Thứ Ba, 24 tháng 8, 2021

NGUỒN GỐC PHẬT MẪU TRONG KINH ĐẠI BÁT NHÃ




NGUỒN GỐC và TIẾN TRÌNH 
HÌNH THÀNH

KINH ĐẠI BÁT NHÃ

HẠNH CƠ





A) DẪN NHẬP

“Bát Nhã” là tiếng phiên âm của chữ Phạn “Prajna”, có nghĩa là trí tuệ, là trí sáng suốt có thể thông hiểu mọi việc ở đời. Nhưng, trong Phật học, khi nói đến “trí tuệ”, chúng ta phải phân biệt có bốn loại, khác nhau rất xa:

1. Trí tuệ của phàm phu: Mọi người ở thế gian đều có trí hiểu biết bình thường. Khi cái trí hiểu biết ấy quá thấp kém, không biết suy nghĩ , không biết gì nhiều ngoài những hoạt động bình thường, người ta gọi đó là hạng người ngu si, hay tệ hơn nữa là “đần độn”. Đối với người có cái trí hiểu biết trên mức bình thường, nghe một hiểu mười, tự mình biết suy nghĩ một cách chín chắn, thấy rõ những việc phải trái, tốt xấu, v.v…, người ta gọi đó là hạng người khôn ngoan, lanh lợi, thông minh. Trên nữa là hạng người thông thái vượt trội hơn tất cả, có khả năng tìm hiểu, khám phá, sáng tạo, phát minh; được gọi là hạng người có trí tuệ. Một mưu chước hay, một hành động tốt của hạng người này có thể đem lại lợi ích, an vui cho nhân quần xã hội, và họ trở thành những bậc anh hùng, vĩ nhân; nhưng một mưu mô thâm độc, một hành động bạo ác của họ lại sẽ đem khổ đau, tang thương đến cho cả nhân loại, và họ trở thành những hung thần, ác quỉ. Như vậy, trí tuệ của người thế gian thật giống như con dao hai lưỡi, có thể giúp đời mà cũng có thể hại người. Và theo như kinh nghiệm mà mọi người trong chúng ta đều có được, ai cũng thấy rõ, cái trí tuệ của thế gian, giúp ích thì ít, mà phá hoại thì nhiều không thể kể xiết! Bởi vậy, trong giáo lí đạo Phật, “thế trí” đuợc coi là một trong tám tai nạn lớn (bát nạn) của con người. – Và “thế trí” chính là loại trí tuệ của hạng người “phàm phu”, tức là hạng người không tu học theo thánh đạo, không tỏ ngộ chân lí, không tin nhân quả, tội phước báo ứng…

2. Trí tuệ của Nhân và Thiên thừa: Cũng thuộc trong vòng thế gian, nhưng có những người có trí sáng suốt, nhận rõ những hoàn cảnh khổ đau trong thế gian là do chính mình gây ra, và do chính con người gây ra cho nhau. Họ phát tâm quay về nương tựa nơi Ba Ngôi Báu, tu học theo chánh pháp, hành trì năm giới cấm trong đời sống hằng ngày; cốt tu tập, rèn kuyện bản thân trở thành một con người đúng với phẩm giá một con người chân chính. Họ tin nhân quả nên quyết định không tạo nghiệp ác, không gây đau khổ cho người khác để khỏi phải chịu những quả báo đau khổ về sau; đồng thời quyết tâm tạo nghiệp lành để hưởng được phước báo an vui mãi mãi. Đó là những người có trí tuệ của hàng Nhân thừa, tức là hạng người có trí sáng suốt hơn hạng phàm phu, biết vượt lên trên cái tư cách phàm phu, sống xứng đáng với phẩm cách của một con người chân chính, toàn thiện, cao thượng. Nếu phát tâm mạnh mẽ hơn một bậc, những người này có thể tu tập trọn vẹn mười nghiệp lành, hoàn toàn không gây bất cứ một nỗi khổ đau (hoặc do thân thể hành đnộg, hoặc do miệng lưỡi nói năng, hoặc do tâm ý suy nghĩ) nào cho chính mình và cho người khác, biết tu tạo phước đức trong mọi cơ hội, không từ bỏ một việc thiện nhỏ nào mà không làm. Đó là họ tạo nghiệp lành để hưởng được phước báo của chư thiên, không đau khổ như loài người, sung sướng và sống lâu hơn loài người rất nhiều. Được như vậy là vì hạng người này có được loại trí tuệ của hàng Thiên thừa, và biết tu tập những pháp môn của hàng Thiên thừa. – Tuy cũng thuộc trong phạm vi thế gian, nhưng những người ở hàng Nhân thừa và Thiên thừa không coi trọng loại “thế trrí” của hạng phàm phu; vì họ thấy rõ rằng, “thế trí” chỉ mang lại tình cảnh đau khổ triền miên cho chúng sinh mà thôi.

3. Trí tuệ của hàng Nhị thừa: Nhị thừa là hai thừa Thanh-văn và Guyên-giác. Con người thế gian, dù có hay không có “thế trí”, đối với giáo lí đạo Phật, họ vẫn là phàm phu, vẫn phải đau khổ triền miên, vì đời sống luôn luôn tạo nghiệp bất thiện, mà không thấy biết có một con đường chánh để đi theo. Nhưng nếu có những người nào đó, nhờ duyên lành gặp được Phật pháp, phát tâm tu học theo chánh đạo, thì biết rằng những người này đã có trí tuệ -- loại trí tuệ cao hơn, sáng suốt hơn, đúng đắn hơn loại “thế trí” của phàm phu; đó là trí tuệ của hàng Nhân và Thiên thừa. Dù vậy, Nhân và Thiên thừa cũng vẫn còn thuộc trong vòng thế gian, vẫn còn chịu đau khổ trong biển sinh tử luân hồi. Nếu có duyên lành lớn hơn, trí tuệ cao trội hơn, họ sẽ phát tâm mạnh mẽ hơn, nguyện từng bước thoát dòng phàm phu để từng bước nhập vào dòng thánh -- dưới thấp là thừa Thanh-văn, lên trên là thừa Duyên-giác. Những hành giả tu tập ở hai thừa này đều có trí tuệ cao hơn, sáng suốt hơn, thanh tịnh hơn các loại trí tuệ của thế gian. Bằng trí tuệ ấy, họ quán sát thấy rõ thế gian là biển khổ đau; và khổ đau là kết quả của bao nhiêu phiền não, vô minh độc hại. Họ quán sát thấy rõ mọi sự vật trong thế gian đều do nhân duyên giả hợp mà thành, chúng luôn luôn biến đổi, không có gì trường tồn chắc thật, không có tự ngã tồn tại độc lập, không có niềm vui chân thật; chúng sinh do nghiệp báo mà cứ lẩn quẩn chìm đắm trong vòng sinh tử luân hồi… Do đó, họ sinh tâm nhàm chán, xa lánh thế gian, phát tâm tu tập theo chánh đạo để dứt trừ phiền não vô minh, giải thoát khỏi chốn thế gian khổ đau, cắt đứt vòng sinh tử luân hồi, an trú trong cảnh giới niết bàn tịch tĩnh. Và do thành quả này, trí tuệ của hàng Nhị thừa cũng được gọi là “trí tuệ xuất thế gian”.

4. Trí tuệ lớn của Bồ-tát thừa: Tuy trí tuệ của hàng Nhị thừa đã được liệt vào loại trí tuệ xuất thế gian, nhưng vẫn chưa phải là loại trí tuệ cao tột. Các bậc A-la-hán hay Bích-chi Phật, tuy đã dứt sinh tử luân hồi, chứng đắc niết bàn tịch tĩnh, nhưng đó chỉ là thành quả của công phu dứt trừ hết kiến tư hoặc, còn đối với bản thể hay thật tướng của vạn pháp thì vẫn chưa thấu rõ trọn vẹn; quí ngài tuy đã giác ngộ, nhưng thành quả giác ngộ chưa rốt ráo -- chứng tỏ, ở hàng Nhị thừa vẫn còn tồn tại phần vô minh vi tế. Chỉ khi nào đạt đến quả vị Phật-đà thì thành quả giác ngộ mới rốt ráo trọn vẹn, vô minh hoàn toàn dứt tuyệt, được gọi là bậc “Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác”. Nhưng, muốn tiến đến quả vị Phật, hành giả phải tu tập hạnh Bồ-tát; đó là điều tất yếu, không có cách nào khác. Vậy nên, hành giả tu tập Bồ-tát hạnh là cốt để làm Phật; và họ được liệt vào hàng Bồ-tát thừa. Trí tuệ của những hành giả Bồ-tát ở buổi ban sơ mới phát tâm tu tập, dĩ nhiên là còn rất cạn cợt, nhưng sau khi đã trải qua thời gian dài tu tập tinh chuyên, khi bước lên hàng Thập-địa, với tâm nguyện rộng lớn, thì trí tuệ của họ cũng rộng lớn vô cùng. Trí tuệ của hàng Bồ-tát thấy rõ được thật tướng của vạn pháp, cho nên Bồ-tát không còn chấp trước, điên đảo; hoàn toàn tự tại vô ngại, phát nguyện độ sinh, tự lợi lợi tha, cho đến khi “giác hạnh viên mãn”. “Bát nhã” chính thực là loại trí tuệ này; hay nói cách khác, trí tuệ của hàng Bồ-tát mới thực sự được gọi là “Bát Nhã” (hoặc cũng gọi là Trí Bát Nhã, hay Trí Tuệ Bát Nhã). Trí tuệ của Bồ-tát rất rộng lớn, cho nên cũng gọi là “đại bát nhã”. Trong rất nhiều pháp hội, đức Phật đã từng dạy nhiều pháp môn vi diệu để giúp cho hàng Bồ-tát phát huy loại trí tuệ rộng lớn này. Những lời dạy ấy, về sau đã được các bậc thánh tăng kết tập, làm thành kinh Đại Bát Nhã -- hoặc gọi đầy đủ là kinh Ma Ha (Đại) Bát Nhã Ba La Mật Đa (Maha-prajnaparamita-sutra). Chữ “ba-la-mật-đa” có nghĩa là đến bờ giải thoát, ý nói, nhờ có trí tuệ rộng lớn mà Bồ-tát vượt thoát sông mê, đạt được quả vị Phật-đà. Vì vậy, toàn thể tên kinh, Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa, có thể được dịch ngắn gọn là Đại Trí Độ, hay Tuệ Giác Siêu Việt.



B) NGUỒN GỐC KINH BÁT NHÃ

Kinh Đại Bát Nhã đã được chính đức Phật Thích Ca Mâu Ni giảng nói, trải qua nhiều pháp hội, tại bốn đạo tràng lớn: núi Linh-thứu, tu viện Kì-viên, cung trời Tha-hóa-tự-tại, và tu viện Trúc-lâm. Đại sư Trí Khải của tông Thiên Thai (Trung-quốc) đã y cứ vào nội dung kinh điển mà phân loại và hệ thống hóa các thời giảng pháp của đức Phật. Ngài đã phân chia thời gian bố giáo của đức Phật (theo thuyết cũ là 49 hay 50 năm) làm năm giai đoạn, trong đó, kinh hệ Bát Nhã thuộc giai đoạn thứ tư -- gọi là “Bát Nhã Thời” -- chiếm một thời gian dài đến 22 năm.

Nhưng, vì nguyên do gì mà đức Phật nói kinh này? Trong bộ luận Đại Trí Độ, Bồ-tát Long Thọ đã đưa ra những nguyên do sau đây:

- Vì muốn chỉ dạy đầy đủ về Bồ-tát hạnh mà đức Phật nói kinh Đại Bát Nhã.

- Vì muốn giúp cho các vị Bồ-tát được tăng thêm lợi ích trong công phu tu tập pháp môn “Niệm Phật Tam Muội”, mà đức Phật nói kinh Đại Bát Nhã.

- Sau khi thành đạo dưới gốc cây bồ đề, vì chuẩn hứa sự ân cần khuyến thỉnh của chư thiên, và cũng vì nhớ đến tâm nguyện đại từ đại bi của mình, nên đức Phật đã quay bánh xe pháp; và chính vì “Bát nhã ba la mật” là pháp sâu xa nhất trong các pháp, cho nên đức Phật đã nói kinh Đại Bát Nhã.

- Vì trong thế gian có kẻ hoài nghi, cho rằng Phật đã không chứng được “nhất thiết trí”, để hóa giải mối nghi ngờ này, đức Phật đã nói kinh Đại Bát Nhã.

- Có nhiều chúng sinh bị tà sư mê hoặc, tâm đắm chìm trong tà pháp, không vào được chánh đạo; đức Phật muốn chỉ bày thật tướng của vạn pháp để đoạn trừ tất cả mọi nghi kết của chúng sinh, cho nên đã nói kinh Đại Bát Nhã.

- Có nhiều người tâm đầy tà ác, tật đố, phỉ báng đức Phật là người có trí tuệ không ra khỏi trí tuệ của loài người, chỉ khéo dùng huyễn thuật để mê hoặc người đời. Để hóa giải những lời phỉ báng ấy, và đồng thời để giúp mọi người tin nhận chánh pháp, vượt thoát lưới tà kiến, diệt trừ kiết sử, được an vui tự tại, cho nên đức Phật đã nói kinh Đại Bát Nhã.

- Cũng có người nghĩ rằng, Phật cũng như mọi người, cũng có sinh tử, cũng có lúc chịu đói khát, cũng bị lạnh bị nóng, cũng phải già bệnh, v.v… Để dứt trừ những ý nghĩ đó, đức Phật đã nói kinh Đại Bát Nhã.

- Có rất nhiều người mang kiến chấp cực đoan, hoặc chuyên cầu khoái lạc, hoặc chuyên khổ hạnh hành xác; Phật vì hóa độ cho những hạng người này, đưa họ vào Trung Đạo, nên đã nói kinh Đại Bát Nhã.

- Để phân biệt quả báo cúng dường sinh thân và pháp thân, mà đức Phật đã nói kinh Đại Bát Nhã.

- Vì muốn giảng thuyết về những pháp như “bất thối chuyển, ma huyễn, ma ngụy, ma sự”; lại muốn thọ kí cho hàng Tam thừa, nên đức Phật đã nói kinh Đại Bát Nhã.

- Vì muốn giảng thuyết về “đệ nhất nghĩa tất đàn” (tất đàn trong ý nghĩa tuyệt đối), nên đức Phật đã nói kinh Đại Bát Nhã.

- Vì muốn hàng phục các nhà đại nghị luận (như trường hợp phạm chí Trường Trảo), mà đức Phật đã nói kinh Đại Bát Nhã.

- Vì muốn chỉ rõ thật tướng của các pháp, nên đức Phật đã nói kinh Đại Bát Nhã.

- Vì muốn nói những pháp không có chỗ tranh cãi, cũng như những pháp môn gồm hai phần tương đối như: có tướng -- không tướng; có vật -- không vật; có y cứ -- không y cứ; có trên – không trên; thế giới – chẳng phải thế giới, v.v…, nên đức Phật đã nói kinh Đại Bát Nhã.

- Vì muốn chỉ rõ tướng các pháp không phải thiện, không phải bất thiện, không phải vô kí; cũng như các pháp môn có ba phần như: pháp học – pháp vô học – pháp phi học phi vô học; pháp do kiến đế đoạn – pháp do tư duy đoạn – pháp không đoạn; pháp thượng – trung -- hạ; pháp tiểu -- đại – vô lượng, v.v…, nên đức Phật đã nói kinh Đại Bát Nhã.

- Vì muốn phá bỏ các pháp phương tiện đã nói ở các kinh khác như: Bốn Niệm Xứ, Bốn Chánh Cần, Bốn Thiền, Bốn Đế, Năm Uẩn, v.v…, nên đức Phật đã nói kinh Đại Bát Nhã.



C) TIẾN TRÌNH HÌNH THÀNH KINH ĐẠI BÁT NHÃ

Sau khi đức Phật nhập diệt, toàn bộ những lời dạy của đức Phật đã được chư vị thánh tăng cử tụng lại, kết tập nhiều lần, hình thành tạng kinh điển Phật giáo hoàn chỉnh. Song song với công trình kết tập này, một sự việc không may cũng đã xảy ra, đó là tình trạng phân phái trong giáo đoàn Phật giáo. Kể từ kì kết tập kinh điển lần thứ nhì tại thành phố Tì-xá-li, một trăm năm sau ngày Phật nhập diệt, do sự bất đồng ý kiến giữa chư tăng về một số điểm trong giới luật, mà giáo đoàn đã bị phân rẽ thành hai bộ phái lớn là Theravada –tức Thượng Tọa Bộ (phái bảo thủ), và Mahasanghika –tức Đại Chúng Bộ (phái cấp tiến). Tiếp theo đó, trong suốt mấy trăm năm, từ hai bộ phái lớn kia lại tiếp tục phân rẽ thêm đến 18 hay 20 bộ phái nhỏ nữa. Sở dĩ xảy ra tình trạng phân phái là vì chư tăng có những kiến giải khác nhau về kinh luật, rồi nảy sinh những quan điểm, chủ trương khác nhau trong cái nhìn đối với vũ trụ vạn hữu. Nói chung, chủ trương của Thượng Tọa Bộ theo đường hướng bảo thủ, bám giữ truyền thống, chú trọng đời sống kinh viện, tách rời quần chúng xã hội; trong khi đó, lập trường của Đại Chúng Bộ rất tự do phóng khoáng, chú trọng việc hành đạo trong quần chúng, nhấn mạnh tư tưởng Bồ-tát –hành giả không những thực hành giáo pháp để tăng ích cho bản thân mình, mà còn vì lợi ích cho mọi người.– Do đó, việc tích cực truyền bá giáo pháp trong quần chúng là điều vô cùng quan trọng đối với chư tăng Đại Chúng Bộ. Chính lập trường này của Đại Chúng Bộ đã là khởi nguyên dẫn đến sự biến chuyển lớn lao là cuộc vận động để hình thành nền Phật Giáo Đại Thừa.

Dưới thời đại vua A Dục (thế kỉ thứ 3 tr. TL), Đại Chúng Bộ đặt căn cứ hành đạo tại hai nuước Ma-kiệt-đà (Magadha) và Ương-già (Anga) ở vùng Trung Ấn; về sau tiến dần xuống miền Nam Ấn, đặt cứ điểm tại Án-đạt-la (Andhara). Án-đạt-la là một vùng lãnh thổ rộng lớn ở Đông Nam Ấn-độ, nằm ở cao nguyên Dekhan, giữa hai con sông lớn Godhavari (ở phía Bắc) và Krishna (ở phía Nam). Thành phố Amravati nằm ở phía Bắc của Án-đạt-la, chính là thủ đô của nước Án-đạt-la, cũng đã từng được xem là thủ đô của Phật giáo Đại Chúng bộ -- và sau đó là của Phật giáo Đại thừa. Tại Án-đạt-la, một chi phái của Đại Chúng Bộ được thành lập, gọi là Án Đạt La Phái. Từ thế kỉ thứ 2 tr. TL, địa vị của Án Đạt La Phái trong Giáo hội Phật giáo nói chung, và trong nội bộ Đại Chúng Bộ nói riêng, đã trở nên rất quan trọng. Với lập trường tự do phóng khoáng, chống lại chủ trương khép kín của các bộ phái kinh viện (gần như đưa Phật giáo đến con đường cùng), Án Đạt La Phái đã được quần chúng ủng hộ nhiệt liệt, và trở nên rất cường thịnh.

Sự phân phái và tranh cãi nhau quyết liệt giữa các bộ phái thời bấy giờ, đã làm cho tình hình Phật giáo rối bời; đó là chưa nói đến sự việc Phật giáo đang bị tấn công dồn dập bởi Bà-la-môn giáo (đang thời kì phục hưng mạnh mẽ) và các giáo phái khác, cũng như các thế lực chính trị do ngoại giáo lãnh đạo. Trong tình hình đó, Án Đạt La Phái đã dũng mãnh tự lãnh trách nhiệm, bên ngoài thì chống lại sự tấn công của các thế lực ngoại giáo; bên trong thì hóa giải cái không khí căng thẳng nặng nề do tình trạng phân phái gây nên, khiến cho tinh thần của Phật giáo Nguyên Thỉ được phục hưng, cuộc vận động cho nền Phật giáo Đại thừa dần dần được thực hiện. Địa phương Án-đạt-la đã được phần đông các nhà nghiên cứu sử Phật giáo công nhận là trung tâm hình thành và phát triển của Phật giáo Đại thừa. Chính tại đây, trong khoảng vài thế kỉ đầu TL, các kinh điển Đại thừa đã trước sau xuất hiện, trong đó, kinh Bát Nhã đã được kết tập sớm nhất -- chủ yếu của giáo lí Bát Nhã là tư tưởng KHÔNG, vốn là một trong những tư tưởng chính yếu về thế giới quan của Đại Chúng Bộ. Chính trong kinh Tiểu Phẩm Bát Nhã đã xác nhận: “Kinh Bát Nhã Ba La Mật Đa này bắt đầu ở phương Nam; từ phương Nam truyền qua phương Tây; từ phương Tây truyền tới phương Bắc; rồi từ đó mà lan rộng ra khắp bốn phương.”

Bộ kinh Đại Bát Nhã không phải đã được kết tập một lần, mà đã được hình thành trải qua nhiều đợt kết tập khác nhau. Về thời điểm kết tập, cho đến nay vẫn chưa có tài liệu nào xác định niên đại chính xác, mà chỉ biết rằng, trong số các kinh làm thành hệ Đại Bát Nhã, kinh Đạo Hạnh Bát Nhã (tức Tiểu Phẩm Bát Nhã) đã xuất hiện sớm nhất; tiếp đến là kinh Đại Phẩm Bát Nhã; rồi sau nữa là các kinh khác trong hệ Bát Nhã.

- Đạo Hạnh Bát Nhã là tên bản kinh Hán dịch của ngài Chi Lâu Ca Sấm, dịch từ bản Phạn văn là kinh Astasahasrika-prajnaparamita (Bát Thiên Tụng Bát Nhã). Kinh này đã xuất hiện vào khoảng đầu thế kỉ thứ 2 TL, được ngài Trúc Phật Sóc (?-?), người Ấn-độ, mang đến Lạc-dương (Trung-quốc) vào cuối đời vua Hán Hoàn Đế (147-167), và được ngài Chi Lâu Ca Sấm (Locasema – 147-?, người nước Đại-nhục-chi, đến Trung-quốc năm 167) dịch ra Hán văn vào năm 179. Đây là bản Hán dịch xưa nhất của kinh Bát Thiên Tụng Bát Nhã, mà cũng là bản kinh đầu tiên trong hệ thống Đại Bát Nhã tại Trung-quốc. Năm 257, kinh Đạo Hạnh Bát Nhã này đã được ngài Chu Sĩ Hành (203-282 -- người Hán đầu tiên được xuất gia làm tăng, và cũng là vị tăng Trung-quốc đầu tiên sang Tây-vực cầu pháp) giảng thuyết lần đầu tiên tại Lạc-dương. Đến đời Tam-quốc (220-280), cư sĩ Chi Khiêm (?-?, người nước Nhục-chi, đến Trung-quốc năm 220), hành đạo tại nước Đông Ngô (222-280), lại dịch kinh này với tên mới là Đại Minh Độ Vô Cực Kinh. Đến đời Tiền Tần (351-394), kinh này lại được hai ngài Đàm Ma Bì (Dharma-priya -- người nước Kế-tân), và Trúc Phật Niệm (người Cam-túc, Trung-quốc) cùng dịch với tên mới là Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa Sao Kinh. Đến đời Hậu Tần (384-417), ngài Cưu Ma La Thập (Kumarajiva – 334-413 - người nước Qui-tư) lại dịch kinh này với tên mới là Tiểu Phẩm Bát Nhã Ba La Mật Kinh. Sang đời Đường (618-907), ngài Huyền Trang, khi dịch toàn bộ kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa (gồm cả thảy 16 hội, 600 quyển), đã dịch lại cả kinh Bát Thiên Tụng Bát Nhã này, và đặt thành “Hội (hay Phần) Thứ Bốn” (Đệ Tứ Hội, hay Đệ Tứ Phần), gồm từ quyển 538 đến quyển 555. Đến đời Bắc Tống (960-1279), kinh này lại được ngài Pháp Hiền (?-1001, người Trung Ấn, đến Trung-quốc năm 973) dịch với tên mới là Phật Mẫu Bảo Đức Tạng Bát Nhã Ba La Mật Kinh; kế đó, ngài Thi Hộ (?-? -- người Bắc Ấn, đến Trung-quốc năm 980) lại dịch với tên mới là Phật Mẫu Xuất Sinh Tam Pháp Tạng Bát Nhã Ba La Mật Đa Kinh. Lại nữa, khi viết về sự nghiệp hành đạo của ngài Khương Tăng Hội (một vị cao tăng của Phật giáo Việt-nam sống vào thế kỉ thứ 3 TL), hòa thượng Nhất Hạnh cho biết: “Theo Khai Nguyên Thích Giáo Lục, ông cũng đã dịch Ngô Phẩm (tức Bát Thiên Tụng Bát Nhã hay Đạo Hành Bát Nhã) là kinh bản xuất hiện sớm nhất trong số các kinh Bát Nhã. Như thế, Phật Giáo Việt Nam vào đầu thế kỉ thứ ba đã hoàn toàn là Phật Giáo đại thừa, ……” Theo sách Cao Tăng Truyện (của Phật giáo Trung-quốc) thì ngài Khương Tăng Hội đã từ Giao-châu (tên nước Việt-nam thời xưa) sang Đông Ngô vào năm Xích-ô thứ 10 (tức năm 247, hay giữa thế kỉ thứ ba). Vậy, ngài đã dịch kinh Bát Thiên Tụng Bát Nhã ra Hán văn (với tên là Ngô Phẩm) vào đầu thế kỉ 3 tại Giao-châu, trước khi sang Đông Ngô hành đạo; rất tiếc là bản kinh Ngô Phẩm này ngày nay đã thất truyền.

- Đại Phẩm Bát Nhã là tên bản kinh Hán dịch của nguyên bản tiếng Phạn Pancavimsati-sahasrika-prajnaparamita (Nhị Vạn Ngũ Thiên Tụng Bát Nhã), do ngài Cưu Ma La Thập dịch; cũng gọi là Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Kinh. Xét về lai lịch kinh này, thật có điều lí thú. Nguyên là, khoảng thập kỉ thứ ba của thế kỉ 3 TL, sau khi bản kinh Hán dịch Đại Minh Độ (tức tên khác của kinh Đạo Hành Bát Nhã nói trên) của cư sĩ Chi Khiêm xuất hiện ở Đông Ngô, thì phong trào nghiên cứu Bát Nhã Học nở rộ ở Trung-quốc (lúc đó là thời đại Tam-quốc, gồm ba nước Tây Thục, Bắc Ngụy và Đông Ngô). Năm 260, ngài Chu Sĩ Hành (203-282, người ở Bắc Ngụy), đã khởi chí sang Tây-vực để tìm cầu các bản kinh Phạn ngữ. Ngài đến và ở tại nước Vu-điền (Ku-stana, nay là đất Hòa-điền, nằm ở Tây bộ xứ Tân-cương), đương thời là nơi lưu hành rất nhiều kinh điển tiếng Phạn. Tại đây, ngài sao lại được bản kinh Pancavimsati-sahasrika-prajnaparamita (Nhị Vạn Ngũ Thiên Tụng Bát Nhã). Năm 282, trước khi viên tịch, ngài đã sai đệ tử là Phất Như Đàn mang bản kinh ấy về Lạc-dương. Năm 291, đời Tây Tấn (265-316), ngài Vô La Xoa (người nước Vu-điền) và cư sĩ Trúc Thúc Lan (người gốc Thiên-trúc, sinh tại Trung-quốc) đã đem bản kinh Phạn ngữ (do Chu Sĩ Hành sao chép và do Phất Như Đàn mang về) này dịch ra Hán văn, gọi tên là Phóng Quang Bát Nhã Ba La Mật Kinh; đến năm 303, Trúc Thúc Lan cùng với Trúc Thúc Tịch hiệu khám lại, kinh này mới được hoàn chỉnh và lưu hành. Sau Phất Như Đàn, năm 286, ngài Kì Đa Mật, cũng người Vu-điền, lại mang vào Trung-quốc Phạn bản của kinh Nhị Vạn Ngũ Thiên Tụng Bát Nhã; gặp cơ duyên, ngài Trúc Pháp Hộ (Dharmaraksa - người gốc Nhục-chi, sinh ở Đôn-hoàng, đến Trường-an năm 265) đã dịch bản kinh Phạn ngữ này ra Hán văn ngay năm đó (286), với tên là Quang Tán Bát Nhã Ba La Mật Kinh. Vì vậy, bản Phạn ngữ của Chu Sĩ Hành vào Trung-quốc trước mà bản Hán dịch (Phóng Quang Bát Nhã) lại ra đời sau; còn bản Phạn ngữ của Kì Đa Mật tới Trung-quốc sau mà bản Hán dịch (Quang Tán Bát Nhã) lại ra đời trước. Đại Phẩm Bát Nhã (hay Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Kinh) của ngài La Thập là bản Hán dịch thứ ba (vào đời Hậu Tần – 384-417) của kinh này. Đến đời Đường (618-907), ngài Huyền Trang lại dịch kinh này, và đặt thành “Hội Thứ Hai” (Đệ Nhị Hội) trong toàn bộ kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa.

- Kinh Thắng Thiên Vương Bát Nhã Ba La Mật (Pravara-deva-raja-pariprccha) đã được ngài Cầu Na Bạt Đà (người Vu-điền) mang vào Trung-quốc năm 548, và đến năm 565 thì được ngài Nguyệt Bà Thủ Na (Upasunya -- người Trung Thiên-trúc, hoàng tử của vua nước Ưu-thiền-ni) dịch ra Hán văn với tên như trên. Đến đời Đường, ngài Huyền Trang đã dịch lại kinh này, và đặt thành “Hội Thứ Sáu” (Đệ Lục Hội) trong toàn bộ kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa.

- Bản kinh Phạn ngữ Saptasatika-prajnaparamita (tức Thất Bách Tụng Bát Nhã) được ngài Mạn Đà La Tiên (Mandra -- người nước Phù-nam, tức nước Cao-miên ngày nay) mang đến Trung-quốc năm 502 đời Lương Võ Đế (502-549), và qua năm sau (503) thì dịch ra Hán văn với tên là Văn Thù Sư Lợi Sở Thuyết Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Kinh. Ngài Tăng Già Bà La (Sanghapala – 460-524), cũng người nước Phù-nam, đến Trung-quốc trước đó vào thời Nam Tề (479-502), khi ngài Mạn Đà La Tiên sang thì hai vị cùng cộng tác để dịch kinh. Trong lúc ngài Mạn Đà La Tiên dịch kinh Văn Thù Sư Lợi Sở Thuyết Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Kinh (2 quyển), thì ngài Tăng Già Bà La cũng dịch kinh này với tên Văn Thù Sư Lợi Sở Thuyết Bát Nhã Ba La Mật Kinh (1 quyển). Đến đời Đường, kinh này lại được ngài Huyền Trang dịch lại, đặt thành “Hội Thứ Bảy” (Đệ Thất Hội), gọi là “Mạn Thù Thất Lợi Phần”, trong toàn bộ kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa.

- Đời Lưu Tống (420-4479), ngài Tường Công ở quận Nam-hải (Quảng-châu) dịch kinh Nhu Thủ Bồ Tát Vô Thượng Thanh Tịnh Phần Vệ (Phạn ngữ có 400 bài tụng); đến đời Đường, ngài Huyền Trang dịch lại, đặt thành “Hội Thứ Tám” (Đệ Bát Hội), gọi là “Na Già Thất Lợi Phần”, trong toàn bộ kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa.

- Bản Phạn ngữ kinh Vajracchedika-prajnaparamita (Kim Cang Năng Đoạn Bát Nhã Ba La Mật Đa), không biết được mang vào Trung-quốc từ năm nào, chỉ biết bản Hán dịch xuất hiện đầu tiên vào đầu thế kỉ 5, với tên Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Kinh, là của ngài Cưu Ma La Thập (334-413). Bản dịch thứ hai, cũng cùng tên Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Kinh, là của ngài Bồ Đề Lưu Chi (Bodhiruci -- người Bắc Thiên-trúc, đến Lạc-dương năm 508), đời Nguyên Ngụy (471-550). Bản dịch thứ ba cũng cùng tên, được dịch vào đời Trần (557-589), do ngài Chân Đế (Paramartha – 449-569, người Bắc Thiên-trúc, đến Trung-quốc năm 546). Bản dịch thứ tư có tên Kim Cang Năng Đoạn Bát Nhã Ba La Mật Kinh, do ngài Đạt Ma Cấp Đa (Dharmagupta -- ?-619, người Nam Ấn, đến Trường-an năm 590) dịch vào đời Tùy (581-619). Đến đời Đường, ngài Huyền Trang (602?-664) dịch lại kinh này, đặt thành “Hội Thứ Chín” (Đệ Cử Hội), gọi là “Năng Đoạn Kim Cang Phần”, trong toàn bộ kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa. Sau đó, ngài Nghĩa Tịnh (635-713) lại dịch kinh này với tên Phật Thuyết Năng Đoạn Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Đa Kinh.

- Bản kinh Phạn ngữ Prajnaparamita-naya-satapancasatika (Nhất Bách Ngũ Thập Tụng Bát Nhã) đã được ngài Huyền Trang (đời Đường) dịch và đặt thành “Hội Thứ Mười” (Đệ Thập Hội), gọi là “Bát Nhã Lí Thú Phần”, trong toàn bộ kinh Đại Bát Nhã Ba La mật Đa. Sau đó, cũng vào đời Đường, ngài Bồ Đề Lưu Chí (Bodhiruci – 562-727, người Nam Ấn, đến Trường-an năm 693) cũng dịch kinh này với tên Thật Tướng Bát Nhã Ba La Mật Kinh. Kế đó, kinh này lại được ngài Kim Cang Trí (Vajrabodhi – 671?-741, người Nam Ấn, đến Trung-quốc năm 719) dịch với tên Kim Cang Đảnh Du Già Lí Thú Bát Nhã Kinh; rồi ngài Bất Không (Amoghavajra – 705-774, người Nam Ấn, theo thầy là Kim Cang Trí đến Trung-quốc năm 719) cũng dịch kinh này với tên Đại Lạc Kim Cang Bất Không Chân Thật Tam Ma Da Kinh. Sang đời Bắc Tống (960-1279), ngài Pháp Hiền cũng dịch kinh này với tên Tối Thượng Căn Bản Kim Cang Bất Không Tam Muội Đại Giáo Vương Kinh; rồi ngài Thi Hộ lại dịch kinh này với tên Biến Chiếu Bát Nhã Ba La Mật Kinh.

Nguyên bản tiếng Phạn của tất cả 7 bản kinh vừa nêu trên, ngoại trừ bản kinh sau cùng, 6 bản kinh trước đều đã được đưa vào Trung-quốc và được dịch ra Hán văn trước thời đại ngài Huyền Trang. Bản chữ Phạn của bản kinh sau cùng vừa nêu trên (tức “Hội Thứ Mười” trong toàn bộ kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa), có thể đoán chắc rằng, nó đã được chính ngài Huyền Trang mang từ Ấn-độ về. Cũng vậy, nguyên bản tiếng Phạn của những kinh còn lại mà ngài Huyền Trang đã dịch để hình thành toàn bộ kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa (tức các kinh được xếp vào các Hội 1, 3, 5, 11, 12, 13, 14, 15, và 16), cũng đã được chính ngài mang về từ đất Ấn. Có thể nghĩ rằng, sau khi từ Ấn-độ về nước, có bao nhiêu loại kinh thuộc hệ Bát Nhã hiện có mặt ở Trung-quốc, ngài Huyền Trang đều thu thập lại, những kinh nào ngài mới mang về thì dịch mới, những kinh nào đã được các vị tiền bối dịch từ trước thì dịch lại, rồi sắp xếp làm thành bộ kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa, gồm 16 hội, 600 quyển. Như vậy, bộ kinh này của ngài Huyền Trang dịch là một tập đại thành của Bát Nhã căn bản và Bát Nhã tạp bộ -- căn bản là kinh Đại Phẩm Bát Nhã; tạp bộ là các kinh còn lại.

Tuy nhiên, thuộc kinh hệ Bát Nhã trong Hán Tạng, có kinh Phật Thuyết Nhân Vương Bát Nhã Ba La Mật, do ngài La Thập dịch từ trước vào đời Hậu Tần, nhưng không thấy ngài Huyền Trang nhắc tới. Kinh này, sang thế kỉ 8, ngài Bất Không dịch lại với tên Nhân Vương Hộ Quốc Bát Nhã Ba La Mật Đa Kinh.

Bản kinh Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh (Prajnaparamita-hrdaya-sutra) do chính ngài Huyền Trang dịch cũng không thấy đưa vào bộ kinh Đại Bát Nhã. Có lẽ, vì đó là bản kinh toát yếu của toàn bộ tư tưởng Bát Nhã, không thuộc riêng một Hội hay một Phẩm nào, nên ngài Huyền Trang đã để nó đứng riêng một mình. Kinh này, trước đó đã được ngài La Thập dịch (thế kỉ 4) với tên Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đại Minh Chú Kinh; ngài Bồ Đề Lưu Chi dịch (thế kỉ 6) với tên Bát Nhã Ba La Mật Đa Na Đề Kinh. Sau ngài Huyền Trang, cũng thuộc đời Đường, kinh này lại được ngài Pháp Nguyệt dịch với tên Phổ Biến Trí Tạng Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh; hai ngài Bát Nhã và Lợi Ngôn dịch chung với tên Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh; ngài Trí Tuệ Luân dịch với tên Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh; ngài Thi Hộ (đời Tống) dịch với tên Thánh Phật Mẫu Bát Nhã Ba La Mật Đa Kinh.

Do tình hình dịch kinh Đại Bát Nhã như vừa trình bày trên, chúng ta có thể thấy, bộ kinh Đại Bát Nhã do ngài Huyền Trang dịch và được thu vào Hán Tạng, nguyên thỉ đã không phải là một bộ kinh thuần nhất với thuận tự mạch lạc xuyên suốt từ đầu đến đuôi, mà là một tập đại thành của nhiều bản kinh rời rạc nhưng cùng chứa đựng tư tưởng Bát Nhã. Những bản kinh này không phải đã được kết tập tại một nơi nhất định nào, do một tập thể chư tăng nhất định nào, mà chúng đã được kết tập rải rác, trải qua thời gian lâu dài từ đầu thế kỉ 2 TL; không những ở vùng Nam Ấn, mà còn ở khắp mọi địa phương, nhất là Bắc Ấn. Và cũng nhờ cơ duyên tốt lành, các kinh ấy, sau khi được kết tập và lưu hành ở Ấn-độ, thì chúng cũng liền được truyền sang Đông độ; nhờ vậy mà chúng được bảo tồn, tránh khỏi thảm họa bị tiêu diệt bởi quân Hồi giáo khi họ xâm lăng Ấn-độ từ cuối thế kỉ 10 TL. Các kinh bản Phạn ngữ ấy đã được mang đến Trung-quốc bằng hai đường: đường bộ từ Bắc Ấn-độ qua ngả Tây-tạng, Vu-điền, Tân-cương; đường thủy từ miền duyên hải Đông Nam Ấn-độ qua Ấn-độ dương, xuyên qua Java, Mã-lai, Phù-nam, Giao-châu; và cũng không phải đã do chỉ một vài người mà do rất nhiều vị cao tăng đem vào, trong số đó, nhiều nhất, đáng kể nhất, chắc hẳn là số lượng kinh bản do ngài Huyền Trang đích thân mang về sau 17 năm (629-646) tu học ở Ấn-độ. – Như ta biết, qua tác phẩm Đại Đường Tây Vực Kí, khi sang Ấn-độ, ngài đã có thuận duyên, hầu như được đi khắp xứ Ấn-độ, nhất là những địa phương có cộng đồng Phật giáo thì ngài đều không bỏ sót. Đến đâu ngài cũng được đón tiếp nồng hậu, và chắc chắn là ngài đã có được cơ duyên thu thập kinh điển tại mỗi nơi ngài đã đặt chân tới.





TÀI LIỆU THAM KHẢO


- Đại Chánh Đại Tạng Kinh (các quyển 5, 6, 7, 8).

- Phật Quang Đại Từ Điển.

- Bát Nhã Cương Yếu. Tì kheo ni Hồng Ẩn. Edmonton: Viet Publisher in lần thứ nhất, 1989.

- Đại Thừa Phật Giáo Tư Tưởng Luận. Thích Quảng Độ (dịch). California: Phật Học Viện Quốc Tế xuất bản, 1989.

- Đại Trí Độ Luận (tập 1). Thích Thiện Siêu (dịch). Saigon: Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam ấn hành, 1997.

- Giáo Khoa Phật Học Cấp Hai. Hạnh Cơ (dịch và soạn). Sắp xuất bản.

- Những Kỷ Nguyên Đầu Của Đạo Phật. Nguyên Hảo (dịch). Edmonton: Về Nguồn xuất bản, 1999.

- Phật Giáo Đại Tạng Kinh Tường Tế Mục Lục. Thích Chánh Lạc (biên dịch). Phú Lâu Na xuất bản, 2002.

- Thiền Sư Tăng Hội. Nhất Hạnh. Lá Bối xuất bản, 1998.

- Tinh Hoa và Sự Phát Triển Của Đạo Phật. Chân Pháp (dịch). Saigon: Ban Tu Thư Viện Đại Học Vạn Hạnh xuất bản, 1969.



Phật mẫu bảo đức tạng bát-nhã ba-la-mật kinh

佛母寶悳藏般若波羅蜜經; C: fómǔ băo-dézàng bānruò bōluómì jīng; J: butsumo hō-tokuzō hannya haramitsu kyō; S: prajñāpārami-tāratnaguṇa-saṃcayagāthā.
Kinh, gồm 3 quyển. Tên gọi tắt là Bảo Đức tạng kinh (寶悳藏經); Pháp Hiền (法賢) dịch. Về tiếng Phạn, xem bản của Yuyama biên tập năm 1976.

Phật Mẫu Bảo Đức Tạng Bát Nhã Ba La Mật Kinh

Thứ Hai, 23 tháng 8, 2021

Luận Phật Mẫu Bát Nhã Ba La Viên Tập Yếu Nghĩa



Luận Phật Mẫu Bát Nhã Ba La Viên Tập Yếu Nghĩa

Đại Vực Long Bồ Tát tạo, Tống Thi Hộ đẳng dịch

Bản Việt dịch của Nguyên Huệ

***

Quy mạng Đại Bồ-tát Đồng Chân Diệu Cát Tường:

Bát-nhã cùng thành tựu

Như Lai, trí không hai

Nghĩa tương ưng trong ấy

Tiếng kia, giáo đạo hai.

Nương dựa cùng tác dụng

Sự nghiệp đồng khởi tu

Phân biệt tướng và tội

Xưng tán như tiếp nói.

Đủ tin, dùng làm thể

Sư, của, cùng chứng nói

Lúc nói và xứ nêu

Tự lượng được thành tựu.

Người nói pháp, nên biết

Thế gian, thời, xứ, hai

Người nói, có đồng chứng

Sau đấy, được như lượng.

Hết thảy tập như vậy

Tôi nghe cùng đã nói

Nghĩa hòa hợp như thế

Ba mươi hai, tối thượng.

Phân biệt mười sáu tướng

Không, như thứ lớp kia

Trong tám ngàn tụng nêu

Rõ phương tiện khác nói.

Nay Bát Thiên Tụng nầy

Nghĩa như nêu, không giảm

Theo chỗ thích tụng lược

Nghĩa như thế, như nói.

Bồ-tát, Ta không thấy

Đây nói Tịch mặc thật

Hay nhận các sự nội

Kia nói tức là không.

Sắc cùng tự tánh sắc

Đây nêu cũng lại không

Các xứ ngoài như thế

Phần đã thọ đều dứt.

Sắc cùng tướng thân ấy

An trụ và cùng lìa

Hướng nghĩa hoặc kia thấy

Nội đó tức không thật.

Tánh của các Nội không

Tự tánh cũng lại không

Thức hiện có tướng, loại

Tức khởi bi trí ngã.

Chẳng sinh cũng chẳng diệt

Hữu tình, đây cùng minh

Hữu tình, sinh tử dục

Kia nói tức là không.

Pháp Phật không thể thấy

Pháp Bồ-tát cũng thế

Những thứ như đã nói

Không, cùng mười lực kia.

Pháp hiện có đều riêng

Đây nói tánh biến kế

Thắng nghĩa ấy không có

Các pháp nêu như vậy.

Những kiến như ngã, đoạn

Đại sĩ tạo cứu cánh

Nhưng người kia vô ngã

Phật, tất cả xứ nói.

Hết thảy pháp không sinh

Đây đã nói cũng vậy

Tuyên thuyết pháp vô ngã

Tất cả xứ nói thật.

Có tội cùng không tội

Không tăng cũng không giảm

Các hữu vi, vô vi

Các thiện hiện có, dứt.

Trong tánh không các thiện

Đấy xuất cũng vô tận

Biến kế phân biệt ấy

Gồm thâu khắp là không.

Mười thứ tâm tán loạn

Tâm tán loạn xứ khác

Ngu không được tương ưng

Trí không hai chẳng thành.

Kia dứt bỏ, hỗ tương

Là năng, sở đối trị

Ở trong giáo Bát-nhã

Viên tập ấy đã nêu.

Như có Bồ-tát có

Phân biệt vô tướng ấy

Tán loạn dứt trừ, Sư

Nói uẩn thế tục kia.

Tám ngàn tụng ở đây

Từ đầu nói thứ lớp

Tới sau cùng đều dừng

Nói phân biệt vô tướng.

Nhân nêu chẳng như vậy

Đây chỉ nói sự tướng

Trong kinh như Phạm Võng

Biết tất cả như lý.

Bồ-tát, Ta chẳng thấy

Nhưng đấy cùng rộng lớn

Thế Tôn dứt trừ ấy

Phân biệt loạn có tướng.

Nếu chẳng thấy danh kia

Cảnh giới hành cũng thế

Uẩn đó, tất cả xứ

Đều không thấy Bồ-tát.

Đây dứt trừ biến kế

Gồm thâu khắp đã nói

Nhân nơi Nhất thiết trí

Tuệ phân biệt các tướng.

Bát-nhã Ba-la-mật

Nói ba thứ nương dựa

Là biến kế, y tha

Cùng tánh viên thành thật.

Không nói câu như vậy

Hết thảy biến kế dừng

Huyễn dụ cùng thấy biên

Đây nói tánh y tha.

Có bốn thứ thanh tịnh

Nói thật tánh viên thành

Bát-nhã Ba-la-mật

Phật không nói dị biệt.

Mười phân biệt tán loạn

Đối trị, thứ lớp nêu

Ba thứ đó biết sắc

Nói hoặc tức hoặc lìa.

Như đầu nói viên thành

Y tha cùng biến kế

Phân biệt sắc vô tướng

Dứt trừ tán loạn kia.

Phật ấy cũng Bồ-đề

Không thấy người giảng nói

Đến sau cùng đấy biết

Dứt trừ tánh biến kế.

Tự tánh không sắc kia

Cùng tướng sao có được

Trong lời dị biệt ấy

Biết rõ rồi, kia dứt.

Đây chẳng không, nên không

Lời như vậy đã nói

Các phân biệt hủy báng

Tất cả nói đều dứt.

Như huyễn cũng thế, Phật

Đấy như mộng cũng vậy

Như thế, như tiếp biết

Trí nói biên quyết định.

Các đồng cùng đã tạo

Đấy nói Phật như huyễn

Huyễn dụ cùng ngôn thuyết

Đây nói tánh y tha.

Như trí các phàm phu

Tự tánh đó thanh tịnh

Nên nói Phật kia nói

Bồ-tát cũng như Phật.

Tự tánh, tự sắc phủ

Nhân vô minh kia tạo

Như huyễn dị biệt hiện

Quả như mộng, trừ bỏ.

Nói dị biệt không hai

Quả cùng định hủy báng

Các phân biệt hủy báng

Hủy báng ấy, đây nói.

Sắc, không chẳng hòa hợp

Kia cùng trái nhau, ngại

Không sắc, không không danh

Sắc tướng tự hòa hợp.

Đây phân biệt một tánh

Đối trị vô số tánh

Không, chẳng khác sắc kia

Không ấy làm sao có.

Đây, chỗ hiện không thật

Kia, vô minh đã khởi

Đây, năng biểu không thật

Nên kia nói vô minh.

Đây nói sắc như thế

Bát-nhã Ba-la-mật

Không hai, hai như vậy

Đối trị phân biệt hai.

Như lý nói tánh tịnh

Cũng vậy, không thể đắc

Tánh, vô tánh cùng trái

Vô số tánh, định thấy.

Nói sắc ấy chỉ danh

Chân thật, không tự tánh

Phân biệt tự tánh kia

Nạp nhận, tức nên dứt.

Sắc cùng tự tánh sắc

Không, như trước đã nói

Tự tánh cùng tướng kia

Phân biệt, đây dứt trừ.

Chẳng sinh cùng chẳng diệt

Các pháp quán hiện có

Phật nói nếu tan, biến

Phân biệt sai biệt kia.

Danh, ngôn cùng hư giả

Pháp ấy nếu phân biệt

Tiếng, nghĩa, hai chẳng hợp

Kia chẳng tự tánh ý.

Bát-nhã Ba-la-mật

Phật, Bồ-tát cũng thế

Đây đã nói chỉ danh

Phân biệt lìa nghĩa thật.

Tiếng, nghĩa hiện có, dứt

Đây, không sự dứt trừ

Như vậy, khác cũng biết

Nghĩa trong lời quyết định.

Đây, không sở đắc, đúng

Hết thảy danh, biết thật

Như nghĩa, tánh như thế

Không dứt trừ tiếng kia.

Tu-bồ-đề, hai lìa

Tiếng, nghĩa tiếng như vậy

Bồ-tát không có danh

Ta thấy, đây có nói.

Bát-nhã Ba-la-mật

Lời không quyết định sinh

Tìm xét chỉ bậc Trí

Nghĩa nầy, tuệ vi diệu.

Nghĩa tương tục, trừ bỏ

Nếu phân biệt nghĩa riêng

Bát-nhã Ba-la-mật

Ngôn thuyết như tiếng vang.

Gồm, lược, nghĩa như thế

Bát-nhã cùng nương dựa

Như vậy nghĩa tuần hoàn

Lại nghĩa riêng nương dựa.

Bát-nhã Ba-la-mật

Chánh gồm tám ngàn tụng

Nhóm phước đạt được ấy

Đều từ Bát-nhã sinh.

Kinh Thất Phật Phụ Mẫu Tánh Tự



Kinh Thất Phật Phụ Mẫu Tánh Tự

Thất Phật Phụ Mẫu Tánh Tự Kinh [七佛父母姓字經]

Thất dịch

Việt dịch: Thích Chánh Lạc

***

Nghe như vầy[2]:

Một thời, Phật ở nước Xá-vệ. Trong nước, có người phụ nữ có con trai tên là Vô Diên do đó được gọi là Mẹ Vô Diên[3]. Phật cùng năm trăm Tỳ-kheo[4] đến nhà bà Vô Diên, ngồi thọ trai trên điện. Sau khi thọ trai[5], có khoảng mười Tỳ-kheo, ở chỗ khuất[6], bàn luận với nhau: Phật là bậc chúng ta tôn kính, thần uy vô cùng, biến hóa tự tại theo ý muốn, lẽ nào Ngài không biết Phật quá khứ và Phật tương lai, với tuổi thọ, tên họ cha mẹ, bao nhiêu đệ tử, sự tu hành và giáo pháp của các Ngài.

Phật bằng thiên nhĩ nghe các Tỳ-kheo bàn luận về việc này; Ngài đến hỏi:

“Này các Tỳ-kheo, các thầy bàn luận về việc gì?”

Các Tỳ-kheo thưa:

“Chúng con nghĩ rằng Phật có thần thông tối thượng, đạo đức vi diệu, hiểu biết cao xa, không ai có thể hơn Ngài được. Phật biết rõ chư Phật quá khứ, chư Phật tương lai, với tuổi thọ, tên họ cha mẹ, bao nhiêu đệ tử, sự tu hành và ý chí giáo lệnh.”

Phật nói:

“Lành thay! Lành thay! Đúng như vậy. Các thầy hành pháp Sa-môn, nên nhớ nghĩ những việc lành như vậy. Các thầy muốn nghe tên họ chư Phật quá khứ với cha mẹ, đệ tử các Ngài không?”

Các Tỳ-kheo thưa:

“Chúng con muốn nghe.”

Phật dạy:

“Các Thầy hãy lắng nghe! Đức Phật thứ nhất tên Duy-vệ[7], nhập Niết-bàn đến nay đã chín mươi mốt kiếp. Phật thứ hai tên Thức[8], nhập Niết-bàn đến nay cũng đã ba mươi mốt kiếp. Phật thứ ba tên Tùy-diệp[9], nhập Niết-bàn đến nay đã ba mươi mốt kiếp. Trong kiếp Phi-địa-la[10] sẽ có một ngàn Phật, thứ nhất tên Phật Câu-lâu-tần[11], đức Phật thứ hai tên Phật Câu-na-hàm Mâu-ni[12], thứ ba tên Phật Ca-diếp [13], thứ tư là Ta, Phật Thích-ca Văn-ni.

“Phật Duy-vệ họ Câu-lân[14]. Phật Thức cũng họ Câu-lân. Phật Tùy-diệp cũng họ Câu-lân. Phật Câu-lâu-tần họ Ca-diếp. Phật Câu-na-hàm Mâu-ni, cũng họ Ca-diếp, Phật Ca-diếp cũng họ Ca-diếp. Nay, Ta, Phật Thích-ca Văn-ni họ Cù-đàm[15].

“Phật Duy-vệ dòng Sát-lợi. Phật Thức cũng dòng Sát-lợi. Phật Tùy-diệp cũng dòng Sát-lợi. Phật Câu-lâu-tần dòng Bà-la-môn. Phật Câu-na-hàm Mâu-ni cũng dòng Bà-la-môn. Phật Ca-diếp cũng dòng Bà-la-môn. Đến nay, Ta, Phật Thích-ca Văn-ni dòng Sát-lợi.

“Phật Duy-vệ, cha tên Bàn-biểu,[16] vua dòng Sát-lợi; mẹ tên Bàn-đầu-mạt-đà[17], trị vì đất nước tên Sát-mạt-đề[18].

“Phật Thức, cha tên A-luân-noa[19], vua dòng Sát-lợi; mẹ tên Ba-la-ha-việt-đề[20], trị vì đất nước tên A-lâu-na-hòa-đề[21].

“Phật Tùy-diệp, cha tên Tu-ba-la-đề-hòa[22], vua dòng Sát-lợi; mẹ tên Da-xa-việt-đề[23], trị vì đất nước tên A-nâu-ưu-ma[24]. Phật Câu-lâu-tần, cha tên A-chi-vi-đâu[25], dòng Ba-la-môn; mẹ tên Tùy-xá-ca[26]. Quốc gia tên Luân-ha-lợi-đề-na[27]. Quốc vương hiệu Tu-ha-đề[28].

“Phật Câu-na-hàm Mâu-ni, cha tên Gia-thiểm-bát đa[29], dòng Bà-la-môn; mẹ tên Uất-đa-la[30], nước tên Sai-ma-việt-đề[31]. Quốc vương hiệu Sai-ma[32].

“Phật Ca-diếp, cha tên A-chi-đạt-da[33], dòng Bà-la-môn; mẹ tên Đàn-na-việt-đề-da[34], nước hiệu Ba-la-tư[35]. Quốc vương hiệu Kỳ-thậm-đọa[36].

“Nay, Ta Phật Thích-ca Văn-ni, cha tên Duyệt-đầu-đàn[37], vua dòng Sát-lợi; mẹ tên Ma-ha Ma-da[38]. Nước tên Ca-duy-la-vệ [39], Đại vương đời trước tên Bàn-đề.[40]

“Phật Duy-vệ thọ tám vạn tuổi[41]. Phật Thức thọ bảy vạn tuổi[42]. Phật Tùy-diệp thọ sáu vạn tuổi[43]. Phật Câu-lâu-tần thọ bốn vạn tuổi[44]. Phật Câu-na-hàm Mâu-ni thọ ba vạn tuổi[45]. Phật Ca-diếp thọ hai vạn tuổi[46]. Ta, Phật Thích-ca Văn thọ trên dưới một trăm tuổi.

“Con Phật Duy-vệ tên Tu-viết-đa-kiện-đa[47]. Con Phật Thức tên A-đâu-la[48]. Con Phật Tùy-diệp tên Tu-ba-la-viết[49]. Con Phật Câu-lâu-tần tên Uất-đa-la[50]. Con Phật Câu-na-hàm Mâu-ni tên Đọa-di-đa-tiên-na[51]. Con Phật Ca-diếp tên Sa-đa-hòa[52]. Nay, con Ta, Phật Thích-ca Văn-ni tên La-vân[53].

“Phật Duy-vệ đắc đạo thành Phật dưới cây Ba-đa-la[54]. Phật Thức đắc đạo thành Phật dưới cây Phân-đồ-lợi[55]. Phật Tùy-diệp đắc đạo thành Phật dưới cây Tát-la[56]. Phật Câu-lâu-tần đắc đạo thành Phật dưới cây Tư-lợi[57]. Phật Câu-na-hàm Mâu-ni đắc đạo thành Phật dưới cây Ô-tạm[58]. Phật Ca-diếp đắc đạo thành Phật dưới cây Ni-câu-loại[59]. Nay, Ta thành Phật Thích-ca Văn-ni dưới cây A-bái-đa[60]. Thị giả Phật Duy-vệ tên A-luân[61]. Thị giả Phật Thí tên Sai-ma-yết[62]. Thị giả Phật Tùy-diệp tên Phục-chi-diệp[63]. Thị giả Phật Câu-lâu-tần tên Phù-đề[64]. Thị giả Phật Câu-na-hàm Mâu-ni tên Tát-chất[65]. Thị giả Phật Ca-diếp tên Tát-ba-mật[66]. Ta, Phật Thích-ca Văn-ni, thị giả tên A-nan [67].[68]

“Phật Duy-vệ có đệ tử đệ nhất tên Tắc, đệ nhị tên Chất-hàm[69]. Phật Thức có đệ tử đệ nhất tên A-tỷ-vụ, đệ nhị tên Tam-tham[70]. Phật Tùy-diệp có đệ tử đệ nhất tên Phật-đề, đệ nhị tên Uất-đa[71]. Phật Câu-lâu-tần có đệ tử đệ nhất tên Tăng-kỳ, đệ nhị tên Duy-lưu[72]. Phật Câu-na-hàm Mâu-ni có đệ tử đệ nhất tên Chuyển Luân, đệ nhị tên Uất-đa[73]. Phật Ca-diếp có đệ tử đệ nhất tên Chất-da-luân, đệ nhị tên Ba-đạt-hòa[74]. Nay đệ tử đệ nhất của Ta, Phật Thích-ca Văn-ni là Xá-lợi-phất-la, đệ nhị tên Ma-ha Mục-kiền-liên[75].

“Phật Duy-vệ thuyết ba hội kinh cho các Tỳ-kheo. Hội thuyết kinh thứ nhất có mười vạn Tỳ-kheo đắc quả A-la-hán. Hội thuyết kinh thứ hai có chín vạn Tỳ-kheo đắc quả A-la-hán. Hội thuyết kinh thứ ba có tám vạn Tỳ-kheo đắc quả A-la-hán.

“Phật Thức cũng có ba hội thuyết kinh. Hội thuyết Kinh thứ nhất có chín vạn Tỳ-kheo đắc quả A-la-hán. Hội thuyết kinh thứ hai có tám vạn Tỳ-kheo đắc quả A-la-hán. Hội thuyết kinh thứ ba có bảy vạn Tỳ-kheo đắc quả A-la-hán.

“Phật Tùy-diệp có hai hội thuyết kinh. Hội thuyết kinh thứ nhất có bảy vạn Tỳ-kheo đắc quả A-la-hán. Hội thuyết kinh thứ hai có sáu vạn Tỳ-kheo đắc quả A-la-hán.

“Phật Câu-lâu-tần thuyết pháp một hội, có bốn vạn Tỳ-kheo đắc quả A-la-hán.

“Phật Câu-na-hàm Mâu-ni thuyết pháp một hội, có ba vạn Tỳ-kheo đắc quả A-la-hán.

“Phật Ca-diếp thuyết pháp một hội, có hai vạn Tỳ-kheo đắc quả A-la-hán.

“Ta, Phật Thích-ca Văn-ni thuyết pháp một hội, có một ngàn hai trăm năm mươi Tỳ-kheo đều đắc quả A-la-hán.”

Phật bảo các Tỳ-kheo:

“Không thể đo lường và xưng tán hết trí của Phật. Các Thầy nên thọ trì về sự xuất hiện, cha mẹ, Quốc vương, sự giáo hóa của bảy đức Phật.”

Phật lại dạy các Tỳ-kheo:

“Kinh luật không thể không học. Đạo pháp không thể không hành trì. Đức Phật như người lái chiếc thuyền trong biển lớn, cả ngàn vạn người đều nương nhờ vào người lái để đi qua biển. Đức Phật dạy mọi người hành pháp thiện, đắc đạo quả và hóa độ thế gian cũng như vậy.”

Các Tỳ-kheo nghe kinh này vui mừng, làm lễ rồi lui ra.

CHÚ THÍCH

[1]. Bản hán: Thất Phật phụ mẫu tánh tự kinh, Vô danh dịch, thời Tiền Ngụy. Đại I, No. 4 , tr. 159a-160a. Tham chiếu: Phật thuyết Trường A-hàm kinh, Hậu Tần Hoằng thỉ niên, Phật-đà-da-xá cọng Trúc Phật Niệm dịch, ‘Đệ nhất phần sơ đại bản kinh đệ nhất.’ Đại I, No. 1(1) tr. 1a- 10c.

[2]. Nguyên Hán: Văn như thị 聞 如 是.

[3]. Vô Diên Mẫu 無 延 母, phiên âm của Mṛgāramātṛ (Pāli: Migāramātu), dịch Lộc Tử Mẫu 廘 子 母, tức bà Tỳ-xá khư (Pāli: Visākā).

[4]. Ngũ bách Tỳ kheo, 五 百 比 丘 (năm trăm Tỳ kheo); No. 1(1): Tỳ-kheo chúng thiên ngũ bách nhị thập nhơn, 大 比 丘 眾 千 二 百 五 十人 (chúng đại Tỳ-kheo một nghìn hai trăm năm mươi người).

[5]. Hán: phạn dĩ, 飯 已, (sau khi thọ trai); No. 1(1): Ư khất thực hậu, 於 乞 食 後, (sau khi khất thực).

[6]. Hán: ư bình xứ, 於 屏 處 (ở chỗ khuất ); No. 1(1): ở Hoa lâm đường 花 林 堂 .

[7]. Duy-vệ, 維 衛; No. 1(1): Tỳ-Bà-Thi, 毗 婆 尸.

[8]. Thức, 式; No. 1(1): Thi-khí, 尸 棄.

[9]. Tùy-diệp, 隨 葉; No. 1(1): Tùy-xá-bà, 毗 舍 婆.

[10]. Phi-địa-la kiếp, 披 地 羅 劫; No. 1(1): Hiền kiếp, 賢 劫.

[11]. Câu-lâu-tần, 拘 樓 秦; No. 1(1): Câu-lâu-tôn 拘 樓 孫.

[12]. Câu-na-hàm-Mâu-ni 拘 那 含 牟 尼.

[13]. Ca-diếp, 迦 葉.

[14]. Câu-lân 拘 鄰; No. 1(1): Câu-lị-nhã, 拘 利 若.

[15]. Cù-đàm, 瞿 曇; Pāli: Gotama.

[16]. Bàn-biểu, 槃 裱; No. 1(1): Bàn-đầu, 槃 頭.

[17]. Bàn-đầu-mạt-đào 槃 頭 末 陀; No. 1(1), Bàn-đầu-bà-đề; 槃 頭 婆 提.

[18]. Sát-mạt-đề, 殺 末 提; No. 1(1): Bàn-đầu-bà-đề, 槃 頭 婆 提.

[19]. A-luân-noa, 阿 輪 拏; No. 1(1), Minh Tướng, 明 相.

[20]. Ba-la-ha-việt-đề 波 羅 呵 越 提; No. 1(1), Quang Diệu, 光 妙.

[21]. A-lâu-na-hòa-đề 阿 樓 那 惒 提; No. 1(1), Quang Tướng 光 相.

[22]. Tu-ba-la-đề-hòa, 須 波 羅 提 惒; No. 1(1)d, Thiện Đăng, 善 燈.

[23]. Da-xá-việt-đề, 耶 舍 越 提; No. 1(1) , Xứng Giới, 稱 戒.

[24]. A-nâu-ưu-ma, 阿(…)憂 摩; No. 1(1), Vô Dụ, 無 喻.

[25]. A-chi-vi-đâu, 阿 枝 違 兜; No. 1(1), Tự Đắc, 祀 得.

[26]. Tùy-xá-ca 隨 舍 迦; No. 1(1) , Thiện Chi, 善 枝.

[27]. Luân-ha-lợi-đề-na 輪 訶 唎 提 那; No. 1(1), An Hòa thành, 安 和 城.

[28]. Tu-ha-đề, 須 訶 提, No. 1(1), An Hòa, 安 和.

[29]. Da-thiểm-bát-đa 耶 睒 鉢 多; No. 1(1)d, Đại Đức, 大 德.

[30]. Uất-đa-la, 鬱 多 羅; No. 1(1), Thiện Thắng 善 勝.

[31]. Sai-ma-việt-đề, 差 摩 越 提 (có lẽ Skt. Kṣemavatī; Pāli: Khemavātī); No. 1(1): Thanh Tịnh thành, 清 淨 城.

[32]. Sai-ma 差 摩 (có lẽ Skt. Kwema; Pali: Khema ); No. 1(1), Thanh Tịnh, 清 淨.

[33]. A-chi-đạt-da, 阿 枝 達 耶; No. 1(1), Phạm Đức, 梵 德.

[34]. Đàn-na-việt-đề-da, 檀 那 越 提 耶; No. 1(1): Tài Chủ, 財 主.

[35]. Ba-la-tư, 波 羅 私; No. 1(1), Ba-la-nại, 波 羅 奈 城.

[36]. Kỳ-thậm-đọa, 其 甚 墮; No. 1(1), Cấp-tỳ, 汲 毗.

[37]. Duyệt-đầu-đàn, 閱 頭 檀, No. 1(1), Tịnh Phạn, 淨 飯.

[38]. Ma-ha Ma-da, 摩 訶 摩 耶; No. 1(1), Đại Thanh Tịnh Diệu, 大 清 淨 妙.

[39]. Ca-duy-la-vệ, 迦 維 羅 衛; No. 1(1), Ca-tì-la-vệ, 迦 毗 羅 衛.

[40]. Bàn-đề 槃 提 , không rõ.

[41]. No. 4, tuổi thọ của Phật; nhưng No. 1(1), tuổi thọ loài người đương thời.

[42]. Xem cht.41.

[43]. No. 1(1), người thời bấy giờ thọ bảy vạn tuổi.

[44]. Xem cht. 41.

[45]. Xem cht. 41.

[46]. Xem cht. 41.

[47]. Tu-viết-đa-kiện-đa, 須 曰 多 鞬 陀; No. 1(1), Phương Ưng, 方 膺.

[48]. A-đâu-la, 阿 兜 羅; No. 1(1) sđd.: Vô Lượng, 無 量.

[49]. Tu-ba-la-viết, 須 波 羅曰; No. 1(1) sđd.: Diệu Giác, 妙 覺.

[50]. Uất-đa-la, 鬱 多 羅; No. 1(1) sđd.: Thượng Thắng, 上 勝.

[51]. Đọa-di-đà-tiên-na, 墮 夷 陀 先 那; No. 1(1) sđd.: Đạo Sư, 道 師.

[52]. Sa-đa-hòa, 沙 多 和; No. 1(1) sđd.: Tập Quân, 集 軍.

[53]. La-vân, 羅 云; No. 1(1) sđd.: La-Hầu-La, 羅 候 羅.

[54]. Ba-đà-la, 波 陀 羅; No. 1(1) sđd.: Ba-ba-la, 波 波 羅.

[55]. Phân-đồ-lị, 分 塗 利; No. 1(1) sđd.: Phân-đà-lị, 分 陀 利.

[56]. Tát-la, 薩 羅; No. 1(1) sđd.: Bà-la, 婆 羅.

[57]. Tư-lợi, 斯 利; No. 1(1) sđd.: Thi-lị-sa, 尸利 沙.

[58]. Ô-tạm, 烏 暫; No. 1(1) sđd.: Ô-tạm-bà-la, 烏 暫 婆 羅.

[59]. Ni-câu-loại, 尼 拘 纇; No. 1(1) sđd.: Ni-câu-luật, 尼 拘 律.

[60]. A-bái-đa, 阿 沛多; No. 1(1) sđd.: Bát-đa, 鉢 多.

[61]. A-luân, 阿 輪; No. 1(1), sđd.: Vô Ưu, 無 優.

[62]. Sai-ma-yết, 差 摩 竭; No. 1(1) sđd.: Nhẫn-Hành, 忍 行.

[63]. Phục-chi-diệp, 復 枝 葉; No. 1(1) sđd.: Tịch Diệt, 寂 滅.

[64]. Phù-đề, 浮 提; No. 1(1) sđd.: Thiện Giác, 善 覺.

[65]. Tát-chất, 薩 質; No. 1(1) sđd.: An Hòa, 安 和.

[66]. Tát-ba-mật, 薩 波 蜜; No. 1(1) sđd.: Thiện Hữu, 善 友.

[67]. A-nan, 阿 難; No. 1(1) sđd.: A-nan, 阿 難.

[68]. No. 4, đoạn văn này (từ Thị giả đến A-nan) đề cập đến những người hầu cận của các đức Phật. Nhưng theo bản No. 1(1) lại đề cập đến con của các đức Phật. Ở đây, nếu đem đối chiếu hai đoạn của chủ đề này, thì chúng ta thấy có những điểm đồng dị như trên.

[69]. Tắc và Chất-hàm, 塞, và 質 含; No. 1(1) sđd.: Khiên-trà và Đề-xá, 騫 茶, và 提 舍.

[70]. A-tỷ-vụ và Tam-tham, 阿 比 務 và 三 參; No. 1(1) sđd.: A-tỳ-phù và Tam-bà-bà, 阿 毗 浮 và 三 婆 婆.

[71]. Phật-đề và Uất-đa, 佛 提 và 鬱 多; No. 1(1) sđd.: Phò-du và Uất-đa-ma, 扶 遊 và 鬱 多 摩.

[72]. Tăng-kỳ và Duy-lưu, 僧 耆 và 維 留; No. 1(1) sđd.: Tát-ni và Tì-lâu, 薩 尼 và 毗 樓.

[73]. Chuyển Luân và Uất-đa, 轉 輪 và 鬱 多; No. 1(1) sđd.: Thư-bàn-na và Uất-đa-lâu, 舒 盤 那 và 鬱 多 樓.

[74]. Chất-da-luân Ba-đạt-hòa, 質 耶 輪 và 波 達 和; No. 1(1) sđd.: Đề-xá và Bà-la-bà, 提 舍 và 婆 羅 婆.

[75]. Xá-lợi-phất-la và Ma-ha Mục-kiền-liên, 舍 利 弗 羅 và 摩 訶 目 乾 連; No. 1(1) sđd.: Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên, 舍 利 弗 và 目 乾 連 .

Xưng Tán Phật Mẫu Bạch Cứu Độ


Thanh A Vượng Trát Thập dịch,

Bản Việt dịch của Huyền Thanh

*

* Nạp Ma Chí Tôn Thánh Cứu Độ Phật Mẫu

– Án( Omï ) Cứu Độ Du Hồi Đáp Liệt Mẫu (Samïskara Tàre – Độ thoát luân hồi Mẫu )

Dùng Đô Đáp Liệt (Tuttàre) thoát tám nạn.

Tất cả bệnh tội, Đô Liệt (Tùre) cứu

Trước Cứu Độ Mẫu kính tán lễ

– Chính giữa hoa sen màu Trắng tịnh

Trên đó an bày tòa Nguyệt Luân.

Tòa hiện Kim Cương Du Già Mẫu ( Vajra yoginì)

Trước Thí Nguyện Mẫu, chí kính lễ.

– Mặt như tướng ánh sáng Trăng Thu

Thân Phật Mẫu tựa Hạo phách luân.

Mọi thứ trang nghiêm đầy đủ cả

Trước Đấng cầm hoa (Ulpala – Hoa sen xanh da trời) xin kính lễ

– Đầy đủ Thể tướng mười sáu tuổi.

Tất cả Chính Giác đều là con

Đảm đương ban bố tùy ước muốn

Kính lễ trước Cứu Độ Phật Mẫu.

– Luân Trắng tinh tỏa hào quang trắng

Trên tám cây căm hiện tám chữ.

Tất cả đồng với tướng xoay chuyển

Hướng trước Cụ Luân, chí kính lễ.

– Tất cả sát độ (cõi, nước) đều thanh tịnh

Trong đó rải đầy nhiều hoa báu

Đản sinh Mẹ của Phật ba đời

Trước Mẫu Tôn ấy, chí kính lễ.

– Thánh Mẫu, Độ Mẫu, Cứu Độ Mẫu

Tăng ích Thọ Mẫu, Như Ý Luân.

Trước phật Mẫu Tôn xin cầu đảo

Làm tiêu thọ duyên Ma của con.

– Bệnh tật, tất cả nạn khổ đau.

Cầu xin bảo hộ giúp cho con.

Các Thành Tựu Thắng với Thông Thường

Ban bố cho con không dư sót

– Trước Thánh Mẫu Tôn, thành kính lễ

Xin thường ghi nhớ như con đỏ

Trước Tôn con cũng chí khẩn cầu

Cầu xin thường cầm Từ Bi Câu (móc câu Từ Bi)

– Thắng Thân Phật Mẫu như ánh trăng.

Yểu điệu nhu thiện thể đoan nghiêm.

Diệu tướng điểm tô nhiều vật báu

Dùng lụa là tốt tạo quần xiêm

– Trên tòa báu vành trăng hoa sen.

Hai chân ngồi Kim Cương Kiết Già

Một mặt, hai tay, dung mạo vui

Sinh làm mẹ của Phật ba đời.

– Trước Phật Mẫu Tôn thường quì lạy

Nay đối trước Tôn dùng diệu tán

Xin giúp chúng con lúc tu đạo

Từ nay cho đến được Bồ Đề

Tiêu trừ mọi nghịch duyên trong đó.

Nguyện được đầy đủ nơi Thuận duyên.

“Án – đáp liệp, đô đáp liệp, đô liệp, mạ mạ, a du lị bổ nột diệp, ni nạp, bổ chân, cổ lỗ diệp, sá ha”.

* Bạch Độ Mẫu Chú:

OMÏ – TÀRE TUTTÀRE TURE – ÀYUHÏ PUNÏYE JNÕÀNA PUSÏTÏIMÏ KURU – SVÀHÀ.

Kinh Thất Câu Chi Phật Mẫu Thuyết Đà La Ni Chuẩn Đề



Kinh Thất Câu Chi Phật Mẫu Thuyết Đà La Ni Chuẩn Đề

Đường Bất Không dịch,

Bản Việt dịch của Huyền Thanh

*

Như vậy tôi nghe. Một thời Đức Bạc Già Phạm ngự tại vườn Cấp Cô Độc trong rừng Thệ Đa thuộc Đại Thành Danh Xưng cùng với chúng Đại Bật Sô, các vị Bồ Tát và 8 Bộ Trời Rồng trước sau vây quanh.

Đức Thế Tôn nghĩ thương chúng sinh kém phước nhiều nghiệp ác ở đời vị lai, liền nhập vào Chuẩn Đề Tam Ma Địa ( Cundhi samādhi ) nói Đà La Ni mà 7 câu đê ( 7 trăm triệu ) Phật đời quá khứ đã nói là:

“ Ná mạc tát đa nam, tam miệu tam một đà, câu đê nam. Đát nễ dã tha: Án_ Giả lễ, chủ lễ, chuẩn nê, sa-phộc hạ”

NAMAH SAPTĀNĀM SAMYAKSAMBUDDHA KOTINĀM

TADYATHĀ: OM _ CÀLE CÙLE CUNDHE _ SVĀHĀ

Nếu có Bồ Tát tại gia hay xuất gia tu Hạnh Chân Ngôn, tụng trì Đà La Ni này mãn 90 vạn biến thì 10 tội ác, 4 tội nặng, 5 tôi nghịch, 5 tội Vô Gián đã gây tạo ra trong vô lượng kiếp thảy đều tiêu diệt. Nơi sinh ra thường gặp chư Phật Bồ Tát, tài bảo phong nhiêu, thường được xuất gia.

Nếu là Bồ Tát tại gia tu trì Giới Hạnh bền chắc chẳng thoái lui, tụng Đà La Ni này thường sinh vào cõi Trời. Hoặc ở nhân gian làm quốc vương, chẳng bị đọa vào nẻo ác, gần gũi Thánh Hiền, chư Thiên yêu kính ủng hộ gia trì. Nếu kinh doanh các việc ở đời thì không có tai hoạnh, nghi dung đoan chính, lời nói oai vệ, Tâm không lo lắng buồn phiền.

Nếu là Bồ Tát xuất gia giữ đầy đủ các Cấm Giới, 3 thời niệm tụng y theo Giáo tu hành. Đời này mong cầu Tất Địa Xuất Thế Gian thì Định Tuệ hiện tiền, chứng viên mãn Địa Ba La Mật, mau chứng Vô Thượng Chính Đẳng Bồ Đề.

Nếu tụng mãn một vạn biến tức ở trong mộng thấy Phật Bồ Tát, liền nôn ra vật màu đen. Nếu người ấy có tội rất nặng , tụng hai vạn biến tức mộng thấy chư Thiên, nhà, chùa, phòng ốc. Hoặc lên núi cao. Hoặc thấy trên cây, hoặc thất tắm gội ở trong ao lớn. Hoặc thấy bay trên hư không. Hoặc thấy cùng các Thiên Nữ vui chơi khoái lạc. Hoặc thấy nói Pháp. Hoặc thấy nhổ tóc, cạo tóc. Hoặc thấy ăn Lạc Phạn ( Cơm trộn sữa nấu chín ), uống Cam Lộ màu trắng. Hoặc vượt qua biển lớn, sông lớn, sông nhỏ. Hoặc lên Tòa Sư Tử. Hoặc thấy cây Bồ Đề. Hoặc ngồi trên thuyền. Hoặc thấy Sa Môn. Hoặc thấy mặt trời, mặt trăng. Hoặc thấy đồng nam, đồng nữ. Hoặc thấy trên cây có quả sữa. Hoặc thấy trong miệng Hắc Trượng Phu phun ra lửa mạnh cùng chiến đấu với người ấy và được thắng. Hoặc thấy trâu, ngựa ác muốn đến chạm húc, người trì tụng hoặc đánh hoặc nạt làm cho chúng sợ hãi bỏ chạy. Hoặc ăn cháo sữa, lạc phạn. Hoặc thấy hoa Tô Ma Na ( sumana_ Xứng Ý Hoa ) . Hoặc thấy quốc vương.

Nếu chẳng thấy cảnh giới như vậy nên biết người này đời trước tạo 5 tội Vô Gián, cần phải tụng đủ 70 vạn biến tức thấy cảnh giới như trên. Nên biết diệt tội liền thành Tiên Hạnh ( Pháp hành trước tiên ) . Sau đó y theo Pháp vẽ Tượng Bản Tôn. Hoặc 3 thời, 4 thời hoặc 6 thời y theo Pháp cúng dường cầu Tất Địa Thế Gian Xuất Thế Gian cho đến Vô Thượng Bồ Đề thảy đều đạt được.

Nếu có tu trì Đà La Ni này sẽ biết ngày sau thành tựu nơi chốn: có nạn, không có nạn, Tất Địa chậm hay mau. Nên ở một Tĩnh Thất dùng Cù Ma Di (Phân Trâu Trắng núi Tuyết ) xoa tô một cái Đàn nhỏ, tùy sức cúng dường. Dùng Kết Giới Chân Ngôn kết 10 phương Giới. Đem một cái bình nước thơm để trong Đàn, một lòng niệm tụng. Nếu cái bình chuyển động thì biết thành tựu việc mong cầu cần làm , nếu chẳng chuyển động thì việc ấy chẳng thành.

Lại có Pháp. Lấy một cái chén sứ, dùng hương xoa bôi rồi để trong Đàn, chuyên tâm niệm tụng. Nếu cái chén chuyển động thì việc liền thành tựu, nếu chẳng chuyển động thì việc chẳng thành.

Lại có Pháp. Muốn biết việc vị lai. Trước tiên xoa tô một cái Đàn nhỏ, sai một đồng tử có đủ tướng Phước Đức tắm gội sạch sẽ, mặc áo mới sạch. Dùng Thất Câu Đê Chân Ngôn gia trì vào hương rồi xoa bôi 2 bàn tay của đồng tử. Lại gia trì vào hoa 7 biến đặt trong tay đồng tử rồi sai đồng tử che mặt đứng trong Đàn. Lại lấy hoa riêng, tụng Chân Ngôn gia trì, cứ một biến thì đánh một lần vào lưng bàn tay đồng tử, cho đến 21 lần liền hỏi đồng tử về chuyện Thiện Aùc, đồng tử liền nói.

Lại có Pháp. Lấy một cái gương sáng để ở trong Đàn. Trước tiên tụng Chân Ngôn gia trì vào hoa 108 biến, sau đó lại tụng Chân Ngôn, cứ một biến thì ném đánh mặt gương một lần. Ở trên mặt gương liền có văn tự hiện ra nói việc thiện ác.

Lại có Pháp. Muốn biết việc Thiện, bất thiện, thành tựu, chẳng thành tựu. Lấy hoa Tô Ma Noa ( Sumana ) , dầu thơm, tụng Chân Ngôn gia trì 108 biến rồi xoa bôi mặt ngón cái phải. Tụng Chân Ngôn chẳng dứt tiếng và sai đồng tử quán trên mặt ngón tay sẽ hiện hình tượng chư Phật Bồ Tát hoặc hiện văn tự nói đủ việc thiện ác.

Lại có Pháp. Nếu người bị bệnh Quỷ Mỵ. Lấy cành Dương Liễu hoặc cỏ tranh, tụng Chân Ngôn rồi phất phủi trên thân người bệnh , liền trừ khỏi bệnh.

Lại có Pháp. Nếu người bị bệnh nặng. Tụng Chân Ngôn 108 biến, xưng tên người đó, dùng sữa bò Hộ Ma thì bệnh liền khỏi.

Nếu trẻ thơ bị Dạ Đề ( Khóc đêm ) . Sai đồng nữ se chỉ bên phải, tụng Chân Ngôn gia trì, kết 21 gút rồi đeo ở dưới cổ thì trẻ thơ liền khỏi bệnh Dạ Đề.

Lại có Pháp. Trước tiên gia trì vào hạt cải trắng 108 biến . Sau đó lấy hạt cải, tụng Chân Ngôn một biến thì ném đánh người bị bệnh Quỷ Mỵ một lần, đủ 21 biến thì Quỷ Mỵ bỏ chạy và người bệnh liền khỏi.

Lại có Pháp. Nếu có người bị Quỷ Mỵ. Lấy Cù Ma Di xoa tô một cái Đàn nhỏ. Dùng tro trấu vẽ đất làm hình Quỷ Mỵ. Tụng Chân Ngôn, dùng Thạch Lựu làm cây roi đánh thì Quỷ Mỵ ấy khóc lóc, đuổi đi sẽ bỏ đi.

Lại có Pháp. Nếu người bị vướng Quỷ Mỵ. Hoặc người bị bệnh ở nơi xa chẳng thể tự đến, hoặc người niệm tụng lại chẳng đến nơi ấy được. Lấy cành Dương Liễu hoặc cành đào, hoặc hoa… gia trì 108 biến rồi sai người đem đến chỗ người bệnh, dùng cành đó phủi người bệnh. Hoặc đem hoa khiến người bệnh ngửi, hoặc dùng hoa đánh người bệnh thì Quỷ Mỵ ấy liền bỏ đi, người bệnh được khỏi.

Lại có Pháp. Nếu bị rắn cắn, hoặc bị Noa Cát Nữ Quỷ ( Dākinì ) nắm giữ. Thời chuyển quanh người bệnh, tụng Chân Ngôn thì người ấy liền khỏi bệnh.

Lại có Pháp. Nếu có người bị ung thủng với bị các loại trùng độc cắn. Lấy nước cốt của Đàn Hương hòa với đất làm bùn, tụng Chân Ngôn 7 biến rồi xoa lên vết thương thì bệnh liền khỏi.

Lại có Pháp. Nếu đi trên đường, tụng Chân Ngôn này thì chẳng bị giặc cướp gây thương tổn cũng xa lìa các nạn do loài cầm thú ác gây ra.

Lại có Pháp. Nếu đấu tranh, kiện tụng, luận lý và đàm luận cầu thắng . Tụng Chân Ngôn này sẽ thắng.

Lại có Pháp. Nếu đi trên sông nước, tụng Chân Ngôn này thì chẳng bị nước cuốn chìm và chẳng bị các loài Rồng, cá Ma kiệt, Cù, Giao Long… ở trong nước gay thương hại.

Lại có Pháp. Nếu bị tù cấm, cột trói. Tụng Đà La Ni này sẽ mau được giải thoát.

Lại có Pháp. Ở trong nước ( Quốc thổ ) có bệnh dịch. 7 ngày dùng dầu mè, gạo tẻ hòa với bơ, mật làm Pháp Hộ Ma thì bệnh dịch liền được tiêu diệt, đất nước được an ninh.

Lại có Pháp. Nếu cầu phong nhiêu tài bảo. Mỗi ngày đem mọi loại thức ăn tác Hộ Ma sẽ được tài bảo giàu có.

Lại có Pháp. Nếu uốn khiến người yêu kính vui vẻ thì xưng tên của người ấy trong Chân Ngôn cú liền được vui vẻ thuận phục.

Lại có Pháp. Nếu Vô Cầu ( không có mong cầu ) thì niệm tụng liền được y nguyện.

Lại có Pháp. Nếu có người mà thân thể chi tiết bị đau nhức thì gia trì vào lòng bàn tay 21 biến rồi xoa chạm vào chỗ bị đau, liền được trừ khỏi.

Lại có Pháp. Nếu bị sốt rét với đau đầu ( Đầu thống ) thì gia trì vào lòng bàn tay 21 biến rồi xoa chạm cũng được trừ khỏi.

Lại có Pháp. Xoa tô một cái Đàn nhỏ, lấy một cái bát đồng chứa đầy tro sạch, khiến đồng tử dùng 2 tay đè trên cái bát tro. Người Trì Tụng nên tụng Chân Ngôn thì Sứ Giả của Bản Tôn nhập vào thân đồng tử, cái chén ấy liền chuyển động, giáng vào lời của đồng tử. Tự kết Ấn Tam Muội Gia của 3 Bộ, tụng Chân Ngôn của 3 Bộ. Liền lấy Cốt Thạch giao cho đồng tử. Đồng tử liền vẽ qua lại trên mặt đất nói chuyện Thiện Ác , Cát Hung của việc vị lai với Kinh Luận bị thất thoát, phát vọng vấn nạn nghĩa Chân Ngôn Ấn, liền được giải biết.

Lại có Pháp. Quân lính hai bên đánh nhau. Vẽ Đà La Ni này trên vỏ cây hoa rồi treo trên ngọn trúc và sai người cầm, tụng Chân Ngôn sẽ phá được quân địch ấy.

Lại có Pháp. Người nữ cầu con. Dùng Ngưu Hoàng vẽ Chân Ngôn này trên vỏ cây hoa rồi khiến đeo thì chẳng lâu sẽ có con.

Lại có Pháp. Hoặc người nữ chẳng được chồng kính trọng. Lấy một cái bình mới chứa đầy nước sạch. Ở trong bình bỏ 7 báu với các linh dược, ngữ cốc, hạt cải trắng. Dùng lụa màu cột cổ bình, dùng Chân Ngôn gia trì 108 biến rồi khiến người nữ kết Căn Bản Ấn đặt trên đỉnh đầu. Đem nước rưới đỉnh đầu liền được chồng thương yêu kính trọng. Chẳng những được kính trọng lại còn có con nữa, thai nhi được bền vững.

Lại có Pháp. Hành Giả mỗi lúc niệm tụng thời kết Đại Ấn tụng Chân Ngôn, ấn Tháp đủ 60 vạn biến thì việc mong cầu liền được đầy đủ. Quán Tự Tại Bồ Tát, Kim Cương Thủ Bồ Tát, Đa La Bồ Tát liền hiện thân khiến cho việc mong cầu được như ý. Hoặc vào trong cung A Tô La, hoặc được Bồ Tát Địa, hoặc được thuốc trường thọ, hoặc được thành tựu Pháp Kính Aùi.

Lại có Pháp. Ở Bồ Đề Đạo Trường, ở trước Đại Chế Để ( Mahà caitya_ Tháp miếu lớp ) tụng Đà La Ni này sẽ được thấy Thánh Tăng đến đàm Đạo và trao cho Tất Địa thành tựu, được đi chung với vị ấy liền được đồng với Thánh Tăng ấy.

Lại có Pháp. Ở trên đỉnh núi cao, niệm tụng một câu đê ( Koti_ 100 triệu) biến thì Kim Cương Thủ Bồ Tát cho người ấy lãnh 560 người cùng vào cung A Tô La, sống lâu một kiếp được thấy Di Lặc Bồ Tát, lắng nghe Chính Pháp. Nghe Pháp xong được Bồ Tát Địa, được Bất Thoái Chuyển.

Lại có Pháp. Phía trên núi Tỳ Bổ La có núi cao cũng được, ở trước Tượng Tháp có Xá Lợi tùy sức niệm tụng, đem hương hoa cúng dường. Khất thực để nuôi dưỡng thân mệnh. Từ ngày mồng một của tháng cho đến ngày 15 tụng Đà La Ni đủ 30 vạn biến. Chọn ngày mãn hạn ấy, một ngày một đêm chẳng ăn, cúng dường gấp đôi, đến đêm sau liền thấy Kim Cương Thủ Bồ Tát đem Hành Nhân vào trong cung của mình, vì Hành Giả hiển bày Môn A Tu La Quật ( Hang động của A Tu La ) vào trong hang được Thiên Diệu Cam Lộ , thọ ngang bằng mặt trời mặt trăng.

Lại có Pháp.Ở thềm báu của 3 Đạo từ cõi Trời xuống chỗ có Tháp báu. Hành Giả khất thực , nhiễu quanh, tụng một Câu Đê biến liền thấy Vô Năng Thắng Bồ Tát ( Aparajita Bodhisatva ) ban cho nguyện, vì người ấy nói Pháp màu nhiệm hiển bày Đạo Bồ Đề Vô Thượng. Hoặc thấy Ha Lợi Để Mẫu ( Hārtye Mātr _ Quỷ Tử Mẫu ) đem người ấy vào trong cung của mình cho thuốc sống lâu , trở lại thành trẻ nhỏ đoan chính đáng vui, đạt được phục tàng, đại nhân hứa khả, nên rộng làm lợi ích Tam Bảo, được tất cả Bồ Tát an ủi, hiển bày Chính Đạo cho đến Đạo Trường Bồ Đề.

Lại có Pháp. Nếu người trước kia không có căn lành, không có hạt giống Bồ Đề, vừa tụng một biến ắt sinh Pháp Thân Bồ Đề huống chi thường hay niệm tụng, yêu mến gìn giữ.

THẤT CÂU ĐÊ CHUẨN ĐỀ ĐÀ LA NI. NIỆM TỤNG NGHI QUỸ

Nếu có người tu tập Đà La Ni này cầu thành tựu. Trước tiên nên tắm gội, ặc áo sạch, điểm tô Đạo Trường, an trí Bản Tôn, tùy sức bày biện.

Pháp của Đạo Trường ấy nên chọn Thắng Địa, làm một cái Đàn rộng 4 khuỷu tay, đào sâu xuống 3 khuỷu tay. Trử bỏ gạch, ngói, đất ác, lông, tóc với xương cốt, tro, than, trùng, kiến…Lấy đất sạch tốt lấp đầy rồi nện chặt cho bằng phẳng. Khi đào xuống không có đất ác liền lấy đất cũ đổ lại và nện chặt. Nếu đất có dư, nên biết đất ấy là Đại Cát Tường, mau chóng thành tựu. Lấy đất dư, Cù Ma Di ( Phân trâu trắng ở núi Tuyết ) , nước thơm hòa với đất tốt làm bùng. Tụng Vô Năng Thắng Bồ Tát Chân Ngôn gia trì 21 biến, sau đó đắp Đàn. Đắp xong lấy 5 món tịnh hòa với nhau. Năm món tịnh là: Nước cốt của Cù Ma Di, Nước tiểu của trâu ( ? bò ) , lạc ( sữa chưng chín ) , nhũ ( sữa tươi ) , bơ. Dùng Vô Năng Thắng Chân Ngôn gia trì 108 biến, xong theo bên phải xoa tô khắp Đàn ấy.

Nếu ở trên đá núi kiến lập Đàn hoặc tại lầu gác hoặc ở trên thuyền, nơi Đắc Đạo của tất cả Hiền Thánh… thì chỉ dùng 5 món Tịnh xoa lau. Hành Giả ngồi hướng mặt về phương Đông, kết Vô Năng Thắng Ấn đè đất, tụng Chân Ngôn 7 biến gia trì chính giữa Đàn. Lại lấy các thuốc, 7 báu, ngũ cốc, mỗi thứ một chút phần. Chính giữa Đàn đào sâu xuống một khuỷu tay rồi bỏ các thuốc với 7 báu vào và lấy đất cũ lấp đầy, nện bằng phẳng.

Trị. Dùng tay phải đè xuống, tụng Địa Thiên Kệ 3 biến. Cảnh Giác Thiên Thần Kệ là:

Ngươi, Trời gần, hộ giúp

Nơi các Phật Đạo Sư

Tu hành Hạnh Thù Thắng

Tĩnh Địa Ba La Mật

Như phá chúng Ma Quân

Thích Sư Tử cứu đời

Ta cũng giáng phục Ma

Ta vẽ Man Trà La

Tụng Địa Thiên Chân Ngôn là:

“ Nẵng mạc tam mạn đa một đà nam. Tất-lị thể vi duệ, sa-phộc hạ”

NAMAH SAMANTA BUDDHĀNĀM_ PRTHIVÌYE _ SVĀHĀ

Tụng Kệ gia trì xong. Sau đó dùng Đàn Hương xoa tô 9 vị trí của Bậc Thánh như mặt trăng tròn. Đem vật cúng mới sạch : vàng, bạc, đồng đã tôi luyện, thương khư ( Vỏ ốc ) , bối ( vỏ sò ) , ngọc, đá, sành sứ, gỗ , vật khí mới… chứa các thức ăn uống với hương hoa tốt, đèn đuốc, nước thơm Ứ Già. Tùy sức mà sắp bày cúng dường.

Nếu Bồ Tát Tại Gia Xuất Gia cầu Thành Tựu. Mỗi lần vào Đạo Trường, trước tiên nên lễ Phật, Sám Hối, Tùy Hỷ, Khuyến Thỉnh , Phát Nguyện. Nên thề thọ Bồ Đề Tâm Giới. Chân Ngôn là:

“ Án_ Một địa chỉ đa mẫu đát-bả ná dạ nhĩ”

OM_ BODHICITTAM UTPĀDA YĀMI

Tâm Bồ Đề (Bodhicitta ) lìa tất cả Ngã Pháp. Mau lìa Uẩn, Xứ, Giới với lìa Năng Thủ, Sở Thủ. Nơi Pháp bình đẳng, Tự Tâm vốn chẳng sinh, Tự Tính trống rỗng . Như thời Quá khứ tất cả Phật Bồ Tát phát Tâm Bồ Đề, nay Ta cũng như vậy. Đây gọi là Tự Thệ Thọ Bồ Đề Tâm Giới. Do tụng một biến suy tư Thắng Nghĩa Đế đắc được vô lượng vô biên công đức Vô Vi trang nghiêm 3 nghiệp cho đến Bồ Đề Đạo Trường. Phước ấy không bị gián đoạn, mau diệt tất cả nghiệp chướng, mau được thành tựu Chân Ngôn, Bản Tôn hiện tiền như Hoa Nghiêm Nhập Pháp Giới Phẩm: Từ Thị Bồ Tát vì Thiện Tài Đồng Tử nói công đức của Tâm Bồ Đề.

Tự thệ thọ Bồ Đề Tâm Giới xong. Tùy ý ngồi Bán Già hay Toàn Già, thẳng thân nhắm mắt, liền kết Định Ấn. Tưởng trong Hư Không có Chuẩn Đề Phật Mẫu ( Cunõdhe Buddha Mātr ) với 7 câu đê ( 700 triệu ) Phật vây quanh tràn khắp hư không. Trong Định lễ tất cả chư Phật với Chuẩn Đề Phật Mẫu, sao đó dùng hương xoa tay, nên kết Khế Ấn.

Phật Bộ Tam Ma Gia Ấn: Chắp hai tay lại giữa trống rỗng ( Hư Tâm Hợp Chưởng ) mở 2 ngón trỏ co phụ cạnh lóng thứ nhất dưới móng 2 ngón giữa, 2 ngón cái đều phụ dưới gốc 2 ngón trỏ, liền thành. Để ngang trái tim, tụng Chân Ngôn 7 biến, tưởng Đức Như Lai có 32 tướng tốt 80 vẻ đẹp. Tướng tốt rõ ràng như đối trước mắt. Chân Ngôn là:

“ Án_ Đát tha nghiệt đô nạp-bà phộc dã, sa-phộc hạ”

OM_ TATHĀGATA UDBHAVĀYA _ SVĀHĀ

Do kết Ấn này tụng Chân Ngôn nên liền cảnh giác tất cả Như Lai đều sẽ hộ niệm gia trì Hành Giả, dùng ánh sáng chiếu chạm thì hết thảy tội chướng đều được tiêu diệt, mau tăng thọ mệnh, tăng trưởng Phước Tuệ, Thánh Chúng của Phật Bộ vui vẻ ủng hộ, đời đời kiếp kiếp lìa các nẻo ác, hóa sinh trong hoa sen, mau chứng Vô Thượng Chính Đẳng Bồ Đề.

Liên Hoa Bộ Tam Ma Gia Ấn: Chắp hai tay lại giữa trống rỗng. Mở bung 2 ngón trỏ, 2 ngón giữa, 2 ngón vô danh rồi co lại như hình hoa sen> Để Ấn ngang trái tim, tụng Chân Ngôn 7 biến. Tưởng Quán Tự Tại Bồ Tát có đầy đủ tướng tốt rồi bung Ấn bên phải đỉnh đầu. Chân Ngôn là:

“ Án_ Bả ná-mô nạp bà phộc dã, sa-phộc hạ”

OM_ PADMA UDBHAVĀYA _ SVĀHĀ

Do Kết Ấn này tụng Chân Ngôn liền cảnh giác Bậc cầm hoa sen của hàng Quán Tự Tại Bồ Tát. Ánh sáng của tất cả Bồ Tát chiếu chạm thì hết thảy nghiệp chướng thảy đều tiêu diệt, tất cả Bồ Tát thường làm bạn tốt.

Kim Cương Bộ Tam Ma Gia Ấn: Lật bàn tay trái hướng ra ngoài, đem lưng bàn tay phải để trên lưng bàn tay trái sao cho ngón cái, ngón trỏ của 2 tay trái phải đều trợ móc nhau. Tưởng Kim Cương Thủ Bồ Tát, tụng Chân Ngôn 7 biến rồi bung Ấn bên trái đỉnh đầu. Chân Ngôn là:

“ Án_ Phộc nhật-lô nạp bà phộc dã, sa-phộc hạ”

OM_ VAJRA UDBHAVĀYA _ SVĀHĀ

Do kết Ấn này với tụng Chân Ngôn nên liền cảnh giác tất cả Kim Cương Thánh Chúng gia trì ủng hộ, hết thảy tội chướng đều được tiêu diệt, tất cả bệnh khổ rốt ráo chẳng dính vào thân, thường được Thể Kim Cương bền chắc

Tiếp kết Đệ Nhị Căn Bản Ấn ( Dùng Hộ Thân ): Hai tay cùng cài chéo nhau bên ngoài, kèm dựng thẳng 2 ngón trỏ, 2 ngón cái, liền thành. Tụng Phật Mẫu Tâm Chân Ngôn, ấn 5 nơi trên thân là: vầng trán, vai phải, vai trái, trái tim, cổ họng rồi bung Ấn trên đỉnh đầu. Chân Ngôn là:

“ Án_ Ca ma lê, vĩ ma lê, chuẩn nê, sa-phộc hạ”

OM_ KAMALE VIMALE CUNÕDHE _ SVĀHĀ

Lúc kết Ấn Hộ Thân thời khởi Tâm Đại Bi duyên khắp 4 loài trong 6 nẻo. Nguyện cho tất cả Hữu Tình đều mặc áo giáp Đại Thệ Trang Nghiêm Kiên Cố Kim Cương, mau chứng Vô Thượng Chính Đẳng Bồ Đề.

Tiếp kết Địa Giới Quyết Ấn: Hai tay cùng cài chéo nhau bên trong. Dựng thẳng 2 ngón cái, 2 ngón trỏ, 2 ngón út đều hợp nhau. Co ngón trỏ trái như móc câu, rút kéo ngón cái 3 lần chỉ mặt đất ,liền thành. Một lần rút kéo thì tụng Chân Ngôn một lần. Chân Ngôn là:

“ Án_ Chuẩn nễ, nễ, chỉ la dã, sa-phộc hạ”

OM CUNDHE _ DHE _ KÌLĀYA _ SVĀHĀ

Do kết Ấn này tụng Chân Ngôn gia trì Địa Giới cho nên bên dưới đến Thủy Tế như Tòa Kim Cương. Thiên Ma với các loài gây chướng chẳng dám gây não hại, chỉ thêm chút công sức mà mau được thành tựu.

Người Trì Tụng tiếp nên ở trong Đàn. Tâm tưởng hoa sen lớn có 8 cánh, bên trên có Tòa Sư Tử. Trên Tòa có lầu gác báu rũ treo các Anh Lạc, lụa, phan, phướng, lọng, cột báu bày hàng, rũ treo áo khoác ngoài màu nhiệm ( Diệu Thiên Y). Chung quanh bày mây hương tuôn mưa đủ loại hoa, dâng tấu các kỹ nhạc, bình báu, Ứ Già, thức ăn uống màu nhiệm của cõi Trời, Ngọc Ma Ni làm đèn. Nếu không có Mạn Trà La thì chỉ quán tưởng ở trong hư không, liền thành. Tác quán này xong, niệm tụng Kệ là:

Dùng lực công đức Ta

Lực Như Lai gia trì

Cùng với lực Pháp Giới

Cúng dường khắp mà trụ

Tụng Kệ này xong, liền tụng Đại Hư Không Tạng Bồ Tát Chân Ngôn là:

“ Án_ Nga nga nẵng, tam bà phộc, phộc nhật-la, hộc”

OM_ GAGANA SAMBHAVA VAJRA HOH

Do tụng Chân Ngôn này gia trì nên tưởng vật cúng dường đều thành vật chân thật không khác, tất cả Thánh Chúng đều được thọ dụng.

Tiếp kết Bảo Xa Lạc Ấn: Hai tay cùng cài chéo nhau bên trong. Ngửa lòng bàn tay, đặt 2 ngón trỏ nằm ngang cùng trụ nhau, 2 ngón cái đều vịn dưới gốc ngón trỏ. Tưởng Xa Lạc 7 báu có Sứ Giả của Phật Bộ ngự nương chiếc xe 7 báu đó đi đến trong cung điện của Tỳ Lô Giá Na Phật ở cung Trời A Ca Ni Tra ( Sắc Cứu Cánh Thiên ) trên đỉnh của cõi Sắc, tụng Chân Ngôn 7 biến. Chân Ngôn là:

“ Án_ Đổ lỗ, đổ lỗ, hồng”

OM_ TURU TURU HŪM

Do tụng Chân Ngôn kết Ấn gia trì nên Xa Lạc 7 báu đi đến đỉnh Sắc Giới. Phật Mẫu Chuẩn Đề với 8 vị Đại Bồ Tát và các Thánh Chúng quyến thuộc vây quanh ngồi trên Xa Lạc 7 báu đó.

Tiếp kết Thỉnh Xa Lạc Ấn: Dựa treo Ấn trước, đem ngón cái hướng về thân, bạt ngón giữa liền thành.Tụng Chân Ngôn 7 biến. Chân Ngôn là:

“ Nẵng mạc tất-để-lị dã địa-vĩ ca nam, đát tha nghiệt đa nam. Án_ Phộc nhật-lãng nghĩ yết lị-sái dã, sa-phộc hạ”

NAMAH STRIDHVIKANĀM _ TATHĀGATĀNĀM

OM_ VAJRĀMGNI AKARSĀYA _ SVĀHĀ

Do tụng Chân Ngôn gia trì cho nên Thánh Chúng từ Bản Thổ đi đến Đạo Trường, trụ ở hư không.

Tiếp kết Bản Tôn Ấn: Từ Xa Lạc giáng hạ xuống Đạo Trường. Dựa theo Căn Bản Ấn thứ nhất lúc trước, đem 2 ngón cái hướng về thân triệu mời, tụng Chân Ngôn 3 biến. Chân Ngôn là:

“ Án_ Giả lễ, chủ lễ, chuẩn nê, ê hế duệ tứ, bà nga phộc để, sa-phộc hạ”

OM_ CALE CULE CUNÕDHE _ EHYEHI BHAGAVATI _ SVĀHĀ

Tiếp kết Vô Năng Thắng Bồ Tát Ấn tịch trừ loài gây chướng. Hai tay, bên phải đè bên trái, cài chéo bên trong rồi nắm quyền. Dựng 2 ngón giữa sao cho đầu ngón hợp nhau, liền thành. Nhiễu thân xoay 3 vòng bên trái, tác suy tư là:” Hết thảy loài gây chướng, Tỳ Na Dạ Ca, các Quỷ Thần ác hãy mau chạy đi. Nơi Thánh Chúng đến chẳng vượt qua Bản Tam Ma Gia Đại Bi mà trụ. Nguyện xin gia hộ”.

“ Nẵng mạc tam mãn đa bột đà nam. Án_ Hộ lỗ, hộ lỗ, chiến noa lý, ma đắng kỳ, sa-phộc hạ”

NAMAH SAMANTA BUDDHÀNÀM _ OM HURU HURU CANDARI MATANÕGI _ SVĀHĀ

Tiếp kết Tường Giới Ấn: Dựa theo Địa Giới Ấn lúc trước. Co ngón trỏ phải, giương ngón trỏ trái, xoay theo bên phải 3 vòng, tùy Tâm gần xa, liền thành bức tường kiên cố. Chư Phật Bồ Tát còn chẳng trái vượt huống chi các loài khó điều phục khác, Tỳ Na Dạ ca với trùng độc, loài có nanh vuốt chẳng thể tiếp cận được. Chân Ngôn là:

“ Án_ Chuẩn nễ, ninh, bát-la ca la gia, sa-phộc hạ”

OM CUNÕDHE _ DHE _ PRAKARĀYA _ SVĀHĀ

Tiếp kết Thượng Phương Võng Giới Ấn: Dựa theo Tường Giới Ấn lúc trước. Giương ngón trỏ trái, bên phải đè bên trái, sao cho lóng giữa giao nhau, liền thành. Tụng Chân Ngôn này 3 biến. Chân Ngôn là:

“ Án_ Chuẩn nễ, ninh, bán nhạ la, sa-phộc hạ”

OM CUNÕDHE _ DHE _ PAMJALA _ SVĀHĀ

Tiếp kết Hỏa Viện Mật Phúng Ấn: Đem tay trái che đậy tay phải sao cho lưng bàn tay trùng nhau, dựng thẳng 2 ngón cái , liền thành. Tụng Chân Ngôn 3 biến, xoay theo bên phải 3 vòng, tưởng bên ngoài bức tường Kim Cương có lửa Kim Cương vây quanh. Chân Ngôn là:

“ Án_ A tam mãng nghĩ nễ, hồng, phát tra”

OM_ ASAMĀMGNI HŪM PHAT

Do kết Ấn này tụng Chân Ngôn thành Đại Kết Hộ Mật Phúng, chẳng bị các Ma nhập vào.

Tiếp kết Ứ Già Ấn: Hai tay cài chéo nhau bên trong, dựng 2 ngón giữa dính nhau, đem 2 ngón trỏ vịnlưng 2 ngón giữa, cạnh bên của 2 ngón cái phụ gốc 2 ngón trỏ, liền thành Căn Bản Ấn. Dựa theo Căn Bản Ấn lúc trước, hơi co 2 ngón cái vào lòng bàn tay liền thành Ứ Già Ấn, tụng Chân Ngôn 3 biến. Chân Ngôn là:

“ Án_ Giả lễ, chủ lễ, chuẩn nê, át kiềm, bát-la để sai, bà nga phộc để, sa-phộc hạ”

OM_ CALE CULE CUNÕDHE _ ĀRGHĀM PRATICCHA BHAGAVATI _ SVĀHĀ

Hành Giả suy tư Thánh Chúng mỗi mỗi rõ ràng. Tưởng thân của mình ở dưới chân của chư Phật, Thánh Chúng. Tay cầm bình Ứ Già 7 báu chứa đầy nước thơm, rửa chân Thánh Chúng. Do hiến nước thơm Ứ Già cho nên 3 nghiệp của Hành Giả được thanh tịnh, tẩy sạch vết nhơ phiền não, tiêu diệt nghiệp chướng.

Tiếp kết Liên Hoa Tòa Ấn: Dựa theo Căn Bản Ấn lúc trước, kèm 2 ngón cái hướng về thân dựng thẳng. Vận tưởng từ Ấn này tuôn ra vô lượng Tòa Sư Tử phụng hiến tất cả Thánh Chúng, các Thánh Chúng ấy mỗi mỗi đều ngồi. Chân Ngôn là:

“ Án_ Ca ma la, sa-phộc hạ”

OM_ KAMALA _ SVĀHĀ

Do kết Tòa Ấn tụng Chân Ngôn phụng hiến Thánh Chúng cho nên Hành Giả sẽ mau được mãn túc 10 Địa, được Tòa Kim Cương.

Tiếp kết Táo Dục Ấn: Dựa theo Căn Bản Ấn lúc trước, đem 2 đầu ngón cái vịn lóng giữa của 2 ngón giữa, liền thành. Tụng Chân Ngôn 3 biến. Chân Ngôn là:

“ Án_ Giả, sa-phộc hạ”

OM _ CA _ SVĀHĀ

Tưởng từ Ấn này tuôn ra vô lượng ánh sáng, mỗi một đường ánh sáng có vô lượng Hiền Bình 7 báu, tưởng đầy tràn nước thơm màu nhiệm của cõi Trời rưới rót tắm rửa tất cả Thánh Chúng. Lại tưởng trong hư không có vô lượng âm nhạc của cõi Trời cúng dường Bản Tôn, các Phật Bồ Tát, tất cả Thánh Chúng.

Do kết Ấn này tụng Chân Ngôn cho nên chẳng lâu Hành Giả sẽ chứng Pháp Vân Địa.

Tiếp kết Đồ Hương Ấn:Dựa theo Căn Bản Ấn lúc trước, đem 2 ngón cái nắm dính lóng dưới của ngón trỏ phải, liền thành. Tụng Chân Ngôn 3 biến. Chân Ngôn là:

“ Án_ Lễ, sa-phộc hạ”

OM_ LE _ SVĀHĀ

Tưởng từ Ấn này tuôn ra vô lượng ánh sáng, mỗi một đường ánh sáng có vô lượng mây biển hương bột, dầu thơm màu nhiệm của cõi Trời cúng dường Bản Tôn, Chư Phật Bồ Tát, tất cả Thánh Chúng.

Do kết Ấn tụng Chân Ngôn cho nên sẽ chứng Hương Giới, Định , Tuệ, Giải Thoát, Giải Thoát Tri Kiến của tất cả Như Lai.

Tiếp kết Hoa Ấn: Dựa theo Căn Bản Ấn lúc trước, đem 2 ngón cái nắm dính lóng dưới của ngón trỏ trái, liền thành. Tụng Chân Ngôn 3 biến. Chân Ngôn là:

“ Án_ Chủ, sa-phộc hạ”

OM_ CU _ SVĀHĀ

Tưởng từ Ấn này tuôn ra vô lượng ánh sáng, mỗi một đường ánh sáng có vô lượng mây biển hoa màu nhiệm của cõi Trời cúng dường Bản Tôn, chư Phật Bồ Tát, tất cả Thánh Chúng.

Do kết Ấn này tụng Chân Ngôn cho nên sẽ được thành tựu Đại Từ Tam Ma Địa, hay lợi lạc cho vô biên chúng sinh, thân chẳng dính các tai nạn.

Tiếp kết: Thiêu Hương Ấn Dựa theo Căn Bản Ấn lúc trước, co ngón trỏ phải vịn đầu 2 ngón cái, liền thành. Tụng Chân Ngôn 3 biến. Chân Ngôn là:

“ Án_ Lễ, sa-phộc hạ”

OM_ LE _ SVĀHĀ

Tưởng từ Ấn này tuôn ra vô lượng ánh sáng, mỗi một đường ánh sáng có vô lượng hòa hợp câu sinh mây biển hương đốt màu nhiệm của cõi Trời cúng dường Bản Tôn, các Thánh Chúng.

Do kết Ấn này tụng Chân Ngôn cho nên sẽ được thành tựu Phổ Mãn Pháp Giới Tam Ma Địa.

Tiếp kết Aåm Thực Ấn: Dựa theo Căn Bản Ấn lúc trước, đem ngón trỏ trái vịn đầu 2 ngón cái, liền thành. Tụng Chân Ngôn 3 biến. Chân Ngôn là:

“ Án_ Chuẩn, sa-phộc hạ”

OM_ CUNÕ _ SVĀHĀ

Tưởng từ Ấn này tuôn ra vô lượng ánh sáng, mỗi một đường ánh sáng có vô lượng mây biển mọi thức ăn uống màu nhiệm của cõi Trời cúng dường Bản Tôn, chư Phật Bồ Tát, tất cả Thánh Chúng sẽ được thành tựu Pháp Hỷ Thiền Duyệt Thực Tam Giải Thoát Tối Thắng Vị Tam Ma Địa.

Tiếp kết Đăng Ấn: Dựa theo Căn Bản Ấn lúc trước, đem 2 ngón trỏ vịn đầu 2 ngón cái, liền thành. Tụng Chân Ngôn 3 biến. Chân Ngôn là:

“ Án_ Nê, sa-phộc hạ”

OM _ DHE _ SVĀHĀ

Tưởng từ Ấn này tuôn ra vô lượng ánh sáng, mỗi một đường ánh sáng có vô lượng mây biển mọi loại đèn đuốc 7 báu màu nhiệm của cõi Trời cúng dường Bản Tôn, chư Phật Bồ Tát, tất cả Thánh Chúng sẽ được Bát Nhã Ba La Mật Quang Minh Ngũ Nhãn Thanh Tịnh.

Tiếp tụng Tán Thán:

A phộc đát la tả đổ la-ná xá la-đà , sa-ma la , lị bổ cú trí, bát-la noa ma bả ná vĩ tứ đế. A giả lễ đát tai sa lị tố nễ, tổ lễ tất đình, tư chuẩn nê tát-la muộn để nam. Sa phộc xả ma nễ, sa-phộc hãn đế , tát phả-la noa phệ.

Đát-nễ dã tha: Ngật-lệ la noa nghiệt đế. A vĩ nễ đa tát đát-phộc, ná ma nãnh-la cức na lộ ca đát-la dã, la-tha ca lợi la ngật-đa la-vĩ na thú tị nãnh bá đát-la , ca la đạc ngật-sử nãnh, sa-phổ châm tất-thể đát-phộc. Chuẩn đề đa ma la-tham sắt-châm lý khư, nhạ nẵng nẵng, na nễ để, ma đế, nẵng phả-la nẵng phả-la , khố-vũ địa lệ la thủy lê dã. Tát-đát phạm, đế la nhĩ-diễm nhạ bế đát-mẫu nãnh, mạo nễ, phộc nhật-lị, đảm chỉ la đà niệm , tố la tị bổ bà phộc nam. Phả-la phệ xả dã để.

A lị-dã phộc lộ chỉ đế , bá tất đình, để nặc tăng xả gian, tát đát đa nhạ bả đa nẵng tất-để tát-đát-phạm. Nẵng na ná nhạ nghiệt để khẩn chỉ nễ-dã, yết-để tỳ-dược. Nhất để sa ca la bả phả nẵng xá ninh, bà nga phộc để, phả xỉ đa ma đát-la tất địa. Ca lị , bố la dã, ma nỗ la tham minh cức ná để nẵng đát-phạm, sa-ma lãm ca thất-tử đa.

Bà nga phộc để, chuẩn nê đà la ni, tát-đố đát-la tát ma phả-đa.

Tiếp nói Bản Tôn Đà La Ni Bố Tự Pháp

Từ đỉnh đầu cho đến chân, quán mỗi một chữ của Chân Ngôn cong quẹo rõ ràng tuôn ra ánh sáng chiếu soi Hữu Tình luân hồi theo 4 cách sinh trong 6 nẻo, khởi sâu lòng thương xót ban cho an vui.

Dùng 9 chữ của Đà La Ni an bày nơi thân của Hành Giả, liền thành. Dùng Như Lai Ấn, 8 vị Đại Bồ Tát làm nơi gia trì thân.

Nếu tác Tức Tai ( ‘Sàntika ) , Tăng Ích ( Pustika ) , Kính Aùi ( Va’sikarana), Giáng Phục ( Abhicàruka ) .Tùy theo 4 loại Pháp là màu trắng, màu vàng, màu đen, màu đỏ để thành biện Tất Địa.

Liền kết Bố Tự Ấn: Hai tay cài chéo nhau bên trong. Dựng thẳng 2 ngón cái, 2 ngón trỏ, 2 ngón út cùng hợp nhau liền thành.

Tưởng chữ Án ( _OM ) đặt ở đỉnh đầu, dùng ngón cái chạm trên đầu

Tưởng chữ Giả ( _JA ? _ CA ) lại dùng ngón cái chạm trên mắt phải mắt trái

Tưởng chữ Lễ ( _ LE ) an ở trên cổ, dùng ngón cái chạm vào

Tưởng chữ Chuû ( _CO ? _CU ) ngang trái tim, dùng ngón cái chạm vào

Tưởng chữ Lễ ( _LE ) an ở vai trái, vai phải. Dùng ngón cái chạm vào

Tưởng chữ Chuẩn ( _CA ? _ CUNÕ )an ở trên rốn, dùng ngón cái chạm vào

Tưởng chữ Neâ ( _NDE ? _DHE ) an trên đùi phải, đùi trái. Dùng ngón út chạm vào.

Tưởng chữ Sa-phộc ( _ SVÀ ) an ở bắp chân phải, bắp chân trái. Dùng ngón út chạm vào.

Tưởng chữ Ha ( _ HĀ ) an trên lòng bàn chân phải, lòng bàn chân trái. Dùng ngón út chạm vào.

Do tưởng bày Chân Ngôn kết Ấn gia trì cho nên thân của Hành Giả liền thành thân của Chuẩn Nê Phật Mẫu, tiêu diệt tất cả nghiệp chướng, gom chứa vô lượng phước đức cát tường. Thân ấy thành thể Kim Cương Bất Hoại.

Nếu thường chuyên chú Quán Hạnh thì tất cả Tất Địa đều được hiện tiền, mau chứng Vô Thượng Chính Đẳng Bồ Đề.

Tiếp kết Căn Bản Ấn, tụng Căn Bản Chân Ngôn 7 biến rồi bung Ấn trên đỉnh đầu.

Liền lấy đủ 108 hạt Bồ Đề, y theo Pháp xâu xỏ thành tràng hạt. Liền lấy dầu thơm xoa bôi trên tràng hạt ấy. Dùng 2 tay nâng tràng hạt ngang trái tim, tụng Chân Ngôn 7 biến gia trì tràng hạt. Chân Ngôn là:

“ Án_ Vĩ lô giả na, ma la, sa-phộc hạ”

OM_ VAIROCANA AMALA _ SVĀHĀ

Gia trì đội trên đỉnh đầu. Tâm miệng tác lời Nguyện là:” Nay con muốn niệm tụng. Nguyện xin Bản Tôn , chư Phật Bồ Tát gia trì hộ niệm. Nguyện khiến cho mau được tùy ý viên mãn Tất Địa mong cầu”

Sau đó dùng ngón vô danh , ngón cái của tay trái đỡ tràng hạt. Dùng ngón cái, ngón vô danh của tay phải lần dời hạt châu. Tay có tướng như Thuyết Pháp đặt ở trước trái tim, cầm tràng hạt niệm tụng. Tiếng niệm ấy chẳng chậm chẳng gấp. Quán thân của mình đồng với thân của Bản Tôn với đầy đủ tướng tốt.

Lại ở trước thân, trong Đàn quán tưởng Thất Câu Chi Phật Mẫu với quyến thuộc vây quanh, mỗi mỗi rõ ràng đối diện chỗ ngồi của mình. Mỗi lần xưng shữ Sa-phộc ha ( SVĀHĀ ) đồng thời lần dời một hạt. Hoặc 108, hoặc 1080 làm biến số niệm tụng, thường nên có hạn định. Nếu chẳng mãn 108 biến tức chẳng đủ cầu biến số của Tất Địa.

Niệm tụng xong rồi. Cầm tràng hạt ở trong lòng bàn tay đưa lên đỉnh đầu đội rồi phát nguyện. Tác lời Nguyện là:” Dùng công đức niệm tụng của con, tất cả chúng sinh đã tu Hạnh Chân Ngôn cầu Tất Địa Thượng, Trung, Hạ sẽ mau được thành tựu”. Xong rồi đặt tràng hạt vào trong cái hộp.

Liền kết Định Ấn, thân ngay thẳng, nhắm mắt, lắng Tâm, định Ý. Nên ở trong thân, ngay ức ngực tỏa hiện ánh sáng tròn trịa ( Viên Minh ) như trăng tròn sáng rực rỡ, khởi đại tinh tiến, quyết định thủ chứng. Nếu chẳng lười biếng mà chuyên công ắt sẽ được Tâm thanh tĩnh của cội nguồn.

Ở trong Viên Minh , tưởng chữ Án, 8 chữ còn lại chuyển theo bên phải an bày trên viên minh. Ở trong Định cần thấy chữ của Chân Ngôn rõ ràng chẳng tán động sẽ được Định tức tương ứng với Bát Nhã Ba La Mật. Liền vẽ Viên Minh Nguyệt Luân

Tiếp nên suy tư về nghĩa của Tự Mẫu Chủng Tử

Chữ Án ( _ OM ) nghĩa là 3 Thân, cũng có nghĩa là tất cả Pháp vốn chẳng sinh

Chữ Giả ( _ CA ) nghĩa là tất cả Pháp chẳng sinh chẳng diệt

Chữ Lễ ( _LE ) nghĩa là tất cả Pháp Tướng không có sở đắc

Chữ Chuû ( _CO ? _CU ) nghĩa là tất cả Pháp không có sinh diệt

Chữ Lễ ( _LE ) nghĩa là tất cả Pháp không có dơ bẩn ( vô cấu )

Chữ Chuẩn ( _CU ? _ CUNÕ ) nghĩa là tất cả Pháp không có Đẳng Giác ( Vô Đẳng Giác )

Chữ Neâ ( _NDE ? _DHE ) nghĩa là tất cả Pháp không có lấy bỏ (Vô thủ xả )

Chữ Sa-phộc ( _ SVÀ ) nghĩa là tất cả Pháp bình đẳng không có ngôn thuyết

Chữ Ha ( _ HÀ ) nghĩa là tất cả Pháp không có Nhân ( vô nhân )

Do tất cả Pháp vốn chẳng sinh nên liền được chẳng sinh chẳng diệt

Do chẳng sinh chẳng diệt nên liền được tướng không có sở đắc

Do tướng không có sở đắc nên liền được không có sinh diệt

Do không có sinh diệt nên liền được không có dơ bẩn

Do không có dơ bẩn nên liền được không có Đẳng Giác

Do không có Đẳng Giác nên liền được không có lấy bỏ

Do không có lấy bỏ nên liền được bình đẳng không có ngôn thuyết

Do bình đẳng không có ngôn thuyết nên liền được không có Nhân không có Quả, tương ứng Bát Nhã không có sở đắc dùng làm phương tiện nhập vào Thắng Nghĩa, chân thật chứng Pháp Giới Chân Như.

Dùng đây làm Tam Ma Địa Niệm Tụng

Xong rồi nên kết Căn Bản Ấn

Tiếp nên kết Táo Dục Ấn

Tiếp kết Ngũ Cúng Dường Ấn

Tiếp tụng Tán Thán hiến Ứ Già

Tiếp kết A Tam Ma Nghĩ-nễ Ấn ( Asamàmgni Mudra ) chuyển bên trái một vòng giải Giới.

Tiếp kết Bảo Xa Lạc Ấn. Đem ngón cái hướng ra ngoài bật đầu ngón giữa Phụng Tống Thánh Giả quay về Bản Cung. Phụng Tống Chân Ngôn là:

“Án_ Giả lễ, chủ lễ, chuẩn nê, nghiệt xa nghiệt xa, bà nga phộc để, sa-phộc bà phộc nam, bố ná la nga ma na dã, sa-phộc hạ”

OM_ CALE CULE CUNÕDHE _ GACCHA GACCHA BHAGAVATI SVABHĀVĀNĀM BUDDHA ĀRGHA MANĀYA _ SVĀHĀ

Tiếp kết 3 Bộ Tam Ma Gia Ấn, đều tụng Chân Ngôn, nhiễu một lần lễ Phật. Như trước Sám Hối, Tùy Hỷ, Khuyến Thỉnh, Phát Nguyện, Hồi Hướng Vô Thượng Bồ Đề, tùy ý kinh hành, chuyển đọc Kinh Điển Đại Thừa : Hoa Nghiêm, Đại Bát Nhã Kinh… ấn Tháp Tượng, tắm rửa Xá Lợi. Xoay quanh theo bên phải nghĩ 6 Niệm, dùng nhóm Phước hồi hướng Tất Địa mà mình mong cầu.

Tiếp nói về 4 loại Pháp:Tức Tai, Tăng Ích, Kính Aùi, Điều Phục

Pháp Phiến Để Ca ( ‘Sàntika ) : Cầu diệt tội, chuyển chướng, trừ tai họa. Quỷ Mỵ, bệnh tật, tù cấm, gông cùm, dịch bệnh, quốc nạn, mưa nắng không đều, sâu trùng làm tổn hoại lúa non, 5 Tinh ( Tinh Tú ) xâm bức Bản Mệnh… thảy đều trừ diệt, giải thoát phiền não. Đây gọi là Pháp Tức Tai.

Lúc tác Pháp này thời mặc áo trắng, hướng mặt về phương Bắc, chéo ống chân dựng đầu gối ngồi theo thế Cát Tường. Quán Bản Tôn màu trắng. Cúng dường thức ăn uống, quả trái, hương hoa, đèn đuốc, đất… thảy đều màu trắng. Từ mồng một của tháng đến ngày mồng 8 . Mỗi ngày 3 Thời niệm tụng, ban đêm làm Hộ Ma . Tức Tai Chân Ngôn là:

“ Án_ Giả lễ, chủ lễ, chuẩn nê ( Khiến cho con tên….Nếu vì người khác thì niệm tụng xưng tên của người ấy ) , phiến để , củ lỗ, sa-phộc hạ”

OM_ CALE CULE CUNÕDHE ( Khiến cho con …. ) ‘SĀNTIM KURU _ SVĀHĀ

Pháp Bổ Sắt Trưng Ca ( Pustika ) : Cầu diên mệnh ( sống lâu ) quan vinh, phục tàng, quan sang, thông tuệ, nghe giữ chẳng quên, thành tựu Pháp Thuốc, thành tựu chày Kim Cương… Hoặc làm hình của loài sư tử, voi, ngựa. Dùng Chân Ngôn gia trì hiện 3 tướng. Tùy mong cầu Thượng, Trung, Hạ sẽ được Quả như Tất Địa rộng nói.Muốn cầu Trì Minh Tiên, vào hang A Tô La với cầu vào hang của các Quỷ Thần trong 8 Bộ đều được, chứng địa vị thần thông, cầu 2 loại tư lương sẽ được đầy đủ, mau thành Vô Thượng Bồ Đề. Đây gọi là Pháp Tăng Ích.

Lúc tác Pháp này thời thân mặc áo vàng, hướng mặt về phương Đông, ngồi Kiết Già. Quán Bản Tôn màu vàng. Cúng dường hương hoa, thức ăn uống, quả trái, đèn đuốc, đất… thảy đều màu vàng. Từ ngày mồng 8 của tháng đến ngày 15. Mỗi ngày 3 Thời niệm tụng, ban đêm làm Hộ Ma. Chân Ngôn là:

“ Án_ Giả lễ, chủ lễ, chuẩn nê ( Khiến cho con… ) Bổ sắt trưng, củ lỗ, sa-phộc hạ”

OM _ CALE CULE CUNÕDHE ( Khiến cho con… ) PUSTIM KURU _ SVĀHĀ

Pháp Phạt Thí Ca La Noa ( Va’sikarana ). Nếu muốn khiến cho tất cả người nhìn thấy phát Tâm vui vẻ. Nhiếp phục câu triệu hoặc nam hoặc nữ, 8 Bộ Trời Rồng, nữ Dược Xoa với nhiếp phục Quỷ Thần khó giáng phục hoặc kẻ oán địch gây ra việc chẳng nhiêu ích đều khiến cho hồi tâm vui vẻ, chư Phật hộ niệm gia trì. Đây gọi là Pháp Nhiếp Triệu Kính Aùi.

Người tác Pháp này. Thân mặc áo đỏ, hướng mặt về phương Tây, dựng 2 đầu gối kèm ống chân ngồi theo thế Hiền Tọa. Quán Bản Tôn với chỗ cúng dường, hương hoa, thức ăn uống, quả trái, đèn đuốc, đất… đều là màu đỏ. Từ ngày 16 đến ngày 23. Mỗi ngày 3 Thời niệm tụng, ban đêm tác Hộ Ma. Nhiếp Triệu Chân Ngôn là:

“ Án_ Giả lễ, chủ lễ, chuẩn nê ( Khiến cho con… ) phộc thí , củ lỗ, sa-phộc hạ”

OM_ CALE CULE CUNÕDHE ( Khiến cho con…. ) VA’SI KURU _ SVĀHĀ

Pháp A Tỳ Già Lỗ Ca ( Abhicàruka ) : Phạm 5 tội Vô Gián, phỉ báng Đại Thừa Phương Quảng, giết hại Phật Tính, bội nghịch Quân Chủ, rối loạn Chính Pháp… Đối với người như vậy, khởi sâu Bi Mẫn nên tác Pháp Giáng Phục.

Lấy phân lừa hoặc phân lạc đà, hoặc tro thiêu xác… đem dùng xoa tô Đàn. Lúc tác Pháp này thời thân mặc áo đen hoặc áo xanh, hướng mặt về phương Nam, ống chân trái đè ống chân phải ngồi theo thế Tông Cứ Tọa ( Ngồi xổm ) . Quán Bản Tôn màu đen. Lấy hoa màu đen hay màu xanh có mùi hôi thối không có mùi thơm cúng dường. Nơi cúng dường, thức ăn uống, hương hoa, quả trái, đèn đuốc, đất… đều là màu đen hoặc màu xanh. Từ ngày 23 của tháng cho đến ngày cuối tháng. Chọn 2 thời niệm tụng là giờ Ngọ và nửa đêm ( giờ Tý ) , ban đêm tác Hộ Ma.Chân Ngôn là:

“ Hồng, giả lễ, chủ lễ, chuẩn nê ( Khiến cho con….. ) phá-la nẫm, già đa gia, hồng, phát tra”

HŪM CALE CULE CUNÕDHE ( Khiến cho con…. ) PRANĀM JATĀYA _ SVĀHĀ

Tiếp nói Pháp vẽ Tượng Chuẩn Nê Phật Mẫu:

Lấy một mảnh lụa trắng chưa bị cắt. Loại bỏ lông, tóc rồi treo ở bức tường sạch. Trước tiên nên xoa tô Đàn. Tùy sức đem Ứ Già, thức ăn uống mà cúng dường. Họa Sư nên thọ 8 Giới Trai trong sạch vẽ Tượng. Trong thái sắc ấy đừng dùng keo nấu bằng da thú, điều phối màu sắc trong vật khí mới. Nên vẽ Tượng Chuẩn Đề Phật Mẫu với thân màu trắng vàng, ngồi Kiết Già trên hoa sen, thân tỏa hào quang tròn có dính hạt thóc nhẹ như áo của 10 Ba La Mật Bồ Tát, phía trên bên dưới đều tác màu trắng. Lại góc áo khoác ngoài ( Thiên Y ) có quấn anh Lạc, đội Mão Trời, cánh tay đều đeo vòng xuyến. Đàn Tuệ ( 2 bàn tay ) đều đeo vòng báu. Mặt Tượng ấy có 3 mắt, 18 cánh tay.

Hai tay bên trên tác tướng Thuyết Pháp

Bên phải: Tay thứ hai tác Thí Vô Úy, tay thứ ba cầm cây Kiếm, tay thứ tư cầm vòng hoa báu, lòng bàn tay thứ năm cầm Cụ Duyên Quả, tay thứ sáu cầm cây Búa, tay thứ bảy cầm Móc Câu, tay thứ tám cầm chày Kim Cương, tay thứ chín cầm Tràng Hạt.

Bên trái: Tay thứ hai cầm cây Phướng báu Như Ý, tay thứ ba cầm Hoa Sen hồng hé nở, tay thứ tư cầm Quân Trì, tay thứ năm cầm Sợi Dây, tay thứ sáu cầm Bánh Xe, tay thứ bảy cầm Thương Khư (‘Sanõkha_Vỏ ốc ) , tay thứ tám cầm Hiền Bình, tay thứ chín cầm rương Kinh Bát Nhã.

Bên dưới hoa sen vẽ ao nước. Trong ao có Long Vương Nan Đà ( Nanda Nāga rāja ) , Long Vương Ổ Ba Nan Đà ( Upananda Nāga rāja ) nâng tòa hoa sen.

Bên trái vẽ người Trì Minh , tay cầm lò hương chiêm ngưỡng Thánh Giả. Chuẩn Đề Phật Mẫu thương xót người Trì Minh, hướng mắt nhìn xuống.

Bên trên vẽ 2 vị Tĩnh Cư Thiên Tử, một vị tên là Cụ Sách Đà Thiên Tử, tay cầm vòng hoa hướng xuống dưới, nương theo trên hư không đến cúng dướng Thánh Giả.

Vẽ Tượng xong. Tùy sức Tăng Thứ, thỉnh 7 vị Tăng cúng dường, bày ánh hào quang, chú nguyện, tán thán.

Ở bên dưới Tượng vẽ bài Kệ Pháp Thân Duyên Khởi. Rồi đem Tượng để ở Tinh Thất, bí mật cúng dường. Dùng lụa phủ kín Tượng, lúc niệm tụng thì bỏ mảnh lụa che ra, chiêm lễ cúng dường. Niệm tụng xong lại dùng lụa che kín không cho người khác thấy. Tại sao thế ? Vì theo Thầy thọ Pháp Nghi Quỹ vẽ Tượng, nếu truyền cho người xem Tượng thì Ma kia được dịp thuận tiện gây rối, nên phải giữ bí mật.