Kinh Phật Thuyết Phật Mẫu Xuất Sinh Tam Pháp Tạng Bát Nhã Ba La Mật Đa
Tống Thi Hộ dịch
Bản Việt dịch của Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
***
Phẩm 02: Thiên Đế Thích
Phẩm 03: Bảo Tháp Công Đức
Phẩm 03: Bảo Tháp Công Đức
Phẩm 04: Xưng Tán Công Đức
Phẩm 05: Chánh Phước
Phẩm 05: Chánh Phước
Phẩm 06: Tùy Hỷ Hồi Hướng
Phẩm 07: Duyên Địa Ngục
Phẩm 07: Duyên Địa Ngục
Phẩm 08: Thanh Tịnh
Phẩm 09: Thán Thắng
Phẩm 09: Thán Thắng
Phẩm 10: Tán Trì
Phẩm 11: Ma Chướng
Phẩm 11: Ma Chướng
Phẩm 12: Hiển Bày Thế Gian
Phẩm 13: Không Thể Nghĩ Bàn
Phẩm 13: Không Thể Nghĩ Bàn
Phẩm 14: Thí Dụ
Phẩm 15: Thánh Hiền
Phẩm 15: Thánh Hiền
Phẩm 16: Chân Như
Phẩm 17: Tướng Bồ Tát Không Thối Chuyển
Phẩm 17: Tướng Bồ Tát Không Thối Chuyển
Phẩm 18: Tánh Không
Phẩm 19: Nghĩa Thâm Diệu
Phẩm 19: Nghĩa Thâm Diệu
Phẩm 20: Phương Tiện Thiện Xảo
Phẩm 21: Nói Rõ Về Ma Tướng
Phẩm 21: Nói Rõ Về Ma Tướng
Phẩm 22: Thiện Tri Thức
Phẩm 23: Thiên Chủ Đế Thích Tán Thán
Phẩm 23: Thiên Chủ Đế Thích Tán Thán
Phẩm 24: Tăng Thượng Mạn
Phẩm 25: Học
Phẩm 25: Học
Phẩm 26: Hiển Dụ
Phẩm 27: Nghĩa Kiên Cố
Phẩm 27: Nghĩa Kiên Cố
Phẩm 28: Nhân Duyên Tán Hoa
Phẩm 29: Tùy Tri
Phẩm 29: Tùy Tri
Phẩm 30: Bồ Tát Thường Đề
Phẩm 31: Bồ Tát Pháp Thượng
Phẩm 2: THIÊN ĐẾ THÍCH
Bấy giờ, Đế Thích cùng với bốn ngàn chư Thiên đồng đến đại hội, cũng có Tứ Thiên vương cùng với hai mươi ngàn quyến thuộc, Đại Phạm Thiên vương cùng với mười ngàn Phạm chúng đến dự, lại có vua cõi trời Tịnh cư cùng một ngàn quyến thuộc đến dự. Tất cả đều đi đến dự hội, các vua trời kia tuy cũng có hào quang do tu tập nghiệp lành, nhưng oai thần hào quang của Phật vượt hẳn nên khiến cho hào quang của chư Thiên không có thấy rõ được.
Khi ấy, Đế Thích thưa Tôn giả Tu-bồ-đề:
–Chư Thiên chúng tôi cho đến Phạm chúng, tất cả nhóm lại và đều ưa muốn nghe pháp. Thưa Tôn giả, xin Tôn giả vì Đại Bồ-tát mà giảng nói về Bát-nhã ba-la-mật-đa. Bồ-tát an trụ cách nào? Tu tập làm sao? Và tương ưng như thế nào?
Tu-bồ-đề đáp:
–Này Kiều-thi-ca! Ngày nay, nương vào thần lực của Phật gia hộ, các Thiên tử và đồ chúng đều tập hợp nơi đây. Nếu có vị nào chưa phát tâm cầu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác thì theo đó mà phát tâm, vị nào đã dự vào chánh vị thì không thể phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Vì sao? Vì các vị ấy thấy sự trói buộc của sinh tử luân hồi, do vậy đối với những người hiện ở đây mà ai có khả năng phát tâm cầu đạo Vô thượng Bồ-đề thì tôi sẽ tùy đó giúp họ phát tâm khiến cho căn lành của họ không đoạn tuyệt.
Khi ấy, Đức Thế Tôn tán thán:
–Lành thay, lành thay! Này Tu-bồ-đề! Ông thật khéo khuyến khích, hướng dẫn cho các Đại Bồ-tát tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Tu-bồ-đề bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Chúng sinh luôn thấm nhuần công đức sâu dày của Đức Phật. Nay con vì muốn báo ân sâu ấy, nên cố gắng khuyến khích, hướng dẫn như vậy. Vì sao? Vì thuở quá khứ, đệ tử của Bậc Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác cũng muốn báo ân Phật nên khuyến khích, hướng dẫn cho các Đại Bồ-tát được phạm hạnh như vậy, an trú vào pháp chân thật, cũng giáo hóa thành tựu Bát-nhã ba-la-mật-đa. Do thực hành như vậy, nên phát sinh trí Vô thượng.
Bạch Thế Tôn! Con nay cũng theo đó mà thâu nhận, hộ trì các Đại Bồ-tát. Do sức nhân duyên thâu nhận và hộ trì của con, nên làm cho Đại Bồ-tát mau chóng thành tựu đạo quả Vô thượng Bồ-đề.
Khi ấy, Tôn giả Tu-bồ-đề nói với Thiên đế Thích:
–Các ông hãy lắng nghe và tư duy, tôi nay muốn giảng nói Bát-nhã ba-la-mật-đa giúp cho Đại Bồ-tát trụ vào pháp không, làm cho Đại Bồ-tát khoác áo giáp Đại thừa trang nghiêm. Nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa không an trụ vào ngũ uẩn, không trụ vào nhãn căn, không trụ vào sắc cảnh, không trụ vào nhãn thức, không trụ vào nhãn xúc cũng không trụ vào các thọ phát sinh từ nhãn xúc.
Không trụ vào nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý căn; không trụ vào thanh, hương, vị xúc pháp cảnh; không trụ vào nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức; không trụ vào nhĩ xúc đến ý xúc, lại cũng không trụ vào các thọ phát sinh từ nhĩ xúc cho đến ý xúc. Không trụ vào địa, thủy, hỏa, phong, không, thức giới; cũng không trụ vào Niệm xứ, bốn Chánh cần, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy Giác chi, tám Thánh đạo; không trụ vào quả Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm và A-la-hán; không trụ vào quả Duyên giác; không trụ vào cõi Phật.
Do không trụ vào năm uẩn cho đến không trụ vào quả vị Phật nên không trụ vào sắc, thọ, tưởng, hành, thức, hoặc thường, hoặc vô thường; không trụ vào sắc, thọ, tưởng, hành, thức, hoặc khổ, hoặc vui; không trụ vào sắc, thọ, tưởng, hành, thức, hoặc không, hoặc bất không; không trụ vào sắc, thọ, tưởng, hành, thức, hoặc ngã, hoặc vô ngã; không trụ vào sắc, thọ, tưởng, hành, thức, hoặc tịnh, hoặc nhiễm.
Không trụ vào chỗ đắc pháp không của sắc pháp, không trụ vào chỗ đắc pháp không của thọ, tưởng, hành, thức, không trụ vào quả vô vi Tu-đà-hoàn, không trụ vào quả vô vi Tư-đà-hàm, không trụ vào quả vô vi A-na-hàm, không trụ vào quả vô vi A-la-hán, không trụ vào quả vô vi Duyên giác, không trụ vào Phật pháp. Không trụ vào phước điền của Tu-đà-hoàn, không trụ vào thân bảy lần tái sinh của Tu-đà-hoàn; không trụ vào phước điền của Tư-đà-hàm, không trụ vào một lần tái sinh vào cõi này đoạn trừ rốt ráo các khổ hoặc của Tư-đà-hàm; không trụ vào phước điền của A-na-hàm, không trụ vào sự không trở lại thế gian này do đắc Niết-bàn của A-na-hàm; không trụ vào phước điền của A-la-hán, không trụ vào hiện thế nhập Vô dư Niết-bàn của A-la-hán; không trụ vào phước điền của Duyên giác, cũng không trụ vào quả Duyên giác, vượt qua quả vị Thanh văn, không dừng ở Phật địa thẳng đến Niết-bàn.
Không trụ vào phước điền tối thượng của chư Phật, không trụ vào Phật pháp vượt qua quả vị phàm phu, Thanh văn, Duyên giác, làm lợi ích cho vô lượng, vô số chúng sinh, làm cho trăm ngàn vạn ức vô số chúng sinh không theo Niết-bàn Vô dư của Thanh văn, Duyên giác mà quyết định hướng đến chứng Niết-bàn Vô thượng Đẳng chánh giác, kiến lập các Phật pháp và không trụ vào những quả vị như vậy.
Khi ấy, Tôn giả Xá-lợi-phất có suy nghĩ: “Các Đức Như Lai đã vượt qua quả vị phàm phu, Thanh văn, Duyên giác, làm lợi ích cho vô lượng, vô số chúng sinh, khiến cho trăm ngàn vạn ức vô lượng, vô số chúng sinh không hướng đến Niết-bàn Vô dư của Thanh văn, Duyên giác mà hướng đến và chứng Niết-bàn Vô thượng Đẳng chánh giác, kiến lập các Phật pháp. Không an trụ vào các pháp như vậy thì an trụ vào đâu?”
Bấy giờ, Tôn giả Tu-bồ-đề nương oai thần của Phật biết được tâm niệm ấy của Tôn giả Xá-lợi-phất liền nói:
–Thưa Tôn giả! Ý Tôn giả thế nào? Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác có pháp để trụ không?
Xá-lợi-phất đáp:
–Thưa Tôn giả! Không thể được. Bậc Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác không có pháp để trụ. Vì sao? Vì tâm không trụ kia gọi là Như Lai, không trụ vào cảnh giới hữu vi, cũng không trụ vào cảnh giới vô vi, không trụ vào ở giữa đó.
Tu-bồ-đề nói:
–Đúng như thế, Xá-lợi-phất! Các Đại Bồ-tát nên an trụ như các Đức Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác đã trụ. Người trụ như vậy thì chẳng có chỗ trụ cũng chẳng không có chỗ không trụ, chẳng phải quyết định cũng không phải không quyết định. Đại Bồ-tát học như thế, nên khéo an trú và tương ưng với vô trụ.
Đại Bồ-tát học như vậy là thực hành hạnh Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Khi ấy trong chúng hội, các vị Thiên tử có suy nghĩ: “Hàng Dạ-xoa còn hiểu được lời lẽ, văn tự, chương cú nơi lời pháp của Tôn giả
Tu-bồ-đề đã diễn nói thì lẽ nào chúng ta không hiểu rõ.”
Khi ấy, Tu-bồ-đề biết được tâm trạng của chư Thiên, liền nói:
–Các ông nên biết tất cả pháp ấy đều không có thuyết, không
dạy bày, không nghe, cũng không có được, xa lìa tất cả phân biệt, không còn có chỗ hiểu biết vậy.
Vừa nghe, thì chư Thiên có suy nghĩ: “Lời nói của Tôn giả Tu-bồ-đề thường xuyên khó giải, ý tứ sâu xa, vi diệu, cao tột. Chư Thiên chúng tôi thật khó ngộ nhận được.”
Biết được tâm niệm của chư Thiên như vậy, Tôn giả Tu-bồ-đề nói rằng:
–Các ông nên biết, muốn đắc quả Tu-đà-hoàn, muốn trụ quả Tu-đà-hoàn nên an trụ vào pháp nhẫn này. Muốn đắc quả Tư-đà-hàm, muốn trụ vào quả Tư-đà-hàm; muốn đắc quả A-na-hàm, muốn trụ vào quả A-na-hàm; muốn đắc quả A-la-hán, muốn trụ quả A-la-hán; muốn đắc quả Duyên giác, muốn trụ quả Duyên giác; muốn đắc quả Vô thượng Bồ-đề, muốn trụ quả Vô thượng Bồ-đề thì nên an trụ vào pháp nhẫn.
Các Thiên tử nghe rồi liền có suy nghĩ: “Vậy khi Tôn giả Tu-bồ-đề nói pháp thì ai là người có khả năng nghe và thọ trì?”
Tôn giả Tu-bồ-đề lúc ấy nương vào oai thần của Phật, biết được suy nghĩ đó, nên Tôn giả nhắc lại:
–Này Thiên tử! Các vị nên biết khi tôi thuyết pháp thì những người huyễn kia có khả năng nghe và thọ trì, vì họ đối với pháp không có nghe cũng không có chứng.
Ngay khi ấy, các Thiên tử bạch với Tôn giả Tu-bồ-đề:
–Có phải Tôn giả nói tất cả chúng sinh đều là huyễn phải không?
Tôn giả Tu-bồ-đề đáp:
–Đúng, tất cả chúng sinh đều như huyễn, như mộng. Vì sao? Vì tất cả chúng sinh kia cùng với huyễn mộng này không hai, không khác. Do đó, tất cả pháp kia cũng như huyễn mộng. Tu-đà-hoàn quả Tu-đà-hoàn; Tư-đà-hàm, quả Tư-đà-hàm, A-na-hàm, quả A-na-hàm; A-la-hán, quả A-la-hán; Duyên giác, quả Duyên giác, tất cả đều là mộng, là huyễn, cho đến quả Vô thượng Bồ-đề cũng như mộng, như huyễn.
Chư Thiên lại thưa với Tôn giả Tu-bồ-đề:
–Nói Vô thượng Bồ-đề như mộng, như huyễn, vậy pháp Niết-bàn kia cũng như mộng, như huyễn sao?
Tôn giả Tu-bồ-đề đáp:
–Niết-bàn như thế cũng như mộng, như huyễn, huống chi là các pháp khác.
Các Thiên tử nói:
–Pháp Niết-bàn kia cớ sao cũng nói như mộng, như huyễn?
Tôn giả Tu-bồ-đề đáp:
–Nếu có pháp hơn hẳn pháp Niết-bàn thì tôi cũng cho là như huyễn, như mộng. Vì sao? Vì huyễn mộng kia cùng với pháp Niết-bàn không hai, không phân biệt.
Bấy giờ, Tôn giả Xá-lợi-phất, Tôn giả Mãn Từ Tử, Tôn giả Ma-ha Câu-hy-la, Tôn giả Ma-ha Ca-chiên-diên, Tôn giả Ma-ha Ca-diếp cùng với chúng Thanh văn và chúng Bồ-tát thưa với Tôn giả Tu-bồ-đề:
–Ai có khả năng thọ trì nghĩa pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa mà Tôn giả đã diễn nói?
Lúc ấy, Tôn giả A-nan nói với đại chúng:
–Bậc Đại Bồ-tát không thoái chuyển có đầy đủ chánh kiến và các A-la-hán đã đoạn trừ lậu hoặc hoàn toàn là những người có thể thọ trì nghĩa pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa mà Tôn giả Tu-bồ-đề đã trình bày.
Lúc đó, Tôn giả Tu-bồ-đề nói với đại chúng:
–Pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa tôi đã nói không có người có thể thọ trì. Vì sao? Vì ở đây không có pháp được tuyên thuyết, không có pháp biểu thị, không có chỗ phân biệt cũng không có chỗ hiểu biết hết. Vì không nói, bày và không có hiểu biết về Bát-nhã ba-la-mật-đa, thì đó là tuyên thuyết, đó là nghe nhận. Nghe vậy, Đế Thích liền suy nghĩ: “Nay Tôn giả Tu-bồ-đề đã tuyên thuyết chánh pháp ý nghĩa thậm thâm như vậy, chúng ta nên hóa ra các thứ hoa vi diệu để rải trên thân Tôn giả.” Suy nghĩ như vậy, liền hóa ra vô số hoa thơm rải khắp thân Tôn giả Tu-bồ-đề.
Khi ấy, Tôn giả Tu-bồ-đề suy nghĩ: “Vô số các loại hoa thơm
vi diệu đã biến hóa ra ở đây thì ta chưa từng gặp ở cõi trời Tam thập tam, các loại hoa quý đặc biệt này chẳng phải từ cây sinh ra.”
Khi ấy, Đế Thích biết tâm niệm của Tu-bồ-đề, liền thưa:
–Hoa này chẳng phải là pháp sinh, chẳng từ tâm sinh ra và không từ cây mà có.
Tu-bồ-đề nói:
–Này Kiều-thi-ca! Hoa này không phải từ cây mà có, cũng chẳng phải từ tâm mà sinh, đó chính là vô sinh, hoa vô sinh cũng không gọi là hoa.
Đế Thích liền có suy nghĩ: “Tôn giả Tu-bồ-đề trí tuệ thật thâm sâu, khéo vận dụng ngôn từ, tùy theo sự việc để giảng nói, nhưng không hủy mất giả danh để nói về thật nghĩa.”
Suy nghĩ như vậy, liền thưa với Tu-bồ-đề:
–Theo như lời của Tôn giả, thì Đại Bồ-tát phải học như vậy.
Khi ấy, Tôn giả Tu-bồ-đề bảo Đế Thích:
–Này Kiều-thi-ca! Thật đúng như vậy! Đại Bồ-tát phải học như vậy, người học như thế sẽ không học quả Tu-đà-hoàn, không học quả Tư-đà-hàm, không học quả A-na-hàm, không học quả A-la-hán, không học quả Duyên giác, không học quả vị như vậy tức là học Nhất thiết trí, an trụ vào Phật pháp. Bậc an trụ như thế tức là học vô lượng, vô biên Phật pháp.
Người học như vậy, tuy có học sắc pháp nhưng không có tăng, giảm, tuy có học thọ, tưởng, hành, thức nhưng không có tăng, giảm. Đối với sắc, thọ, tưởng, hành, thức không tăng giảm, người học như vậy tức là không chấp thủ vào học ở sắc, không chấp thủ vào học ở thọ, tưởng, hành, thức; không xả bỏ ở sắc, không xả bỏ ở thọ, tưởng, hành, thức.
Pháp không thủ, không xả, tức là pháp không sinh, không diệt. Hiểu rõ tất cả các pháp, không thủ, không xả, không sinh, không diệt. Người học như vậy gọi là học Nhất thiết trí, phát sinh Nhất thiết trí.
Khi ấy, Tôn giả Xá-lợi-phất nói với Tôn giả Tu-bồ-đề:
–Đại Bồ-tát đối với pháp không có chấp thủ, nên học pháp không sinh diệt, người học Nhất thiết trí kia cũng không chấp thủ nên học pháp không sinh diệt. Đại Bồ-tát nên tu học như vậy. Người tu học như vậy là tu học Nhất thiết trí phải không?
Tu-bồ-đề đáp:
–Đúng như vậy, tất cả Nhất thiết trí cho đến tất cả pháp Phật không có chấp thủ, cũng không sinh diệt, người tu học như vậy chính là Đại Bồ-tát tu học Nhất thiết trí.
Khi ấy, Đế Thích thưa Tôn giả Xá-lợi-phất:
–Đại Bồ-tát nên cầu học Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế nào?
Xá-lợi-phất đáp:
–Kiều-thi-ca! Đại Bồ-tát cầu học Bát-nhã ba-la-mật-đa nên đến chỗ Tôn giả Tu-bồ-đề cầu học.
Đế Thích nói với Tôn giả Xá-lợi-phất:
–Tôn giả Tu-bồ-đề khi thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa thì được thần lực nào gia trì?
Xá-lợi-phất nói:
–Này Kiều-thi-ca! Đây là thần lực của Phật gia trì.
Khi ấy, Tu-bồ-đề bảo Đế Thích:
–Nên biết khi nói pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa, đều có thần lực của Như Lai hộ trì.
Nói Đại Bồ-tát nên nương vào đâu mà cầu học Bát-nhã ba-la-mật-đa, nên biết Đại Bồ-tát trong Bát-nhã ba-la-mật-đa không nương theo sắc mà cầu, không lìa sắc mà cầu, không nương theo thọ, tưởng, hành, thức mà cầu, cũng không lìa thọ, tưởng, hành, thức mà cầu.
Vì sắc không phải là Bát-nhã ba-la-mật-đa, lìa sắc cũng chẳng phải là Bát-nhã ba-la-mật-đa. Thọ, tưởng, hành, thức chẳng phải là Bát-nhã ba-la-mật-đa; lìa thọ, tưởng, hành, thức cũng chẳng phải là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Đế Thích thưa Tôn giả Tu-bồ-đề:
–Đại Ba-la-mật-đa là Bát-nhã ba-la-mật-đa phải không? Vô lượng Ba-la-mật-đa là Bát-nhã ba-la-mật-đa phải không? Vô biên Ba-la-mật-đa là Bát-nhã ba-la-mật-đa phải không?
Tu-bồ-đề đáp:
–Đúng như thế, này Kiều-thi-ca! Đại ba-la-mật-đa chính là Bát-nhã ba-la-mật-đa, vô lượng Ba-la-mật-đa chính là Bát-nhã ba-la-mật-đa, vô biên Ba-la-mật-đa chính là Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì rằng, sắc quảng đại cho nên Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng quảng đại. Thọ, tưởng, hành, thức quảng đại cho nên Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng quảng đại. Sắc, thọ, tưởng, hành, thức vô lượng, nên Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng vô lượng. Sắc, thọ, tưởng, hành, thức vô biên, nên Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng vô biên.
Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Do duyên với vô biên cho nên Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng vô biên. Bát-nhã ba-la-mật-đa vô biên cho nên chúng sinh cũng vô biên. Do nghĩa này nên có tên gọi là duyên vô biên. Sắc, thọ, tưởng, hành, thức ở quá khứ cũng không thể đắc, ở hiện tại, ở vị lai không thể đắc, cho đến tất cả pháp ở quá khứ, hiện tại, vị lai không thể đắc. Do nghĩa này nên gọi là duyên vô biên, cũng chính là Bát-nhã ba-la-mật-đa vô biên.
Lại nữa, do nghĩa nào mà gọi là chúng sinh vô biên?
Này Kiều-thi-ca! Nên biết quá khứ, hiện tại, vị lai không có chúng sinh nào có thể đắc.
Đế Thích nói:
–Thưa Tôn giả Tu-bồ-đề! Chúng sinh ở thế giới kia là vô biên phải không?
Tu-bồ-đề đáp:
–Chúng sinh vô lượng, vô số không thể kể xiết. Do nghĩa này nên gọi chúng sinh là vô biên.
Đế Thích lại hỏi Tu-bồ-đề:
–Tôn giả đã nói chúng sinh, vậy do nghĩa nào mà có tên là chúng sinh?
Tu-bồ-đề đáp:
–Nghĩa của tất cả pháp đều là nghĩa của chúng sinh. Này Kiều-thi-ca! Theo ý ông thì nên nói nghĩa nào là nghĩa chúng sinh?
Đế Thích đáp:
–Theo ý của con, nghĩa phi pháp là nghĩa chúng sinh, chẳng phải nghĩa phi pháp cũng là nghĩa chúng sinh, nên biết chúng sinh không có gốc, không có nhân, không có ngã, không có duyên. Do phương tiện mà tạo lập danh tự.
Tu-bồ-đề nói:
–Này Kiều-thi-ca! Trước đây tôi đã nói chúng sinh vô biên, theo ý ông thì như thế nào? Thật có chúng sinh có thể nói, có thể thấy không?
Đế Thích đáp:
–Thưa Tôn giả! Không thể được.
Khi ấy, Tu-bồ-đề nói:
–Nếu các chúng sinh không có thật thì không thể nói thấy. Do nghĩa này tôi nói chúng sinh vô biên. Kiều-thi-ca, giả sử các Đức Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác sống hằng hà sa kiếp dùng phương tiện nói: “Tất cả chúng sinh đã sinh, đang sinh và sẽ sinh. Đã diệt độ, đang và sẽ diệt độ.” Có thể nói nghĩa biên tế này không?
Đế Thích nói:
–Thưa Tôn giả! Không thể được. Vì tất cả chúng sinh xưa nay thường thanh tịnh.
Tu-bồ-đề nói:
–Đúng như thế, chúng sinh là vô biên. Do vậy, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng vô biên.
Khi ấy, trong hội có Đế Thích, Phạm vương, Chuyển luân thánh vương cùng chư Thiên, Thiên nữ, Thần tiên… đồng bạch Phật:
–Lành thay, lành thay! Như Lai là Đấng Xuất Thế và Tôn giả Tu-bồ-đề là bậc khéo tuyên thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa. Đại Bồ-tát đã thọ trì pháp này, không lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa của chư Như Lai. Chúng con nay tôn kính Tôn giả như kính ngưỡng chư Phật
Khi ấy, Thế Tôn bảo Đế Thích, Phạm vương và chư Thiên tiên:
–Đúng như thế, các ông nên biết, ta ở đời quá khứ xa xưa, có
Đức Phật hiệu là Nhiên Đăng Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác luôn tu hạnh Bồ-đề, khi ấy ta cũng không lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa. Đức Phật Nhiên Đăng Như Lai đã thọ ký cho ta quả Vô thượng Bồ-đề và nói:
–Vào đời vị lai cách đây a-tăng-kỳ kiếp ông sẽ thành Phật hiệu là Thích-ca Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn.
Khi ấy, Đế Thích cùng chư Thiên bạch Phật:
–Bạch Đức Thế Tôn! Hy hữu thay! Bạch Thiện Thệ, hy hữu thay!
Bát-nhã ba-la-mật-đa này có thể bao gồm Nhất thiết trí, do vậy Đại Bồ-tát nên học.
Phẩm 3: BẢO THÁP CÔNG ĐỨC
Khi ấy, Thế Tôn bảo khắp bốn chúng Bí-sô, Bí-sô-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, Đế Thích, chư Thiên ở Dục giới và Đại phạm Thiên vương, chư Thiên ở Sắc giới cho đến tất cả Thiên tử ở trời Sắc cứu cánh:
–Tất cả các ông nên biết, thiện nam, thiện nữ nào lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, đối với pháp môn Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm này rồi theo pháp tu hành, tu hành thì chắc chắn người đó không phải bị ma, dân ma, nhân phi nhân… quấy nhiễu, không bị các thứ độc làm tổn hại, không bị tổn giảm tuổi thọ.
Lại nữa, nếu có thiện nam, thiện nữ nào chưa được nghe, thọ trì, đọc tụng pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa này, nhưng đã phát tâm cầu Vô thượng Bồ-đề, thì hàng chư Thiên sẽ đến hộ niệm, khuyến khích khiến cho người kia đối với pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa này được nghe, thọ trì, đọc tụng, y theo pháp mà tu hành.
Lại nữa, thiện nam, thiện nữ nào đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa
này, thọ trì, đọc tụng, tu hành đúng như pháp, thì người ấy lúc ở trong phòng vắng hoặc ở trong chúng, ở dưới gốc cây hoặc nơi hoang vắng, lúc đi trên đường vắng hoặc lúc dừng lại, cho đến vào trong biển lớn, ở chỗ ấy, khi đi, đứng, nằm, ngồi, được chư Thiên hộ niệm, lìa xa các lo sợ.
Khi ấy, Tứ đại Thiên vương bạch Phật:
–Bạch Đức Thế Tôn! Thiện nam, thiện nữ nào đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa này thọ trì, đọc tụng, tu hành đúng như pháp. Con sẽ đến chỗ họ hộ niệm, làm cho người ấy luôn luôn tinh tấn, không sinh tâm thoái thất.
Khi ấy, Đế Thích bạch Phật:
–Bạch Đức Thế Tôn! Thiện nam, thiện nữ đối với pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa này luôn luôn lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tu hành… con sẽ đến hỗ trợ cho họ không có ưu phiền.
Khi ấy, Đại Phạm thiên cùng Phạm chúng bạch Phật:
–Bạch Đức Thế Tôn! Thiện nam, thiện nữ nào đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa này mà lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tu hành, chúng con sẽ đến hỗ trợ khiến cho người ấy không có ưu phiền.
Khi ấy, Đế Thích bạch Phật:
–Bạch Đức Thế Tôn! Hy hữu thay! Pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa này thật sâu xa, vi diệu. Thiện nam, thiện nữ nào thọ trì, đọc tụng thì ngay hiện đời này sẽ đạt được công đức như vậy.
Bạch Đức Thế Tôn! Người thọ trì pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa này lại có năng lực thâu nhiếp tất cả pháp Ba-la-mật-đa phải không?
Phật đáp:
–Này Kiều-thi-ca, đúng như vậy! Người thọ trì Bát-nhã ba-la-mật-đa này có năng lực thâu nhiếp tất cả pháp Ba-la-mật-đa.
Này Kiều-thi-ca! Người nào thọ trì, đọc tụng pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa này sẽ được công đức rộng lớn, sâu xa. Các ông hãy lắng nghe và khéo suy nghĩ, ta sẽ vì ông giảng thuyết.
Đế Thích thưa:
–Lành thay, bạch Đức Thế Tôn! Xin Ngài vì chúng con giảng nói.
Phật nói:
–Này Kiều-thi-ca! Pháp môn Bát-nhã ba-la-mật-đa của ta sẽ không bị các pháp ác làm tổn giảm, hư hoại. Lúc các pháp ác muốn phá hoại, thì các pháp ác ấy dần dần bị tiêu diệt.
Lại nữa, pháp này tuy mới khởi phát nhưng nó không thể bị tổn hại. Vì sao? Kiều-thi-ca nên biết, do công đức thiện nam, thiện nữ này thọ trì, đọc tụng Bát-nhã ba-la-mật-đa nên các pháp ác tuy có sinh nhưng liền tự hủy diệt.
Này Kiều-thi-ca! Ví như ở thế gian có các loài rắn độc bò đi khắp nơi để kiếm mồi, vừa thấy loài trùng nhỏ thì nó muốn trườn tới ăn. Chỗ ấy, có loại cây thuốc tên là Mạt-kỳ có khả năng diệt các thứ độc, do vậy các trùng nhỏ chạy đến chỗ cây thuốc, rắn độc ngửi mùi cây thuốc liền bỏ đi. Các loài trùng nhỏ nhờ vậy không bị ăn thịt, vì loại cây thuốc Mạt-kỳ này có công năng tiêu diệt các thứ độc.
Này Kiều-thi-ca! Thiện nam, thiện nữ cũng như vậy, thọ trì, đọc tụng đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa này, tự mình giảng nói hoặc nhờ người khác giảng nói, y theo pháp đó tu hành. Người ấy sẽ không bị các pháp ác nhiễu hại. Các pháp ác tuy có sinh nhưng liền tự tiêu diệt. Vì sao? Nên biết, được như vậy là đều nhờ lực công đức của Bát-nhã ba-la-mật-đa, người ấy dầu ở đâu đều không bị lay chuyển. Bát-nhã ba-la-mật-đa này có công năng trừ tất cả tham, cùng các phiền não, hướng đến chứng đạo quả Vô thượng Niết-bàn.
Này Kiều-thi-ca! Người nào thọ trì, đọc tụng Bát-nhã ba-la-mật-đa này liền được Tứ đại Thiên vương, Đế Thích, Đại phạm Thiên vương cho đến chư Phật và Bồ-tát thường hộ trì làm cho người ấy không có phiền não.
Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Thiện nam, thiện nữ nào thọ trì, đọc tụng Bát-nhã ba-la-mật-đa này thì người ấy thường nói lời tín thuận, nói lời nhu nhuyến, nói lời thanh nhã, không nói tạp, không sinh phẫn nộ, không bị ngã mạn che ngăn, thường sinh tâm Từ, không khởi tâm sân nhuế, phẫn nộ và phiền não, không có tăng trưởng.
Thiện nam, thiện nữ kia thường luôn tâm niệm: “Ta vì muốn cầu đạo Vô thượng Bồ-đề nên đối với các pháp phiền não thì không nên sinh tâm sân hận. Vì khi pháp sân phát sinh nó sẽ làm cho các căn biến đổi, các sắc tướng lành sẽ không còn hòa hợp.” Người ấy nghĩ như vậy liền an trụ vào chánh niệm.
Này Kiều-thi-ca! Thiện nam, thiện nữ kia do thọ trì, đọc tụng Bát-nhã ba-la-mật-đa này nên ngay trong hiện tại đạt được công đức như vậy.
***
Khi ấy, Đế Thích bạch Phật:
–Hy hữu thay Đức Thế Tôn! Đại Bồ-tát vì muốn hồi hướng nên tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa, không sinh tâm cao ngạo chấp vào tướng.
Phật dạy:
–Đúng như vậy. Này Kiều-thi-ca! Thiện nam, thiện nữ nào đối với pháp môn Bát-nhã ba-la-mật-đa này, tự mình thọ trì, đọc tụng, tuyên thuyết, hoặc khiến người giảng nói, rồi tu hành đúng như pháp, thì người ấy sẽ đạt được lực công đức. Người ấy có vào quân trận thì lòng không hề khiếp sợ, luôn dũng mãnh, kiên cố, hàng phục quân địch, cho đến khi đi, đứng, nằm, ngồi đều được an lành.
Lại nữa, Kiều-thi-ca! Thiện nam, thiện nữ thọ trì, đọc tụng Bát-nhã ba-la-mật-đa này, người ấy ở các chỗ, khi đi, khi nghỉ, tuy gặp nạn đao trượng… nhưng thân người ấy không bị tổn hại, cho đến khi gần mất thân mạng cũng không có lo sợ. Bát-nhã ba-la-mật-đa này là ánh sáng rộng lớn, Bát-nhã ba-la-mật-đa là ánh sáng vô lượng, Bát-nhã ba-la-mật-đa là ánh sáng vô thượng, Bát-nhã ba-la-mật-đa là ánh sáng không gì bằng, Bát-nhã ba-la-mật-đa là ánh sáng không gì so sánh. Thiện nam, thiện nữ tu học với ánh sáng Bát-nhã ba-la-mật-đa như vậy, nên không nghĩ điều ác của mình, không nghĩ điều ác của người, không nghĩ điều ác của mình, của người.
Này Kiều-thi-ca! Nên biết người thọ trì, đọc tụng Bát-nhã ba-la-mật-đa này thì ngay trong đời hiện tại đạt được công đức như vậy.
Lại nữa, Đại Bồ-tát tu ánh sáng này có thể chứng đắc quả Vô thượng Bồ-đề, thành tựu Nhất thiết trí. Do chứng đắc Vô thượng Bồ-đề nên có thể quan sát, thấu suốt tâm, hành của tất cả loài chúng sinh, nên nói trí tuệ của bậc Nhất thiết trí là ánh sáng Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Đại Bồ-tát tu học pháp này thì không có pháp nhỏ nào mà không nhập, không có pháp nhỏ nào mà không biết, không có pháp nhỏ nào mà không thể chứng ngộ, do vậy nên gọi là trí Nhất thiết trí.
Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Nếu có người dùng Bát-nhã ba-la-mật-đa này sao chép kinh điển, cúng dường, thọ trì, hoặc tự mình đọc tụng hoặc khuyến khích người khác, cho đến vì người giảng giải nghĩa này, người này thường được sự hộ niệm của chư Phật Bồ-tát, chẳng bị Nhân phi nhân… làm hại, chỉ ngoại trừ nghiệp quả báo của đời quá khứ.
Này Kiều-thi-ca! Ví như vùng đất dưới cây Bồ-đề và xung quanh cây đó thì không bị Nhân phi nhân, cho đến các loài vật khác có thể xâm nhập, an trú, không thể phá hoại làm điều tệ ác ở chỗ ấy. Vì chỗ này là nơi chứng đạo quả Bồ-đề của Đức Như Lai Chánh Đẳng Chánh Giác thuở quá khứ, vị lai, hiện tại.
Này Kiều-thi-ca! Thiện nam, thiện nữ thọ trì, đọc tụng, sao chép, cúng dường Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng được như thế. Nhân phi nhân không làm điều bất an, không thể phá hoại, không làm điều tệ ác đối với pháp ấy. Vì sao? Vì công đức cúng dường kinh Bát-nhã ba-la-mật-đa này, dầu ở chỗ nào thì công đức ấy cũng đồng với công đức tạo tháp, tôn trọng kính lễ, xưng tán.
Này Kiều-thi-ca! Nên biết trí tuệ này, ngay nơi hiện tại đã có công đức lớn như vậy.
Khi ấy, Đế Thích thiên chủ bạch Phật:
–Bạch Đức Thế Tôn! Thiện nam, thiện nữ nên sao chép, tôn trọng, cung kính kinh Bát-nhã ba-la-mật-đa. Hãy dùng các loại hoa thơm, hương đốt, hương thoa, hương bột, các loại hoa trong sức, cho đến các loại cờ, lọng đẹp, các thứ đèn dầu như thế để cúng dường.
Lại nữa, sau khi Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác nhập Niết-bàn, thì thiện nam, thiện nữ thu xá-lợi và tạo bảo tháp cúng dường. Tôn trọng, cung kính, lễ lạy, xưng tán, dùng các thứ hoa thơm, hương đốt, cờ phướn, lọng báu như trên để cúng dường. Thiện nam, thiện nữ kia đã có được công đức, nếu so với công đức trước thì công đức này có nhiều hơn không?
Phật đáp:
–Này Kiều-thi-ca! Nay ta hỏi, ông tùy ý trả lời. Ông nghĩ như thế nào? Các Đức Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác do học pháp nào mà được thân như thế, được chứng đạo quả Vô thượng Bồ-đề thành tựu trí Nhất thiết trí?
Khi ấy, Đế Thích bạch Phật:
–Bạch Đức Thế Tôn! Các Đức Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác do tu học pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa được chứng đắc Vô thượng Bồ-đề thành tựu trí Nhất thiết trí.
Phật bảo Kiều-thi-ca:
–Ông nên biết, Phật không dựa nơi thân này để được quả Như Lai, do thành tựu trí Nhất thiết trí nên được thành Phật.
Nên biết trí Nhất thiết trí của Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác đều từ nơi Bát-nhã ba-la-mật-đa mà sinh ra. Thân Như Lai cũng từ nơi Bát-nhã ba-la-mật-đa phương cách tốt nhất sinh ra. Do thân này y chỉ vào trí Nhất thiết trí, cho nên đắc được Phật thân, Pháp thân, Tăng-già thân. Do vậy, tất cả chúng sinh đối với thân Như Lai nên chiêm ngưỡng, lễ bái, cúng dường, cho đến sau khi Như Lai nhập Niết-bàn thì tạo bảo tháp cúng dường xá-lợi của Phật.
Này Kiều-thi-ca! Thiện nam, thiện nữ kia tuy tạo bảo tháp cúng dường xá-lợi của Phật như vậy, nhưng công đức ấy không thể sánh bằng công đức của người sao chép, tôn trọng, cung kính kinh Bát-nhã ba-la-mật-đa này, dùng các loại hoa thơm, hương xông, cờ phướn, lọng báu cúng dường thì thiện nam, thiện nữ đó được công đức rất lớn. Vì sao? Vì cúng dường Bát-nhã ba-la-mật-đa tức là cúng dường trí Nhất thiết trí. Do đó, thiện nam, thiện nữ nào muốn cúng dường trí Nhất thiết trí thì nên sao chép, thọ trì cung kính, cúng dường pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa này.
Khi ấy, Đế Thích bạch Phật:
–Bạch Đức Thế Tôn! Người ở cõi Diêm-phù-đề đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa, không thể tự mình sao chép, thọ trì, đọc tụng, không thể tự mình thuyết giảng, hoặc nhờ người giảng nói, cũng không dùng các thứ hương thơm, cờ phướn, lọng báu, tôn kính cúng dường. Bạch Đức Thế Tôn, những người như thế mất lợi ích lớn, không thể thành tựu quả báo lớn?
Phật bảo Đế Thích:
–Này Kiều-thi-ca! Ý ông như thế nào? Ở Diêm-phù-đề có bao nhiêu người được lòng tin bất hoại vào Phật, Pháp, Tăng?
Đế Thích bạch Phật:
–Bạch Đức Thế Tôn! Ở cõi Diêm-phù-đề này số người được lòng tin bất hoại vào Phật, Pháp, Tăng rất ít.
Phật bảo:
–Này Kiều-thi-ca! Đúng như vậy, ở cõi Diêm-phù-đề, có ít người đối với Phật, Pháp, Tăng bảo được lòng tin bất hoại. Còn ở quả Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán, Duyên giác, người chứng quả ấy lại càng hiếm thấy. Còn đối với quả Vô thượng Bồ-đề, những người đã phát tâm thì an trụ, không thoái thất, hoặc người đang phát tâm thì dũng mãnh tinh tấn, hoặc người chưa phát tâm thì cố gắng phát tâm. Những người như vậy xem lại cũng rất ít.
Lại nữa, ở cõi Diêm-phù-đề, người khéo tương ưng và an trụ Bát-nhã ba-la-mật-đa rất ít. Người nương vào pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa tu hành cũng rất hiếm, cũng rất ít người đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa này tâm không thoái chuyển, trụ vào quả vị Bồ-tát cũng rất ít. Người đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa này tu hành chứng đắc quả Vô thượng Bồ-đề càng ít hơn.
Này Kiều-thi-ca! Người nào đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa tự mình lắng nghe thọ trì, đọc tụng, tự mình tuyên thuyết, hoặc khiến người tuyên thuyết, y theo pháp tu hành. Cho đến tôn trọng cung kính, dùng các loại hoa thơm, đèn dầu, hương, cờ phướn, lọng báu cúng dường. Nên biết đó đều là những người đã phát tâm cầu Vô thượng Bồ-đề, luôn an trụ vào quả vị Bồ-tát không thoái chuyển.
Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Ở trong cõi Diêm-phù-đề này có vô lượng, vô biên chúng sinh phát tâm cầu Vô thượng Bồ-đề thực hành đạo Bồ-tát, ý ông như thế nào?
Này Kiều-thi-ca! Ông nên biết, ở cõi Diêm-phù-đề tuy có vô lượng, vô biên chúng sinh, phát tâm Vô thượng Bồ-đề, hành đạo Bồ-tát, trong số đó chỉ có một, hai người trụ vào địa vị không thoái chuyển. Vì sao? Vì chúng sinh ở cõi Diêm-phù-đề khởi tâm thấp kém, sinh ý tưởng hạn hẹp, trí tuệ, tin hiểu cũng thấp kém như thế, do vậy nên tinh tấn cũng thấp kém. Đối với Vô thượng Bồ-đề thì có ý tưởng cho là khó được, không khởi tâm mong cầu nên sinh ra biếng nhác.
Này Kiều-thi-ca! Thiện nam, thiện nữ nào mong muốn mau chóng chứng đạo quả Vô thượng Bồ-đề, thành tựu hỷ lạc tối thượng, thì đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa hãy phát tâm mạnh mẽ, lắng nghe, thọ trì, đọc tụng. Thiện nam, thiện nữ khởi tâm suy nghĩ: “Đây là Bát-nhã ba-la-mật-đa mà các Bậc Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác trong quá khứ tu hạnh Bồ-tát lại cũng như vậy. Ta nay nên học Bát-nhã ba-la-mật-đa. Bát-nhã ba-la-mật-đa này cũng chính là Thầy của ta.” Này Kiều-thi-ca! Khi Phật còn tại thế hoặc sau khi nhập Niết-bàn thì các Đại Bồ-tát nên y chỉ vào Bát-nhã ba-la-mật-đa này.
Này Kiều-thi-ca! Sau khi Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác nhập Niết-bàn, các thiện nam, thiện nữ nên tạo vô số tháp bảy báu thờ xá-lợi, trọn đời dùng hương hoa, cờ phướn, lọng báu, y phục quý cúng dường và luôn tôn trọng, lễ bái, xưng tán.
Này Kiều-thi-ca! Ý ông như thế nào? Thiện nam, thiện nữ đó nhờ nhân duyên cúng dường như thế được phước đức nhiều không?
Đế Thích bạch Phật:
–Bạch Đức Thế Tôn, rất nhiều!
Phật nói:
–Này Kiều-thi-ca! Thiện nam, thiện nữ có tâm mong muốn cầu đạo Bồ-đề nên phát tâm tin hiểu đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa, tự mình thọ trì, đọc tụng, nhớ nghĩ, lại vì người khác mà giảng nói, truyền rộng khắp khiến cho chúng sinh được lợi ích lớn và làm chánh pháp đó được tồn tại lâu dài ở thế gian. Do nhân duyên này Phật nhãn không bị đoạn, chánh pháp không bị diệt mất. Cho nên hàng Đại Bồ-tát thọ trì, giảng nói rộng khắp pháp này, liền được Pháp nhãn không hoại, không diệt.
Lại nữa, người chép kinh Bát-nhã ba-la-mật-đa này rồi để vào nơi thanh tịnh, sinh lòng tôn kính, dùng các loại hoa thơm, đèn dầu, cờ phướn, lọng báu cùng các thứ y phục tốt đẹp cúng dường. Này Kiều-thi-ca! Thiện nam, thiện nữ ấy được nhiều phước đức.
Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Như trước kia đã nói về việc xây dựng bảo tháp, có người tạo tháp bảy báu khắp cõi Diêm-phù-đề phụng thờ xá-lợi Phật cho đến trọn đời, dùng các thứ hoa thơm, đèn dầu, cờ phướn, lọng báu, y phục tốt đẹp cúng dường và còn luôn cung kính, lễ lạy, chiêm bái, xưng tán. Kiều-thi-ca! Ý ông nghĩ thế nào? Các thiện nam, thiện nữ tạo ra nhân duyên như vậy được phước nhiều không?
Đế Thích bạch Phật:
–Bạch Đức Thế Tôn, rất nhiều!
Phật bảo:
–Này Kiều-thi-ca! Thiện nam, thiện nữ có tâm mong cầu đạo Bồ-đề đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa này phát tâm tin hiểu, tự mình thọ trì, đọc tụng, suy nghĩ, lại vì người khác mà giảng nói rộng khắp, làm cho chúng sinh được lợi ích lớn, khiến cho chánh pháp được trụ ở thế gian lâu dài, nhờ nhân duyên này mà Phật nhãn không đoạn mất, chánh pháp không diệt tận. Các Đại Bồ-tát đều nên thọ trì, diễn thuyết liền được Pháp nhãn không bị hư hoại.
Người chép kinh Bát-nhã ba-la-mật-đa này, rồi đặt ở nơi thanh tịnh phát tâm cung kính, lại dùng các thứ hoa thơm, đèn dầu, cờ phướn, lọng báu, y phục tốt đẹp cúng dường. Nên biết thiện nam, thiện nữ này được phước rất nhiều.
Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Như đã nói về việc tạo lập nhiều tháp bảy báu khắp trong cõi Diêm-phù-đề. Giả sử có người tạo lập tháp bảy báu khắp bốn châu thiên hạ để thờ xá-lợi của Phật. Người này trọn đời dùng các thứ hoa thơm, đèn dầu, cờ phướn, lọng báu, y phục tốt đẹp cúng dường, cung kính, chiêm bái, lễ lạy, xưng tán. Này Kiều-thi-ca! Ý ông như thế nào? Thiện nam, thiện nữ kia do nhân duyên như vậy được phước nhiều không?
Đế Thích bạch Phật:
–Bạch Đức Thế Tôn, rất nhiều!
Phật bảo:
–Này Kiều-thi-ca! Thiện nam, thiện nữ nào có tâm mong cầu đạo quả Bồ-đề thì đối với pháp trí tuệ này phát tâm tin hiểu, tự mình thọ trì, đọc tụng, suy nghĩ, lại vì người khác mà giảng giải rộng khắp, khiến cho tất cả chúng sinh được lợi ích lớn và làm cho chánh pháp được tồn tại ở thế gian lâu dài. Do nhân duyên như vậy nên Phật nhãn không đoạn, chánh pháp không diệt. Đại Bồ-tát nên thọ trì, giảng giải rộng rãi, liền đắc được Pháp nhãn không hoại, không diệt.
Người chép kinh Bát-nhã ba-la-mật-đa này rồi để chỗ thanh tịnh khởi tâm cung kính, dùng các loại hoa thơm, đèn dầu, cờ phướn, lọng báu, y phục tốt đẹp cúng dường. Này Kiều-thi-ca! Nên biết thiện nam, thiện nữ này được phước rất nhiều.
Lại nữa, Kiều-thi-ca! Như đã nói về việc tạo lập tháp bảy báu khắp bốn châu thiên hạ. Giả sử có người tạo lập tháp bảy báu khắp tiểu thiên thế giới để thờ xá-lợi của Phật. Người này cho đến trọn đời dùng các thứ hoa thơm, đèn dầu, cờ phướn, lọng báu, y phục tốt đẹp cúng dường, lại cung kính đảnh lễ, xưng tán.
–Này Kiều-thi-ca! Ý ông nghĩ thế nào? Người này tạo nhân duyên như vậy được phước nhiều không?
Đế Thích bạch Phật:
–Bạch Đức Thế Tôn, rất nhiều!
Phật nói:
–Này Kiều-thi-ca! Thiện nam, thiện nữ nào có tâm mong cầu đạo quả Bồ-đề thì đối với pháp trí tuệ này phát tâm tin hiểu, tự mình thọ trì, đọc tụng, suy nghĩ, lại vì người khác mà giảng giải rộng khắp, làm cho tất cả chúng sinh được lợi ích lớn và chánh pháp được tồn tại ở thế gian lâu dài. Do nhân duyên như vậy nên Phật nhãn không đoạn, chánh pháp không mất. Các Đại Bồ-tát nên thọ trì, giảng giải rộng rãi, liền được Pháp nhãn không hoại, không diệt.
Người chép kinh Bát-nhã ba-la-mật-đa rồi để ở chỗ thanh tịnh khởi tâm cung kính, dùng các loại hoa thơm, đèn dầu, cờ phướn, lọng báu, y phục tốt đẹp cúng dường. Này Kiều-thi-ca! Nên biết thiện nam, thiện nữ này được phước rất nhiều.
Kiều-thi-ca! Như đã nói về việc tạo lập tháp bảy báu khắp tiểu thiên thế giới. Giả sử có người tạo lập tháp bảy báu khắp trung thiên thế giới để thờ xá-lợi của Phật. Người này cho đến trọn đời cũng dùng các thứ hoa thơm, đèn dầu, cờ phướn, lọng báu, y phục tốt đẹp cúng dường, lại tôn kính đảnh lễ, tán thán. Này Kiều-thi-ca! Ý ông nghĩ thế nào? Người này tạo nhân duyên như vậy được phước nhiều không?
Đế Thích bạch Phật:
–Bạch Đức Thế Tôn, rất nhiều!
Phật nói:
–Này Kiều-thi-ca! Thiện nam, thiện nữ nào có tâm mong cầu đạo quả Bồ-đề thì đối với pháp trí tuệ này, tự mình thọ trì, đọc tụng, suy nghĩ, lại vì người khác mà giảng nói rộng khắp, làm cho tất cả chúng sinh được lợi ích lớn và chánh pháp được tồn tại ở thế gian lâu dài. Do nhân duyên như vậy nên Phật nhãn không đoạn, chánh pháp không mất. Các Đại Bồ-tát đều nên thọ trì, giảng nói rộng rãi, liền được Pháp nhãn không hoại, không diệt. Người chép kinh Bát-nhã ba-la-mật-đa này, rồi để ở nơi thanh tịnh khởi tâm cung kính, dùng các loại hoa thơm, đèn dầu, cờ phướn, lọng báu, y phục tốt đẹp cúng dường. Này Kiều-thi-ca! Nên biết thiện nam, thiện nữ này được phước rất nhiều.
Lại nữa, Kiều-thi-ca! Như đã nói về việc tạo lập tháp bảy báu khắp trung thiên thế giới. Giả sử có người tạo lập tháp bảy báu khắp tam thiên đại thiên thế giới để thờ xá-lợi của Phật. Trọn đời người này dùng các thứ hoa thơm, đèn dầu, cờ phướn, lọng báu, y phục tốt đẹp cúng dường, lại chiêm ngưỡng, lễ bái, xưng tán. Này Kiều-thi-ca! Ý ông nghĩ thế nào? Người tạo nhân duyên như vậy được phước nhiều không?
Đế Thích bạch Phật:
–Bạch Đức Thế Tôn, rất nhiều!
Phật nói:
–Này Kiều-thi-ca! Thiện nam, thiện nữ nào có tâm mong cầu đạo quả Bồ-đề thì nên phát tâm tin hiểu đối với pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa này, tự mình thọ trì, đọc tụng, suy nghĩ, lại vì người khác mà thuyết giảng rộng khắp, làm cho tất cả chúng sinh được lợi ích lớn, khiến chánh pháp được tồn tại ở thế gian lâu dài. Do nhân duyên như vậy nên Phật nhãn không đoạn, chánh pháp không mất. Các Đại Bồ-tát đều nên thọ trì, thuyết giảng rộng rãi, liền được Pháp nhãn không hoại, không diệt. Lại chép kinh Bát-nhã ba-la-mật-đa để ở chỗ thanh tịnh khởi tâm cung kính, dùng các loại hoa thơm, đèn dầu, cờ phướn, lọng báu, y phục tốt đẹp cúng dường. Này Kiều-thi-ca! Nên biết thiện nam, thiện nữ này được phước rất nhiều.
Lại nữa, Kiều-thi-ca! Như đã nói về việc tạo lập tháp bảy báu khắp tam thiên đại thiên thế giới. Giả sử có người tạo lập tháp bảy báu khắp tam thiên đại thiên thế giới để thờ xá-lợi của Phật, trong một kiếp, hoặc ít hơn một kiếp dùng các thứ hoa thơm, đèn dầu, cờ phướn, lọng báu, y phục tốt đẹp cho đến dùng các loại kỹ nhạc, ca múa, cung kính, lễ bái, xưng tán cúng dường rộng khắp. Người này tạo nhân duyên như vậy được phước nhiều không?
Đế Thích bạch Phật:
–Bạch Đức Thế Tôn, rất nhiều!
Phật bảo:
–Này Kiều-thi-ca! Thiện nam, thiện nữ nào có tâm mong cầu đạo quả Bồ-đề thì nên phát tâm tin hiểu đối với pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa này, tự mình thọ trì, đọc tụng, suy nghĩ, lại vì người khác mà giảng giải rộng khắp, làm cho tất cả chúng sinh được lợi ích lớn và chánh pháp được tồn tại ở thế gian lâu dài. Do nhân duyên như vậy nên Phật nhãn không đoạn, chánh pháp không mất. Các Đại Bồ-tát nên thọ trì, giảng giải rộng rãi, liền được Pháp nhãn không hoại, không diệt. Lại chép kinh Bát-nhã ba-la-mật-đa rồi để ở chỗ thanh tịnh khởi tâm cung kính, dùng các loại hoa thơm, đèn dầu, cờ phướn, lọng báu, y phục tốt đẹp cúng dường. Này Kiều-thi-ca! Ông nên biết thiện nam, thiện nữ này được phước rất nhiều.
Bấy giờ, Đế Thích bạch Phật:
–Bạch Đức Thế Tôn! Đúng như thế, đúng như lời Phật dạy.
–Kiều-thi-ca! Ông nên biết, người nào đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa này cung kính cúng dường, tức là đã cúng dường các Đức Phật ở quá khứ, vị lai, hiện tại. Hiểu rõ trí chư Phật, tức là đã cúng dường vô lượng, vô biên tất cả thế giới.
Bạch Thế Tôn! Hãy để việc tam thiên đại thiên thế giới lại. Giả sử có hằng hà sa số tam thiên đại thiên thế giới, mỗi thế giới ấy đều có đầy đủ chúng sinh. Mỗi chúng sinh đều xây tháp bảy báu thờ xá-lợi của Phật, hoặc trong một kiếp, hoặc không đến một kiếp dùng các thứ hoa thơm, đèn dầu, cờ phướn, lọng báu, y phục tốt đẹp, các loại âm nhạc, ca múa cúng dường. Lại còn cung kính đảnh lễ, tán thán.
–Bạch Đức Thế Tôn! Những chúng sinh kia được phước tuy nhiều, nhưng không bằng người phát tâm cầu đạo Bồ-đề. Đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa này phát tâm tin hiểu, tự mình thọ trì, đọc tụng, suy nghĩ, lại vì người khác mà giảng thuyết rộng khắp, khiến chúng sinh được lợi ích lớn, làm cho chánh pháp được tồn tại ở thế gian lâu dài. Do nhân duyên này nên Phật nhãn không đoạn, chánh pháp không mất. Các Đại Bồ-tát đều nên thọ trì, được Pháp nhãn không hoại, không diệt. Vậy nên, chép kinh Bát-nhã ba-la-mật-đa để ở nơi thanh tịnh, cũng dùng các thứ hương thơm, đèn dầu, cờ phướn, lọng báu, y phục tốt đẹp cúng dường.
Khi ấy, Đức Thế Tôn bảo Đế Thích:
–Đúng như thế, này Kiều-thi-ca! Nên luôn luôn tôn kính cúng dường kinh này. Nên biết người như thế sẽ đạt được vô lượng, vô biên công đức, không có giới hạn, không gì sánh bằng. Công đức này không thể nghĩ bàn. Vì sao? Vì Nhất thiết trí của Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác đều từ Bát-nhã ba-la-mật-đa sinh, mà thân Như Lai cũng từ Nhất thiết trí sinh. Kiều-thi-ca, do đó nên biết, người thờ xá-lợi Phật, tạo tháp cúng dường, so với người thọ trì, đọc tụng cung kính cúng dường kinh Bát-nhã ba-la-mật-đa này, thì phước đức do tạo tháp cúng dường đã đạt được không bằng một phần trăm, một phần ngàn, một phần trăm ngàn, một phần câu-chi, một phần trăm câu-chi, một phần ngàn câu-chi, một phần trăm ngàn câu-chi, một phần trăm ngàn vô số câu-chi, cho đến một phần nhỏ nhiệm cũng không sánh bằng.
Khi ấy, theo Đế Thích đến đại hội có bốn mươi ngàn Thiên tử, các vị ấy cùng thưa với Đế Thích:
–Nay nên thọ trì, đọc tụng pháp môn Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm diệu này, nhớ nghĩ, tư duy, tu hành theo pháp.
Ngay khi ấy, Đức Phật bảo Đế Thích:
–Này Kiều-thi-ca! Như chư Thiên đã nói: “Họ sẽ thọ trì, đọc tụng, nhớ nghĩ, tư duy tu hành pháp môn Bát-nhã ba-la-mật-đa.” Vì sao? Này Kiều-thi-ca! Nếu khi A-tu-la cùng với chư Thiên ở cõi trời Tam thập tam chiến đấu với nhau, nếu lúc đó họ nhớ nghĩ về pháp môn Bát-nhã ba-la-mật-đa thì A-tu-la tự thoái lui và biến mất.
Đế Thích bạch Phật:
–Bạch Đức Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa này chính là ánh sáng lớn. Bát-nhã ba-la-mật-đa là ánh sáng vô lượng, là ánh sáng vô thượng, là ánh sáng tối thắng, Bát-nhã ba-la-mật-đa này là ánh sáng hơn hẳn và Bát-nhã ba-la-mật-đa này là ánh sáng không thể sánh bằng.
Khi ấy, Phật bảo Đế Thích:
–Đúng như vậy, đúng như vậy! Này Kiều-thi-ca! Pháp môn Bát-nhã ba-la-mật-đa này chính là ánh sáng lớn, là ánh sáng vô lượng, là ánh sáng vô thượng. Bát-nhã ba-la-mật-đa là ánh sáng tối thắng, là ánh sáng hơn hẳn, Bát-nhã ba-la-mật-đa là ánh sáng không gì có thể sánh bằng. Vì sao? Vì các Đức Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác ở quá khứ, hiện tại, vị lai đều từ ánh sáng lớn sinh ra. Chư Phật Vô thượng Bồ-đề cũng học ánh sáng lớn mà thành tựu, cho đến chư Phật Thế Tôn, Vô thượng Bồ-đề ở vô lượng, vô số, tam thiên đại thiên thế giới đều từ ánh sáng rộng lớn của Bát-nhã ba-la-mật-đa nên được thành tựu.
Này Kiều-thi-ca! Nên biết Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác đều từ nơi Bát-nhã ba-la-mật-đa này sinh ra, mười pháp thiện cũng do từ ánh sáng lớn mà hiện ra ở thế gian, tất cả các pháp bốn Thiền, bốn Vô lượng tâm, bốn Vô sắc định, năm Thần thông, ba mươi bảy phẩm Trợ đạo đều từ nơi ánh sáng lớn mà xuất hiện ở nhân gian. Nói lược thì cả tám vạn bốn ngàn pháp môn đều từ ánh sáng lớn của Bát-nhã ba-la-mật-đa mà sinh ra. Phật trí, Tự nhiên trí, Chẳng nghĩ bàn trí cũng từ ánh sáng lớn này sinh ra.
Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Lúc các Đức Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác chưa xuất hiện ở đời, có các Đại Bồ-tát, vì thương xót chúng sinh trong thế gian nên xuất hiện diện ở nhân gian, trước hết nên nghe pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa để sinh ra các thứ phương tiện thiện xảo, rồi đem các pháp mười thiện, bốn Thiền, bốn Vô lượng tâm, bốn Vô sắc định, năm Thần thông, ba mươi bảy phẩm Trợ đạo giáo hóa chúng sinh. Ví như, lúc trăng chưa xuất hiện, thì ánh sáng các vì sao sẽ thay thế ánh trăng tỏa chiếu ở nhân gian, Đại Bồ-tát cũng như vậy, khi Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác chưa xuất hiện ở đời thì chánh pháp cũng không mất đi.
Vì sao? Vì tất cả các pháp hành, bình đẳng hành và các thiện hành, tất cả đều từ các Đại Bồ-tát sinh ra. Các Đại Bồ-tát khéo tùy thuận phương tiện thiện xảo để lưu truyền chánh pháp. Đây là Đại Bồ-tát khéo dùng phương tiện thiện xảo, nên biết tất cả đều phát sinh từ Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Thiện nam, thiện nữ nào sao chép cúng dường, thọ trì, đọc tụng, nhớ nghĩ tư duy pháp môn Bát-nhã ba-la-mật-đa và y đó tu hành. Người tạo nhân duyên như vậy, ngay nơi hiện tại này sẽ được công đức rất nhiều.
Đế Thích bạch Phật:
–Bạch Đức Thế Tôn! Người này ngay hiện tại đạt được lợi ích gì?
Phật dạy Kiều-thi-ca:
–Ông nên biết, các thiện nam, thiện nữ đó sẽ không bị các thứ độc làm tổn hại đến mạng. Không bị lửa thiêu, không bị chết chìm, không bị các thứ đao, kiếm, trượng… làm khổ thân, không bị người khác làm tổn hại đến mạng, không bị vương pháp gia hình. Gặp các nạn như vậy, người nào mà tụng niệm Bát-nhã ba-la-mật-đa liền được giải thoát.
Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Người thọ trì kinh Bát-nhã ba-la-mật-đa, nếu gặp quốc vương, vương tử, đại thần thì họ rất hoan hỷ và tùy theo người ấy muốn gì thì họ cúng dường đầy đủ. Vì sao? Này Kiều-thi-ca! Bát-nhã ba-la-mật-đa này đối với tất cả chúng sinh là có tâm hạnh đại Từ thì hành đại Từ, là hạnh đại Bi thì hạnh đại Bi.
Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Người thọ trì, đọc tụng Bát-nhã ba-la-mật-đa, sống ở mọi nơi, chỗ nào cũng không bị các hổ lang, thú dữ, trùng độc làm hại, cho đến không bị Nhân phi nhân làm tổn hại; Nhân phi nhân không thể tìm chỗ dở của họ, chỉ trừ các nghiệp họ đã tạo ra từ trước thì nay họ phải thọ nhận.
Khi ấy, có các ngoại đạo tu tập đã lâu năm trong giáo pháp của họ, số ấy có hơn trăm người, họ muốn đến não loạn Đức Phật. Đế Thích từ xa trông thấy họ đến gần chỗ Đức Phật, quan sát và biết được tâm họ. Đế Thích suy nghĩ: “Các ngoại đạo này, nay muốn đến làm não loạn Đức Thế Tôn. Ta trước đã theo Phật thọ học pháp môn Bát-nhã ba-la-mật-đa nên phải tụng niệm. Suy nghĩ như thế, Đế Thích liền tụng niệm pháp môn Bát-nhã ba-la-mật-đa. Khi ấy, ngoại đạo đã len lõi vào trong chúng hội, từ xa chúng trông thấy Đức Thế Tôn liền đi nhiễu bên phải Ngài, sau đó liền tìm đường tránh xa chúng hội.
Khi ấy, Tôn giả Xá-lợi-phất suy nghĩ: “Vì cớ gì các ngoại đạo này len lõi vào trong chúng hội, diện kiến Đức Thế Tôn, đi nhiễu bên phải Ngài rồi thoái lui.”
Bấy giờ, Đức Thế Tôn biết được tâm niệm của Xá-lợi-phất liền bảo:
–Ông nên biết, các ngoại đạo kia là những người xuất gia, tu tập đã lâu trong giáo pháp của họ. Nay muốn đến chúng hội của ta phá hoại, gây hấn, não hại, do Đế Thích tụng Bát-nhã ba-la-mật-đa nên hàng ngoại đạo đó xấu hổ thoái lui.
Xá-lợi-phất! Nên biết, Bát-nhã ba-la-mật-đa này là pháp môn có oai lực rất lớn, có khả năng phá trừ tất cả tà kiến ngoại đạo.
Khi ấy, có các ma ác suy nghĩ: “Nay Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác với bốn chúng và chư Thiên ở cõi Dục, cõi Sắc cùng hội lại. Đức Thế Tôn đã thọ ký cho các Đại Bồ-tát quả Vô thượng Bồ-đề, chúng ta nay đến chỗ ấy.” Khi ấy, chúng ma hóa thành bốn đoàn binh hùng dũng đi đến chỗ Phật.
Bấy giờ, Đế Thích trông thấy bốn đoàn binh hùng dũng, tướng tốt cùng đến chỗ Phật, liền suy nghĩ: “Bốn đoàn binh này vừa đến, trông vẻ đoan nghiêm khác thường, chẳng phải từ chỗ Ta-bà-la vương đến, chẳng từ chỗ Thắng Quân Đại vương đến, chẳng từ chỗ các nước khác đến, cũng chẳng từ nơi các Trưởng giả đến. Đây chắc là các ma ác hóa hiện ra. Vì sao? Vì các ma ác này luôn luôn tới chống phá pháp Phật, muốn tìm chỗ yếu điểm của pháp Phật để phá hoại. Ta nay nên thọ trì, đọc tụng pháp môn Bát-nhã ba-la-mật-đa.” Đế Thích suy nghĩ như vậy, liền trì niệm pháp môn Bát-nhã ba-la-mật-đa, các ma ác liền hóa hiện lại nguyên hình rồi tránh đi.
Bấy giờ, các vị Thiên tử ở cõi trời Tam thập tam đến chúng hội hóa hiện ra các thứ hoa Mạn-đà-la, Ma-ha mạn-đà-la, Mạn-thù-sa, Ma-ha mạn-thù-sa và các thứ hoa thơm khác nữa rải trên thân Phật, các loại hoa này tụ giữa hư không. Sau khi rải hoa cúng dường xong, các vị Thiên tử liền nói:
–Nguyện chánh pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa luôn an trụ lâu dài ở thế gian, làm cho chúng sinh ở cõi Diêm-phù-đề được lợi ích lớn.
Phát đại nguyện rồi, lại tung hoa cúng dường, nói tiếp:
–Nguyện tất cả chúng sinh đối với pháp môn Bát-nhã ba-la-mật-đa này thì y vào pháp tu đó mà giảng nói rộng khắp. Tất cả Ma, Thiên ma, Nhân phi nhân muốn tìm chỗ dở cũng đều không thể có được, khiến cho tất cả chúng sinh được đầy đủ căn lành.
Khi ấy, Đế Thích bạch Phật:
–Bạch Đức Thế Tôn! Nếu có người nào đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa này hoan hỷ lắng nghe, nên biết người này đã từng ở trong chúng hội cúng dường chư Phật ở quá khứ, huống chi là thọ trì, đọc tụng, nhớ nghĩ, tư duy, lại vì người khác mà giảng nghĩa pháp này, theo pháp đã nói mà tu hành. Tu hành như thế sẽ thành tựu, vì Nhất thiết trí của chư Phật đều từ nơi Bát-nhã ba-la-mật-đa sinh ra.
Bạch Đức Thế Tôn! Ví như có người muốn cầu vật quý, vào trong biển lớn cố công tìm kiếm sẽ nhặt các loại châu báu vô giá tuyệt đẹp, pháp báu Nhất thiết trí. Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác cũng như thế, nên vào biển pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa tìm cầu.
Phật bảo Đế Thích:
–Đúng thế, nếu ai muốn cầu Nhất thiết trí, Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác thì nên cố gắng vào biển pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa, cố gắng tìm cầu. Người mong cầu như vậy đều được như ý.
***
Khi ấy, Tôn giả A-nan bạch Phật:
–Bạch Đức Thế Tôn! Vì sao Ngài không xưng tán, giảng thuyết pháp Bố thí ba-la-mật-đa, Trì giới ba-la-mật-đa, Nhẫn nhục ba-la-mật-đa, Tinh tấn ba-la-mật-đa, Thiền định ba-la-mật-đa? Vì sao Ngài chỉ giảng thuyết, xưng tán công đức Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Phật bảo A-nan:
–Đúng như vậy, trong số các pháp Ba-la-mật-đa ta chỉ xưng tán và nói Bát-nhã ba-la-mật-đa tối thượng. Vì sao? Này A-nan! Ông nên biết, Bát-nhã ba-la-mật-đa này dẫn đầu năm pháp Ba-la-mật-đa kia. A-nan! Ý ông như thế nào? Bố thí không hồi hướng đến Nhất thiết trí thì có thành tựu Ba-la-mật-đa không?
A-nan bạch Phật:
–Bạch Đức Thế Tôn, không thể được!
Phật bảo A-nan:
–Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định không hồi hướng đến trí Nhất thiết thì có thành tựu Ba-la-mật-đa không? Bát-nhã này nếu không hồi hướng đến Nhất thiết trí thì có đắc Ba-la-mật-đa không?
A-nan bạch Phật:
–Bạch Đức Thế Tôn, không thể được!
Phật bảo A-nan:
–Ý ông như thế nào? Có thiện căn trí tuệ không thể nghĩ bàn hồi hướng về Nhất thiết trí không?
A-nan bạch Phật:
–Đúng như vậy, bạch Đức Thế Tôn! Các thiện căn tối thượng không thể nghĩ bàn đó đều hồi hướng đến trí Nhất thiết.
Phật bảo A-nan:
–Ông nên biết đem tất cả thiện căn đều hồi hướng đến Nhất thiết trí, nên gọi là các Ba-la-mật-đa đem pháp đệ nhất nghĩa hồi hướng đến Nhất thiết trí nên gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Này A-nan! Do các thiện căn hồi hướng đến Nhất thiết trí nên Bát-nhã ba-la-mật-đa này là bậc đứng đầu trong năm pháp Ba-la-mật-đa kia. Năm pháp Ba-la-mật-đa kia luôn trụ và tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa. Do nơi Bát-nhã ba-la-mật-đa này, nên các Ba-la-mật-đa khác đều được viên mãn.
Này A-nan! Do vậy nên ta luôn tán thán Bát-nhã ba-la-mật-đa-là trên hết.
Ví như các hạt giống rải xuống đất thì tùy theo thời gian chỗ đất và các điều kiện khác được hòa hợp thì nẩy mầm mà lớn lên. Các hạt giống ấy nương vào đất mà sống, không nương vào đất thì không thể nào sinh trưởng được. Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng lại như vậy, có khả năng thâu tóm năm Ba-la-mật-đa kia, đồng thời năm pháp kia đều an trụ và nương vào Bát-nhã ba-la-mật-đa, dựa vào Bát-nhã ba-la-mật-đa này mà được tăng trưởng. Do vậy năm pháp đều có tên là Ba-la-mật-đa.
Này A-nan! Do đây nên biết, Bát-nhã ba-la-mật-đa là đứng đầu đối với năm pháp kia.
Khi ấy, Đế Thích bạch Phật:
–Như lời Phật đã nói về pháp môn Bát-nhã ba-la-mật-đa có công đức lớn như thế. Giả sử Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác dùng nhiều lời khen ngợi, tán dương cũng không thể nào trọn đầy được. Do vậy, thiện nam, thiện nữ nên thọ trì, đọc tụng, nhớ nghĩ, đối với pháp môn Bát-nhã ba-la-mật-đa mà tư duy tu hành đúng như pháp ấy.
Phật bảo:
–Lành thay, lành thay! Này Kiều-thi-ca! Đúng như lời ông nói,
đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa này ta không chỉ nói rằng, người thọ trì, đọc tụng, thuyết giảng Bát-nhã ba-la-mật-đa có công đức lớn mà thiện nam, thiện nữ đối với pháp môn Bát-nhã ba-la-mật-đa này có thể sao chép để kinh đặt ở nơi thanh tịnh, cung kính dùng các thứ hương hoa, đèn dầu, cờ phướn, lọng báu, y phục tốt đẹp cúng dường thì nên biết đây là người đã giảng nói làm cho pháp Phật trụ ở thế gian lâu dài, do nhân duyên này Phật nhãn không đoạn, chánh pháp không diệt. Vậy nên các Đại Bồ-tát luôn thọ trì, để Pháp nhãn không hoại, không diệt.
Này Kiều-thi-ca! Người thọ trì, đọc tụng Bát-nhã ba-la-mật-đa này ngay trong hiện tại đạt được công đức như vậy.
Khi ấy, Đế Thích bạch Phật:
–Bạch Đức Thế Tôn! Đối với pháp môn Bát-nhã ba-la-mật-đa, thiện nam, thiện nữ nào có thể sao chép, để kinh nơi thanh tịnh, cung kính dùng các thứ hương hoa, đèn dầu, cờ phướn, lọng báu… tùy theo khả năng phát tâm cúng dường. Ta sẽ đến chỗ người ấy hộ niệm làm cho họ không có phiền não, huống là người đã thọ trì, đọc tụng, nhớ nghĩ, tư duy rồi vì người khác mà giảng giải nghĩa Bát-nhã ba-la-mật-đa này. Người ấy đạt vô lượng, vô biên công đức.
Phật bảo Đế Thích:
–Lành thay, lành thay! Này Kiều-thi-ca! Thiện nam, thiện nữ dầu ở nơi nào tuyên nói pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng có vô số trăm ngàn vị Thiên tử đồng đến chỗ ấy lắng nghe và thọ trì chánh pháp. Nếu khi nói pháp, vị ấy sinh mệt mỏi, tâm không hoan hỷ để nói thì các vị Thiên tử kia tùy khả năng giúp họ được lợi ích và luôn tinh tấn hoan hỷ nói pháp, không còn thoái lui.
Này Kiều-thi-ca! Người thọ trì, đọc tụng pháp môn Bát-nhã ba-la-mật-đa thì ngay trong hiện tại được công đức như thế. Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Thiện nam, thiện nữ nào thọ trì chánh pháp, thì lúc ở trong bốn chúng nói pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa, tâm không có lo sợ, không sợ vấn nạn, trả lời được tất cả các câu hỏi, không có sai sót. Nhờ đâu được như thế? Đó là do lực Bát-nhã ba-la-mật-đa hộ trì nên không ai tìm được lỗi lầm của Bát-nhã ba-la-mật-đa này. Vì sao? Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa xa lìa tất cả lỗi lầm. Do vậy người giảng nói pháp môn Bát-nhã ba-la-mật-đa này thì họ cũng không mắc phải những lỗi lầm. Do đây, nên thiện nam, thiện nữ lúc nói pháp tâm không sinh sợ sệt.
Này Kiều-thi-ca! Người nào thọ trì, đọc tụng Bát-nhã ba-la-mật-đa thì ngay trong hiện tại được những công đức như thế.
Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Thiện nam, thiện nữ thọ trì, đọc tụng Bát-nhã ba-la-mật-đa này được cha mẹ, bạn bè, cho đến Sa-môn, Bà-la-môn tôn kính, yêu quý. Tất cả những lời chống đối, những việc làm khổ não đã phát sinh chưa phát sinh đều xa lìa người ấy. Này Kiều-thi-ca! Thọ trì, đọc tụng Bát-nhã ba-la-mật-đa thì ngay trong hiện tại được những công đức như vậy.
Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Thiện nam, thiện nữ nào sao chép kinh điển, cho đến cúng dường Bát-nhã ba-la-mật-đa thì dầu ở phương nào, chỗ có kinh này sẽ có cũng được công đức như vậy.
Tứ đại Thiên vương tâm trụ Vô thượng Bồ-đề, các Thiên tử cung kính pháp đồng nên đến chỗ có kinh lễ lạy, xưng tán, tùy hỷ, cung kính, thọ trì pháp. Chiêm lễ thọ trì xong rồi về cõi trời của mình. Lại có các Thiên tử ở cõi trời Tam thập tam trụ tâm Bồ-đề, có các Thiên tử trời Dạ-ma trụ tâm Bồ-đề, có các Thiên tử ở cõi trời Hỷ túc trụ tâm Bồ-đề, có các Thiên tử ở cõi trời Hóa lạc trụ tâm Bồ-đề, có các Thiên tử ở cõi trời Tha hóa tự tại trụ tâm Bồ-đề. Lại có chư Thiên ở cõi trời Sắc giới, cõi trời Phạm chúng, trời Phạm phụ, trời Đại phạm, trời Thiểu quang, trời Vô lượng quang, trời Quang âm, trời Thiểu tịnh, trời Vô lượng tịnh, trời Biến tịnh, trời Vô vân, trời Phước sinh, trời Quảng quả, trời Vô phiền, trời Vô nhiệt, trời Thiện kiến, trời Thiện hiện, trời Sắc cứu cánh, các Thiên tử ở các cõi trời trên đều trụ vào tâm Bồ-đề, vì cung kính pháp nên đến lễ bái tán thán, tùy hỷ, thọ trì pháp ấy. Đắc pháp rồi đảnh lễ, thọ trì, họ liền trở về cõi trời của mình.
Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Thiện nam, thiện nữ lúc thọ trì, đọc tụng Bát-nhã ba-la-mật-đa này suy nghĩ: “Mười phương vô lượng, vô biên thế giới, tất cả Thiên, Long, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Nhân phi nhân, đều cung kính pháp nên đến lễ lạy, lắng nghe, thọ trì kinh Bát-nhã ba-la-mật-đa. Khi các vị ấy đến, ta sẽ dùng kinh này bố thí làm cho họ đắc pháp, sau khi đắc pháp rồi họ lần lượt trở về.”
Này Kiều-thi-ca! Nếu chỗ có kinh Bát-nhã ba-la-mật-đa này thì ta không chỉ nói cho các Thiên tử ở bốn châu, ở Dục giới, ở Sắc giới trụ tâm Bồ-đề, cung kính pháp, đến chỗ có kinh mà lễ lạy cung kính thọ trì.
Này Kiều-thi-ca! Cho đến tam thiên đại thiên thế giới trong cõi Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới trụ tâm Bồ-đề đều cung kính pháp. Kinh Bát-nhã ba-la-mật-đa ở chỗ nào, thì họ cùng nhau đến chỗ ấy, lễ lạy xưng tán, tùy hỷ, cung kính, thọ trì. Khi đắc pháp họ cũng lễ lạy cung kính thọ trì và lần lượt trở về cõi trời của mình.
Lại nữa, Kiều-thi-ca! Thiện nam, thiện nữ nào thọ trì, đọc tụng kinh Bát-nhã ba-la-mật-đa, nơi có kinh điển này, hoặc bảo điện, hoặc phòng xá thì những nơi ấy kiên cố an ổn không thể phá hoại. Chỗ này có oai lực lớn hàng Thiên, Long, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Nhân phi nhân…, cùng nhau đến chỗ ấy lắng nghe thọ trì chánh pháp.
Khi ấy, Đế Thích bạch Phật:
–Bạch Đức Thế Tôn! Vì sao thiện nam, thiện nữ biết chư Thiên, Long thần đến?
Phật bảo Đế Thích:
–Này Kiều-thi-ca! Thiện nam, thiện nữ nào thọ trì chánh pháp này, khi thấy ánh sáng lớn hoặc ngửi các mùi hương vi diệu liền biết chư Thiên, Long thần đến nghe thọ trì chánh pháp. Dựa vào các hiện tượng này nên biết chư Thiên, Long thần đến.
Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Thiện nam, thiện nữ nào thọ trì chánh pháp này, sống ở chỗ nào thì phòng xá thường phải thanh tịnh, sạch sẽ trang nghiêm, quét dọn các thứ dơ bẩn. Lúc chư Thiên, Long thần đến đây thấy cảnh quang thanh tịnh thì trong tâm họ sinh hoan hỷ, vừa ý, còn các quỷ thần mới đến có đạo lực chưa cao nên đều tránh xa phòng xá ấy. Vì sao? Vì các vị quỷ thần kia thường nương vào oai lực của chư Thiên, Long thần, để lai vãng theo đến khắp nơi.
Do vậy, này Kiều-thi-ca! Nơi nào có kinh Bát-nhã ba-la-mật-đa, nơi nào có người thọ trì pháp thì nơi ấy luôn phải trang nghiêm, thanh tịnh, sạch đẹp. Đây là tôn trọng Pháp nhãn.
Này Kiều-thi-ca! Thiện nam, thiện nữ nào thọ trì Bát-nhã ba-la-mật-đa, thân họ không cảm thấy mệt mỏi, tâm không sinh lười biếng, xa lìa tất cả khổ não, được an vui diệu lạc, khi ngủ nghỉ đều an lạc, cho đến trong mộng cũng thấy cảnh thù thắng, thấy Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác an trú đạo tràng hoặc chuyển pháp luân, hoặc thấy bảo tháp xá-lợi của Như Lai, hoặc thấy các vị Thanh văn, các Đại Bồ-tát, hoặc nghe lời tuyên giảng pháp môn Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm diệu, hoặc được nghe pháp ba mươi bảy phẩm Trợ đạo, hoặc được thấy các Đại Bồ-tát chứng đắc Vô thượng Bồ-đề, hoặc thấy các vị Bồ-tát thọ trì pháp môn Bát-nhã ba-la-mật-đa này, hoặc được nghe pháp môn Bát-nhã ba-la-mật-đa thu tóm tất cả Nhất thiết trí, thấy cõi Phật rộng lớn thanh tịnh, hoặc nghe chư Phật Thế Tôn dùng phương tiện thiện xảo nói pháp Bồ-tát, hoặc thấy Đức Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác ở hướng này, chỗ nọ, thế giới kia vì trăm ngàn vạn ức chúng Thanh văn, Bồ-tát cung kính đi nhiễu quanh Đức Phật mà nói pháp.
Này Kiều-thi-ca! Thiện nam, thiện nữ nào trong mộng thấy những tướng thù thắng như vậy, khi tỉnh giấc thân tâm được nhẹ nhàng, an vui. Người ấy khi đạt được trạng thái như vậy thì đối với đồ ăn, thức uống ngon cũng không sinh tâm tham đắm. Ví như Bí-sô tu hành được tương ưng từ trong đại định sẽ không còn có niệm tưởng đến cao lương mỹ vị.
Này Kiều-thi-ca! Thiện nam, thiện nữ thọ trì Bát-nhã ba-la-mật-đa đạt được như vậy. Vì sao? Vì thiện nam, thiện nữ trụ Bát-nhã ba-la-mật-đa quán các hạnh tương ưng được chư Thiên, Long thần hỗ trợ sức lực, không sinh niệm tưởng đến cao lương mỹ vị. Này Kiều-thi-ca! Thiện nam, thiện nữ nào thọ trì Bát-nhã ba-la-mật-đa thì ngay đời hiện tại đã được công đức hộ trì như vậy.
Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Thiện nam, thiện nữ nào có thể sao chép rồi an trí, cúng dường kinh Bát-nhã ba-la-mật-đa này thì nên biết người ấy được công đức hộ trì rất lớn, huống chi lại có người muốn cầu quả Vô thượng Bồ-đề phát tâm tin hiểu, lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, vì người khác mà giảng nói ý nghĩa sâu rộng của pháp môn Bát-nhã ba-la-mật-đa làm cho chánh pháp ở thế gian được lâu dài. Do nhân duyên này, Phật nhãn không đoạn, chánh pháp không diệt, vậy nên các Đại Bồ-tát đều thọ trì, tuyên bố giảng thuyết liền được Pháp nhãn không hoại, không diệt. Huống chi là lại dùng hương hoa, đèn dầu, hương thơm, cờ phướn, lọng báu, y phục tốt đẹp, dùng các thứ như vậy cúng dường. Nên biết người tạo nhân duyên như vậy sẽ được công đức hộ trì vô lượng, vô biên.
Do vậy, này Kiều-thi-ca! Thiện nam, thiện nữ nào muốn thành tựu công đức tối thắng thì nên phát tâm tin hiểu, thọ trì, đọc tụng đối với pháp môn Bát-nhã ba-la-mật-đa, khởi niệm, tư duy, giảng rộng khắp cho người khác, cho đến tôn trọng cung kính, dùng các thứ hương hoa, đèn dầu, hương thơm cúng dường pháp môn Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Phẩm 4: XƯNG TÁN CÔNG ĐỨC
Khi ấy, Đức Thế Tôn bảo Đế Thích:
–Này Kiều-thi-ca! Có hai phần: Một là xá-lợi của Như Lai có khắp cõi Diêm-phù-đề; phần còn lại là kinh Bát-nhã ba-la-mật-đa. Trong hai phần trên, ông sẽ chọn phần nào?
Đế Thích bạch Phật:
–Bạch Đức Thế Tôn! Có hai phần là xá-lợi của Như Lai khắp cõi Diêm-phù-đề cùng với kinh Bát-nhã ba-la-mật-đa, đối với hai phần trên con sẽ chọn kinh Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Vì Hóa tướng thân, Thật nghĩa thân, Thuyết pháp thân, các thân như vậy của các Đức Như Lai, đều từ Pháp thân mà có, từ chân như thật tế mà hiện ra. Chân như thật tế chính là Bát-nhã ba-la-mật-đa, các thân của chư Phật Thế Tôn đều sinh ra từ Bát-nhã ba-la-mật-đa. Do vậy, nên lễ lạy cúng dường xá-lợi của Như Lai, tuy cúng dường xá-lợi của Như Lai nhưng không bằng tôn trọng cung kính cúng dường Bát-nhã ba-la-mật-đa này. Vì sao? Vì thân của Như Lai từ Bát-nhã ba-la-mật-đa mà sinh ra.
Bạch Đức Thế Tôn! Ví như lúc con ngồi trong Thiện pháp đường ở cõi trời Tam thập tam, nói pháp chính yếu cho các Thiên tử, gặp lúc con có việc phải rời pháp tòa, lúc ấy có các Thiên tử đến tuy không thấy con, nhưng họ đều hướng đến pháp tòa cung kính lễ lạy, đi nhiễu quanh rồi trở về. Các vị ấy suy nghĩ: “Thiên chủ Đế Thích thường ngồi tòa này, thuyết giảng pháp chính yếu cho chư Thiên, do vậy, nay chúng ta nên lễ lạy pháp tòa này.”
Bạch Đức Thế Tôn! Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác cũng lại như vậy. Nhất thiết trí của Như Lai, nương thân của Như Lai, thân này có được cũng do Nhất thiết trí. Do nhân duyên này, nên từ nơi như thật trí sinh ra trí Nhất thiết trí của Như Lai, trí này cũng sinh từ Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Bạch Đức Thế Tôn! Do đây, đối với hai phần trên con chọn phần Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Đối với xá-lợi của Phật, không phải con không có lòng cung kính, nhưng vì xá-lợi của Như Lai từ nơi Bát-nhã ba-la-mật-đa mà có, nên con chọn phần Bát-nhã ba-la-mật-đa. Đó cũng chính là cúng dường xá-lợi của Như Lai.
Bạch Đức Thế Tôn! Để việc xá-lợi của Như Lai khắp cõi Diêm-phù-đề lại, nếu khắp bốn đại châu, khắp tiểu thiên thế giới, khắp trung thiên thế giới đều có xá-lợi của Như Lai, thì cũng để việc đó lại. Giả sử xá-lợi của Như Lai đầy khắp tam thiên thế giới là một phần và kinh Bát-nhã ba-la-mật-đa này là một phần.
Bạch Đức Thế Tôn! Đối với hai phần như vậy, con cũng chọn lấy phần Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Bạch Đức Thế Tôn! Đối với xá-lợi của Phật, không phải là con không có lòng cung kính. Nhưng vì xá-lợi của Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác đều sinh từ Bát-nhã ba-la-mật-đa, thân của Như Lai nương dựa vào Nhất thiết trí, mà Nhất thiết trí lại từ Bát-nhã ba-la-mật-đa sinh ra, cho nên đối với hai phần trên con chọn Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Bạch Đức Thế Tôn! Ví như ngọc ma-ni, đầy đủ màu sắc, có công đức lớn, hàng phi nhân ở các nơi muốn được ngọc đều không thể được. Tại chỗ ở của các phi nhân, có thiện nam, thiện nữ tay cầm ngọc ma-ni đi vào trong phòng thì hàng phi nhân lập tức rời khỏi phòng này. Lại nữa, khi mang ngọc này bên mình thì người ấy có khả năng diệt trừ các việc độc hại khổ não, nếu có tai họa như gió, trúng độc, các bệnh thì nên dùng ngọc này đeo bên mình thì các loại bệnh khổ đều tiêu trừ. Ngọc ma-ni này khi ở trong tối thì phát ra ánh sáng, khi gặp nơi lửa dữ thiêu đốt thì làm cho mát mẻ, hoặc lúc gặp chỗ giá lạnh thì làm cho ấm áp. Hoặc gặp chỗ có nhiều trùng rất độc, gặp nơi có ngọc ma-ni thì chúng sẽ bỏ đi không thể làm hại. Lại có người bị các thứ độc làm tổn hại, khi gặp ngọc ma-ni thì các độc này liền bị tiêu diệt. Lại có người bị các chứng bệnh nên mắt không thể nhìn thấy cảnh vật, đem ngọc này để cạnh mắt thì mắt người này liền thấy được rõ ràng, xa lìa các khổ não. Lại nữa, đem ngọc này để vào trong nước thì nước và ngọc đồng một màu, đem ngọc này để vào trong nước có các màu sắc, xanh, đỏ, vàng, trắng, thì ngọc này sẽ chuyển thành màu giống màu của nước, tùy theo từng màu sắc mà nó đồng một màu, đem ngọc này để vào trong nước dơ thì nước liền trong sạch.
Bạch Đức Thế Tôn! Ngọc ma-ni kia có đầy đủ màu sắc và có công đức như vậy.
Khi ấy, Tôn giả A-nan nói với Đế Thích:
–Như ngài đã nói, ngọc ma-ni này có đầy đủ công đức, ở cõi trời và ở nhân gian có loại ngọc báu này không?
Đế Thích thưa Tôn giả A-nan:
–Ngọc báu này ở cõi trời, cõi người đều có, nhưng ở thế gian ít được tôn trọng, tôn quý, còn ngọc ma-ni này ở cõi trời được chư Thiên, người đều tôn quý, vì ngọc có đầy đủ màu sắc, công đức thù thắng. Ngọc báu ở cõi Diêm-phù-đề so sánh với ngọc ở cõi trời thì không bằng một phần trăm, một phần ngàn, một phần trăm ngàn, một phần ức, một phần trăm ức, một phần ngàn ức, một phần trăm ngàn ức, toán số thí dụ thì đến một phần nhỏ nhiệm cũng không thể sánh. Tất cả tướng ngọc ma-ni ở cõi trời này đều viên mãn, ngọc đó bao gồm tất cả diệu bảo. Do công đức của ngọc như vậy nên người mang ngọc này đi thì được mọi người tôn kính. Vì sao? Vì bảo châu này là vật kỳ diệu.
Khi ấy, Đế Thích lại bạch Phật:
–Bạch Đức Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng như vậy, Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác có Nhất thiết trí đầy đủ công đức nên sau khi nhập Niết-bàn, xá-lợi cũng được lễ lạy cúng dường. Vì sao? Vì Nhất thiết trí nương vào thân Như Lai, do đây nên xá-lợi của Như Lai giống như bảo khí kia, còn trí Nhất thiết trí như là báu vật. Do nghĩa này nên xá-lợi của Như Lai được lễ lạy cúng dường.
Bạch Đức Thế Tôn! Khi Phật giảng thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa cho tất cả thế giới thì ta nên phát tâm chân thật cúng dường, hoặc khi Pháp sư thuyết pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa cho người khác nghe thì ta cũng phát tâm chân thật cúng dường.
Bạch Đức Thế Tôn! Ví như đại thần phụng mệnh nhà vua đi đến chỗ đông người, nhưng không sinh tâm lo sợ, vì nương vào uy đức của nhà vua. Pháp sư khi thuyết pháp cũng như vậy. Ở trong chúng hội, vị ấy nói pháp không có lo sợ, vì nương vào công đức lớn của chánh pháp. Do vậy, nên Pháp sư được cung kính cúng dường. Pháp sư được cúng dường nên xá-lợi của Như Lai cũng được cúng dường.
Bạch Đức Thế Tôn! Như trước đã nói, xá-lợi của Như Lai khắp tam thiên đại thiên thế giới. Giả sử xá-lợi của Như Lai khắp tam thiên đại thiên thế giới là một phần, kinh Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng một phần thì bạch Đức Thế Tôn, đối với hai phần ở trên thì con chọn Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Bạch Đức Thế Tôn! Đối với xá-lợi của Như Lai chẳng phải con không tôn trọng. Chỉ vì xá-lợi của Như Lai cũng từ Bát-nhã ba-la-mật-đa mà có, nương dựa vào Nhất thiết trí, do vậy, con tôn trọng cúng dường kinh Bát-nhã ba-la-mật-đa.
–Bạch Đức Thế Tôn! Cúng dường Bát-nhã ba-la-mật-đa này cũng giống như cúng dường chư Phật ở quá khứ, hiện tại, vị lai.
Lại nữa, bạch Đức Thế Tôn! Thiện nam, thiện nữ nào muốn thấy thân chân thật của Như Lai lúc thuyết pháp ở mười phương vô lượng a-tăng-kỳ kiếp thì nên tu hành đúng theo Bát-nhã ba-la-mật-đa, an trụ khéo tương ưng, quán tướng như thật.
Bấy giờ, Thế Tôn bảo Đế Thích:
–Đúng như vậy, này Kiều-thi-ca! Các Đức Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác trong quá khứ, do nhân duyên tu tập Bát-nhã ba-la-mật-đa mà được thành tựu Vô thượng Bồ-đề.
Ở đời vị lai, có vô lượng, vô số Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác đều do nhân duyên tu tập trí tuệ này được thành tựu Vô thượng Bồ-đề.
Này Kiều-thi-ca! Hiện tại, ta cũng tu tập Bát-nhã ba-la-mật-đa mà đắc quả Vô thượng Bồ-đề.
Đế Thích bạch Phật:
–Bạch Đức Thế Tôn! Đại Ba-la-mật-đa là Bát-nhã ba-la-mật-đa, do tu tập Bát-nhã ba-la-mật-đa nên Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác biết đúng như thật các tâm hạnh của tất cả chúng sinh.
Phật bảo:
–Đúng như vậy. Này Kiều-thi-ca! Các Đại Bồ-tát tu tập pháp môn Bát-nhã ba-la-mật-đa lâu dài nên biết rõ các tâm hạnh của tất cả chúng sinh.
Khi ấy, Đế Thích bạch Phật:
–Bạch Đức Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa hay còn thực hành các Ba-la-mật-đa khác nữa?
Phật bảo:
–Này Kiều-thi-ca! Các Đại Bồ-tát thực hành đủ cả sáu pháp Ba-la-mật-đa.
–Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa so với các pháp Ba-la-mật-đa khác thì nó đứng đầu. Do vậy, Bố thí ba-la-mật-đa thường xả bỏ, Trì giới ba-la-mật-đa thường thọ nhận, Nhẫn nhục ba-la-mật-đa thường chấp nhận, Tinh tấn ba-la-mật-đa luôn tăng trưởng, Thiền định ba-la-mật-đa mãi tịch tĩnh, Bát-nhã ba-la-mật-đa có khả năng hiểu biết các pháp nên có khả năng mở lối, dẫn dắt các pháp Ba-la-mật-đa và dùng phương tiện thiện xảo để thu nhận. Do có Bát-nhã ba-la-mật-đa nên có hồi hướng đến Nhất thiết trí, có hồi hướng đến pháp giới thanh tịnh thù thắng.
Này Kiều-thi-ca! Ví như ở trong cõi Diêm-phù-đề có nhiều loại cây, có nhiều hình dáng và màu sắc, các loại thân rễ, các loại cành lá, các thứ hoa quả, tuy có sự sai biệt như vậy nhưng bóng râm của cây thì giống nhau không có sai biệt.
Này Kiều-thi-ca! Các Ba-la-mật-đa cũng lại như vậy, tuy có sai biệt nhưng phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa đều hồi hướng đến Nhất thiết trí kia.
Đế Thích bạch Phật:
–Bạch Đức Thế Tôn, hy hữu thay! Bát-nhã ba-la-mật-đa có đầy đủ công đức lớn, Bát-nhã ba-la-mật-đa có đầy đủ vô lượng, vô biên công đức.
Phẩm 5: CHÁNH PHƯỚC
Khi ấy, Đế Thích bạch Phật:
–Bạch Đức Thế Tôn! Thiện nam, thiện nữ nào phát tâm cầu đạo Bồ-đề thì nên phát tâm tin hiểu, lắng nghe, thọ trì, đọc tụng pháp môn Bát-nhã ba-la-mật-đa, cho đến vì người khác mà giảng giải nghĩa pháp, làm cho chánh pháp tồn tại lâu dài ở thế gian. Do nhân duyên này khiến cho Phật nhãn không đoạn, chánh pháp không diệt. Các Đại Bồ-tát đều thọ trì để chánh pháp không hoại, diệt. Người được nghe pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa này rồi liền xưng tán thì được lợi ích lớn, quả báo đầy đủ, vô lượng công đức, hiểu biết đúng đắn.
Bát-nhã ba-la-mật-đa là sự hộ trì lớn, Bát-nhã ba-la-mật-đa luôn được tôn trọng, Bát-nhã ba-la-mật-đa là pháp tối thắng khó được, Bát-nhã ba-la-mật-đa phát sinh tin hiểu. Thiện nam, thiện nữ nên tán thán tôn trọng, dùng các loại hoa đẹp, đèn dầu, hương thơm, cờ phướn, lọng báu, y phục tốt đẹp cúng dường.
Lại nữa, thiện nam, thiện nữ nào đem kinh Bát-nhã ba-la-mật-đa giảng dạy cho người khác, làm cho họ phát tâm cúng dường.
Bạch Đức Thế Tôn! Thiện nam, thiện nữ làm như vậy, được phước đức nhiều không?
Phật bảo Đế Thích:
–Này Kiều-thi-ca! Nay ta hỏi ông, hãy tùy ý trả lời. Ông nghĩ thế nào? Sau khi Như Lai nhập Niết-bàn, có thiện nam, thiện nữ tôn trọng, cung kính phát tâm cúng dường xá-lợi. Lại có thiện nam, thiện nữ tự mình cúng dường xá-lợi của Phật rồi dạy cho người khác phát tâm tôn trọng, cung kính cúng dường, thiện nam, thiện nữ làm như vậy được công đức nhiều không?
Đế Thích bạch Phật:
–Phước đức của thiện nam, thiện nữ cúng dường xá-lợi của Như Lai không bằng phước đức của người đem xá-lợi của Phật thuyết giảng, giúp người khác cúng dường, phước đức ấy thật là nhiều.
Phật nói:
–Đúng như vậy, phước đức của thiện nam, thiện nữ tự mình sao chép cúng dường kinh Bát-nhã ba-la-mật-đa, không bằng phước đức của người tự sao chép cúng dường kinh Bát-nhã ba-la-mật-đa rồi tuyên bày, giúp người khác cùng phát tâm cúng dường. Do tạo nhân duyên như vậy, thiện nam, thiện nữ này được công đức rất nhiều.
Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Thiện nam, thiện nữ giáo hóa làm cho tất cả chúng sinh ở cõi Diêm-phù-đề đều tu học mười thiện. Này Kiều-thi-ca! Ý ông như thế nào? Người tạo nhân duyên như vậy, được phước đức nhiều không?
Đế Thích bạch Phật:
–Bạch Đức Thế Tôn, rất nhiều!
Phật nói:
–Này Kiều-thi-ca! Thiện nam, thiện nữ tạo ra nhân duyên như vậy được phước đức rất nhiều, nhưng không bằng phước đức của người đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa phát tâm tin hiểu, phát tâm Bồ-đề, an trụ vào pháp Bồ-tát, sao chép kinh Bát-nhã ba-la-mật-đa, thọ trì, đọc tụng, hoan hỷ, giảng thuyết cho người khác, hoặc vì người khác giải thích rõ ràng nghĩa pháp này làm cho họ sinh tâm thanh tịnh đối với chánh pháp, xa lìa nghi hoặc, khuyến khích người khác thọ trì pháp này nên nói như vầy: “Các thiện nam, Bát-nhã ba-la-mật-đa là đạo Bồ-tát, các ông nên tu học pháp này. Người học như vậy mau chóng chứng đắc Vô thượng Bồ-đề, làm cho tất cả hữu tình được an trú vào chân như, thật tế.”
Này Kiều-thi-ca! Thiện nam, thiện nữ này được phước đức rất nhiều.
Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Hãy để qua việc có người giáo hóa, khiến cho tất cả chúng sinh khắp cõi Diêm-phù-đề tu mười thiện, nếu có người giáo hóa chúng sinh khắp bốn châu tu hành mười thiện, hoặc độ chúng sinh khắp tiểu thiên thế giới, trung thiên thế giới, tam thiên đại thiên thế giới tu hành mười thiện cho đến chúng sinh trong hằng hà sa số tam thiên đại thiên thế giới tu mười thiện.
Này Kiều-thi-ca! Ý ông thế nào? Những người gieo nhân duyên như vậy được phước nhiều không?
Đế Thích bạch Phật:
–Bạch Đức Thế Tôn, rất nhiều!
Phật nói:
–Này Kiều-thi-ca! Thiện nam, thiện nữ tạo nhân duyên như vậy được phước đức rất nhiều, nhưng không bằng có người đối với pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa phát tâm tin hiểu, phát tâm Bồ-đề, trụ vào pháp Bồ-tát, sao chép kinh Bát-nhã ba-la-mật-đa, thọ trì đọc tụng, hoan hỷ giảng nói cho người khác, giải thích ý nghĩa kinh, sinh tâm thanh tịnh đối với chánh pháp xa lìa tất cả nghi hoặc, khuyến khích người khác thọ trì kinh bằng những lời như vầy: “Này các thiện nam, Bát-nhã ba-la-mật-đa là đạo Bồ-tát, các ông nên tu học pháp này để mau chóng chứng đắc Vô thượng Bồ-đề, làm cho tất cả hữu tình an trụ vào chân thật thật tế.”
Này Kiều-thi-ca! Thiện nam, thiện nữ này được phước đức rất nhiều.
Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Thiện nam, thiện nữ nào giáo hóa chúng sinh khắp cõi Diêm-phù-đề khiến họ tu định Tứ thiền, thì này Kiều-thi-ca! Y ông như thế nào? Người ấy tạo nhân duyên như vậy được phước nhiều không?
Đế Thích bạch Phật:
–Bạch Đức Thế Tôn, rất nhiều!
Phật nói:
–Này Kiều-thi-ca! Phước mà thiện nam, thiện nữ tạo nhân duyên như vậy tuy nhiều, nhưng không bằng phước đức mà người phát tâm tin hiểu đối với pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa, phát tâm Bồ-đề, trụ vào pháp Bồ-tát, sao chép kinh Bát-nhã ba-la-mật-đa, thọ trì, đọc tụng rồi hoan hỷ giảng nói cho người khác. Hoặc vì người khác mà giải thích rõ nghĩa pháp, đối với chánh pháp sinh tâm thanh tịnh, lìa bỏ tất cả nghi hoặc, khuyến khích hướng dẫn người khác thọ trì pháp môn này, rồi nói: “Này các thiện nam, thiện nữ, Bát-nhã ba-la-mật-đa này chính là đạo Bồ-tát. Các ông nên giảng thuyết, tu học theo pháp ấy.” Tu học như vậy gọi là đắc pháp, mau chứng Vô thượng Bồ-đề, độ hết loài hữu tình, khiến cho họ an trụ vào pháp chân như thật tế. Này Kiều-thi-ca! Thiện nam, thiện nữ này được phước rất lớn.
Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Hãy để lại việc hóa độ chúng sinh khắp cõi Diêm-phù-đề, khắp bốn châu đều tu Tứ thiền; khắp tiểu thiên thế giới, trung thiên thế giới, tam thiên đại thiên thế giới, cho
đến khắp hằng hà sa tam thiên đại thiên thế giới tu Tứ thiền định. Này Kiều-thi-ca! Ý ông như thế nào? Những người tạo nhân duyên như vậy, được phước nhiều không?
Đế Thích bạch Phật:
–Bạch Đức Thế Tôn, rất nhiều!
Phật nói:
–Này Kiều-thi-ca! Thiện nam, thiện nữ nào tạo nhân duyên như vậy phước đức tuy nhiều, nhưng không bằng phước mà người đối với pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa phát tâm tin hiểu, phát tâm Bồ-đề, trụ vào pháp Bồ-tát, sao chép kinh Bát-nhã ba-la-mật-đa, thọ trì, đọc tụng rồi hoan hỷ giảng nói cho người khác. Hoặc vì người khác mà giải thích rõ nghĩa pháp, đối với chánh pháp sinh tâm thanh tịnh, lìa bỏ tất cả nghi hoặc, khuyến khích hướng dẫn người khác thọ trì pháp môn này, rồi nói: “Các thiện nam, thiện nữ Bát-nhã ba-la-mật-đa này là đạo Bồ-tát. Các ông nên giảng thuyết, tu học theo pháp ấy.” Tu học như vậy gọi là đắc pháp, mau chóng chứng Vô thượng Bồ-đề, có thể độ tất cả hữu tình, khiến cho họ an trụ vào pháp chân như thật tế. Này Kiều-thi-ca! Nên biết người này được phước rất nhiều.
Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Có người giáo hóa chúng sinh khắp cõi Diêm-phù-đề, tu bốn Vô lượng tâm, hành bốn Vô sắc định cho đến tu tất cả thần thông, phạm hạnh, các pháp thiền định, thực hành các phước. Này Kiều-thi-ca! Ý ông nghĩ thế nào? Người ấy tạo nhân duyên như vậy được phước nhiều không?
Đế Thích bạch Phật:
–Bạch Đức Thế Tôn, rất nhiều!
Phật nói:
–Này Kiều-thi-ca! Thiện nam, thiện nữ do nhân duyên này được phước tuy nhiều, nhưng không bằng người đối với pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa phát tâm tin hiểu, phát tâm Bồ-đề, trụ ở pháp Bồ-tát, sao chép kinh Bát-nhã ba-la-mật-đa, rồi thọ trì, đọc tụng, hoan hỷ giảng nói cho người khác. Hoặc vì người khác giải thích rõ nghĩa pháp này, đối với chánh pháp sinh tâm thanh tịnh, lìa xa tất cả nghi hoặc, khuyến khích, hướng dẫn người khác thọ trì pháp này, rồi nói: “Này các thiện nam, thiện nữ pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa là đạo Bồ-tát. Các ông nên tuyên giảng, tu tập theo giáo pháp này, tu học như vậy gọi là đắc pháp, mau chóng chứng Vô thượng Bồ-đề, độ hết loài hữu tình, khiến cho tất cả an trụ vào chân như thật tế.”
Này Kiều-thi-ca! Thiện nam, thiện nữ được phước rất nhiều.
Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Hãy để lại việc hóa độ chúng sinh khắp cõi Diêm-phù-đề, khắp bốn châu, khắp tiểu thiên thế giới, trung thiên thế giới, tam thiên đại thiên thế giới, tu hành vô lượng, vô biên thần thông, phạm hạnh, các pháp thiền định và hành các việc phước thiện.
Này Kiều-thi-ca! Giả sử có người giáo hóa hằng hà sa số chúng sinh, tu vô lượng, vô biên thần thông, phạm hạnh, các pháp thiền định và hành các việc phước thiện. Ý ông nghĩ sao? Người này tạo nhân duyên như vậy, được phước nhiều không?
Đế Thích bạch Phật:
–Bạch Đức Thế Tôn, rất nhiều!
Phật nói:
–Này Kiều-thi-ca! Thiện nam, thiện nữ này được phước tuy nhiều, nhưng không bằng người đối với pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa phát tâm tin hiểu, phát tâm Bồ-đề, trụ vào pháp Bồ-tát, sao chép kinh Bát-nhã ba-la-mật-đa, rồi thọ trì, đọc tụng, sinh tâm hoan hỷ giảng nói cho người khác. Hoặc lại vì người khác mà giải thích rõ nghĩa pháp này, đối với chánh pháp sinh tâm thanh tịnh, lìa xa tất cả nghi hoặc, khuyến khích hướng dẫn người khác thọ trì pháp này, rồi nói: Các ông nên tuyên giảng, tu tập theo giáo pháp này, tu học như vậy gọi là đắc pháp, mau chóng chứng Vô thượng Bồ-đề, độ hết loài hữu tình, khiến cho tất cả an trụ vào chân như thật tế.”
Này Kiều-thi-ca! Thiện nam, thiện nữ này được phước rất nhiều.
Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Thiện nam, thiện nữ nào đối với kinh Bát-nhã ba-la-mật-đa sao chép, thọ trì, đọc tụng, khuyến khích người khác đọc tụng pháp này thì được phước rất lớn, nhưng không bằng phước của người đối với pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa, vì người khéo giảng rộng ý nghĩa pháp này.
–Này Kiều-thi-ca! Nên biết, người này được phước rất lớn.
Khi ấy, Đế Thích bạch Phật:
–Bạch Đức Thế Tôn! Nên vì hạng người nào mà giảng nói pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa này.
Phật nói Đế Thích:
–Thiện nam, thiện nữ nào đối với pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa chưa hiểu rõ, nên vì họ mà giảng thuyết. Vì sao?
Này Kiều-thi-ca! Ở đời vị lai, có người nói những pháp tương tợ pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa, nhưng thiện nam, thiện nữ khát khao muốn chứng được Vô thượng Bồ-đề, nghe và tu học theo pháp tương tợ Bát-nhã ba-la-mật-đa, tâm họ tán loạn, hiểu biết không đúng.
Đế Thích bạch Phật:
–Bạch Đức Thế Tôn! Vì sao ở đời vị lai có người nói pháp tương tợ Bát-nhã ba-la-mật-đa? Lại nữa, làm sao phân biệt được rõ ràng?
Phật bảo Đế Thích:
–Này Kiều-thi-ca! Ở đời vị lai có các Bí-sô nói như vầy: Sắc là vô thường, thân, tâm cùng giới, định, tuệ đều không chỗ có, xa lìa các pháp quán. Nói như vậy, nên biết là nói pháp tương tợ Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Này Kiều-thi-ca! Tại sao có tên là tương tợ Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì người kia đã nói: Do sắc hoại nên quán sắc vô thường; do thọ, tưởng, hành, thức hoại nên có quán thọ, tưởng, hành, thức vô thường. Tìm cầu và hành như vậy là thực hành tương tợ Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Này Kiều-thi-ca! Nên biết, pháp như thế này đều gọi là tương tợ Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Này Kiều-thi-ca! Ông nên biết, sắc không hoại nên quán sắc vô thường; thọ, tưởng, hành, thức không hoại nên quán thọ, tưởng, hành, thức vô thường. Người nói như vậy là tuyên thuyết như thật pháp môn Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Này Kiều-thi-ca! Do nghĩa này nên thiện nam, thiện nữ có thể
vì người giảng giải đúng như thật của pháp môn Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nên biết thiện nam, thiện nữ này được phước rất nhiều.
Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Thiện nam, thiện nữ độ chúng sinh khắp cõi Diêm-phù-đề khiến tất cả an trụ quả vị Tu-đà-hoàn.
Này Kiều-thi-ca! Ý ông nghĩ như thế nào? Thiện nam, thiện nữ tạo nhân duyên như vậy, được phước đức nhiều không?
Đế Thích bạch Phật:
–Bạch Đức Thế Tôn, rất nhiều!
Phật dạy:
–Thiện nam, thiện nữ do nhân duyên này được phước tuy nhiều, nhưng không bằng có người đối với pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa phát tâm tin hiểu, phát tâm Bồ-đề, trụ vào pháp Bồ-tát, sao chép kinh Bát-nhã ba-la-mật-đa, rồi thọ trì đọc tụng, sinh tâm hoan hỷ giảng nói cho người khác. Hoặc lại vì người khác mà giải thích rõ nghĩa pháp này, đối với chánh pháp sinh tâm thanh tịnh, lìa xa tất cả nghi hoặc, khuyến khích hướng dẫn người khác thọ trì pháp này, rồi nói: “Này thiện nam, pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa là đạo Bồ-tát. Các ông nên giảng nói tu học theo giáo pháp này, tu học như vậy gọi là đắc pháp, mau chóng chứng Vô thượng Bồ-đề, độ hết loài hữu tình, khiến cho tất cả an trụ vào chân như thật tế.”
Này Kiều-thi-ca! Thiện nam, thiện nữ này được phước rất nhiều. Vì sao? Vì quả Tu-đà-hoàn cũng từ Bát-nhã ba-la-mật-đa sinh ra.
Này Kiều-thi-ca! Hãy để lại việc như trước đã nói, có người độ chúng sinh khắp cõi Diêm-phù-đề, khắp bốn châu, khắp tiểu thiên thế giới, khắp trung thiên thế giới, khắp tam thiên đại thiên thế giới khiến an trụ vào quả Tu-đà-hoàn, tạo ra các phước.
Này Kiều-thi-ca! Giả sử có người độ chúng sinh khắp hằng hà sa số tam thiên đại thiên thế giới khiến tất cả an trụ vào quả Tu-đà-hoàn tạo ra các phước.
Này Kiều-thi-ca! Ý ông nghĩ sao? Người tạo nhân duyên như vậy được phước nhiều không?
Đế Thích bạch Phật:
–Bạch Đức Thế Tôn, rất nhiều!
Phật nói:
–Thiện nam, thiện nữ do nhân duyên này được phước tuy nhiều, nhưng không bằng có người đối với pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa phát tâm tin hiểu, phát tâm Bồ-đề, trụ vào pháp Bồ-tát, sao chép kinh Bát-nhã ba-la-mật-đa, thọ trì, đọc tụng, hoan hỷ giảng nói cho người khác. Hoặc vì người khác mà giải thích rõ ràng nghĩa pháp này, khởi tâm thanh tịnh đối với chánh pháp, xa lìa tất cả nghi hoặc, khuyến khích hướng dẫn người khác thọ trì kinh pháp này, rồi nói: “Này thiện nam, pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa này là đạo Bồ-tát. Các ông nên giảng nói tu học theo giáo pháp này, học như vậy gọi là đắc pháp, mau chóng chứng Vô thượng Bồ-đề, độ hết loài hữu tình, khiến tất cả an trụ vào chân như thật tế.”
Này Kiều-thi-ca! Thiện nam, thiện nữ này được phước rất nhiều. Vì sao? Vì quả vị Tu-đà-hoàn cũng từ pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa sinh ra.
Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Thiện nam, thiện nữ giáo hóa chúng sinh khắp cõi Diêm-phù-đề, khiến cho tất cả an trụ vào quả vị Tư-đà-hàm.
Này Kiều-thi-ca! Ý ông nghĩ sao? Người tạo nhân duyên như vậy, được phước nhiều không?
Đế Thích bạch Phật:
–Bạch Đức Thế Tôn, rất nhiều!
Phật nói:
–Thiện nam, thiện nữ do nhân duyên này được phước tuy nhiều, nhưng không bằng có người đối với pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa phát tâm tin hiểu, phát tâm Bồ-đề, trụ vào pháp Bồ-tát, sao chép kinh Bát-nhã ba-la-mật-đa, thọ trì, đọc tụng, hoan hỷ giảng nói cho người khác. Hoặc vì người khác mà giải thích rõ ràng nghĩa pháp này, đối với chánh pháp sinh tâm thanh tịnh, xa lìa tất cả nghi hoặc, khuyến khích hướng dẫn người khác thọ trì kinh pháp này, rồi nói: “Này thiện nam! Pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa này là đạo Bồ-tát. Các ông nên giảng nói tu học theo giáo pháp này, học như vậy gọi là đắc pháp, mau chóng chứng Vô thượng Bồ-đề, độ hết loài hữu tình, khiến tất cả an trụ vào chân như thật tế.”
Này Kiều-thi-ca! Thiện nam, thiện nữ này được phước rất nhiều. Vì sao? Vì quả Tư-đà-hàm cũng từ Bát-nhã ba-la-mật-đa sinh ra.
Này Kiều-thi-ca! Hãy để lại sự việc như trước đã nói. Có người độ chúng sinh khắp cõi Diêm-phù-đề, khắp bốn châu, khắp tiểu thiên thế giới, khắp trung thiên thế giới, khắp tam thiên đại thiên thế giới khiến an trụ vào quả Tư-đà-hàm, tạo ra các phước.
Này Kiều-thi-ca! Giả sử có người độ chúng sinh khắp hằng hà sa số tam thiên đại thiên thế giới khiến tất cả an trụ vào quả Tu-đà-hoàn tạo ra các phước.
Này Kiều-thi-ca! Ý ông nghĩ sao? Người tạo nhân duyên như vậy được phước nhiều không?
Đế Thích bạch Phật:
–Bạch Đức Thế Tôn, rất nhiều!
–Thiện nam, thiện nữ do nhân duyên này được phước tuy nhiều, nhưng không bằng có người đối với pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa phát tâm tin hiểu, phát tâm Bồ-đề, trụ vào pháp Bồ-tát, sao chép kinh Bát-nhã ba-la-mật-đa, thọ trì, đọc tụng, hoan hỷ giảng nói cho người khác. Hoặc vì người khác mà giải thích rõ nghĩa pháp này, đối với chánh pháp luôn sinh tâm thanh tịnh, xa lìa tất cả nghi hoặc, khuyến khích hướng dẫn người khác thọ trì kinh pháp này, rồi nói: “Này thiện nam, pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa này là đạo Bồ-tát. Các ông nên giảng nói, tu học theo giáo pháp này, học như vậy gọi là đắc pháp, mau chóng chứng Vô thượng Bồ-đề, độ hết loài hữu tình, khiến tất cả an trụ vào chân như thật tế.”
Này Kiều-thi-ca! Thiện nam, thiện nữ này được phước rất nhiều. Vì sao? Vì quả Tư-đà-hàm cũng từ Bát-nhã ba-la-mật-đa sinh ra.
Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Thiện nam, thiện nữ giáo hóa chúng sinh khắp cõi Diêm-phù-đề, làm cho tất cả an trụ vào quả Ana-hàm.
Này Kiều-thi-ca! Ý ông nghĩ sao? Người tạo nhân duyên như vậy, được phước nhiều không?
Đế Thích bạch Phật:
–Bạch Đức Thế Tôn, rất nhiều!
Phật nói:
–Thiện nam, thiện nữ tạo nhân duyên như vậy được phước tuy nhiều, nhưng không bằng có người đối với pháp môn Bát-nhã ba-la-mật-đa phát tâm tin hiểu, phát tâm Bồ-đề, trụ vào pháp Bồ-tát, sao chép kinh Bát-nhã ba-la-mật-đa, thọ trì, đọc tụng, hoan hỷ giảng nói cho người khác. Hoặc vì người khác mà giải thích rõ nghĩa pháp này, luôn sinh tâm thanh tịnh đối với chánh pháp, xa lìa tất cả nghi hoặc, khuyến khích hướng dẫn người khác thọ trì kinh pháp này, rồi nói: “Này thiện nam! Pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa này là đạo Bồ-tát. Các ông nên giảng nói, tu học theo giáo pháp này, học như vậy gọi là đắc pháp, mau chóng chứng Vô thượng Bồ-đề, độ hết loài hữu tình, khiến tất cả an trụ vào chân như thật tế.”
Này Kiều-thi-ca! Thiện nam, thiện nữ này được phước rất nhiều. Vì sao? Vì quả A-na-hàm cũng từ Bát-nhã ba-la-mật-đa sinh ra.
Này Kiều-thi-ca! Hãy để lại sự việc như trước đã nói. Có người độ chúng sinh khắp cõi Diêm-phù-đề, khắp bốn châu, khắp tiểu thiên thế giới, khắp trung thiên thế giới, khắp tam thiên đại thiên thế giới khiến an trụ vào quả A-na-hàm, tạo ra các phước.
Này Kiều-thi-ca! Ý ông nghĩ thế nào? Thiện nam, thiện nữ tạo nhân duyên như vậy được phước nhiều không?
Đế Thích bạch Phật:
–Bạch Đức Thế Tôn, rất nhiều!
Phật nói:
–Thiện nam, thiện nữ do nhân duyên như vậy được phước tuy nhiều, nhưng không bằng có người đối với pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa phát tâm tin hiểu, phát tâm Bồ-đề, trụ vào pháp Bồ-tát, sao chép kinh Bát-nhã ba-la-mật-đa, thọ trì, đọc tụng, hoan hỷ giảng nói cho người khác. Hoặc vì người khác mà giải thích rõ ràng nghĩa pháp này, đối với chánh pháp này luôn sinh tâm thanh tịnh, xa lìa tất cả nghi hoặc, khuyến khích hướng dẫn người khác thọ trì kinh pháp này, rồi nói: “Này thiện nam! Pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa này là đạo Bồ-tát. Các ông nên giảng nói, tu học theo giáo pháp này. Học như vậy gọi là đắc pháp, mau chóng chứng Vô thượng Bồ-đề, độ hết loài hữu tình, khiến tất cả an trụ vào chân như thật tế.”
Này Kiều-thi-ca! Thiện nam, thiện nữ này được phước rất nhiều. Vì sao? Vì quả A-na-hàm cũng từ Bát-nhã ba-la-mật-đa sinh ra.
Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Thiện nam, thiện nữ giáo hóa chúng sinh khắp cõi Diêm-phù-đề, làm cho tất cả an trụ vào quả A-la-hán.
Này Kiều-thi-ca! Ý ông nghĩ thế nào? Thiện nam, thiện nữ tạo nhân duyên như vậy, được phước nhiều không?
Đế Thích bạch Phật:
–Bạch Đức Thế Tôn, rất nhiều!
Phật nói:
–Thiện nam, thiện nữ tạo nhân duyên như vậy được phước tuy nhiều, nhưng không bằng có người đối với pháp môn Bát-nhã ba-la-mật-đa phát tâm tin hiểu, phát tâm Bồ-đề, trụ vào pháp Bồ-tát, sao chép kinh Bát-nhã ba-la-mật-đa, thọ trì, đọc tụng, hoan hỷ giảng nói cho người khác. Hoặc vì người khác mà giải thích rõ nghĩa pháp này, luôn sinh tâm thanh tịnh đối với chánh pháp, xa lìa tất cả nghi hoặc, khuyến khích hướng dẫn người khác thọ trì kinh pháp này, rồi nói: “Này thiện nam! Pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa này là đạo Bồ-tát. Các ông nên giảng nói, tu học theo giáo pháp này, học như vậy gọi là đắc pháp, mau chóng chứng Vô thượng Bồ-đề, độ hết loài hữu tình, khiến tất cả an trụ vào chân như thật tế.”
Này Kiều-thi-ca! Thiện nam, thiện nữ này được phước rất nhiều. Vì sao? Vì quả A-la-hán cũng từ Bát-nhã ba-la-mật-đa sinh ra.
Lại nữa, thiện nam, thiện nữ tùy theo chỗ giảng thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa mà nhận thức, nhận thức rồi tu học theo như pháp đã diễn thuyết, đạt được pháp Phật thành tựu Vô thượng Bồ-đề. Các quả vị Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán, Duyên giác và quả vị Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác đều từ Bát-nhã ba-la-mật-đa sinh ra. Chỗ xuất sinh đúng chân lý như vậy nên đắc pháp.
Này Kiều-thi-ca! Hãy để lại sự việc như trước đã nói. Có người độ chúng sinh khắp cõi Diêm-phù-đề, khắp bốn châu, khắp tiểu thiên thế giới, trung thiên thế giới, tam thiên đại thiên thế giới, hằng hà sa tam thiên đại thiên thế giới khiến trụ vào quả A-la-hán.
Này Kiều-thi-ca! Ý ông nghĩ thế nào? Người tạo nhân duyên như vậy được phước nhiều không?
Đế Thích bạch Phật:
–Bạch Đức Thế Tôn, rất nhiều!
Phật nói:
–Thiện nam, thiện nữ tạo nhân duyên như vậy được phước tuy nhiều, nhưng không bằng có người đối với pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa phát tâm tin hiểu, phát tâm Bồ-đề, trụ vào pháp Bồ-tát, sao chép kinh Bát-nhã ba-la-mật-đa, thọ trì, đọc tụng, hoan hỷ giảng nói cho người khác. Hoặc vì người khác mà giải thích rõ ràng nghĩa pháp này, đối với chánh pháp này luôn sinh tâm thanh tịnh, xa lìa tất cả nghi hoặc, khuyến khích hướng dẫn người khác thọ trì kinh pháp này, rồi nói: “Này thiện nam! Pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa này là đạo Bồ-tát. Các ông nên giảng nói, tu học theo giáo pháp này. Học như vậy gọi là đắc pháp, mau chóng chứng Vô thượng Bồ-đề, độ hết loài hữu tình, khiến tất cả an trụ vào chân như thật tế.”
Này Kiều-thi-ca! Thiện nam, thiện nữ này được phước rất nhiều. Vì sao? Vì quả A-la-hán cũng từ Bát-nhã ba-la-mật-đa sinh ra.
Lại nữa, thiện nam, thiện nữ tùy theo chỗ thuyết giảng pháp môn Bát-nhã ba-la-mật-đa mà nhận thức, đã nhận thức rồi thì tu học theo như pháp đã thuyết, sớm đạt được pháp Phật, mau chóng thành tựu Vô thượng Bồ-đề.
Do đây nên quả Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán, Duyên giác và quả Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác đều từ Bát-nhã ba-la-mật-đa sinh ra. Chỗ xuất sinh đúng pháp như vậy nên được thành tựu.
Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Thiện nam, thiện nữ giáo hóa chúng sinh khắp cõi Diêm-phù-đề, khắp bốn châu, khắp tiểu thiên thế giới, trung thiên thế giới, tam thiên đại thiên thế giới, cho đến hằng hà sa tam thiên đại thiên thế giới đều được an trụ vào quả Duyên giác.
Này Kiều-thi-ca! Ý ông nghĩ thế nào? Người tạo nhân duyên như vậy, được phước nhiều không?
Đế Thích bạch Phật:
–Bạch Đức Thế Tôn, rất nhiều!
Phật nói:
–Thiện nam, thiện nữ tạo nhân duyên như vậy được phước tuy nhiều, nhưng không bằng có người đối với pháp môn Bát-nhã ba-la-mật-đa phát tâm tin hiểu, phát tâm Bồ-đề, an trụ vào pháp Bồ-tát, sao chép kinh Bát-nhã ba-la-mật-đa, thọ trì, đọc tụng, sinh tâm hoan hỷ vì người khác giảng thuyết, hoặc vì người khác mà giải thích rõ nghĩa pháp này, luôn sinh tâm thanh tịnh đối với chánh pháp, xa lìa tất cả nghi hoặc, khuyến khích hướng dẫn người khác thọ trì kinh pháp này, rồi nói: “Này thiện nam! Bát-nhã ba-la-mật-đa này là đạo Bồ-tát. Các ông nên giảng nói, tu học theo giáo pháp này, học như vậy gọi là đắc pháp, mau chóng chứng Vô thượng Bồ-đề, độ hết loài hữu tình, khiến tất cả an trụ vào chân như thật tế.”
Này Kiều-thi-ca! Thiện nam, thiện nữ này được phước rất nhiều. Vì sao? Vì quả Duyên giác cũng từ Bát-nhã ba-la-mật-đa sinh ra.
Lại nữa, thiện nam, thiện nữ tùy theo chỗ giảng thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa mà nhận thức, nhận thức rồi tu học theo như pháp đã diễn thuyết, đạt được pháp Phật, thành tựu Vô thượng Bồ-đề. Do vậy nên các quả vị từ Tu-đà-hoàn cho đến Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác đều từ Bát-nhã ba-la-mật-đa sinh ra. Chỗ xuất sinh đúng chân lý như vậy nên đắc pháp.
Nếu có chúng sinh ở khắp cõi Diêm-phù-đề phát tâm cầu Vô thượng Bồ-đề, hoặc có thiện nam, thiện nữ sao chép kinh Bát-nhã ba-la-mật-đa, bố thí khiến tất cả mọi người thọ trì pháp này. Không bằng có người sao chép kinh Bát-nhã ba-la-mật-đa giúp cho một người trụ vào Đại Bồ-tát không thoái chuyển, khiến họ tu học tương ưng pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa kiên cố, rộng lớn, tăng trưởng, viên mãn, thành tựu Phật pháp.
Này Kiều-thi-ca! Nên biết thiện nam, thiện nữ này được phước rất nhiều. Vì sao? Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa sinh ra Vô thượng Bồ-đề.
Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Hãy để lại sự việc như trước đã nói. Nếu có chúng sinh khắp cõi Diêm-phù-đề, khắp bốn châu, khắp tiểu thiên thế giới, trung thiên thế giới, tam thiên đại thiên thế giới, khắp hằng hà sa tam thiên đại thiên thế giới phát tâm Vô thượng Bồ-đề, hoặc có thiện nam, thiện nữ sao chép kinh điển Bát-nhã ba-la-mật-đa, bố thí khiến mọi người thọ trì kinh này.
Này Kiều-thi-ca! Không bằng có người sao chép kinh Bát-nhã ba-la-mật-đa giúp cho một người an trụ vào Đại Bồ-tát không thoái chuyển, khiến họ tu học tương ưng pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa kiên cố, rộng lớn, tăng trưởng, viên mãn, thành tựu Phật pháp.
Này Kiều-thi-ca! Nên biết thiện nam, thiện nữ này được phước rất nhiều. Vì sao? Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa sinh ra Vô thượng Bồ-đề.
Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Giả sử chúng sinh ở khắp cõi Diêm-phù-đề đều an trụ vào địa vị không thoái chuyển, hoặc có thiện nam, thiện nữ đối với pháp môn Bát-nhã ba-la-mật-đa phổ biến rộng rãi, giải thích rõ ràng nghĩa pháp này.
Này Kiều-thi-ca! Ý ông thế nào? Người tạo nhân duyên như vậy được phước nhiều không?
Đế Thích bạch Phật:
–Bạch Đức Thế Tôn! Thiện nam, thiện nữ đạt được phước rất nhiều, vô lượng, vô biên không thể tính đếm, thí dụ được.
Phật nói:
–Này Kiều-thi-ca! Người này do nhân duyên như vậy được phước tuy nhiều nhưng không bằng có người vì muốn giúp một người chứng Vô thượng Bồ-đề, nên giải thích rõ ràng nghĩa pháp môn Bát-nhã ba-la-mật-đa. Này Kiều-thi-ca! Nên biết người ấy được phước rất nhiều.
Phật nói:
–Này Kiều-thi-ca! Hãy để lại sự việc như trước đã nói. Có chúng sinh ở khắp cõi Diêm-phù-đề, khắp bốn châu, khắp tiểu thiên thế giới, trung thiên thế giới, tam thiên đại thiên thế giới, khắp hằng hà sa tam thiên đại thiên thế giới đều trụ vào địa vị không thoái chuyển, hoặc có thiện nam, thiện nữ phổ biến rộng rãi, giải thích rõ ràng nghĩa pháp môn Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Này Kiều-thi-ca! Ý ông nghĩ thế nào? Người tạo nhân duyên như vậy được phước có nhiều không?
Đế Thích bạch Phật:
–Bạch Đức Thế Tôn! Thiện nam, thiện nữ được công đức vô lượng, vô biên, không thể tính đếm, ví dụ.
Phật nói:
–Này Kiều-thi-ca! Người này do tạo nhân duyên như vậy được phước tuy nhiều nhưng không bằng có người vì muốn giúp một người chứng Vô thượng Bồ-đề, nên giải thích rõ ràng nghĩa pháp môn Bát-nhã ba-la-mật-đa. Này Kiều-thi-ca! Nên biết người ấy được phước rất nhiều.
Này Kiều-thi-ca! Đại Bồ-tát tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa sẽ mau chứng Vô thượng Bồ-đề.
Khi ấy, Đế Thích bạch Phật:
–Bạch Đức Thế Tôn! Đại Bồ-tát nhận thức Bát-nhã ba-la-mật-đa nên gần gũi với Vô thượng Bồ-đề, tùy theo chỗ nhận thức mà giảng nói Bát-nhã ba-la-mật-đa, giảng giải như vậy nên gần gũi Nhất thiết trí.
Do đây, nên đem đồ ăn, thức uống, y phục, đồ nằm, thuốc men… cúng dường Bát-nhã ba-la-mật-đa, tùy theo khả năng của mình tạo ra các việc phước, người ấy sẽ đạt được công đức vô lượng, vô biên. Vì sao? Vì được gần quả Vô thượng Bồ-đề, thành tựu Nhất thiết trí.
Lúc này, Tôn giả Tu-bồ-đề tán thán Đế Thích:
–Lành thay, lành thay! Kiều-thi-ca! Ông khéo hướng dẫn các Đại Bồ-tát và hộ niệm cho họ. Này Kiều-thi-ca! Các đệ tử của Phật đều dùng pháp Vô thượng Bồ-đề hộ niệm các Đại Bồ-tát, khiến phát tâm Vô thượng Bồ-đề, an trụ vào quả Vô thượng Bồ-đề. Ở quá khứ, các Đại Bồ-tát đều do học sáu pháp Ba-la-mật-đa nên phát tâm Bồ-đề an trụ vào quả vị Bồ-đề. Hiện tại Phật Thế Tôn cũng học sáu pháp Ba-la-mật-đa mà thành tựu quả vị Vô thượng Bồ-đề. Ở đời vị lai, các Đại Bồ-tát cũng học như vậy. Vì vậy, này Kiều-thi-ca! Đại Bồ-tát nếu không học sáu pháp Ba-la-mật-đa thì không thể nào đạt được quả vị Vô thượng Bồ-đề.
Phẩm 32: Chúc Lụy
Phẩm 1: BIẾT RÕ CÁC HÀNH TƯỚNG
Tôi nghe như vầy:
–Một thời Phật ở tại đỉnh núi Thứu, thuộc thành Vương xá, cùng với chúng đại Bí-sô một ngàn hai trăm năm mươi vị, đều là những bậc A-la-hán, các lậu hoặc đã được đoạn trừ sạch, tâm khéo giải thoát, tuệ khéo giải thoát, như các đại Long vương. Những việc cần làm đã làm xong, trút bỏ gánh nặng, đạt lợi ích lớn, diệt trừ các kết sử, được chánh trí vô ngại, tâm trụ tịch tĩnh hoàn toàn tự tại, chỉ có một vị còn ở hàng phàm phu, là Tôn giả A-nan.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Tôn giả Tu-bồ-đề:
–Ông hãy hoan hỷ vì các vị Đại Bồ-tát tùy theo căn cơ ban bố giáo pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Khi ấy, Tôn giả Xá-lợi-phất suy nghĩ: “Hiện nay Tôn giả Tu-bồ-đề dùng trí tuệ biện tài của mình giảng thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa cho các Đại Bồ-tát hay là nương vào thần lực và sự gia trì của Phật để thuyết pháp?”
Lúc này, Tôn giả Tu-bồ-đề nhờ vào thần lực của Phật, biết được tâm niệm của Tôn giả Xá-lợi-phất, nên thưa với Tôn giả:
–Tôn giả nên biết, hàng đệ tử Thanh văn của Đức Thế Tôn tu tập theo giáo pháp, hoặc tự mình giảng nói hoặc vì người nói, tất cả đều nhờ vào thần lực của Phật. Vì sao? Vì Phật thuyết pháp, khiến cho những ai tu tập theo giáo pháp ấy đều được chứng đắc tự tánh của các pháp. Khi chứng được rồi thì việc giảng thuyết đều cùng với các pháp không có chỗ trái nghịch. Do vậy, này Xá-lợi-phất! Pháp Phật đã giảng nói đều thuận theo tánh của các pháp. Các hàng thiện nam nên biết như thế.
Tôn giả Tu-bồ-đề bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Phật dạy khiến con tùy theo căn cơ của hàng Đại Bồ-tát mà giảng giải về Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Bạch Thế Tôn! Do những nghĩa nào mà gọi là Bồ-tát? Pháp nào là pháp của Bồ-tát?
Bạch Thế Tôn! Con chẳng thấy pháp nào tên là Bồ-tát, cũng không thấy pháp nào tên là Bát-nhã ba-la-mật-đa. Do những nghĩa này nên Bồ-tát và pháp Bồ-tát đều không thể có, không thể thấy, không thể nắm bắt. Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không thể có, không thể thấy, không thể nắm bắt. Vậy nay con vì hàng Bồ-tát nào và giảng nói pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa nào?
Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát nghe như vậy rồi nói: Tâm không dao động, không lo, không sợ, cũng không thoái lui. Đây gọi là sự giáo hóa cho Đại Bồ-tát về Bát-nhã ba-la-mật-đa, là sự hiểu biết về Bát-nhã ba-la-mật-đa, là sự an trụ nơi Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Bạch Thế Tôn! Lúc Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, lúc quán tưởng về Bát-nhã ba-la-mật-đa nên học như vậy. Tuy học như vậy, nhưng Bồ-tát ấy không sinh tâm ta đã học như thế. Vì sao? Vì tâm kia chẳng phải là tâm, do tánh của tâm luôn thanh tịnh.
Khi ấy, Tôn giả Xá-lợi-phất thưa với Tôn giả Tu-bồ-đề:
–Thưa Tôn giả! Tại sao tâm kia chẳng phải là tâm?
Tu-bồ-đề đáp:
–Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Ý của Tôn giả thế nào? Nói tâm chẳng phải là tâm, đối với có, đối với không, có thể nắm bắt được không?
Xá-lợi-phất đáp:
–Không được.
Tôn giả Tu-bồ-đề bảo Tôn giả Xá-lợi-phất:
–Nói tâm chẳng phải là tâm, đối với có, không đều không thể nắm bắt được, thế thì nay vì sao thầy lại nói có tâm, chẳng phải là tâm!
Xá-lợi-phất hỏi:
–Sao gọi là chẳng phải tâm?
Tu-bồ-đề nói:
–Tất cả đều không bị hoại diệt, xa lìa tất cả phân biệt, đó gọi là chẳng phải tâm.
Tôn giả Xá-lợi-phất liền tán thán Tôn giả Tu-bồ-đề:
–Lành thay, lành thay, Tu-bồ-đề! Đúng như lời Phật dạy, thầy đã an trú nơi hạnh Tam-muội vô tránh, là bậc Tối thắng thứ nhất. Nếu Đại Bồ-tát tu học như thế thì đối với quả vị Chánh đẳng Chánh giác không có thoái chuyển. Nên biết đây là Đại Bồ-tát không rời Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Nếu có người muốn tu học pháp Thanh văn thì nên lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, ghi nhớ, suy nghĩ về pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa và nương vào pháp đó để tu tập. Đó là tu học tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại có người muốn cầu học pháp Duyên giác thì nên lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, ghi nhớ, suy nghĩ về pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa và nương vào pháp đó để tu tập. Đó là tu học tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nếu người muốn tu học pháp Bồ-tát thì nên lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, ghi nhớ, suy nghĩ về pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa và nương vào pháp đó để tu tập. Do thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa này với phương tiện thiện xảo nên tụ hợp đầy đủ với các pháp của Bồ-tát. Vì sao? Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa này đã nói rộng về tất cả Pháp tạng của Bồ-tát. Nếu Đại Bồ-tát tu học như thế thì sẽ tương ưng với các pháp của Bồ-tát.
Nếu người muốn tu học pháp Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác thì nên lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, ghi nhớ, suy nghĩ về pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa và nương vào pháp đó để tu tập. Do thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa này nên khéo tụ hợp đầy đủ tất cả các pháp của Phật. Vì sao? Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa này đã nói rộng về tất cả pháp của Bậc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Nếu Đại Bồ-tát tu học như thế thì sẽ tương ưng với pháp Vô thượng.
Bấy giờ, Tôn giả Tu-bồ-đề bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Chỗ nói về Đại Bồ-tát, con không thể thấy, cũng không thể nắm bắt được, vậy Bồ-tát chỉ là danh tự mà thôi.
Bạch Thế Tôn! Danh tự này thì cũng không thể thấy, không thể nắm bắt được; Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng chỉ có danh tự vì không thể thấy, không thể nắm bắt được. Vậy thì nên vì những Bồ-tát nào, giảng nói về những pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa nào? Do ý nghĩa ấy nên con sinh nghi ngờ.
Bạch Thế Tôn! Con ở trong danh tự cầu Đại Bồ-tát hoàn toàn là không thể đạt được. Mà danh tự kia là không trụ xứ, cũng chẳng phải là không trụ xứ; không quyết định cũng chẳng phải là không quyết định.
Vì sao? Vì danh tự kia không có tánh, do đó không trụ xứ, cũng chẳng phải là không trụ xứ, không quyết định cũng chẳng là không quyết định. Nếu Đại Bồ-tát nghe Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này mà tâm không động, không lo, không sợ, cũng không thoái chuyển, thì nên biết đây là Bồ-tát không rời Bát-nhã ba-la-mật-đa, an trụ nơi quả vị của Bồ-tát không hề thoái chuyển, khéo tương ưng trụ vào vô trụ.
Lại nữa, bạch Thế Tôn! Lúc Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, lúc quán tưởng về Bát-nhã ba-la-mật-đa, không trụ nơi sắc, cũng không trụ nơi thọ, tưởng, hành, thức. Vì sao? Vì trụ nơi sắc tức hành theo nẻo hành của sắc mà không hành theo Bát-nhã ba-la-mật-đa; nếu trụ nơi thọ, tưởng, hành, thức, thì hành theo thọ, tưởng, hành, thức, mà không hành theo Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Vì trụ nơi các pháp thì không thể thọ nhận Bát-nhã ba-la-mật-đa, không tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa, không thể làm viên mãn Bát-nhã ba-la-mật-đa, không thể thành tựu Nhất thiết trí. Vì sao? Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa không thâu nhận nơi sắc; không thâu nhận nơi thọ, tưởng, hành, thức. Nếu không thâu nhận sắc tức chẳng phải là sắc; không thâu nhận thọ, tưởng, hành, thức, tức chẳng phải là thọ, tưởng, hành, thức. Do vậy, nên Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không có đối tượng được thọ nhận. Đại Bồ-tát nên ở trong pháp không thâu nhận như thế mà tu tập. Đây tức là chánh định tất cả pháp không thâu nhận của Đại Bồ-tát bất định này, rộng lớn viên mãn vô lượng nên không bị các pháp Thanh văn, Duyên giác làm cho hư hoại.
Bạch Thế Tôn! Nhất thiết trí kia không có tướng nên không chấp giữ. Nếu có tướng để có thể chấp giữ, thì Thất-lý-ni-ca, Ba-lý-một-la-nhạ-ca, những người ấy đối với Nhất thiết trí chẳng nên sinh tâm tin tưởng. Vì sao? Vì những người ấy đối với Nhất thiết trí mà sinh tin hiểu, dùng trí tuệ có giới hạn hội nhập pháp như vậy, nên không thọ nhận đối với sắc; không thọ nhận đối với thọ, tưởng, hành, thức. Không dùng pháp hỷ lạc làm đối tượng quan sát của trí tuệ, không dùng nội sắc làm đối tượng quan sát của trí tuệ, không dùng ngoại sắc làm đối tượng quan sát của trí tuệ, không dùng nội ngoại sắc làm đối tượng quan sát của trí tuệ, cũng không lìa nội ngoại sắc làm đối tượng quan sát của trí tuệ. Như vậy, không dùng nội thọ, tưởng, hành, thức làm đối tượng quan sát của trí tuệ; không dùng ngoại thọ, tưởng, hành, thức làm đối tượng quan sát của trí tuệ; không dùng nội ngoại thọ, tưởng, hành, thức làm đối tượng quan sát của trí tuệ; cũng không lìa nội ngoại thọ, tưởng, hành, thức làm đối tượng quan sát của trí tuệ. Mà các vị Thất-lý-ni-ca kia đối với pháp như thế và trí Nhất thiết trí đã phát sinh sự tin hiểu sâu xa tánh của các pháp, nên đạt được giải thoát. Lại ở nơi tất cả pháp không chấp giữ, cũng không chẳng phải là chấp giữ, cho đến Niết-bàn cũng không chấp giữ không chẳng phải là chấp giữ.
Bạch Thế Tôn! Hành giả tu tập pháp Bồ-tát tuy đối với sắc, thọ, tưởng, hành, thức không có chấp giữ, nhưng vị ấy chưa đạt được trọn vẹn mười Lực, bốn Vô sở úy, mười tám pháp Bất cộng của Như Lai, nên cũng không giữa chừng mà chứng đắc Niết-bàn. Vì vậy, bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát phải biết rõ về Bát-nhã ba-la-mật-đa như vậy.
Lại nữa, bạch Thế Tôn! Khi Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, khi quán tưởng Bát-nhã ba-la-mật-đa, đều làm đúng như thế. Pháp nào là pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa, những tướng nào là Bát-nhã ba-la-mật-đa? Các pháp không có chỗ sinh cũng không có chỗ được, vậy bằng cách nào để có Bát-nhã ba-la-mật-đa? Lúc Bồ-tát quán xét như vậy thì tâm không động, không lo, không sợ, không thoái thất. Nên biết đó là vị Đại Bồ-tát không xa lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Bấy giờ, Tôn giả Xá-lợi-phất thưa Tôn giả Tu-bồ-đề:
–Nếu các sắc pháp xa lìa tự tánh sắc; thọ, tưởng, hành, thức xa lìa tự tánh thọ, tưởng, hành, thức; Bát-nhã ba-la-mật-đa lìa tự tánh Bát-nhã ba-la-mật-đa; Nhất thiết trí lại lìa tự tánh Bát-nhã ba-la-mật-đa; Bát-nhã ba-la-mật-đa lại lìa tự tánh Nhất thiết trí, Nhất thiết trí lìa tự tánh Nhất thiết trí thì vì sao nói Đại Bồ-tát không rời Bát-nhã ba-la-mật-đa?
Tôn giả Tu-bồ-đề nói:
–Này Xá-lợi-phất! Đúng như vậy, đúng như vậy! Tất cả các sắc pháp lìa tự tánh các sắc; thọ, tưởng, hành, thức lìa tự tánh thọ, tưởng, hành, thức, cho đến Nhất thiết trí lìa tự tánh Nhất thiết trí, tướng Bát-nhã ba-la-mật-đa lìa tự tánh tướng Bát-nhã ba-la-mật-đa, các tướng lìa tự tánh các tướng, vô tánh cũng lìa tự tánh.
Bấy giờ, Tôn giả Xá-lợi-phất lại nói với Tôn giả Tu-bồ-đề:
–Thưa Tôn giả! Đại Bồ-tát học những pháp đó thì có thể thành tựu Nhất thiết trí không?
Tôn giả Tu-bồ-đề đáp:
–Đúng như vậy, đúng như vậy. Này Tôn giả Xá-lợi-phất, Đại Bồ-tát học như thế thì thành tựu Nhất thiết trí. Vì sao? Vì các pháp không sinh cũng chẳng không sinh, Đại Bồ-tát hiểu rõ và thực hành đúng như thế, sẽ thuận theo và gần gũi Nhất thiết trí, thân tâm và các tướng thanh tịnh, ở nơi nào cũng làm trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật, độ khắp các hữu tình được đầy đủ Phật pháp. Đó là Bồ-tát tu tập Bát-nhã ba-la-mật-đa gần gũi Nhất thiết trí.
Tôn giả Tu-bồ-đề lại nói:
–Nếu có vị Đại Bồ-tát thực hành theo sắc pháp này là hành tướng, hành tướng sắc này là hành tướng, hành sắc sinh này là hành tướng, hành sắc diệt này là hành tướng, hành sắc hoại này là hành tướng, hành sắc không này cũng là hành tướng. Ta thực hành các hạnh cũng là hành tướng. Ta hành hạnh Bồ-tát cũng là hành tướng. Đối với các pháp ta có chỗ đắc cũng là hành tướng, như vậy thực hành thọ, tưởng, hành, thức này cũng là hành tướng; hành tướng thọ, tưởng, hành, thức cũng là hành tướng; sinh thọ, tưởng, hành, thức là hành tướng; mà diệt thọ, tưởng, hành, thức cũng là hành tướng; hoại thọ, tưởng, hành, thức cũng là hành tướng; không thọ, tưởng, hành, thức cũng là hành tướng. Ta làm theo các hạnh ấy cũng là hành tướng, ta thực hành hạnh Bồ-tát cũng là hành tướng, đối với pháp Bồ-tát ta có sở đắc cũng là hành tướng. Suy nghĩ, thực hành như vậy cho đến tên hạnh Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng là hành tướng.
Nếu thực hành như thế thì nên biết vị Bồ-tát này chưa đạt được đầy đủ các phương tiện thiện xảo.
Khi ấy, Tôn giả Xá-lợi-phất thưa Tôn giả Tu-bồ-đề:
–Nên hành như thế nào mới gọi là Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa?
Tu-bồ-đề đáp:
–Thưa Xá-lợi-phất! Đại Bồ-tát không thực hành đối với sắc, không thực hành đối với tướng sắc, không thực hành sắc sinh, không thực hành sắc diệt, không thực hành sắc hoại, không thực hành sắc không, không thực hành ngã hành, không phát khởi ngã hành. Bồ-tát nên thực hành như thế. Không hành thọ, tưởng, hành, thức; không hành các tướng thọ, tưởng, hành, thức; không phát sinh thọ, tưởng, hành, thức; không diệt các thọ, tưởng, hành, thức; không hoại các thọ, tưởng, hành, thức; không hành không các thọ, tưởng, hành, thức; không thực hành ngã hạnh, cũng không phát khởi ngã hành. Bồ-tát thực hành mà không hề khởi niệm, nếu hành như thế mới gọi là thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nếu vị Bồ-tát theo đó mà thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thì xưng danh là Đại Bồ-tát.
Vị Bồ-tát kia thực hành như thế nhưng không có niệm là ta đã thực hành, cũng không có niệm ta không thực hành, không niệm ta cũng có hành cũng không hành; không niệm ta chẳng hành, chẳng không hành; lại cũng không niệm có chỗ hành, không niệm không có chỗ hành, không niệm cũng có chỗ hành, cũng không có chỗ hành; không niệm chẳng có chỗ hành, chẳng không có chỗ hành. Vì sao? Vì các pháp không có niệm, không chấp thủ, chẳng không chấp thủ. Đây gọi là chánh định tất cả pháp không thâu nhận của Đại Bồ-tát, nó rộng lớn viên mãn, vô lượng, nên không bị các pháp Thanh văn, Duyên giác làm hoại. Đại định này biến khắp và nhập vào tất cả định. Nếu Đại Bồ-tát thực hành như vậy nó sẽ mau chóng thành tựu Đẳng chánh giác.
Khi ấy, Tôn giả Tu-bồ-đề nương oai thần Đức Phật nói:
–Đại Bồ-tát tuy hành vô số đại định nhưng không có hành tướng, tuy thấy vô số đại định nhưng không có chỗ thấy. Bồ-tát ấy cũng không khởi niệm đại định này ta đã nhập, đại định này ta đang nhập, đại định này ta sẽ nhập. Như vậy ở thời nào, chỗ nào, loài chúng sinh nào Đại Bồ-tát cũng đều lìa tất cả tướng mà không có chỗ sinh, thì nên biết người thực hành như vậy là Bồ-tát đã được Phật thọ ký quả vị Đẳng chánh giác.
Khi ấy, Tôn giả Xá-lợi-phất thưa Tôn giả Tu-bồ-đề:
–Đại Bồ-tát đối với đại định mà không có hành tướng, nên được Như Lai, Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác thọ ký quả vị Chánh đẳng giác. Vậy đại định này có chỗ quán tưởng không?
Tu-bồ-đề đáp:
–Không thể được. Vì sao? Vì tánh đại định kia không có chỗ có, lìa tất cả sự phân biệt và hiểu biết.
Khi ấy, Đức Thế Tôn tán thán:
–Lành thay, lành thay, này Tu-bồ-đề! Đúng như vậy, chư Phật, Thế Tôn dùng oai thần biện tài và lực gia trì để thuyết giảng như vậy, cho các Đại Bồ-tát theo đó thực hành, tu tập. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát tu học đúng như vậy, chính là tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Tôn giả Xá-lợi-phất liền bạch Phật:
–Bạch Đức Thế Tôn! Đại Bồ-tát tu học như vậy là tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa phải không?
Phật dạy Xá-lợi-phất:
–Đúng như thế, Đại Bồ-tát tu học như vậy là tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Xá-lợi-phất bạch Phật:
–Bạch Đức Thế Tôn! Đại Bồ-tát đó tu học như vậy thì nên học pháp nào?
Phật dạy:
–Này Xá-lợi-phất! Đại Bồ-tát biết rõ các pháp đều không có chỗ có, cũng không có chỗ học, đó là tu học. Vì sao? Vì tất cả pháp đó đều không chỗ có, còn những người phàm phu ngu si chấp trước phân biệt vào pháp không.
Xá-lợi-phất bạch Phật:
–Bạch Đức Thế Tôn! Nếu các pháp không có, nay tại sao có các pháp?
Phật dạy:
–Này Xá-lợi-phất! Các pháp không có, nay lại có như vậy, thì những người phàm phu ngu si không hiểu được pháp không nên gọi là vô minh, đó là chấp trước vô minh, lấy chấp trước vô minh nên sinh tâm phân biệt, do phân biệt nên rơi vào nhị biên, xoay vần trong các pháp với lớp lớp phân biệt, phát sinh chấp trước. Những phân biệt đó nương vào nhị biên mà sinh chấp trước. Do đó, phân biệt các pháp quá khứ, hiện tại, vị lai. Do phân biệt nên chấp trước vào danh và sắc.
Xá-lợi-phất! Phàm phu kia không rõ các pháp đều không có tánh sở hữu nên khởi tâm phân biệt, do vậy, đối với đạo chân thật thì không thể biết rõ cũng không thể thấy rõ. Do vậy, không lìa khỏi Tam giới, không an trú, không sinh tín tâm đối với pháp thật tế nên đọa vào hàng phàm phu ngu si.
Khi ấy, Tôn giả Xá-lợi-phất lại bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát học như vậy là học Nhất thiết trí phải không?
Phật dạy:
–Này Xá-lợi-phất! Đại Bồ-tát học như vậy chẳng phải là học Nhất thiết trí. Đại Bồ-tát học như vậy cũng là học Nhất thiết trí. Người học như vậy cũng là học tất cả pháp, được thân cận Nhất thiết trí, thành tựu Nhất thiết trí.
Khi ấy, Tôn giả Tu-bồ-đề bạch Phật:
–Như có người huyễn hỏi bằng cách nào để tu học Nhất thiết trí? Làm sao thân cận Nhất thiết trí? Làm sao thành tựu Nhất thiết trí? Nếu người kia hỏi như vậy thì con nên trả lời như thế nào?
Đức Phật dạy:
–Ta nay hỏi, ông tùy ý trả lời.
Tu-bồ-đề thưa:
–Lành thay, Đức Thế Tôn, con rất muốn nghe!
Phật nói:
–Này Tu-bồ-đề! Ý ông nghĩ thế nào, huyễn có khác sắc, sắc có khác huyễn không? Huyễn có khác thọ, tưởng, hành, thức và thọ, tưởng, hành, thức có khác huyễn không?
Tu-bồ-đề thưa:
–Bạch Thế Tôn! Không có khác, khác với huyễn chẳng phải là sắc, khác với sắc chẳng phải là huyễn, huyễn ấy tức là sắc, sắc ấy chính là huyễn. Thọ, tưởng, hành, thức cũng đều như vậy.
Phật nói:
–Tu-bồ-đề! Ý ông thế nào? Năm thủ uẩn có phải là Bồ-tát không?
Tu-bồ-đề thưa:
–Bạch Thế Tôn, đúng như thế! Bạch Thiện Thệ, đúng như thế!
Phật bảo Tu-bồ-đề:
–Ông nên biết năm uẩn là người huyễn. Vì sao? Sắc là huyễn; thọ, tưởng, hành, thức cũng là huyễn. Sắc, thọ, tưởng, hành, thức kia chính là sáu căn, năm uẩn, vậy nên Đại Bồ-tát cũng là huyễn. Muốn tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa nên học pháp huyễn thì được thành tựu Đẳng chánh giác.
Tu-bồ-đề bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Nếu có hàng Đại thừa Bồ-tát ở ngôi sở trụ mà nghe những lời dạy như vậy thì tâm không còn lo sợ phải không?
Phật dạy Tu-bồ-đề:
–Mới phát tâm học Đại thừa Bồ-tát nếu gần gũi bạn ác, thì nghe pháp này sinh tâm kinh sợ, nhưng gần gũi với bạn lành, nghe pháp này tâm không kinh sợ.
Tu-bồ-đề bạch Phật:
–Bạch Đức Thế Tôn! Vì sao gọi bạn ác của Đại Bồ-tát?
Phật dạy:
–Nếu ai dạy bảo, làm cho người xa lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa đó là bạn ác của Bồ-tát. Vì sao gọi là bạn lành của Bồ-tát? Người đối với pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa, tự mình giảng thuyết, giáo hóa người khác, lại vì người khác nói rộng về nghiệp của ma và lỗi của ma, khiến cho mọi người hiểu rõ và lìa xa chúng, lại khuyên mọi người không nên xa lìa chư Phật. Tu-bồ-đề! Nên biết người này mặc áo giáp Đại thừa, an trụ vào Đại thừa và làm trang nghiêm Đại thừa. Đó là bạn lành của Đại Bồ-tát.
Tu-bồ-đề bạch Phật:
–Bạch Đức Thế Tôn! Như lời Phật đã nói: Đại Bồ-tát mặc áo giáp Đại thừa, an trụ và làm trang nghiêm Đại thừa. Bạch Thế Tôn!
Nên nói nghĩa nào là nghĩa Bồ-tát?
Phật dạy:
–Này Tu-bồ-đề! Nên biết chẳng phải cú nghĩa nào là nghĩa của Bồ-tát. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát đối với tất cả pháp không có chướng ngại, hiểu đúng như thật của các pháp, cho đến Đẳng chánh giác cũng không chướng ngại đều hiểu đúng như thật. Đây gọi là nghĩa Bồ-tát.
Lại nữa, bạch Thế Tôn! Vì sao được gọi là Đại?
Phật dạy:
–Vì vị ấy ở trong hữu tình là bậc Tối thượng do nghĩa này nên gọi là Đại.
Bấy giờ, Tôn giả Xá-lợi-phất bạch Phật:
–Bạch Đức Thế Tôn! Con cũng vui mừng muốn giảng nói về nghĩa Đại Bồ-tát.
Phật dạy:
–Nay đã đến lúc, tùy sự hoan hỷ mà thuyết giảng.
Xá-lợi-phất nói:
–Có ngã kiến, chúng sinh kiến, thọ mạng kiến, nhân kiến, hữu tình kiến, đoạn kiến, thường kiến, thân kiến, ái kiến, xa lìa các kiến ấy rồi thuyết pháp cho chúng sinh, đó là Đại Bồ-tát.
Khi ấy, Tôn giả Tu-bồ-đề bạch Phật:
–Bạch Đức Thế Tôn! Con cũng muốn giảng nói về nghĩa Đại
Bồ-tát.
Phật dạy:
–Nay đã đúng lúc, ông tùy ý thuyết giảng.
Tu-bồ-đề nói:
–Tâm Bồ-đề, tâm Nhất thiết trí, tâm vô lậu, tâm vô đẳng, tâm vô đẳng đẳng đều là tâm vô ngại, không chấp trước nên không bị quả vị Thanh văn, Duyên giác làm hư hoại, do nghĩa này nên gọi là Đại Bồ-tát, do đây nên dự vào hàng Đại Bồ-tát.
Khi ấy, Tôn giả Xá-lợi-phất thưa Tôn giả Tu-bồ-đề:
–Vì sao tâm kia không chướng ngại, không chấp trước?
Tu-bồ-đề đáp:
–Do vô tâm nên tâm kia không chướng ngại, không chấp trước.
Xá-lợi-phất hỏi:
–Tâm có nghĩa thế nào?
Tu-bồ-đề hỏi lại:
–Thưa Tôn giả! Đối với có, với không, tâm có sinh không? Có chỗ được không?
Xá-lợi-phất đáp:
–Không thể được.
Khi ấy, Tu-bồ-đề nói với Xá-lợi-phất:
–Nói tâm đối với có, với không đều không thể được, vì sao lại nói tâm có chỗ để nói.
Tôn giả Xá-lợi-phất tán thán Tôn giả Tu-bồ-đề:
–Lành thay, lành thay, đúng như lời Phật dạy! Tôn giả hành Tam-muội vô tranh là bậc Tối thắng đệ nhất.
Khi ấy, Tôn giả Mãn Từ Tử nói:
–Bạch Thế Tôn! Con cũng muốn nói nghĩa Đại Bồ-tát.
Phật dạy:
–Nay đã đúng lúc, ông tùy ý giảng thuyết.
Mãn Từ Tử nói:
–Đại Bồ-tát mặc áo giáp Đại thừa, an trụ vào Đại thừa, dùng pháp Đại thừa để trang nghiêm thân, do ý nghĩa này nên gọi là Đại Bồ-tát.
Bấy giờ, Tu-bồ-đề bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Nói Đại Bồ-tát mặc áo giáp Đại thừa, áo giáp Đại thừa có nghĩa như thế nào?
Phật dạy:
–Đại Bồ-tát khởi lên niệm như vầy: “Ta nên độ vô lượng, vô số chúng sinh, làm cho tất cả vào Niết-bàn, tuy đã độ chúng sinh rồi nhưng đối với chúng sinh không có tưởng đã độ, không có một chúng sinh được vào Niết-bàn. Vì sao? Vì tất cả pháp tánh vốn như vậy, nên xa lìa tất cả sự tạo tác.”
Này Tu-bồ-đề! Ví như nhà ảo thuật ở nơi ngã tư đường, tự dùng pháp huyễn thuật hóa ra nhiều người, sau đó làm họ biến mất đi. Tu-bồ-đề! Ý ông nghĩ sao? Những người huyễn đó có chỗ đến không? Việc đó có thật không, có đi mất, có hoại diệt không?
–Bạch Thế Tôn, không có!
Phật dạy:
–Này Tu-bồ-đề! Đại Bồ-tát cũng như vậy, tuy độ hằng hà sa số chúng sinh vào Niết-bàn, nhưng thật không có chúng sinh được độ. Đại Bồ-tát nghe nói như vậy, không có tâm kinh sợ nên biết đây là Bồ-tát mặc áo giáp Đại thừa, tự trang nghiêm thân.
Bấy giờ, Tôn giả Tu-bồ-đề bạch Phật:
–Bạch Đức Thế Tôn! Như con hiểu lời Thế Tôn đã dạy, các Đại Bồ-tát cũng hiểu rốt ráo như vậy, do chính là tự khoác áo giáp Đại thừa, dũng mãnh, kiên cố, khéo trang nghiêm thân.
Phật dạy:
–Tu-bồ-đề! Đúng như vậy! Vì sao? Vì Nhất thiết trí chính là pháp vô vi, vô tác, do làm lợi ích chúng sinh nên bày các phương tiện mà chúng sinh kia cũng là vô vi, vô tác.
Tu-bồ-đề thưa:
–Đúng như lời Phật dạy. Vì sao? Vì sắc không có buộc cũng không có mở; thọ, tưởng, hành, thức không có buộc cũng không có mở. Bạch Đức Thế Tôn! Sắc chân như không buộc cũng không mở; thọ, tưởng, hành, thức chân như không buộc cũng không mở.
Khi ấy, Tôn giả Mãn Từ Tử thưa Tôn giả Tu-bồ-đề:
–Như Tôn giả đã nói, sắc không buộc cũng không mở; thọ, tưởng, hành, thức không buộc cũng không mở; sắc chân như không buộc cũng không mở; thọ, tưởng, hành, thức chân như không buộc cũng không mở. Trong đó, những gì là sắc không buộc không mở? Những gì là thọ, tưởng, hành, thức không buộc không mở? Những gì là sắc chân như không buộc cũng không mở?
Tu-bồ-đề đáp:
–Thưa Tôn giả Mãn Từ Tử! Tôn giả nay nên biết sắc của người huyễn không buộc không mở; thọ, tưởng, hành, thức người huyễn không buộc không mở; sắc chân như người huyễn không buộc không mở; thọ, tưởng, hành, thức chân như người huyễn không buộc không mở. Vì sao? Không có chỗ có, nên không buộc không mở, vì phân tán nên không có buộc, không có mở, vì không sinh nên không buộc không mở. Đại Bồ-tát biết rõ như vậy tức là đã an trụ vào Đại thừa, mặc áo giáp Đại thừa và trang nghiêm Đại thừa.
Tôn giả Mãn Từ Tử nghe nói như vậy, lặng lẽ an trụ.
Bấy giờ, Tôn giả Tu-bồ-đề bạch Phật:
–Bạch Đức Thế Tôn! Như Phật đã nói, Đại Bồ-tát an trụ vào Đại thừa, mặc áo giáp Đại thừa, trang nghiêm Đại thừa. Bạch Đức Thế Tôn! Phải do nghĩa này nên gọi là Đại thừa. Bồ-tát vì sao biết được? Và thừa này từ đâu mà có, đã có thì trụ vào chỗ nào?
Phật bảo Tu-bồ-đề:
–Đại thừa không có hạn lượng, không phần số, không giới hạn, do nghĩa này nên gọi là Đại thừa. Đại Bồ-tát phải hiểu đúng như vậy. Lại nói Đại thừa từ đâu mà có, an trụ vào chỗ nào? Thừa này từ tam giới mà có rồi trụ vào Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nó không chấp trước nên trụ vào Nhất thiết trí, cũng từ đây phát sinh Đại Bồ-tát.
Lại nữa, Tu-bồ-đề! Pháp không có xuất cũng không có trụ, do không trụ nên Nhất thiết trí tương ưng với không trụ. Lại nữa, Đại thừa cũng không chỗ có, tức là không có chỗ phát xuất, không phát xuất chính là phát xuất. Vì sao? Vì có chỗ phát xuất, không có chỗ phát xuất đủ cả hai pháp ấy thì không thể được nên không có chỗ sinh. Cho đến trong tất cả pháp, không có pháp có thể phát xuất, cũng chẳng không có pháp có thể xuất. Tu-bồ-đề! Bát-nhã ba-la-mật-đa của Đại Bồ-tát sinh ra như vậy.
Bấy giờ, Tôn giả Tu-bồ-đề bạch Phật:
–Bạch Đức Thế Tôn! Đúng như lời Phật dạy, pháp Đại thừa kia đối với tất cả Trời, Người, A-tu-la… trong thế gian là pháp tối thắng đồng với hư không. Như hư không kia dung nạp vô lượng, vô số chúng sinh, pháp Đại thừa kia cũng như thế, có khả năng dung nạp vô lượng, vô số chúng sinh.
–Bạch Đức Thế Tôn! Đại Bồ-tát đối với pháp Đại thừa không thấy có đến, không thấy có đi, cũng không có trụ xứ. Vị lai cũng không thể có, quá khứ cũng không thể có, hiện tại cũng không thể có, cả ba thời giống nhau đều không có chỗ sinh. Do đó, nên nói nghĩa Đại thừa như vậy.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn khen Tu-bồ-đề:
–Lành thay, lành thay, đúng như vậy! Này Tu-bồ-đề! Đại Bồ-tát đối với pháp Đại thừa nên học như vậy, liền thành tựu Nhất thiết trí.
***
Bấy giờ, Tôn giả Mãn Từ Tử bạch Phật:
–Phật đã dạy Tôn giả Tu-bồ-đề nói pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa, nay vì sao lại nói pháp Đại thừa?
Khi ấy, Tôn giả Tu-bồ-đề bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Pháp Đại thừa con đã nói có trái nghịch với Bát-nhã ba-la-mật-đa không?
Phật đáp:
–Này Tu-bồ-đề, không có! Những lời đã diễn nói đều thuận theo Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lúc đó, Tôn giả Tu-bồ-đề nương thần lực của Phật mà bạch:
–Bạch Đức Thế Tôn! Con ở trong ba thời, quá khứ, vị lai và hiện tại cầu Đại Bồ-tát thì đều không thể nắm bắt được. Vì sao? Vì sắc là vô biên, cho nên Đại Bồ-tát cũng vô biên. Thọ, tưởng, hành, thức là vô biên, cho nên Đại Bồ-tát cũng vô biên. Sắc là Bồ-tát không có chỗ có nên không thể cầu được. Thọ, tưởng, hành, thức là Bồ-tát không có chỗ có nên không thể cầu được. Bạch Thế Tôn! Ở mọi lúc, mọi nơi, mọi loài chúng sinh cầu Đại Bồ-tát rốt ráo đều không thể được.
Bát-nhã ba-la-mật-đa không thể thấy cũng không thể nắm bắt, cho đến Nhất thiết trí không thể thấy cũng không thể nắm bắt. Tất cả các pháp ở mọi lúc, mọi nơi, mọi loài chúng sinh đều không thể thấy, không thể nắm bắt.
Thế nào là pháp? Thế nào là phi pháp? Vậy Bồ-tát dùng pháp
nào để giáo hóa, đưa người vào Bát-nhã ba-la-mật-đa?
Bạch Đức Thế Tôn! Bồ-tát chỉ là danh tự, Bát-nhã ba-la-mật-đa chỉ là danh tự, mà danh tự ấy thì không có chỗ sinh.
Bạch Đức Thế Tôn! Như nói ngã, ngã pháp rốt ráo đều không có chỗ sinh. Ngã không có tự tánh nên tất cả pháp cũng đều như vậy. Ở đây, tại sao nói sắc không chấp trước, vô sinh? Tại sao nói thọ, tưởng, hành, thức không chấp trước, vô sinh? Tất cả pháp đều không có tự tánh nên không chấp trước, không sinh, vì pháp là vô tánh nên tất cả pháp là vô sinh, cho đến vô sinh cũng không sinh.
Bạch Đức Thế Tôn! Con nay dùng pháp vô sinh giáo hóa, độ người vào Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nếu con rời pháp vô sinh cầu tất cả pháp cho đến pháp của Phật, Bồ-tát đều không thể được. Vì sao? Vì nếu xa rời pháp vô sinh thì Đại Bồ-tát ấy sẽ không thể thành tựu hạnh Bồ-đề.
Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát nghe như vậy mà tâm không động, không lo, không sợ, không thoái thất nên biết đây là Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa quán tưởng về Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Bạch Thế Tôn! Khi thực hành hoặc khi quán tưởng, Đại Bồ-tát đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa đều không chấp thủ đối với sắc, không thấy sắc sinh, không thấy sắc diệt, như vậy là không chấp thủ thọ, tưởng, hành, thức; không thấy có thọ, tưởng, hành, thức sinh; không thấy có thọ, tưởng, hành, thức diệt. Vì sao? Vì sắc không sinh không phải là sắc, sắc không diệt tức không phải là sắc. Không sinh này cùng với sắc không hai, không phân biệt, không diệt cùng với sắc không hai cũng không phân biệt. Nếu nói sắc tức là pháp không hai; nếu thọ, tưởng, hành, thức vô sinh, tức chẳng phải là thọ, tưởng, hành, thức; nếu thọ, tưởng, hành, thức vô diệt tức chẳng phải thọ, tưởng, hành, thức. Vô sinh này cùng với thọ, tưởng, hành, thức không hai, không phân biệt. Vô diệt cùng với thọ, tưởng, hành, thức không hai, cũng không phân biệt. Nên nói thọ, tưởng, hành, thức là pháp không hai.
Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa quán xét như vậy, tức là đối với sắc, thọ, tưởng, hành, thức không có chấp thủ, không có chỗ sinh cũng không có chỗ diệt, cho đến tất cả pháp, tất cả tướng cũng đều như vậy. Vì sao? Vì nói sắc, thọ, tưởng, hành, thức không sinh, không diệt tức không phải sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Sắc, thọ, tưởng, hành, thức này cùng với không sinh, không diệt, không hai, không phân biệt, nên nói sắc, thọ, tưởng, hành, thức này là pháp không hai.
Bấy giờ, Tôn giả Xá-lợi-phất nói với Tôn giả Tu-bồ-đề:
–Theo tôi biết thì Tôn giả đã nói nghĩa Bồ-tát tức là pháp vô sinh, nếu như vậy thì Bồ-tát làm lợi ích cho chúng sinh bằng cách nào? Có làm việc khó làm và nghĩ việc khó làm không?
Tôn giả Tu-bồ-đề nói:
–Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Tôi không muốn làm Đại Bồ-tát có làm việc khó làm và nghĩ đến việc khó làm. Vì sao? Vì nghĩ đến việc khó làm thì không thể làm lợi ích cho vô lượng, vô số chúng sinh. Đối với tất cả chúng sinh, Bồ-tát khởi tâm tưởng dễ độ, tưởng là vui, tưởng là cha, tưởng là mẹ, tưởng là con của người, như thế mới có thể làm lợi ích cho vô lượng, vô số chúng sinh. Đại Bồ-tát đối với tất cả chúng sinh đều nghĩ tưởng như vậy. Ta dù ở chỗ nào cũng làm cho tất cả chúng sinh giải thoát khổ đau. Ở chỗ nào cũng không rời bỏ chúng sinh, làm cho tất cả chúng sinh đều giải thoát khổ đau, tâm ý không sinh lầm lỗi.
Đại Bồ-tát đối với chúng sinh, sinh tâm như thế tức không hành hạnh khó làm, không nghĩ đến hạnh khó làm. Này Xá-lợi-phất! Đại Bồ-tát sinh tâm như vầy: “Ta ở lúc nào, chỗ nào, loài nào rốt ráo đều không thể có, không thể được. Tất cả pháp kia đối với mọi lúc, mọi nơi, mọi loài nào cũng rốt ráo đều không thể có, không thể được.” Như vậy, đối với trong, ngoài các pháp đều phát sinh từ nơi không có tưởng. Đại Bồ-tát thực hành tâm như vậy là không hành hạnh khó làm, không nghĩ hạnh khó làm. Lại nữa, Tôn giả Xá-lợi-phất! Trước đây, ông nói Bồ-tát không có sinh, đúng như thế, Bồ-tát thật không có sinh.
Xá-lợi-phất hỏi:
–Bồ-tát kia không sinh, như vậy pháp Bồ-tát có vô sinh không?
Tu-bồ-đề đáp:
–Pháp Bồ-tát cũng không sinh.
Tôn giả Xá-lợi-phất hỏi:
–Pháp Bồ-tát là vô sinh, vậy Nhất thiết trí kia cũng vô sinh chăng?
Tu-bồ-đề đáp:
–Nhất thiết trí là vô sinh.
Xá-lợi-phất hỏi:
–Pháp Nhất thiết trí cũng vô sinh phải không?
Tu-bồ-đề đáp:
–Pháp Nhất thiết trí cũng vô sinh.
Xá-lợi-phất hỏi:
–Nói Nhất thiết trí là vô sinh thì hàng phàm phu kia cũng vô sinh phải không?
Tu-bồ-đề đáp:
–Các hạng phàm phu kia cũng vô sinh.
Vậy các pháp của hàng phàm phu kia cũng vô sinh phải không?
Tu-bồ-đề đáp:
–Pháp của các hàng phàm phu kia cũng vô sinh.
Tôn giả Xá-lợi-phất hỏi Tôn giả Tu-bồ-đề:
–Nói Bồ-tát, pháp Bồ-tát; Nhất thiết trí, pháp Nhất thiết trí; chúng sinh, pháp chúng sinh, tất cả đều vô sinh. Đại Bồ-tát kia được Nhất thiết trí tức là vô sinh, là được vô sinh phải không?
Tôn giả Tu-bồ-đề đáp:
–Thưa Tôn giả Xá-lợi Tử! Tôi không muốn nói pháp vô sinh có chỗ đắc. Vì sao? Vì pháp vô sinh không thể có được vậy.
Xá-lợi-phất hỏi:
–Pháp vô sinh cũng không có đắc vô sinh phải không?
Tu-bồ-đề nói:
–Đúng như vậy, pháp vô sinh không có đắc vô sinh.
Xá-lợi-phất hỏi:
–Theo pháp kia vô sinh, thì vô sinh cũng là vô sinh phải không?
Tu-bồ-đề đáp:
–Sinh ra pháp vô sinh, vô sinh cũng vô sinh.
Xá-lợi-phất hỏi:
–Nói vô sinh là vô sinh thì lời ông nói đó là sinh hay vô sinh?
Tu-bồ-đề nói:
–Lời tôi nói cũng vô sinh.
Xá-lợi-phất hỏi:
–Nói vô sinh thì lời nói ấy cũng vô sinh phải không?
Tu-bồ-đề nói:
–Tất cả ngôn ngữ và lời nói đều là vô sinh.
Tôn giả Xá-lợi-phất tán thán Tôn giả Tu-bồ-đề:
–Lành thay, lành thay, Tôn giả Tu-bồ-đề! Quả thật là Bậc đứng đầu trong những vị nói pháp. Vì sao? Vì Tôn giả tùy theo các câu hỏi mà trả lời đầy đủ và đối với tất cả các pháp tướng đều không động, không hư hoại.
Tu-bồ-đề nói:
–Tôn giả Xá-lợi-phất! Căn bản các pháp là như vậy, các đệ tử của Phật đối với pháp thì không nên y chỉ, tùy theo chỗ hỏi mà trả lời đầy đủ. Tất cả các pháp tướng đều không động, cũng không hư hoại. Vì tất cả các pháp đều không có nơi y chỉ.
Tôn giả Xá-lợi-phất hỏi Tôn giả Tu-bồ-đề:
–Nếu tất cả các pháp đều không có chỗ y chỉ thì Đại Bồ-tát biết nương vào độ nào?
Tu-bồ-đề đáp:
–Đại Bồ-tát nương vào Bát-nhã ba-la-mật-đa. Xá-lợi-phất! Ông nên thật biết là tất cả các pháp kia đều không có chỗ y chỉ. Các pháp Ba-la-mật-đa cũng lại như vậy. Lúc Đại Bồ-tát nghe Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này thì nên khởi niệm không nói, không chỉ bày, không nghe, không nắm bắt. Tâm không dao động, không có chỗ cầu tướng, không chấp tướng. Nên biết đây là Đại Bồ-tát hành vô số Bát-nhã ba-la-mật-đa và luôn không rời niệm này.
Tôn giả Xá-lợi-phất hỏi Tôn giả Tu-bồ-đề:
–Vì sao Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thì không rời niệm này? Do Đại Bồ-tát không rời niệm này nên làm đạt được việc không xa lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa. Đại Bồ-tát không lìa việc hành Bát-nhã ba-la-mật-đa nên đạt được niệm không xa lìa này.
Này Tu-bồ-đề! Nếu Đại Bồ-tát không lìa hành và niệm này thì tất cả chúng sinh kia cũng theo đó mà hành không lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa. Tất cả chúng sinh không lìa hạnh và niệm này.
Tôn giả Tu-bồ-đề đáp lời Tôn giả Xá-lợi-phất:
–Tôi đã thành tựu nghĩa mà ông đã trình bày. Vì sao? Vì chúng sinh không có tánh nên biết niệm không có tánh, chúng sinh xa lìa nên niệm cũng xa lìa, chúng sinh không có tâm nên niệm cũng không có tâm, chúng sinh không có giác ngộ nên biết niệm cũng không có giác ngộ. Chúng sinh biết nghĩa như thật cho nên niệm cũng biết nghĩa như thật.
Thưa Tôn giả Xá-lợi-phất! Tôi muốn các vị Đại Bồ-tát đều thực hành đúng theo Bát-nhã ba-la-mật-đa vậy.
Phẩm 1: BIẾT RÕ CÁC HÀNH TƯỚNG
Tôi nghe như vầy:
–Một thời Phật ở tại đỉnh núi Thứu, thuộc thành Vương xá, cùng với chúng đại Bí-sô một ngàn hai trăm năm mươi vị, đều là những bậc A-la-hán, các lậu hoặc đã được đoạn trừ sạch, tâm khéo giải thoát, tuệ khéo giải thoát, như các đại Long vương. Những việc cần làm đã làm xong, trút bỏ gánh nặng, đạt lợi ích lớn, diệt trừ các kết sử, được chánh trí vô ngại, tâm trụ tịch tĩnh hoàn toàn tự tại, chỉ có một vị còn ở hàng phàm phu, là Tôn giả A-nan.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Tôn giả Tu-bồ-đề:
–Ông hãy hoan hỷ vì các vị Đại Bồ-tát tùy theo căn cơ ban bố giáo pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Khi ấy, Tôn giả Xá-lợi-phất suy nghĩ: “Hiện nay Tôn giả Tu-bồ-đề dùng trí tuệ biện tài của mình giảng thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa cho các Đại Bồ-tát hay là nương vào thần lực và sự gia trì của Phật để thuyết pháp?”
Lúc này, Tôn giả Tu-bồ-đề nhờ vào thần lực của Phật, biết được tâm niệm của Tôn giả Xá-lợi-phất, nên thưa với Tôn giả:
–Tôn giả nên biết, hàng đệ tử Thanh văn của Đức Thế Tôn tu tập theo giáo pháp, hoặc tự mình giảng nói hoặc vì người nói, tất cả đều nhờ vào thần lực của Phật. Vì sao? Vì Phật thuyết pháp, khiến cho những ai tu tập theo giáo pháp ấy đều được chứng đắc tự tánh của các pháp. Khi chứng được rồi thì việc giảng thuyết đều cùng với các pháp không có chỗ trái nghịch. Do vậy, này Xá-lợi-phất! Pháp Phật đã giảng nói đều thuận theo tánh của các pháp. Các hàng thiện nam nên biết như thế.
Tôn giả Tu-bồ-đề bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Phật dạy khiến con tùy theo căn cơ của hàng Đại Bồ-tát mà giảng giải về Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Bạch Thế Tôn! Do những nghĩa nào mà gọi là Bồ-tát? Pháp nào là pháp của Bồ-tát?
Bạch Thế Tôn! Con chẳng thấy pháp nào tên là Bồ-tát, cũng không thấy pháp nào tên là Bát-nhã ba-la-mật-đa. Do những nghĩa này nên Bồ-tát và pháp Bồ-tát đều không thể có, không thể thấy, không thể nắm bắt. Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không thể có, không thể thấy, không thể nắm bắt. Vậy nay con vì hàng Bồ-tát nào và giảng nói pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa nào?
Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát nghe như vậy rồi nói: Tâm không dao động, không lo, không sợ, cũng không thoái lui. Đây gọi là sự giáo hóa cho Đại Bồ-tát về Bát-nhã ba-la-mật-đa, là sự hiểu biết về Bát-nhã ba-la-mật-đa, là sự an trụ nơi Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Bạch Thế Tôn! Lúc Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, lúc quán tưởng về Bát-nhã ba-la-mật-đa nên học như vậy. Tuy học như vậy, nhưng Bồ-tát ấy không sinh tâm ta đã học như thế. Vì sao? Vì tâm kia chẳng phải là tâm, do tánh của tâm luôn thanh tịnh.
Khi ấy, Tôn giả Xá-lợi-phất thưa với Tôn giả Tu-bồ-đề:
–Thưa Tôn giả! Tại sao tâm kia chẳng phải là tâm?
Tu-bồ-đề đáp:
–Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Ý của Tôn giả thế nào? Nói tâm chẳng phải là tâm, đối với có, đối với không, có thể nắm bắt được không?
Xá-lợi-phất đáp:
–Không được.
Tôn giả Tu-bồ-đề bảo Tôn giả Xá-lợi-phất:
–Nói tâm chẳng phải là tâm, đối với có, không đều không thể nắm bắt được, thế thì nay vì sao thầy lại nói có tâm, chẳng phải là tâm!
Xá-lợi-phất hỏi:
–Sao gọi là chẳng phải tâm?
Tu-bồ-đề nói:
–Tất cả đều không bị hoại diệt, xa lìa tất cả phân biệt, đó gọi là chẳng phải tâm.
Tôn giả Xá-lợi-phất liền tán thán Tôn giả Tu-bồ-đề:
–Lành thay, lành thay, Tu-bồ-đề! Đúng như lời Phật dạy, thầy đã an trú nơi hạnh Tam-muội vô tránh, là bậc Tối thắng thứ nhất. Nếu Đại Bồ-tát tu học như thế thì đối với quả vị Chánh đẳng Chánh giác không có thoái chuyển. Nên biết đây là Đại Bồ-tát không rời Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Nếu có người muốn tu học pháp Thanh văn thì nên lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, ghi nhớ, suy nghĩ về pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa và nương vào pháp đó để tu tập. Đó là tu học tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại có người muốn cầu học pháp Duyên giác thì nên lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, ghi nhớ, suy nghĩ về pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa và nương vào pháp đó để tu tập. Đó là tu học tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nếu người muốn tu học pháp Bồ-tát thì nên lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, ghi nhớ, suy nghĩ về pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa và nương vào pháp đó để tu tập. Do thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa này với phương tiện thiện xảo nên tụ hợp đầy đủ với các pháp của Bồ-tát. Vì sao? Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa này đã nói rộng về tất cả Pháp tạng của Bồ-tát. Nếu Đại Bồ-tát tu học như thế thì sẽ tương ưng với các pháp của Bồ-tát.
Nếu người muốn tu học pháp Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác thì nên lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, ghi nhớ, suy nghĩ về pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa và nương vào pháp đó để tu tập. Do thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa này nên khéo tụ hợp đầy đủ tất cả các pháp của Phật. Vì sao? Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa này đã nói rộng về tất cả pháp của Bậc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Nếu Đại Bồ-tát tu học như thế thì sẽ tương ưng với pháp Vô thượng.
Bấy giờ, Tôn giả Tu-bồ-đề bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Chỗ nói về Đại Bồ-tát, con không thể thấy, cũng không thể nắm bắt được, vậy Bồ-tát chỉ là danh tự mà thôi.
Bạch Thế Tôn! Danh tự này thì cũng không thể thấy, không thể nắm bắt được; Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng chỉ có danh tự vì không thể thấy, không thể nắm bắt được. Vậy thì nên vì những Bồ-tát nào, giảng nói về những pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa nào? Do ý nghĩa ấy nên con sinh nghi ngờ.
Bạch Thế Tôn! Con ở trong danh tự cầu Đại Bồ-tát hoàn toàn là không thể đạt được. Mà danh tự kia là không trụ xứ, cũng chẳng phải là không trụ xứ; không quyết định cũng chẳng phải là không quyết định.
Vì sao? Vì danh tự kia không có tánh, do đó không trụ xứ, cũng chẳng phải là không trụ xứ, không quyết định cũng chẳng là không quyết định. Nếu Đại Bồ-tát nghe Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này mà tâm không động, không lo, không sợ, cũng không thoái chuyển, thì nên biết đây là Bồ-tát không rời Bát-nhã ba-la-mật-đa, an trụ nơi quả vị của Bồ-tát không hề thoái chuyển, khéo tương ưng trụ vào vô trụ.
Lại nữa, bạch Thế Tôn! Lúc Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, lúc quán tưởng về Bát-nhã ba-la-mật-đa, không trụ nơi sắc, cũng không trụ nơi thọ, tưởng, hành, thức. Vì sao? Vì trụ nơi sắc tức hành theo nẻo hành của sắc mà không hành theo Bát-nhã ba-la-mật-đa; nếu trụ nơi thọ, tưởng, hành, thức, thì hành theo thọ, tưởng, hành, thức, mà không hành theo Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Vì trụ nơi các pháp thì không thể thọ nhận Bát-nhã ba-la-mật-đa, không tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa, không thể làm viên mãn Bát-nhã ba-la-mật-đa, không thể thành tựu Nhất thiết trí. Vì sao? Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa không thâu nhận nơi sắc; không thâu nhận nơi thọ, tưởng, hành, thức. Nếu không thâu nhận sắc tức chẳng phải là sắc; không thâu nhận thọ, tưởng, hành, thức, tức chẳng phải là thọ, tưởng, hành, thức. Do vậy, nên Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không có đối tượng được thọ nhận. Đại Bồ-tát nên ở trong pháp không thâu nhận như thế mà tu tập. Đây tức là chánh định tất cả pháp không thâu nhận của Đại Bồ-tát bất định này, rộng lớn viên mãn vô lượng nên không bị các pháp Thanh văn, Duyên giác làm cho hư hoại.
Bạch Thế Tôn! Nhất thiết trí kia không có tướng nên không chấp giữ. Nếu có tướng để có thể chấp giữ, thì Thất-lý-ni-ca, Ba-lý-một-la-nhạ-ca, những người ấy đối với Nhất thiết trí chẳng nên sinh tâm tin tưởng. Vì sao? Vì những người ấy đối với Nhất thiết trí mà sinh tin hiểu, dùng trí tuệ có giới hạn hội nhập pháp như vậy, nên không thọ nhận đối với sắc; không thọ nhận đối với thọ, tưởng, hành, thức. Không dùng pháp hỷ lạc làm đối tượng quan sát của trí tuệ, không dùng nội sắc làm đối tượng quan sát của trí tuệ, không dùng ngoại sắc làm đối tượng quan sát của trí tuệ, không dùng nội ngoại sắc làm đối tượng quan sát của trí tuệ, cũng không lìa nội ngoại sắc làm đối tượng quan sát của trí tuệ. Như vậy, không dùng nội thọ, tưởng, hành, thức làm đối tượng quan sát của trí tuệ; không dùng ngoại thọ, tưởng, hành, thức làm đối tượng quan sát của trí tuệ; không dùng nội ngoại thọ, tưởng, hành, thức làm đối tượng quan sát của trí tuệ; cũng không lìa nội ngoại thọ, tưởng, hành, thức làm đối tượng quan sát của trí tuệ. Mà các vị Thất-lý-ni-ca kia đối với pháp như thế và trí Nhất thiết trí đã phát sinh sự tin hiểu sâu xa tánh của các pháp, nên đạt được giải thoát. Lại ở nơi tất cả pháp không chấp giữ, cũng không chẳng phải là chấp giữ, cho đến Niết-bàn cũng không chấp giữ không chẳng phải là chấp giữ.
Bạch Thế Tôn! Hành giả tu tập pháp Bồ-tát tuy đối với sắc, thọ, tưởng, hành, thức không có chấp giữ, nhưng vị ấy chưa đạt được trọn vẹn mười Lực, bốn Vô sở úy, mười tám pháp Bất cộng của Như Lai, nên cũng không giữa chừng mà chứng đắc Niết-bàn. Vì vậy, bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát phải biết rõ về Bát-nhã ba-la-mật-đa như vậy.
Lại nữa, bạch Thế Tôn! Khi Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, khi quán tưởng Bát-nhã ba-la-mật-đa, đều làm đúng như thế. Pháp nào là pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa, những tướng nào là Bát-nhã ba-la-mật-đa? Các pháp không có chỗ sinh cũng không có chỗ được, vậy bằng cách nào để có Bát-nhã ba-la-mật-đa? Lúc Bồ-tát quán xét như vậy thì tâm không động, không lo, không sợ, không thoái thất. Nên biết đó là vị Đại Bồ-tát không xa lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Bấy giờ, Tôn giả Xá-lợi-phất thưa Tôn giả Tu-bồ-đề:
–Nếu các sắc pháp xa lìa tự tánh sắc; thọ, tưởng, hành, thức xa lìa tự tánh thọ, tưởng, hành, thức; Bát-nhã ba-la-mật-đa lìa tự tánh Bát-nhã ba-la-mật-đa; Nhất thiết trí lại lìa tự tánh Bát-nhã ba-la-mật-đa; Bát-nhã ba-la-mật-đa lại lìa tự tánh Nhất thiết trí, Nhất thiết trí lìa tự tánh Nhất thiết trí thì vì sao nói Đại Bồ-tát không rời Bát-nhã ba-la-mật-đa?
Tôn giả Tu-bồ-đề nói:
–Này Xá-lợi-phất! Đúng như vậy, đúng như vậy! Tất cả các sắc pháp lìa tự tánh các sắc; thọ, tưởng, hành, thức lìa tự tánh thọ, tưởng, hành, thức, cho đến Nhất thiết trí lìa tự tánh Nhất thiết trí, tướng Bát-nhã ba-la-mật-đa lìa tự tánh tướng Bát-nhã ba-la-mật-đa, các tướng lìa tự tánh các tướng, vô tánh cũng lìa tự tánh.
Bấy giờ, Tôn giả Xá-lợi-phất lại nói với Tôn giả Tu-bồ-đề:
–Thưa Tôn giả! Đại Bồ-tát học những pháp đó thì có thể thành tựu Nhất thiết trí không?
Tôn giả Tu-bồ-đề đáp:
–Đúng như vậy, đúng như vậy. Này Tôn giả Xá-lợi-phất, Đại Bồ-tát học như thế thì thành tựu Nhất thiết trí. Vì sao? Vì các pháp không sinh cũng chẳng không sinh, Đại Bồ-tát hiểu rõ và thực hành đúng như thế, sẽ thuận theo và gần gũi Nhất thiết trí, thân tâm và các tướng thanh tịnh, ở nơi nào cũng làm trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật, độ khắp các hữu tình được đầy đủ Phật pháp. Đó là Bồ-tát tu tập Bát-nhã ba-la-mật-đa gần gũi Nhất thiết trí.
Tôn giả Tu-bồ-đề lại nói:
–Nếu có vị Đại Bồ-tát thực hành theo sắc pháp này là hành tướng, hành tướng sắc này là hành tướng, hành sắc sinh này là hành tướng, hành sắc diệt này là hành tướng, hành sắc hoại này là hành tướng, hành sắc không này cũng là hành tướng. Ta thực hành các hạnh cũng là hành tướng. Ta hành hạnh Bồ-tát cũng là hành tướng. Đối với các pháp ta có chỗ đắc cũng là hành tướng, như vậy thực hành thọ, tưởng, hành, thức này cũng là hành tướng; hành tướng thọ, tưởng, hành, thức cũng là hành tướng; sinh thọ, tưởng, hành, thức là hành tướng; mà diệt thọ, tưởng, hành, thức cũng là hành tướng; hoại thọ, tưởng, hành, thức cũng là hành tướng; không thọ, tưởng, hành, thức cũng là hành tướng. Ta làm theo các hạnh ấy cũng là hành tướng, ta thực hành hạnh Bồ-tát cũng là hành tướng, đối với pháp Bồ-tát ta có sở đắc cũng là hành tướng. Suy nghĩ, thực hành như vậy cho đến tên hạnh Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng là hành tướng.
Nếu thực hành như thế thì nên biết vị Bồ-tát này chưa đạt được đầy đủ các phương tiện thiện xảo.
Khi ấy, Tôn giả Xá-lợi-phất thưa Tôn giả Tu-bồ-đề:
–Nên hành như thế nào mới gọi là Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa?
Tu-bồ-đề đáp:
–Thưa Xá-lợi-phất! Đại Bồ-tát không thực hành đối với sắc, không thực hành đối với tướng sắc, không thực hành sắc sinh, không thực hành sắc diệt, không thực hành sắc hoại, không thực hành sắc không, không thực hành ngã hành, không phát khởi ngã hành. Bồ-tát nên thực hành như thế. Không hành thọ, tưởng, hành, thức; không hành các tướng thọ, tưởng, hành, thức; không phát sinh thọ, tưởng, hành, thức; không diệt các thọ, tưởng, hành, thức; không hoại các thọ, tưởng, hành, thức; không hành không các thọ, tưởng, hành, thức; không thực hành ngã hạnh, cũng không phát khởi ngã hành. Bồ-tát thực hành mà không hề khởi niệm, nếu hành như thế mới gọi là thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nếu vị Bồ-tát theo đó mà thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thì xưng danh là Đại Bồ-tát.
Vị Bồ-tát kia thực hành như thế nhưng không có niệm là ta đã thực hành, cũng không có niệm ta không thực hành, không niệm ta cũng có hành cũng không hành; không niệm ta chẳng hành, chẳng không hành; lại cũng không niệm có chỗ hành, không niệm không có chỗ hành, không niệm cũng có chỗ hành, cũng không có chỗ hành; không niệm chẳng có chỗ hành, chẳng không có chỗ hành. Vì sao? Vì các pháp không có niệm, không chấp thủ, chẳng không chấp thủ. Đây gọi là chánh định tất cả pháp không thâu nhận của Đại Bồ-tát, nó rộng lớn viên mãn, vô lượng, nên không bị các pháp Thanh văn, Duyên giác làm hoại. Đại định này biến khắp và nhập vào tất cả định. Nếu Đại Bồ-tát thực hành như vậy nó sẽ mau chóng thành tựu Đẳng chánh giác.
Khi ấy, Tôn giả Tu-bồ-đề nương oai thần Đức Phật nói:
–Đại Bồ-tát tuy hành vô số đại định nhưng không có hành tướng, tuy thấy vô số đại định nhưng không có chỗ thấy. Bồ-tát ấy cũng không khởi niệm đại định này ta đã nhập, đại định này ta đang nhập, đại định này ta sẽ nhập. Như vậy ở thời nào, chỗ nào, loài chúng sinh nào Đại Bồ-tát cũng đều lìa tất cả tướng mà không có chỗ sinh, thì nên biết người thực hành như vậy là Bồ-tát đã được Phật thọ ký quả vị Đẳng chánh giác.
Khi ấy, Tôn giả Xá-lợi-phất thưa Tôn giả Tu-bồ-đề:
–Đại Bồ-tát đối với đại định mà không có hành tướng, nên được Như Lai, Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác thọ ký quả vị Chánh đẳng giác. Vậy đại định này có chỗ quán tưởng không?
Tu-bồ-đề đáp:
–Không thể được. Vì sao? Vì tánh đại định kia không có chỗ có, lìa tất cả sự phân biệt và hiểu biết.
Khi ấy, Đức Thế Tôn tán thán:
–Lành thay, lành thay, này Tu-bồ-đề! Đúng như vậy, chư Phật, Thế Tôn dùng oai thần biện tài và lực gia trì để thuyết giảng như vậy, cho các Đại Bồ-tát theo đó thực hành, tu tập. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát tu học đúng như vậy, chính là tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Tôn giả Xá-lợi-phất liền bạch Phật:
–Bạch Đức Thế Tôn! Đại Bồ-tát tu học như vậy là tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa phải không?
Phật dạy Xá-lợi-phất:
–Đúng như thế, Đại Bồ-tát tu học như vậy là tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Xá-lợi-phất bạch Phật:
–Bạch Đức Thế Tôn! Đại Bồ-tát đó tu học như vậy thì nên học pháp nào?
Phật dạy:
–Này Xá-lợi-phất! Đại Bồ-tát biết rõ các pháp đều không có chỗ có, cũng không có chỗ học, đó là tu học. Vì sao? Vì tất cả pháp đó đều không chỗ có, còn những người phàm phu ngu si chấp trước phân biệt vào pháp không.
Xá-lợi-phất bạch Phật:
–Bạch Đức Thế Tôn! Nếu các pháp không có, nay tại sao có các pháp?
Phật dạy:
–Này Xá-lợi-phất! Các pháp không có, nay lại có như vậy, thì những người phàm phu ngu si không hiểu được pháp không nên gọi là vô minh, đó là chấp trước vô minh, lấy chấp trước vô minh nên sinh tâm phân biệt, do phân biệt nên rơi vào nhị biên, xoay vần trong các pháp với lớp lớp phân biệt, phát sinh chấp trước. Những phân biệt đó nương vào nhị biên mà sinh chấp trước. Do đó, phân biệt các pháp quá khứ, hiện tại, vị lai. Do phân biệt nên chấp trước vào danh và sắc.
Xá-lợi-phất! Phàm phu kia không rõ các pháp đều không có tánh sở hữu nên khởi tâm phân biệt, do vậy, đối với đạo chân thật thì không thể biết rõ cũng không thể thấy rõ. Do vậy, không lìa khỏi Tam giới, không an trú, không sinh tín tâm đối với pháp thật tế nên đọa vào hàng phàm phu ngu si.
Khi ấy, Tôn giả Xá-lợi-phất lại bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát học như vậy là học Nhất thiết trí phải không?
Phật dạy:
–Này Xá-lợi-phất! Đại Bồ-tát học như vậy chẳng phải là học Nhất thiết trí. Đại Bồ-tát học như vậy cũng là học Nhất thiết trí. Người học như vậy cũng là học tất cả pháp, được thân cận Nhất thiết trí, thành tựu Nhất thiết trí.
Khi ấy, Tôn giả Tu-bồ-đề bạch Phật:
–Như có người huyễn hỏi bằng cách nào để tu học Nhất thiết trí? Làm sao thân cận Nhất thiết trí? Làm sao thành tựu Nhất thiết trí? Nếu người kia hỏi như vậy thì con nên trả lời như thế nào?
Đức Phật dạy:
–Ta nay hỏi, ông tùy ý trả lời.
Tu-bồ-đề thưa:
–Lành thay, Đức Thế Tôn, con rất muốn nghe!
Phật nói:
–Này Tu-bồ-đề! Ý ông nghĩ thế nào, huyễn có khác sắc, sắc có khác huyễn không? Huyễn có khác thọ, tưởng, hành, thức và thọ, tưởng, hành, thức có khác huyễn không?
Tu-bồ-đề thưa:
–Bạch Thế Tôn! Không có khác, khác với huyễn chẳng phải là sắc, khác với sắc chẳng phải là huyễn, huyễn ấy tức là sắc, sắc ấy chính là huyễn. Thọ, tưởng, hành, thức cũng đều như vậy.
Phật nói:
–Tu-bồ-đề! Ý ông thế nào? Năm thủ uẩn có phải là Bồ-tát không?
Tu-bồ-đề thưa:
–Bạch Thế Tôn, đúng như thế! Bạch Thiện Thệ, đúng như thế!
Phật bảo Tu-bồ-đề:
–Ông nên biết năm uẩn là người huyễn. Vì sao? Sắc là huyễn; thọ, tưởng, hành, thức cũng là huyễn. Sắc, thọ, tưởng, hành, thức kia chính là sáu căn, năm uẩn, vậy nên Đại Bồ-tát cũng là huyễn. Muốn tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa nên học pháp huyễn thì được thành tựu Đẳng chánh giác.
Tu-bồ-đề bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Nếu có hàng Đại thừa Bồ-tát ở ngôi sở trụ mà nghe những lời dạy như vậy thì tâm không còn lo sợ phải không?
Phật dạy Tu-bồ-đề:
–Mới phát tâm học Đại thừa Bồ-tát nếu gần gũi bạn ác, thì nghe pháp này sinh tâm kinh sợ, nhưng gần gũi với bạn lành, nghe pháp này tâm không kinh sợ.
Tu-bồ-đề bạch Phật:
–Bạch Đức Thế Tôn! Vì sao gọi bạn ác của Đại Bồ-tát?
Phật dạy:
–Nếu ai dạy bảo, làm cho người xa lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa đó là bạn ác của Bồ-tát. Vì sao gọi là bạn lành của Bồ-tát? Người đối với pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa, tự mình giảng thuyết, giáo hóa người khác, lại vì người khác nói rộng về nghiệp của ma và lỗi của ma, khiến cho mọi người hiểu rõ và lìa xa chúng, lại khuyên mọi người không nên xa lìa chư Phật. Tu-bồ-đề! Nên biết người này mặc áo giáp Đại thừa, an trụ vào Đại thừa và làm trang nghiêm Đại thừa. Đó là bạn lành của Đại Bồ-tát.
Tu-bồ-đề bạch Phật:
–Bạch Đức Thế Tôn! Như lời Phật đã nói: Đại Bồ-tát mặc áo giáp Đại thừa, an trụ và làm trang nghiêm Đại thừa. Bạch Thế Tôn!
Nên nói nghĩa nào là nghĩa Bồ-tát?
Phật dạy:
–Này Tu-bồ-đề! Nên biết chẳng phải cú nghĩa nào là nghĩa của Bồ-tát. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát đối với tất cả pháp không có chướng ngại, hiểu đúng như thật của các pháp, cho đến Đẳng chánh giác cũng không chướng ngại đều hiểu đúng như thật. Đây gọi là nghĩa Bồ-tát.
Lại nữa, bạch Thế Tôn! Vì sao được gọi là Đại?
Phật dạy:
–Vì vị ấy ở trong hữu tình là bậc Tối thượng do nghĩa này nên gọi là Đại.
Bấy giờ, Tôn giả Xá-lợi-phất bạch Phật:
–Bạch Đức Thế Tôn! Con cũng vui mừng muốn giảng nói về nghĩa Đại Bồ-tát.
Phật dạy:
–Nay đã đến lúc, tùy sự hoan hỷ mà thuyết giảng.
Xá-lợi-phất nói:
–Có ngã kiến, chúng sinh kiến, thọ mạng kiến, nhân kiến, hữu tình kiến, đoạn kiến, thường kiến, thân kiến, ái kiến, xa lìa các kiến ấy rồi thuyết pháp cho chúng sinh, đó là Đại Bồ-tát.
Khi ấy, Tôn giả Tu-bồ-đề bạch Phật:
–Bạch Đức Thế Tôn! Con cũng muốn giảng nói về nghĩa Đại
Bồ-tát.
Phật dạy:
–Nay đã đúng lúc, ông tùy ý thuyết giảng.
Tu-bồ-đề nói:
–Tâm Bồ-đề, tâm Nhất thiết trí, tâm vô lậu, tâm vô đẳng, tâm vô đẳng đẳng đều là tâm vô ngại, không chấp trước nên không bị quả vị Thanh văn, Duyên giác làm hư hoại, do nghĩa này nên gọi là Đại Bồ-tát, do đây nên dự vào hàng Đại Bồ-tát.
Khi ấy, Tôn giả Xá-lợi-phất thưa Tôn giả Tu-bồ-đề:
–Vì sao tâm kia không chướng ngại, không chấp trước?
Tu-bồ-đề đáp:
–Do vô tâm nên tâm kia không chướng ngại, không chấp trước.
Xá-lợi-phất hỏi:
–Tâm có nghĩa thế nào?
Tu-bồ-đề hỏi lại:
–Thưa Tôn giả! Đối với có, với không, tâm có sinh không? Có chỗ được không?
Xá-lợi-phất đáp:
–Không thể được.
Khi ấy, Tu-bồ-đề nói với Xá-lợi-phất:
–Nói tâm đối với có, với không đều không thể được, vì sao lại nói tâm có chỗ để nói.
Tôn giả Xá-lợi-phất tán thán Tôn giả Tu-bồ-đề:
–Lành thay, lành thay, đúng như lời Phật dạy! Tôn giả hành Tam-muội vô tranh là bậc Tối thắng đệ nhất.
Khi ấy, Tôn giả Mãn Từ Tử nói:
–Bạch Thế Tôn! Con cũng muốn nói nghĩa Đại Bồ-tát.
Phật dạy:
–Nay đã đúng lúc, ông tùy ý giảng thuyết.
Mãn Từ Tử nói:
–Đại Bồ-tát mặc áo giáp Đại thừa, an trụ vào Đại thừa, dùng pháp Đại thừa để trang nghiêm thân, do ý nghĩa này nên gọi là Đại Bồ-tát.
Bấy giờ, Tu-bồ-đề bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Nói Đại Bồ-tát mặc áo giáp Đại thừa, áo giáp Đại thừa có nghĩa như thế nào?
Phật dạy:
–Đại Bồ-tát khởi lên niệm như vầy: “Ta nên độ vô lượng, vô số chúng sinh, làm cho tất cả vào Niết-bàn, tuy đã độ chúng sinh rồi nhưng đối với chúng sinh không có tưởng đã độ, không có một chúng sinh được vào Niết-bàn. Vì sao? Vì tất cả pháp tánh vốn như vậy, nên xa lìa tất cả sự tạo tác.”
Này Tu-bồ-đề! Ví như nhà ảo thuật ở nơi ngã tư đường, tự dùng pháp huyễn thuật hóa ra nhiều người, sau đó làm họ biến mất đi. Tu-bồ-đề! Ý ông nghĩ sao? Những người huyễn đó có chỗ đến không? Việc đó có thật không, có đi mất, có hoại diệt không?
–Bạch Thế Tôn, không có!
Phật dạy:
–Này Tu-bồ-đề! Đại Bồ-tát cũng như vậy, tuy độ hằng hà sa số chúng sinh vào Niết-bàn, nhưng thật không có chúng sinh được độ. Đại Bồ-tát nghe nói như vậy, không có tâm kinh sợ nên biết đây là Bồ-tát mặc áo giáp Đại thừa, tự trang nghiêm thân.
Bấy giờ, Tôn giả Tu-bồ-đề bạch Phật:
–Bạch Đức Thế Tôn! Như con hiểu lời Thế Tôn đã dạy, các Đại Bồ-tát cũng hiểu rốt ráo như vậy, do chính là tự khoác áo giáp Đại thừa, dũng mãnh, kiên cố, khéo trang nghiêm thân.
Phật dạy:
–Tu-bồ-đề! Đúng như vậy! Vì sao? Vì Nhất thiết trí chính là pháp vô vi, vô tác, do làm lợi ích chúng sinh nên bày các phương tiện mà chúng sinh kia cũng là vô vi, vô tác.
Tu-bồ-đề thưa:
–Đúng như lời Phật dạy. Vì sao? Vì sắc không có buộc cũng không có mở; thọ, tưởng, hành, thức không có buộc cũng không có mở. Bạch Đức Thế Tôn! Sắc chân như không buộc cũng không mở; thọ, tưởng, hành, thức chân như không buộc cũng không mở.
Khi ấy, Tôn giả Mãn Từ Tử thưa Tôn giả Tu-bồ-đề:
–Như Tôn giả đã nói, sắc không buộc cũng không mở; thọ, tưởng, hành, thức không buộc cũng không mở; sắc chân như không buộc cũng không mở; thọ, tưởng, hành, thức chân như không buộc cũng không mở. Trong đó, những gì là sắc không buộc không mở? Những gì là thọ, tưởng, hành, thức không buộc không mở? Những gì là sắc chân như không buộc cũng không mở?
Tu-bồ-đề đáp:
–Thưa Tôn giả Mãn Từ Tử! Tôn giả nay nên biết sắc của người huyễn không buộc không mở; thọ, tưởng, hành, thức người huyễn không buộc không mở; sắc chân như người huyễn không buộc không mở; thọ, tưởng, hành, thức chân như người huyễn không buộc không mở. Vì sao? Không có chỗ có, nên không buộc không mở, vì phân tán nên không có buộc, không có mở, vì không sinh nên không buộc không mở. Đại Bồ-tát biết rõ như vậy tức là đã an trụ vào Đại thừa, mặc áo giáp Đại thừa và trang nghiêm Đại thừa.
Tôn giả Mãn Từ Tử nghe nói như vậy, lặng lẽ an trụ.
Bấy giờ, Tôn giả Tu-bồ-đề bạch Phật:
–Bạch Đức Thế Tôn! Như Phật đã nói, Đại Bồ-tát an trụ vào Đại thừa, mặc áo giáp Đại thừa, trang nghiêm Đại thừa. Bạch Đức Thế Tôn! Phải do nghĩa này nên gọi là Đại thừa. Bồ-tát vì sao biết được? Và thừa này từ đâu mà có, đã có thì trụ vào chỗ nào?
Phật bảo Tu-bồ-đề:
–Đại thừa không có hạn lượng, không phần số, không giới hạn, do nghĩa này nên gọi là Đại thừa. Đại Bồ-tát phải hiểu đúng như vậy. Lại nói Đại thừa từ đâu mà có, an trụ vào chỗ nào? Thừa này từ tam giới mà có rồi trụ vào Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nó không chấp trước nên trụ vào Nhất thiết trí, cũng từ đây phát sinh Đại Bồ-tát.
Lại nữa, Tu-bồ-đề! Pháp không có xuất cũng không có trụ, do không trụ nên Nhất thiết trí tương ưng với không trụ. Lại nữa, Đại thừa cũng không chỗ có, tức là không có chỗ phát xuất, không phát xuất chính là phát xuất. Vì sao? Vì có chỗ phát xuất, không có chỗ phát xuất đủ cả hai pháp ấy thì không thể được nên không có chỗ sinh. Cho đến trong tất cả pháp, không có pháp có thể phát xuất, cũng chẳng không có pháp có thể xuất. Tu-bồ-đề! Bát-nhã ba-la-mật-đa của Đại Bồ-tát sinh ra như vậy.
Bấy giờ, Tôn giả Tu-bồ-đề bạch Phật:
–Bạch Đức Thế Tôn! Đúng như lời Phật dạy, pháp Đại thừa kia đối với tất cả Trời, Người, A-tu-la… trong thế gian là pháp tối thắng đồng với hư không. Như hư không kia dung nạp vô lượng, vô số chúng sinh, pháp Đại thừa kia cũng như thế, có khả năng dung nạp vô lượng, vô số chúng sinh.
–Bạch Đức Thế Tôn! Đại Bồ-tát đối với pháp Đại thừa không thấy có đến, không thấy có đi, cũng không có trụ xứ. Vị lai cũng không thể có, quá khứ cũng không thể có, hiện tại cũng không thể có, cả ba thời giống nhau đều không có chỗ sinh. Do đó, nên nói nghĩa Đại thừa như vậy.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn khen Tu-bồ-đề:
–Lành thay, lành thay, đúng như vậy! Này Tu-bồ-đề! Đại Bồ-tát đối với pháp Đại thừa nên học như vậy, liền thành tựu Nhất thiết trí.
***
Bấy giờ, Tôn giả Mãn Từ Tử bạch Phật:
–Phật đã dạy Tôn giả Tu-bồ-đề nói pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa, nay vì sao lại nói pháp Đại thừa?
Khi ấy, Tôn giả Tu-bồ-đề bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Pháp Đại thừa con đã nói có trái nghịch với Bát-nhã ba-la-mật-đa không?
Phật đáp:
–Này Tu-bồ-đề, không có! Những lời đã diễn nói đều thuận theo Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lúc đó, Tôn giả Tu-bồ-đề nương thần lực của Phật mà bạch:
–Bạch Đức Thế Tôn! Con ở trong ba thời, quá khứ, vị lai và hiện tại cầu Đại Bồ-tát thì đều không thể nắm bắt được. Vì sao? Vì sắc là vô biên, cho nên Đại Bồ-tát cũng vô biên. Thọ, tưởng, hành, thức là vô biên, cho nên Đại Bồ-tát cũng vô biên. Sắc là Bồ-tát không có chỗ có nên không thể cầu được. Thọ, tưởng, hành, thức là Bồ-tát không có chỗ có nên không thể cầu được. Bạch Thế Tôn! Ở mọi lúc, mọi nơi, mọi loài chúng sinh cầu Đại Bồ-tát rốt ráo đều không thể được.
Bát-nhã ba-la-mật-đa không thể thấy cũng không thể nắm bắt, cho đến Nhất thiết trí không thể thấy cũng không thể nắm bắt. Tất cả các pháp ở mọi lúc, mọi nơi, mọi loài chúng sinh đều không thể thấy, không thể nắm bắt.
Thế nào là pháp? Thế nào là phi pháp? Vậy Bồ-tát dùng pháp
nào để giáo hóa, đưa người vào Bát-nhã ba-la-mật-đa?
Bạch Đức Thế Tôn! Bồ-tát chỉ là danh tự, Bát-nhã ba-la-mật-đa chỉ là danh tự, mà danh tự ấy thì không có chỗ sinh.
Bạch Đức Thế Tôn! Như nói ngã, ngã pháp rốt ráo đều không có chỗ sinh. Ngã không có tự tánh nên tất cả pháp cũng đều như vậy. Ở đây, tại sao nói sắc không chấp trước, vô sinh? Tại sao nói thọ, tưởng, hành, thức không chấp trước, vô sinh? Tất cả pháp đều không có tự tánh nên không chấp trước, không sinh, vì pháp là vô tánh nên tất cả pháp là vô sinh, cho đến vô sinh cũng không sinh.
Bạch Đức Thế Tôn! Con nay dùng pháp vô sinh giáo hóa, độ người vào Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nếu con rời pháp vô sinh cầu tất cả pháp cho đến pháp của Phật, Bồ-tát đều không thể được. Vì sao? Vì nếu xa rời pháp vô sinh thì Đại Bồ-tát ấy sẽ không thể thành tựu hạnh Bồ-đề.
Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát nghe như vậy mà tâm không động, không lo, không sợ, không thoái thất nên biết đây là Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa quán tưởng về Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Bạch Thế Tôn! Khi thực hành hoặc khi quán tưởng, Đại Bồ-tát đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa đều không chấp thủ đối với sắc, không thấy sắc sinh, không thấy sắc diệt, như vậy là không chấp thủ thọ, tưởng, hành, thức; không thấy có thọ, tưởng, hành, thức sinh; không thấy có thọ, tưởng, hành, thức diệt. Vì sao? Vì sắc không sinh không phải là sắc, sắc không diệt tức không phải là sắc. Không sinh này cùng với sắc không hai, không phân biệt, không diệt cùng với sắc không hai cũng không phân biệt. Nếu nói sắc tức là pháp không hai; nếu thọ, tưởng, hành, thức vô sinh, tức chẳng phải là thọ, tưởng, hành, thức; nếu thọ, tưởng, hành, thức vô diệt tức chẳng phải thọ, tưởng, hành, thức. Vô sinh này cùng với thọ, tưởng, hành, thức không hai, không phân biệt. Vô diệt cùng với thọ, tưởng, hành, thức không hai, cũng không phân biệt. Nên nói thọ, tưởng, hành, thức là pháp không hai.
Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa quán xét như vậy, tức là đối với sắc, thọ, tưởng, hành, thức không có chấp thủ, không có chỗ sinh cũng không có chỗ diệt, cho đến tất cả pháp, tất cả tướng cũng đều như vậy. Vì sao? Vì nói sắc, thọ, tưởng, hành, thức không sinh, không diệt tức không phải sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Sắc, thọ, tưởng, hành, thức này cùng với không sinh, không diệt, không hai, không phân biệt, nên nói sắc, thọ, tưởng, hành, thức này là pháp không hai.
Bấy giờ, Tôn giả Xá-lợi-phất nói với Tôn giả Tu-bồ-đề:
–Theo tôi biết thì Tôn giả đã nói nghĩa Bồ-tát tức là pháp vô sinh, nếu như vậy thì Bồ-tát làm lợi ích cho chúng sinh bằng cách nào? Có làm việc khó làm và nghĩ việc khó làm không?
Tôn giả Tu-bồ-đề nói:
–Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Tôi không muốn làm Đại Bồ-tát có làm việc khó làm và nghĩ đến việc khó làm. Vì sao? Vì nghĩ đến việc khó làm thì không thể làm lợi ích cho vô lượng, vô số chúng sinh. Đối với tất cả chúng sinh, Bồ-tát khởi tâm tưởng dễ độ, tưởng là vui, tưởng là cha, tưởng là mẹ, tưởng là con của người, như thế mới có thể làm lợi ích cho vô lượng, vô số chúng sinh. Đại Bồ-tát đối với tất cả chúng sinh đều nghĩ tưởng như vậy. Ta dù ở chỗ nào cũng làm cho tất cả chúng sinh giải thoát khổ đau. Ở chỗ nào cũng không rời bỏ chúng sinh, làm cho tất cả chúng sinh đều giải thoát khổ đau, tâm ý không sinh lầm lỗi.
Đại Bồ-tát đối với chúng sinh, sinh tâm như thế tức không hành hạnh khó làm, không nghĩ đến hạnh khó làm. Này Xá-lợi-phất! Đại Bồ-tát sinh tâm như vầy: “Ta ở lúc nào, chỗ nào, loài nào rốt ráo đều không thể có, không thể được. Tất cả pháp kia đối với mọi lúc, mọi nơi, mọi loài nào cũng rốt ráo đều không thể có, không thể được.” Như vậy, đối với trong, ngoài các pháp đều phát sinh từ nơi không có tưởng. Đại Bồ-tát thực hành tâm như vậy là không hành hạnh khó làm, không nghĩ hạnh khó làm. Lại nữa, Tôn giả Xá-lợi-phất! Trước đây, ông nói Bồ-tát không có sinh, đúng như thế, Bồ-tát thật không có sinh.
Xá-lợi-phất hỏi:
–Bồ-tát kia không sinh, như vậy pháp Bồ-tát có vô sinh không?
Tu-bồ-đề đáp:
–Pháp Bồ-tát cũng không sinh.
Tôn giả Xá-lợi-phất hỏi:
–Pháp Bồ-tát là vô sinh, vậy Nhất thiết trí kia cũng vô sinh chăng?
Tu-bồ-đề đáp:
–Nhất thiết trí là vô sinh.
Xá-lợi-phất hỏi:
–Pháp Nhất thiết trí cũng vô sinh phải không?
Tu-bồ-đề đáp:
–Pháp Nhất thiết trí cũng vô sinh.
Xá-lợi-phất hỏi:
–Nói Nhất thiết trí là vô sinh thì hàng phàm phu kia cũng vô sinh phải không?
Tu-bồ-đề đáp:
–Các hạng phàm phu kia cũng vô sinh.
Vậy các pháp của hàng phàm phu kia cũng vô sinh phải không?
Tu-bồ-đề đáp:
–Pháp của các hàng phàm phu kia cũng vô sinh.
Tôn giả Xá-lợi-phất hỏi Tôn giả Tu-bồ-đề:
–Nói Bồ-tát, pháp Bồ-tát; Nhất thiết trí, pháp Nhất thiết trí; chúng sinh, pháp chúng sinh, tất cả đều vô sinh. Đại Bồ-tát kia được Nhất thiết trí tức là vô sinh, là được vô sinh phải không?
Tôn giả Tu-bồ-đề đáp:
–Thưa Tôn giả Xá-lợi Tử! Tôi không muốn nói pháp vô sinh có chỗ đắc. Vì sao? Vì pháp vô sinh không thể có được vậy.
Xá-lợi-phất hỏi:
–Pháp vô sinh cũng không có đắc vô sinh phải không?
Tu-bồ-đề nói:
–Đúng như vậy, pháp vô sinh không có đắc vô sinh.
Xá-lợi-phất hỏi:
–Theo pháp kia vô sinh, thì vô sinh cũng là vô sinh phải không?
Tu-bồ-đề đáp:
–Sinh ra pháp vô sinh, vô sinh cũng vô sinh.
Xá-lợi-phất hỏi:
–Nói vô sinh là vô sinh thì lời ông nói đó là sinh hay vô sinh?
Tu-bồ-đề nói:
–Lời tôi nói cũng vô sinh.
Xá-lợi-phất hỏi:
–Nói vô sinh thì lời nói ấy cũng vô sinh phải không?
Tu-bồ-đề nói:
–Tất cả ngôn ngữ và lời nói đều là vô sinh.
Tôn giả Xá-lợi-phất tán thán Tôn giả Tu-bồ-đề:
–Lành thay, lành thay, Tôn giả Tu-bồ-đề! Quả thật là Bậc đứng đầu trong những vị nói pháp. Vì sao? Vì Tôn giả tùy theo các câu hỏi mà trả lời đầy đủ và đối với tất cả các pháp tướng đều không động, không hư hoại.
Tu-bồ-đề nói:
–Tôn giả Xá-lợi-phất! Căn bản các pháp là như vậy, các đệ tử của Phật đối với pháp thì không nên y chỉ, tùy theo chỗ hỏi mà trả lời đầy đủ. Tất cả các pháp tướng đều không động, cũng không hư hoại. Vì tất cả các pháp đều không có nơi y chỉ.
Tôn giả Xá-lợi-phất hỏi Tôn giả Tu-bồ-đề:
–Nếu tất cả các pháp đều không có chỗ y chỉ thì Đại Bồ-tát biết nương vào độ nào?
Tu-bồ-đề đáp:
–Đại Bồ-tát nương vào Bát-nhã ba-la-mật-đa. Xá-lợi-phất! Ông nên thật biết là tất cả các pháp kia đều không có chỗ y chỉ. Các pháp Ba-la-mật-đa cũng lại như vậy. Lúc Đại Bồ-tát nghe Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này thì nên khởi niệm không nói, không chỉ bày, không nghe, không nắm bắt. Tâm không dao động, không có chỗ cầu tướng, không chấp tướng. Nên biết đây là Đại Bồ-tát hành vô số Bát-nhã ba-la-mật-đa và luôn không rời niệm này.
Tôn giả Xá-lợi-phất hỏi Tôn giả Tu-bồ-đề:
–Vì sao Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thì không rời niệm này? Do Đại Bồ-tát không rời niệm này nên làm đạt được việc không xa lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa. Đại Bồ-tát không lìa việc hành Bát-nhã ba-la-mật-đa nên đạt được niệm không xa lìa này.
Này Tu-bồ-đề! Nếu Đại Bồ-tát không lìa hành và niệm này thì tất cả chúng sinh kia cũng theo đó mà hành không lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa. Tất cả chúng sinh không lìa hạnh và niệm này.
Tôn giả Tu-bồ-đề đáp lời Tôn giả Xá-lợi-phất:
–Tôi đã thành tựu nghĩa mà ông đã trình bày. Vì sao? Vì chúng sinh không có tánh nên biết niệm không có tánh, chúng sinh xa lìa nên niệm cũng xa lìa, chúng sinh không có tâm nên niệm cũng không có tâm, chúng sinh không có giác ngộ nên biết niệm cũng không có giác ngộ. Chúng sinh biết nghĩa như thật cho nên niệm cũng biết nghĩa như thật.
Thưa Tôn giả Xá-lợi-phất! Tôi muốn các vị Đại Bồ-tát đều thực hành đúng theo Bát-nhã ba-la-mật-đa vậy.
***
Phẩm 2: THIÊN ĐẾ THÍCH
Bấy giờ, Đế Thích cùng với bốn ngàn chư Thiên đồng đến đại hội, cũng có Tứ Thiên vương cùng với hai mươi ngàn quyến thuộc, Đại Phạm Thiên vương cùng với mười ngàn Phạm chúng đến dự, lại có vua cõi trời Tịnh cư cùng một ngàn quyến thuộc đến dự. Tất cả đều đi đến dự hội, các vua trời kia tuy cũng có hào quang do tu tập nghiệp lành, nhưng oai thần hào quang của Phật vượt hẳn nên khiến cho hào quang của chư Thiên không có thấy rõ được.
Khi ấy, Đế Thích thưa Tôn giả Tu-bồ-đề:
–Chư Thiên chúng tôi cho đến Phạm chúng, tất cả nhóm lại và đều ưa muốn nghe pháp. Thưa Tôn giả, xin Tôn giả vì Đại Bồ-tát mà giảng nói về Bát-nhã ba-la-mật-đa. Bồ-tát an trụ cách nào? Tu tập làm sao? Và tương ưng như thế nào?
Tu-bồ-đề đáp:
–Này Kiều-thi-ca! Ngày nay, nương vào thần lực của Phật gia hộ, các Thiên tử và đồ chúng đều tập hợp nơi đây. Nếu có vị nào chưa phát tâm cầu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác thì theo đó mà phát tâm, vị nào đã dự vào chánh vị thì không thể phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Vì sao? Vì các vị ấy thấy sự trói buộc của sinh tử luân hồi, do vậy đối với những người hiện ở đây mà ai có khả năng phát tâm cầu đạo Vô thượng Bồ-đề thì tôi sẽ tùy đó giúp họ phát tâm khiến cho căn lành của họ không đoạn tuyệt.
Khi ấy, Đức Thế Tôn tán thán:
–Lành thay, lành thay! Này Tu-bồ-đề! Ông thật khéo khuyến khích, hướng dẫn cho các Đại Bồ-tát tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Tu-bồ-đề bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Chúng sinh luôn thấm nhuần công đức sâu dày của Đức Phật. Nay con vì muốn báo ân sâu ấy, nên cố gắng khuyến khích, hướng dẫn như vậy. Vì sao? Vì thuở quá khứ, đệ tử của Bậc Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác cũng muốn báo ân Phật nên khuyến khích, hướng dẫn cho các Đại Bồ-tát được phạm hạnh như vậy, an trú vào pháp chân thật, cũng giáo hóa thành tựu Bát-nhã ba-la-mật-đa. Do thực hành như vậy, nên phát sinh trí Vô thượng.
Bạch Thế Tôn! Con nay cũng theo đó mà thâu nhận, hộ trì các Đại Bồ-tát. Do sức nhân duyên thâu nhận và hộ trì của con, nên làm cho Đại Bồ-tát mau chóng thành tựu đạo quả Vô thượng Bồ-đề.
Khi ấy, Tôn giả Tu-bồ-đề nói với Thiên đế Thích:
–Các ông hãy lắng nghe và tư duy, tôi nay muốn giảng nói Bát-nhã ba-la-mật-đa giúp cho Đại Bồ-tát trụ vào pháp không, làm cho Đại Bồ-tát khoác áo giáp Đại thừa trang nghiêm. Nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa không an trụ vào ngũ uẩn, không trụ vào nhãn căn, không trụ vào sắc cảnh, không trụ vào nhãn thức, không trụ vào nhãn xúc cũng không trụ vào các thọ phát sinh từ nhãn xúc.
Không trụ vào nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý căn; không trụ vào thanh, hương, vị xúc pháp cảnh; không trụ vào nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức; không trụ vào nhĩ xúc đến ý xúc, lại cũng không trụ vào các thọ phát sinh từ nhĩ xúc cho đến ý xúc. Không trụ vào địa, thủy, hỏa, phong, không, thức giới; cũng không trụ vào Niệm xứ, bốn Chánh cần, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy Giác chi, tám Thánh đạo; không trụ vào quả Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm và A-la-hán; không trụ vào quả Duyên giác; không trụ vào cõi Phật.
Do không trụ vào năm uẩn cho đến không trụ vào quả vị Phật nên không trụ vào sắc, thọ, tưởng, hành, thức, hoặc thường, hoặc vô thường; không trụ vào sắc, thọ, tưởng, hành, thức, hoặc khổ, hoặc vui; không trụ vào sắc, thọ, tưởng, hành, thức, hoặc không, hoặc bất không; không trụ vào sắc, thọ, tưởng, hành, thức, hoặc ngã, hoặc vô ngã; không trụ vào sắc, thọ, tưởng, hành, thức, hoặc tịnh, hoặc nhiễm.
Không trụ vào chỗ đắc pháp không của sắc pháp, không trụ vào chỗ đắc pháp không của thọ, tưởng, hành, thức, không trụ vào quả vô vi Tu-đà-hoàn, không trụ vào quả vô vi Tư-đà-hàm, không trụ vào quả vô vi A-na-hàm, không trụ vào quả vô vi A-la-hán, không trụ vào quả vô vi Duyên giác, không trụ vào Phật pháp. Không trụ vào phước điền của Tu-đà-hoàn, không trụ vào thân bảy lần tái sinh của Tu-đà-hoàn; không trụ vào phước điền của Tư-đà-hàm, không trụ vào một lần tái sinh vào cõi này đoạn trừ rốt ráo các khổ hoặc của Tư-đà-hàm; không trụ vào phước điền của A-na-hàm, không trụ vào sự không trở lại thế gian này do đắc Niết-bàn của A-na-hàm; không trụ vào phước điền của A-la-hán, không trụ vào hiện thế nhập Vô dư Niết-bàn của A-la-hán; không trụ vào phước điền của Duyên giác, cũng không trụ vào quả Duyên giác, vượt qua quả vị Thanh văn, không dừng ở Phật địa thẳng đến Niết-bàn.
Không trụ vào phước điền tối thượng của chư Phật, không trụ vào Phật pháp vượt qua quả vị phàm phu, Thanh văn, Duyên giác, làm lợi ích cho vô lượng, vô số chúng sinh, làm cho trăm ngàn vạn ức vô số chúng sinh không theo Niết-bàn Vô dư của Thanh văn, Duyên giác mà quyết định hướng đến chứng Niết-bàn Vô thượng Đẳng chánh giác, kiến lập các Phật pháp và không trụ vào những quả vị như vậy.
Khi ấy, Tôn giả Xá-lợi-phất có suy nghĩ: “Các Đức Như Lai đã vượt qua quả vị phàm phu, Thanh văn, Duyên giác, làm lợi ích cho vô lượng, vô số chúng sinh, khiến cho trăm ngàn vạn ức vô lượng, vô số chúng sinh không hướng đến Niết-bàn Vô dư của Thanh văn, Duyên giác mà hướng đến và chứng Niết-bàn Vô thượng Đẳng chánh giác, kiến lập các Phật pháp. Không an trụ vào các pháp như vậy thì an trụ vào đâu?”
Bấy giờ, Tôn giả Tu-bồ-đề nương oai thần của Phật biết được tâm niệm ấy của Tôn giả Xá-lợi-phất liền nói:
–Thưa Tôn giả! Ý Tôn giả thế nào? Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác có pháp để trụ không?
Xá-lợi-phất đáp:
–Thưa Tôn giả! Không thể được. Bậc Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác không có pháp để trụ. Vì sao? Vì tâm không trụ kia gọi là Như Lai, không trụ vào cảnh giới hữu vi, cũng không trụ vào cảnh giới vô vi, không trụ vào ở giữa đó.
Tu-bồ-đề nói:
–Đúng như thế, Xá-lợi-phất! Các Đại Bồ-tát nên an trụ như các Đức Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác đã trụ. Người trụ như vậy thì chẳng có chỗ trụ cũng chẳng không có chỗ không trụ, chẳng phải quyết định cũng không phải không quyết định. Đại Bồ-tát học như thế, nên khéo an trú và tương ưng với vô trụ.
Đại Bồ-tát học như vậy là thực hành hạnh Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Khi ấy trong chúng hội, các vị Thiên tử có suy nghĩ: “Hàng Dạ-xoa còn hiểu được lời lẽ, văn tự, chương cú nơi lời pháp của Tôn giả
Tu-bồ-đề đã diễn nói thì lẽ nào chúng ta không hiểu rõ.”
Khi ấy, Tu-bồ-đề biết được tâm trạng của chư Thiên, liền nói:
–Các ông nên biết tất cả pháp ấy đều không có thuyết, không
dạy bày, không nghe, cũng không có được, xa lìa tất cả phân biệt, không còn có chỗ hiểu biết vậy.
Vừa nghe, thì chư Thiên có suy nghĩ: “Lời nói của Tôn giả Tu-bồ-đề thường xuyên khó giải, ý tứ sâu xa, vi diệu, cao tột. Chư Thiên chúng tôi thật khó ngộ nhận được.”
Biết được tâm niệm của chư Thiên như vậy, Tôn giả Tu-bồ-đề nói rằng:
–Các ông nên biết, muốn đắc quả Tu-đà-hoàn, muốn trụ quả Tu-đà-hoàn nên an trụ vào pháp nhẫn này. Muốn đắc quả Tư-đà-hàm, muốn trụ vào quả Tư-đà-hàm; muốn đắc quả A-na-hàm, muốn trụ vào quả A-na-hàm; muốn đắc quả A-la-hán, muốn trụ quả A-la-hán; muốn đắc quả Duyên giác, muốn trụ quả Duyên giác; muốn đắc quả Vô thượng Bồ-đề, muốn trụ quả Vô thượng Bồ-đề thì nên an trụ vào pháp nhẫn.
Các Thiên tử nghe rồi liền có suy nghĩ: “Vậy khi Tôn giả Tu-bồ-đề nói pháp thì ai là người có khả năng nghe và thọ trì?”
Tôn giả Tu-bồ-đề lúc ấy nương vào oai thần của Phật, biết được suy nghĩ đó, nên Tôn giả nhắc lại:
–Này Thiên tử! Các vị nên biết khi tôi thuyết pháp thì những người huyễn kia có khả năng nghe và thọ trì, vì họ đối với pháp không có nghe cũng không có chứng.
Ngay khi ấy, các Thiên tử bạch với Tôn giả Tu-bồ-đề:
–Có phải Tôn giả nói tất cả chúng sinh đều là huyễn phải không?
Tôn giả Tu-bồ-đề đáp:
–Đúng, tất cả chúng sinh đều như huyễn, như mộng. Vì sao? Vì tất cả chúng sinh kia cùng với huyễn mộng này không hai, không khác. Do đó, tất cả pháp kia cũng như huyễn mộng. Tu-đà-hoàn quả Tu-đà-hoàn; Tư-đà-hàm, quả Tư-đà-hàm, A-na-hàm, quả A-na-hàm; A-la-hán, quả A-la-hán; Duyên giác, quả Duyên giác, tất cả đều là mộng, là huyễn, cho đến quả Vô thượng Bồ-đề cũng như mộng, như huyễn.
Chư Thiên lại thưa với Tôn giả Tu-bồ-đề:
–Nói Vô thượng Bồ-đề như mộng, như huyễn, vậy pháp Niết-bàn kia cũng như mộng, như huyễn sao?
Tôn giả Tu-bồ-đề đáp:
–Niết-bàn như thế cũng như mộng, như huyễn, huống chi là các pháp khác.
Các Thiên tử nói:
–Pháp Niết-bàn kia cớ sao cũng nói như mộng, như huyễn?
Tôn giả Tu-bồ-đề đáp:
–Nếu có pháp hơn hẳn pháp Niết-bàn thì tôi cũng cho là như huyễn, như mộng. Vì sao? Vì huyễn mộng kia cùng với pháp Niết-bàn không hai, không phân biệt.
Bấy giờ, Tôn giả Xá-lợi-phất, Tôn giả Mãn Từ Tử, Tôn giả Ma-ha Câu-hy-la, Tôn giả Ma-ha Ca-chiên-diên, Tôn giả Ma-ha Ca-diếp cùng với chúng Thanh văn và chúng Bồ-tát thưa với Tôn giả Tu-bồ-đề:
–Ai có khả năng thọ trì nghĩa pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa mà Tôn giả đã diễn nói?
Lúc ấy, Tôn giả A-nan nói với đại chúng:
–Bậc Đại Bồ-tát không thoái chuyển có đầy đủ chánh kiến và các A-la-hán đã đoạn trừ lậu hoặc hoàn toàn là những người có thể thọ trì nghĩa pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa mà Tôn giả Tu-bồ-đề đã trình bày.
Lúc đó, Tôn giả Tu-bồ-đề nói với đại chúng:
–Pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa tôi đã nói không có người có thể thọ trì. Vì sao? Vì ở đây không có pháp được tuyên thuyết, không có pháp biểu thị, không có chỗ phân biệt cũng không có chỗ hiểu biết hết. Vì không nói, bày và không có hiểu biết về Bát-nhã ba-la-mật-đa, thì đó là tuyên thuyết, đó là nghe nhận. Nghe vậy, Đế Thích liền suy nghĩ: “Nay Tôn giả Tu-bồ-đề đã tuyên thuyết chánh pháp ý nghĩa thậm thâm như vậy, chúng ta nên hóa ra các thứ hoa vi diệu để rải trên thân Tôn giả.” Suy nghĩ như vậy, liền hóa ra vô số hoa thơm rải khắp thân Tôn giả Tu-bồ-đề.
Khi ấy, Tôn giả Tu-bồ-đề suy nghĩ: “Vô số các loại hoa thơm
vi diệu đã biến hóa ra ở đây thì ta chưa từng gặp ở cõi trời Tam thập tam, các loại hoa quý đặc biệt này chẳng phải từ cây sinh ra.”
Khi ấy, Đế Thích biết tâm niệm của Tu-bồ-đề, liền thưa:
–Hoa này chẳng phải là pháp sinh, chẳng từ tâm sinh ra và không từ cây mà có.
Tu-bồ-đề nói:
–Này Kiều-thi-ca! Hoa này không phải từ cây mà có, cũng chẳng phải từ tâm mà sinh, đó chính là vô sinh, hoa vô sinh cũng không gọi là hoa.
Đế Thích liền có suy nghĩ: “Tôn giả Tu-bồ-đề trí tuệ thật thâm sâu, khéo vận dụng ngôn từ, tùy theo sự việc để giảng nói, nhưng không hủy mất giả danh để nói về thật nghĩa.”
Suy nghĩ như vậy, liền thưa với Tu-bồ-đề:
–Theo như lời của Tôn giả, thì Đại Bồ-tát phải học như vậy.
Khi ấy, Tôn giả Tu-bồ-đề bảo Đế Thích:
–Này Kiều-thi-ca! Thật đúng như vậy! Đại Bồ-tát phải học như vậy, người học như thế sẽ không học quả Tu-đà-hoàn, không học quả Tư-đà-hàm, không học quả A-na-hàm, không học quả A-la-hán, không học quả Duyên giác, không học quả vị như vậy tức là học Nhất thiết trí, an trụ vào Phật pháp. Bậc an trụ như thế tức là học vô lượng, vô biên Phật pháp.
Người học như vậy, tuy có học sắc pháp nhưng không có tăng, giảm, tuy có học thọ, tưởng, hành, thức nhưng không có tăng, giảm. Đối với sắc, thọ, tưởng, hành, thức không tăng giảm, người học như vậy tức là không chấp thủ vào học ở sắc, không chấp thủ vào học ở thọ, tưởng, hành, thức; không xả bỏ ở sắc, không xả bỏ ở thọ, tưởng, hành, thức.
Pháp không thủ, không xả, tức là pháp không sinh, không diệt. Hiểu rõ tất cả các pháp, không thủ, không xả, không sinh, không diệt. Người học như vậy gọi là học Nhất thiết trí, phát sinh Nhất thiết trí.
Khi ấy, Tôn giả Xá-lợi-phất nói với Tôn giả Tu-bồ-đề:
–Đại Bồ-tát đối với pháp không có chấp thủ, nên học pháp không sinh diệt, người học Nhất thiết trí kia cũng không chấp thủ nên học pháp không sinh diệt. Đại Bồ-tát nên tu học như vậy. Người tu học như vậy là tu học Nhất thiết trí phải không?
Tu-bồ-đề đáp:
–Đúng như vậy, tất cả Nhất thiết trí cho đến tất cả pháp Phật không có chấp thủ, cũng không sinh diệt, người tu học như vậy chính là Đại Bồ-tát tu học Nhất thiết trí.
Khi ấy, Đế Thích thưa Tôn giả Xá-lợi-phất:
–Đại Bồ-tát nên cầu học Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế nào?
Xá-lợi-phất đáp:
–Kiều-thi-ca! Đại Bồ-tát cầu học Bát-nhã ba-la-mật-đa nên đến chỗ Tôn giả Tu-bồ-đề cầu học.
Đế Thích nói với Tôn giả Xá-lợi-phất:
–Tôn giả Tu-bồ-đề khi thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa thì được thần lực nào gia trì?
Xá-lợi-phất nói:
–Này Kiều-thi-ca! Đây là thần lực của Phật gia trì.
Khi ấy, Tu-bồ-đề bảo Đế Thích:
–Nên biết khi nói pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa, đều có thần lực của Như Lai hộ trì.
Nói Đại Bồ-tát nên nương vào đâu mà cầu học Bát-nhã ba-la-mật-đa, nên biết Đại Bồ-tát trong Bát-nhã ba-la-mật-đa không nương theo sắc mà cầu, không lìa sắc mà cầu, không nương theo thọ, tưởng, hành, thức mà cầu, cũng không lìa thọ, tưởng, hành, thức mà cầu.
Vì sắc không phải là Bát-nhã ba-la-mật-đa, lìa sắc cũng chẳng phải là Bát-nhã ba-la-mật-đa. Thọ, tưởng, hành, thức chẳng phải là Bát-nhã ba-la-mật-đa; lìa thọ, tưởng, hành, thức cũng chẳng phải là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Đế Thích thưa Tôn giả Tu-bồ-đề:
–Đại Ba-la-mật-đa là Bát-nhã ba-la-mật-đa phải không? Vô lượng Ba-la-mật-đa là Bát-nhã ba-la-mật-đa phải không? Vô biên Ba-la-mật-đa là Bát-nhã ba-la-mật-đa phải không?
Tu-bồ-đề đáp:
–Đúng như thế, này Kiều-thi-ca! Đại ba-la-mật-đa chính là Bát-nhã ba-la-mật-đa, vô lượng Ba-la-mật-đa chính là Bát-nhã ba-la-mật-đa, vô biên Ba-la-mật-đa chính là Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì rằng, sắc quảng đại cho nên Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng quảng đại. Thọ, tưởng, hành, thức quảng đại cho nên Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng quảng đại. Sắc, thọ, tưởng, hành, thức vô lượng, nên Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng vô lượng. Sắc, thọ, tưởng, hành, thức vô biên, nên Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng vô biên.
Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Do duyên với vô biên cho nên Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng vô biên. Bát-nhã ba-la-mật-đa vô biên cho nên chúng sinh cũng vô biên. Do nghĩa này nên có tên gọi là duyên vô biên. Sắc, thọ, tưởng, hành, thức ở quá khứ cũng không thể đắc, ở hiện tại, ở vị lai không thể đắc, cho đến tất cả pháp ở quá khứ, hiện tại, vị lai không thể đắc. Do nghĩa này nên gọi là duyên vô biên, cũng chính là Bát-nhã ba-la-mật-đa vô biên.
Lại nữa, do nghĩa nào mà gọi là chúng sinh vô biên?
Này Kiều-thi-ca! Nên biết quá khứ, hiện tại, vị lai không có chúng sinh nào có thể đắc.
Đế Thích nói:
–Thưa Tôn giả Tu-bồ-đề! Chúng sinh ở thế giới kia là vô biên phải không?
Tu-bồ-đề đáp:
–Chúng sinh vô lượng, vô số không thể kể xiết. Do nghĩa này nên gọi chúng sinh là vô biên.
Đế Thích lại hỏi Tu-bồ-đề:
–Tôn giả đã nói chúng sinh, vậy do nghĩa nào mà có tên là chúng sinh?
Tu-bồ-đề đáp:
–Nghĩa của tất cả pháp đều là nghĩa của chúng sinh. Này Kiều-thi-ca! Theo ý ông thì nên nói nghĩa nào là nghĩa chúng sinh?
Đế Thích đáp:
–Theo ý của con, nghĩa phi pháp là nghĩa chúng sinh, chẳng phải nghĩa phi pháp cũng là nghĩa chúng sinh, nên biết chúng sinh không có gốc, không có nhân, không có ngã, không có duyên. Do phương tiện mà tạo lập danh tự.
Tu-bồ-đề nói:
–Này Kiều-thi-ca! Trước đây tôi đã nói chúng sinh vô biên, theo ý ông thì như thế nào? Thật có chúng sinh có thể nói, có thể thấy không?
Đế Thích đáp:
–Thưa Tôn giả! Không thể được.
Khi ấy, Tu-bồ-đề nói:
–Nếu các chúng sinh không có thật thì không thể nói thấy. Do nghĩa này tôi nói chúng sinh vô biên. Kiều-thi-ca, giả sử các Đức Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác sống hằng hà sa kiếp dùng phương tiện nói: “Tất cả chúng sinh đã sinh, đang sinh và sẽ sinh. Đã diệt độ, đang và sẽ diệt độ.” Có thể nói nghĩa biên tế này không?
Đế Thích nói:
–Thưa Tôn giả! Không thể được. Vì tất cả chúng sinh xưa nay thường thanh tịnh.
Tu-bồ-đề nói:
–Đúng như thế, chúng sinh là vô biên. Do vậy, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng vô biên.
Khi ấy, trong hội có Đế Thích, Phạm vương, Chuyển luân thánh vương cùng chư Thiên, Thiên nữ, Thần tiên… đồng bạch Phật:
–Lành thay, lành thay! Như Lai là Đấng Xuất Thế và Tôn giả Tu-bồ-đề là bậc khéo tuyên thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa. Đại Bồ-tát đã thọ trì pháp này, không lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa của chư Như Lai. Chúng con nay tôn kính Tôn giả như kính ngưỡng chư Phật
Khi ấy, Thế Tôn bảo Đế Thích, Phạm vương và chư Thiên tiên:
–Đúng như thế, các ông nên biết, ta ở đời quá khứ xa xưa, có
Đức Phật hiệu là Nhiên Đăng Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác luôn tu hạnh Bồ-đề, khi ấy ta cũng không lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa. Đức Phật Nhiên Đăng Như Lai đã thọ ký cho ta quả Vô thượng Bồ-đề và nói:
–Vào đời vị lai cách đây a-tăng-kỳ kiếp ông sẽ thành Phật hiệu là Thích-ca Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn.
Khi ấy, Đế Thích cùng chư Thiên bạch Phật:
–Bạch Đức Thế Tôn! Hy hữu thay! Bạch Thiện Thệ, hy hữu thay!
Bát-nhã ba-la-mật-đa này có thể bao gồm Nhất thiết trí, do vậy Đại Bồ-tát nên học.
***
Phẩm 3: BẢO THÁP CÔNG ĐỨC
Khi ấy, Thế Tôn bảo khắp bốn chúng Bí-sô, Bí-sô-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, Đế Thích, chư Thiên ở Dục giới và Đại phạm Thiên vương, chư Thiên ở Sắc giới cho đến tất cả Thiên tử ở trời Sắc cứu cánh:
–Tất cả các ông nên biết, thiện nam, thiện nữ nào lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, đối với pháp môn Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm này rồi theo pháp tu hành, tu hành thì chắc chắn người đó không phải bị ma, dân ma, nhân phi nhân… quấy nhiễu, không bị các thứ độc làm tổn hại, không bị tổn giảm tuổi thọ.
Lại nữa, nếu có thiện nam, thiện nữ nào chưa được nghe, thọ trì, đọc tụng pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa này, nhưng đã phát tâm cầu Vô thượng Bồ-đề, thì hàng chư Thiên sẽ đến hộ niệm, khuyến khích khiến cho người kia đối với pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa này được nghe, thọ trì, đọc tụng, y theo pháp mà tu hành.
Lại nữa, thiện nam, thiện nữ nào đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa
này, thọ trì, đọc tụng, tu hành đúng như pháp, thì người ấy lúc ở trong phòng vắng hoặc ở trong chúng, ở dưới gốc cây hoặc nơi hoang vắng, lúc đi trên đường vắng hoặc lúc dừng lại, cho đến vào trong biển lớn, ở chỗ ấy, khi đi, đứng, nằm, ngồi, được chư Thiên hộ niệm, lìa xa các lo sợ.
Khi ấy, Tứ đại Thiên vương bạch Phật:
–Bạch Đức Thế Tôn! Thiện nam, thiện nữ nào đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa này thọ trì, đọc tụng, tu hành đúng như pháp. Con sẽ đến chỗ họ hộ niệm, làm cho người ấy luôn luôn tinh tấn, không sinh tâm thoái thất.
Khi ấy, Đế Thích bạch Phật:
–Bạch Đức Thế Tôn! Thiện nam, thiện nữ đối với pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa này luôn luôn lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tu hành… con sẽ đến hỗ trợ cho họ không có ưu phiền.
Khi ấy, Đại Phạm thiên cùng Phạm chúng bạch Phật:
–Bạch Đức Thế Tôn! Thiện nam, thiện nữ nào đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa này mà lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tu hành, chúng con sẽ đến hỗ trợ khiến cho người ấy không có ưu phiền.
Khi ấy, Đế Thích bạch Phật:
–Bạch Đức Thế Tôn! Hy hữu thay! Pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa này thật sâu xa, vi diệu. Thiện nam, thiện nữ nào thọ trì, đọc tụng thì ngay hiện đời này sẽ đạt được công đức như vậy.
Bạch Đức Thế Tôn! Người thọ trì pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa này lại có năng lực thâu nhiếp tất cả pháp Ba-la-mật-đa phải không?
Phật đáp:
–Này Kiều-thi-ca, đúng như vậy! Người thọ trì Bát-nhã ba-la-mật-đa này có năng lực thâu nhiếp tất cả pháp Ba-la-mật-đa.
Này Kiều-thi-ca! Người nào thọ trì, đọc tụng pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa này sẽ được công đức rộng lớn, sâu xa. Các ông hãy lắng nghe và khéo suy nghĩ, ta sẽ vì ông giảng thuyết.
Đế Thích thưa:
–Lành thay, bạch Đức Thế Tôn! Xin Ngài vì chúng con giảng nói.
Phật nói:
–Này Kiều-thi-ca! Pháp môn Bát-nhã ba-la-mật-đa của ta sẽ không bị các pháp ác làm tổn giảm, hư hoại. Lúc các pháp ác muốn phá hoại, thì các pháp ác ấy dần dần bị tiêu diệt.
Lại nữa, pháp này tuy mới khởi phát nhưng nó không thể bị tổn hại. Vì sao? Kiều-thi-ca nên biết, do công đức thiện nam, thiện nữ này thọ trì, đọc tụng Bát-nhã ba-la-mật-đa nên các pháp ác tuy có sinh nhưng liền tự hủy diệt.
Này Kiều-thi-ca! Ví như ở thế gian có các loài rắn độc bò đi khắp nơi để kiếm mồi, vừa thấy loài trùng nhỏ thì nó muốn trườn tới ăn. Chỗ ấy, có loại cây thuốc tên là Mạt-kỳ có khả năng diệt các thứ độc, do vậy các trùng nhỏ chạy đến chỗ cây thuốc, rắn độc ngửi mùi cây thuốc liền bỏ đi. Các loài trùng nhỏ nhờ vậy không bị ăn thịt, vì loại cây thuốc Mạt-kỳ này có công năng tiêu diệt các thứ độc.
Này Kiều-thi-ca! Thiện nam, thiện nữ cũng như vậy, thọ trì, đọc tụng đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa này, tự mình giảng nói hoặc nhờ người khác giảng nói, y theo pháp đó tu hành. Người ấy sẽ không bị các pháp ác nhiễu hại. Các pháp ác tuy có sinh nhưng liền tự tiêu diệt. Vì sao? Nên biết, được như vậy là đều nhờ lực công đức của Bát-nhã ba-la-mật-đa, người ấy dầu ở đâu đều không bị lay chuyển. Bát-nhã ba-la-mật-đa này có công năng trừ tất cả tham, cùng các phiền não, hướng đến chứng đạo quả Vô thượng Niết-bàn.
Này Kiều-thi-ca! Người nào thọ trì, đọc tụng Bát-nhã ba-la-mật-đa này liền được Tứ đại Thiên vương, Đế Thích, Đại phạm Thiên vương cho đến chư Phật và Bồ-tát thường hộ trì làm cho người ấy không có phiền não.
Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Thiện nam, thiện nữ nào thọ trì, đọc tụng Bát-nhã ba-la-mật-đa này thì người ấy thường nói lời tín thuận, nói lời nhu nhuyến, nói lời thanh nhã, không nói tạp, không sinh phẫn nộ, không bị ngã mạn che ngăn, thường sinh tâm Từ, không khởi tâm sân nhuế, phẫn nộ và phiền não, không có tăng trưởng.
Thiện nam, thiện nữ kia thường luôn tâm niệm: “Ta vì muốn cầu đạo Vô thượng Bồ-đề nên đối với các pháp phiền não thì không nên sinh tâm sân hận. Vì khi pháp sân phát sinh nó sẽ làm cho các căn biến đổi, các sắc tướng lành sẽ không còn hòa hợp.” Người ấy nghĩ như vậy liền an trụ vào chánh niệm.
Này Kiều-thi-ca! Thiện nam, thiện nữ kia do thọ trì, đọc tụng Bát-nhã ba-la-mật-đa này nên ngay trong hiện tại đạt được công đức như vậy.
***
Khi ấy, Đế Thích bạch Phật:
–Hy hữu thay Đức Thế Tôn! Đại Bồ-tát vì muốn hồi hướng nên tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa, không sinh tâm cao ngạo chấp vào tướng.
Phật dạy:
–Đúng như vậy. Này Kiều-thi-ca! Thiện nam, thiện nữ nào đối với pháp môn Bát-nhã ba-la-mật-đa này, tự mình thọ trì, đọc tụng, tuyên thuyết, hoặc khiến người giảng nói, rồi tu hành đúng như pháp, thì người ấy sẽ đạt được lực công đức. Người ấy có vào quân trận thì lòng không hề khiếp sợ, luôn dũng mãnh, kiên cố, hàng phục quân địch, cho đến khi đi, đứng, nằm, ngồi đều được an lành.
Lại nữa, Kiều-thi-ca! Thiện nam, thiện nữ thọ trì, đọc tụng Bát-nhã ba-la-mật-đa này, người ấy ở các chỗ, khi đi, khi nghỉ, tuy gặp nạn đao trượng… nhưng thân người ấy không bị tổn hại, cho đến khi gần mất thân mạng cũng không có lo sợ. Bát-nhã ba-la-mật-đa này là ánh sáng rộng lớn, Bát-nhã ba-la-mật-đa là ánh sáng vô lượng, Bát-nhã ba-la-mật-đa là ánh sáng vô thượng, Bát-nhã ba-la-mật-đa là ánh sáng không gì bằng, Bát-nhã ba-la-mật-đa là ánh sáng không gì so sánh. Thiện nam, thiện nữ tu học với ánh sáng Bát-nhã ba-la-mật-đa như vậy, nên không nghĩ điều ác của mình, không nghĩ điều ác của người, không nghĩ điều ác của mình, của người.
Này Kiều-thi-ca! Nên biết người thọ trì, đọc tụng Bát-nhã ba-la-mật-đa này thì ngay trong đời hiện tại đạt được công đức như vậy.
Lại nữa, Đại Bồ-tát tu ánh sáng này có thể chứng đắc quả Vô thượng Bồ-đề, thành tựu Nhất thiết trí. Do chứng đắc Vô thượng Bồ-đề nên có thể quan sát, thấu suốt tâm, hành của tất cả loài chúng sinh, nên nói trí tuệ của bậc Nhất thiết trí là ánh sáng Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Đại Bồ-tát tu học pháp này thì không có pháp nhỏ nào mà không nhập, không có pháp nhỏ nào mà không biết, không có pháp nhỏ nào mà không thể chứng ngộ, do vậy nên gọi là trí Nhất thiết trí.
Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Nếu có người dùng Bát-nhã ba-la-mật-đa này sao chép kinh điển, cúng dường, thọ trì, hoặc tự mình đọc tụng hoặc khuyến khích người khác, cho đến vì người giảng giải nghĩa này, người này thường được sự hộ niệm của chư Phật Bồ-tát, chẳng bị Nhân phi nhân… làm hại, chỉ ngoại trừ nghiệp quả báo của đời quá khứ.
Này Kiều-thi-ca! Ví như vùng đất dưới cây Bồ-đề và xung quanh cây đó thì không bị Nhân phi nhân, cho đến các loài vật khác có thể xâm nhập, an trú, không thể phá hoại làm điều tệ ác ở chỗ ấy. Vì chỗ này là nơi chứng đạo quả Bồ-đề của Đức Như Lai Chánh Đẳng Chánh Giác thuở quá khứ, vị lai, hiện tại.
Này Kiều-thi-ca! Thiện nam, thiện nữ thọ trì, đọc tụng, sao chép, cúng dường Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng được như thế. Nhân phi nhân không làm điều bất an, không thể phá hoại, không làm điều tệ ác đối với pháp ấy. Vì sao? Vì công đức cúng dường kinh Bát-nhã ba-la-mật-đa này, dầu ở chỗ nào thì công đức ấy cũng đồng với công đức tạo tháp, tôn trọng kính lễ, xưng tán.
Này Kiều-thi-ca! Nên biết trí tuệ này, ngay nơi hiện tại đã có công đức lớn như vậy.
Khi ấy, Đế Thích thiên chủ bạch Phật:
–Bạch Đức Thế Tôn! Thiện nam, thiện nữ nên sao chép, tôn trọng, cung kính kinh Bát-nhã ba-la-mật-đa. Hãy dùng các loại hoa thơm, hương đốt, hương thoa, hương bột, các loại hoa trong sức, cho đến các loại cờ, lọng đẹp, các thứ đèn dầu như thế để cúng dường.
Lại nữa, sau khi Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác nhập Niết-bàn, thì thiện nam, thiện nữ thu xá-lợi và tạo bảo tháp cúng dường. Tôn trọng, cung kính, lễ lạy, xưng tán, dùng các thứ hoa thơm, hương đốt, cờ phướn, lọng báu như trên để cúng dường. Thiện nam, thiện nữ kia đã có được công đức, nếu so với công đức trước thì công đức này có nhiều hơn không?
Phật đáp:
–Này Kiều-thi-ca! Nay ta hỏi, ông tùy ý trả lời. Ông nghĩ như thế nào? Các Đức Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác do học pháp nào mà được thân như thế, được chứng đạo quả Vô thượng Bồ-đề thành tựu trí Nhất thiết trí?
Khi ấy, Đế Thích bạch Phật:
–Bạch Đức Thế Tôn! Các Đức Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác do tu học pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa được chứng đắc Vô thượng Bồ-đề thành tựu trí Nhất thiết trí.
Phật bảo Kiều-thi-ca:
–Ông nên biết, Phật không dựa nơi thân này để được quả Như Lai, do thành tựu trí Nhất thiết trí nên được thành Phật.
Nên biết trí Nhất thiết trí của Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác đều từ nơi Bát-nhã ba-la-mật-đa mà sinh ra. Thân Như Lai cũng từ nơi Bát-nhã ba-la-mật-đa phương cách tốt nhất sinh ra. Do thân này y chỉ vào trí Nhất thiết trí, cho nên đắc được Phật thân, Pháp thân, Tăng-già thân. Do vậy, tất cả chúng sinh đối với thân Như Lai nên chiêm ngưỡng, lễ bái, cúng dường, cho đến sau khi Như Lai nhập Niết-bàn thì tạo bảo tháp cúng dường xá-lợi của Phật.
Này Kiều-thi-ca! Thiện nam, thiện nữ kia tuy tạo bảo tháp cúng dường xá-lợi của Phật như vậy, nhưng công đức ấy không thể sánh bằng công đức của người sao chép, tôn trọng, cung kính kinh Bát-nhã ba-la-mật-đa này, dùng các loại hoa thơm, hương xông, cờ phướn, lọng báu cúng dường thì thiện nam, thiện nữ đó được công đức rất lớn. Vì sao? Vì cúng dường Bát-nhã ba-la-mật-đa tức là cúng dường trí Nhất thiết trí. Do đó, thiện nam, thiện nữ nào muốn cúng dường trí Nhất thiết trí thì nên sao chép, thọ trì cung kính, cúng dường pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa này.
Khi ấy, Đế Thích bạch Phật:
–Bạch Đức Thế Tôn! Người ở cõi Diêm-phù-đề đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa, không thể tự mình sao chép, thọ trì, đọc tụng, không thể tự mình thuyết giảng, hoặc nhờ người giảng nói, cũng không dùng các thứ hương thơm, cờ phướn, lọng báu, tôn kính cúng dường. Bạch Đức Thế Tôn, những người như thế mất lợi ích lớn, không thể thành tựu quả báo lớn?
Phật bảo Đế Thích:
–Này Kiều-thi-ca! Ý ông như thế nào? Ở Diêm-phù-đề có bao nhiêu người được lòng tin bất hoại vào Phật, Pháp, Tăng?
Đế Thích bạch Phật:
–Bạch Đức Thế Tôn! Ở cõi Diêm-phù-đề này số người được lòng tin bất hoại vào Phật, Pháp, Tăng rất ít.
Phật bảo:
–Này Kiều-thi-ca! Đúng như vậy, ở cõi Diêm-phù-đề, có ít người đối với Phật, Pháp, Tăng bảo được lòng tin bất hoại. Còn ở quả Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán, Duyên giác, người chứng quả ấy lại càng hiếm thấy. Còn đối với quả Vô thượng Bồ-đề, những người đã phát tâm thì an trụ, không thoái thất, hoặc người đang phát tâm thì dũng mãnh tinh tấn, hoặc người chưa phát tâm thì cố gắng phát tâm. Những người như vậy xem lại cũng rất ít.
Lại nữa, ở cõi Diêm-phù-đề, người khéo tương ưng và an trụ Bát-nhã ba-la-mật-đa rất ít. Người nương vào pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa tu hành cũng rất hiếm, cũng rất ít người đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa này tâm không thoái chuyển, trụ vào quả vị Bồ-tát cũng rất ít. Người đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa này tu hành chứng đắc quả Vô thượng Bồ-đề càng ít hơn.
Này Kiều-thi-ca! Người nào đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa tự mình lắng nghe thọ trì, đọc tụng, tự mình tuyên thuyết, hoặc khiến người tuyên thuyết, y theo pháp tu hành. Cho đến tôn trọng cung kính, dùng các loại hoa thơm, đèn dầu, hương, cờ phướn, lọng báu cúng dường. Nên biết đó đều là những người đã phát tâm cầu Vô thượng Bồ-đề, luôn an trụ vào quả vị Bồ-tát không thoái chuyển.
Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Ở trong cõi Diêm-phù-đề này có vô lượng, vô biên chúng sinh phát tâm cầu Vô thượng Bồ-đề thực hành đạo Bồ-tát, ý ông như thế nào?
Này Kiều-thi-ca! Ông nên biết, ở cõi Diêm-phù-đề tuy có vô lượng, vô biên chúng sinh, phát tâm Vô thượng Bồ-đề, hành đạo Bồ-tát, trong số đó chỉ có một, hai người trụ vào địa vị không thoái chuyển. Vì sao? Vì chúng sinh ở cõi Diêm-phù-đề khởi tâm thấp kém, sinh ý tưởng hạn hẹp, trí tuệ, tin hiểu cũng thấp kém như thế, do vậy nên tinh tấn cũng thấp kém. Đối với Vô thượng Bồ-đề thì có ý tưởng cho là khó được, không khởi tâm mong cầu nên sinh ra biếng nhác.
Này Kiều-thi-ca! Thiện nam, thiện nữ nào mong muốn mau chóng chứng đạo quả Vô thượng Bồ-đề, thành tựu hỷ lạc tối thượng, thì đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa hãy phát tâm mạnh mẽ, lắng nghe, thọ trì, đọc tụng. Thiện nam, thiện nữ khởi tâm suy nghĩ: “Đây là Bát-nhã ba-la-mật-đa mà các Bậc Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác trong quá khứ tu hạnh Bồ-tát lại cũng như vậy. Ta nay nên học Bát-nhã ba-la-mật-đa. Bát-nhã ba-la-mật-đa này cũng chính là Thầy của ta.” Này Kiều-thi-ca! Khi Phật còn tại thế hoặc sau khi nhập Niết-bàn thì các Đại Bồ-tát nên y chỉ vào Bát-nhã ba-la-mật-đa này.
Này Kiều-thi-ca! Sau khi Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác nhập Niết-bàn, các thiện nam, thiện nữ nên tạo vô số tháp bảy báu thờ xá-lợi, trọn đời dùng hương hoa, cờ phướn, lọng báu, y phục quý cúng dường và luôn tôn trọng, lễ bái, xưng tán.
Này Kiều-thi-ca! Ý ông như thế nào? Thiện nam, thiện nữ đó nhờ nhân duyên cúng dường như thế được phước đức nhiều không?
Đế Thích bạch Phật:
–Bạch Đức Thế Tôn, rất nhiều!
Phật nói:
–Này Kiều-thi-ca! Thiện nam, thiện nữ có tâm mong muốn cầu đạo Bồ-đề nên phát tâm tin hiểu đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa, tự mình thọ trì, đọc tụng, nhớ nghĩ, lại vì người khác mà giảng nói, truyền rộng khắp khiến cho chúng sinh được lợi ích lớn và làm chánh pháp đó được tồn tại lâu dài ở thế gian. Do nhân duyên này Phật nhãn không bị đoạn, chánh pháp không bị diệt mất. Cho nên hàng Đại Bồ-tát thọ trì, giảng nói rộng khắp pháp này, liền được Pháp nhãn không hoại, không diệt.
Lại nữa, người chép kinh Bát-nhã ba-la-mật-đa này rồi để vào nơi thanh tịnh, sinh lòng tôn kính, dùng các loại hoa thơm, đèn dầu, cờ phướn, lọng báu cùng các thứ y phục tốt đẹp cúng dường. Này Kiều-thi-ca! Thiện nam, thiện nữ ấy được nhiều phước đức.
Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Như trước kia đã nói về việc xây dựng bảo tháp, có người tạo tháp bảy báu khắp cõi Diêm-phù-đề phụng thờ xá-lợi Phật cho đến trọn đời, dùng các thứ hoa thơm, đèn dầu, cờ phướn, lọng báu, y phục tốt đẹp cúng dường và còn luôn cung kính, lễ lạy, chiêm bái, xưng tán. Kiều-thi-ca! Ý ông nghĩ thế nào? Các thiện nam, thiện nữ tạo ra nhân duyên như vậy được phước nhiều không?
Đế Thích bạch Phật:
–Bạch Đức Thế Tôn, rất nhiều!
Phật bảo:
–Này Kiều-thi-ca! Thiện nam, thiện nữ có tâm mong cầu đạo Bồ-đề đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa này phát tâm tin hiểu, tự mình thọ trì, đọc tụng, suy nghĩ, lại vì người khác mà giảng nói rộng khắp, làm cho chúng sinh được lợi ích lớn, khiến cho chánh pháp được trụ ở thế gian lâu dài, nhờ nhân duyên này mà Phật nhãn không đoạn mất, chánh pháp không diệt tận. Các Đại Bồ-tát đều nên thọ trì, diễn thuyết liền được Pháp nhãn không bị hư hoại.
Người chép kinh Bát-nhã ba-la-mật-đa này, rồi đặt ở nơi thanh tịnh phát tâm cung kính, lại dùng các thứ hoa thơm, đèn dầu, cờ phướn, lọng báu, y phục tốt đẹp cúng dường. Nên biết thiện nam, thiện nữ này được phước rất nhiều.
Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Như đã nói về việc tạo lập nhiều tháp bảy báu khắp trong cõi Diêm-phù-đề. Giả sử có người tạo lập tháp bảy báu khắp bốn châu thiên hạ để thờ xá-lợi của Phật. Người này trọn đời dùng các thứ hoa thơm, đèn dầu, cờ phướn, lọng báu, y phục tốt đẹp cúng dường, cung kính, chiêm bái, lễ lạy, xưng tán. Này Kiều-thi-ca! Ý ông như thế nào? Thiện nam, thiện nữ kia do nhân duyên như vậy được phước nhiều không?
Đế Thích bạch Phật:
–Bạch Đức Thế Tôn, rất nhiều!
Phật bảo:
–Này Kiều-thi-ca! Thiện nam, thiện nữ nào có tâm mong cầu đạo quả Bồ-đề thì đối với pháp trí tuệ này phát tâm tin hiểu, tự mình thọ trì, đọc tụng, suy nghĩ, lại vì người khác mà giảng giải rộng khắp, khiến cho tất cả chúng sinh được lợi ích lớn và làm cho chánh pháp được tồn tại ở thế gian lâu dài. Do nhân duyên như vậy nên Phật nhãn không đoạn, chánh pháp không diệt. Đại Bồ-tát nên thọ trì, giảng giải rộng rãi, liền đắc được Pháp nhãn không hoại, không diệt.
Người chép kinh Bát-nhã ba-la-mật-đa này rồi để chỗ thanh tịnh khởi tâm cung kính, dùng các loại hoa thơm, đèn dầu, cờ phướn, lọng báu, y phục tốt đẹp cúng dường. Này Kiều-thi-ca! Nên biết thiện nam, thiện nữ này được phước rất nhiều.
Lại nữa, Kiều-thi-ca! Như đã nói về việc tạo lập tháp bảy báu khắp bốn châu thiên hạ. Giả sử có người tạo lập tháp bảy báu khắp tiểu thiên thế giới để thờ xá-lợi của Phật. Người này cho đến trọn đời dùng các thứ hoa thơm, đèn dầu, cờ phướn, lọng báu, y phục tốt đẹp cúng dường, lại cung kính đảnh lễ, xưng tán.
–Này Kiều-thi-ca! Ý ông nghĩ thế nào? Người này tạo nhân duyên như vậy được phước nhiều không?
Đế Thích bạch Phật:
–Bạch Đức Thế Tôn, rất nhiều!
Phật nói:
–Này Kiều-thi-ca! Thiện nam, thiện nữ nào có tâm mong cầu đạo quả Bồ-đề thì đối với pháp trí tuệ này phát tâm tin hiểu, tự mình thọ trì, đọc tụng, suy nghĩ, lại vì người khác mà giảng giải rộng khắp, làm cho tất cả chúng sinh được lợi ích lớn và chánh pháp được tồn tại ở thế gian lâu dài. Do nhân duyên như vậy nên Phật nhãn không đoạn, chánh pháp không mất. Các Đại Bồ-tát nên thọ trì, giảng giải rộng rãi, liền được Pháp nhãn không hoại, không diệt.
Người chép kinh Bát-nhã ba-la-mật-đa rồi để ở chỗ thanh tịnh khởi tâm cung kính, dùng các loại hoa thơm, đèn dầu, cờ phướn, lọng báu, y phục tốt đẹp cúng dường. Này Kiều-thi-ca! Nên biết thiện nam, thiện nữ này được phước rất nhiều.
Kiều-thi-ca! Như đã nói về việc tạo lập tháp bảy báu khắp tiểu thiên thế giới. Giả sử có người tạo lập tháp bảy báu khắp trung thiên thế giới để thờ xá-lợi của Phật. Người này cho đến trọn đời cũng dùng các thứ hoa thơm, đèn dầu, cờ phướn, lọng báu, y phục tốt đẹp cúng dường, lại tôn kính đảnh lễ, tán thán. Này Kiều-thi-ca! Ý ông nghĩ thế nào? Người này tạo nhân duyên như vậy được phước nhiều không?
Đế Thích bạch Phật:
–Bạch Đức Thế Tôn, rất nhiều!
Phật nói:
–Này Kiều-thi-ca! Thiện nam, thiện nữ nào có tâm mong cầu đạo quả Bồ-đề thì đối với pháp trí tuệ này, tự mình thọ trì, đọc tụng, suy nghĩ, lại vì người khác mà giảng nói rộng khắp, làm cho tất cả chúng sinh được lợi ích lớn và chánh pháp được tồn tại ở thế gian lâu dài. Do nhân duyên như vậy nên Phật nhãn không đoạn, chánh pháp không mất. Các Đại Bồ-tát đều nên thọ trì, giảng nói rộng rãi, liền được Pháp nhãn không hoại, không diệt. Người chép kinh Bát-nhã ba-la-mật-đa này, rồi để ở nơi thanh tịnh khởi tâm cung kính, dùng các loại hoa thơm, đèn dầu, cờ phướn, lọng báu, y phục tốt đẹp cúng dường. Này Kiều-thi-ca! Nên biết thiện nam, thiện nữ này được phước rất nhiều.
Lại nữa, Kiều-thi-ca! Như đã nói về việc tạo lập tháp bảy báu khắp trung thiên thế giới. Giả sử có người tạo lập tháp bảy báu khắp tam thiên đại thiên thế giới để thờ xá-lợi của Phật. Trọn đời người này dùng các thứ hoa thơm, đèn dầu, cờ phướn, lọng báu, y phục tốt đẹp cúng dường, lại chiêm ngưỡng, lễ bái, xưng tán. Này Kiều-thi-ca! Ý ông nghĩ thế nào? Người tạo nhân duyên như vậy được phước nhiều không?
Đế Thích bạch Phật:
–Bạch Đức Thế Tôn, rất nhiều!
Phật nói:
–Này Kiều-thi-ca! Thiện nam, thiện nữ nào có tâm mong cầu đạo quả Bồ-đề thì nên phát tâm tin hiểu đối với pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa này, tự mình thọ trì, đọc tụng, suy nghĩ, lại vì người khác mà thuyết giảng rộng khắp, làm cho tất cả chúng sinh được lợi ích lớn, khiến chánh pháp được tồn tại ở thế gian lâu dài. Do nhân duyên như vậy nên Phật nhãn không đoạn, chánh pháp không mất. Các Đại Bồ-tát đều nên thọ trì, thuyết giảng rộng rãi, liền được Pháp nhãn không hoại, không diệt. Lại chép kinh Bát-nhã ba-la-mật-đa để ở chỗ thanh tịnh khởi tâm cung kính, dùng các loại hoa thơm, đèn dầu, cờ phướn, lọng báu, y phục tốt đẹp cúng dường. Này Kiều-thi-ca! Nên biết thiện nam, thiện nữ này được phước rất nhiều.
Lại nữa, Kiều-thi-ca! Như đã nói về việc tạo lập tháp bảy báu khắp tam thiên đại thiên thế giới. Giả sử có người tạo lập tháp bảy báu khắp tam thiên đại thiên thế giới để thờ xá-lợi của Phật, trong một kiếp, hoặc ít hơn một kiếp dùng các thứ hoa thơm, đèn dầu, cờ phướn, lọng báu, y phục tốt đẹp cho đến dùng các loại kỹ nhạc, ca múa, cung kính, lễ bái, xưng tán cúng dường rộng khắp. Người này tạo nhân duyên như vậy được phước nhiều không?
Đế Thích bạch Phật:
–Bạch Đức Thế Tôn, rất nhiều!
Phật bảo:
–Này Kiều-thi-ca! Thiện nam, thiện nữ nào có tâm mong cầu đạo quả Bồ-đề thì nên phát tâm tin hiểu đối với pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa này, tự mình thọ trì, đọc tụng, suy nghĩ, lại vì người khác mà giảng giải rộng khắp, làm cho tất cả chúng sinh được lợi ích lớn và chánh pháp được tồn tại ở thế gian lâu dài. Do nhân duyên như vậy nên Phật nhãn không đoạn, chánh pháp không mất. Các Đại Bồ-tát nên thọ trì, giảng giải rộng rãi, liền được Pháp nhãn không hoại, không diệt. Lại chép kinh Bát-nhã ba-la-mật-đa rồi để ở chỗ thanh tịnh khởi tâm cung kính, dùng các loại hoa thơm, đèn dầu, cờ phướn, lọng báu, y phục tốt đẹp cúng dường. Này Kiều-thi-ca! Ông nên biết thiện nam, thiện nữ này được phước rất nhiều.
Bấy giờ, Đế Thích bạch Phật:
–Bạch Đức Thế Tôn! Đúng như thế, đúng như lời Phật dạy.
–Kiều-thi-ca! Ông nên biết, người nào đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa này cung kính cúng dường, tức là đã cúng dường các Đức Phật ở quá khứ, vị lai, hiện tại. Hiểu rõ trí chư Phật, tức là đã cúng dường vô lượng, vô biên tất cả thế giới.
Bạch Thế Tôn! Hãy để việc tam thiên đại thiên thế giới lại. Giả sử có hằng hà sa số tam thiên đại thiên thế giới, mỗi thế giới ấy đều có đầy đủ chúng sinh. Mỗi chúng sinh đều xây tháp bảy báu thờ xá-lợi của Phật, hoặc trong một kiếp, hoặc không đến một kiếp dùng các thứ hoa thơm, đèn dầu, cờ phướn, lọng báu, y phục tốt đẹp, các loại âm nhạc, ca múa cúng dường. Lại còn cung kính đảnh lễ, tán thán.
–Bạch Đức Thế Tôn! Những chúng sinh kia được phước tuy nhiều, nhưng không bằng người phát tâm cầu đạo Bồ-đề. Đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa này phát tâm tin hiểu, tự mình thọ trì, đọc tụng, suy nghĩ, lại vì người khác mà giảng thuyết rộng khắp, khiến chúng sinh được lợi ích lớn, làm cho chánh pháp được tồn tại ở thế gian lâu dài. Do nhân duyên này nên Phật nhãn không đoạn, chánh pháp không mất. Các Đại Bồ-tát đều nên thọ trì, được Pháp nhãn không hoại, không diệt. Vậy nên, chép kinh Bát-nhã ba-la-mật-đa để ở nơi thanh tịnh, cũng dùng các thứ hương thơm, đèn dầu, cờ phướn, lọng báu, y phục tốt đẹp cúng dường.
Khi ấy, Đức Thế Tôn bảo Đế Thích:
–Đúng như thế, này Kiều-thi-ca! Nên luôn luôn tôn kính cúng dường kinh này. Nên biết người như thế sẽ đạt được vô lượng, vô biên công đức, không có giới hạn, không gì sánh bằng. Công đức này không thể nghĩ bàn. Vì sao? Vì Nhất thiết trí của Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác đều từ Bát-nhã ba-la-mật-đa sinh, mà thân Như Lai cũng từ Nhất thiết trí sinh. Kiều-thi-ca, do đó nên biết, người thờ xá-lợi Phật, tạo tháp cúng dường, so với người thọ trì, đọc tụng cung kính cúng dường kinh Bát-nhã ba-la-mật-đa này, thì phước đức do tạo tháp cúng dường đã đạt được không bằng một phần trăm, một phần ngàn, một phần trăm ngàn, một phần câu-chi, một phần trăm câu-chi, một phần ngàn câu-chi, một phần trăm ngàn câu-chi, một phần trăm ngàn vô số câu-chi, cho đến một phần nhỏ nhiệm cũng không sánh bằng.
Khi ấy, theo Đế Thích đến đại hội có bốn mươi ngàn Thiên tử, các vị ấy cùng thưa với Đế Thích:
–Nay nên thọ trì, đọc tụng pháp môn Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm diệu này, nhớ nghĩ, tư duy, tu hành theo pháp.
Ngay khi ấy, Đức Phật bảo Đế Thích:
–Này Kiều-thi-ca! Như chư Thiên đã nói: “Họ sẽ thọ trì, đọc tụng, nhớ nghĩ, tư duy tu hành pháp môn Bát-nhã ba-la-mật-đa.” Vì sao? Này Kiều-thi-ca! Nếu khi A-tu-la cùng với chư Thiên ở cõi trời Tam thập tam chiến đấu với nhau, nếu lúc đó họ nhớ nghĩ về pháp môn Bát-nhã ba-la-mật-đa thì A-tu-la tự thoái lui và biến mất.
Đế Thích bạch Phật:
–Bạch Đức Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa này chính là ánh sáng lớn. Bát-nhã ba-la-mật-đa là ánh sáng vô lượng, là ánh sáng vô thượng, là ánh sáng tối thắng, Bát-nhã ba-la-mật-đa này là ánh sáng hơn hẳn và Bát-nhã ba-la-mật-đa này là ánh sáng không thể sánh bằng.
Khi ấy, Phật bảo Đế Thích:
–Đúng như vậy, đúng như vậy! Này Kiều-thi-ca! Pháp môn Bát-nhã ba-la-mật-đa này chính là ánh sáng lớn, là ánh sáng vô lượng, là ánh sáng vô thượng. Bát-nhã ba-la-mật-đa là ánh sáng tối thắng, là ánh sáng hơn hẳn, Bát-nhã ba-la-mật-đa là ánh sáng không gì có thể sánh bằng. Vì sao? Vì các Đức Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác ở quá khứ, hiện tại, vị lai đều từ ánh sáng lớn sinh ra. Chư Phật Vô thượng Bồ-đề cũng học ánh sáng lớn mà thành tựu, cho đến chư Phật Thế Tôn, Vô thượng Bồ-đề ở vô lượng, vô số, tam thiên đại thiên thế giới đều từ ánh sáng rộng lớn của Bát-nhã ba-la-mật-đa nên được thành tựu.
Này Kiều-thi-ca! Nên biết Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác đều từ nơi Bát-nhã ba-la-mật-đa này sinh ra, mười pháp thiện cũng do từ ánh sáng lớn mà hiện ra ở thế gian, tất cả các pháp bốn Thiền, bốn Vô lượng tâm, bốn Vô sắc định, năm Thần thông, ba mươi bảy phẩm Trợ đạo đều từ nơi ánh sáng lớn mà xuất hiện ở nhân gian. Nói lược thì cả tám vạn bốn ngàn pháp môn đều từ ánh sáng lớn của Bát-nhã ba-la-mật-đa mà sinh ra. Phật trí, Tự nhiên trí, Chẳng nghĩ bàn trí cũng từ ánh sáng lớn này sinh ra.
Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Lúc các Đức Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác chưa xuất hiện ở đời, có các Đại Bồ-tát, vì thương xót chúng sinh trong thế gian nên xuất hiện diện ở nhân gian, trước hết nên nghe pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa để sinh ra các thứ phương tiện thiện xảo, rồi đem các pháp mười thiện, bốn Thiền, bốn Vô lượng tâm, bốn Vô sắc định, năm Thần thông, ba mươi bảy phẩm Trợ đạo giáo hóa chúng sinh. Ví như, lúc trăng chưa xuất hiện, thì ánh sáng các vì sao sẽ thay thế ánh trăng tỏa chiếu ở nhân gian, Đại Bồ-tát cũng như vậy, khi Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác chưa xuất hiện ở đời thì chánh pháp cũng không mất đi.
Vì sao? Vì tất cả các pháp hành, bình đẳng hành và các thiện hành, tất cả đều từ các Đại Bồ-tát sinh ra. Các Đại Bồ-tát khéo tùy thuận phương tiện thiện xảo để lưu truyền chánh pháp. Đây là Đại Bồ-tát khéo dùng phương tiện thiện xảo, nên biết tất cả đều phát sinh từ Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Thiện nam, thiện nữ nào sao chép cúng dường, thọ trì, đọc tụng, nhớ nghĩ tư duy pháp môn Bát-nhã ba-la-mật-đa và y đó tu hành. Người tạo nhân duyên như vậy, ngay nơi hiện tại này sẽ được công đức rất nhiều.
Đế Thích bạch Phật:
–Bạch Đức Thế Tôn! Người này ngay hiện tại đạt được lợi ích gì?
Phật dạy Kiều-thi-ca:
–Ông nên biết, các thiện nam, thiện nữ đó sẽ không bị các thứ độc làm tổn hại đến mạng. Không bị lửa thiêu, không bị chết chìm, không bị các thứ đao, kiếm, trượng… làm khổ thân, không bị người khác làm tổn hại đến mạng, không bị vương pháp gia hình. Gặp các nạn như vậy, người nào mà tụng niệm Bát-nhã ba-la-mật-đa liền được giải thoát.
Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Người thọ trì kinh Bát-nhã ba-la-mật-đa, nếu gặp quốc vương, vương tử, đại thần thì họ rất hoan hỷ và tùy theo người ấy muốn gì thì họ cúng dường đầy đủ. Vì sao? Này Kiều-thi-ca! Bát-nhã ba-la-mật-đa này đối với tất cả chúng sinh là có tâm hạnh đại Từ thì hành đại Từ, là hạnh đại Bi thì hạnh đại Bi.
Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Người thọ trì, đọc tụng Bát-nhã ba-la-mật-đa, sống ở mọi nơi, chỗ nào cũng không bị các hổ lang, thú dữ, trùng độc làm hại, cho đến không bị Nhân phi nhân làm tổn hại; Nhân phi nhân không thể tìm chỗ dở của họ, chỉ trừ các nghiệp họ đã tạo ra từ trước thì nay họ phải thọ nhận.
Khi ấy, có các ngoại đạo tu tập đã lâu năm trong giáo pháp của họ, số ấy có hơn trăm người, họ muốn đến não loạn Đức Phật. Đế Thích từ xa trông thấy họ đến gần chỗ Đức Phật, quan sát và biết được tâm họ. Đế Thích suy nghĩ: “Các ngoại đạo này, nay muốn đến làm não loạn Đức Thế Tôn. Ta trước đã theo Phật thọ học pháp môn Bát-nhã ba-la-mật-đa nên phải tụng niệm. Suy nghĩ như thế, Đế Thích liền tụng niệm pháp môn Bát-nhã ba-la-mật-đa. Khi ấy, ngoại đạo đã len lõi vào trong chúng hội, từ xa chúng trông thấy Đức Thế Tôn liền đi nhiễu bên phải Ngài, sau đó liền tìm đường tránh xa chúng hội.
Khi ấy, Tôn giả Xá-lợi-phất suy nghĩ: “Vì cớ gì các ngoại đạo này len lõi vào trong chúng hội, diện kiến Đức Thế Tôn, đi nhiễu bên phải Ngài rồi thoái lui.”
Bấy giờ, Đức Thế Tôn biết được tâm niệm của Xá-lợi-phất liền bảo:
–Ông nên biết, các ngoại đạo kia là những người xuất gia, tu tập đã lâu trong giáo pháp của họ. Nay muốn đến chúng hội của ta phá hoại, gây hấn, não hại, do Đế Thích tụng Bát-nhã ba-la-mật-đa nên hàng ngoại đạo đó xấu hổ thoái lui.
Xá-lợi-phất! Nên biết, Bát-nhã ba-la-mật-đa này là pháp môn có oai lực rất lớn, có khả năng phá trừ tất cả tà kiến ngoại đạo.
Khi ấy, có các ma ác suy nghĩ: “Nay Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác với bốn chúng và chư Thiên ở cõi Dục, cõi Sắc cùng hội lại. Đức Thế Tôn đã thọ ký cho các Đại Bồ-tát quả Vô thượng Bồ-đề, chúng ta nay đến chỗ ấy.” Khi ấy, chúng ma hóa thành bốn đoàn binh hùng dũng đi đến chỗ Phật.
Bấy giờ, Đế Thích trông thấy bốn đoàn binh hùng dũng, tướng tốt cùng đến chỗ Phật, liền suy nghĩ: “Bốn đoàn binh này vừa đến, trông vẻ đoan nghiêm khác thường, chẳng phải từ chỗ Ta-bà-la vương đến, chẳng từ chỗ Thắng Quân Đại vương đến, chẳng từ chỗ các nước khác đến, cũng chẳng từ nơi các Trưởng giả đến. Đây chắc là các ma ác hóa hiện ra. Vì sao? Vì các ma ác này luôn luôn tới chống phá pháp Phật, muốn tìm chỗ yếu điểm của pháp Phật để phá hoại. Ta nay nên thọ trì, đọc tụng pháp môn Bát-nhã ba-la-mật-đa.” Đế Thích suy nghĩ như vậy, liền trì niệm pháp môn Bát-nhã ba-la-mật-đa, các ma ác liền hóa hiện lại nguyên hình rồi tránh đi.
Bấy giờ, các vị Thiên tử ở cõi trời Tam thập tam đến chúng hội hóa hiện ra các thứ hoa Mạn-đà-la, Ma-ha mạn-đà-la, Mạn-thù-sa, Ma-ha mạn-thù-sa và các thứ hoa thơm khác nữa rải trên thân Phật, các loại hoa này tụ giữa hư không. Sau khi rải hoa cúng dường xong, các vị Thiên tử liền nói:
–Nguyện chánh pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa luôn an trụ lâu dài ở thế gian, làm cho chúng sinh ở cõi Diêm-phù-đề được lợi ích lớn.
Phát đại nguyện rồi, lại tung hoa cúng dường, nói tiếp:
–Nguyện tất cả chúng sinh đối với pháp môn Bát-nhã ba-la-mật-đa này thì y vào pháp tu đó mà giảng nói rộng khắp. Tất cả Ma, Thiên ma, Nhân phi nhân muốn tìm chỗ dở cũng đều không thể có được, khiến cho tất cả chúng sinh được đầy đủ căn lành.
Khi ấy, Đế Thích bạch Phật:
–Bạch Đức Thế Tôn! Nếu có người nào đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa này hoan hỷ lắng nghe, nên biết người này đã từng ở trong chúng hội cúng dường chư Phật ở quá khứ, huống chi là thọ trì, đọc tụng, nhớ nghĩ, tư duy, lại vì người khác mà giảng nghĩa pháp này, theo pháp đã nói mà tu hành. Tu hành như thế sẽ thành tựu, vì Nhất thiết trí của chư Phật đều từ nơi Bát-nhã ba-la-mật-đa sinh ra.
Bạch Đức Thế Tôn! Ví như có người muốn cầu vật quý, vào trong biển lớn cố công tìm kiếm sẽ nhặt các loại châu báu vô giá tuyệt đẹp, pháp báu Nhất thiết trí. Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác cũng như thế, nên vào biển pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa tìm cầu.
Phật bảo Đế Thích:
–Đúng thế, nếu ai muốn cầu Nhất thiết trí, Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác thì nên cố gắng vào biển pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa, cố gắng tìm cầu. Người mong cầu như vậy đều được như ý.
***
Khi ấy, Tôn giả A-nan bạch Phật:
–Bạch Đức Thế Tôn! Vì sao Ngài không xưng tán, giảng thuyết pháp Bố thí ba-la-mật-đa, Trì giới ba-la-mật-đa, Nhẫn nhục ba-la-mật-đa, Tinh tấn ba-la-mật-đa, Thiền định ba-la-mật-đa? Vì sao Ngài chỉ giảng thuyết, xưng tán công đức Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Phật bảo A-nan:
–Đúng như vậy, trong số các pháp Ba-la-mật-đa ta chỉ xưng tán và nói Bát-nhã ba-la-mật-đa tối thượng. Vì sao? Này A-nan! Ông nên biết, Bát-nhã ba-la-mật-đa này dẫn đầu năm pháp Ba-la-mật-đa kia. A-nan! Ý ông như thế nào? Bố thí không hồi hướng đến Nhất thiết trí thì có thành tựu Ba-la-mật-đa không?
A-nan bạch Phật:
–Bạch Đức Thế Tôn, không thể được!
Phật bảo A-nan:
–Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định không hồi hướng đến trí Nhất thiết thì có thành tựu Ba-la-mật-đa không? Bát-nhã này nếu không hồi hướng đến Nhất thiết trí thì có đắc Ba-la-mật-đa không?
A-nan bạch Phật:
–Bạch Đức Thế Tôn, không thể được!
Phật bảo A-nan:
–Ý ông như thế nào? Có thiện căn trí tuệ không thể nghĩ bàn hồi hướng về Nhất thiết trí không?
A-nan bạch Phật:
–Đúng như vậy, bạch Đức Thế Tôn! Các thiện căn tối thượng không thể nghĩ bàn đó đều hồi hướng đến trí Nhất thiết.
Phật bảo A-nan:
–Ông nên biết đem tất cả thiện căn đều hồi hướng đến Nhất thiết trí, nên gọi là các Ba-la-mật-đa đem pháp đệ nhất nghĩa hồi hướng đến Nhất thiết trí nên gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Này A-nan! Do các thiện căn hồi hướng đến Nhất thiết trí nên Bát-nhã ba-la-mật-đa này là bậc đứng đầu trong năm pháp Ba-la-mật-đa kia. Năm pháp Ba-la-mật-đa kia luôn trụ và tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa. Do nơi Bát-nhã ba-la-mật-đa này, nên các Ba-la-mật-đa khác đều được viên mãn.
Này A-nan! Do vậy nên ta luôn tán thán Bát-nhã ba-la-mật-đa-là trên hết.
Ví như các hạt giống rải xuống đất thì tùy theo thời gian chỗ đất và các điều kiện khác được hòa hợp thì nẩy mầm mà lớn lên. Các hạt giống ấy nương vào đất mà sống, không nương vào đất thì không thể nào sinh trưởng được. Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng lại như vậy, có khả năng thâu tóm năm Ba-la-mật-đa kia, đồng thời năm pháp kia đều an trụ và nương vào Bát-nhã ba-la-mật-đa, dựa vào Bát-nhã ba-la-mật-đa này mà được tăng trưởng. Do vậy năm pháp đều có tên là Ba-la-mật-đa.
Này A-nan! Do đây nên biết, Bát-nhã ba-la-mật-đa là đứng đầu đối với năm pháp kia.
Khi ấy, Đế Thích bạch Phật:
–Như lời Phật đã nói về pháp môn Bát-nhã ba-la-mật-đa có công đức lớn như thế. Giả sử Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác dùng nhiều lời khen ngợi, tán dương cũng không thể nào trọn đầy được. Do vậy, thiện nam, thiện nữ nên thọ trì, đọc tụng, nhớ nghĩ, đối với pháp môn Bát-nhã ba-la-mật-đa mà tư duy tu hành đúng như pháp ấy.
Phật bảo:
–Lành thay, lành thay! Này Kiều-thi-ca! Đúng như lời ông nói,
đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa này ta không chỉ nói rằng, người thọ trì, đọc tụng, thuyết giảng Bát-nhã ba-la-mật-đa có công đức lớn mà thiện nam, thiện nữ đối với pháp môn Bát-nhã ba-la-mật-đa này có thể sao chép để kinh đặt ở nơi thanh tịnh, cung kính dùng các thứ hương hoa, đèn dầu, cờ phướn, lọng báu, y phục tốt đẹp cúng dường thì nên biết đây là người đã giảng nói làm cho pháp Phật trụ ở thế gian lâu dài, do nhân duyên này Phật nhãn không đoạn, chánh pháp không diệt. Vậy nên các Đại Bồ-tát luôn thọ trì, để Pháp nhãn không hoại, không diệt.
Này Kiều-thi-ca! Người thọ trì, đọc tụng Bát-nhã ba-la-mật-đa này ngay trong hiện tại đạt được công đức như vậy.
Khi ấy, Đế Thích bạch Phật:
–Bạch Đức Thế Tôn! Đối với pháp môn Bát-nhã ba-la-mật-đa, thiện nam, thiện nữ nào có thể sao chép, để kinh nơi thanh tịnh, cung kính dùng các thứ hương hoa, đèn dầu, cờ phướn, lọng báu… tùy theo khả năng phát tâm cúng dường. Ta sẽ đến chỗ người ấy hộ niệm làm cho họ không có phiền não, huống là người đã thọ trì, đọc tụng, nhớ nghĩ, tư duy rồi vì người khác mà giảng giải nghĩa Bát-nhã ba-la-mật-đa này. Người ấy đạt vô lượng, vô biên công đức.
Phật bảo Đế Thích:
–Lành thay, lành thay! Này Kiều-thi-ca! Thiện nam, thiện nữ dầu ở nơi nào tuyên nói pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng có vô số trăm ngàn vị Thiên tử đồng đến chỗ ấy lắng nghe và thọ trì chánh pháp. Nếu khi nói pháp, vị ấy sinh mệt mỏi, tâm không hoan hỷ để nói thì các vị Thiên tử kia tùy khả năng giúp họ được lợi ích và luôn tinh tấn hoan hỷ nói pháp, không còn thoái lui.
Này Kiều-thi-ca! Người thọ trì, đọc tụng pháp môn Bát-nhã ba-la-mật-đa thì ngay trong hiện tại được công đức như thế. Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Thiện nam, thiện nữ nào thọ trì chánh pháp, thì lúc ở trong bốn chúng nói pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa, tâm không có lo sợ, không sợ vấn nạn, trả lời được tất cả các câu hỏi, không có sai sót. Nhờ đâu được như thế? Đó là do lực Bát-nhã ba-la-mật-đa hộ trì nên không ai tìm được lỗi lầm của Bát-nhã ba-la-mật-đa này. Vì sao? Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa xa lìa tất cả lỗi lầm. Do vậy người giảng nói pháp môn Bát-nhã ba-la-mật-đa này thì họ cũng không mắc phải những lỗi lầm. Do đây, nên thiện nam, thiện nữ lúc nói pháp tâm không sinh sợ sệt.
Này Kiều-thi-ca! Người nào thọ trì, đọc tụng Bát-nhã ba-la-mật-đa thì ngay trong hiện tại được những công đức như thế.
Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Thiện nam, thiện nữ thọ trì, đọc tụng Bát-nhã ba-la-mật-đa này được cha mẹ, bạn bè, cho đến Sa-môn, Bà-la-môn tôn kính, yêu quý. Tất cả những lời chống đối, những việc làm khổ não đã phát sinh chưa phát sinh đều xa lìa người ấy. Này Kiều-thi-ca! Thọ trì, đọc tụng Bát-nhã ba-la-mật-đa thì ngay trong hiện tại được những công đức như vậy.
Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Thiện nam, thiện nữ nào sao chép kinh điển, cho đến cúng dường Bát-nhã ba-la-mật-đa thì dầu ở phương nào, chỗ có kinh này sẽ có cũng được công đức như vậy.
Tứ đại Thiên vương tâm trụ Vô thượng Bồ-đề, các Thiên tử cung kính pháp đồng nên đến chỗ có kinh lễ lạy, xưng tán, tùy hỷ, cung kính, thọ trì pháp. Chiêm lễ thọ trì xong rồi về cõi trời của mình. Lại có các Thiên tử ở cõi trời Tam thập tam trụ tâm Bồ-đề, có các Thiên tử trời Dạ-ma trụ tâm Bồ-đề, có các Thiên tử ở cõi trời Hỷ túc trụ tâm Bồ-đề, có các Thiên tử ở cõi trời Hóa lạc trụ tâm Bồ-đề, có các Thiên tử ở cõi trời Tha hóa tự tại trụ tâm Bồ-đề. Lại có chư Thiên ở cõi trời Sắc giới, cõi trời Phạm chúng, trời Phạm phụ, trời Đại phạm, trời Thiểu quang, trời Vô lượng quang, trời Quang âm, trời Thiểu tịnh, trời Vô lượng tịnh, trời Biến tịnh, trời Vô vân, trời Phước sinh, trời Quảng quả, trời Vô phiền, trời Vô nhiệt, trời Thiện kiến, trời Thiện hiện, trời Sắc cứu cánh, các Thiên tử ở các cõi trời trên đều trụ vào tâm Bồ-đề, vì cung kính pháp nên đến lễ bái tán thán, tùy hỷ, thọ trì pháp ấy. Đắc pháp rồi đảnh lễ, thọ trì, họ liền trở về cõi trời của mình.
Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Thiện nam, thiện nữ lúc thọ trì, đọc tụng Bát-nhã ba-la-mật-đa này suy nghĩ: “Mười phương vô lượng, vô biên thế giới, tất cả Thiên, Long, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Nhân phi nhân, đều cung kính pháp nên đến lễ lạy, lắng nghe, thọ trì kinh Bát-nhã ba-la-mật-đa. Khi các vị ấy đến, ta sẽ dùng kinh này bố thí làm cho họ đắc pháp, sau khi đắc pháp rồi họ lần lượt trở về.”
Này Kiều-thi-ca! Nếu chỗ có kinh Bát-nhã ba-la-mật-đa này thì ta không chỉ nói cho các Thiên tử ở bốn châu, ở Dục giới, ở Sắc giới trụ tâm Bồ-đề, cung kính pháp, đến chỗ có kinh mà lễ lạy cung kính thọ trì.
Này Kiều-thi-ca! Cho đến tam thiên đại thiên thế giới trong cõi Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới trụ tâm Bồ-đề đều cung kính pháp. Kinh Bát-nhã ba-la-mật-đa ở chỗ nào, thì họ cùng nhau đến chỗ ấy, lễ lạy xưng tán, tùy hỷ, cung kính, thọ trì. Khi đắc pháp họ cũng lễ lạy cung kính thọ trì và lần lượt trở về cõi trời của mình.
Lại nữa, Kiều-thi-ca! Thiện nam, thiện nữ nào thọ trì, đọc tụng kinh Bát-nhã ba-la-mật-đa, nơi có kinh điển này, hoặc bảo điện, hoặc phòng xá thì những nơi ấy kiên cố an ổn không thể phá hoại. Chỗ này có oai lực lớn hàng Thiên, Long, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Nhân phi nhân…, cùng nhau đến chỗ ấy lắng nghe thọ trì chánh pháp.
Khi ấy, Đế Thích bạch Phật:
–Bạch Đức Thế Tôn! Vì sao thiện nam, thiện nữ biết chư Thiên, Long thần đến?
Phật bảo Đế Thích:
–Này Kiều-thi-ca! Thiện nam, thiện nữ nào thọ trì chánh pháp này, khi thấy ánh sáng lớn hoặc ngửi các mùi hương vi diệu liền biết chư Thiên, Long thần đến nghe thọ trì chánh pháp. Dựa vào các hiện tượng này nên biết chư Thiên, Long thần đến.
Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Thiện nam, thiện nữ nào thọ trì chánh pháp này, sống ở chỗ nào thì phòng xá thường phải thanh tịnh, sạch sẽ trang nghiêm, quét dọn các thứ dơ bẩn. Lúc chư Thiên, Long thần đến đây thấy cảnh quang thanh tịnh thì trong tâm họ sinh hoan hỷ, vừa ý, còn các quỷ thần mới đến có đạo lực chưa cao nên đều tránh xa phòng xá ấy. Vì sao? Vì các vị quỷ thần kia thường nương vào oai lực của chư Thiên, Long thần, để lai vãng theo đến khắp nơi.
Do vậy, này Kiều-thi-ca! Nơi nào có kinh Bát-nhã ba-la-mật-đa, nơi nào có người thọ trì pháp thì nơi ấy luôn phải trang nghiêm, thanh tịnh, sạch đẹp. Đây là tôn trọng Pháp nhãn.
Này Kiều-thi-ca! Thiện nam, thiện nữ nào thọ trì Bát-nhã ba-la-mật-đa, thân họ không cảm thấy mệt mỏi, tâm không sinh lười biếng, xa lìa tất cả khổ não, được an vui diệu lạc, khi ngủ nghỉ đều an lạc, cho đến trong mộng cũng thấy cảnh thù thắng, thấy Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác an trú đạo tràng hoặc chuyển pháp luân, hoặc thấy bảo tháp xá-lợi của Như Lai, hoặc thấy các vị Thanh văn, các Đại Bồ-tát, hoặc nghe lời tuyên giảng pháp môn Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm diệu, hoặc được nghe pháp ba mươi bảy phẩm Trợ đạo, hoặc được thấy các Đại Bồ-tát chứng đắc Vô thượng Bồ-đề, hoặc thấy các vị Bồ-tát thọ trì pháp môn Bát-nhã ba-la-mật-đa này, hoặc được nghe pháp môn Bát-nhã ba-la-mật-đa thu tóm tất cả Nhất thiết trí, thấy cõi Phật rộng lớn thanh tịnh, hoặc nghe chư Phật Thế Tôn dùng phương tiện thiện xảo nói pháp Bồ-tát, hoặc thấy Đức Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác ở hướng này, chỗ nọ, thế giới kia vì trăm ngàn vạn ức chúng Thanh văn, Bồ-tát cung kính đi nhiễu quanh Đức Phật mà nói pháp.
Này Kiều-thi-ca! Thiện nam, thiện nữ nào trong mộng thấy những tướng thù thắng như vậy, khi tỉnh giấc thân tâm được nhẹ nhàng, an vui. Người ấy khi đạt được trạng thái như vậy thì đối với đồ ăn, thức uống ngon cũng không sinh tâm tham đắm. Ví như Bí-sô tu hành được tương ưng từ trong đại định sẽ không còn có niệm tưởng đến cao lương mỹ vị.
Này Kiều-thi-ca! Thiện nam, thiện nữ thọ trì Bát-nhã ba-la-mật-đa đạt được như vậy. Vì sao? Vì thiện nam, thiện nữ trụ Bát-nhã ba-la-mật-đa quán các hạnh tương ưng được chư Thiên, Long thần hỗ trợ sức lực, không sinh niệm tưởng đến cao lương mỹ vị. Này Kiều-thi-ca! Thiện nam, thiện nữ nào thọ trì Bát-nhã ba-la-mật-đa thì ngay đời hiện tại đã được công đức hộ trì như vậy.
Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Thiện nam, thiện nữ nào có thể sao chép rồi an trí, cúng dường kinh Bát-nhã ba-la-mật-đa này thì nên biết người ấy được công đức hộ trì rất lớn, huống chi lại có người muốn cầu quả Vô thượng Bồ-đề phát tâm tin hiểu, lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, vì người khác mà giảng nói ý nghĩa sâu rộng của pháp môn Bát-nhã ba-la-mật-đa làm cho chánh pháp ở thế gian được lâu dài. Do nhân duyên này, Phật nhãn không đoạn, chánh pháp không diệt, vậy nên các Đại Bồ-tát đều thọ trì, tuyên bố giảng thuyết liền được Pháp nhãn không hoại, không diệt. Huống chi là lại dùng hương hoa, đèn dầu, hương thơm, cờ phướn, lọng báu, y phục tốt đẹp, dùng các thứ như vậy cúng dường. Nên biết người tạo nhân duyên như vậy sẽ được công đức hộ trì vô lượng, vô biên.
Do vậy, này Kiều-thi-ca! Thiện nam, thiện nữ nào muốn thành tựu công đức tối thắng thì nên phát tâm tin hiểu, thọ trì, đọc tụng đối với pháp môn Bát-nhã ba-la-mật-đa, khởi niệm, tư duy, giảng rộng khắp cho người khác, cho đến tôn trọng cung kính, dùng các thứ hương hoa, đèn dầu, hương thơm cúng dường pháp môn Bát-nhã ba-la-mật-đa.
***
Khi ấy, Đức Thế Tôn bảo Đế Thích:
–Này Kiều-thi-ca! Có hai phần: Một là xá-lợi của Như Lai có khắp cõi Diêm-phù-đề; phần còn lại là kinh Bát-nhã ba-la-mật-đa. Trong hai phần trên, ông sẽ chọn phần nào?
Đế Thích bạch Phật:
–Bạch Đức Thế Tôn! Có hai phần là xá-lợi của Như Lai khắp cõi Diêm-phù-đề cùng với kinh Bát-nhã ba-la-mật-đa, đối với hai phần trên con sẽ chọn kinh Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Vì Hóa tướng thân, Thật nghĩa thân, Thuyết pháp thân, các thân như vậy của các Đức Như Lai, đều từ Pháp thân mà có, từ chân như thật tế mà hiện ra. Chân như thật tế chính là Bát-nhã ba-la-mật-đa, các thân của chư Phật Thế Tôn đều sinh ra từ Bát-nhã ba-la-mật-đa. Do vậy, nên lễ lạy cúng dường xá-lợi của Như Lai, tuy cúng dường xá-lợi của Như Lai nhưng không bằng tôn trọng cung kính cúng dường Bát-nhã ba-la-mật-đa này. Vì sao? Vì thân của Như Lai từ Bát-nhã ba-la-mật-đa mà sinh ra.
Bạch Đức Thế Tôn! Ví như lúc con ngồi trong Thiện pháp đường ở cõi trời Tam thập tam, nói pháp chính yếu cho các Thiên tử, gặp lúc con có việc phải rời pháp tòa, lúc ấy có các Thiên tử đến tuy không thấy con, nhưng họ đều hướng đến pháp tòa cung kính lễ lạy, đi nhiễu quanh rồi trở về. Các vị ấy suy nghĩ: “Thiên chủ Đế Thích thường ngồi tòa này, thuyết giảng pháp chính yếu cho chư Thiên, do vậy, nay chúng ta nên lễ lạy pháp tòa này.”
Bạch Đức Thế Tôn! Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác cũng lại như vậy. Nhất thiết trí của Như Lai, nương thân của Như Lai, thân này có được cũng do Nhất thiết trí. Do nhân duyên này, nên từ nơi như thật trí sinh ra trí Nhất thiết trí của Như Lai, trí này cũng sinh từ Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Bạch Đức Thế Tôn! Do đây, đối với hai phần trên con chọn phần Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Đối với xá-lợi của Phật, không phải con không có lòng cung kính, nhưng vì xá-lợi của Như Lai từ nơi Bát-nhã ba-la-mật-đa mà có, nên con chọn phần Bát-nhã ba-la-mật-đa. Đó cũng chính là cúng dường xá-lợi của Như Lai.
Bạch Đức Thế Tôn! Để việc xá-lợi của Như Lai khắp cõi Diêm-phù-đề lại, nếu khắp bốn đại châu, khắp tiểu thiên thế giới, khắp trung thiên thế giới đều có xá-lợi của Như Lai, thì cũng để việc đó lại. Giả sử xá-lợi của Như Lai đầy khắp tam thiên thế giới là một phần và kinh Bát-nhã ba-la-mật-đa này là một phần.
Bạch Đức Thế Tôn! Đối với hai phần như vậy, con cũng chọn lấy phần Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Bạch Đức Thế Tôn! Đối với xá-lợi của Phật, không phải là con không có lòng cung kính. Nhưng vì xá-lợi của Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác đều sinh từ Bát-nhã ba-la-mật-đa, thân của Như Lai nương dựa vào Nhất thiết trí, mà Nhất thiết trí lại từ Bát-nhã ba-la-mật-đa sinh ra, cho nên đối với hai phần trên con chọn Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Bạch Đức Thế Tôn! Ví như ngọc ma-ni, đầy đủ màu sắc, có công đức lớn, hàng phi nhân ở các nơi muốn được ngọc đều không thể được. Tại chỗ ở của các phi nhân, có thiện nam, thiện nữ tay cầm ngọc ma-ni đi vào trong phòng thì hàng phi nhân lập tức rời khỏi phòng này. Lại nữa, khi mang ngọc này bên mình thì người ấy có khả năng diệt trừ các việc độc hại khổ não, nếu có tai họa như gió, trúng độc, các bệnh thì nên dùng ngọc này đeo bên mình thì các loại bệnh khổ đều tiêu trừ. Ngọc ma-ni này khi ở trong tối thì phát ra ánh sáng, khi gặp nơi lửa dữ thiêu đốt thì làm cho mát mẻ, hoặc lúc gặp chỗ giá lạnh thì làm cho ấm áp. Hoặc gặp chỗ có nhiều trùng rất độc, gặp nơi có ngọc ma-ni thì chúng sẽ bỏ đi không thể làm hại. Lại có người bị các thứ độc làm tổn hại, khi gặp ngọc ma-ni thì các độc này liền bị tiêu diệt. Lại có người bị các chứng bệnh nên mắt không thể nhìn thấy cảnh vật, đem ngọc này để cạnh mắt thì mắt người này liền thấy được rõ ràng, xa lìa các khổ não. Lại nữa, đem ngọc này để vào trong nước thì nước và ngọc đồng một màu, đem ngọc này để vào trong nước có các màu sắc, xanh, đỏ, vàng, trắng, thì ngọc này sẽ chuyển thành màu giống màu của nước, tùy theo từng màu sắc mà nó đồng một màu, đem ngọc này để vào trong nước dơ thì nước liền trong sạch.
Bạch Đức Thế Tôn! Ngọc ma-ni kia có đầy đủ màu sắc và có công đức như vậy.
Khi ấy, Tôn giả A-nan nói với Đế Thích:
–Như ngài đã nói, ngọc ma-ni này có đầy đủ công đức, ở cõi trời và ở nhân gian có loại ngọc báu này không?
Đế Thích thưa Tôn giả A-nan:
–Ngọc báu này ở cõi trời, cõi người đều có, nhưng ở thế gian ít được tôn trọng, tôn quý, còn ngọc ma-ni này ở cõi trời được chư Thiên, người đều tôn quý, vì ngọc có đầy đủ màu sắc, công đức thù thắng. Ngọc báu ở cõi Diêm-phù-đề so sánh với ngọc ở cõi trời thì không bằng một phần trăm, một phần ngàn, một phần trăm ngàn, một phần ức, một phần trăm ức, một phần ngàn ức, một phần trăm ngàn ức, toán số thí dụ thì đến một phần nhỏ nhiệm cũng không thể sánh. Tất cả tướng ngọc ma-ni ở cõi trời này đều viên mãn, ngọc đó bao gồm tất cả diệu bảo. Do công đức của ngọc như vậy nên người mang ngọc này đi thì được mọi người tôn kính. Vì sao? Vì bảo châu này là vật kỳ diệu.
Khi ấy, Đế Thích lại bạch Phật:
–Bạch Đức Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng như vậy, Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác có Nhất thiết trí đầy đủ công đức nên sau khi nhập Niết-bàn, xá-lợi cũng được lễ lạy cúng dường. Vì sao? Vì Nhất thiết trí nương vào thân Như Lai, do đây nên xá-lợi của Như Lai giống như bảo khí kia, còn trí Nhất thiết trí như là báu vật. Do nghĩa này nên xá-lợi của Như Lai được lễ lạy cúng dường.
Bạch Đức Thế Tôn! Khi Phật giảng thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa cho tất cả thế giới thì ta nên phát tâm chân thật cúng dường, hoặc khi Pháp sư thuyết pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa cho người khác nghe thì ta cũng phát tâm chân thật cúng dường.
Bạch Đức Thế Tôn! Ví như đại thần phụng mệnh nhà vua đi đến chỗ đông người, nhưng không sinh tâm lo sợ, vì nương vào uy đức của nhà vua. Pháp sư khi thuyết pháp cũng như vậy. Ở trong chúng hội, vị ấy nói pháp không có lo sợ, vì nương vào công đức lớn của chánh pháp. Do vậy, nên Pháp sư được cung kính cúng dường. Pháp sư được cúng dường nên xá-lợi của Như Lai cũng được cúng dường.
Bạch Đức Thế Tôn! Như trước đã nói, xá-lợi của Như Lai khắp tam thiên đại thiên thế giới. Giả sử xá-lợi của Như Lai khắp tam thiên đại thiên thế giới là một phần, kinh Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng một phần thì bạch Đức Thế Tôn, đối với hai phần ở trên thì con chọn Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Bạch Đức Thế Tôn! Đối với xá-lợi của Như Lai chẳng phải con không tôn trọng. Chỉ vì xá-lợi của Như Lai cũng từ Bát-nhã ba-la-mật-đa mà có, nương dựa vào Nhất thiết trí, do vậy, con tôn trọng cúng dường kinh Bát-nhã ba-la-mật-đa.
–Bạch Đức Thế Tôn! Cúng dường Bát-nhã ba-la-mật-đa này cũng giống như cúng dường chư Phật ở quá khứ, hiện tại, vị lai.
Lại nữa, bạch Đức Thế Tôn! Thiện nam, thiện nữ nào muốn thấy thân chân thật của Như Lai lúc thuyết pháp ở mười phương vô lượng a-tăng-kỳ kiếp thì nên tu hành đúng theo Bát-nhã ba-la-mật-đa, an trụ khéo tương ưng, quán tướng như thật.
Bấy giờ, Thế Tôn bảo Đế Thích:
–Đúng như vậy, này Kiều-thi-ca! Các Đức Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác trong quá khứ, do nhân duyên tu tập Bát-nhã ba-la-mật-đa mà được thành tựu Vô thượng Bồ-đề.
Ở đời vị lai, có vô lượng, vô số Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác đều do nhân duyên tu tập trí tuệ này được thành tựu Vô thượng Bồ-đề.
Này Kiều-thi-ca! Hiện tại, ta cũng tu tập Bát-nhã ba-la-mật-đa mà đắc quả Vô thượng Bồ-đề.
Đế Thích bạch Phật:
–Bạch Đức Thế Tôn! Đại Ba-la-mật-đa là Bát-nhã ba-la-mật-đa, do tu tập Bát-nhã ba-la-mật-đa nên Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác biết đúng như thật các tâm hạnh của tất cả chúng sinh.
Phật bảo:
–Đúng như vậy. Này Kiều-thi-ca! Các Đại Bồ-tát tu tập pháp môn Bát-nhã ba-la-mật-đa lâu dài nên biết rõ các tâm hạnh của tất cả chúng sinh.
Khi ấy, Đế Thích bạch Phật:
–Bạch Đức Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa hay còn thực hành các Ba-la-mật-đa khác nữa?
Phật bảo:
–Này Kiều-thi-ca! Các Đại Bồ-tát thực hành đủ cả sáu pháp Ba-la-mật-đa.
–Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa so với các pháp Ba-la-mật-đa khác thì nó đứng đầu. Do vậy, Bố thí ba-la-mật-đa thường xả bỏ, Trì giới ba-la-mật-đa thường thọ nhận, Nhẫn nhục ba-la-mật-đa thường chấp nhận, Tinh tấn ba-la-mật-đa luôn tăng trưởng, Thiền định ba-la-mật-đa mãi tịch tĩnh, Bát-nhã ba-la-mật-đa có khả năng hiểu biết các pháp nên có khả năng mở lối, dẫn dắt các pháp Ba-la-mật-đa và dùng phương tiện thiện xảo để thu nhận. Do có Bát-nhã ba-la-mật-đa nên có hồi hướng đến Nhất thiết trí, có hồi hướng đến pháp giới thanh tịnh thù thắng.
Này Kiều-thi-ca! Ví như ở trong cõi Diêm-phù-đề có nhiều loại cây, có nhiều hình dáng và màu sắc, các loại thân rễ, các loại cành lá, các thứ hoa quả, tuy có sự sai biệt như vậy nhưng bóng râm của cây thì giống nhau không có sai biệt.
Này Kiều-thi-ca! Các Ba-la-mật-đa cũng lại như vậy, tuy có sai biệt nhưng phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa đều hồi hướng đến Nhất thiết trí kia.
Đế Thích bạch Phật:
–Bạch Đức Thế Tôn, hy hữu thay! Bát-nhã ba-la-mật-đa có đầy đủ công đức lớn, Bát-nhã ba-la-mật-đa có đầy đủ vô lượng, vô biên công đức.
***
Phẩm 5: CHÁNH PHƯỚC
Khi ấy, Đế Thích bạch Phật:
–Bạch Đức Thế Tôn! Thiện nam, thiện nữ nào phát tâm cầu đạo Bồ-đề thì nên phát tâm tin hiểu, lắng nghe, thọ trì, đọc tụng pháp môn Bát-nhã ba-la-mật-đa, cho đến vì người khác mà giảng giải nghĩa pháp, làm cho chánh pháp tồn tại lâu dài ở thế gian. Do nhân duyên này khiến cho Phật nhãn không đoạn, chánh pháp không diệt. Các Đại Bồ-tát đều thọ trì để chánh pháp không hoại, diệt. Người được nghe pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa này rồi liền xưng tán thì được lợi ích lớn, quả báo đầy đủ, vô lượng công đức, hiểu biết đúng đắn.
Bát-nhã ba-la-mật-đa là sự hộ trì lớn, Bát-nhã ba-la-mật-đa luôn được tôn trọng, Bát-nhã ba-la-mật-đa là pháp tối thắng khó được, Bát-nhã ba-la-mật-đa phát sinh tin hiểu. Thiện nam, thiện nữ nên tán thán tôn trọng, dùng các loại hoa đẹp, đèn dầu, hương thơm, cờ phướn, lọng báu, y phục tốt đẹp cúng dường.
Lại nữa, thiện nam, thiện nữ nào đem kinh Bát-nhã ba-la-mật-đa giảng dạy cho người khác, làm cho họ phát tâm cúng dường.
Bạch Đức Thế Tôn! Thiện nam, thiện nữ làm như vậy, được phước đức nhiều không?
Phật bảo Đế Thích:
–Này Kiều-thi-ca! Nay ta hỏi ông, hãy tùy ý trả lời. Ông nghĩ thế nào? Sau khi Như Lai nhập Niết-bàn, có thiện nam, thiện nữ tôn trọng, cung kính phát tâm cúng dường xá-lợi. Lại có thiện nam, thiện nữ tự mình cúng dường xá-lợi của Phật rồi dạy cho người khác phát tâm tôn trọng, cung kính cúng dường, thiện nam, thiện nữ làm như vậy được công đức nhiều không?
Đế Thích bạch Phật:
–Phước đức của thiện nam, thiện nữ cúng dường xá-lợi của Như Lai không bằng phước đức của người đem xá-lợi của Phật thuyết giảng, giúp người khác cúng dường, phước đức ấy thật là nhiều.
Phật nói:
–Đúng như vậy, phước đức của thiện nam, thiện nữ tự mình sao chép cúng dường kinh Bát-nhã ba-la-mật-đa, không bằng phước đức của người tự sao chép cúng dường kinh Bát-nhã ba-la-mật-đa rồi tuyên bày, giúp người khác cùng phát tâm cúng dường. Do tạo nhân duyên như vậy, thiện nam, thiện nữ này được công đức rất nhiều.
Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Thiện nam, thiện nữ giáo hóa làm cho tất cả chúng sinh ở cõi Diêm-phù-đề đều tu học mười thiện. Này Kiều-thi-ca! Ý ông như thế nào? Người tạo nhân duyên như vậy, được phước đức nhiều không?
Đế Thích bạch Phật:
–Bạch Đức Thế Tôn, rất nhiều!
Phật nói:
–Này Kiều-thi-ca! Thiện nam, thiện nữ tạo ra nhân duyên như vậy được phước đức rất nhiều, nhưng không bằng phước đức của người đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa phát tâm tin hiểu, phát tâm Bồ-đề, an trụ vào pháp Bồ-tát, sao chép kinh Bát-nhã ba-la-mật-đa, thọ trì, đọc tụng, hoan hỷ, giảng thuyết cho người khác, hoặc vì người khác giải thích rõ ràng nghĩa pháp này làm cho họ sinh tâm thanh tịnh đối với chánh pháp, xa lìa nghi hoặc, khuyến khích người khác thọ trì pháp này nên nói như vầy: “Các thiện nam, Bát-nhã ba-la-mật-đa là đạo Bồ-tát, các ông nên tu học pháp này. Người học như vậy mau chóng chứng đắc Vô thượng Bồ-đề, làm cho tất cả hữu tình được an trú vào chân như, thật tế.”
Này Kiều-thi-ca! Thiện nam, thiện nữ này được phước đức rất nhiều.
Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Hãy để qua việc có người giáo hóa, khiến cho tất cả chúng sinh khắp cõi Diêm-phù-đề tu mười thiện, nếu có người giáo hóa chúng sinh khắp bốn châu tu hành mười thiện, hoặc độ chúng sinh khắp tiểu thiên thế giới, trung thiên thế giới, tam thiên đại thiên thế giới tu hành mười thiện cho đến chúng sinh trong hằng hà sa số tam thiên đại thiên thế giới tu mười thiện.
Này Kiều-thi-ca! Ý ông thế nào? Những người gieo nhân duyên như vậy được phước nhiều không?
Đế Thích bạch Phật:
–Bạch Đức Thế Tôn, rất nhiều!
Phật nói:
–Này Kiều-thi-ca! Thiện nam, thiện nữ tạo nhân duyên như vậy được phước đức rất nhiều, nhưng không bằng có người đối với pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa phát tâm tin hiểu, phát tâm Bồ-đề, trụ vào pháp Bồ-tát, sao chép kinh Bát-nhã ba-la-mật-đa, thọ trì đọc tụng, hoan hỷ giảng nói cho người khác, giải thích ý nghĩa kinh, sinh tâm thanh tịnh đối với chánh pháp xa lìa tất cả nghi hoặc, khuyến khích người khác thọ trì kinh bằng những lời như vầy: “Này các thiện nam, Bát-nhã ba-la-mật-đa là đạo Bồ-tát, các ông nên tu học pháp này để mau chóng chứng đắc Vô thượng Bồ-đề, làm cho tất cả hữu tình an trụ vào chân thật thật tế.”
Này Kiều-thi-ca! Thiện nam, thiện nữ này được phước đức rất nhiều.
***
Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Thiện nam, thiện nữ nào giáo hóa chúng sinh khắp cõi Diêm-phù-đề khiến họ tu định Tứ thiền, thì này Kiều-thi-ca! Y ông như thế nào? Người ấy tạo nhân duyên như vậy được phước nhiều không?
Đế Thích bạch Phật:
–Bạch Đức Thế Tôn, rất nhiều!
Phật nói:
–Này Kiều-thi-ca! Phước mà thiện nam, thiện nữ tạo nhân duyên như vậy tuy nhiều, nhưng không bằng phước đức mà người phát tâm tin hiểu đối với pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa, phát tâm Bồ-đề, trụ vào pháp Bồ-tát, sao chép kinh Bát-nhã ba-la-mật-đa, thọ trì, đọc tụng rồi hoan hỷ giảng nói cho người khác. Hoặc vì người khác mà giải thích rõ nghĩa pháp, đối với chánh pháp sinh tâm thanh tịnh, lìa bỏ tất cả nghi hoặc, khuyến khích hướng dẫn người khác thọ trì pháp môn này, rồi nói: “Này các thiện nam, thiện nữ, Bát-nhã ba-la-mật-đa này chính là đạo Bồ-tát. Các ông nên giảng thuyết, tu học theo pháp ấy.” Tu học như vậy gọi là đắc pháp, mau chứng Vô thượng Bồ-đề, độ hết loài hữu tình, khiến cho họ an trụ vào pháp chân như thật tế. Này Kiều-thi-ca! Thiện nam, thiện nữ này được phước rất lớn.
Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Hãy để lại việc hóa độ chúng sinh khắp cõi Diêm-phù-đề, khắp bốn châu đều tu Tứ thiền; khắp tiểu thiên thế giới, trung thiên thế giới, tam thiên đại thiên thế giới, cho
đến khắp hằng hà sa tam thiên đại thiên thế giới tu Tứ thiền định. Này Kiều-thi-ca! Ý ông như thế nào? Những người tạo nhân duyên như vậy, được phước nhiều không?
Đế Thích bạch Phật:
–Bạch Đức Thế Tôn, rất nhiều!
Phật nói:
–Này Kiều-thi-ca! Thiện nam, thiện nữ nào tạo nhân duyên như vậy phước đức tuy nhiều, nhưng không bằng phước mà người đối với pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa phát tâm tin hiểu, phát tâm Bồ-đề, trụ vào pháp Bồ-tát, sao chép kinh Bát-nhã ba-la-mật-đa, thọ trì, đọc tụng rồi hoan hỷ giảng nói cho người khác. Hoặc vì người khác mà giải thích rõ nghĩa pháp, đối với chánh pháp sinh tâm thanh tịnh, lìa bỏ tất cả nghi hoặc, khuyến khích hướng dẫn người khác thọ trì pháp môn này, rồi nói: “Các thiện nam, thiện nữ Bát-nhã ba-la-mật-đa này là đạo Bồ-tát. Các ông nên giảng thuyết, tu học theo pháp ấy.” Tu học như vậy gọi là đắc pháp, mau chóng chứng Vô thượng Bồ-đề, có thể độ tất cả hữu tình, khiến cho họ an trụ vào pháp chân như thật tế. Này Kiều-thi-ca! Nên biết người này được phước rất nhiều.
Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Có người giáo hóa chúng sinh khắp cõi Diêm-phù-đề, tu bốn Vô lượng tâm, hành bốn Vô sắc định cho đến tu tất cả thần thông, phạm hạnh, các pháp thiền định, thực hành các phước. Này Kiều-thi-ca! Ý ông nghĩ thế nào? Người ấy tạo nhân duyên như vậy được phước nhiều không?
Đế Thích bạch Phật:
–Bạch Đức Thế Tôn, rất nhiều!
Phật nói:
–Này Kiều-thi-ca! Thiện nam, thiện nữ do nhân duyên này được phước tuy nhiều, nhưng không bằng người đối với pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa phát tâm tin hiểu, phát tâm Bồ-đề, trụ ở pháp Bồ-tát, sao chép kinh Bát-nhã ba-la-mật-đa, rồi thọ trì, đọc tụng, hoan hỷ giảng nói cho người khác. Hoặc vì người khác giải thích rõ nghĩa pháp này, đối với chánh pháp sinh tâm thanh tịnh, lìa xa tất cả nghi hoặc, khuyến khích, hướng dẫn người khác thọ trì pháp này, rồi nói: “Này các thiện nam, thiện nữ pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa là đạo Bồ-tát. Các ông nên tuyên giảng, tu tập theo giáo pháp này, tu học như vậy gọi là đắc pháp, mau chóng chứng Vô thượng Bồ-đề, độ hết loài hữu tình, khiến cho tất cả an trụ vào chân như thật tế.”
Này Kiều-thi-ca! Thiện nam, thiện nữ được phước rất nhiều.
Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Hãy để lại việc hóa độ chúng sinh khắp cõi Diêm-phù-đề, khắp bốn châu, khắp tiểu thiên thế giới, trung thiên thế giới, tam thiên đại thiên thế giới, tu hành vô lượng, vô biên thần thông, phạm hạnh, các pháp thiền định và hành các việc phước thiện.
Này Kiều-thi-ca! Giả sử có người giáo hóa hằng hà sa số chúng sinh, tu vô lượng, vô biên thần thông, phạm hạnh, các pháp thiền định và hành các việc phước thiện. Ý ông nghĩ sao? Người này tạo nhân duyên như vậy, được phước nhiều không?
Đế Thích bạch Phật:
–Bạch Đức Thế Tôn, rất nhiều!
Phật nói:
–Này Kiều-thi-ca! Thiện nam, thiện nữ này được phước tuy nhiều, nhưng không bằng người đối với pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa phát tâm tin hiểu, phát tâm Bồ-đề, trụ vào pháp Bồ-tát, sao chép kinh Bát-nhã ba-la-mật-đa, rồi thọ trì, đọc tụng, sinh tâm hoan hỷ giảng nói cho người khác. Hoặc lại vì người khác mà giải thích rõ nghĩa pháp này, đối với chánh pháp sinh tâm thanh tịnh, lìa xa tất cả nghi hoặc, khuyến khích hướng dẫn người khác thọ trì pháp này, rồi nói: Các ông nên tuyên giảng, tu tập theo giáo pháp này, tu học như vậy gọi là đắc pháp, mau chóng chứng Vô thượng Bồ-đề, độ hết loài hữu tình, khiến cho tất cả an trụ vào chân như thật tế.”
Này Kiều-thi-ca! Thiện nam, thiện nữ này được phước rất nhiều.
Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Thiện nam, thiện nữ nào đối với kinh Bát-nhã ba-la-mật-đa sao chép, thọ trì, đọc tụng, khuyến khích người khác đọc tụng pháp này thì được phước rất lớn, nhưng không bằng phước của người đối với pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa, vì người khéo giảng rộng ý nghĩa pháp này.
–Này Kiều-thi-ca! Nên biết, người này được phước rất lớn.
Khi ấy, Đế Thích bạch Phật:
–Bạch Đức Thế Tôn! Nên vì hạng người nào mà giảng nói pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa này.
Phật nói Đế Thích:
–Thiện nam, thiện nữ nào đối với pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa chưa hiểu rõ, nên vì họ mà giảng thuyết. Vì sao?
Này Kiều-thi-ca! Ở đời vị lai, có người nói những pháp tương tợ pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa, nhưng thiện nam, thiện nữ khát khao muốn chứng được Vô thượng Bồ-đề, nghe và tu học theo pháp tương tợ Bát-nhã ba-la-mật-đa, tâm họ tán loạn, hiểu biết không đúng.
Đế Thích bạch Phật:
–Bạch Đức Thế Tôn! Vì sao ở đời vị lai có người nói pháp tương tợ Bát-nhã ba-la-mật-đa? Lại nữa, làm sao phân biệt được rõ ràng?
Phật bảo Đế Thích:
–Này Kiều-thi-ca! Ở đời vị lai có các Bí-sô nói như vầy: Sắc là vô thường, thân, tâm cùng giới, định, tuệ đều không chỗ có, xa lìa các pháp quán. Nói như vậy, nên biết là nói pháp tương tợ Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Này Kiều-thi-ca! Tại sao có tên là tương tợ Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì người kia đã nói: Do sắc hoại nên quán sắc vô thường; do thọ, tưởng, hành, thức hoại nên có quán thọ, tưởng, hành, thức vô thường. Tìm cầu và hành như vậy là thực hành tương tợ Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Này Kiều-thi-ca! Nên biết, pháp như thế này đều gọi là tương tợ Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Này Kiều-thi-ca! Ông nên biết, sắc không hoại nên quán sắc vô thường; thọ, tưởng, hành, thức không hoại nên quán thọ, tưởng, hành, thức vô thường. Người nói như vậy là tuyên thuyết như thật pháp môn Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Này Kiều-thi-ca! Do nghĩa này nên thiện nam, thiện nữ có thể
vì người giảng giải đúng như thật của pháp môn Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nên biết thiện nam, thiện nữ này được phước rất nhiều.
Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Thiện nam, thiện nữ độ chúng sinh khắp cõi Diêm-phù-đề khiến tất cả an trụ quả vị Tu-đà-hoàn.
Này Kiều-thi-ca! Ý ông nghĩ như thế nào? Thiện nam, thiện nữ tạo nhân duyên như vậy, được phước đức nhiều không?
Đế Thích bạch Phật:
–Bạch Đức Thế Tôn, rất nhiều!
Phật dạy:
–Thiện nam, thiện nữ do nhân duyên này được phước tuy nhiều, nhưng không bằng có người đối với pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa phát tâm tin hiểu, phát tâm Bồ-đề, trụ vào pháp Bồ-tát, sao chép kinh Bát-nhã ba-la-mật-đa, rồi thọ trì đọc tụng, sinh tâm hoan hỷ giảng nói cho người khác. Hoặc lại vì người khác mà giải thích rõ nghĩa pháp này, đối với chánh pháp sinh tâm thanh tịnh, lìa xa tất cả nghi hoặc, khuyến khích hướng dẫn người khác thọ trì pháp này, rồi nói: “Này thiện nam, pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa là đạo Bồ-tát. Các ông nên giảng nói tu học theo giáo pháp này, tu học như vậy gọi là đắc pháp, mau chóng chứng Vô thượng Bồ-đề, độ hết loài hữu tình, khiến cho tất cả an trụ vào chân như thật tế.”
Này Kiều-thi-ca! Thiện nam, thiện nữ này được phước rất nhiều. Vì sao? Vì quả Tu-đà-hoàn cũng từ Bát-nhã ba-la-mật-đa sinh ra.
Này Kiều-thi-ca! Hãy để lại việc như trước đã nói, có người độ chúng sinh khắp cõi Diêm-phù-đề, khắp bốn châu, khắp tiểu thiên thế giới, khắp trung thiên thế giới, khắp tam thiên đại thiên thế giới khiến an trụ vào quả Tu-đà-hoàn, tạo ra các phước.
Này Kiều-thi-ca! Giả sử có người độ chúng sinh khắp hằng hà sa số tam thiên đại thiên thế giới khiến tất cả an trụ vào quả Tu-đà-hoàn tạo ra các phước.
Này Kiều-thi-ca! Ý ông nghĩ sao? Người tạo nhân duyên như vậy được phước nhiều không?
Đế Thích bạch Phật:
–Bạch Đức Thế Tôn, rất nhiều!
Phật nói:
–Thiện nam, thiện nữ do nhân duyên này được phước tuy nhiều, nhưng không bằng có người đối với pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa phát tâm tin hiểu, phát tâm Bồ-đề, trụ vào pháp Bồ-tát, sao chép kinh Bát-nhã ba-la-mật-đa, thọ trì, đọc tụng, hoan hỷ giảng nói cho người khác. Hoặc vì người khác mà giải thích rõ ràng nghĩa pháp này, khởi tâm thanh tịnh đối với chánh pháp, xa lìa tất cả nghi hoặc, khuyến khích hướng dẫn người khác thọ trì kinh pháp này, rồi nói: “Này thiện nam, pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa này là đạo Bồ-tát. Các ông nên giảng nói tu học theo giáo pháp này, học như vậy gọi là đắc pháp, mau chóng chứng Vô thượng Bồ-đề, độ hết loài hữu tình, khiến tất cả an trụ vào chân như thật tế.”
Này Kiều-thi-ca! Thiện nam, thiện nữ này được phước rất nhiều. Vì sao? Vì quả vị Tu-đà-hoàn cũng từ pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa sinh ra.
Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Thiện nam, thiện nữ giáo hóa chúng sinh khắp cõi Diêm-phù-đề, khiến cho tất cả an trụ vào quả vị Tư-đà-hàm.
Này Kiều-thi-ca! Ý ông nghĩ sao? Người tạo nhân duyên như vậy, được phước nhiều không?
Đế Thích bạch Phật:
–Bạch Đức Thế Tôn, rất nhiều!
Phật nói:
–Thiện nam, thiện nữ do nhân duyên này được phước tuy nhiều, nhưng không bằng có người đối với pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa phát tâm tin hiểu, phát tâm Bồ-đề, trụ vào pháp Bồ-tát, sao chép kinh Bát-nhã ba-la-mật-đa, thọ trì, đọc tụng, hoan hỷ giảng nói cho người khác. Hoặc vì người khác mà giải thích rõ ràng nghĩa pháp này, đối với chánh pháp sinh tâm thanh tịnh, xa lìa tất cả nghi hoặc, khuyến khích hướng dẫn người khác thọ trì kinh pháp này, rồi nói: “Này thiện nam! Pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa này là đạo Bồ-tát. Các ông nên giảng nói tu học theo giáo pháp này, học như vậy gọi là đắc pháp, mau chóng chứng Vô thượng Bồ-đề, độ hết loài hữu tình, khiến tất cả an trụ vào chân như thật tế.”
Này Kiều-thi-ca! Thiện nam, thiện nữ này được phước rất nhiều. Vì sao? Vì quả Tư-đà-hàm cũng từ Bát-nhã ba-la-mật-đa sinh ra.
Này Kiều-thi-ca! Hãy để lại sự việc như trước đã nói. Có người độ chúng sinh khắp cõi Diêm-phù-đề, khắp bốn châu, khắp tiểu thiên thế giới, khắp trung thiên thế giới, khắp tam thiên đại thiên thế giới khiến an trụ vào quả Tư-đà-hàm, tạo ra các phước.
Này Kiều-thi-ca! Giả sử có người độ chúng sinh khắp hằng hà sa số tam thiên đại thiên thế giới khiến tất cả an trụ vào quả Tu-đà-hoàn tạo ra các phước.
Này Kiều-thi-ca! Ý ông nghĩ sao? Người tạo nhân duyên như vậy được phước nhiều không?
Đế Thích bạch Phật:
–Bạch Đức Thế Tôn, rất nhiều!
–Thiện nam, thiện nữ do nhân duyên này được phước tuy nhiều, nhưng không bằng có người đối với pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa phát tâm tin hiểu, phát tâm Bồ-đề, trụ vào pháp Bồ-tát, sao chép kinh Bát-nhã ba-la-mật-đa, thọ trì, đọc tụng, hoan hỷ giảng nói cho người khác. Hoặc vì người khác mà giải thích rõ nghĩa pháp này, đối với chánh pháp luôn sinh tâm thanh tịnh, xa lìa tất cả nghi hoặc, khuyến khích hướng dẫn người khác thọ trì kinh pháp này, rồi nói: “Này thiện nam, pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa này là đạo Bồ-tát. Các ông nên giảng nói, tu học theo giáo pháp này, học như vậy gọi là đắc pháp, mau chóng chứng Vô thượng Bồ-đề, độ hết loài hữu tình, khiến tất cả an trụ vào chân như thật tế.”
Này Kiều-thi-ca! Thiện nam, thiện nữ này được phước rất nhiều. Vì sao? Vì quả Tư-đà-hàm cũng từ Bát-nhã ba-la-mật-đa sinh ra.
Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Thiện nam, thiện nữ giáo hóa chúng sinh khắp cõi Diêm-phù-đề, làm cho tất cả an trụ vào quả Ana-hàm.
Này Kiều-thi-ca! Ý ông nghĩ sao? Người tạo nhân duyên như vậy, được phước nhiều không?
Đế Thích bạch Phật:
–Bạch Đức Thế Tôn, rất nhiều!
Phật nói:
–Thiện nam, thiện nữ tạo nhân duyên như vậy được phước tuy nhiều, nhưng không bằng có người đối với pháp môn Bát-nhã ba-la-mật-đa phát tâm tin hiểu, phát tâm Bồ-đề, trụ vào pháp Bồ-tát, sao chép kinh Bát-nhã ba-la-mật-đa, thọ trì, đọc tụng, hoan hỷ giảng nói cho người khác. Hoặc vì người khác mà giải thích rõ nghĩa pháp này, luôn sinh tâm thanh tịnh đối với chánh pháp, xa lìa tất cả nghi hoặc, khuyến khích hướng dẫn người khác thọ trì kinh pháp này, rồi nói: “Này thiện nam! Pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa này là đạo Bồ-tát. Các ông nên giảng nói, tu học theo giáo pháp này, học như vậy gọi là đắc pháp, mau chóng chứng Vô thượng Bồ-đề, độ hết loài hữu tình, khiến tất cả an trụ vào chân như thật tế.”
Này Kiều-thi-ca! Thiện nam, thiện nữ này được phước rất nhiều. Vì sao? Vì quả A-na-hàm cũng từ Bát-nhã ba-la-mật-đa sinh ra.
Này Kiều-thi-ca! Hãy để lại sự việc như trước đã nói. Có người độ chúng sinh khắp cõi Diêm-phù-đề, khắp bốn châu, khắp tiểu thiên thế giới, khắp trung thiên thế giới, khắp tam thiên đại thiên thế giới khiến an trụ vào quả A-na-hàm, tạo ra các phước.
Này Kiều-thi-ca! Ý ông nghĩ thế nào? Thiện nam, thiện nữ tạo nhân duyên như vậy được phước nhiều không?
Đế Thích bạch Phật:
–Bạch Đức Thế Tôn, rất nhiều!
Phật nói:
–Thiện nam, thiện nữ do nhân duyên như vậy được phước tuy nhiều, nhưng không bằng có người đối với pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa phát tâm tin hiểu, phát tâm Bồ-đề, trụ vào pháp Bồ-tát, sao chép kinh Bát-nhã ba-la-mật-đa, thọ trì, đọc tụng, hoan hỷ giảng nói cho người khác. Hoặc vì người khác mà giải thích rõ ràng nghĩa pháp này, đối với chánh pháp này luôn sinh tâm thanh tịnh, xa lìa tất cả nghi hoặc, khuyến khích hướng dẫn người khác thọ trì kinh pháp này, rồi nói: “Này thiện nam! Pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa này là đạo Bồ-tát. Các ông nên giảng nói, tu học theo giáo pháp này. Học như vậy gọi là đắc pháp, mau chóng chứng Vô thượng Bồ-đề, độ hết loài hữu tình, khiến tất cả an trụ vào chân như thật tế.”
Này Kiều-thi-ca! Thiện nam, thiện nữ này được phước rất nhiều. Vì sao? Vì quả A-na-hàm cũng từ Bát-nhã ba-la-mật-đa sinh ra.
Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Thiện nam, thiện nữ giáo hóa chúng sinh khắp cõi Diêm-phù-đề, làm cho tất cả an trụ vào quả A-la-hán.
Này Kiều-thi-ca! Ý ông nghĩ thế nào? Thiện nam, thiện nữ tạo nhân duyên như vậy, được phước nhiều không?
Đế Thích bạch Phật:
–Bạch Đức Thế Tôn, rất nhiều!
Phật nói:
–Thiện nam, thiện nữ tạo nhân duyên như vậy được phước tuy nhiều, nhưng không bằng có người đối với pháp môn Bát-nhã ba-la-mật-đa phát tâm tin hiểu, phát tâm Bồ-đề, trụ vào pháp Bồ-tát, sao chép kinh Bát-nhã ba-la-mật-đa, thọ trì, đọc tụng, hoan hỷ giảng nói cho người khác. Hoặc vì người khác mà giải thích rõ nghĩa pháp này, luôn sinh tâm thanh tịnh đối với chánh pháp, xa lìa tất cả nghi hoặc, khuyến khích hướng dẫn người khác thọ trì kinh pháp này, rồi nói: “Này thiện nam! Pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa này là đạo Bồ-tát. Các ông nên giảng nói, tu học theo giáo pháp này, học như vậy gọi là đắc pháp, mau chóng chứng Vô thượng Bồ-đề, độ hết loài hữu tình, khiến tất cả an trụ vào chân như thật tế.”
Này Kiều-thi-ca! Thiện nam, thiện nữ này được phước rất nhiều. Vì sao? Vì quả A-la-hán cũng từ Bát-nhã ba-la-mật-đa sinh ra.
Lại nữa, thiện nam, thiện nữ tùy theo chỗ giảng thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa mà nhận thức, nhận thức rồi tu học theo như pháp đã diễn thuyết, đạt được pháp Phật thành tựu Vô thượng Bồ-đề. Các quả vị Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán, Duyên giác và quả vị Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác đều từ Bát-nhã ba-la-mật-đa sinh ra. Chỗ xuất sinh đúng chân lý như vậy nên đắc pháp.
Này Kiều-thi-ca! Hãy để lại sự việc như trước đã nói. Có người độ chúng sinh khắp cõi Diêm-phù-đề, khắp bốn châu, khắp tiểu thiên thế giới, trung thiên thế giới, tam thiên đại thiên thế giới, hằng hà sa tam thiên đại thiên thế giới khiến trụ vào quả A-la-hán.
Này Kiều-thi-ca! Ý ông nghĩ thế nào? Người tạo nhân duyên như vậy được phước nhiều không?
Đế Thích bạch Phật:
–Bạch Đức Thế Tôn, rất nhiều!
Phật nói:
–Thiện nam, thiện nữ tạo nhân duyên như vậy được phước tuy nhiều, nhưng không bằng có người đối với pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa phát tâm tin hiểu, phát tâm Bồ-đề, trụ vào pháp Bồ-tát, sao chép kinh Bát-nhã ba-la-mật-đa, thọ trì, đọc tụng, hoan hỷ giảng nói cho người khác. Hoặc vì người khác mà giải thích rõ ràng nghĩa pháp này, đối với chánh pháp này luôn sinh tâm thanh tịnh, xa lìa tất cả nghi hoặc, khuyến khích hướng dẫn người khác thọ trì kinh pháp này, rồi nói: “Này thiện nam! Pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa này là đạo Bồ-tát. Các ông nên giảng nói, tu học theo giáo pháp này. Học như vậy gọi là đắc pháp, mau chóng chứng Vô thượng Bồ-đề, độ hết loài hữu tình, khiến tất cả an trụ vào chân như thật tế.”
Này Kiều-thi-ca! Thiện nam, thiện nữ này được phước rất nhiều. Vì sao? Vì quả A-la-hán cũng từ Bát-nhã ba-la-mật-đa sinh ra.
Lại nữa, thiện nam, thiện nữ tùy theo chỗ thuyết giảng pháp môn Bát-nhã ba-la-mật-đa mà nhận thức, đã nhận thức rồi thì tu học theo như pháp đã thuyết, sớm đạt được pháp Phật, mau chóng thành tựu Vô thượng Bồ-đề.
Do đây nên quả Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán, Duyên giác và quả Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác đều từ Bát-nhã ba-la-mật-đa sinh ra. Chỗ xuất sinh đúng pháp như vậy nên được thành tựu.
Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Thiện nam, thiện nữ giáo hóa chúng sinh khắp cõi Diêm-phù-đề, khắp bốn châu, khắp tiểu thiên thế giới, trung thiên thế giới, tam thiên đại thiên thế giới, cho đến hằng hà sa tam thiên đại thiên thế giới đều được an trụ vào quả Duyên giác.
Này Kiều-thi-ca! Ý ông nghĩ thế nào? Người tạo nhân duyên như vậy, được phước nhiều không?
Đế Thích bạch Phật:
–Bạch Đức Thế Tôn, rất nhiều!
Phật nói:
–Thiện nam, thiện nữ tạo nhân duyên như vậy được phước tuy nhiều, nhưng không bằng có người đối với pháp môn Bát-nhã ba-la-mật-đa phát tâm tin hiểu, phát tâm Bồ-đề, an trụ vào pháp Bồ-tát, sao chép kinh Bát-nhã ba-la-mật-đa, thọ trì, đọc tụng, sinh tâm hoan hỷ vì người khác giảng thuyết, hoặc vì người khác mà giải thích rõ nghĩa pháp này, luôn sinh tâm thanh tịnh đối với chánh pháp, xa lìa tất cả nghi hoặc, khuyến khích hướng dẫn người khác thọ trì kinh pháp này, rồi nói: “Này thiện nam! Bát-nhã ba-la-mật-đa này là đạo Bồ-tát. Các ông nên giảng nói, tu học theo giáo pháp này, học như vậy gọi là đắc pháp, mau chóng chứng Vô thượng Bồ-đề, độ hết loài hữu tình, khiến tất cả an trụ vào chân như thật tế.”
Này Kiều-thi-ca! Thiện nam, thiện nữ này được phước rất nhiều. Vì sao? Vì quả Duyên giác cũng từ Bát-nhã ba-la-mật-đa sinh ra.
Lại nữa, thiện nam, thiện nữ tùy theo chỗ giảng thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa mà nhận thức, nhận thức rồi tu học theo như pháp đã diễn thuyết, đạt được pháp Phật, thành tựu Vô thượng Bồ-đề. Do vậy nên các quả vị từ Tu-đà-hoàn cho đến Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác đều từ Bát-nhã ba-la-mật-đa sinh ra. Chỗ xuất sinh đúng chân lý như vậy nên đắc pháp.
Nếu có chúng sinh ở khắp cõi Diêm-phù-đề phát tâm cầu Vô thượng Bồ-đề, hoặc có thiện nam, thiện nữ sao chép kinh Bát-nhã ba-la-mật-đa, bố thí khiến tất cả mọi người thọ trì pháp này. Không bằng có người sao chép kinh Bát-nhã ba-la-mật-đa giúp cho một người trụ vào Đại Bồ-tát không thoái chuyển, khiến họ tu học tương ưng pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa kiên cố, rộng lớn, tăng trưởng, viên mãn, thành tựu Phật pháp.
Này Kiều-thi-ca! Nên biết thiện nam, thiện nữ này được phước rất nhiều. Vì sao? Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa sinh ra Vô thượng Bồ-đề.
Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Hãy để lại sự việc như trước đã nói. Nếu có chúng sinh khắp cõi Diêm-phù-đề, khắp bốn châu, khắp tiểu thiên thế giới, trung thiên thế giới, tam thiên đại thiên thế giới, khắp hằng hà sa tam thiên đại thiên thế giới phát tâm Vô thượng Bồ-đề, hoặc có thiện nam, thiện nữ sao chép kinh điển Bát-nhã ba-la-mật-đa, bố thí khiến mọi người thọ trì kinh này.
Này Kiều-thi-ca! Không bằng có người sao chép kinh Bát-nhã ba-la-mật-đa giúp cho một người an trụ vào Đại Bồ-tát không thoái chuyển, khiến họ tu học tương ưng pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa kiên cố, rộng lớn, tăng trưởng, viên mãn, thành tựu Phật pháp.
Này Kiều-thi-ca! Nên biết thiện nam, thiện nữ này được phước rất nhiều. Vì sao? Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa sinh ra Vô thượng Bồ-đề.
Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Giả sử chúng sinh ở khắp cõi Diêm-phù-đề đều an trụ vào địa vị không thoái chuyển, hoặc có thiện nam, thiện nữ đối với pháp môn Bát-nhã ba-la-mật-đa phổ biến rộng rãi, giải thích rõ ràng nghĩa pháp này.
Này Kiều-thi-ca! Ý ông thế nào? Người tạo nhân duyên như vậy được phước nhiều không?
Đế Thích bạch Phật:
–Bạch Đức Thế Tôn! Thiện nam, thiện nữ đạt được phước rất nhiều, vô lượng, vô biên không thể tính đếm, thí dụ được.
Phật nói:
–Này Kiều-thi-ca! Người này do nhân duyên như vậy được phước tuy nhiều nhưng không bằng có người vì muốn giúp một người chứng Vô thượng Bồ-đề, nên giải thích rõ ràng nghĩa pháp môn Bát-nhã ba-la-mật-đa. Này Kiều-thi-ca! Nên biết người ấy được phước rất nhiều.
Phật nói:
–Này Kiều-thi-ca! Hãy để lại sự việc như trước đã nói. Có chúng sinh ở khắp cõi Diêm-phù-đề, khắp bốn châu, khắp tiểu thiên thế giới, trung thiên thế giới, tam thiên đại thiên thế giới, khắp hằng hà sa tam thiên đại thiên thế giới đều trụ vào địa vị không thoái chuyển, hoặc có thiện nam, thiện nữ phổ biến rộng rãi, giải thích rõ ràng nghĩa pháp môn Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Này Kiều-thi-ca! Ý ông nghĩ thế nào? Người tạo nhân duyên như vậy được phước có nhiều không?
Đế Thích bạch Phật:
–Bạch Đức Thế Tôn! Thiện nam, thiện nữ được công đức vô lượng, vô biên, không thể tính đếm, ví dụ.
Phật nói:
–Này Kiều-thi-ca! Người này do tạo nhân duyên như vậy được phước tuy nhiều nhưng không bằng có người vì muốn giúp một người chứng Vô thượng Bồ-đề, nên giải thích rõ ràng nghĩa pháp môn Bát-nhã ba-la-mật-đa. Này Kiều-thi-ca! Nên biết người ấy được phước rất nhiều.
Này Kiều-thi-ca! Đại Bồ-tát tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa sẽ mau chứng Vô thượng Bồ-đề.
Khi ấy, Đế Thích bạch Phật:
–Bạch Đức Thế Tôn! Đại Bồ-tát nhận thức Bát-nhã ba-la-mật-đa nên gần gũi với Vô thượng Bồ-đề, tùy theo chỗ nhận thức mà giảng nói Bát-nhã ba-la-mật-đa, giảng giải như vậy nên gần gũi Nhất thiết trí.
Do đây, nên đem đồ ăn, thức uống, y phục, đồ nằm, thuốc men… cúng dường Bát-nhã ba-la-mật-đa, tùy theo khả năng của mình tạo ra các việc phước, người ấy sẽ đạt được công đức vô lượng, vô biên. Vì sao? Vì được gần quả Vô thượng Bồ-đề, thành tựu Nhất thiết trí.
Lúc này, Tôn giả Tu-bồ-đề tán thán Đế Thích:
–Lành thay, lành thay! Kiều-thi-ca! Ông khéo hướng dẫn các Đại Bồ-tát và hộ niệm cho họ. Này Kiều-thi-ca! Các đệ tử của Phật đều dùng pháp Vô thượng Bồ-đề hộ niệm các Đại Bồ-tát, khiến phát tâm Vô thượng Bồ-đề, an trụ vào quả Vô thượng Bồ-đề. Ở quá khứ, các Đại Bồ-tát đều do học sáu pháp Ba-la-mật-đa nên phát tâm Bồ-đề an trụ vào quả vị Bồ-đề. Hiện tại Phật Thế Tôn cũng học sáu pháp Ba-la-mật-đa mà thành tựu quả vị Vô thượng Bồ-đề. Ở đời vị lai, các Đại Bồ-tát cũng học như vậy. Vì vậy, này Kiều-thi-ca! Đại Bồ-tát nếu không học sáu pháp Ba-la-mật-đa thì không thể nào đạt được quả vị Vô thượng Bồ-đề.
***
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét