ĐIỂN SẤM TRẠNG TRÌNH
Sấm Trạng trình có nhiều bản khác nhau nhưng các bản này vẫn có những đoạn giống nhau. Trước đây, trong ấn bản Sơn Trung, chúng tôi đã chú thích các bản Sấm Trạng Trình. Như đã nói, chúng tôi đã có bản nôm Trình Quốc Công Ký và bản nôm Phùng Thượng Thư Ký mà bạn tôi, ông Trương Quang Gia đã phiên âm từ 1990. Nhưng người nghiên cứu vẫn để yên trong ngăn tủ, nay mới đem ra xem xét cẩn thận, thì thấy người xưa đã chú thích phần lớn. Nay đem cả chú thích mới và cũ tập họp lại theo dạng tự điển để độc giả tiện tra cứu.
Bạch sĩ : chưa rõ
Bảo Giang (Lại nói sự Hoàng Giang sinh thánh
Sông Bảo Giang đã định ai hay): không rõ nghĩa
Bắc hữu kim thành tráng
Nam tạc ngọc bích thành
Hỏa thôn đa khuyển phệ
Mục giả dục nhân canh
(Sở Cuồng, 426-429; TVThanh,227-230)
Nói về kinh đô Thăng Long và kinh đô Phú Xuân hay thủ thủ đô Hà Nội và thủ đô Sàigòn?
Cưu, nhạn : chim cưu và chim nhạn, nói nhân dân.
Cửu cửu càn khôn dĩ định,
Thanh minh thời tiết hoa tàn.
Trực đáo dương đầu mã vĩ,
Hồ binh bát vạn nhập Trường An.
(Bản Anh Phương, 151-154; bản Sở Cuồng, 410-413, Trịnh Vân Thanh, 165-168))
Bản Phùng Thượng Thư nói về quân Mãn Thanh sang Việt Nam kỷdậu 1789 còn các bản sau này nói Cộng sản vào Hà Nội năm giáp ngọ 1954.
Cửu thiên hồng nhật: họ Trịnh 鄭 chữ Trịnh có chữ nhật.
Chấn cung nhật hiện: chỉ họ Mạc莫, vì trong chữ Mạc có chữ nhật.
Dư đồ chia xẻ: Trịnh Nguyễn phân tranh.
Đao: Xem Hòa đao mộc lạc.
Điếm tuần: điếm là nơi canh gác, thường là cái chòi tranh để tuần phu ngồi trong lúc canh phòng. Tuần là đi rảo xung quanh làng xóm để xem xét kẻ gian phi.
Đỉnh Hoành sơn: ( Đỉnh Hoành Sơn tam liệt ngũ phân.) nói về chiến tranh giữa Trịnh, Nguyễnvà Tây Sơn tại miền Trung.
Đông A :là nhà Trần 陳. (Trong chữ Trần có chữ Đông và bộ phụ của chữ A 阿). Âm vị là con gái. Trần Cảnh lấy Chiêu hoàng là nữ, là vợ truyền ngôi cho chồng.
Hòa đao mộc lạc chỉ họ Lê 梨, 棃.có chữ đao .Họ Lê lên thay họ Đinh.
Hoàng Giang: (Lại nói sự Hoàng Giang sinh thánh Sông Bảo Giang đã (thiên) ai hay): không rõ nghĩa. Phải chăng chỉ dòng họ Nguyễn Hoàng ?
Kìa cơn gió thổi lá rung cây
Rung Bắc sang Nam Ðông tới Tây
Tan tác kiến kiều an đất nước
Xác xơ cổ thụ sạch am mây
Sơn lâm nổi sóng mù thao cát
Hưng địa tràng giang hóa nước đầy
Một gió một yên ai sùng bái
Cha con người Vĩnh Bảo cho hay
(Bản Sở Cuồng, Mai Lĩnh, câu 379-386)
Các bản sau này giải thích việc Nguyễn Thái Học khởi nghĩa năm 1930, và việc Pháp dùng 5 máy bay ném bom triệt hạ làng Cổ Am, căn cứ của Việt Nam Quốc Dân Đảng trong cuộc khởi nghĩa ở Vĩnh Bảo. Hải Dương.
Kỳ mộc: cây lạ, chỉ họ Lê. Lê Lợi lên ngôi.(Xem Hòa Đao mộc lạc ).
Khí hủ: hủ là hư nát trong nghĩa hủ bại. Các bản khác ghi là hư.
Long vĩ xà đầu khởi chiến tranh,
Can qua xứ xứ khổ đao binh.
Mã đề dương cước anh hùng tận,
Thân Dậu niên lai kiến thái bình.
(Anh Phương 171-174; Trịnh VÂn Thanh, 185-188)
Bản Phùng Thượng Thư Ký và một số có đoạn này. Bản Phùng Thượng Thư không chú rõ. Các bản khác đều cho rằng đioạn này nói kỷ dậu 1945 chấm dứt thế chiến, nhưng điều này khiông đúng vì từ năm dậu 1945 nước ta bắt đầu với đại họa cộng sản chứ không được hưởng thái bình.
Lục thất , hay lục thất nguyệt gian ( hay niên gian):
Lục thất cho biết ngày dầy (rày)
(Ngôn Nguyễn thị sanh ư bắc phương, cư tại Sơn Tây xứ).
Phụ nguyên ấy thực ở miền (rày) Tào khê (SC. 260) Bản Phùng Thượng Thư Ký chú là họ Nguyễn ở Sơn Tây . Tuy nhiên Tào Khê ở tỉnh Quảng Đông, là nơi Lục tổ Huệ Năng truyền đạo.
Lục thất 六七 ám chỉ họ Nguyễn vì Lục Thất có đồng âm 陸 室. Lục là họ Nguyễn vì trong chữ lục có chữ Nguyễn. Thất là nhà. Lục thất là nhà Nguyễn. Họ Nguyễn làm vua thì giòng Nguyễn Gia Miêu là ở Thanh Hóa. họ Nguyễn (hay Hồ) nhà Tây Sơn ở Bình Định, chưa có vua nào ở Sơn Tây.
Mõ cá: cái mõ băng gỗ, hình con cá, thôn quê ngày xưa dùng báo hiệu. có đám cháy hay trộm cướp.
Nhân Doãn: 允 Nhân Doãn tức là ngươi Doãn, Duẫn, hoặc người tên Doãn, Duẫn) chỉ vua Lê Chiêu Thống 黎昭統 .Trong chữ Thống có chữ Duẫn cũng đọc là Doãn.
Nhân kiến : Chỉ Lê Chiêu Thống 黎昭統, 1765 – 1793), tên thật là Lê Duy Khiêm 黎維謙 tên là Duy Khiêm. Chữ Khiêm 謙 trong có chữ Kiến 毽 , 建 . Khi Lê Chiêu Thống theo quân Thanh chạy sang Trung Quốc, bỏ Thăng Long, sau đó thì Nguyễn HUệ đem binh đánh tan quân Thanh, và một thời gian nữa thì Nguyễn Ánh đem binh ra đánh tan Tây Sơn, thống nhất đất nước.
Ô hô thế sự tự bình bồng,
Nam Bắc hà thời thiết lộ thông.
Hồ ẩn sơn trung mao tận bạch,
Kình cư hải ngoại huyết lưu hồng.
Kê minh ngọc thụ thiên khuynh Bắc,
100.Ngưu xuất Lam điền nhật chính Ðông.
Nhược đãi ưng lai sư tử thượng,
Tứ phương thiên hạ thái bình phong ”
(Bản Anh Phương, Trịnh Vân Thanh , 109-116)
Các bản giải thích là sau 1945, cộng sản phá hoại đường giao thông, trong đó có đường sắt. Đường sắt nối lại sau 1975 là lúc Mao Trạch Đông và Hồ Chí Minh đều chết. Sau đó là có chuiến tranh ở Hoàng Sa, Trường Sa…
Phá điền : quốc phá, là nước mất bởi vì chữ điền 田giống chữ Quốc 国, cả hai chữ thuộc bộ vi
囗.Cũng có người giải là năm sửu vì chữ sửu 丑 giống nửa chữ điền
Rau, rới: có bản ghi “giới”. Rau, rới, giới, rưới đều có nghĩa là rau. Có lẽ do từ Giới 芥 là rau, là đồ hèn hạ (rác rới, rác rưới, rác rưởi)
Tái binh: binh ngoài biên cương, binh ngoại quốc: Chỉ quân Mãn Thanh.
Tam hiểm ( Tìm nơi tam hiểm mà hầu lánh thân): Ba nơi hiểm trở có đủ yếu tố thiên thời, địa lợi và nhân hòa. Quyển Phùng Thượng Thư Ký cho biết ba nơi là vùng sơn động Thái Nguyên, Tản Viên (Sơn Tây), và Vị Khê ( không rõ ở đâu.
Thập bát tử: họ Lý 李 . Chữ Lý chiếrt tự là Thập bát tử.
Thầy Nhân Thập : trước đây các vị đã giải đoán là chữ Tản 傘 vì có chữ Nhân 人 và 4 chữ Nhân nhỏ với chữ Thập 十 thành chữ Tản 傘 . Ba chữ Thầy Nhân Thập đọc và viết theo pháp âm chữ Nho là Thập Nhân Tử 人十子 (chữ Tử còn gọi là Thầy như Lão Tử, Trang tử, Khổng Tử …). Chữ Thập Nhân Tử còn có nghĩa là chữ Lí 李 (họ Lý). Ông này tên Tản hay tên Lý? Hay tên gì?
Theo lời chú trong bản Phùng Thượng Thư Ký, ông này tuổi ngọ giúp vua trị vì dài lâu ( Chữ 午 chiết tự thành nhân thập)
Trần công nãi thị phúc tâm
Giang hồ xử sĩ Đào Tiềm xuất du.
(Sở Cuồng, 482-483)
Không rõ họ Trần nào, xuất hiện vào lúc nào? Nước ta từ Lê Lợi đên nay có Nguyễn Huệ, Nguyễn Ánh, Hồ Chí Minh, Ngô Đình Diệm… . .làm vua, và các nhà chính trị nổi danh như Đào Duy Từ, Ngô Thời Nhậm, Phan Bội Châu, Trần Trọng Kim nhưng chưa có vua nào họ Trần.
BẢN I : SƠN TRUNG 2011
TRÌNH QUỐC CÔNG KÝ
tủ sách cụ Nghè Bân, Sơn Tây
LỜI NÓI ĐẦU
Đây là bản nôm tìm thấy trong thư viện cụ nghè Nguyễn Văn Bân ( 1868- 1937.) Cụ nghè Nguyễn Văn Bân , sinh năm mậu thìn (1868), quê làng Hữu Bằng, huyện Thạch Thất, Sơn Tây, đậu cử nhân khoa đinh dậu (1897), đậu tiến sĩ khoa tân sửu, năm Thành Thái 13 (1901), đồng khoa với Ngô Đức Kế, Nguyễn Sinh Huy tức Nguyễn Sinh Sắc, và Phan Chu Trinh, hàm Hồng Lô tự khanh, sung Bắc kỳ thượng nghị viện , Tổng Đốc Hải Dương.
Cụ Nghè Bân ở Sơn Tây , gần làng Phùng, cùng huyện Thạch Thất với Phùng Thượng Thư cho nên bản này rất đáng tin cậy vì ngày xưa các cụ thường mượn sách nhau sao chép, nghĩa là bản này có thể là sao chép từ tủ sách quan thượng Phùng Khắc Khoan.
Đại tá Nguyễn Sùng đậu cử nhân luật bên Pháp, người Chàng Thôn, huyện Thạch Thất, tỉnh Sơn Tây, làm việc tại bộ Tổng Tham mưu quân đội VNCH, là tế tử của cụ nghè.
Khoảng năm 1985, gia đình đại tá Nguyễn Sùng, sang định cư tai Pháp. Trước khi đi, hai ông bà tặng tôi một số sách cổ, trong có bản Trình Quốc công ký và Phùng Thượng thư ký. Tôi giữ từ đó đến nay, chỉ nhìn qua rồi cất kín vì lúc bấy giờ tôi đang tập trung tư tưởng và thời giờ viết bộ Văn Học Sử Việt Nam. Vả lại lúc bấy giờ việc nước tang thương, ai cũng lo việc y thực và tìm tự do. Nay có bạn đọc hỏi về Sấm Ký, tôi bèn đem tất cả Sấm Ký Quốc ngữ mà tôi đã sưu tập và bản Nôm này trình làng. Như vậy bản nôm chép tay đã có khoảng hơn một trăm năm, mà tôi cất giữ cũng đã 25 năm, nay mới ra mắt độc giả.
Hôm nay xem kỹ, và sau khi so sánh các bản Quốc ngữ, tôi xin thưa với các độc giả vài điều:
1. Sấm Trạng Trình là có thực. Bản này có gốc tích rõ ràng từ một bậc danh gia ở Sơn Tây, đồng hương với Trạng Bùng, mà trạng Bùng lại là đệ tử của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Hơn nữa, hơn 20 bản nôm trong các thư viện cũng là một thực thể mạnh, không thua gì Kim Vân Kiều truyện của Nguyễn Du, trong đó có những dị bản, nhưng không thể phủ nhận sự hiện hữu của Trình Quốc Công ký.
2.Bản này giống phần thứ hai của Mai Lĩnh. Tôi chưa xem bản nôm AB 444 của Viện Hán Nôm Hà Nội, song có thể nghĩ rằng hai bản nôm này cùng nguồn gốc. Tuy nhiên, đọc kỹ thì thấy bản quốc ngữ của Mai Lĩnh và bản nôm này tuy ý từng câu, từng đoạn giống nhau, mà trong mỗi câu it nhất là có một chữ bị sửa . Tuy nhiên phần cuối bản nôm này ( từ câu 101) khác hẳn bản Mai Lĩnh.
Tôi chỉ phiên âm, còn phần chú thích tôi đã chú thích trong bản Mai Lĩnh, nay chỉ chú một đôi dòng cần thiết mà thôi. Xin tha thứ những sai lầm trong bản này.
Ottawa ngày 6-10-2010
Nguyễn Thiên Thụ
phiên âm
1.Vừa năm canh tý (1) xuân đầu
Thanh nhàn ngồi tựa long câu (2) nghĩ đời
Quyển vàng mở thấy sấm trời
Từ Ðinh đổi đời chí lục thất (3) gian
5.Mỗi đời có một tôi ngoan
Giúp chưng (4) giữ nước dân an thái bình
Kể từ Lạc Long đế kinh,
Thế cùng xem biết sự tình thấp cao.
Nhân vì biết được tơ hào
10. Truyền chưng chép vào chẳng tiếc làm chi.
Luận chung một tập kim thì (5)
Tướng tài coi gẫm, nam nhi học đòi
Trượng phu có chí thời coi
Những câu nhiệm nhặt đáng doi (6) cho cần
15. Già nay cũng đấng hiên ngang
Biết chưng đời trị biết đường đời suy
Kể từ nhân duẫn ( 7) mà đi
Sau thì chưa đến biết thì nói ra.
Tiếc thay hiền sĩ tuổi già
20. Phúc bằng Bành Tổ cùng là Thái Công
Thử cho tay thước ( 8) ra dùng
Tài này cùng hẹn anh hùng xem sao
Trên trời chỉn chín tầng cao
Tai nghe bằng một tơ hào (9) biết hay
25. Hiềm vì sinh phải thời này
Rấp thù lỗi kiếp tiếc thay chưng đời
Dẫu hay tấn chước (10) ngàn lời,
Sinh phải lỗi đời ắt cũng có dư.
Chẳng sinh phải kiếp người ta,
30. Sinh ra phải kiếp quỷ ma nhà trời.
Nói ra thì lộ sự đời,(11)
Che nghe (12) cho phải lụy này,
Nói ra ám chúa bội quân
Ðương thời đời trị xoay vần được đâu
35. Chờ cho nhân duẫn về sau
Ðến chừng đời ấy thật âu nhiều nàn
Trời sinh ra những kẻ gian,
Nhật dạ đạo kiếp suy tàn đông tây.
Quân nào thần ấy làm vày (13),
40. Thượng nhân bất chính hạ nay tác loàn.
Đua nhau bạo ngược làm càn,
Phá gia ba kẻ dân tàn khốn thay
Anh hùng gẫm được thời hay,
Xem chưng thời vận biết hay trong lòng.
45. Nam nhi có chí anh hùng,
Muốn làm tướng súy lập công chưng đời.
Thời xem tuần vận điềm trời,
Cơ mưu nhiệm nhặt nên trai anh hùng.
Đi tìm cho đến thánh công,
50. Để phù trợ trị nên công vẹn tuyền.
Trong ngoài cương kỷ cho bền,
Bốn phương điều vận cho yên trong ngoài.
Chờ khi chuyển đất động trời,
Bấy giờ mới biết mặt trai anh hùng.
55. Còn bận (14) thì náu chưa xong,
Nhân lực chẳng đoạt thiên công đâu là.
Ðời này những quỉ cùng ma
Chẳng phải người thế dân ta thiện hiền.
Trời cao đất rộng mông minh,
60. Ngu dân đâu biết chân tình đế vương.
Thế gian ai chẳng biết tường,
Thánh thời ở tại khảm phương tuần này.
Ấy là lục thất gian nay,
Tuần hoàn đã định đến ngày hưng vương.
65.Xem chưng tuần vận cho tường,
Bảo giang thánh xuất trung ương thuở này.
Vua ngự thạch bàn xa thay,
Nhân (15) ngàn vắng vẻ những cây cùng rừng
Chim kêu vượn hót vang lừng,
70. Ðường đi thỏ thẻ dặm chưng khôn ngờ.
Nhân gian vắng vẻ bằng tờ
Sơn lâm bát ngát đổ (16) nhờ khôn thay!
Vua còn cuốc nguyệt cày mây
Phong điều vũ thuận đợi ngày làm ăn
75. Phong đăng hoà cốc chứa chan
Vua ở trên ngàn có ngũ sắc vân.
Khảm cung thời tiết mở vần,
Thực là thiên tử thánh nhân ra đời.
Anh hùng ai có chí tài,
80. Công phu chẳng ngại tìm đòi ra đi.
Tìm đi đến Bàn thạch khê,
Đất sinh thánh đế bên kia cuối làng.
Nhìn đi nhìn lại cho tường,
Do nay phỏng có sinh vương đâu là.
85. Chẳng tin thì đến bản gia,
Đất sinh thiên tử xem qua địa hình.
Bốn bề phong cảnh cực thanh,
Tả long triều lại uốn vành vũ khai.
Hữu thời cửu khúc giang nay,
90. Minh Ðường thất diệu ra bày tay coi
Trông xa thấy một đầu voi
Đầu cúi cuốn lại phục triều nguyệt sơn .
Ứng điềm thiên tử về chầu,
Tượng trời thánh đế thật âu trị dài.
95. Song thiên nhật nguyệt sáng soi,(17)
Sinh được tuổi ấy thật ngôi chẳng cầu
Ðến tuần hưng vượng về sau,
Chờ đến tam hợp thúc nhau mới làm
Khuyên người Ðông Bắc Tây Nam
100. Muốn làm tướng súy thì xem sấm này
Anh hùng lượng được thời hay
Chép làm một quyển để ngay chẳng mòn.
Ai nên bia tạc biển son,
Nguyện đem phúc vận tử tôn ơn nhờ.
105.Nay nhờ truyền bảo sau xưa,
Những câu nhiệm nhặt nên sơ tỏ tường
Tìm đi cho đến khảm phương
Hình dung thánh đế khiêm nhường từ bi.
Chính trung diện mạo uy nghi,
110. Râu rồng tóc phượng thật thì đế vương.
Nhìn xem cho biết tỏ tường,
Để hòa (mà) giúp rập đế vương tuần này.
Quân thần hội họp rồng mây,
Đạo trời hay chứa bàn tay nhưng là.
115. Cõi tiên thế giới đất ta,
Mông lung bốn bể ắt là giao lân.
Trời xui thiên tử vạn dân,
Rắp hết xa gần triều lục thất gian.
Phò vua ra đến Tràng An,
220. Bao nhiêu ngụy đảng loài gian lại hiền.
Đời ấy những Phật cùng tiên,
Sinh những người hiền trợ giúp trị dân.
Lục thất dư ngũ vạn xuân,
Bây giờ trời lại xoay vần chốn nao.
225.Thấy sự thời để chép vào,
Lâu thời chẳng biết nói sao nên lời.
Ai mà độ lượng trí tài,
Công phu chẳng ngại tìm thôi đến này.
Phò vua vực trị trợ đời,
230. Ơn trên đức rộng cho trai ơn nhuần.
Vũ thời phong đại tướng quân,
Văn thời thất phẩm đại thần cao ngôi.
Trông ân đức rộng bằng trời,
Cả dung cho khắp thỏa người tôi con.
235. Chớ nề bạch ốc chu môn,
Nam nhi có chí khỏe khôn đều dùng,
Quân minh lại gặp thần trung,
Tướng vốn vô dùng điều dụng mới trai.
Trảo nha những đứng trí tài,
240. Bất văn thạch phụng nào ai biết gì.
Ai ai là chẳng nam nhi,
Sinh chẳng kịp thì nên muộn công danh.
Trông ơn đức rộng cao minh,
Tuất cập đến kẻ hết tình làm tôi.
245. Quân thần tướng tá giúp đời,
Quân minh thần hiệp mỗi điều cho tin,
Trợ phù nhà nước khoẻ bền.
Công phu kiếp trước hữu duyên cùng người.
Trời sinh lão tướng giúp đời,
250. Khai quốc cùng toại cho đòi khảm phương.
Khác nào thuở trước nhà Đường,
Quân minh lại gặp thần lương mới bền.
Đời xưa những đấng khá khen,
Đời nay những đấng tôi hiền ai so
255.Xưa trượng phu, nay cũng trượng phu,
Tài nay khá mượn tài xưa giúp đời.
Mong ơn trên trị chưng đời,
Chớ hề quên nghĩa phụ người công phu.
Sống thời ăn bổng lộc vua,
260.Thác thời ban cấp cho con thơ rày
Trận tiền hết sức, ra tay,
Cờ xây súng trỏ sắc rày ban cho.
Hoặc là tử trận đương cô,
Quan thời dân xã cấp cho bổng thờ.
265. Quân thời cấp ruộng điền tô,
Làm cho con cháu ơn vua đời đời.
Để cho nức lòng con trai.
Đến khi có giặc cho trai liều mình.
Thấy tặc nó hội phụng kinh
270. Anh hùng ai chẳng liều mình cướp nhau.
Sống thì chức trọng quyền cao,
Thác thì miêu duệ ân nhiều giàu sang.
Lập nên giềng mối kỷ cương.
Trong an ngoài cũng bốn phương thuận hòa,
275. Đâu đâu xướng thái bình ca,
Thiên thuận địa hòa, chủ quý thần vinh.
Tảo an thiên hạ thái bình,
Bây giờ sĩ mở lệ thư luật điều
Sĩ hiền biết bấy nhiêu điều,
280. Tiên bảo cùng sấm mỗi điều chép ra.
Khuyên người Nam Việt trai hiền,
Ai xem cho biết để mà làm công.
CHÚ THÍCH
(1). Các bản ghi giáp tí, nhâm tí nhưng bản này ghi canh tí. Nguyễn Bỉnh Khiêm 阮秉謙 sinh 1491 và mất năm 1585. Canh tí là năm 1540, nhâm tí là 1552; giáp tí là 1564. Năm canh tí là lúc ông 50 tuổi.
(2). Câu: câu là câu lơn, bao lơn, hành lang.
(3).Nguyên bản lục thất 六 七 ( lục thất nguyệt gian, lục thất niên gian) có lẽ cổ nhân dùng để chỉ lục thất 陸 室 nhà Nguyễn vì trong chữ lục có chữ Nguyễn 阮.
(4). Chưng: cũng như chi, sở là hư tự. Chưng ở đây là ở.
(5).Kim thời: thời nay.
(6). Doi: noi theo, theo dõi.
(7).Nhân duẫn 人允 : duẫn, doãn , chỉ Lê Chiêu Thống, vì trong chữ Thống có chữ Duẫn, Doãn; nói việc Lê Chiêu Thống theo quân Thanh trở về Thăng Long thì bị Nguyễn Huệ đem binh đánh tan, sau đó Nguyễn Ánh đem quân ra Bắc..
( 8). tay thước : Thước là thanh gỗ dài hơn một thước, rộng khoảng 3 hay bốn cm.Thước là vũ
khí của tuần phu ngày xưa.
(9). ti hào: ti là sợi tơ, hào là sợi lông, nói những điều nhỏ nhặt.
(10). Tấn chước: đưa ra mưu kế, kế hoạch.
(11).Đoạn này bị sót
(12).Che nghe : chẳng nghe.
(13).làm vày : làm tầm bậy, sai lầm. Vày trong nghĩa giày vò, vày vò, tà vạy.
(14). Bận: vướng bận, bận bịu; còn vướng bận, không thể ra cứu nước.
(15). Bản Mai Lĩnh ghi là Đại ngàn.
(16). Đỗ: ở đỗ, ở nhờ.
(17).Tuổi quý 癸.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét