáo ấy mà truyền cho.
Nhưng dầu ta có dạy ra đây thì còn một phần người cho là thấp thỏi, là bực hạ thừa, chớ người đời đã biết cao hơn.
Nhưng trái lại, dầu Ðức NHIÊN-ÐĂNG, dầu Ðức PHẬT-TỔ cũng phải học, phải noi theo đấy mà thành ngôi định vị.
Các Tôn-giáo đều lấy cái qui tắc mà gọi là thập điều, tam-qui, ngũ-giới, tam-bửu, ngũ-hành, tam cang, ngũ-thường. Còn trong Phật đà, tăng chúng lại lắm luật pháp bí truyền, đôi ba trăm điều, năm bảy thứ răn, mà kỳ trung thì cũng còn sa đà theo thế tục.
Tại sao vậy?
Bởi người trong thế kỷ 20 nầy, các Tôn-giáo đều mạt pháp cả rồi, những kẻ lòng mộ đạo đức, mến tu hành quyết truyền bá cho chúng sanh, phải hội Tăng Già mà khai Kinh giảng Ðạo.
Than ôi! Sách một nơi, tìm lý một nơi thì tài nào mà trúng chơn truyền cho đặng!
BÀI:
Xem cuộc thế đổi dời chan chứa,
Xét lòng người lụy ứa cho đời,
Mối chơn truyền đã đổi dời,
Làm cho khổ nạn chẳng rời kiếp sanh.
Thiết tha cho kẻ tu hành,
Không lo thiện hạnh lại tranh thế quyền.
Sái chơn truyền,
Khổ trần duyên,
Phải đắm thuyền.
Thuyền ngoài sông Vị đua bơi,
Sóng dồi gió dập không nơi dựa cùng.
Mãn kiếp vẫn trong lòng khổ hại,
Linh đinh đời giữa cái ngục sâu,
Mê man nào kể trên đầu,
Miễn cho phỉ chí van cầu lợi danh.
Ngán đua tranh,
Mảng giựt giành,
Sự cao xanh.
Cao xanh có thấu lòng người,
Mê sa tục lụy mến mùi trần ai.
Nhìn Ðại-Ðạo Cao-Ðài thảm trách,
Mấy năm trường Kinh sách biết bao,
Lời truyền Thánh-Giáo không trau,
Nực cười ấy cũng phong trào đổi thay.
Mới chia hai,
Kẻ có tài,
Mảng mê say.
Say sưa lỗi đạo lỗi tình,
Canh trường nghĩ đến phận mình mà đau.
Phải trước biết gìn trau chánh pháp,
Thì sau đâu có đạp đến điều,
Vì lòng tự đắc tự kiêu,
Ðạo Trời mà muốn ấp yêu một mình.
Giả dạng hình,
Kiếm thế mình,
Ðặng đời tin.
Tin các giáo hạ-nguơn chấn chỉnh,
Xem chơn truyền khó định vào đâu.
Vì xưa nay đã khác màu,
Muốn ra ai cấm, muốn vào ai ngăn.
Ðường giáo lý như trăng đã khuyết,
Nẽo Phật ngôn khó biện cho rành,
Cuộc đời lộn với lợi danh,
Xa đàng đạo đức tu hành chẳng nên.
Ðạo chưa yên,
Ðời chẳng duyên,
Ván đóng thuyền,
Khó như nguyên.
Nguyện y lời Thánh chơn truyền,
Giáo khai pháp diệu đặng thiên Ðạo mầu.
THI:
Ðạo mầu biết đặng rán gìn tâm,
Triết lý cao thâm chí tận tầm,
Mối chánh lánh thân giây khổ hải,
Thành duyên kết quả đến huyền thâm.
* * *
Than ôi! đời người cũng tỷ như đường giây vương vấn những sự não sầu, muốn tìm ra con đường giải thoát thì phải rèn tập ba cái giả thể là:
THÂN, TÁNH, TÂM
cho trong sạch. Phải biết cái chỗ yếu lý của ba thể ấy mà ngừa, mà giữ. Mỗi khi gặp phải cảnh ngộ buộc trói vào thì mau mau tìm phương thế mà giải ra mới đặng.
THÂN: thì nó ham muốn sự thanh nhàn, ham ăn, ham mặc, dụ dự, biếng nhác, ham ngủ, ham chơi.
Nếu người tu không biết giữ, để cho nó tha hồ thì nó tự tạo lấy giây oan nghiệt mãi mãi trong đời.
TÁNH: nó lại ham dục vọng, cầu danh, mến lợi, chí sa mê trong vòng vật chất trần gian. Thêm những sự giận hờn, thương ghét, thất tình, lục dục, ham muốn của đời, là cũng bởi TÁNH tạo thành. Một phen con người thức tỉnh mà tu hành, thì nó lại xúi giục những sự tội tình. Nó không bằng lòng với những điều ép buộc nó. Bởi TÁNH mà khiến cho con người phải trăm cay ngàn đắng. Người tu hành phải tìm cái kế chi mà giải phá nó đặng thì giải. Có kẻ làm xúc động đến nó thì nó không chịu mà cằn nhằn giận duổi, khiến cho người tìm kế trả thù, nó mới nghe cho. Thế thì TÁNH là một con trâu rừng, nếu không kèm nó, thả nó ra thì nó chém phá tàn hại chúng sanh biết bao nhiêu điều kể chi xiết.
TÂM: Từ xưa đến nay, biết muôn ngàn Kinh sách giải không nổi chữ TÂM. Khi nó tịnh, hồi nó động, khó phân rành ý tưởng của TÂM. Lên Thiên-Ðàng, xuống Ðịa-Ngục cũng do nơi TÂM tạo khởi. Nhứt là nó có cái ích kỷ riêng cho nó mà thôi. Lại tự kiêu, tự đắc, biết có mình mà chẳng biết đến ai, thậm chí nếu người mà chẳng kềm thúc nó thì nó tạo ra biết bao nhiêu điều oan trái.
TÂM thường toan mưu tính kế tàn hại người đời, khoe danh cầu tiếng, chỉ biết ích lợi riêng cho nó. Bởi thế một phen con người biết tự chủ nơi TÂM thì vạn sự trần gian đều tiêu hủy và bất đồng cả, ấy là người đạt đến chỗ Chơn Tâm. Người tu hành cần phải sửa lòng mà thắng phục được ba thể ấy, làm cho nó biết tùng theo mạng lịnh của mình, thì tuy là ở trần gian mà TÂM lên đến cõi Niết-Bàn kia vậy.
Con người giữ vững ba thể ấy rồi thì xem cõi trần gian như là mộng tưởng, nhìn vạn loại rất đau đớn với luật luân-hồi, thấy cuộc thế như bèo trôi nước chảy, xét đến nhơn tình thế thái cũng tỷ như giọt sương gieo trên chòm thung, cụm liễu, gặp phải gió vụt nắng tan, coi vạn loại như anh em, đồng ở trong khuôn khổ của đời, mà năng tầm phương giác ngộ.
Chừng ấy con người mới có sự thương yêu đại đồng, chẳng còn phân màu da nước tóc, không cao không thấp, chẳng nở làm những điều đau đớn cho nhau, chỉ tìm phương để giải cứu cho nhau đặng ra ngoài vòng trần lao khổ lụy. Lại phải còn dè dặt chừng lòng ích kỷ, nó thừa dịp ấy mà đem con người vào chỗ tối tăm. Không bao giờ tánh tục tâm phàm mà nó muốn giải thoát ra ngoài vòng khổ lụy, vì những trược khí trần gian phù hạp với nó. Nên người tu chẳng nên tin lấy mình mà phải kềm thúc lấy mình.
Ba cái giả thể ấy, con người thắng phục nó đặng rồi thì còn sự giao cảm với đời làm điều trái trở, nhưng lòng trí tri chẳng đổi, TÂM quyết định không lay thì con người dầu gặp cảnh ngộ đắng cay thì cũng đều yên tâm mà tiến lên con đường sáng suốt. Một lúc gặp người chê cười hiếp đáp mà lòng vẫn thanh tịnh không giận người, tại sao có tâm thế ấy? Lại thương người vì vô minh mà chẳng đặng thoát khỏi kiếp đọa đày. Mỗi chuyện chi đều suy nghĩ trước khi làm, trước khi nói phải ngăn ngừa ba giả thể đừng lầm phàm tâm với chơn tâm. Một chuyện như thế, ngàn chuyện cũng như thế, thì dầu con người còn ở nơi cõi tạm trần gian, chớ lòng đã cao siêu thoát hóa.�����
Cái kiếp tu là trái lại với cuộc đời hiện tại mà nó tấn hóa với cuộc đời tương lai. Vì bị màn vô minh che lấp, cho nên người đời mảng mê say theo cái tánh tục tâm phàm, không tự trị được lấy mình, mà bảo thành Tiên tác Phật làm sao cho đặng?
Vậy người tu phải cần sửa trau ba thể ấy cả đêm ngày nhớ đừng quên, thì giác quan mới mở, thần-nhãn, thần-nhỉ mới thông mà thấy đặng sự người đời không thấy, nghe đặng sự kẻ tục không nghe. Chừng ấy mới gọi rằng biết một điều nhỏ mọn trên con đường Ðạo muôn trùng vậy.
THI:
Nương bút tạm phân máy diệu huyền,
Ðể lời nhắn nhủ khách trần duyên,
Thời kỳ mạt kiếp hầu bày dạng,
Hối thúc anh em bước xuống thuyền.
BÀI:
Thuyền từ rước khách kỳ ba,
Hữu duyên lánh chốn ái hà khổ tâm.
Mới cao thâm,
Cuộc luân trầm,
Biết mấy năm.
Mấy năm mới biết Ðạo mầu khai,
Ðức cả thành công mới rạng mày,
Hiếu nghĩa để lòng lo vẹn giữ,
Công bình cơ Ðạo chẳng hề sai.
Say cuộc thế nên người đời mảng mưu mưu với kế kế.
Biết thân phàm thì khuyên chớ làm cho bê trể bước đường Tiên.
Ðạo muốn cao cũng như đi gió ngược mà lướt thuyền.
Lòng rán giữ chớ nên để cho sự đảo điên trong tâm trí.
Người cõi tục tận tường chung thỉ,
Rán lo lường chí lý cao thâm,
Ðường xa vắng tích biệt tăm,
Ngổn ngang khổ hạnh khôn cầm lòng thương.
Nỗi đoạn trường,
Phải vấn vương,
Sự khó tường.
Khó tường lý Ðạo bởi đời mê,
Sanh tử biết bao tập khổ đề,
Cảm đức Thánh-Hoàng đem tưới nhuận,
Ngày đêm kỉnh tụng chẳng nên mê.
Mê cuộc chiến khiến nên nhơn quần đều rời rã.
Tham lợi danh rồi đành xảo trá với nhơn tình.
Biết đâu mà kể những nỗi đao binh.
Thân cô lậu càng nhìn càng thêm tủi.
Mãn kiếp những trò đời cặm cụi,
Cùng năm lo qua buổi với đời,
Có biết chi may rủi vận thời,
Không hiểu đặng yên nơi mà nương dựa.
Giữa cuộc thế lòng thương chan chứa,
Biết bao nhiêu cành úa lá vàng,
Làm sao lánh khỏi bùn than,
Bước lên Tiên cảnh, Niết-Bàn mới vui.
Biết Ðạo mùi,
Rõ đặng người,
Sự sụt sùi.
Sụt sùi lánh thì thanh nhàn không xiết nghĩ.
Mến trò đời là nơi lao lụy có chi nhàn.
Kìa Bồng-Lai lửng đửng mấy cụm mây vàng.
Nọ Thiên-Tạo biết muôn ngàn là cảnh vật.
Người thoát tục lánh vòng vật chất.
Chẳng còn điều đặng thất nên hư.
Của trần dầu để có dư.
Cũng là giả tạm biết từ hay hơn.
Hay hơn nhờ đức học Tiên truyền,
Ðắc quả thành công mới phỉ nguyền,
Một kiếp khổ tu muôn kiếp hưởng,
Ba đời chịu nhọc mới thành duyên.
Duyên cùng quả tận tâm mới biết,
Nợ cùng căn chí quyết mới thành,
Mặc ai danh lợi giựt giành,
Giựt giành rốt cuộc tan tành còn đâu.
Cuộc bể dâu,
Nỗi nạn sầu,
Ðã bấy lâu.
Bấy lâu theo Ðạo tu hành,
Nhờ lòng chí hiếu tập tành mới nên.
Dầu xa cũng rán tâm bền,
Chí công đắc quả vun nền Ðạo cao.
Ðạo cao rán một màu tấn thủ,
Mối chơn truyền đã có đủ huyền linh.
Bớ chúng sanh mau mau tỉnh giấc mộng huỳnh.
Mở mắt tục mà kỷ nhìn cho rõ ràng con đường Ðạo.
Người trần thế thường gọi cảnh Tiên là khôn cơ tạo.
Kẻ thường nhơn thường than rằng những sự hiếu thảo khó làm.
Tại người không dứt muốn ham,
Nên sanh khổ não phải cam đọa đày.
Biết rủi may,
Khó trở day,
Với tháng ngày.
Ngày trời mơi sớm thong dong,
Tu an nghiệp quả phủi lòng trần ai.
Trần ai mê mệt chẳng làm chi,
Mãn kiếp rồi càng sự lắm nguy,
Thiên Ðạo rán tu về cựu vị,
Muôn loài ma chướng tránh đàng đi.
BÀI:
Ðường danh lợi chi gay cho lắm,
Ðám mây tàn chớ đắm hoài chi,
Làm cho linh tánh tinh vi,
Mất linh quang khiếu dễ gì tính toan.
Lòng ám muội khó làm âm chất,
Lòng mưu mô ắt thất chơn truyền,
Hồi đầu lai phục bổn nguyên,
Thiên cơ dĩ lộ đạo huyền chơn tâm.
Lòng sanh chúng cơ cầm áo não,
Ý tóm thâu tàn bạo quen nghề,
Vì chưng mê muội trần quê,
Lạc đường bít ngõ khó về ngôi xưa.
Làm nô lệ cho vừa ba thể,
Cứ chìu lòn chẳng kể chi chi,
Linh quang dày bịt thấy gì,
Chơn tâm đâu rõ đường đi chánh tà.
Lòng phân biệt Phật ma đâu hản,
Bởi vì đâu gieo cảm lẫy lừng,
Làm cho khổ hại xác thân,
Làm cho tiều tụy tâm thần chơn linh.
Vậy phải biết tùy hình tùy ảnh,
Chớ ỷ quyền tranh cạnh đua chen,
Dọc ngang đè ép kẻ hèn,
Chẳng thông cơ Tạo đòi phen khổ sầu.
Phải biết rõ lý sâu huyền bí,
Phải lãm thông yếu lý cho tường,
Tự mình nung nấu làm gương,
Phải trang hướng đạo dẫn đường chúng sanh.
Vì linh tánh không rành chơn giả,
Làm vướng quyền thể giả của ta,
Tưởng rằng là của Tiên gia,
Dè đâu ấy của quỉ ma xen vào.
Lòng chi xiết tâm bào ruột thắt,
Lòng thảm thương dẫn dắt kẻ mê,
Vẹt mây sáng tỏ bốn bề,
Ấy là Kinh-Thánh chuyển mê hội nầy.
Khá tâm trọng lời Thầy để dạ,
Luật Hóa-Công chơn giả biện rành,
Tự mình giám đốc lấy mình,
Tự mình làm chủ sắc đinh một màu.
Vì thể giả lao xao tâm tánh,
Làm cho mình khó lánh trần mê,
Khó toan phá vách não nề,
Vậy mau thức giấc quày về nẽo Tiên.
Ấy thể tạm chủ quyền tự nó,
Cứ lủi lầm vào rọ tứ tường,
Gạt người mắc phải trần dương,
Gạt người phải chịu tang thương não nồng.
Hằng ngày phải đề phòng cho lắm,
Chớ đừng quên để thấm vào tâm,
Làm cho vùi lấp linh căn,
Của Trời ban phú khó phân bí truyền.�����
Muốn làm chủ cầm quyền ba thể,
Thì phải toan tầm kế phục tùng,
Gìn lòng một mực đến cùng,
Thỉ chung như nhứt thung dung sau nầy.
Chí giúp đời khá khuây dạ ngọc,
Lòng thương người lăn lóc phong trần,
Khổ cay nào nệ tấm thân,
Một lòng ôn thỏa do lòng nghĩa nhơn.
Hễ biết Ðạo như đờn khoan nhặt,
Rõ giọng đờn như đắc bổn nguyên,
Tinh thần thơ thới đào viên,
Hiệp vầy bạn Thánh phỉ nguyền tình sâu.
Hễ một kiếp dãi dầu cứu thế,
Thì muôn năm phổ tế vạn sanh,
Cảnh Tiên nếm được mới đành,
Thân nào nại nhọc được thành thảnh thơi.
Lý Chơn Ðạo đời đời muôn kiếp,
Chẳng phải như giấc điệp nam kha,
Chợt nhìn thế lộ san hà,
Làm cho thơ thái đậm đà tuyết mai.
Tình thốn thức cầm đài thi tửu,
Rượu huỳnh tương bổ cứu cho đời,
Luyện bầu linh dược hôm mơi,
Gắng công nung nấu cứu đời tang thương.
Lòng chẳng quản chiêu đường quần chúng,
Lòng xót thương phải dụng linh đơn,
Hườn hồn cho đám mê hồn,
Cứu an lê thứ sanh tồn thiên cơ.
Máy linh chuyển cuộc cờ phưởng phất,
Dùng nâu sòng vật chất đừng làm,
Biện phân thấu đáo cho cần,
Ấy là phương pháp thuốc thần giải nguy.
Lấy chơn tâm hằng suy nghĩ cạn,
Tự nơi ta quyết đoán lý mầu,
Rọi đèn chơn lý cao sâu,
Vẹt đường mờ mịt dẫn đầu sanh linh.
Vì cuộc thế thể hình hiện tại,
Lấy tinh thần chế cải cho thành,
Dung hòa hai ngã đành rành,
Nương tùy thời thế khá hành Ðạo cao.
THI:
Ðạo cao vẹt lối đám mây mù,
Lý chánh soi tầm khá vững tu,
Ðạo mạch noi gương Nho Thích Ðạo,
Ðời tàn xạo sự phải công phu.
Làm lành đau thảm không nao dạ,
Mấy lúc khổ cay vẹt ngút mù,
Nương bách thuyền nan dìu vạn loại,
Khuyên đời tỉnh giấc khá ôn nhu.
Vậy các giả thể làm chủ cái tâm của người thì tức nhiên người phải chịu dưới quyền sai khiến, làm cho người mất hết cái chí tiến thủ, rồi biết chừng nào mà người phục tùng nó đặng.
Ấy là người phải bị nó dẫn dắt vào chỗ tối tăm lầm lạc, thì phải chịu đau thảm, khổ cay, gây điều thống thiết.
Người phải chịu luân hồi nhiều kiếp đặng trả nợ tiền khiên. Nếu người không có đủ nghị lực, can đởm, cương quyết, dõng mãnh mà phấn đấu với cái cảnh ngộ khắc khe, thì biết chừng nào mà người được tiến hóa về tinh thần đạo đức.
Tức là người hãm nhốt tinh thần người vào cái khuôn mẫu hẹp hòi, thì người làm sao mà giải thoát cho đặng, đâu biết là chơn giả.
Vậy người muốn thấy cái ánh sáng Chơn-Lý thì chẳng khó chi. Chính là tự người phải biết cái mưu chước của các giả thể mới thắng phục, tự trị lấy nó được.
Hễ người biết tự trị lấy người thì người sẽ hiểu rành chơn-lý, giải thoát khỏi lối mê tân. Lần lần linh quang người sẽ phát hiện mà được tiếp xúc giao cảm cùng điển quang của vũ-trụ, hầu thấu đáo các luật ẩn vi, thì chừng ấy ngôi Tiên Phật người nắm trong tay.
Nếu người cứ ỷ lại nơi mình tự cao, không tự làm chủ cho các thể giả, cứ để cho nó mặc tình chuyển xây hoạt động, thì làm sao ra khỏi vòng tối tăm mờ ám. Rồi lại than trách cho rằng: Trời xanh sao quá trớ trêu cay nghiệt. Ấy là người muốn gây thêm nhân quả, chớ nào phải muốn giải thoát đâu!
THI:
Giải thoát khó gì trị lấy "TA",
Làm cho chịu khổn chốn mê hà,
Khổ tâm lao nhọc vì nơi ấy,
Giám đốc tự người giải thoát qua.
Thể giả có chi không phục đặng,
Tinh thần kiếm lý hiểu sâu xa,
Chí tâm dõng mãnh nào than nhọc,
Trổi bước đởm đương của Phật Ðà.
Những lời của Bần-Ðạo chỉ giáo trên đây là cốt yếu bày tỏ cái lý cao siêu giải thoát ngoài vòng lao khổ. Vậy chư sĩ khá chuyên cần tu tập. Ta ban ơn chư hiền nam nữ.
Thành tâm tiếp giá NGÔ-ÐẠI-TIÊN.
11.- HÀNH ÐẠO CHƯỞNG ÐỨC
__________
THI:
NGÔ đồng gió tạt lá xơ rơ,
ÐẠI đức lập an kịp đến giờ,
TIÊN bút hạ trần truyền Thánh-Ðức,
Giáng ban chơn giáo phục hồi sơ.
* * *
Trải qua một lúc quyết tu hành,
Mà đến bây giờ độ chúng sanh,
Khổ não vì đời ai rõ đặng,
Lao tâm với Ðạo tiếng còn rành,
Ba kỳ Ðạo chuyển cơ huyền diệu,
Một phút tu cầu đến tịnh thanh,
Sự thế quản bao đời gió bụi,
Lòng phàm gội rửa đặng cao xanh.
Mừng chư hiền sĩ nam nữ, nay Bần-đạo phụng chỉ Hoàng-Thiên giáng dạy HÀNH ÐẠO CHƯỞNG ÐỨC.
Vậy chúng sanh nghe:
BÀI:
Hữu duyên gặp Tam-Kỳ Phổ-Ðộ,
Muôn đời còn ghi sổ Tiên bang,
Người chí tu lên Bát-Nhã thoàn,
Ðặng yên trí lo đàng tế thế.
Lòng thiện nguyện khỏi vòng quan hệ,
Trí thanh nhàn chẳng nệ trần ai,
Tu Tiên bạn học CAO-ÐÀI,
Gìn thân thể vẹn, giữ tày non sông.
Lời huấn giáo tạc lòng hiếu tử,
Chữ thanh lương cư xử trọn niềm,
Khấu đầu vọng bái Hoàng-Thiên,
Thể lòng giữ vẹn chơn truyền cứu dân.
Rủi gặp cuộc phong trần xây đổi,
Khá bền tâm chớ vội não lòng,
Tùy theo đá lở đi vòng,
Dầu cay đắng mấy mặn nồng chớ than.
Ðạo phổ hóa như thoàn cứu vớt,
Biết chúng sanh lặn hụp dưới dòng,
Nước tràn sóng gió mênh mông,
Thiều quang như giục, ánh hồng như thoi.
Người sóng dồi hấp hoi chìm đắm,
Thuyền linh từ lướt dặm chèo mau,
Rước người cho hết khổ đau,
Thì công phu ấy biết bao nhiêu tình.
Có trí độ cao minh lượng cả,
Thương chúng sanh vất vả giữa trần,
Dầu khi trể chiếc đò thần,
Biết muôn thu có đặng gần đường Tiên.
Ðừng đem dạ tư riêng tự phụ,
Chớ tập lòng ký chú lợi quyền,
Hữu căn thì đặng hữu duyên,
Phận làm hướng đạo chèo thuyền phải lo.�����
Giữa cuộc thế lắm trò đau đớn,
Trong cơ đời nhiều bợn nhơ lòng,
Biết rằng tế thế là xong,
Xá thân vì Ðạo chớ mong đến mình.
Người hữu chí cánh thành có thuở,
Luật tuần hườn xây trở chẳng thuyên,
Dầu cho khác giáo lỗi nguyền,
Cũng đừng ngạo mạng phải kiêng phải dè.
Hễ hành đạo như bè giữa sóng,
Gặp phải chi vớt hỏng lên thuyền,
Giàu sang bần tiện dữ hiền,
Tùy phương tế độ lựa giềng cứu nguy.
Ấy mới gọi tu mi nam tử,
Ấy mới rằng biết xử thế thời,
Người ôi! cuộc thế lưng vơi,
Biết đường chánh đại nhớ lời than van.
Nhắn nhủ khách chèo thoàn Bát-Nhã,
Khuyên lơn người còn dạ tư riêng,
Ðạo Trời chẳng có vị thiên,
Trăm muôn ngàn giáo chơn truyền một khuôn.
Vì thế sự mảng buôn tánh rẽ,
Nên chia phân bắt bẻ cùng nhau,
Chơn truyền mờ ám biết bao,
Hạ-Nguơn ÐẠI-ÐẠO qui màu vạn sanh.
Biết đức cả lòng thành tế độ,
Rõ cơ đời lánh khổ dìu đời,
Ðừng tu miệng, chớ tu lời,
Miệng tu tội lớn chẳng nơi thoát nàn.
Hoặc hành Ðạo giữa đàng rồi bỏ,
Hay gặp điều khổ não rồi buông,
Tội tình ấy rất thảm buồn,
Gương ta còn giữa thế tường hay chăng?
Lãnh Thiên mạng hóa hoằng Ðại-Ðạo,
Gặp phải khi khảo đảo ngồi yên,
Lo cho kẻ được hậu tiền,
Mặc tình thế sự tiếng truyền bạc đen.
Dầu ngộ cảnh tạt đèn sức gió,
Chớ lòng ta xem ngó chúng sanh,
Tìm phương cứu vớt người lành,
Lo cho đạo tấn nhọc nhành quản bao.
Lòng những ước cho mau thành Ðạo,
Ðặng anh em thuận thảo một đường,
Tiếc thay cơ hội đoạn trường,
Mãn duyên phải chịu Thiên-Ðường hồi quê.
Lòng thương Ðạo ủ-ê tấc dạ,
Nhớ lúc còn lập quả bồi công,
Muốn cho sáng giống Lạc-Hồng,
Muốn cho nhơn sự khỏi vòng đớn đau.
Nhìn lại kỷ phong trào thay đổi,
Thấy lòng người nhiều nỗi đắng cay,
Giả tu lãnh đạo cầm tay,
Cậy quyền ép bức, cậy tài hiếp cô.
Ôi cảnh thế lưỡng đồ phước tội,
Thảm cuộc tu lắm nỗi đoạn trường,
Sá chi một đóa bông hường,
Mà tình huynh đệ chia đường bắc nam.
Nay nhằm lúc cơ quan biến động,
Tiết Trung-Thu đã vọng ngoài hiên,
Từ bi giá bút tương truyền,
Nhắn nhe hướng đạo mối giềng nghĩ suy.
Rừng muốn rậm chẳng vì một cội,
Cồn muốn cao không nổi cát vùi,
Nên tình đạo quí ngọt bùi,
Biết rằng thế sự giả vui gạt lường.
Nên khá mở lòng thương quảng đại,
Khá xét suy trái phải cho cần,
Ðừng thiên vị nể cho thân,
Mà tình đồng đạo phải ân hận lòng.
Lãnh phận sự khá thông phận sự,
Biết tu hành ưu lự tinh chuyên,
Ðạo là một bổn thủy nguyên,
Mà mình cũng mắc quan quyền phải sao?
Kìa các nước xem vào chê hủy,
Nọ nhiều tay trí sĩ bàng quang,
Vẽ rồng hóa rắn lỡ làng,
Ðệ huynh rồi lại đổ choàng cho nhau.
Khiến kẻ trước người sau khốn hại,
Phân rẻ tình quấy phải cao môn,
Vạn bang thế sự danh đồn,
Nam phương Thiên-Ðạo quốc hồn chia phui.
Lời thành thật ngậm ngùi tấc dạ,
Bớ người hiền xét giả hay chơn,
Lãnh phần hành đạo keo sơn,
Thì sau dầu cuộc tuần hườn còn tên.
Làm sái phép lại quên mạng đạo,
Tội tình kia khẩn đảo không qua,
Bớ người giữa bể ái hà,
Lời than thở dặn xét mà tu tâm.
Dầu cách biệt tinh thần nghĩa nặng,
Nơi Ngọc-Kinh trần chẳng bao xa,
Nếu lòng chơn tưởng đến Ta,
Phò trì cứu thế cho hòa cũng vui.
Còn chưởng đức phải vùi thân phận,
Dầu gặp khi lận đận chớ sờn,
Giúp đời mở rộng lòng nhơn,
Thương người hoạn nạn độ cơn nghiêng nghèo.
Chữ Quảng-Ðại gìn theo tâm trí,
Câu Nhơn-Từ chung thỉ cho hòa,
Kìa người khổ, nọ nước nhà,
Làm sao đáng mặt anh hoa sau nầy.
Biết cứu độ trần ai cơn ngặt,
Biết giữ lòng dìu dắt chúng sanh,
Mới là đáng mặt hùng anh,
Mới là xứng đạo tu hành đường Tiên.
Tình thân ái làm duyên tế độ,
Nghĩa đồng môn nhọc khổ chia lo,
Gặp khi lao trí dặn dò,
Tình đồng tâm nặng liên trò chung giây.
Chớ chia rẻ đó đây cao thấp,
Ðừng chia tình ôm ấp chỗ riêng,
Chí tâm thương cả hậu tiền,
Thương người thương vật thương duyên đọa trần.
Phải kỉnh trọng Thánh Thần Thiên mạng,
Khi nói năng chớ lãng phạm nhằm,
Dưới Trời phải biết cao thâm,
Phải thương đồng loại phải tầm thiện chơn.
Khi đại tiểu chớ lờn chớ dể,
Phía bắc đừng quá thể chẳng kiêng,
Người tu trau sửa tánh hiền,
Dầu cho lớn nhỏ cũng nguyền ăn năn.
Việc ở đời khó phăng cùng lý,
Gặp phải cơn suy kỷ mà hành,
Dầu chi cũng tận thửa lành,
Cũng làm phước đức cũng hành đạo tâm.
Tại sao phải kiếm tầm phước đức,
Vì người tu thiếu sức giúp đời,
Trái oan trước đã làm rồi,
Nợ duyên nay phải đền bồi mới yên.
Chớ gọi tu là đền nợ trước,
Nếu y lời tác phước làm chi,
Người đời có trí nghĩ suy,
Có tâm xét kỷ khỏi nguy khỏi nàn.
Lúc sanh tiền cứu an Ta nguyện,
Dầu ngồi yên tịnh luyện cũng lo,
Công phu công quả vẹn trò,
Mới đăng Tiên bản mới dò cao bang.
Người cõi tục chửa tàng lý sự,
Lấy văn minh cư xử theo thời,
Nên chi tương rả cuộc đời,
Miệng xưng đạo đức tâm thời phàm phu.
Nầy bớ khách chí tu Tiên đạo,
Rán nghe lời khuyên bảo cạn lời,
Ðường Tiên còn rạng cõi đời,
Thì công danh ấy Phật Trời cũng cho.
Người giúp Ðạo như đò rước khách,
Kẻ tu hành như bách cứu tinh,
Gặp cơn sóng gió thình lình,
Giúp đời độ Ðạo rạng tình hiếu nhơn.
Kỉnh Trời Phật cầu hườn phép nhiệm,
Thương chúng sanh đấp-điếm buổi cùng,�����
Tình huynh đệ phải thỉ chung,
Dầu khi họa gởi chớ đừng xéo xiên.
Ðược Ơn Trên chỉ truyền tiếp lịnh,
Hành cho y cho chính mới thành,
Cơ mầu có chí tu hành,
Khỏi vòng tội lỗi khỏi hành phạt sâu.
THI:
Sâu xa lời lý khuyến người tu,
Ai có mê tâm vẹt ngút mù,
Trau tánh sửa lòng làm âm chất,
Ngày thành chánh quả hưởng ngàn thu.
THI:
Ngàn thu tạc để trí tri đời,
Nghĩa Ðạo ơn Thầy nghĩa rạng ngời,
Hữu phước gieo trồng hồi tác phước,
Vô căn chẳng tỉa lúc ham chơi.
Thấp ngôi vì kẻ lòng vô đạo,
Cao chức bởi người thức tỉnh đời,
Chánh pháp tế nguy bày giữa thế,
Bớ người giác ngộ chốn trần vơi.
Ta khuyên chúng sanh kỉnh tụng và thật hành. Ta ban ơn cho cả chúng sanh.
12.- TÔN-GIÁO VÀ KHOA-HỌC
__________
Ðời là nơi bể khổ đối với kẻ vô Ðạo không tu, mà là đường tấn hóa của vạn linh sanh chúng. Giữa cuộc đời để chịu sự não nồng cay đắng, để trả quả tiền khiên, hoặc học cho hiểu sự khôn dại, mấy cái luật ẩn vi của võ trụ, hầu ngày sau nầy mới đoạt máy huyền vi.
Những thí sinh phải tùy cao thấp mà tấn hóa theo ngôi vị của mình, dầu xa gần cũng tới. Thế gian thường gọi: "Hay là Trạng, dở ấy trò", thì cũng cho là đáng phải. Vì bài vở của Trạng cao siêu, mà bài vở của trò còn thấp thỏi. Nhưng dầu hay của Trạng, thì trước cũng là trò; mà dầu dở của trò thì sau nầy cũng Trạng.
Thế thì không có điều chi cao thấp; không có điều chi hơn thua, chỉ một lý cần yếu hơn hết là chúng sanh tuần tự mà tiến thủ tới địa vị tối cao, vậy trước hay sau cũng một màu trong võ-trụ. Nhưng hoàn cảnh không vì cơ đời bó buộc, khiến cho người thiện căn thường ngộ cảnh khắc khe đành mau thức tỉnh mà bước về con đường đạo-đức.
Trước khi người đời vừa tỉnh thức, thì ai cũng lựa một món đạo mà tu hành, thế thì khuôn linh của Tạo-Hóa đã bủa lưới giăng dò, đón người thiện hạnh, có nhiều khi bày cửa dữ để dạy lành, mà cũng lắm lúc tạo sự lành để khuyên kẻ dữ.
Bởi thế nhiều Tôn-Giáo ra đời. Lại nữa, khi trước thì "Càn vô đắc khán, Khôn vô đắc diệt".
Nhơn sanh còn lòng dạ vô minh thấp thỏi, nên chi lo hành đạo nơi tư phương mình mà thôi. Mạnh ai nấy tu, không tranh giành, không hơn thiệt.
Còn nay thì "Càn Khôn dĩ tận thức". Cả chúng sanh đều bước một bước khá cao trên con đường thông minh quảng đại, nên rồi cũng vì nhiều tôn giáo ấy mà con người chia rẻ, kẻ tự cho mình chơn đạo, người tự phụ chánh tu. Bởi chữ tranh cường nên phải vấn vương tai nạn. Ðấng NGỌC-HOÀNG THƯỢNG-ÐẾ không nở ngồi xem cơ đời xáo lộn, tôn giáo tranh giành, mới hoằng khai ÐẠI-ÐẠO đến kỳ thứ ba để chuyển phục nhơn tâm, qui nguyên tôn giáo lại.
Nhưng than ôi! vì miếng mồi vật chất quá ngon, trải bao phen chúng sanh chưa nhìn nhận, qui tùng. Cũng bởi kẻ làm đầu thiếu chí thiếu tu, cũng tại mối Thiên-cơ xây vần luân chuyển.
TÔN GIÁO:
Lấy theo trí tưởng của người đời mà gọi các Tôn Giáo là một cái cơ quan yếu trọng, gìn trật tự của người hành đạo, để huấn giáo kẻ tín đồ theo qui cũ chuẩn thằng của tôn-giáo, tức là ép tập con người lần lên con đường đạo, đặng giao cảm mối huyền linh, thấu đến Trời Phật Tiên Thánh Thần. Nếu người hành đạo quá với cái phạm vi ấy, thì tôn-giáo không chỗ dựa nương nên phải biến thành mê tín.
KHOA HỌC:
Trí lự tinh thần của vạn loại do cơ tấn hóa mà tiến hành, vì vậy nên mới biến thành các khoa-học, các khoa-học lại lấy sự thiệt nhiệm của lý tưởng mà chế sự điều hòa, sự khuyết điểm cá nhơn cho đến chỗ hoàn toàn chung thể.
Khoa-học để sửa trị sự mê-tín ra chánh-tín, sự cường thạnh nên mềm mại, dắt con người tấn bộ đến tuyệt cuộc đời. Dầu vậy, nếu không có Ðạo mà kềm thúc một bên thì khoa-học sẽ trở nên lêu-lổng và bất thành. Vì Ðạo là cơ bí nhiệm càn-khôn vũ-trụ, nhờ Ðạo mà người đời được rõ lý thâm uyên chánh triết.
Tóm lại đến thời kỳ nầy các tôn-giáo và khoa-học đều cần hợp nhứt mà làm tôi trung thành cho Ðạo, thì tự nhiên phát tiết đến cõi thật hiện, tinh thần và kết quả trên con đường đạo-đức. Cái chỗ sai lầm chia rẻ của tôn-giáo và các khoa-học là sở dĩ lấy cái lý cá nhơn tuyệt đối, mà làm cho mất vẽ dung hòa; chớ chưa tường cái lý hiệp nhứt hoàn toàn giữa các tôn-giáo, các khoa-học là Ðạo vậy.
Ðiều cần yếu hơn là các tôn-giáo, các khoa-học phải biết nhìn nhận cái chỗ chung hòa mới khỏi điều lầm lạc.
THI:
Ðạo truyền cứu thế buổi tai ương,
Chỉ rõ phân rành sự rộng thương,
Giáo lý học thông đồng hiệp nhứt,
Huyền linh máy nhiệm mới thông tường.
Ta khuyên chúng sanh rán suy nghĩ cho kỷ những lời Ta phân biện trên đây. Ta ban ơn chúng sanh.
NGÔ-ÐẠI-TIÊN.
13.- ÐẠO-ÐỨC THẬT HÀNH
__________
THI:
TỀ nguyên bổn thủ đáo huỳnh hôn,
THIÊN chức giữ chơn được vĩnh tồn,
ÐẠI Ðạo lưu hành trong vũ-trụ,
THÁNH Kinh chỉ giáo độ linh hồn.
Mừng chư hiền sĩ. Chư hiền thành tâm cầu Ðức Tôn-Sư, Ta chào chư hiền........
THI:
QUỈ荊 Thần chứng mạng đức tầm tu,
CỐC mể độ an hóa cọng phù,
THOÀN lướt sóng to qua bỉ ngạn,
SƯ tôn truyền Ðạo quí muôn thu.
Bần-đạo chào chư hiền sĩ.
THI:
Gieo truyền Ðại-Ðạo cứu đời mê,
Qui tựu nữ nam phục kịp về,
Hòa hiệp nhứt nguyên noi chánh pháp,
Chung đồng vạn loại phục tiên huê.
Nương lèo từ huệ noi đường sáng,
Cậy chiếc thuyền tâm dốc chí đề,
Thông thấu lý mầu gieo khắp cả,
Ban truyền Thánh-Ðức độ người mê.
BÀI:
Tâm chí hướng thấu mầm Ðạo mạch,
Trí tịnh an phá vách trần ai,
Ðộ hồn thoát chốn diêm đài,
Chiêu an bá tánh bước quày đường Tiên.
Mượn chước Thánh dùng thuyền Bát-Nhã,
Cậy huyền thâm cứu cả Lạc-Hồng,
Khỏi vòng cương tỏa chim lồng,
Cho đời thức giấc mặn nồng chua cay.
Khuyên trò chớ lá lay mưu chước,
Chớ nên toan thấu được của mình,
Làm cho sanh chúng linh đinh,
Làm cho mắc phải hớ hinh lắm lần.
Vậy phải biểu cân phân từ nét,
Phải chìu lòng mà vẹt mù mây,
Noi theo dấu bước của Thầy,�����
Lần dò kỷ cạn làm khuây tấc lòng.
Khá hiểu mối đại đồng Chơn-Lý,
Phải biết thông yếu lý nhiệm mầu,
Rán tường cơ Ðạo cao sâu,
Mới là phải mặt dẫn đầu nhơn sanh.
Người hướng đạo chí thành cảm hóa,
Kẻ dắt dìu ổn thỏa thung dung,
Cứu nguy sanh chúng trùng phùng,
Ðộ đời mơ mộng thức tùng tầm tu.
Hằng trau tánh ôn nhu hướng đạo,
Ðể soi gương thấu đáo thiệt hư,
Linh cơ máy nhiệm Ðại-Từ,
Một mình chưởng quản dinh hư quán truyền.
Lòng sở nguyện dụng thuyền cứu cánh,
Chốn mê đồ dược thánh tỏ ngần,
Trong veo nước biếc non thần,
Gió xuôi thuyền lướt chóng gần Linh-Tiêu.
Dụng thánh bí cơ siêu thoát hóa,
Lấy lý chơn ban cả nhơn sanh,
Hiệp thành cứu độ đường quanh,
Chiêu chương rõ mặt hùng anh mới là.
Bỏ vị kỷ, vong tha phải mặt,
Cứu đám khờ thắc ngặt lao đao,
Khá mau gở mối tơ đào,
Lẹ tay tháo rối chớ xao tấc lòng.
Lòng vững đạt Hóa-Công chứng chiếu,
Chiếm bảng son khỏi chịu khổ go,
Ðộ an bá tánh sẵn đò,
Thuốc thần cứu cấp thoát lò dương gian.
Dầu gặp lúc lầm than cực nhọc,
Dầu phải cơn lăn lóc phong trần,
Tinh thần tươi tắn hiện phân,
Dụng tâm phấn đấu sẽ gần cảnh xưa.
Giữ mối Ðạo thượng thừa cho vững,
Gìn cơ quan phải dụng thiên nhiên,
Hợp cùng lý lẽ siêu huyền,
Linh quang phát hiện Thần Tiên rước về.
Vầy bạn lữ đề-huề yến ẩm,
Hiệp tình xưa đậm thấm cuộc cờ,
Dựng nên phong hóa sinh cơ,
Tìm ra phương pháp kịp giờ cứu nguy.
Dụng ngũ hành nương tùy điển lực,
Do bởi Thiên lập đức siêu quần,
Cung mây đảnh khứu non tần,
Luyện bầu đơn dược gian trần hoàng hôn.
Cứu mê hồn sinh tồn cho rõ,
Mối cơ Trời chiếu ngõ hiền nhơn,
Dùng phương thuốc báu linh đơn,
Tiếng khuya không phiếm như đờn du dương.
Linh dược Thánh các phương cứu độ,
Phép Cam-Lồ giải khổ mê trần,
Khá lìa những bãi đai cân,
Nâu sòng nhượm dạ Thánh Thần hộ che.
Ngày tháng lụn dặt dè lời nói,
Chớ để cho thấp thỏi linh căn,
Uổng công Từ-Phụ dạy răn,
Phải tua nhen nhúm năm hằng để tâm.
Hễ tâm chánh Thần khâm quỉ phục,
Giữ tánh lành chẳng phút nào rời,
Phật Trời chứng mạng từ lời,
Ðến từ tư tưởng các nơi một bầu.
Vì Nam-Tào cao sâu cân mực,
Giữ mực công chí đức ghi lòng,
Bắc-Ðẩu chưởng quản công đồng,
Mảy lông khó lọt qua vòng kiền khôn.
Khuyên hiền sĩ bền lòng son sắc,
Quyết thoát trần sẽ đắc như nguyền,
Lưu hành khắp chốn thâm uyên,
Một tình dõng mãnh thệ nguyền trước thân.
Lòng sở nguyện chí cần vun đắp,
Cội thung uyên ban cấp từ xưa,
Nay đà trổ dạng nắng mưa,
Phụng thừa Thiên mạng đào xưa hội vầy.
Thân phận phải nhớ Thầy Chúa-Tể,
Chưởng quản là NGỌC-ÐẾ HUYỀN-KHUNG,
Bao trùm võ trụ thung dung,
Từ-bi, bác-ái đại đồng tế nhơn.
THI:
Nhơn quần xã tắc ngỏ đời tàn,
Cứu cánh từ-bi khắp thế gian,
Khuya sớm cần chuyên gìn bác-ái,
Ngày đêm vững chí đạt Tiên bang.
Ta ban ơn chư hiền. Nghiêm tịnh tiếp giá VƯƠNG-THOÀN LÃO-TỔ.
THI:
VƯƠNG trần biết Ðạo quí tu hành,
THOÀN độ cõi đời đến tịnh thanh,
LÃO giáo điềm nhiên thâu võ-trụ,
TỔ khai trí não thấu duyên lành.
Mừng chư hiền sĩ.
Duyên lành thoát khỏi trầm luân,
Tìm nơi siêu độ băng chừng lần lên.
Lý chánh triết biết đèn ẩn đỏ,
Ngôi từ-bi thấu chỗ huyền thâm,
Lóng nghe kỷ giọng đờn cầm,
Khảy dây tao nhã phù trầm bên tai.
Bước tiến bộ cõi ngoài cảnh trí,
Xem trong vòng lao lụy mà thương,
Làm sao hết kiếp đoạn trường,
Dầu khi lầm lỡ khoan thương mới là.
Ðạo hiểu đặng tinh hoa siêu việt,
Mới chắc lòng phát tiết Càn-Khôn,
Chữ tu đắc quả danh đồn,
Ngoài vòng khôn dại, dại khôn của đời.
Tuy không nói mà lời tao nhã,
Tuy không làm mà quả lại cao,
Khoan dung tế độ đồng bào,
Mở lòng bác-ái tạc vào linh căn.
Ðường xa xem khá răn lòng tục,
Nẽo muôn trùng tâm dục phải ngừa,
Chơn truyền ngỏ đặng sớm trưa,
Lý sâu siêu việt mới vừa lý cao.
Sửa thế phải rõ màu cao thấp,
Tu thân cần bồi đắp quả lành,
Giữ tâm tịnh, gìn chí thành,
Chí tâm mài sửa tu hành mới nên.
Gặp cảnh ngộ hai bên gây tụng,
Người hung hăng hiếp chúng cậy quyền,
Binh người yếu, phải tâm hiền,
Nhưng lòng cân nhắc thử duyên cớ gì?
Tại sao có sự chi kiếp trước,
Nên hai người mới được gặp đây,
Cũng vì tiền thế đã gây,
Quả xưa yếu trả, ác nầy mạnh mang.
Xét cạn lý rõ ràng tự liệu,
Rày ta đà đoạt hiểu cao rồi,
Lòng thương phát đến thương ôi,
Hai người ta lại đem lời nhủ khuyên.
Ấy biết Ðạo, biết duyên, biết trái,
Xử thế noi gương phải thật hành,
Cao siêu tận thiện chí thành,
Mà không suy nghĩ cũng đành bỏ qua.
Lý Ðạo mới cao xa huyền diệu,
Bớ chúng sanh rán hiểu cho tường,
Ðức công lập vững mọi đường,
Thật hành đạo-đức mới tường lý chơn.
Người còn thấp thiệt hơn còn sánh,
Bởi lòng phàm cậy mạnh ỷ quyền,
Là còn lẫn lộn trái duyên,
Còn mê muội thế còn thuyên việc đời.
Khi trước đã nhập nhồi chẳng hiểu,
Nên tâm linh còn thiếu quả căn,
Người hiền thanh khí trang bằng,
Ðã đầy trí lực lại phăng cao lòng.�����
Biết suy nghĩ gạn trong lóng đục,
Xem người đời lắm lúc đau thương,
Chí tâm tìm kế cứu ương,
Lựa điều tế độ, tìm phương dắt dìu.
Coi sanh chúng càng yêu càng mến,
Ngắm vạn linh càng đến động lòng,
Tìm phương phá lưới mở vòng,
Cho người khỏi chậu khỏi lồng thế gian.
Mới là cứu độ tai nàn,
Mới là cứu độ vững vàng đạo tâm.
Bớ đời hiểu lấy cao thâm...
THI:
Thâm thẩm đường xa mối Ðạo truyền,
Người tu dầu tập đặng tâm hiền,
Gắng suy chớ lụy, cao tâm thấu,
Mới đặng hành vi trọn thửa nguyền.
Ta ban ơn chư hiền.
THI:
LIỄU yếu phất phiêu gió thổi nà,
NHỨT oai lịnh chiếu hợp Tiên gia,
CHƠN tâm phát triển nan thanh bạch,
NHƠN phẩm hiệp đoàn đến Phật-Ðà.
Bần-đạo mừng chư hiền sĩ.
BÀI:
Kỳ đại hội Long-Hoa bước tới,
Buổi cận kề chớ đợi khổ thân,
Chí tâm tu học cho cần,
Lý chơn khá vẹt tinh thần quang minh.
Bền chí cả thâm tình siêu thoát,
Lẽ ẩn vi bao hoát kiền khôn,
Thuận bườm xuôi gió vĩnh tồn,
Lựa vèo độ khách chiêu hồn thoát tai.
Khá chung trí chèo quày thuyền lại,
Vớt kẻ mê quảng đại khoan hồng,
Từ-bi, bác-ái cần mong,
Thoát vòng khổ não mới hòng phải trang.
Lòng chí sĩ mau toan độ khách,
Lúc tai nàn phá vách trần ai,
Cho đời lánh chỗ đắm say,
Rõ đường chơn giả thiên oai mới là.
Dòm thế sự thiết tha lăn lóc,
Thấy đời tàn mà khóc cho đời,
Than ôi! hèn thấp châu rơi,
Biết bao ráo lệ khỏi nơi đọa đày.
Bởi nhơn chúng miệt mài vật chất,
Làm cho thân phải mất tinh thần,
Vì chưng thấu đáo cội nhân,
Bởi chưa thống hiểu phong trần là bao.
Giọt sương tỏa cánh bèo trôi nổi,
Trên giòng khơi tuyệt đối nào hay,
Hớ hinh chi lắm trượng tài,
Lấn chen xô đẩy nạn tai lắm lần.
Khá mở mắt cân phân từ dấu,
Khá quan tâm mà thấu cơ Trời,
Siêu hình lố dạng năm nơi,
Tại người tạo lỗi khó lời than van.
Lựa hồi tốt chiêu an bá tánh,
Lựa dịp may mà đánh thức mê,
Cho người rõ lối não nề,
Mau chơn theo dõi kịp về Bồng-Sơn.
Rán lóng rõ tiếng đờn khoan nhặc,
Ðể tai nghe thẻo thắt canh chầy,
Nâu sòng tạm dụng làm khuây,
Cho qua ngày tháng theo Thầy tầm phương.
Cứu giống dòng khỏi đường lao lý,
Thương nhơn sanh gắng chí học đòi,
Noi gương Khổng Mạnh đèn soi,
Dụng thuyền từ ái tìm tòi Ðạo cao.
Qui chủng loại đồng bào một mối,
Qui vạn linh chung khối tinh thần,
Vẹt màn mờ mịt lý chơn,
Tỏ câu từ ái keo sơn gắng lòng.
Dụng phương thuốc đề phòng nạn tới,
Ấy là phương cứu lỗi mê hà,
Rõ mùi đạo lý sâu xa,
Hết cơn nghiêng ngữa chung hòa nhứt tâm.
Bởi sanh chúng than thầm chi xiết,
Tại nơi người chưa biết đường tu,
Cam lòng đành chịu mịt mù,
Nay nghe đờn khảy cọng phù phấn tâm.
Cơ Ðạo chuyển cao thâm huyền bí,
Mối quang minh chung thỉ tận tình,
Dốc lòng hiệp sức đinh ninh,
Mai sau sẽ rõ Ðạo Huỳnh cao siêu.
Hằng ngày giữ qui điều chánh pháp,
Gìn chơn tâm bồi đấp gia tâm,
Lưu hành vạn tải huyền thâm,
Thông thường sắc chỉ rõ mầm lý chơn.
Chí sở hướng dìu đường nhơn loại,
Chí tâm thiền chế cải phàm phu,
Lẹ chơn giải thoát lọng dù,
Mau tay gở rối phá mù vẹt mây.
Lòng tận tình hội nầy chí quyết,
Quyết một tâm lý triết sưu tầm,
Tìm tòi nghiên cứu Ðạo thâm,
Biện phân lý lẽ mới tầm đường minh.
Rõ cơ quan cũng in như một,
Khác chi mang những lớp con tuồng,
Diễn trên sân khấu thường luôn,
Hết hồi quyền thế như tuồng cải lương.
Nhìn cuộc thế xiết thương lắm nổi,
Xem tình đời mơi nổi chiều chìm,
Tỷ như bèo dạt linh đinh,
Trên dòng bích thủy non đình ngóng trông.
Xem thấp thoáng tựa vòng cương tỏa,
Cũng tỷ như một đóa sen hường,
Ðơm bông ngào ngạt mùi hương,
Nhưng trong nội giới khá thương đồng loài.
Khá tấn bước đắng cay chớ nệ,
Chí đởm đương chẳng kể thân hình,
Quyết tình chỉ lối quang minh,
Cho đời thức giấc huỳnh đình an vui.
Cành thung thuận tưới mùi lắm lúc,
Tiếng chim oanh từ khúc thở than,
Cho đời xáo lộn dinh hoàn,
Nghĩ cơn xơ xác có nhàn chi đâu.
Rủi gặp lúc tang dâu loài lạc,
Làm cho đời ngơ ngác tâm hồn,
Hết cơn dại dột đến khôn,
Bền tâm tu niệm vĩnh tồn hậu lai.
THI:
Lai đáo trần ai cứ miệt mài,
Nhúm nhen đồng loại chớ đơn sai,
Kết giây liên ái cho hoàn tất,
Dụng nghĩa tình thâm đặng rộng dài,
Ổn thỏa tâm tình đừng lợt lạt,
Vui vầy trí tưởng chẳng hề sai,
Ân thâm lý Ðạo mùi thơm nức,
Ðạo-đức thật hành đã cạn bày.
Ta ban ơn chư hiền sĩ nam nữ. Chư hiền thành tâm tiếp giá QUAN-THÁNH ÐẾ-QUÂN.....
THI:
Ðạo cả gầy nên mối đại đồng,
Ðức đầy mới đặng chí thong dong,
Thật tâm qui tắc theo đường trí,
Hành đúng Thiên cơ mới rõ lòng.
Chí dạ nương theo đường chánh đại,
Thành tâm bước đến cảnh Lai-Bồng,
Tu hành chớ nệ cơn nhằn nhọc,�����
Niệm đức từ bi thoát khỏi vòng.
THI:
Ðêm trường QUAN bút tỉnh đời an,
Trí thức THÁNH nhơn độ rổi đàn,
Khai hoát ÐẾ tâm qui chánh pháp,
Mở đường QUÂN tử giải sầu than.
Mừng chư hiền sĩ nam nữ.
BÀI:
Lòng quyết chí Thật Hành Ðạo-Ðức,
Chớ nài chi những vực hố hầm,
Ðêm ngày lập chí sưu tầm,
Cho ra manh mối khỏi lầm quả căn.
Chí cương quyết mong lằn điển triệt,
Lý cao siêu rõ biết cơ mầu,
Thực hành chánh thể đôi câu,
Nghĩa nhơn xử vẹn đứng đầu chơn tâm.
Hễ biết Ðạo cố tầm cho chóng,
Chống con thuyền lướt sóng qua truông,
Một tình bươn chải bôn chôn,
Miễn là thực hiện sinh tồn vạn linh.
Ðêm ngày chí tận tình phân biện,
Biện cho rành ý kiến quán thông,
Các điều hư thiệt nằm lòng,
Mới là chơn-lý đại-đồng chánh chơn.
Ðừng có dạ cưu hờn chác oán,
Phải thành tâm mà hản cuộc đời,
Qui điều chiếu luật tô bồi,
Cho tinh khiết đặng khúc nôi tận tường.
Dầu nếm tuyết dầm sương chớ quản,
Dầu gặp cơn nắng hạ chi sờn,
Quyết tình khảy tiếng ngâm đờn,
Dẫn đầu nhơn loại keo sơn một lòng.
Lòng đởm đương chí mong thắng đoạt,
Các dục tình khiến ác chơn tâm,
Biện phân cho rõ kẻo lầm,
Ðó là giả thể tự tâm ta nào.
Lòng xót thương đồng bào một mực,
Hễ làm người thiết thực chẳng ly,
Làm cho tươi nhuận gắn ghi,
Rộng lòng thương đạo tứ vi cho đồng.
Chí giúp đời tận lòng son sắc,
Lấy hết tâm dìu dắt đệ huynh,
Nương thuyền từ huệ linh đinh,
Kiếm người mơ mộng vớt hình thân đau.
Ðạo đức vốn phong trào cứu thế,
Ðạo chánh chơn phổ tế vạn sanh,
Chiêu an bá tánh đành rành,
Cơ Trời máy tạo siêu sanh độ hồn.
Rán thực hiện cứu tồn khắp chốn,
Lòng ái tha khó khổn cho đời,
Cơn nhàn thuận cảnh hôm mơi,
Ðó là tiền kiếp của Trời bố ban.
Lòng chí sĩ lao nàn chi sá,
Miễn độ đời cho thỏa lòng vui,
Cứu nhơn thoát tục rõ mùi,
Ðạo Trời huấn luyện cứu đời tang thương.
Hành chánh đạo tận tường chơn lý,
Muôn việc chi có thỉ có chung,
Thương người mến vật đến cùng,
Nghe lời huấn giáo chẳng cần phải hư.
Học biết Ðạo khư khư hành thiện,
Rõ chúng sanh quyết luyện tinh thần,
Muốn cho người đặng như thần,
Ðiều chi trái với lương tâm đừng làm.
Ngày chí tối lòng ham hành thiện,
Cứ nghĩ suy những chuyện giúp đời,
Tâm phàm hay muốn đổi dời,
Thừa cơ hội ấy khiến người chẳng tuân.
Những mảng tính mình nưng cao giá,
Mà khinh đời gây họa liền liền,
Biết thân vị kỷ phải kềm,
Lý chơn một mực êm đềm chánh tâm.
Biết sự thế lạc lầm tạo khổ,
Thì gia tâm rổi độ cho tròn,
Ðừng lòng tu giả màu son,
Bề ngoài từ thiện ác lòng trong tâm.
Việc đạo-đức cao thâm phải hiểu,
Chớ sa mê chẳng chịu thật hành,
Phật khuyên lánh dữ làm lành,
Ngồi không chẳng có đặng thành chi đâu.
Người mộ Ðạo cao sâu phân giải,
Gặp người chưa rõ lại làm ngơ,
Ðừng làm như vậy bơ thờ,
Ðạo Trời chung trí dạy cơ đồng phần.
Hễ biết nghĩa thọ ân chẳng bội,
Thì khuyên người sớm tối cần tu,
Cứu đời phải tập công phu,
Ðừng làm mặt Ðạo mà mù nơi tâm.
Thế thường có lạc lầm những chuyện,
Cứ khoe danh, khoe tiếng cho mình,
Rán tâm hành Ðạo tận tình,
Mà lòng chác lợi tự mình cao siêu.
Chẳng những biết thân liều với Ðạo,
Mà dặn trò hiếu thảo cho rành,
Thế nào cũng độ chúng sanh,
Dầu cho khó nhọc chẳng đành làm ngơ.
Ngày chí tối kỉnh thờ Tiên Phật,
Lời nói ra cho thật cho ngay,
Việc làm cũng phải rộng dài,
Coi người như thể có tài hơn ta.
Ấy mới gọi tu là cội phước,
Ấy mới tường hiểu được lý chơn,
Chúng sanh trong cõi tuần hườn,
Bớ người dẹp sự thua hơn kia nào.
Tánh ăn ở phải trau hòa thuận,
Tâm thiện từ chẳng khứng điều chi,
Dầu cơn tử biệt sanh ly,
Lòng hằng những vẹn tiết nghì chẳng sai.
Sửa tâm tánh hằng ngày cho kỷ,
Chiều ngồi yên suy nghĩ lại coi,
Ngày nay mình đặng hẳn hòi,
Hay còn lầm lở nguyện noi chí lành.
Cứ tâm tịnh luyện phanh các việc,
Các việc đều hiểu biết nơi lòng,
Mà còn giữ chặt đề phòng,
Sợ tâm thiên vị khó hòng thoát lao.
Người vẹn vẽ đạo cao lánh tục,
Chẳng vì cho một chức lợi nhiều,
Trái oan ngăn đón chẳng chìu,
Còn vương một mảy còn điều gian nan.
Bớ khách tục biết đàng tu học,
Lời phân minh chí dốc thật hành,
Ấy là biết đặng sự lành,
Biết làm việc phải Trời dành phước cho.
THI:
Thương nhơn mến vật ấy là tu,
Bác-ái từ tâm cứu thế phù,
Chi quản tấm thân dầm trải tuyết,
Chí nguyền thẳng đến hưởng ngàn thu.
PHÚ LỐI VĂN:
Từ đạo-đức thật hành thì mới phải người chí thành đối cùng phận sự.
Lòng đởm đương rán phấn đấu cho trọn chữ tu hành.
Trước phải lo gánh vác mối nợ quần sanh.
Vậy mới rõ con đường lành siêu sanh Tịnh-Ðộ.
Rán biện phân cho thấu đáo mà thoát qua cơn khổ được ơn võ-lộ của Trời ban.
Khá chí tâm mà chèo chiếc bửu thoàn, đặng độ khổn trần gian thức giấc mộng tràng mà bước lên con thoàn quang minh chánh đại.
Vì xem thế cuộc nhơn tình lắm điều khổ hại mà chế cải đặng cứu giải cho hết họa tai.
Cõi gian hồng hiếm chi là người trí thức với anh tài.
Mà còn phải bị đắm say theo con đường khổ gay khó bước quày trở lại.
Bớ người đời khá lóng tai mà nghe cho rõ giọng phù trầm chớ có lòng hai mà phải đọa.
Dòm thấy cuộc đời quá muội mê nên phải sụt sùi châu rơi lả chả.�����
Bởi vậy cho nên hễ đứng làm người thì phải chịu cơn nắng hạ độ rổi cho hết mối thương tâm.
Hằng ngày rán tìm tòi nghiên cứu cho rõ mối Ðạo thâm.
Thì mới có thể độ đời thoát khỏi lầm nơi con đường hắc ám.
Rọi ngọn đuốc quang minh cho tỏ sáng.
Ðể cho người đời hết cơn mờ ám giải thoát ra cho khỏi đám mù mây.
Phải mở lòng nhơn ái thương nhơn mến vật của Thầy.
Thì mới gọi người biết thức tri thời vụ theo cơ chuyển xây noi lằng tiến thủ.
Chìu theo luật Trời thì con người phải chịu đủ tai nạn đắng cay.
Vì lòng người hay khéo lá lay đổi thay rồi chán ngán.
Rõ mùi đời thì có chi vui thú mà đặng phải chìu lòng ta thán, ấy cũng vì mê theo đám xa hoa.
Phải để hết tâm chí giúp đời cho qua chỗ trầm kha bể ái.
Bớ ai ôi! chớ nên quá tạo thêm giây oan trái rồi phải thân dầu dãi mà dày gió dạn sương.
Khá hiểu thông triết lý của Ðạo cho xác đáng tận tường.
Thì mới có thể dứt cuộc tang thương hết giấc đoạn trường đặng bước bươn lần lên con đường chơn giác.
Rán nâng cao mối Ðạo Trời cho hoàn toàn tấn phát, đặng thưởng thức đầm đã bát ngát mùi thơm.
Chí tâm dõng mãnh lần hồi độ khổn nguy nàn đặng rõ thấu nguồn cơn chi sờn đắng cay lao nhọc.
Khó nhọc chi sờn quyết học tu,
Lao tâm tiêu tứ hưởng ngàn thu,
Cảnh Tiên vui thú chi so đặng,
Ðời khổ lắm thay thể ngục tù.
Ban ơn chư hiền.....
14.- THIÊN CƠ VẬN MẠNG
__________
THI:
VÂN trường lặng lẽ cảnh điềm nhiên,
TRUNG Ðạo Thiên cơ đã ứng điềm,
TỬ giả sanh lai đời mấy mặt,
Mừng pho Thánh-Ðức ngộ kỳ duyên.
Bần-đạo đến giờ nầy dạy chương Thiên-Cơ Vận Mạng. Chư hiền khá tịnh tâm nghe.
BÀI:
Ðường ngàn dậm thiên san vạn hải,
Cuộc thế đồ gẩm lại có bao,
Cảnh Tiên chiếm quẻ Nam-Tào,
Thấy đời lận đận đớn đau muôn phần.
Có Khương-Thượng đến gần Tiên động,
Thỉnh hạ san cho chóng đến đàn,
Vẳng nghe khẩn lạy vái van,
Lần dò mây phủ nhập đàn cấp lai.
Ðưa chén thuốc tỉnh say cho thế,
Cậy ngọn cơ lời quế phân rành,
Phận người trong cõi tử sanh,
Biết đâu ấm lạnh năm canh mà ngờ.
Thiên-Ðạo với Thiên-cơ đâu rõ,
Sự hành vi dầu có chánh đường,
Cũng vì vận mạng chưa tường,
Sanh trong cảnh thế đoạn trường thiết tha.
Có những khách giải ra cảnh khổ,
Biết lý chơn tìm chỗ ẩn thân,
Lòng phàm giữ thuyết vô thần,
Không kiêng Trời Phật chẳng cần linh thiêng.
Ấy những kẻ đã riêng trí tưởng,
Bởi vậy nên phải vướng đọa đày,
Ôi! đời có đặng tỉnh say,
Hay còn mê muội cầu may kia là.
Kìa võ-trụ bao la man mát,
Nọ vạn sanh sống thác có chừng,
Mây mưa nắng hạ triều dưng,
Nước ròng nước lớn lửa thuần khói mây.
Hỏi những khách thiện tài vô giáo,
Ai sanh ra ai bảo cho đồng,
Mưa sa sấm sét não nồng,
Bốn mùa khí tiết đổi trong nhuận hồn.
Cây cỏ mọc trái đơm bông nở,
Hỏi khách trần cây cỏ ai sanh,
Hay là vô thủy biến thành,
Rồi ai cầm lấy quyền hành sửa đương.
Không lẽ nhà chủ trương chẳng có,
Mà làm sao tạo đó nên nhà,
Cũng người cũng trí cũng là,
Thì suy cho rõ lý xa mới mầu.
Kìa đao binh năm châu nổi dậy,
Nọ nạn tai xem thấy thảm thương,
Hỏi người trong cảnh vô thường,
Có tài thì khá ngăn đường bình an.
Những mảng gọi mình sang mình hiểu,
Mà quên Trời chỉ biểu dạy thành,
Biết trong vạn vật chưa rành,
Mà xưng chí sĩ văn lành múa gươm.
Ngọn bút tỏa như bườm cậy gió,
Hỏi gió yên bườm có chạy không,
Lấy chi mà gọi quán thông,
Rằng nhờ tâm trí mới mong hiểu đời.
Hỏi nếu chẳng có Trời tạo trí,
Rồi người đời hiểu lý tại đâu,
Mà quên lý nhiệm cơ mầu,
Lại cho rằng thiệt trên đầu không ai.
Kìa khoa học rất tài tìm kiếm,
Dưới bóng Trời mạo hiểm xét dò,
Mà chưa thấu đến Tạo đò,
Cũng còn kiếm mãi cũng trò xét suy.
Kìa mặt kiếng hiển vi chiếu đại,
Rọi lên trời chiếu phải rõ chăng?
Kim thời khoa tạo dữ dằn,
Khí binh tài phép cậy lằng âm dương.
Nhưng chưa rõ phân tường máy nhiệm,
Còn gia công tìm kiếm cho ra,
Cơ Trời dầu xét gần xa,
Cũng không biết đặng thiệt là cũng không.
Tài tạo những đồ trong thủy khí,
Sức gầy nên nhiều lý cao siêu,
Kìa con trùng dế chít chiu,
Ðâu người tạo thử ít nhiều được không? (cười)
Vậy mà cũng khoe thông chi đó,
Nầy nghe Ta dạy rõ cơ Trời,
Dầu cho Tiên Phật nhiều lời,
Cũng không rõ đặng máy Trời bớ ai.
Phải rán tu ra ngoài cảnh khổ,
Bước thang mây mới rõ cơ linh,
Trong khuôn Tạo-Hóa vạn hình,
Dầu cho biết cũng thật tình còn sai.
Người là đứng ra ngoài vạn vật,
Biết cuộc đời đặng thất nên hư,
Nhờ Trời cho chút thiên tư,
Nhờ Trời un-đúc cũng như dạy bày.
Kìa ngọn cây hằng ngày tươi tắn,
Càng lớn lên càng đặng sum nhành,
Nở bông đơm trái đành rành,
Hỏi ai sửa soạn tạo thành đó cho?
Người trong cõi hư vô chi khí,
Ðấng Chí-Tôn nguyên thỉ tạo thành,
Tùy theo vận mạng chuyển sanh,
Nương theo khí hóa mà thành Ðạo trung.
Người cậy máy âm dương chế tạo,
Nhờ khối linh chia bảo sanh tồn,
Thiên linh dạy dỗ linh hồn,
Còn trong xác thịt hơi tồn lưu thông.
Mỗi một vật đứng trong hoàn-võ,
Cũng đều là hấp thọ khó thiên,
Nên trong các vật hậu tiền,
Vắng hơi thì ắt hồn lìa xa thân.
Ðó là máy Tạo-Công sanh hóa,
Còn dưỡng nuôi người đã định phần,
Mỗi hồn đều có một thần,
Chăm nom săn sóc độ lần tiến lên.
Dầu cây cỏ cũng đều như vậy,
Kìa người đời hằng thấy rõ ràng,
Thánh Thần phò hộ bình an,
Tại sao người ngộ tai nàn lắm ru?�����
Vì căn trước kiếp tu còn ít,
Hoặc lòng người ác thích tội tình,
Nhân gầy quả phải đáp đền,
Ấy trong máy tạo công bình mà ra.
Người hằng nhờ cao xa trí độ,
Biết đường tu đổi số sang hèn,
Cũng nhờ phân biện trắng đen,
Nên nương theo Ðạo, sửa hèn thành sang.
Mỗi một vị linh-quang tá thế,
Ðều nhờ nơi Thượng-Ðế ban cho,
Có người dạy, có người lo,
Thần linh hằng phải cam go với hồn.
Rồi còn phải chịu tồn ác khí,
Vì người không biết lý lỗi lầm,
Phật Tiên ân nặng nghĩa thâm,
Dạy người thoát khỏi luân trầm nạn tai.
Những anh linh hằng ngày tế thế,
Còn sanh hồn cũng thể xác thân,
Vậy nên phải trọng Thánh Thần,
Kỉnh thờ Trời Phật ân cần mới nên.
Nếu cải lịnh Bề-Trên phải đọa,
Nếu dễ ngươi tai họa tới liền,
Phước lòng nhờ thiện tâm hiền,
Tội vì chẳng biết lỗi nguyền khinh khi.
Còn vận mạng phải suy cho rõ,
Sao kẻ giàu, người khó chẳng đồng,
Người vui dạ, kẻ đau lòng,
Người sao trăm tuổi, người không đặng bền.
Vì vận mạng dưới trên có bực,
Có nhiều khi kẻ cực nên sang,
Bởi chưng biết đặng Thiên-Ðàng,
Còn người cao thượng lại mang tai nàn.
Bởi ỷ thế không màng Trời Phật,
Phước trước kia đã thất hết rồi,
Tội tình nay phải đền bồi,
Chạy đâu cho khỏi quả nhồi hiển nhiên.
Vận mạng có: hậu, tiền, hiện tại,
Chẳng trước phân trái phải được đâu,
Nếu người biết rõ Ðạo mầu,
Lập tâm tu niệm khẩn cầu mới nên.
Cũng có kẻ cậy tên Thần Thánh,
Ỷ lại mà gọi chánh cầu thân,
Chẳng lo tu niệm ân cần,
Hoặc tu mê tín, cậy thần ước mơ.
Rồi sanh dạ mờ hồ ảo tưởng,
Phải lạc lầm phải vướng đường nguy,
Bớ đời cặn kẻ nghĩ suy,
Thiên-Cơ vận mạng phân thì một chương.
15.- XẢ THÂN GIÚP ÐỜI
__________
THI:
BẠCH cúc mùi hương thấu cửu trùng,
VÂN phi thượng khải tịnh thung dung,
ÐỒNG thuyền chèo đến nơi Bồng đảo,
TỬ giả lai đàn luật pháp tùng.
Chào chư hiền, khá thành tâm tiếp giá ÐẠI-THÁNH.
(Tiếp điển)
THI:
ÐẠI Ðạo hoằng khai rất vẻ vang,
THÁNH Kinh ban rải thức nhơn hoàng,
TỀ minh Thánh-Ðức người tường tận,
THIÊN luật chiếu phê lịnh Phụ-Hoàng.
Mừng chư hiền sĩ.
THI:
Xả thuyết cho đời tỉnh giấc kha,
Thân tâm cao khiết thoát gian hà,
Giúp người côi cúc qua cơn khổ,
Ðời chịu đắng cay bả lợi hòa.
Con người đứng trong hoàn vũ thì phải lãnh lấy cái luật xả thân giúp đời, ấy là bổn phận tự nhiên, chớ chẳng thế nào từ chối cho đặng, đó là một phương pháp tiến hóa từ chỗ thấp hèn vô minh tăm tối cho đến con đường cao siêu thoát hóa, được thấu đáo mọi lẽ thiên nhiên, mà lại được trầm tĩnh ung dung thơ thới. Vậy các trò phải thật hành mới mong tiến thủ, hợp với cơ Trời, vì luật Trời là một cơ quan để dẫn dắt con người siêu phàm nhập Thánh, dầu cho loại nào cũng phải chịu trong cái luật ấy. Nếu các trò thi hành cái luật giúp đời mà trong lòng còn mộng tưởng sẽ được kết quả, hưởng phước về sau, hoặc là cầu danh, cầu lợi, ích kỷ, đó chẳng qua là một sự buôn bán, chớ phải nào thật dạ giúp đời đâu.
Nếu các trò muốn giúp đời cho thiệt cao siêu, thì tự nhiên trong tâm giới xuất hiện, phát tiết một cách điều hòa tự nhiên. Giúp đời không mong tư lợi, không mong hưởng quả lành, không cần ai khen chê gièm siểm, miễn là tự giúp đời cho được ảnh hưởng tiến hóa, đó là cái sở hữu của người tu, vì thật dạ thương đời, mới là người biết thực dụng theo con đường Thiên-lý vậy.
Ấy thật giúp đời một cách tối cao, dầu cho có lao tâm cực trí đến thế nào cũng chẳng thối chí ngã lòng, chí nong nã quyết làm sao cho đời được thưởng thức cái mùi dịu ngọt của ngọn thần đăng chơn-lý là Ðạo vậy.
Giúp đời là con đường giải thoát của người tu. Nếu các trò tránh con đường ấy thì khó mà đi đến cái mục đích cứu cánh được.Người tu phải hiểu rằng: những loài sắt đá nó còn phải liều mình giúp cho cây cỏ tiến hóa; loài cây cỏ thì cũng xả thân giúp cho loài cầm thú mới được tiến hóa lên; rồi loài cầm thú cũng phải xả thân giúp cho loài người đủ món, mới được tiến hóa lên. Ðến loài người cũng tự giúp đời mới tiến lên ngôi Tiên Phật.
Như các loài côn trùng thảo mộc thấp hèn cũng phải đi trong cái luật ấy thay, huống chi là con người có đủ trí khôn ngoan mà không chịu thật hành theo đó, thì chẳng là thấp hèn hơn các loài dị loại ấy sao?
Vậy ta đã chỉ rành cái luật xả thân giúp đời cho các trò rán noi theo đấy mà giải thoát lần lên ngôi Tiên Phật.
Nếu các trò không đi trên con đường nầy, thì chẳng còn đường nào mà tiến hóa cho được.
Ấy vậy cái luật xả thân giúp đời rất cần thiết cho người học Ðạo lắm: nó sẽ làm cho người dại trở nên khôn, người dữ trở nên hiền, kẻ trình độ còn thấp hèn được tiến thủ mà thông hiểu các lẽ thiệt hư.
THI:
Giúp đời nào nệ lúc gay go,
Phận sự độ toàn dốc chí dò,
Giải thoát lần qua bờ Ðạo ngạn,
Giúp đời tiến hóa đến Tiên đò.
Cần chuyên hôm sớm cho tường tận,
Siêng học Ðạo cao thấu lý dò,
THÁNH-ÐỨC CHƠN-KINH bày tỏ sáng,
Chánh truyền nguồn cội rán tâm mò.
BÀI:
Mò kiếm mối Ðạo vàng thấu đáo,
Luật ẩn vi thoát ảo tưởng lần,
Khuyên trò lánh bả phù tân,
Thực hành ÐẠI-ÐẠO hưởng ân CAO-ÐÀI.
Máy linh động chuyển day tứ hướng,
Soi các nơi mà lượng cân đồng,
Công-bình, bác-ái cho thông,
Chiêu an bá tánh lánh vòng trần gian.
Nương buồm loan qua thoàn hải đảo,
Cho đến bờ rõ Ðạo cao thâm,
Khá tua tu học kiếm tầm,
Giúp đời nào nệ cơ tầm khó khăn.
Nhìn loại vật lăng xăng thê thảm,
Luật xả thân ai dám trọn nào,
Những loài thảo mộc âm hao,
Biết gìn theo luật rõ màu lý chơn.
Huống chi người còn hơn trí thức,
Lại kém thua được bực thú cầm,
Quyết tình giải thoát khỏi lầm,
Khá mau thực dụng lần lần tiến lên.
Khá giữ chí tâm bền giúp Ðạo,
Lòng nguyện cầu bổ báo Thiên nhan,
Vì trò hấp thụ điển quang,
Của Trời ban cấp phải làm sao đây?
Có phương pháp thoát dây buộc trói,
Chí giúp đời thoát khỏi sông mê,
Tiến lần lên đến cung quê,
Hiệp cùng Tiên Thánh đề huề vị xưa.
Rõ mùi Ðạo sớm trưa phán đoán,
Chẳng màng chi một đám sắc tài,
Bùa mê thuốc lú hại thay,
Làm cho khổ não anh tài lụy thân.
Xem thế cuộc phong trần mấy lát,
Ngắm cơ đời ngơ ngác tâm hồn,
Quyết tình cứu độ tử tôn,
Giúp đời một mực vĩnh tồn muôn thu.
Bực Tiên Thánh cũng tu thuở trước,
Cũng như mình chưởng phước hiện nay,
Trau lòng thanh khiết há nài,
Sớm khuya Kinh Kệ vui say tinh thần.
THI:
Tinh thần tu niệm thoát trần ai,
Chưởng đức trau tâm giữ dạ hoài,
Quyết chí nghiên vai lo gánh Ðạo,
Tận lòng lòn phận cứu đời sai.
16.- LUÂN-HỒI QUẢ-BÁO
__________
THI:
QUANG minh rọi điển khắp trần gian,
THÁNH chỉ châu phê chứng giáng đàn,
ÐẾ khuyết CHƠN-KINH gìn luật Ðạo,
QUÂN thần phu tử khỏi lầm than.
Giải pho THÁNH-ÐỨC cơn hồ điệp,
Luật pháp cứu nguy giấc mộng tràng,
Luân chuyển nhiều phen lên cực điểm,
Hồi tâm quả báo rõ Minh-Hoàng.
* * *
Luân hồi nhiều kiếp đặng tu hành,
Tiến thủ phàm gian đến cảnh thanh,
Nghiên cứu tu sao cho thấu hiểu,
Mới là quân tử đặng nên danh.
BÀI:
Danh người rành rạnh bia đề,
Bản son chép kỷ Tiên quê rõ ràng.
Trước kiếp thú nhiều đàng lao khổ,
Chuyển lần lên trần tố mấy phen,
Phải tuân luật pháp tập rèn,
Ân cần sốt sắng nhúm nhen cội nền.
Muốn tiến hóa lần lên trần thế,
Chịu xẻ cưa ép chế nhiều lần,
Tội tình chi phải sa chân,
Luật Thiên linh phải từ lần tiến lên.
Cả trăm kiếp lo đền phận sự,
Ðến làm người vụ chữ xá thân,
Giúp đời cho đặng tiến lần,
Ðến nơi cực điểm Tiên Thần đắc ngôi.
Luật Luân-Hồi tài bồi chịu quả,
Dãi dầu sương đặng trả trần ai,
Tội tình gây ác những ngày,
Xưa nay cũng vậy có sai bao giờ.
Luật Thiên định theo cơ tấn hóa,
Hãy sưu tầm lập quả bồi công,
Mới mong lên đến Lai-Bồng,
Luật Trời mầu nhiệm đại-đồng chánh chơn.
Ai rõ thấu nguồn cơn vũ-trụ,
Ai lão thông tiến thủ thiên nhiên,
Chuyển luân luân chuyển đáp đền,
Chí tâm nhứt dạ lo nền phận ta.
Luật ẩn vi tri ra mới rõ,
Trước phải lo chịu khó với đời,
Lần lần sẽ đạt cơ Trời,
Thâm sâu huyền bí nơi nơi khắp cùng.
Dãi sương tuyết mưa phùn lác-đác,
Cảnh non Bồng tiếng hạc kêu rân,
Giọng nghe tao nhã phù tân,
Hắt hiu gió thổi chịu thân nhọc nhằn.
Ai qua khỏi những lằng thanh khí,
Ai trong đời không chí lập nên,
Lại mong tiến thủ lần lên,
Luật Trời công lắm có quên bao giờ.
Dạy có kẻ phụng thờ lãnh chỉ,
Dạ sắc son yếu lý học đòi,
Nghiệm tâm học Ðạo rẽ ròi,
Mới ra thứ lớp tìm tòi Chơn-Kinh.
Cõi dinh hoàn nào xinh chi đó,
Chốn trần gian buộc bó con người,
Nếu người có chí thanh tươi,
Mới thành nghĩa sĩ hiểu mười luật ân.
Hiệp linh điển tinh thần phát triển,
Tu từ lần mà tiến hư không,
Rõ căn, rõ vị, rõ lòng,
Lòng người bao nã tâm không hiệp hòa.
Kìa tàn tật mắt lòa khổ phận,
Nọ bịnh nguy thân vẫn đớn đau,
Cũng trong ác nghiệp chớ sao,
Tội gây phải chịu khó trao cho người.
Kẻ sang cả vui cười hớn hở,
Người quyền hành thơ thới thảnh thơi,
Cũng nhờ phước đức nhiều đời,
Công bình pháp luật cơ Trời chẳng sai.
Muốn đặng biết tương lai vận mạng,
Muốn đặng tường cho hản nguồn căn,
Thì tua suy nghĩ rõ ràng,
Kiếp nầy tạo phước, ứng bằng kiếp sau.
Nếu kiếp trước chẳng bao nhiêu đức,
Thì hiện nay chẳng được thanh tân,
Hữu duyên xét kỷ xa gần,
Vạn loài thương mến đồng phần chớ lơi.
Kìa ngoại vật chịu nơi luật định,
Nọ côn trùng đều dính quả căn,
Cứ theo phận sự tiến lần,
Vận hạn cũng thể tương thân chung hòa.
THI:
Chung hòa vũ-trụ mới tinh thông,
Rán vẹt tâm trần đặng rõ lòng,
Luật chiếu tự nhiên thiên dĩ định,
Lần hồi tiến hóa rõ hư không.
17.- TRIẾT-LÝ: KHOAN-HỒNG ÐẠI-ÐỘ
__________
THI:
LÝ chánh khoan dung sự lạc lầm,
THÁI bình vạn vật đặng tình thâm,
BẠCH minh trước áng người tường hiểu,
Giáng thế kỳ ba rõ chánh tâm.
* * *
Khoan dung cho kẻ lỗi lầm thân,
Hồng phước Tiên bang mới đặng gần,
Ðại đức học gương xưa Phật-Tổ,
Ðộ nhơn hà hải rạng tinh thần.
Từ xưa đến nay, cũng nhiều Kinh sách, luật điều của các tôn-giáo chỉ dạy người tu, nhưng người đời vì chấp một bên cực đoan, mà quên phức chỗ Khoan-Hồng Ðại-Ðộ. Bởi vậy tôn-giáo, các giáo-hội thường có sự xung khắc lẫn nhau.
Thế là lạc lầm, là thấp thỏi, dầu người tu cao kiến mà còn ích kỷ như thế thì không có độ rổi ai đặng. Mà mình tự hãm nhốt mình vào chỗ tối tăm.
Ở ngoài đời, thường có sự chiến tranh, cũng vì tại nơi chỗ giựt giành quyền lợi riêng cho một nước mà gây thù chác oán.
Ở trong Ðạo, thường có sự ganh ghét lẫn nhau, vì tự cho giáo lý mình cao mà khinh bỉ tôn-giáo khác là dị đoan, là bàng môn tả đạo. Hai lẽ ấy dầu ai cũng biết là đê tiện hẹp hòi, mà chính người tu còn chưa tập đặng là cũng vì ích kỷ, nên muốn nói mình phải thì cho kẻ khác quấy, muốn trọng mình hơn, phải đè ép kẻ khác thua. Dầu khi đã rõ chơn-lý rồi, mà con người còn viện lẽ đặng tự tôn lấy mình, cho có thế quyền cao hơn người khác.
Vậy nên đời còn lầm lạc, tự tạo sự khổ nhọc lầm than cho đời. Ðạo càng sanh điều nghịch lẫn, chê bai ngạo mạn chia rẻ, phân vân, gây nỗi tương tàn cho Ðạo.
Có một lẽ trung tâm để phá tan cái màn hắc ám kia, nhưng người đời dầu có tỉnh thức thì cũng giả quên mà dung dưỡng cái lòng ích kỷ, thế thì người tu phải cần biết rằng: đem thân vào cửa Ðạo là đã biết mục đích của cuộc đời, nên dọn mình cho trong sạch, đổi họa làm duyên, bỏ giả về chơn, dẹp cái đời hẹp hòi bản ngã mà gầy dựng cái đời rộng rãi đại đồng. Thế mới gọi là tu, là học Ðạo.
Ở đời có lòng bác-ái mà làm cho yên tịnh dân gian, thanh nhàn xã hội. Giữ trật tự cho hoàn tất, giao thông cùng các nước, dân trí mở mang. Còn trong Ðạo thì cần phải tập cho được cái đức Khoan-Hồng Ðại-Ðộ, thì đường Ðạo mới tiến thủ đặng.
Người đời thường có cái chỗ hẹp hòi, hoặc vì cái lợi riêng, hoặc muốn thâu nhập về mình, nên thường đến khi thất bại thì đem những lợi khí cộc cằn để gây nên điều bất thuận. Nay xét cho kỷ dầu đi đường nào thì cũng không đến chỗ tối cao của Ðạo đặng. Vì tâm chí của đời chỉ yếu có lãnh hội được một phần viên mãn của Ðạo mà thôi.
Khi tỉnh giấc mộng trần, thì con người chỉ thấy cuộc thế gian bao la rộng rãi, mà con người đối với vũ-trụ cũng chẳng khác một hột cát vậy. Khi con người suy nghĩ việc sanh tồn của vạn loại, thì chỉ thấy mỗi vật đều có sự tương thân cùng liên lạc lẫn nhau. Bởi vì thế gian là giáo trường, mà vạn vật đều là học sanh, thì phải biết sự nương cậy cùng nhau, để tiến hóa mà thôi.
Kìa thử xem một người làm ruộng, nếu không có người dệt vải thì phải chịu trần truồng; mà người dệt vải nếu không có người làm ruộng thì phải đói khát.
Vạn vật ở trên thế gian đều tương đối cùng nhau cả thảy, cho đến nước nầy qua nước kia, cũng tương đối với nhau luôn luôn. Ðến chỗ nhỏ mọn là một người đối với một người, một vật đối với một vật, thì thảy đều như thế cả.
Vậy người tu đã biết cái chỗ vi diệu ấy rồi, thì phải mở đức Khoan-Hồng Ðại-Ðộ mà đối cùng nhơn vật, ấy mới nên cho.
Nếu chẳng đặng lòng ấy, thì con người cứ tàn hại cho người, ắt phải mất sự tiến hóa nơi tinh thần. Bởi để lòng hơn thua tranh giành cái bả lợi mồi danh kia, rồi mãn kiếp tu cho cao mấy cũng đem theo hai bàn tay trắng, lại còn lưu cho đời một bài học vô danh vô vị nữa.
Ðức Khoan-Hồng còn phải cái chỗ đáng cùng không đáng. Người đời có nhiều khi thấy người làm quấy có hại đến chúng sanh, mà vì có quyền có phẩm rồi cũng đồng để cho người cứ việc tiến hành. Làm như vậy không phải là khoan-hồng mà vốn là ích kỷ, hoặc muốn cầu thân, hoặc muốn lợi dụng.
Người thấp thỏi mới xem vào thì cho là rộng rãi, chớ kỳ trung là một sự hại người trong cơn tăm tối đó.
Người biết Khoan-Hồng Ðại-Ðộ thì chỉ giữ một lòng rộng rãi luôn, nhưng thường rộng rãi về chỗ công bình chơn lý, không thiên vị bên nào.
Khoan-Hồng về sự ăn ở, người có đức thường xá lỗi cho đời, dầu lỗi lớn hay nhỏ cũng vậy.
Vì biết rằng: người mang lấy xác thân phàm, dầu cho bực nào cũng có sự khuyết điểm cả. Nên mình đã rõ chơn lý rồi thì chỉ khuyên bảo mà thôi. Không nên câu chấp, xét cái chỗ lầm lạc kia là tại người chưa tiến hóa đến, hoặc còn vô minh nên mới làm những điều như vậy.
Ấy vậy đức khoan-hồng đáng học đáng làm cho người đời dầu trong trường hợp nào cũng để vào đặng.
Xưa Lưu-Khoan tha cho đứa ở đổ cháo trên áo rồng, mà người còn lo cho tay của đứa hài nhi kia sợ phỏng. Quan-Vân-Trường tha Tào-Tháo đã cam đoan trước mặt Khổng-Minh mà còn liều mình cam tự tội, lại sợ Tào-Tháo chạy không khỏi mà phải lụy thân.
Ôi! Những sự nhỏ nhen như thế người đời không để ý đến đâu, mà lại cho là thấp thỏi, để kiếm Ðạo cao siêu huyền bí, học làm Tiên làm Phật mà thôi!!!
Nhưng xem kỷ lại, thì làm người chưa đặng. Thế gian bởi cái chỗ sai lầm ấy mà tu nhiều thành ít. Không có Tiên Phật nào mà còn tánh ích kỷ hẹp hòi cả.
Rất đổi một người văn trung quan, võ dõng tướng còn không có tánh xấu thay, huống chi là những bậc Tiên Phật. Người tưởng rằng là làm Tiên Phật dễ dàng lắm, cứ ăn chay cho qua bữa, lạy Phật lấy ngày, rồi tự kiêu tự đắc cho là tu hành, cho là giải thoát, chớ kỳ trung trong cái tu ấy không tập tánh, không sửa lòng!
Thường có những kẻ hướng đạo cũng vì lẽ ấy rồi một ít lâu ra ngoài thôi Ðạo. Ðời vần xây biến đổi, lòng người thường có chuyện rất nhỏ mọn, không thể tả ra đây. Vì muốn đem một chén thuốc linh đơn cho đời uống mà mở lòng tự hiểu đặng tu cái Ðạo cao siêu chơn lý giải thoát ngoài vòng đau khổ, nên Lão mới cậy ngọn bút thần để diễn giải đôi lời trên quyển Thánh-Ðức, đặng nhắn nhủ người đời mau mau tự hối, kẻo mất hết cơ hội quí báu, là lúc Ðạo Trời rộng mở nầy.
Khuyên người đời rán suy nghĩ mà sửa lòng.
THI:
Học trau cho kỷ mới nên danh,
Ðạo đức muốn xong phải học hành,
Học Ðạo sửa tâm cho rộng rãi,
Tu thân xét kỷ mới nên rành.
Lão ban ơn chư hiền nam nữ. Khá thành tâm tiếp giá TRẦN-ÐOÀN LÃO-TỔ.
(Tiếp điển)
THI:
TRẦN thế hi-di một giấc nồng,
ÐOÀN cơ tạo-hóa lúc thong dong,
LÃO lai mừng quyển Chơn Kinh-Thánh,
TỔ khảo chia vui chốn đảo Bồng.
Mừng chư hiền sĩ.
THI:
Cuộc cờ sắp sẵn đợi hiền nhơn,
Hứng cảnh lạc nhàn lúc khảy đờn,
Vui thú tiêu thần cơ chuyển vận,
Hưởng thanh điển tụ chúc huyền chơn.
BÀI:
Huyền chơn thanh bạch cứu đời,
Chuyển mê sanh chúng nơi nơi hưởng nhàn.
Lòng sở nguyện cứu an bá tánh,
Luyện kim-đơn tựu đảnh nê-hườn,
Chuyên cần siêng tập chớ sờn,
Lần dò chịu khổ nguồn cơn rõ lòng.
Thân người dưới phong trần ngao ngán,
Ngậm ngùi cho một đám tàn linh,
Chuyển xây mối cả cao minh,
Rõ lòng bác-ái Ðạo Huỳnh rưới chan.
Chí hiển đạt thân tàn còn đắm,
Lúc mê tân khắc tấm mây vàng,
Cúc cung tận tụy chiêu an,
Ðộ hồn sanh chúng khỏi đàng trầm luân.
Vì có Ðấng Huyền-Khung tá thế,
Nhỏ cam-lồ phổ tế nạn tai,
Rán tâm chớ có miệt mài,
Trần gian lầm lũi khó quày đường Tiên.
Lòng áo não dẹp phiền thảm thiết,
Lòng ưu tư nhiệt liệt quá nhiều,
Thậm thâm nhơn nghĩa dấu yêu,
Cứ lòng na nỡm sớm chiều gìn xong.
Vì gây quả than lòng quá đáng,
Bởi thấy trò chưa hản lý chơn,
Lạc đường sái ngõ cưu hờn,
Chẳng thông đại độ nghĩa nhơn cứu đời.
Khá lưu ý cho người thức giấc,
Phải lo làm âm chất đặng tròn,
Ðủ đầy một dạ sắc son,
Chiêu an quần chúng nương thoàn lý chơn.
Khá biết rõ tiếng đờn lưu thủy,
Tiếng phù trầm thâm thúy đêm khuya,
Nghe xa đừng để tâm lìa,
Cheo leo giữa bể cứ bia thế tình.
Cơ Tạo-Hóa huỳnh minh linh động,
Gieo điển quang cơ thống huyền thâm,
Ðiểm tô rạng vẽ thâm trầm,
Cho ra manh mối cơ cầm thế nao.
Lòng ái truất tâm bào ta thán,
Lòng đầm đìa ai oán thêm buồn,
Chỉnh xem cơ Ðạo thêm buồn,
Thể như giọt nước trong nguồn chảy ra.
Chung trí khá hiệp hòa vững chắc,
Quyết đồng tâm dẫn dắt khách trần,
Khoan-hồng đại-độ cân phân,
Lỗi lầm chớ chấp một phần nào đâu.
Lòng tịnh thanh lo câu nhơn ái,
Quyết tâm đồng chế cải cho hòa,
Chí thành qui hiệp nhứt gia,
Làm người hướng đạo thiệt là làm gương.
Khá giữ phận chiêu chương lãnh hội,
Rõ máy linh thúc hối kịp giờ,
Chuyên cần chớ trễ Thiên-cơ,
Lướt lần qua hội phất cờ phi vân.
Phải thực hành ân cần lo lắng,
Chuyển Càn-Khôn dậm thẳng lưu hành,
Máy Trời nguyên thủy căn thành,
Mối linh quang phát đường lành ruổi dung.
Khá đeo đuổi cho cùng thiên lý,
Hằng kềm lòng chí khí cho thanh,
Thảo ngay một dạ chí thành,
Chung lòng trẻ thảo mới dành ngôi xưa.
Chí vững an thượng-thừa cương quyết,
Tâm rán tìm lý triết học đòi,
Quán thông mọi lẽ rẽ ròi,
Khá noi gương Thánh lòng soi cho cùng.
Thân anh tuấn giải xong cơ Tạo,
Quyết chơn tìm hải đảo tịnh thanh,
Luyện thần tựu đảnh cho thành,
Lưu thông trên dưới đã đành ngồi yên.
Phá tứ vách rõ liền Thiên lý,
Phá mê đồ chí khí nào phai,
Chơn tâm phát triển có ngày,
Bồng-Lai thưởng thức chiều mai khó gì.
* * *
Bần-đạo nhắm xem chẳng có trò nào thực hành Ðức Khoan-Hồng cho vững chắc.
Vì học Ðạo cần yếu phải lấy lẽ ấy mà làm căn bổn. Bấy lâu các trò bị mang dục vọng che lấp, thành thử "Ðức Khoan-Hồng" phải bị cách xa. Các trò cứ dùng một phía cực đoan là cơ chuẩn, chỉ biết có "TA" chớ không có quan thiết đến người, nên phải chia rẽ giai cấp, làm cho cốt nhục tương tàn. Ðạo rất cần thiết là Ðức Khoan-Hồng, thiếu đức tánh đó thì phải lắm phen đau đớn khổ cay. Bởi mình câu chấp đủ điều nên thân hình tiều tụy.
Ðó chẳng qua là lớp vỏ huyển tưởng ngăn lấp làm cho linh quang phải chịu lu lờ. Vậy các trò hằng ngày phải nhờ Ðức Khoan-Hồng cho lắm.
Ta ban ơn các trò.
18.- THỜI KỲ KHOA-HỌC ÐẾN THỜI KỲ CHƠN-TU
__________
THI:
Giọng Kinh QUAN quả giữa rừng xanh,
Lòng tục THÁNH Tiên cũng cảm thành,
Ðêm vắng ÐẾ sầu cơn nước yếu,
Ngày thu QUÂN thảm lúc đầu xanh.
Chào chư hiền nam nữ. Khá thành tâm có ÐẠI-TIÊN giá ngự.
(Tiếp điển)
THI:
Ðơm hoa LÝ trổ tiết thu nhuần,
Ðiển chớp THÁI bình Ðạo bủa giăng,
Kết quả BẠCH minh lời Thánh-Ðức,
Ðộ đời cứu thế đặng cao thăng.
Mừng chư hiền sĩ.
THI:
THÁNH bút Tiên cơ triết lý rành,
ÐỨC tu cảnh tỉnh khắp nhơn sanh,
CHƠN truyền Ðạo cả đời nhuần gội,
KINH tự trị tâm tập tánh thành.
BÀI:
Ðêm thanh vắng giọng Kinh tao nhã,
Giữa sơn kỳ buồn bã đến đâu,
Vẳng nghe tư tưởng van cầu,
Chạnh lòng cuộc thế khổ sầu đớn đau.
Lần bước hạc giá mau đàn nội,
Giáng linh cơ tỏ nỗi đục trong,
Rành phân chơn-lý đại-đồng,
Ðường sơn khê trải nỗi lòng thiết tha.
Tỉnh người cõi ái hà thảm đạm,
Thức người mê chế giảm tội tình,
Người tỉnh đặng giấc mộng huỳnh,
Biết đường chơn giáo biết mình thiên cơ.
Máy linh lý nhiệm sờ sờ,
Bớ đời suy nghĩ kịp giờ thành công.
Khuyên đừng để ngẩn ngơ lòng...
THI:
Chơn truyền lộ lý Ðạo cao thâm,
Thế sự từ đây hết kiếm tầm,
Gắng chí sửa trau lòng dưỡng tánh,
Dò trong lóng đục tại nơi tâm.
Ðường quan san viễn vọng, nẽo cách trở ngàn trùng, khách trần ai quảy gánh lên đường, nỗi nắng hạ, mưa đông, tuyết sương lạnh lẽo, lên đèo xuống ải, biết bao là nỗi thương tâm thảm trạng, chịu dày vò nắng hạn; thân phàm không xiết nỗi cay co, mang sự thế nhọc nhằn, tâm phàm tục không phân chua xót. Thảm thay! thoảng mãn xuân qua hè lại, thu mãn đông tàn, rồi cũng đành chịu chứa chan với nỗi lòng khổ lụy!!!
Thời kỳ thứ nhứt: vừa kiếm ra cuộc thế mục đích của người đời, thì thức tỉnh giấc mộng trường, bước lên con đường tu niệm, vào tôn-giáo chịu trong khuôn khổ, lánh trò đời quyết tìm nơi siêu độ kiếp trầm luân, chịu ăn chay, niệm Phật, tụng Kinh, đặng cầu đem mình lên ngôi Tiên Phật.
Thời kỳ thứ nhì: một ít lâu vừa quen mùi Ðạo vị với sự rau rác tương chao, rồi mới tự nghĩ đến thân phận tu hành. Giữa thời buổi cạnh tranh của thế, dầu ăn chay niệm Phật cũng chưa chắc là thành Tiên hóa Phật, nên mới khiến lòng mà giục tâm ham muốn đủ điều: nào kết quả thành riêng, đặng thanh nhàn nơi thế sự, vợ đẹp, hầu xinh, chủ nhơn thiên hạ, tiền hô hậu ứng, kiếp sang giàu mấy kẻ hơn mình, là cái mộng tưởng khi tu hườn tục.
Còn nói chi đến việc Thánh Tiên, thôi thì thanh nhàn vui thú biết bao. Mơi cờ Tiên, chiều rượu Thánh, mãn tiệc vui say trong cõi hư linh, phỉ tình thong thả. Thừa dịp ấy lòng tham sôi nổi, trí giục linh đinh, Ơn Trên lại chuyển đến đàn cơ, thiệt vui mừng quá độ. Mình là cao đức được hầu học Tiên Ông, thọ thiên ân đủ món, rồi lãnh về mặc tình cao sang quí trọng. Giữa cuộc đời mộng ảo, mặc ai đau khổ với đời. Trong Ðạo thanh nhàn thong thả tình ta vui say với Ðạo. Muốn nay thành, cầu mai đắc, rồi đây mình cũng được một vị cao quan. Tính sự hơn thua, lãnh vai tuồng hành đạo, tự tôn, tự đắc, chia rẻ đệ huynh, quên tình đồng loại, tự tạo quyền riêng, khiến nên chia phe, rẻ phái, mong thành Tiên Phật, chớ quên mình ở giữa trần ai. Thời gian lôi cuốn, hoàn cảnh tạo nên, năm nay qua, năm sau tới, nhựt lai nguyệt vãng, vật đổi sao dời, cánh cánh bên lòng, trông mong đủ chuyện.
Nào hay đâu thất vọng, những tiên tri thành Ðạo, nào lời dạy cao ngôi chức sắc quyền hành, "Áo mão không thành chi cả".
Những sự ước vọng từ lâu không có điều chi kết quả, mà đoái lại thân mình đã vào vòng nghèo khổ!
Than ôi! giữa cuộc thế mấy ai rõ nổi, rồi cho là Ðồng-Tử phàm tâm, bày mưu độc sử, lập kế đặng báo hại mình, chớ không xét nó dại điên gì mà xá hết cuộc đời để đem thân hành Ðạo. Ðồng-Tử là những chơn linh của các vị Thần, Thánh, Tiên, Phật cần dùng để phổ khai mối Ðạo độ dẫn chúng sanh. Lại cũng có một phần vì đức hạnh không hoàn toàn và lòng tham gian dục vọng, nhưng dầu nó có mưu kia kế nọ, chớ vào giữa Thiên-Bàn thì điển quang đã chụp hết cả tư tưởng và tinh thần. Cái chỗ sái mà người đời trách đó là tại cái dục vọng của người đời, chớ những Ðồng-Tử thì cũng xá thân hành Ðạo như người hướng đạo kia vậy; nếu đứa nào sanh lòng chẳng tốt, thì Tiên Phật đã biết dẹp nó ra rồi.
Nào hay đâu thiên-cơ Ðức Thượng-Ðế đã sắp bày chư Thần Tiên lo lắng để tạo ra kế mà lừa ý dục vọng của đời, để đem người lên đường đạo-đức. Vì đời nào danh, nào lợi, nào ăn ngon, mặc đẹp, vợ tốt, hầu xinh, rồi con người mảng mê say vào vòng nô lệ quên kiếp khổ đày, cứ mãi mãi tấn hành, dầu Phật Tiên dạy tu hành cũng không đặng.
Giữa thời kỳ các tôn-giáo mạt pháp, hết ai tin giáo lý thần quyền, nên chẳng mấy người xá thân tu niệm. Sự khổ của thế giới đã gần đến thời mạt kiếp, khiến nên thương hải biến tang điền.
Lòng tục đã nhiễm nhiều, nỗi văn minh vật chất tràn sang, khiến đến cuộc thây phơi máu đổ. Ðấng THƯỢNG-ÐẾ chẳng nở ngồi yên nơi Ngọc-Kinh, phải giáng trần dạy bảo, rồi cho Thần Thánh Tiên Phật giáng thế độ đời. Ðứa nào muốn chi thì cho cái nấy, miễn là nó rán chí lo tu. Cứ nói gạt lần chừng quen mùi đạo-đức; như kẻ nào quyết chí tu hành đạo đức thì còn; bằng đứa nào dục vọng, cầu danh, thì cho nó thất vọng một lần. Vì nó quyết tham tàn, lợi dụng Thánh Tiên để cao quyền lớn chức, cho thê vinh tử ấm với chữ tu, thì xô đại nó vào cõi trần-ai khổ nhọc, mặc tình lăn lóc với đời, đặng chờ ngày quỉ vô thường hoặc tai nạn thế gian đến rước!
Ðó là cái chiếu chỉ của Chí-Tôn đã hạ lịnh cho chư Thần, Thánh, Tiên, Phật cứu thế kỳ thứ ba nầy.
Than ôi! người đời những mảng giả dối tu hành mà phải xa lạc biết bao. Trước mắt chư hiền cũng đều ngó thấy quá nhiều. Rồi người đời gọi không có Thánh Thần chi linh thiêng và Ðồng-Tử là kẻ gian, chớ kỳ trung chính người dục vọng ấy gian.
Thế mới biết máy linh thiêng của Trời Phật.....
Thời kỳ thứ ba: đến khi người hữu duyên mà ngộ đặng Ðạo mầu, là nhờ quen mùi đạm bạc, vui dạ tương rau, thấy trần ai ngán cuộc dãi dầu, xem vạn loại thảm sầu vì nhơn tình đạm bạc. Thôi thì qua đường thiện niệm gởi thân vào cửa từ-bi, dầu thất vọng cùng không, cũng quyết lòng giải thoát cho khỏi vòng đau đớn, chớ lỡ chuông, lỡ mỏ, lỡ kệ, lỡ kinh, quen mùi chay nghe đến vật mặn tanh rình, vui Ðạo vị nhớ đến sự đời càng khổ não; ấy mới lập tâm chơn tu mới đi ngay lên đường chánh giáo, không cầu danh cầu lợi nữa. Từ đây quyết tu là đặng hiểu cái mục đích của đời mà tu, chớ không còn dục vọng. Ðó là biết chơn lý mà thôi.
Thời kỳ thứ tư: khi vững chí tu hành rồi mới biết mình nhẹ thân trên vầng mây bạc, nhìn lại cuộc đời thì rất đau thương cho người còn hoạn nạn, chịu trong vòng sanh khổ, bịnh khổ, lão khổ, tử khổ, nên quyết chí tu thân và xá thân giúp đời, ấy là tự giác, giác tha. Chừng đó mới gọi là biết tu, biết hành Ðạo.Ðem lời chánh giáo dạy dỗ người đời, cực khổ không nài, tuyết sương chẳng nệ, quyết liều mình cứu độ sự khổ trần gian. Liều tấm thân bảy thước mà chống chọi với nỗi lao lý khổ nàn chẳng nệ sự dãi dầu gió bụi. Hành Ðạo ấy vì thương đời, thương người, quên mình mà lo cho người mau tấn hóa, mau giải thoát, chớ không còn mong được hưởng phước thanh nhàn, không còn điều chi là tham tàn trong lý Ðạo. Sự phước đức tế độ sanh linh, cứu vớt đồng bào cũng tỷ như một giọt nước rớt trong biển cả, ấy mới thiệt là tu, thiệt là giúp đời, rồi mới biết đặng các luật ẩn vi của vũ-trụ, các vì tinh tú, các cơ thể linh thiêng của Trời Ðất. Trải qua nhiều thời kỳ rất thảm trạng mới đắc Ðạo, được nhiều công quả mới lần vào Tiên bang phẩm vị, mới thiệt có chí tu hành khổ hạnh.
Tóm lại: nhơn sanh có nhiều bực, nên phải tùy theo sức mà cứu rổi ra ngoài vòng nước lửa đao binh của đời. Lão minh ra đây những lời thiệt quá đáng, nhưng theo chơn-lý mà hành thì phải như vậy.
Việc tôn-giáo chức sắc không phải cấm, vì nó là cái trật tự để tế độ sanh linh. Thì những hạng ấy phải có chí tu hành, phải đạt đến mục đích của người đời, biết đến chỗ xá thân hành Ðạo thì mới được tốt đi cho.
Ðời bây giờ, nhơn sanh tu hành quá nhiều, mà thường bị những sự tham tàn, chịu dưới quyền hành của người chức-sắc khiến sai, dầu lạc lầm, dầu tốn kém cũng không dám kêu nài, là một điều rất xấu và rất tội lỗi vậy.
Lão vẫn biết từ xưa đến nay chưa hề có lộ hết máy huyền-vi như Lão minh ra đây. Nhưng Lão đã cầm cả quyền hành của Ðạo, không nỡ để cho đời sai lạc mà phải cứu đời, nên diễn giải trên bổn THÁNH-ÐỨC ít lời để khuyên nhơn sanh cho mau thức tỉnh.
Nầy nhơn-sanh, Ðạo-Ðức là quí hơn quyền hành. Ta khuyên nhơn sanh rán mở tâm mà vưng theo lời của Ta chỉ dạy, thì sớm muộn đây nhơn sanh sẽ đặng gần bên Ta. Nếu chẳng tuân thì phải lạc lối vào chỗ ái hà, thì chừng ấy mới biết cái hành phạt của chúng ngươi là dường nào!!!
19.- KIẾP SỐNG CON NGƯỜI VỚI THỜI ÐỢI SÁNG KHAI ÐẠI-ÐẠO
__________
THI:
LÝ Ðạo phân minh triết học tân,
THÁI dương quảng chiếu khắp dương trần,
BẠCH minh lời chánh dìu chơn tục,
Ngự bút đề văn giáo hóa nhân.
Lão chào chư hiền, chư hiền nghe:�����
Người sanh trên thế lộ mang lấy xác phàm trần, biết bao nhiêu điều lao khổ với thân, trải mấy nỗi nhọc nhằn trí não, tấm thân phàm triệu triệu, cơn đau ốm không chừng, nỗi đắng cay của thế sự buộc ràng, lo chẳng ngớt lo hoài không xiết nghĩ. Người linh đinh vì số hệ, kẻ bạc phận bởi vô duyên, bước đường đời luống chịu cảnh não phiền, thân cô lậu phiêu lưu loài lạc. Gánh nặng đời mường tượng như có người phú thác, gắng công lo phận sự cho rồi. Bước gian truân đất khách luống than ôi, lần lựa ở quê người càng thảm, gặp cơn trăng thanh gió mát, ngồi nghĩ suy đến phận mà chạnh tấm cang tràng, mấy lúc ngộ cảnh giông gió bảo bùng thì luống nhớ đến thân còn bơ vơ nơi thế sự. Biết đâu rằng phước họa mà gắng lòng gìn giữ. Hay đâu sự may rủi hầu lựa lấy phần. Ngày ngày hằng than thân khổ, khổ thân. Ðêm đêm luống ưu�����
lo bổn phận, tiếng ve kêu réo rắt, như gợi sự ở đời. Ngọn gió thổi lao rao dường như nhắc cơn hồ điệp. Nhớ khi gia đình ngộ cảnh nguy nàn, hoặc cuộc sanh ly tử biệt, cha xa con, chồng xa vợ hay là tớ xa thầy.
Ðời càng tài hay, càng ngộ cảnh khổ. Sanh đứng làm người trước thọ ân Quân, Sư, Phụ nơi mình. Tam cang, ngũ thường vai oằn-oại. Khó khăn biết mấy làm sao cho xứng phận làm người. Ðời càng khổ, phận càng gay; đời càng hay, càng sanh nỗi khổ.
Nhưng làm người dầu khó mà nỡ bỏ cho ai, càng ngộ cảnh khổ càng rán hết sức tài đặng chống chỏi với sự trở gay trên con đường bước tới.
Thế mà người đời càng chịu khổ. Cơn nhàn rảnh ngồi suy nghĩ đến mình, chẳng khác nào bèo dạt hoa trôi, không biết đâu mà nương dựa. Sự đời càng chất chứa, tấm thân phàm mảng chịu dày gió dạn sương, lần lượt rồi bước đến con đường thiên viễn.
Than ôi! để bước đến cảnh sầu, chẳng chi hơn là mồ hoang cỏ loán, đồng trống sương gieo, thỏ lặng ác tà, khách trần mấy ai lánh khỏi. Nỗi đau thương, bề ấm lạnh, nào tiếng khóc đến câu cười. Dẫu ai tài trí đến bực nào cũng chưa chắc đời mình cười vui nhiều hơn khóc tủi. Phần chịu cảnh chia lìa với thân bằng cố hữu. Cái chết mà thuận cảnh còn dễ, rủi nghịch cảnh thì ôi thôi biết bao nhiêu nỗi đau thương! Hoặc con thơ vợ dại, hoặc cha mẹ bịnh đau, hoặc nhà nghèo vất vả, thì biết bao nhiêu cảnh ngộ lôi cuốn người đời. Tấm thân phải nằm nơi cỏ loán cát vùi, mà trước cửa con trông cha, sau hiên vợ đợi chồng, thì ai có lương tâm đành dòm ngó.
Ấy là cái cảnh khổ của người đời, như thế mà Tạo Công bày vẽ ra chi. Thà không sanh có người, còn hơn là có thân mà chịu khổ.
Ðó là những khách đã chịu trong cảnh ngộ, nên cất tiếng than van.
Nhưng khách trần ai có biết đâu là mình phải chịu trong cái luật nhơn quả buộc ràng, trong bánh xe chuyển luân của Tạo-Hóa... Người sanh xuống thế là nhờ nhiều kiếp tiến hóa đến nhơn loài, mới gọi người là chúa của vạn vật. Nhưng luật Trời mầu nhiệm, ai biết chỗ ẩn vi. Các sanh vật đã xá thân vì người, hoặc cày ruộng, kéo xe, hoặc giúp người trong kiếp sống, hoặc trải thân cho người cưa xẻ đủ món cho người dùng, là cái sở hữu của nó xá thân giúp đời, không đòi tiền công, không ăn của chủ. Cỏ Trời nuôi lấy xác, đất Trời dưỡng lấy thân, sở dĩ chịu khó nhọc đặng tiến thủ đến loài người, đặng khỏi tội tình của quả nghiệp. Ấy vậy xét cho kỷ thì cái xả thân của sanh vật là phương pháp tiến thủ đó.
Còn sự khổ của loài người là bài học để bước đến con đường quang minh chánh đại là đường tu, nhờ biết tu mà lần lần được thoát khổ. Chừng hiểu được luật xả thân giúp đời, lo hành Ðạo, đừng còn biết đến thân mình, như gương thú kia, chừng ấy mới được phát minh, mà nhờ quên mình, mới tiến lên ngôi Tiên Phật.
Bổn phận làm người trăm điều gay trở. Phần trực tiếp với đời, nào là cuộc dinh hư tiêu trưởng, mạnh còn yếu mất, như trên chốn vũ-đài, khác nào ra giữa trận thiên binh vạn tướng. Nếu chẳng khéo mà thủ lấy phận mình, rủi sơ thất một mảy mún với đời cũng đành chịu mãn kiếp trong vòng bó buộc.
Nỗi giao thông cùng nhơn quần xã hội, thế thái nhơn tình, lòng người dời đổi lắm trò, tâm sanh chúng trở xây như máy. Mấy ai giữ vẹn tình bằng hữu, nào ai thủ tín chạm xương. Hễ đắc thế thời thì thiếu chi tình huynh nghĩa đệ. Rủi sa cơ thất thế, chẳng có một người sở cậy đỡ thân. Lòng người lãnh đạm, dạ thế bạc tình, ai có ngộ cảnh vô phước ấy, mới biết cái tạm giả của thế gian là chủ định.
Bổn phận phải cần toan tính, để thừa cơ lãnh hội các tâm lý nhơn loài, đở mình lên cao kiến hơn người, mới dòm thấy lòng người giả dối. Sự cạnh tranh trong thiên hạ, xác chất thành non, máu ra thành biển, cũng do nơi cái màn vô minh che lấp bóng thiện từ.
Phần thì lo gián tiếp với Thiên-cơ trong bốn mùa xuân qua hè lại, khí âm dương xây chuyển, tiết khinh hóa vận hành, một phút cảm đến thân tâm là sẽ có điều thiệt hại, thân phàm có biết đâu cơ Trời máy Tạo mà ngừa, sự thạnh suy bỉ thới. Nắng mưa dồn dập, sương gió chuyển di, nếu gặp một trận thủy tai, cũng đủ làm cho thân phàm trôi nổi. Nạn đời còn dễ tránh, chớ tai Trời khó đục lỗ mà chun. Sự trực tiếp với đời, còn nhẹ nhàng hơn sự gián tiếp với Thiên cơ, trong muôn phần có một.
Mang lớp phàm nhiều điều cay đắng, dầu hạng nào chẳng khỏi khổ thân, nhưng vì cái không biết với cái đánh liều mà người lầm lũi đi tới hoài, nào có ai tầm phương giác ngộ. Chừng đáo đầu hết số, dứt ba tấc hơi thì đành chịu nằm yên. Ba vạn sáu ngàn ngày chưa đặng hưởng cùng mà cuốn sổ nhựt ký bằng xương thịt phải chịu làm phân cho cây cỏ. Thảm thay! thế mà ít ai hiểu rõ, lấy cái giả của xác thân mà làm cái thiệt cho tâm hồn, nên cứ vun đắp trau tria cái giả thể, tưởng là ăn ngon, mặc đẹp, ham tiền, sẵn vợ nhiều cho thỏa với lòng mình, mà nào hay đâu là cứ phải chịu làm nô lệ cho xác thịt, rồi cũng vì phấn đấu chen lấn với đời đặng nuôi nấng xác thịt, mà gây thêm tội lỗi cho tâm hồn. Chừng xác thịt lấp bụi vùi tro, còn tâm hồn phải chịu trong luật nhơn quả mà trả nghiệp chướng với sự gầy tạo trước kia, thì ăn năn đã muộn!!!
Thế gian là nơi bể khổ mà cũng là trường tấn hóa của vạn loại. Vậy có tâm thì phải cần suy nghĩ cho thấu triệt luật Trời, cảm tưởng ân từ huệ, mà mượn chiếc thuyền xác thịt chèo qua cho khỏi bể trầm luân, lần lượt đến con đường Thiên-Ðạo. Bởi nhơn sanh còn mờ tối trong trần lao tục lụy, nên Ðức THƯỢNG-ÐẾ mới dùng huyền diệu thiêng liêng hoằng khai mối ÐẠI-ÐẠO để vén màn vô minh dẫn đường cho sanh chúng.
Nhưng còn vì lợi danh thế sự, cái giả thể của đời mà mối Ðạo phải chịu trong vòng phân chia mảy mún. Tu hành là phương pháp sửa tục thành Tiên, độ thế là con thuyền lần qua bể khổ, hiện nay khó mà chọn một kẻ nhiệt tâm vì Ðạo, chánh dạ tu hành, bảo sao chẳng có điều bất mãn cùng nhau trên bước Ðạo.
Ngày giờ qua thắm thoát, nhặc thúc bóng quang âm, cảnh vui khổ, khổ vui hằng làm cho rối trí con người nên đành chịu chia phui huynh đệ. Song le đó cũng là một cái giả thể bắt cầu cho con người bước đến chỗ chơn tâm, nếu yếu vía thì chắc phải chịu lầm lạc, chớ không thế chi mà bước được yên trên con đường hạnh phúc. Vậy cảnh Ðạo phải chịu nhiều điều trở ngại khó khăn, cũng như người đời phải chịu dày vò gió bụi. Chừng khỏi lối quanh co ra đường chánh đại, mới biết ai còn ai mất, mới biết đặng kẻ hữu duyên người vô phước.
Lý Ðạo là chơn giáo, chơn giáo ấy chánh tâm, hễ chánh tâm là chẳng sự lỗi lầm không điều sơ sót, mà chính người tu còn giả dối, còn khinh bỉ chê bai, còn vị thân vị kỷ, thì tự nhiên đạo đức phải suy đồi, cang thường đành bại hoại.�����
Bởi trình độ nhơn sanh ngày nay nhờ điển lực thiêng liêng ban xuống rất mạnh mẽ, nên cảm hóa được nhiều người tu, tuy là còn gây oán chác hờn, chớ cũng đặng biết điều tội�����
phước. Nhưng vì sự học Ðạo chẳng cố tầm ra chơn lý, cứ biếng lười không chịu khó nhọc mà suy nghĩ Thánh-Ngôn, cứ mê mẫn tâm hồn rồi trách sao không lầm lạc. Ðạo là hiểu biết, nhờ hiểu biết khỏi sự mơ hồ, mới khỏi điều sai ngoa vất vã. Con người mảng để tánh hoài nghi mà không trau nơi tâm chánh, thì thế sao bước đến chỗ quang minh. Một là vì ố nhơn thắng kỷ, hai là vì tham lợi tham danh, ba là vì mê mùi phàm thế, bốn là bởi không chịu vén màn vô minh, nên con người cứ phải chịu chìm đắm mãi mãi dưới bể trầm luân, rồi chia cột, chia nhà, chia niềm đồng đạo.
Cuối thế kỷ 20 gặp thời kỳ sáng khai Ðại-Ðạo, con người vì bấy lâu chịu trong cảnh khổ, nay được gặp Thiên-cơ chỉ lộ dẫn đường thì đồng thức tỉnh tu hành lo Ðạo. Ngặt cuộc đời còn ràng buộc, sự thế lắm chiều gay trở éo le, phần thì vật chất bên mình, quyền cao lộc cả, cao lương mỹ vị nó quến rủ lòng người, lần lần rồi cũng dẹp đạo-đức lại một bên mà tranh cạnh với đời đủ món. Lại còn một phần giả đạo đức, lợi dụng cơ hội mà làm kế sanh nhai. Lương tâm người chí thiện, bởi thế đạo hằng luân chuyển như cánh chuồn, hằng lập thế độ đời chính là không nơi yên tịnh.
Người đời hay mượn quyền làm danh giá với con đường Ðạo. Ngày xưa còn cổi áo cẩm bào mà đổi lấy cà-sa thay, nhưng người kim thời lại lấy danh Ðạo tạo danh mình trong nhà Ðạo, cũng có thế có quyền, thế thì tránh sao cho khỏi cái nạn tương tàn!!!
Trước cảnh khổ của chúng sanh vì miếng ăn, vì chỗ ở, vì giai cấp, vì quyền hành, Ðạo đến cứu cánh cho đời là giải phá mấy cái thành kiến trước kia, đặng đem con người đến chỗ an nhàn là nhơn sanh đồng thể vậy. Vì cũng đồng một điểm linh tánh khôn ngoan.
Bởi xác phàm là cái kết quả của luật nghiệp duyên nên còn phân đẳng cấp, mà bước đến tinh thần, thì vẫn đồng thể với nhau.
Ngặt người tu mà kế lợi quyền, thì có thế chi mà dung hóa cho đặng. Ở đời thường hay thái quá với bất cập chớ chưa mấy kẻ chấp trung, vì vậy nên thường biến ra những sự chinh nghiêng trên bước Ðạo, làm cho con người nhẹ dạ phải rúng động tâm cang. Hễ biết đặng cái chỗ chấp trung thì phải rán gia công gìn giữ, chẳng nên hơ hẩng mà chịu cảnh điêu tàn.
Cái thiệt cái giả sau nầy nó sẽ thành khối, mà trưng cầu giữa Hội Vạn-Linh. Ðức thắng tài, người xưa một chữ "TU" mà đổi lấy ngai vàng còn không đổi, phải biết rằng dầu bực Ðế-Vương dưới thế cũng chưa hề rỗi tội được cho mình.
Từ tạo thiên lập địa đến nay, biết mấy cuộc tang thương biến cải, nào quyền vương bá, nào tước công hầu mà chính ngày nay chư hiền hằng thấy một điểm mực đen trên tờ giấy, chớ cái giả xưa kia nó cũng tung hoành trong thiên hạ đạp lủy thâu thành, oai danh lừng lẫy, mà chính ngày nay nào thấy dạng thấy hình, thế thì cái giả tướng xưa nay hằng để. Dầu cái thế anh hùng cũng phải thua với ba tấc đất kia mà! Sao cho bằng con đường đạo-đức, có chí tu hành thì sẽ đạt được nguyên-lý cao thâm.Phải hết sức thật hành từ lời ăn, tiếng nói, từ ý chí, trí tưởng của tâm hồn thì gần nơi Tiên Phật mà học cái Ðạo cao siêu. Sống thì giúp đời cứu thế, chết thì về nơi lạc cảnh an nhàn, há chẳng vui thú hơn cái oai quyền vô vị kia sao? Tiếc vì người đời mò trăng đáy nước, bắt cá trên cây, mượn tiếng tu mà tạo thế cải thời, nương theo Ðạo đặng cậy hơi thế lực. Nhơn sanh đồng có cái chơn tánh thiện từ, dầu ai mà tiến hóa đến loài người rồi cũng đều được tánh linh minh mẫn, bởi sự vật chất bít ngăn che lấp, thất tình thâm nhiễm, nên hằng đưa người đến cảnh bản ngã độc quyền, vì cái chỗ riêng mới sanh ra chia rẻ. Ngày nào các đẳng chúng sanh hướng đạo đều vẹt màn vô minh đạt đặng chơn lý, đồng biết trọng hai chữ Tinh Thần, thì ngày ấy mới mong đắc thành qui phục.
Ðường Ðạo-Ðức là con đò Bát-Nhã; tánh Từ-Bi ấy giọt nước nhành dương, tưới lửa phiền nhờ bầu cam-lộ của đức thoát tục siêu phàm, rửa lòng muội, cậy linh dược tiên đơn mới đặng phục hườn cõi thọ. Cái cảnh sầu than khóc tủi, thương người đời bởi lầm, nên cặm cụi chịu sầu.
Nếu chịu khó mà giải quyết với sự Chơn Thật Tinh Thần thì còn lo chi những điều vương vấn.
Ta mong sao cả chúng sanh đều lãnh hội được mấy lời nầy.
Ta ban ơn cho chư hiền.....
20.- KHUYÊN NHƠN TÀI
__________
THI:
LÝ chánh lời chơn độ thế cùng,
THÁI bình mưu cuộc cọng hòa chung,
BẠCH minh Thánh-Ðức phân rành rẽ,
Ngự bút dạy khuyên thế sự tùng.
* * *
Khuyên nhủ tài hoa một ít lời,
Nhơn từ chơn lý rõ lần ôi,
Tài tình học Ðạo khuyên dìu thế,
Ðức hạnh giồi trau rán cứu đời,
Rước khách khổ nàn về cựu vị,
Ðộ người mê muội thoát trần vơi,
Biết đường chơn giác đừng lơi dạ,
Phổ tế quần sanh đặng thảnh thơi.
BÀI:
Thảnh thơi đề bút nhắn lời,
KIM-TINH THÁI-BẠCH mấy lời dạy khuyên.
Nầy bớ khách trần duyên oan trái,
Hỡi người đời biết phải biết lo,
Hạ-Nguơn gặp Bát-Nhã đò,
Chèo bơi cứu thế lần dò mới nên.
Ðời là chốn ghi tên hào kiệt,
Ðạo vốn nơi cứu thiệt linh-căn,
Sanh trong cuộc thế nhọc nhằn,
Người cao kẻ thấp đâu bằng được ru.
Kìa Tạo-Hóa chuyển phù vạn vật,
Nọ kiền-khôn bao phất chung quanh,
Cảnh đời mây áng thanh thanh,
Ngồi suy nghĩ đến lộn quanh gan vàng.
Cánh chim quạt chứa chan trên gió,
Kỳ cá bơi trong rọ dưới ao,�����
Tiếng sầu quyên nỗi thanh thao,
Ðờn khe ai-oán, nước chào khách Tiên.
Cảnh thâm thẩm muôn phiền bên dạ,
Biết làm sao cho thỏa lòng nầy,
Nhìn tiều phu đứng cốt cây,
Cây to quá lớn búa nầy nhỏ thay.
Giọng ngư phủ canh dài réo rắt,
Tiếng gà khuya thẻo thắt thức người,
Ðàn chim đương tỉnh giấc cười,
Líu lo trên cội thương người dưới cây.
Ấy là khách cầm đài thức trí,
Ngồi dựa hiên suy nghĩ cuộc đời,
Thiết tha sóng dập gió dồi,
Bèo mây man mác nổi trôi giữa giòng.
Người quảy gánh thong dong trên lộ,
Kẻ nông phu lao khổ dưới triền,
Người đang đau đớn thảm phiền,
Kẻ đang bận bịu nợ duyên chia tình.
Người quân-tử càng nhìn càng trách,
Trách làm sao trêu khách lắm ôi,
Thà không biết được cơ đời,
Hơn là rõ đặng khôn lời tỏ phân.
Trong cảnh tục muôn phần thảm lụy,
Trí đã toan suy nghĩ đã cùng,
Dường như gió tạt cành thung,
Tỷ nào trống đổ thì-thùng tan canh.
Thức giấc mộng nghĩ mình mà ngán,
Ngán thay cho trong đám nhơn sanh,
Lừa chơn đến cửa tu hành,
Mượn cam lộ uống giải thành nghiệt oan.
Chịu khổ hạnh đèn nhang bái lạy,
Chẳng nệ thân trai gái rau tương,
Mùi thiền quen với mùi hương,
Ðã lâu mới rõ bước đường ra sao.
Xem Kinh kệ ngán ngao vì thế,
Gặp khổ thân giọt lệ khôn cầm,
Trải qua đã bấy nhiêu năm,
Mà chưa rõ đặng lao tâm bao giờ.
Khó nhọc thân tri cơ mới biện,
Chừng hiểu ra hiển hiện giả thay,
Bây chừ mới rõ vắn dài,
Mà xem biết mấy đắng cay ngỡ ngàng.
Tiếng chuông sớm chứa chan tâm trí,
Giọng Kinh khuya rền rỉ lòng sầu,
Quyết mình lánh chốn bể dâu,
Lựa nơi thanh tịnh đặng hầu dưỡng an.
Lòng đã định nương thoàn tế độ,
Ép thân vào khuôn khổ qui điều,
Buộc mình lãnh lấy trăm chiều,
Lòng canh cánh nhớ những điều thiệt hư.
Trải qua cuộc có dư cay đắng,
Ðã lắm lần tâm chẳng đặng yên,
Học hành kinh sám cửa thiền,
Tìm ra lý Ðạo chơn truyền mới nghe.
Lòng những mảng dặt dè trau sửa,
Ðã hằng lo từ bửa kệ kinh,
Vén an màn kín vô minh,
Mới tường lý Ðạo nay mình mới thông.
Nhớ lại lúc trong vòng mê muội,
Biết bao điều lầm lủi sái đường,
Ðã nhiều sự quấy trần dương,
Làm cho khổ hại đau thương tinh thần.
Vừa tỉnh giấc mộng trần hiểu Ðạo,
Bóng thiều quang đã bảo mấy thu,
Sen tàn cúc trổ công phu,
Mai sầu liễu úa đường tu chưa thành.
Lại lẫn sự lợi danh trong Ðạo,
Hằng không điều thuận thảo cùng nhau,
Lòng nầy mến Ðạo mà đau,
Hỏi ai có biết thấp cao cho lòng?
Kìa đảnh núi chập chồng vọi vọi,
Ðá xây nên mới gọi rằng cao,
Nếu không đá chất làm sao,
Trên đè dưới chịu mà cao đến đều.
Xét biết đặng lý yêu vạn loại,
Tìm ra điều quấy phải kim ngân,
Hổ cho người đứng trong trần,
Không hòa thì có bằng phần đá chăng?
Thời gian chuyển trong lằng võ-trụ,
Mới đây mà tính đủ mấy năm,
Ðường chơn lý thật cao sâu,
Khổ thân nhiều nỗi mới cầm được đây.
Bực tài trí thế nầy lắm nhọc,
Hằng thông minh hay học cuộc đời,
Dầu cho tài đức tuyệt vời,
Cũng nhờ từng trải nhiều đời mới nên.
Sự đau khổ tạo nên chí sĩ,
Chữ khó khăn để ký hiền tài,
Phong trần có phận miệt mài,
Càng cay đắng lắm mới hay phong trần.
Tìm cho rõ tinh thần đạo-đức,
Thấy nhơn tình có được chánh chơn,
Ngán đời vì chỗ thua hơn,
Kìa đời gian trá lòng nhơn chẳng còn.
Mới ẩn dạng vào non tu kỷ,
Hay ở đời cũng tỷ người ngu,
Mặc ai chác oán gây thù,
Lòng nầy yên tịnh công phu tu hành.
Ðặng vậy chẳng hổ danh đạo-đức,
Nhưng người ôi! rán sức hiểu lời,
Ta khuyên hết cả người đời,
Không làm ắt cũng lý Trời định phân.
Nhưng phải rán ân cần làm phải,
Chớ gọi mình giả dạy không làm,
Thì đời mình chẳng đặng kham,
Hóa ra vô dụng khó làm đặng chi.
Biết chơn lý nghĩ suy thế thái,
Tìm mối manh chủng loại nhơn tình,
Thương đời giữa chốn ngục hình,
Lo phương tế độ tận tình chẳng sai.
Biết chư sĩ chương đài thi hội,
Cuộc truy hoan đã gội lắm điều,
Chán lòng nhơn loại đã nhiều,
Mà tâm từ ái vừa xiêu đó là.
Trách những kẻ cậy ma nói Phật,
Lợi dụng đời gầy vật tư riêng,
Xét đời tâm lại não phiền,
Thà cam phận dốt ngồi yên cho rồi.
Vậy cũng phải người ôi khá nghĩ,
Nghĩ cho cùng chung thỉ với nào,
Cây rừng phải có thấp cao,
Một cây mà biết làm sao nên rừng.
Người cõi tạm cũng chưng như thế,
Kẻ phàm trần hay kế lắm mưu,
Xấu nhiều dở tốt lắm tày,
Bởi gây nghiệp chướng lại vay khổ sầu.
Xét cho kỷ thâm bâu lụy hạ,
Thương cho đời mà xá cho thân,
Thảm thay cái nợ phong trần,
Quyết đem đạo-đức tinh thần cứu nguy.
Thà liều mạng đặng tri giải nạn,
Nạn nhơn sanh cho cạn mới mầu,
Thân người phải chịu dãi dầu,
Cũng vui với Ðạo cũng ân với đời.
Thế mới gọi thức thời nghĩa vụ,
Chẳng vì thân mà phụ linh tàn,
Xá thân người hiểu rõ ràng,
Trong khuôn Tạo-Hóa muôn ngàn luật phê.
Hiểu cạn lý vấn đề quân-tử,
Rõ cùng lời tự xử cho mình,
Những điều học đặng vào minh,
Là Trời bố hóa cứu sinh cho đời.
Không phải học để nuôi con vợ,
Hay là làm lở vở nước nhà,
Tài lành phải biết xét xa,
Làm sao dân chúng âu ca thái bình.
Người quân tử tận tình với Ðạo,
Rán gia tâm hoài bảo cuộc đời,
Cũng như thân ở giữa vời,
Ðường xa gánh nặng hát chơi giải buồn.�����
Cảnh nguy khổ vai tuồng phải chịu,
Thân linh đinh ai hiểu cho mình,
Nhưng mà dầu cuộc đao binh,
Vào sanh ra tử nở nhìn mắt ngơ.
Người thấp thỏi đang chờ học hỏi,
Kẻ đớn đau đang gọi cứu tinh,
Học thông há để giữ mình,
Nở nào đứng ngó ngồi nhìn cho yên.
Bớ quân tử hữu duyên ngộ Ðạo,
Hỡi thanh niên được thạo lý chơn,
Dẹp lòng thảm trạng muôn hờn,
Rán ra chí cả khảy đờn cứu dân.
Thoát nơi bể khổ hồng trần.....
THI:
Trần cuộc phải tìm lý chánh sâu,
Học cho hết học mới là cao,
Cả kêu cảnh tỉnh người quân tử,
Tiếng giục khuyên lơn kẻ kiệt hào.
Thế sự khó phân cơn ấm lạnh,
Tuồng đời khôn tính lúc thân đau,
Hễ là quân tử khuyên lo trọn,
Trọn phận cứu nhơn mới kiệt hào.
Lão ban ơn chư hiền.....
21.- KHUYẾN NỮ TU
__________
THI:
ÐÀO thơ, thơ thới nở thu đương,
LƯ động quê xưa nghĩ chạnh thương,
THÁNH Ðức cả kêu đời tỉnh giấc,
MẪU nghi khuyến giáo Ðạo trinh tường.
Mừng chư hiền nam nữ, khá tiếp giá MẪU-HOÀNG.
(Tiếp điển)
DIÊU-TRÌ KIM-MẪU, các con nghe:
BÀI:
Kìa Diêu-Ðiện cảnh trời thanh bạch,
Nhìn thấy con mắc vách khổ nguy,
Nhặt thưa ác luyện đưa thì,
Bợn nhơ thế tục quản gì linh quang.
Vì con trẻ chứa chan dạ Mẹ,
Tuy là không sanh đẻ, dưỡng nuôi,
Chớ tình Mẫu tử chi nguôi,
Sanh hồn dạy dỗ ngậm ngùi với con.
Kể từ thuở trẻ còn nhỏ nhặn,
Mẹ hằng lo cho đặng khôn ngoan,
Ngày đêm dạy dỗ buộc ràng,
Quyết cho con trẻ vẹn toàn thân sanh.
Lấy âm dương tạo thành hồn trẻ,
Cậy anh linh chỉ vẽ đủ điều,
Tình thương con mẹ dấu yêu,
Ðêm khuya giáng thế dắt-dìu con thương.
Hôm nay đàn tỏ tường THÁNH-ÐỨC,
Vì thấy con hiệp sức lo lường,
Thanh tâm Từ Mẫu giáo trường,
Ðể lời chỉ bảo tận tường cùng con.
Ðường đạo-đức lo tròn hưởng phước,
Tình chị em sau trước nương tình,
Nẽo đường khổ nạn đao binh,
Khác chi cá chậu khó chinh ra vòng.
Ðời xem kỷ long đong lắm bấy,
Ðạo xét cùng càng thấy cao thâm,
Máy linh con trẻ tay cầm,
Ðường dài rán chí học tầm chớ xao.
Tuy là gái thấp cao có bực,
Phận liễu bồ nhược chất hồng nhan,
Biết thân chớ nệ nhọc nhằn,
Rán lo cho kịp Ðạo hoằng hóa khai.
Rủi sanh phận nữ hài khó nhọc,
Biết đâu là nương vóc cho yên,
Lấy tình để kết làm duyên,
Gởi trăm năm phận cầu nguyền đặng vui.
May đặng phước khỏi ngùi ngùi dạ,
Rủi phận con ngộ họa phải cam,
Cánh bèo ra giữa nước vàm,
Tẻ ra bốn ngã chia làm sao xong.
Nên lời tục: đục trong phải chịu,
Có tiếng rằng: chí hiếu là nên,
May duyên gặp hội Ðạo truyền,
Tình em nghĩa chị chung thuyền qua sông.
Hoa man mác trôi dòng nước vận,
Biết đâu là an phận nữa giờ,
Biết đâu trăm tuổi khó chờ,
Hay đành vắng bóng tình cờ đó con.
Ðường Ðạo biết rán bòn âm chất,
Phước được nên nhớ thật lòng lo,
Thiên ân phận lãnh vai trò,
Gắng công báo đáp đặng cho đẹp mày.
Rồi Mẹ chuyển Minh-Ðài hiệp mặt,
Cùng tam giang dìu dắt lẫn nhau,
Long-Vân Hội đã trổi màu,
Nữ tài khuyên trẻ rán trau nên tài.
Dụng nữ trí sánh vai nam tử,
Lấy hồng nhan chuyên chú thiên cơ,
Non sông cõi Việt định giờ,
Nữ trung con trẻ cũng nhờ phước duyên.
Thấy thế sự đảo huyền mà chạnh,
Xem cơ đời tranh cạnh mà đau,
Bớ con phận gái thấp cao,
Nữa thân bèo dạt một màu hoa trôi.
Sớm muộn phải sóng dồi dập liễu,
Chiều mơi rồi có hiểu mất còn,
Ngọn đèn trước gió thon von,
Tỏ lờ còn mất, mất còn biết đâu.
Nỗi cuộc thế tang dâu biến đổi,
Cuộc nạn tai nhiều lối khổ sầu,
Thấy con Mẹ rất lo âu,
Thương con nên phải giáng cơ dạy bày.
Cung Diêu-Ðiện đêm ngày trông đợi,
Ðợi các con gắng gợi lòng tu,
Tu sao vận tải long-phù,
Nữ trung oanh liệt ngàn thu còn truyền.
Bớ các con nghe khuyên để dạ,
Rán lập công bồi quả cho rồi,
Ngày sau đặng trở về ngôi,
Mẹ con sum hiệp đứng ngồi xuê xang.
Nơi địa phủ có đàng đừng xuống,
Thấy công danh chớ chuộng mà nguy,
Ma vương nó cứ lôi trì,
Làm cho con mẹ chăng gì gặp nhau.
Bớ nữ phái lo trau bổn phận,
Nầy con ôi chớ bận lòng vàng,
Canh khuya lần bước đến đàn,
Tiếng gà gáy rộ nhộn nhàng ngoài hiên.
Lời châu ngọc đem truyền cứu thế,
Tiếng quí mầu phổ tế vạn dân,
Cả kêu con trẻ biết thân,
Sống còn phận gái muôn phần ra chi.
Ðời người phải lỗi nghì với Ðạo,
Nhơn tình xuôi khổ não cùng thân,
Ðã cho là kiếp phong trần,
Cho thanh cao mới được phần thanh cao.
Thân đã định, định vào gánh nợ,
Nợ xưa nay, vay sợ lâm nguy,
Hễ là có trí xét suy,
Lấy đào hoa đổi kịp thì khổ thân.
Sanh vào cuộc phù vân khổ nạn,
Ðứng trong vòng muôn vạn tai ương,
Thì sao lánh khổ đoạn trường,
Ðã thưa thớt liễu lại nhường thuyền quyên.
Ðời nhiều lúc đeo phiền cho trí,
Cơn rảnh rang suy nghĩ thêm buồn,�����
Nỗi con phận mỏng cánh chuồn,
Ra vui chưa phỉ, vào buồn tủi thân.
Nhìn trăng gợi muôn phần đau dạ,
Nghe quyên than buồn bã nhớ ai,
Dường như nhớ kiếp đọa đày,
Nhớ nơi kỳ ngộ, nhớ ngày Thiên cung.
Gió đưa lá thẳng dùn ngoài ngỏ,
Gầm ghì trời tiếng vọ bên tai,
Ngậm ngùi nữa tỉnh nữa say,
Tưởng cho thân đã lạc loài về đâu.
Xét cuộc thế dãi dầu cay đắng,
Nghĩ của tiền cũng chẳng ra chi,
Nếu thân gặp phải cơn nguy,
Như mây đương nổi gió thì rả tan.
Hồi tưởng lại Ðạo vàng vui thú,
Rán tu hành ký chú mọi mùi,
Thoát vòng lao khổ mới vui,
Tu sao cho đặng tới lui Tiên đàng.
Quyển THÁNH-ÐỨC rõ ràng máy nhiệm,
Bớ các con rán kiếm lý mầu,
Ðừng lòng van vái khẩn cầu,
Mà tâm hung ác tạo sầu kiếp tu.
Mẹ biết đặng lòng nhu của trẻ,
Mẹ biết con quyết hé Thiên cơ,
Nhưng chưa đành dứt trái duyên,
Còn đeo đai nặng nỗi phiền nơi thân.
Không có chí vững vàng Ðạo cả,
Cứ đỏng đưa theo gã công danh,
Ngồi trong cảnh Ðạo tu hành,
Mà lòng toan tính cạnh tranh đủ điều.
Ðạo muốn cao, đời muốn yên,
Hai tay bắt cá biết xiêu bên nào.
Vì vậy nên nữ hào mất hết,
Bởi tại con chưa biết chánh đàng,
Bớ con lận đận trần gian,
Lóng nghe cho kỷ lời than Mẫu từ.
Người thiệt tu tâm như đinh sắt,
Chẳng bao giờ chịu mặt yếu thua,
Ngày đêm suy nghĩ thẹn thùa,
Cũng là nữ kiệt lỡ mùa hay sao.
Khuyên các con giồi trau tâm tánh,
Khá tu hành so sánh mà chi,
Khoa tràng rán đến kỳ thi,
Tranh tài đạo hạnh phân bì mới nên.
Các nữ sĩ rán bền tâm chí,
Phải trau tria rõ lý cho thuần,
Minh tâm kiến tánh cao siêu,
Thánh-Kinh đức trọng noi chừng đường Tiên.
Khá giữ lấy lòng thiền tu niệm,
Rán gìn tâm đặng tiến cao siêu,
Mới mong giải thoát khổ nhiều,
Vâng lời Tiên Thánh được nêu tên đề.
Chí liệt sĩ đề huề nương cậy,
Dẫn dìu nhau học lấy Ðạo vàng,
Tinh thần nung nấu cho an,
Chí thành cảm hứng khoa tràng mới nên.
Khuyên thế tỉnh rán lên thượng đảnh,
Ðặng Mẫu Nghi cám cảnh cho đời,
Vì chưng liên lụy trần vơi,
Phận quần thoa khỏi lụy đời độ thân.
Bởi nhi nữ hồng trần yếu đuối,
Lòng vô minh lầm lủi đã đành,
Kệ Kinh khuya sớm học hành,
Thượng thừa vững đạt thiện lành trau tâm.
Biết tu niệm thuốc thần ban rải,
Giọt cam lồ cứu giải trầm kha,
Tìm phương hiểu lý sâu xa,
Diệu huyền đạo-đức luận ra cội nguồn.
Chớ đừng dạ luông-tuồng hơ hỏng,
Vì thân còn mành mỏng yếu hèn,
Cũng đừng tranh lấn trắng đen,
Lòng cho trong sạch như đèn trời thu.
Khá hôm sớm ôn nhu kinh sám,
Hoài bảo nhau cho đám em khờ,
Cúc côi phận yếu liễu bồ,
Rán tu một kiếp điểm tô Ðạo lành.
Luật Trời định cứu sanh linh thoát,
Muốn cho an phát đạt tinh thần,
Khuyên con biết trọng nghĩa nhơn,
Giữ lòng sĩ liệt biết cần cần tu.
Xem ngôi báu trăng thu ánh giọi,
Trong các con theo giỏi mau lên,
Cảnh Tiên đợi kẻ tâm bền,
Tu hành đúng mực đem lên ngôi vàng.
Con rán chí vững an học lấy,
Gìn tâm thiền phải quấy biện rành,
Lựa điều lánh đục tầm thanh,
Cho tường manh mối đành rành mới hay.
Vậy mới gọi nữ tài liệt ái,
Lòng hiền lương vận tải lương từ,
Công bình một dạ chơn như,
Ðêm ngày huấn luyện từ từ mới cao.
Gió thu cảnh lao rao tạt đến,
Kìa đò Tiên kề bến đợi ai,
Ớ con hạnh đức trí tài,
Rán mà làm bạn chương đoài thanh cao.
Thân mỏng mành khá trau thấu đáo,
Triết lý sâu hoài bảo chị em,
Kìa gương DIỆU-THIỆN khá xem,
Tên còn rành rạnh như rèm trăng thanh.
Rán gở mối tơ mành hết rối,
Ðường Ðạo Trời chớ thối từ nan,
Nâu sòng nhượm lấy màu vàng,
Thanh tâm tuyệt vọng huy hoàng sáng trưng.
Kinh THÁNH-ÐỨC con bừng mắt dậy,
Rán học hành sửa lấy tinh ba,
Một lòng thoát khỏi ái hà,
Hồng ân đượm tưới cỏ hoa tươi nhuần.
Bớ con ôi khá vưng lời Mẹ,
Noi Thánh-Kinh chỉ vẽ đường tu,
Giáng đàn thừa lúc trung thu,
Quyết tình chỉ lối vẹt mù cho con.
Kìa võ-trụ nước non còn đó,
Tình Mẹ con cho rõ thâm tình,
Khuyên con lớn nhỏ giữ gìn,
Giả con ở lại Thiên-Ðình Mẹ lui.....
22.- CHƯ THẦN VIỆT-NAM MỪNG KINH
__________
THI:
KHƯƠNG hòa cơ Ðạo giữa Trời Nam,
THÁI nhựt hoàng huy độ xác phàm,
CÔNG chánh tu hành về thượng cõi,
Giáng mừng Thiên mạng hội sơn đàn.
Chư Thiên ân thủ lễ tiếp chư Thần Nam-Việt.
(Tiếp điển)
THI:
LÊ trào Nguyễn chúa thuở xưa nay,
VĂN võ kiêm ban mấy kẻ tài,
DUYỆT đảng nịnh thần qui chánh tính,
Giáng cơ hội thượng chốn sơn đài.
* * *
Minh-Ðài giáng bút rất vui mừng,
THÁNH-ÐỨC cứu đời thế sự vâng,
Ðạo lý rành phân câu bác-ái,
Phổ thông chánh giáo sửa phong thuần.
(Tiếp điển)
THI:
HUỲNH hà sóng bủa gió đưa sao,
ÐỨC hạnh tu Tiên gắng dạ nào,�����
ÐẾ Ðạo thiện từ lòng chính chắn,
QUÂN thần cộng lạc sửa phong trào.
Chào chư Thiên ân.
THI:
Lần dò ngọn bút chuyển trên bàn,
Mừng đặng Thánh-Kinh cứu thế gian,
Phổ hóa đông nam qui mỹ tục,
Giáo truyền vạn quốc đắc hòa an.
Kinh chương quí trọng vô điều sánh,
Ðạo lý thâm uyên tận luận bàn,
Cám đội ơn Trời cơn nắng hạ,
Thương dân cho gội trận mưa chan.
(Tiếp điển)
THI:
LÊ lý gặp thu đượm tiết nhuần,
VĂN thần võ tướng cũng triều vưng,
QUÂN vương ẩn mặt rồng xa dạng,
Giáng thế vui trong một tiệc mừng.
Chào chư Thiên ân.
THI:
Mừng thay chi xiết nỗi lòng mừng,
Ðạo Lý Kinh Trời dạy phải vưng,
Triết học cao sâu Kinh THÁNH-ÐỨC,
Ðạo mầu bí diệu khá mau vâng.
THI:
Mừng Ðạo ngày nay khỏi khổ sầu,
Thánh-Kinh tế độ khắp hoàn cầu,
Thức người hồ điệp về đường sáng,
Dạy kẻ học lầm kiếm lý sâu.
Ðánh nát tâm phàm không vị nể,
Phá màn hắc ám chẳng thương đâu,
Rọi đèn chơn lý dìu người tục,
Cứu cánh trần ai lánh khổ sầu.
(Tiếp điển)
THI:
VÕ lộ từ ngày ngộ Thánh Quân,
CÔNG trình chẳng nệ ngựa chờm chơn,
TÁNH tâm đâu có nài gan sắt,
Giáng thế chào trong một tiệc mừng.
THI:
Mừng cho mối Ðạo đặng phô trương,
Pho THÁNH-ÐỨC Kinh dạy tỏ tường,
Mừng đặng cứu đời cơn mộng ảo,
Mừng vui cứu quốc khỏi tang thương.
(Tiếp điển)
THI:
NGÔ lào xem cũng chẳng bao xa,
TÙNG lý Ðạo ban đặng hiệp hòa,
CHÂU ngọc biển hồ xưa lố dạng,
Giáng trần mừng đặng hội đào-hoa.
* * *
Mừng đặng giáng cơ chỉ dạy đời,
Mừng thay quí báu bổn Kinh Trời,
Mừng cho dân sự nhuần ân huệ,
Mừng khắp chúng sanh rõ đặng lời.
(Tiếp điển)
THI:
CHÂU sa ngọc đổ mến thương đời,
VĂN vị mà chi với thế thời,
TIẾP lịnh qua Xiêm cầu tướng giúp,
Giáng nguy truông vắng ngộ nàn ôi!
Chào chư Thiên ân.
THI:
Mừng thay Kinh báu rải từ đây,
Văn võ chơn truyền đặng rẻ mây,
Thức kẻ trượng phu noi chánh Ðạo,
Tỉnh người quân tử học lời Thầy.
Bổn Kinh THÁNH-ÐỨC vô vi quí,
Pho sách Thần Tiên khó sánh đây,
Cám đội ơn Trời khôn xiết kể,
Nguyện lo học Ðạo bước thang mây.
(Tiếp điển)
THI:
QUẢNG đại lương từ mới đáng khen,
PHÁP truyền chơn giáo thể cung rèm,
CÔNG minh thức lý tầm tu học,
THẦN Thánh ngự phê quyển Thánh sen.
Ta mừng chư hiền khanh.
THI:
Cơ đời lắm lúc phải chinh nghiêng,
Do máy hành tàng luống đảo điên,
Thức giấc mộng hồn thương sự thế,
Tỉnh say giác ngộ rõ cơ huyền.
Chung tình gánh vác bồi non nước,
Hợp lý đồng tâm sửa mối giềng,
Lắm lúc khổ cay liều gió bụi,
Ðôi phen thân phải lắm ưu phiền.
THI:
Quí trọng lời Tiên chỉ giáo rành,
Mừng thay đặng học bổn Kinh thành,
Lý chơn dạy rõ như Trời sáng,
Giáo dục phân tường thể Ðất sanh.
Muôn đội ơn Trời Kinh THÁNH-ÐỨC,
Ngàn năm nguyện giữ để nên danh,
Mừng lòng cậy bút châu lời ngọc,
Tả rõ tâm cang với chí thành.
(Tiếp điển)
THI:
PHAN trường tiêu tứ lúc còn nguy,
CHÂU ngọc giồi trau có dễ gì,
TRINH tiết một lòng hoài Quốc Ðạo,
Giáng mừng hiền sĩ đắc khoa thi.
Mừng các hiền khanh.
Một kiếp lo đời cũng chưa xong,
Nay vui theo Ðạo quyết tu ròng,
Tu cao cho đáng về Tiên vị,
Tu sửa tâm cang giữ thiện lòng.
Mừng bổn Kinh Trời ban xuống thế,
Mừng thay chi xiết cháu con rồng,
Mừng duyên kỳ ngộ từng muôn thuở,
Mừng học Ðạo mầu nguyện đặng xong.
(Tiếp điển)
THI:
TỰ toại Bồng-Sơn xét cuộc đời,
ÐỨC gìn tu niệm đặng yên nơi,�����
TIÊN bang thương chúng dân Hồng-Lạc,
VƯƠNG Ðạo khuyên tu lánh khổ đời.
Chào chư hiền sĩ.
Ngổn ngang trăm mối chát bên lòng,
Nhìn kỷ chúng dân với núi sông,
Tha thiết phải cam cơn nắng hạ,
Bao chừ mới gặp hội mưa đông.
Ðã tu tu gắng cho nên Ðạo,
Danh lợi đừng cam bận lấy lòng,
Ân hận chớ nên, noi THÁNH-ÐỨC,
Bền tâm thoát khỏi bến trần hồng.
BÀI:
Bến trần hồng gió đông mưa tạt,
Hạt sương sa lác-đác thấu xương,
Cảnh sầu ai khéo vấn vương,
Ðem thân hào kiệt lót đường trầm luân.
Nghĩ đến đời bâng khuâng tấc dạ,
Xét đến thân phải trả nợ đời,
Còn non, còn nước, còn người,
Còn tranh vân cẩu, còn trời nắng mưa.
Giọt sương mai nhặt thưa điểm liễu,
Ngọn gió chiều thiu-thỉu giấc kha,
Dầu cơn cách biệt san hà,
Cũng còn thương nhớ xót xa nơi lòng.
Biết cuộc thế bưởi bòng cay đắng,
Nhưng khó phân cho hản tương lai,
Lánh xong nợ gởi trần ai,
Xem trăng nhớ lúc chương đoài luận suy.
Cơ võ-trụ ẩn vi trêu ghẹo,
Khiến lòng người khô héo với lòng,
Cam lồ tưới biết có xong,
Ðặng cơn hồ điệp nhớ vòng đớn đau.
Thôi thì quyết gởi vào cửa Ðạo,
Phú việc đời nha trảo cho đời,
Kệ Kinh hôm sớm qua thời,
Ðã tu thì quyết cho rồi kiếp tu.
Mặc sóng lượn cần cù dưới bãi,
Phú cành dương gió thảy mưa rào,
Cánh hồng liệu lượng thấp cao,
Ẩn trong vân phủ biết nào rồng bay.
Lần lựa đến đời xây trở lý,
Khiến lòng nầy chung thỉ cùng đời,
Cùng đời nghe thửa những lời,
Những lời khuyên nhủ, những lời lâm ly.
Dầu trong cuộc thạnh suy hoạn nạn,
Chẳng qua là làm chán lấy mình,
Như ta cũng mặc quân binh,
Mà nay nào có dạng hình chi đây.
Kìa trận gió thổi mây cuốn ngọc,
Nọ đàn chim đang học líu-lo,
Chán nhìn tương đối diễn trò,
Sao bằng cảnh trí khỏi lo sự gì.
Bớ người thế nghĩ suy cho cạn,
Rồi biết ta mới hản lòng ta,
Cắt tay ai chẳng thiết tha,
Nhưng trong cơ Tạo có già có non.
Tu thân rán chí cho tròn.
THI:
Tròn học Thánh-Kinh rán luyện giồi,
Trau tâm hôm sớm bớ người ôi,
May duyên ngộ đặng Tam-Kỳ Ðạo,
THÁNH-ÐỨC CHƠN-KINH rán đắp bồi.
Ta ban ơn chư hiền.....
(Tiếp điển)
THI:
PHAN đào lý hạnh trổ vườn thu,
THANH khí xưa nay vẫn hiệp phù,
GIẢNG giáo phò nguy cơn nước biến,
Giáng can tế cấp kẻ thiện từ.
HỰU:
Anh kiệt không qua nổi thế thời,
Chìu theo ngọn sóng lại thêm nhồi,
Một ve thuốc độc đền ơn nước,
Ba tấc thân đây trả nợ đời.
Ai có thấu cho lòng ái chủng,
Người đâu biết đặng phận bèo trôi,
Cuộc cờ xe pháo như cơn mộng,
Lộn xộn vắng tanh với tấc hơi.
BÀI:
Nhìn đời mà chán cho đời,
Trăm năm như bóng chiều mơi đưa liền.
Dầu cho cảnh tục người Tiên,
Chẳng qua là nợ tiền khiên có gì.
Màn Trời vén rõ hiển vi,
Càn-Khôn thiên lý xiết chi rộng dài.
Xem trong đời thiệt bi ai,
Ðịa cầu ra đặng cõi ngoài khỏi nguy.
Muôn nghìn thế giái nghĩ suy,
Cái khô đã mạt, cái thì đương xanh.
Có đâu ai lại tranh giành,
Miễn là thoát đặng chỗ manh mối tìm.
Còn thân, còn lợi, còn quyền,
Hết thân thì cũng khổ phiền chớ sao.
Ôi thôi! việc thế chiêm bao,
Trong vòng luân chuyển thấp cao khó bày.
Thiết tha thương nhớ ái hoài,
Còn dây tư tưởng thì hay đau lòng.
Quyết lòng thôi cũng quyết lòng,
Ðoạn tình ân ái đặng xong mới là.
Cõi Trời còn rộng bao la,
Tìm phương siêu thoát cho qua chốn sầu.
CHƠN-KINH THÁNH-ÐỨC lo âu.
Ta mừng chư hiền. Chư hiền thành tâm cầu VĂN-XƯƠNG ÐẾ-QUÂN.
(Tiếp điển)
THI:
VĂN võ Ðạo tâm chiếm thượng thừa,
XƯƠNG thâm lý nhiệm bóng hồng đưa,
ÐẾ Vương đạo-đức nhà yên quốc,
QUÂN tử nệ chi nỗi lận lừa.
Ta chào chư hiền.
Pho THÁNH-ÐỨC nay cũng đã hoàn tất, Ta giáng mừng cho chư hiền được một dịp rất nên may mắn mà lập đại kỳ công. THÁNH-ÐỨC rất quí mầu vô giá, dầu của muôn tiền triệu cũng không thể nào so sánh đặng!!! Vì THÁNH-ÐỨC cứu cánh cho nhơn sanh được giải thoát lưới trần, biết luật Trời mà gìn tâm tu niệm.
Ôi! rất quí hóa thay! lưu truyền vạn đại, bất câu là hạng dân nào, tôn-giáo nào, hễ để tâm vào quyển THÁNH-ÐỨC thì ăn-năn giác ngộ liền.
BÀI:
Nơi cảnh Thánh khuôn Trời sẽ hản,
Chốn trần gian gieo cảm cho đời,
Phá mù vẹt lối khắp nơi,
Thức người tỉnh giấc chiều mơi hồi đầu.
Quyển THÁNH-ÐỨC đâu đâu cũng nể,
Chuyển mê hồn chớ để khờ ngây,
Trông vào sẽ rõ luật Thầy,
Hết cơn ảo tưởng vui vầy tốt tươi.
Thánh-Kinh Trời vui cười khách Ðạo,
Nhớ từ-bi chỉ bảo tương tri,
Thanh thanh gió mát vân phi,
Non Tần đảnh khứu tuyết thì pha sương.
Lẩn thẩn chốn non chương ngâm phú,
THÁNH-ÐỨC truyền bao phủ Kiền-Khôn,
Phá say cho tỉnh tâm hồn,
Vén màn mê mộng non Côn hưởng nhàn.
Thành tâm tiếp điển MAU-TOẠI CHƠN-NHƠN.
(Tiếp điển)
THI:
MAU chơn bước lẹ thoát dinh hoàn,
TOẠI chí hưởng nhàn được vẹn an,
CHƠN giả biện phân cho thấu đáo,
NHƠN luân Kinh luật nẽo vu san.
Bần-đạo chào chư hiền sĩ.
THI:
Giáng mừng THÁNH-ÐỨC cứu đời an,
Thoát chốn trần gian khỏi lụy tràn,
Tỉnh giấc hoàng lương mau bước kịp,
Ngộ kỳ đại-hội đến Tiên bang.
* * *
Tiên bang thi hội đoạt kỳ công,
Công đức trau tria thoát khỏi lòng,
Lòng dạ thanh cao mong hiểu đặng,
Ðặng rồi mới đến cảnh Lai-Bồng.
* * *
Lai-Bồng vui hưởng mấy nghìn thu,
Thu thủy trong veo thoát ngục tù,
Tù túng trần gian hoài đến thác,
Thác đành uổng một kiếp công phu.
* * *
Công phu hôm sớm ấy là tu,
Tu sửa kỷ cang vẹt ngút mù,
Mù mịt khó toan quày trở bước,
Bước lên thượng đảnh thú muôn thu.
* * *
Muôn thu toại hưởng chí thanh nhàn,
Thanh khiết tâm trần được vững an,
Lành dữ hai đường tùy ý chọn,
Cảnh Tiên mau đến hội Tiên bang.
* * *
Tiên bang cảnh đẹp lúc trăng tròn,
Tròn méo biện rành dạ sắt son,
Son sắt tận lòng toan nhứt dạ,
Dạ tu thì cũng hưởng ân còn.
* * *
Ân còn cội lý lúc mưa dào,
Dào đẩy sương gieo gió thổi rao,
Rao nhịp thanh tân đờn Tạo-Hóa,
Hóa châu phun ngọc chí tâm hào.
* * *Tâm hào chí khí vững đăng Tiên,
Tiên Thánh ngự phê huấn giáo truyền,
Truyền lại cho đời mau tỉnh ngộ,
Ngộ Kinh THÁNH-ÐỨC vững lòng yên.
* * *
Lòng yên thanh tịnh thật là hay,
Bận bịu hồng trần rất khổ thay,
Thay đổi chi người không có chí,
Chí mong hưởng phước chớ lòng hai.
* * *
Lòng hai khó vẹn tấm màn trời,
Trời chuyển cơ quan cứu nạn đời,
Ðời Ðạo hai nơi tùy lựa chọn,
Mới mong thoát khỏi chỗ trần vơi.
* * *
Trần vơi lắm lúc chịu tai nàn,
Nạn lánh động Tiên định tĩnh an,
An tịnh chỗ nhàn chim vượn hú,
Hú kêu khách tục thoát lầm than.
BÀI:
Chuông vàng khánh ngọc kêu vang,
Vang đầy cảnh tỉnh Ðạo vàng cứu nhơn.
Nhơn sanh thức giọng đờn cứu khổ,
Khổ lắm thay vì chỗ bảo bùng,
Bùng than lắm lúc lao lung,
Lao lung qua khỏi anh hùng mới cao.
Châu lệ thảm phong trào quốc thể,
Bể trầm luân tìm kế thoát thân,
Thân hình lắm chịu phong trần,
Trần ai tai nạn lắm lần tang thương.
Thương cho đời chưa tường lý Ðạo,
Ðạo cao siêu bổ báo ơn nhà,
Nhà an quốc thạnh san hà,
Hà đồ sắp đặt cho ra vẽ người.
Người quân tử thanh tươi chí hạnh,
Hạnh người tu phải tránh cuộc đời,
Ðời tàn lao lý an nơi,
Nơi lòng lo học Ðạo Trời quang minh.
Minh lý chánh huỳnh-đình sơn thượng,
Thượng chơn-tâm qui hướng thiên-cơ,
Cơ Trời phẳng lặng như tờ,
Tờ mây gió mát cuộc cờ thanh tân.
Tân dân Ðạo bước lần học hỏi,
Hỏi Thánh Kinh tìm tỏi đêm ngày,
Ngày giờ nhặt thúc chớ say,
Say mê vật chất khó quày đường chơn.
Chơn-Lý Ðạo keo sơn gắn chặt,
Chặt lòng tu son sắt một màu,
Màu trời đủ sắc tiêu dao,
Dao du Bắc-Hải ngạt ngào cung trăng.
Trăng tỏ rạng đêm rằm phăng phắt,
Phắt như tờ đặc sắc gió êm,
Êm chèo xuôi nước cung thềm,
Thềm Tiên rán lánh phù diêm cho thành.
Thành tâm chí Ðạo lành hướng thiện,
Thiện nhơn luân tân tiến thường tình,
Tình đời ngán ngẩm linh đinh,
Ðinh ninh nhứt dạ Thiên-Ðình nêu gương.
THI:
Gương thơm chiếm giải đoạt công đầu,
THÁNH-ÐỨC CHƠN-KINH rán chí thâu,
Bớ khách tài hoa tròn đức hạnh,
Học thông chánh Ðạo hết than sầu.
Bần-đạo ban ơn chư hiền, khá tiếp lịnh THẦN-HOÀNG BỔN-CẢNH.
(Tiếp điển)
THI:
THẦN ẩn cứu dân khỏi nạn sầu,
HOÀNG trình cực nhọc đã từ lâu,
BỔN Kinh Thánh-Ðức dìu sanh chúng,
CẢNH Ðạo dạy rành rõ lý sâu.
Ta mừng chư nho sĩ.
BÀI:
THÁNH-ÐỨC Kinh nhị pho kết liễu,
Chí tu cầu rán hiểu từ câu,
Trông ra sẽ đoạt cơ mầu,
Chạnh lòng hiếu đạo dãi dầu nệ chi.
THÁNH-ÐỨC Kinh huyền vi lắm bấy,
Máy linh cơ đưa đẩy quá mau,
Làm cho những bực anh hào,
Bước lên đạo-đức chẳng ngao ngán lòng.
Pho Thánh-Huấn giải xong tao nhã,
Như giọng đời rỉ rả đêm khuya,
Rán xem cho hẳn rạnh bia,
Xét suy tột lý phân chia đâu nào.
Lòng thắt thẻo tâm bào ái truất,
Bởi mê trần thốn thức nào an,
Kinh Trời như thể sen vàng,
Ðen màu trổ nhụy huy hoàng thanh tươi.
Lòng ngao ngát vui cười THÁNH-ÐỨC,
Dạ chí lâm Tây-Vức bước lần,
Rán mà un-đúc tinh thần,
Chí tâm tu niệm đạt lần cơ quan.
Khá hiểu máy hành tàng vận chuyển,
Thì tự nhiên hiển hiện nào sai,
Phép Trời huyền diệu linh oai,
Chiếu phê Kinh Kệ giồi mài lý chơn.
Khá hiểu giọng tiếng đờn ngâm khúc,
THÁNH-ÐỨC Kinh hối thúc nhơn sanh,
Tỉnh hồn lần bước đặng thanh,
Rõ lòng nhơn nguyện Thiên thành mới hay.
Khuyên chư hiền chớ sai Kinh Thánh,
Khá lọc lừa mà sánh bực tu,
Cảnh Tiên quí báu ngàn thu,
Trần gian lao khổ, diêm phù long đong.
Chiêu trí thức chí công an tịnh,
Chọn nhơn tài chính đính nương nhau,
Kết dây thân ái một màu,
Vững tâm mới rõ sen đào thơm tho.
Giữ giòng Ðạo một lò khắn khít,
Chớ lơi tâm vấn-vít theo đời,
Khiến cho bối rối chiều mơi,
Làm cho khó đặng thảnh thơi linh hồn.
Rõ Thánh-Ðức CHÍ-TÔN biện lẽ,
Quyết chung tình thì sẽ thoát vòng,
Trần ai tục lụy não nồng,
Làm cho lao khổ khó hòng giải vây.
Quyển THÁNH-ÐỨC nay Thầy ban rải,
Luật ẩn vi từ mảy-mún rành,
Chương nào cũng chỉ đành rành,
Cho người đặng hiểu đường lành lý chơn.
Nghe dạy phải keo sơn gắn bó,
Ðặng mà dìu dắt ngỏ chúng sanh,
Kinh luân rán chí học hành,
Giữ tâm thanh tịnh lòng thành thoát nguy.
THÁNH-ÐỨC Kinh nghĩ suy hiểu cạn,
Lời dạy rành chánh đáng cơ mầu,
Ðạo Thầy phải rán lo âu,
Kinh dìu nhơn loại thoát sầu được vui.
Mừng THÁNH-ÐỨC ngậm ngùi tấc dạ,
Ơn Trên bày giải cả đêm thanh,
Nương mây đàn nội chỉ rành,
Khuyên nhơn sanh rán lòng thành thỉ chung.
Giáng điển quang phân cùng từ dấu,
Dạy chúng sanh cho thấu tu hành,
Kẻo lầm tà mị đàn quanh,
Chiêu an các giáo mối manh ngọn nguồn.
Quí hóa thay tiếng chuông THÁNH-ÐỨC,
Cứu chúng sanh khỏi vực ái hà,
Quả xưa rày cũng đặng qua,
Nhờ tu học Ðạo cao xa tinh thần.
THI:
Tinh thần THÁNH-ÐỨC nhị pho vàng,
Ðánh thức nhơn tâm vững trí an,�����
Mở mắt trông vào người nể mặt,
Làu làu gương rọi rõ huyền quang.
Khá thành tâm tiếp lịnh NHỨT-PHẨM CÔNG-ÐỨC CHI-THẦN.
(Tiếp điển)
THI:
NHỨT đức nhứt tâm kiếm Ðạo lành,
PHẨM Tiên ngôi Phật chức cao xanh,
CÔNG-bình, bác-ái noi gương huệ,
ÐỨC cả tầm tu rõ ngọn ngành,
CHI nhọc tấm thân mừng Thánh-Ðức,
THẦN linh ủng hộ bực tài lành,
MỤC chiêu nhơn trí tâm thanh tịnh,
THANH điển giáo thông nẽo vạn sanh.
Bổn-Thần chào chư hiền nam nữ.
THI:
THÁNH-ÐỨC CHƠN-KINH độ rổi đời,
Cứu an sanh chúng rõ cơ Trời,
Lập thân trau tánh cho toàn vẹn,
Mới rõ thiên linh chiếu sáng ngời.
* * *
Sáng ngời điển chớp khắp Kiền-Khôn,
Bao phủ chung quanh độ các hồn,
Giải thoát mộng trần cơn nghiệp chướng,
Phá vây bốn vách đến Thiên-môn.
* * *
Thiên-môn Tiên cảnh chiếu hào quang,
Ngào ngạt mùi hương khắp thế gian,
Ðiên đảo hết cơn nhờ học Ðạo,
Non Tiên động Thánh chí thanh nhàn.
BÀI:
Thanh nhàn nghĩ đến đời thương,
Cũng vì mộng ảo đoạn trường lắm phen.
Thầy NGỌC-ÐẾ vén rèm thiện đức,
Ðộ chúng sanh thoát vực hố hầm,
Ban Kinh THÁNH-ÐỨC cao thâm,
Giải rành lý nhiệm đò thần các nơi.
Khá rõ máy cơ Trời luân chuyển,
Luật Tạo-Công thiên biến vạn hình,
Cứu an sanh chúng non huỳnh,
Rõ thông Ðạo mạch sân trình công phu.
Khá mở mắt vẹt mù thấy rõ,
Rõ linh cơ hầu ngỏ độ đời,
Chiêu an bá tánh chiều nơi,
Hết cơn khổ nạn thạnh thời nhà an.
Khuyên chư nho lo giềng Ðạo cả,
Rán lập công bồi quả hiện thời,
Thánh Kinh nhị quyển luật Trời,
Chí công hành Ðạo lánh đời chớ sai.
Tầm mối Ðạo một hai sẽ hản,
Hản cuộc đời như đám phù vân,
Vân phi bao phủ non Tần,
Non Tần qua khỏi muôn phần ngao du.
Pho THÁNH-ÐỨC lo tu giải thoát,
Thoát mộng trần thắng đoạt tai nguy,
Nguy nàn lắm phải trễ kỳ,
Kỳ Long-Hoa hội khó thi đặng vào.
Mừng Thánh-Ðức một màu chơn lý,
Lý cao siêu ám chỉ tâm người,
Người đời giả cuộc thương ôi,
Ôi là đau thảm bồi hồi lòng đây.
Bộ Kinh vàng của Thầy ban rải,
Rải tứ phương chế cải tâm phàm,
Phàm phu tục lụy còn ham,
Ham mê nên nổi bị vàm quỉ ma.
Thần giáng mừng Ðạo nhà thực tế,
Tế ngôn từ cải chế vạn linh,
Linh hồn hưởng phước cao minh,
Minh tường lý lẽ vân trình động Tiên.
Kinh THÁNH-ÐỨC tỉnh khuyên khách tục,
Tục thế đời lắm lúc đau thương,
Thương cho sanh chúng đoạn trường,
Trường đồ mã lực phô trương lý mầu.
Quyển Kinh báu gìn câu bác-ái,
Ái thu đông khẳng khái cao siêu,
Siêu bờ Ðạo ngạn Thánh triều,
Triều đưa ánh Ðạo bóng thiều trở xây.
Quyển Kinh Trời cứu bầy khờ dại,
Dại nên khôn khá cải tâm trần,
Trần hoàn bị vướng sa chân,
Chân tay cử động trở thân dễ dàng.
Chuyển mê hồn tâm càng phát triển,
Triển mối manh tâm tiến quán thông,
Thông thường mọi lẽ đại-đồng,
Ðồng tình liên kết một lòng đởm đương.
Chuyển mê mộng dẫn đường chúng khổ,
Khổ vì nơi tại chỗ mịt mờ,
Mờ nào thấy đặng Thiên cơ,
Cơ quan phát hiện cuộc cờ công minh.
Chuyển mê đời công trình cực nhọc,
Nhọc lao tâm cho vóc giải rành,
Rành lời châu ngọc đêm thanh,
Thanh thao êm dịu khá hành theo mau.
Chuyển mê chúng tiêu dao hưởng hứng,
Hứng sương mai cảm ứng tâm lòng,
Lòng hay có biết chăng lòng,
Lòng nào tường tấc đại đồng hậu lai.
Chuyển mê ảo ra tài vén ngút,
Ngút mù mây phá đục lóng thanh,
Thanh nhàn vui hưởng chí thành,
Thành tâm ngưỡng vọng mối mành tường thông.
Chuyển giấc điệp sửa lòng cao khiết,
Khiết đặng rồi mới biết Trời cao,
Cao xanh chứng mạng kẻ hào,
Hào hoa tuấn kiệt một màu tu mi.
Chuyển cơ đời kịp kỳ đại hội,
Hội Hoa-Long tương đối tương đồng,
Ðồng tình nương dựa thần công,
Công-bình bác-ái đại đồng lý chơn.
Chuyển mê trần rõ đờn vô phiếm,
Phiếm không dây ai kiếm đặng nào,
Nào đời tranh thấp giành cao,
Cao rồi xuống thấp, thấp cao cũng đồng.
Chuyển mê tỉnh rõ lòng chánh kỷ,
Kỷ cương vưng chỉ lý độ đời,
Ðộ đời chan chứa chẳng lơi,
Ðời văn minh lắm thì bời rời nhau.
Chuyển nhơn chúng lòng cao khiết thức,
Thức đừng rời hữu đức trượng phu,
Phu tình độ bạn sòng tu,
Tu tâm giải khổ nghìn thu an nhàn.
Chuyển chúng khổ được an vui chí,
Chí vững lòng chung thỉ nào phai,
Phai lòng trần tục chớ sai,
Say sưa sau phải đắng cay muôn phần.
Chuyển mê tâm ân cần sốt sắng,
Sốt sắng nên phẳng lặng êm trời,
Trời dìu chủng loại khắp nơi,
Nơi nơi an tịnh rõ thời cuộc xây.
Chuyển khắp chốn vui vầy nhứt thống,
Thống một đường linh động cội nguồn,
Nguồn Trời Ðạo mạch như khuôn,
Khuôn lồng hãm nhốt như tuồng mê man.
Chuyển cơ hội chiêu an sanh chúng,
Chúng linh tàng hành đúng cơ Thiên,
Thiên ân Ðạo cả một giềng,
Giềng ba nắm mối như nguyền nhứt tâm.
Chuyển mê chúng cơ thâm phá lối,
Lối mê man tội lỗi trần hồng,
Hồng gian chen lấn chim lồng,
Lòng người ám muội khó trông thoát sầu.
Chuyển có lý cạn sâu bi diệu,
Diệu cơ Trời khá hiểu cho cần,
Cần lo hôm sớm từ lần,�����
Lần dò xét nét cân phân tận lòng.
Chuyển phá lối não nồng đau khổ,
Khổ lắm hiền lố nhố tại ai,
Ai người vui đắm mê say,
Say mùi Ðạo lý Bồng-Lai được kề.
Chuyển nhơn tâm được về chánh giác,
Giác mê hồn hiểu đạt quang minh,
Minh tâm kiến tánh Ðạo Huỳnh,
Huỳnh môn mở cửa rước linh quang từ.
Chuyển nhơn loại chơn như qui tựu,
Tựu điển quang ký chú tu hành,
Hành công quả vẹn tận lành,
Lành rồi mới biết cao xanh diệu mầu.
Chuyển chủng loại gồm thâu một mối,
Mối Thiên-cơ một khối tinh thần,
Thần Tiên Thánh Phật giáng trần,
Trần ai nương giải lần lần hết tai.
Chuyển mê ngó thiên oai cảm hóa,
Hóa nên người như cá hóa cù,
Cù nằm đáy biển cù tu,
Tu thành rồng phép muôn thu hưởng nhờ.
Chuyển cơn mê đặng thờ Ðạo cả,
Cả tiếng kêu nho nhã quần sanh,
Sanh ra mấy kiếp tu hành,
Hành theo THÁNH-ÐỨC đường lành trổi chơn.
THI:
Trổi chơn gặp bạn hiệp tâm đồng,
Giải quyết nổi điều tạc cả xong,
THÁNH-ÐỨC CHƠN-KINH tường nghĩa vụ,
Tu hành hôm sớm mới ghi lòng.
(Tiếp điển)
THI:
THỔ nương mây bạc giáng Kỳ-Sơn,
HÀNH đạo đức cao dạ chớ sờn,
TÔN pháp qui tông tuân chiếu lịnh,
Mừng pho Thánh-Ðức rõ hiền nhơn.
Thánh truyền chánh lý qui đồng loại,
Ðức giáo Chơn-Kinh giải mộng hồn,
Chuyển các tánh tâm hườn nhứt thống,
Mê đời tỉnh giả đặng về chơn.
BÀI:
Về chơn kịp khoa trường thi hội,
Chiếm bảng son tuyệt đối lý mầu,
Khá toan kiếm lý cao sâu,
Vẹt cơn mộng ảo thoát cầu giải vây.
Rán lóng đờn không dây ru dắt,
Tỉnh say rồi lật đật lo tu,
Chí tâm quyết thoát diêm phù,
Tận tình cương quyết nghìn thu hưởng nhàn.
Vậy mới khỏi lầm than đau khổ,
Tỉnh giấc nồng tìm chỗ tinh thần,
Nương thuyền Bát-Nhã kề gần,
Bôn hành dậm thẳng lần lần cứu nhơn.
Rưới cam-lồ được đơn tươi nhuận,
Cho hết mê tạo dựng tu hành,
Xem qua thấy rõ ngọn ngành,
Chí thành cảm ứng hiệp thành thiên cơ.
Ai khéo sắp cuộc cờ chạnh dạ,
Mà lá lay ổn thỏa chìu lòn,
Mấy phen khó nhọc gánh đòn,
Cho đồng một mực vuông tròn không sai.
Lòng thốn thức ai hoài than thở,
Lòng xem qua chẳng nở vui mừng,
Não nề cuộc thế bâng khuâng,
Nhờ Kinh THÁNH-ÐỨC tưới nhuần rưới chan.
Giọt cam-lồ độ an khắp chỗ,
Huấn giáo ban ôn cố tu tầm,
May sau khỏi chốn luân trầm,
Rõ ràng cơ chuyển huyền thâm thế nào.
Gió hướng bắc lao rao thổi đến,
Thuyền rồng kề bên bến vớt người,
Biết tu tâm chí thanh tươi,
Mau chơn bước lẹ kịp người đò đưa.
Hễ trễ nãi thì chưa thấy bến,
Tâm trù trì khó đến chỗ xưa,
Làm sao đến đặng thượng thừa,
Khá mau tỉnh giấc tương dưa tu tầm.
Chăm từ nét suy tầm nghiên cứu,
Khá biện rành bổ cứu cho nhau,
Vững tâm vững dạ yên hào,
Ðạo mùi ngào ngạt giọt đào thơm tho.
THÁNH-ÐỨC vốn một lò triết lý,
Nghĩ suy cùng ý chí kềm lòng,
Thanh cao thực hiện đại đồng,
Mới là kết cuộc thành công đoạt tài.
Mới đáng phận râu mày anh tuấn,
Ðứng nam nhơn tỷ hứng tiên chơn,
Ðạt cơ máy nhiệm keo sơn,
Hiệp hòa liên ái khảy đờn vô dây.
Tiếng phù trầm cứu bầy Hồng-Lạc,
Giọng thanh tao lác-đác tạc vào,
Phun châu nhả ngọc tiêu dao,
Huỳnh tương yến ẩm phiêu phao Lai-Bồng.
Chí nung nấu nho phong an lạc,
Phấn tâm bền vững đạt dìu nhơn,
Hiền tài mấy bực du sơn,
Quên câu chung trí nguồn cơn rõ lòng.
Dầu cho phải tinh thần hao kém,
Miễn độ đời vun bén Ðạo tâm,
Cho người thoát khỏi hố hầm,
Mới trang anh kiệt rõ thâm cơ huyền.
Lý mầu vi thâm uyên bí diệu,
Máy chuyển xây đơn chiếu độ trần,
Cho người thức giấc lao tân,
Hết cơn điên đảo lần lần thoát tai.
THI:
Thoát tai vượt khỏi đám sương mù,
Chấn chỉnh Ðạo nhà mới hạnh tu,
Chiêu mộ hiền nhơn cho vững chắc,
Cơ mầu lý tưởng lệ ôn nhu.
PHÚ:
Xem cuộc trần nghĩ thảm cho thân đau đớn.
Dòm lại người đáng buồn thay trưa sớm khéo cần chuyên.
Rán chí tâm đặng bước xuống đạo-đức ấy con thuyền.
Hết cơn mộng mới rõ liền cơ xây chuyển.
Xem thế thái nhơn tình còn quyến luyến.
Bởi say mê nên khổ phận khó biện nẽo chánh tà.
Ớ người khá mở mắt thần mà dòm ngó cho xa.
Mới đặng hiểu mối Ðạo nước nhà Tam-Kỳ Phổ-Ðộ.
Ðạo của Thầy cứu an sanh chúng thoát vòng đao khổ.
Khuyên người đời khá tỉnh giấc mộng trường đặng tìm chỗ ẩn nương.
Rồi mới rõ THÁNH-ÐỨC CHƠN-KINH là con đường Tiên-Thiên Ðại-Ðạo.
Chí tâm thành rán lo mà bổ báo.
Hiểu lý chơn hết mộng ảo khỏi sầu não thoát lần lên.
Khá gắng cần ôn cố tâm bền.
Lòng chơn chánh biết nghe đờn thanh thao tao nhã.
Xem cuộc đời mà phải lụy rơi lả-chả.
Bớ khách trần mau nhả bả lợi danh.
THI:
Danh lợi say mê phải lụy tràn,
Tu hành chơn giáo khỏi lầm than,
Chí công học tập bồi âm chất,
Thoát khỏi trầm mê chiếm bảng vàng.
Bần-đạo ban ơn chư hiền.....
23.- THỨC GIẤC MỘNG HỒN
__________
THI:
LÝ đào gặp tiết trổ thêm hương,
THÁI nhựt hoàng huy chiếu diệu đường,
BẠCH cúc liên thu chiều gió phất,�����
Giáng khuyên thức giấc mộng hoàng lương.
Lão mừng chư hiền nam nữ. Chư hiền nghe:
Sau khi chúng sanh xem quyển THÁNH-ÐỨC kỳ nhị nầy rồi thì tự tỉnh trên đường Ðạo-Ðức.
Nhưng còn nhớ lại đến tấm thân phàm ở giữa cuộc đời tranh đấu, nếu quyết chí mà thật hành đạo đức thì phải chịu đói rách thảm sầu, không thể nào làm theo cho đặng.
Nầy chúng sanh, Lão khuyên chớ ngại sự ấy. Kìa loài vật có kho tàng lẩm liệt chi đâu mà nó nào đói khát. Nọ chim trời là một loài nhỏ mọn hơn người mà Chí-Tôn còn cho nó bận đủ màu sắc tốt thay.
Nếu chúng-sanh ăn ở thuận theo lẽ Trời thì Trời sẽ ban cho đủ món. Sợ là sợ làm trái mạng Trời, rồi phải khổ đó thôi. Lại nữa sự khổ của trần gian là tại không biết và không tu, nếu chúng sanh biết thật hành đạo-đức, thì còn chi là khổ nữa.
THI:
Thức tỉnh xem Kinh THÁNH-ÐỨC chơn,
Giác mê nay đã rõ tuần hườn,
Mộng thần khuyên thật hành theo Ðạo,
Hồn phách minh tri lẽ thiệt hơn.
BÀI:
Thiệt hơn cân nhắc thử đời,
Xem Kinh tỉnh trí rõ lời chơn Tiên.
Nguyền noi giữ Thánh truyền chánh đại,
Cầu hồn thông những máy huyền vi,
Sửa lòng hôm sớm tu trì,
Cuộc công danh xét hay gì mà mong.
Thức tỉnh lòng,
Thấu đại-đồng,
Rửa sạch trong.
Rửa sạch trong nay nguyện rán chí tu hòng cho giải thoát.
Từ bấy lâu những mãn ưu sầu bởi vì còn mưu chác mối lợi quyền.
Tranh lợi danh phải cam đành có những sự não phiền riêng.
Ðường hơn thiệt rất đảo điên cho trí tĩnh.
Tính đồng đã chác mấy thu rồi,
Ðộng bích nước xây với sóng nhồi,
Lận đận kiếp tu chưa có một,
Linh đinh thân đạo phải chia đôi,
Ngỡ là học Ðạo cầu cao phái,
Vốn thật tu hành phải sửa đổi,
Một quyển Kinh vàng ban xuống thế,
Cạn phân rành rẻ Ðạo người ôi!!!
Người ôi thảm trạng lắm mà!!!
Hơn thua có biết đâu là hơn thua.
Kiếp sống khổ gió đùa nước vận,
Thân phàm lao biết phận vào đâu,
Tử sanh trong quả địa-cầu,
Người trăm năm biết van cầu đặng chăng?
Ðạo hóa hoằng,
Có thiện căn,
Ðặng cao thăng.
Ðặng cao thăng nhờ có chí trang bằng với học Ðạo.
Hễ đứng làm người thì phải thông thạo việc hành tàng.
Kìa chim chiều đang về núi rất rộn ràng.
Nọ cá sớm mảng vỡn vơ ngoài khúc vịnh.
Khúc vịnh quanh co ấy cuộc đời,
Thảm phiền tranh lấn chẳng mòn hơi,
Ngàn năm đâu thấy câu răn Phật,
Muôn thuở chẳng hay tiếng dạy Trời,
Cá chậu lỡ bề ra khỏi lưới,
Chim chuồng khôn thể thoát ngoài khơi,
Tấm thân bèo bọt muôn điều thảm,
Thảm trạng biết đâu phận nổi trôi.
Trôi lững thửng dưới dòng bích thủy,
Lội vẩn vơ suy nghĩ mà đau,
Thân người nghĩ có khác nào,
Phận bèo bọt nước mưa rào ngoài hiên.
Mối Ðạo truyền,
Ðặng gặp thuyền,
Chí tâm hiền.
Tâm hiền vì bấy lâu đã tính tư riêng cho lắm chuyện.
Nay chia đệ huynh phân nhơn nghĩa hầu cầu đặng tiếng cho mình.
Nào hay đâu máy nhiệm mầu lại với cơ linh.
Cuộc thế khổ như giấc mộng huỳnh cơn tỉnh thức.
Thức lòng biết Ðạo tầm tu,
Bổn Kinh THÁNH-ÐỨC công phu đêm ngày.
Hỡi khách tục chương đoài thi hội,
Nầy chúng sanh tìm lối chơn truyền,
Rán công tập sửa tánh hiền,
Noi theo THÁNH-ÐỨC đổi phiền làm vui.
Nghĩ ngậm ngùi,
Việc tới lui,
Có chi vui.
Có chi vui hầu phanh phui tình huynh với nghĩa đệ.
Con đò đời hằng đưa người giữa nơi bể khổ trầm luân.
Bởi đời mê nên lắm lần sóng dập không chừng.
Tại thế mến khó đặng phong thuần tục mỹ.
Mỹ miều hướng Ðạo tu hành,
Mặc đời danh lợi giựt giành đỉnh chung.
Mượn cân đai trong vòng mê tối,
Ðổi cà sa nhuần gội Phật ân,
Xem vào trong cuộc phong trần,
Ðoạn trường ai cũng đồng phần như ai.
Hết trở day,�����
Bởi sắc tài,
Có chi hay?
Có chi hay mà người đời mảng vui say cho lắm bấy?
Kìa Trụ-Vương còn gương nêu hãy xem lấy hầu sửa lòng.
Nọ quân-sư lũ Tôn-Tú với bọn Bàng-Hồng.
Hại anh tuấn có được không đó thử?
Thử hỏi đời cao đáng bấy cao?
Cao sang cho đến đặng ngôi nào,
Nào vương, nào bá, nào công trận,
Một đám mưa rào cũng mộng sao?
Sao cho đáng mặt anh tài,
Tài tình cho lắm thì tai cũng nhiều!
Chim lạc mẹ chít-chiu thảm thiết,
Gà lẻ bầy chiu-chít não nồng,
Thân người đất khách long-đong,
Ðường xa thui-thủi một lòng dậm truông.
Lóng tiếng chuông,
Nghĩ mà buồn,
Ðóng vai tuồng.
Ðóng vai tuồng dẫu có buồn cũng vô lối.
Rán tu hành hầu thay đổi kiếp tiền thân.
Ðạo-đức trau khá học cho đặng hai chữ tinh thần.
Ðường ngàn dậm dầu có đưa chân cũng nhẹ gót.
Nhẹ gót lần lên chốn Phật đài,
Hơn thua chia rẻ mặc dầu ai,
Tình đồng môn ví như đồng Mẹ,
Nghĩa hiệp thân sanh thể hiệp tài,
Tài đức gắng sao nên chí cả,
Công bình nguyền đặng vẹn thân trai,
Bổn Kinh THÁNH-ÐỨC xem tường lý,
Lãnh hội tu hành chớ lợt sai.
THI:
Mộng hồn giấc điệp khá trau tâm,
Lý Ðạo thanh lương khỏi lạc lầm,
Giải cứu cho trần tường lý chánh,
Phá vây đặng khách hiểu cao thâm.
Bớ ai sáng mắt lo kinh sử,
Hỡi kẻ tu mi học chí cần,
Mang lớp nhục bì nguyền cổi sạch,
Một lòng cương quyết rõ cơ cầm.
BÀI:
Cầm mối dây của Thầy Thượng-Ðế,
Nguyền một lòng phổ tế vạn dân,
Cho người thức tỉnh mộng trần,
Hết cơn xáo lộn lập thân tu hành.
Chí nhứt định đường lành thẳng tới,
Tâm cầu xin độ khỏi tai nàn,
Nhơn sanh bỏ cuộc dinh hoàn,
Hết còn mê ảo noi đàng lý chơn.
Giữ một dạ keo sơn gắn bó,
Rán thành tâm thì có ân Trời,
Rưới cho đượm thấm khắp nơi,
Nhà nhà yên ổn thảnh thơi linh hồn.
Lòng chí thiện huyền môn rán tiến,
Chớ chẳng còn quyến luyến trần ai,
Lời khuyên chẳng luận dông dài,
Rán tầm học Ðạo có ngày an vui.
Bớ khách tục khá nguôi dạ ngọc,
Cả tiếng kêu chí dốc tầm phương,
Giải vây cho khỏi tang thương,
Ấy là THÁNH-ÐỨC Kinh chương hội nầy.
Phá mê đồ vui khuây lý Ðạo,
Thức giấc say bổ báo tròn xong,
Tu-mi giữ mực đại-đồng,
Tư tâm bản ngã nhớ lòng phải răn.
Khá cổi sạch kẻo lằn tư tưởng,
Nợ vởn vơ bị vướng lầm nhơ,
Trí tâm phải bợn bơ thờ,
Linh quang điên đảo ngây khờ cho thân.
Giữ chính chắn học lần lý triết,
Biện cho rành thấu triệt thiệt hư,
Hư nên suy xét khắc khư,
Ôm cầm Thánh huấn hiền từ noi gương.
Hễ rõ Ðạo lo lường chánh pháp,
Khá cần chuyên mà đoạt lý mầu,
Quán thông mọi lẽ cao sâu,
Chơn như mấy kẻ làm đầu nhơn sanh.
Vì thán oán chim oanh chót liễu,
Tiếng từ-bi dan-díu cùng ai,
Dường như than vắn thở dài,
Cho người thức tỉnh bước quày đường chơn.
Chớ có dạ ưu hờn chua xót,
Giữ cho thanh chim hót trên cành,
Cội thung xòe cánh chim xanh,
Vui cười thong thả đường lành bớ ai.
Loài chim chóc còn hoài đến thế,
Huống chi người dụng kế chi chăng,
Ích gì miệng mối lưỡi lằn,
Uốn qua trở lại theo lằn đỏng đưa.
Biết chừng nào cho vừa lòng đặng,
Biết thuở nào được lặng lẽ tâm,
Tự nơi mình tạo lỗi lầm,
Trách Trời cay nghiệt mưu thầm thảm go.
Tánh háo thắng so đo lời nói,
Lòng bợn nhơ tìm tỏi thiệt hơn,
Khá khen cho kẻ khinh lờn,
Ðến ngày Hoa-hội nguồn cơn sẽ tường.
Bớ những khách đoạn trường trong thế,
Hỡi trượng phu hữu thệ tu hành,
CHƠN-KINH THÁNH-ÐỨC xem rành,
Noi gương học Ðạo đơn thành chẳng sai.
THI:
Chẳng sai đạo-đức ấy là tu,
Hữu chí được gần hưởng mấy thu,
THÁNH-ÐỨC CHƠN-KINH khuyên rán học,
Học hành hôm sớm phải công phu.
24.- MỪNG KINH KẾT LIỄU
__________
THI:
KHƯƠNG thạnh đời yên nước trị vì,
THÁI bình chơn giáo đắc khoa kỳ,
CÔNG minh thiên lý ban đời gội,
Giáng lịnh Ðàn Tiên trước báo tri.
Nay là ngày phương viên KINH THÁNH-ÐỨC, Ta rất vui mừng cho chư hiền nam nữ, một thời gian ngắn ngủi ngỡ đâu là chẳng đặng hoàn thành!
May cũng nhờ Ơn Trên huệ cố và cũng nhờ chư hiền hữu chí hữu công. Vậy chư hiền thành tâm cầu CHÍ-TÔN ngự.
(Tiếp điển)
THI:
NGỌC bút đề cơ đến chứng minh,
HOÀNG Thiên giá ngự dặm vân trình,
THƯỢNG thừa con trẻ là gần đặng,
ÐẾ Khuyết Thầy vui bởi được nhìn.
Thầy các con, Thầy mừng các con nam nữ.
THI:
Mấy ngày cực nhọc biết bao nhiêu,
Dầu ít chí tâm cũng hóa nhiều,
Thấy trẻ hữu công không nỡ phụ,
Xem con lập chí quá lòng yêu.
Trèo non chẳng nệ thân nhằn nhọc,
Xuống suối chi nài phận hắt-hiu,
THÁNH-ÐỨC CHƠN-KINH nay kết quả,
Chấm công nam nữ đặng tiêu thiều.�����
THI:
Tiêu thiều nhạc trổi ca xang,
Thần Tiên vui dạ, Thiên-Hoàng cảm tâm.
Tiết Trung-Thu canh thâm dạ bút,
Ngọn gió đùa mây vụt đến đàn,
Giọt mưa rỉ-rả chứa chan,
Giữa truông quạnh quẽ thở than con tường.
Bớ các con bước đường đã đến,
Tình thương Thầy yêu mến vì con,
Muốn cho THÁNH-ÐỨC vuông tròn,
Hằng ban ân huệ lại còn dạy khuyên.
Nay đã đặng phương viên thành tựu,
Thầy khen con đã hữu chí thành,
Bấy lâu các trẻ nhọc nhành,
Lời Thầy giáo huấn đành rành hôm nay.
Từ con trẻ lãnh vai tuồng Ðạo,
Ðến bây giờ khổ não biết bao,
Bởi KINH THÁNH-ÐỨC quá cao,
Làm cho con trẻ đứa nào cũng lo.
Thầy thấy con ấm no hẩm hút,
Thầy thương con chui đụt bấy lâu,
Vì Thầy con phải lo âu,
Nay ban các trẻ công đầu hưởng chung.
Thầy ban ơn các con.....
THI:
Mẫu tử DIÊU-Cung chạnh dạ già,
Tình con TRÌ níu mới than ra,
Bớ con KIM cúc rày khoe nhụy,
Lòng thiệt MẪU nghi rất thiết tha.
Mẹ mừng các con nam nữ. Mẹ lấy làm vui cho các con vì các con mà lập thành quyển THÁNH-ÐỨC CHƠN-KINH.
THI:
Thành Ðạo thì công cũng đắc thành,
Hữu duyên được gặp nẽo tu hành,
Lập thân chẳng nệ đường cay đắng,
Chí dốc chi sờn lối tử sanh.
THÁNH-ÐỨC lời vàng nay kết quả,
CHƠN-KINH tiếng ngọc được hoàn thành,
Mẫu từ giáng bút phê công trẻ,
Khen có chí tâm lại có danh.
BÀI:
Danh lưu hậu thế ai bì,
Trăm năm tên tạc bảng ghi rõ ràng.
Ðêm thanh vắng lần sang hạ bút,
Khuyên cho con đặng chút công mầu,
Thương con cũng lắm dãi dầu,
Thương con có chí yêu cầu mới nên.
Mừng là mừng ghi tên Tiên bản,
Mừng chúng sanh được rạng đường tu,
Nhờ KINH THÁNH-ÐỨC vẹt mù,
Công con nam nữ muôn thu còn truyền...
Mẹ ban ơn các con, có TAM-GIÁO đến.....
THI:
THÍCH giáo lâu nay rải tứ phương,
CA truyền vạn-đại Ðạo lo lường,
NHƯ nhiên thiên lý tùng y thử,
LAI đáo Ðàn Tiên chứng dạ trường.
Mừng chư môn đồ nam nữ.
THI:
THÁNH-ÐỨC đã phê triết lý tầm,
Kinh vàng u-uẩn Ðạo cao thâm,
Chuyển mê sanh chúng cơn hồn mộng,
Giáng bút châu phê thế sự khâm.
BÀI:
Thâm canh chầy nương tòa sen trắng,
Nhắm xem chừng dặm thẳng trần gian,
Châu phê THÁNH-ÐỨC pho vàng,
Dầu hao canh lụn mộng mành trời thanh.
Chí thương trò đường lành noi dấu,
Phận sự lo phấn đấu nương nhau,
Ðồng tâm hẩm hút tương rau,
Xem lòng nam nữ một màu tròn xong.
Nay Ta giáng phê công các trẻ,
Vì các trò nhậm lẹ thực hành,
Nên Ta chiếu chỉ đành rành,
Ghi tên Tiên bản để dành về sau.
Khuyên các trò cầu mau lo chóng,
Kiếm tầm phương mà đóng thành pho,
Lưu truyền vạn-đại gương trò,
Khá toan xuất bản cứu lò lửa nguy.
Vì thế sự đã suy thảm trạng,
Nên Thánh-Kinh phải rán cứu đời,
Ðến ngày trương bảng ghi lời,
Quyết lòng giựt giải kịp thời Long-Hoa.
THI:
Long-Hoa đại hội đến kề gần,�����
Khuyên các nữ nam khá bước lần,
Lần mối lý chơn cho thấu triệt,
Mừng nay công quả được thanh tân.
Ta mừng cho trò, có ÐẠO-TỔ ngự. Ta ban ơn các trò.....
THI:
THÁI nhựt chuyển xây lẽ tự nhiên,
THƯỢNG tầng đảnh khứu cứu nhơn nguyên,
ÐẠO tâm phát triển lo tu học,
TỔ giáng chuẩn phê THÁNH-ÐỨC truyền.
Mừng chư hiền đồ nam nữ.
THI:
Lưu truyền THÁNH-ÐỨC cứu đời tàn,
Cảnh tỉnh nhơn sanh thức mộng tràng,
Chan chứa cho người cơn khổ lụy,
Tình thương cảm động mấy lời than.
BÀI:
Than cảnh khổ chứa chan giọt ngọc,
Chí thành tâm lăn lóc phong trần,
Nay Ta giáng điển tinh thần,
Rưới cho đượm thấm thoát lằn tai ương.
Nhìn thấy trò quá thương vì bởi,
Lo Thánh-Kinh chẳng đợi rầy la,
Chìu lòn làm đặng âu ca,
Chứng lòng hiệp trí nay đà vẹn xong.
THI:
Vẹn xong ban phước ấy cho trò,
Nam nữ tâm thành THÁNH-ÐỨC lo,
Chẳng nệ nhọc nhằn thân khổ não,
Mấy ngày hành sự rất cam go.
Lão mừng chư môn đồ, khá thành tâm tiếp giá Ðức KHỔNG-TỬ.....
THI:
KHỔNG giáo lâu nay lắm kẻ phô,
THÁNH nhơn huấn-dụ đặng nên trò,
TUYÊN truyền đạo mạch nương thuyền ái,
SƯ dạy các nơi khá chỉnh lo.
Mừng chư hiền đồ nam nữ.�����
THI:
THÁNH-ÐỨC CHƠN-KINH giáo hóa nhơn,
Chuyển người hồ điệp rõ nguồn cơn,
Thành công môn đệ tên ghi bản,
Phước đức sau nầy có lẽ hơn.
BÀI:
Ðêm thanh vắng nương chòm mây bạc,
Giáng trần gian cỡi hạc Kỳ-Sơn,
Ðiểm phê công quả ban ơn,
Cho trò nhuận rưới nguồn cơn tỏ tường.
Thấy các trẻ khá thương vì Ðạo,
Bởi chí tâm bổ báo ơn Trời,
Lắm phen cực nhọc mòn hơi,
Khá khen nam nữ nghe lời Thầy khuyên.
Lòng thốn thức đeo phiền cho trẻ,
Bởi xót tình nặng nhẹ không sờn,
Biết lòng một dạ keo sơn,
Dọn đường chống chỏi rõ đờn không dây.
THI:
Không dây hấp thọ điển chơn quang,
Qui luật Thiên-cơ ánh dịu hoàng,
Nương ngọn bút thần ban phước nhuận,
Khen trò nam nữ được hoàn toàn.
Lão ban ơn chư môn đồ nam nữ. Có TAM-TRẤN đến.....
THI:
THÁI bình đời đặng mối chơn truyền,
BẠCH cúc mừng thu ánh rọi nghiêng,
KIM bút đề thi ban chiếu chỉ,
TINH vi thấu triệt lý cao huyền.
HỰU:
Khá khen chư sĩ có tâm bền,
Hành Ðạo lo Kinh đáng vẹn nên,
THÁNH-ÐỨC phương viên đời giác ngộ,
CHƠN-KINH thành tựu Ðạo càng lên.
Ngàn năm đâu mất danh cùng tuổi,
Muôn thuở không phai hạnh với tên,
Hữu chí cánh thành đà xứng mặt,
Thiên-Ân phê chuẩn phước lâm đền.
BÀI:
Lâm đền ân đức cao ban,
Muôn năm nhuần gội Ðạo vàng chỉ minh.
Công chư sĩ công trình cũng đáng,
Phước ban hành phước hản quá nhiều,
Trải bao nắng sớm mưa chiều,�����
Chí bền tấn bộ nhạc thiều rước đưa.
Mấy ngày trường mây mưa chẳng ngớt,
Chư Phật Tiên giáng trước cho Kinh,
Thành công nay rõ phỉ tình,
Cứu đời thạnh trị hòa bình âu ca.
Bớ chư sĩ gắng mà lo Ðạo,
Nghe lời Ta khuyên bảo tạc lòng,
Dầu khi răn dạy mặn nồng,
Cũng là thương trẻ quyết mong cho thành.
Nay đã đặng đề danh Tiên bản,
Hưởng phước đời muôn vạn về sau,
Tình huynh đệ phải một màu,
Trăm năm biển cạn chớ xao tấc lòng.
Lo xuất bản cho xong cho vẹn,
Mấy hiền đây vun bén hoàn toàn,
Kinh truyền muôn thuở cứu nàn,
Nhơn sanh tỉnh giấc mộng tràng lo tu.
Cũng nhờ chư sĩ công phu...
THI:
Mừng thay cho bổn Thánh CHƠN-KINH,
Ðạo lý cao truyền cứu vạn linh,
Pháp cả chẳng sai tu đắc quả,
Ðại-đồng chơn lý học thành minh.
Chí công phận sự còn cao giá,
Bền sức bổn Kinh vẹn phỉ tình,
Tình nguyện lo tu hầu cứu thế,
Ban ơn nam nữ phước trùng sinh.
Lão rất khen chư hiền nam nữ và Lão hằng ban ân huệ chư hiền, nay được phương viên bổn Kinh THÁNH-ÐỨC. Vậy khá thành tâm cầu QUAN-THÁNH ngự.....
THI:
QUAN điển giáng cơ chiếu diệu minh,
THÁNH phê nay đã đặng hoàn thành,
ÐẾ truyền mạng xuống đời nhuần gội,
QUÂN tử xem ra mới rõ mình.
HỰU:
Mừng thay kết quả chút công lao,
Nam nữ Ta khen chí kiệt hào,
Quyết chẳng thối lui cơn thịnh nộ,
Dốc không dở bước lúc lao đao.
Thiết tha cho phận thân còn thấp,
Thương tưởng vì công quả cũng cao,
Chứng quả nhờ lòng tròn đạo hạnh,
Hạnh tu cũng đặng lãnh ơn đào.
BÀI:�����
Ðêm thanh vắng trời mưa lác-đác,
Vẳng vẳng nghe tiếng hạc kêu vang,
Thành tâm Lão ngự trung đàn,
Ban ơn nhu sĩ rõ ràng lý chơn.
Lòng cám cảnh chi sờn dạ ngọc,
Nương mây vàng lăn lóc Kỳ-Sơn,
Chứng cho chư sĩ thiệt hơn,
Tu tâm chiếu mạng keo sơn rõ lòng.
Thương các sĩ chí công hiển đạt,
Lo Thánh-Kinh được phát cơ mầu,
Kết thành nam nữ lo âu,
Ðòi phen gió táp, dãi dầu sương mai.
Các hiền ôi! đời say khá vẹt,
Cho quán thông hiểu biết cơ mầu,
Thánh-Kinh hôm sớm lo âu,
Chí tâm săn sóc dãi-dầu chẳng sơ.
Thầy đã sắp cuộc cờ lý triết,
Rán kỳ công thấu triệt lý mầu,
Phấn tâm vững chí một màu,
Mai sau tên tạc Thiên-Tào hưởng chung.
Vì thấy trẻ trùng phùng nương náu,
Hẩm hút nhau bổ báo Ðạo Thiên,
Cơ quan phát triển tự nhiên,
Hễ mình quyết chí Thần Tiên hộ giùm.
Lòng cương quyết thỉ chung như nhứt,
Chí tâm bền thiết thực cam lồ,
Mau chơn lần bước xuống đò,
Ðưa qua bỉ ngạn khỏi lò dương gian.
Bổn THÁNH-ÐỨC cứu nàn mộng ảo,
Quyển CHƠN-KINH sầu não giải phiền,
Vì chưng gây quả tiền khiên,
Nên nay cứu cánh oan khiên Kinh rồng.
Pho THÁNH-ÐỨC hiểu thông chỉ bảo,
Giục nhơn tâm hườn đáo cựu ngôi,
Phải nên tu học tài bồi,
Kinh vàng noi lấy khúc nôi mới tường.
Khuyên nam nữ cần bương lo chóng,
Ðộ nhơn sanh thất vọng trần ai,
Cho mau thức giấc diêm-đài,
Lần lên theo Ðạo bước quày đường chơn.
Khá lóng nghe giọng đờn tao nhã,
Tiếng du dương ổn thỏa lòng vui,
Có tâm thì phải rõ mùi,
Biết đường chơn lý nhàn vui tâm tình.
Khá bương theo Ðạo Huỳnh yếu nhiệm,
Phải nương đờn vô phiếm không dây,
Giữa giòng rỉ rả canh chầy,
Xem trăng rọi nước vơi đầy chứa chan.
Nhìn triền núi tiều đang cốt nhánh,
Chim trên nhành xòe cánh rỉa lông,�����
Bớ ai khá để tâm không,
Suy đi nghĩ lại rõ lòng thiệt hư.
Kinh Thánh-Ðức ÐẠI-TỪ-PHỤ rưới,
Giọt cam lồ nhuận tưới khách mê,
Nhơn sanh hết lối não nề,
Thoát vòng cương tỏa lo bề tu tâm.
THI:
Tu tâm rõ đặng máy cơ Trời,
Khá vẹt sương mù rõ thế thời,
Quyết chí độ đời vòng ảo tưởng,
Sắc son hiệp lực buổi chiều mơi.
Lão ban ơn chư hiền nam nữ, có QUAN-ÂM giá ngự.....
THI:
QUAN san diệu viễn chí tâm thiền,
ÂM đức lập công mới vững yên,
BỒ liễu biết tùng qui nhứt bổn,
TÁT nương mây bạc giáng Ðàn Tiên.
Bần-đạo chào chư sĩ nam nữ.
THI:
THÁNH-ÐỨC CHƠN-KINH kết quả rồi,
Công trình nam nữ khá thương ôi,
Khen cho tâm chí lo hằng bữa,
Thương xót thiện từ rõ khúc nôi.
Kinh báu pho vàng toan cứu thế,
Sách truyền quyển ngọc quyết dìu đời,
Cứu nhơn thoát tục hồi đường chánh,
Ðáng mặt tu-mi đáo cựu ngôi.
BÀI:
Ngôi Tiên cảnh mùi hương bát ngát,
Giọng véo von con hạc trắng ngời,
Tiêu thiều nhạc trổi vang rân,
Dưới khe chớn chở, tần ngần Kỳ-Sơn.
Bực đá đứng dừng chơn nhắm nhía,
Rõ cơ quan thắm thía tấm lòng,
Chợt nhìn lố dạng vân phong,
Luồng mây cuốn ngọc, chim hồng nhạn bay.
Khá thương ôi! anh tài nữ kiệt,
Nghĩ đau lòng chi xiết thương thầm,
Vì chưng nam nữ tận tâm,
Hết lòng khuya sớm Kinh thâm gieo truyền.
Phật, Thần, Thánh, Quần-Tiên giáng bút,
Hội Bàn-Ðào ngui ngút hương bay,
Ðằng vân giá ngự trần ai,
Hào quang chiếu diệu chương đoài Minh-Kinh.
Khá khen lòng tận tình hẩm hút,
Muối tương dưa chui đụt khổ nàn,
Nhưng mà thiết thạch nào an,
Bởi vì thương mến PHỤ-HOÀNG, MẪU-NGHI.
Lòng hiếu thảo tên ghi bảng ngọc,
Trải bao phen lăn lóc phong trần,
Nhưng lòng chi sá lao thân,
Quyết tình tu học tinh thần quang minh.
THI:
Quang minh un-đúc khối tinh thần,
Hữu chí giải ra cõi mộng trần,
Ðưa khách khổ hà qua bến giác,
Biết đường ngôi cũ tiến lên lần.
Bần-đạo ban ơn chư hiền nam nữ, hôm nay là hoàn thành bổn KINH THÁNH-ÐỨC. Bần-đạo lấy làm khen chư hiền nam nữ Ngọc-Minh-Ðài và ước sao cho bổn Kinh nầy khắp cả nhơn sanh đồng nhuần gội mà giải thoát ra ngoài cảnh khổ trần gian.
Bần-đạo ban ơn chư hiền.....
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét