ĐÂY LÀ PHẦN ĐỨC PHẬT CHỈ RÕ CHO ĐỆ TỬ BIẾT RÕ NHÂN DUYÊN CÔNG ĐỨC HẠNH CỦA CÁC VỊ THÁNH MẪU, CÁC VỊ BỒ TÁT ,CÁC VỊ NỮ PHẬT, CÁC VỊ LÀ HOÁ THÂN CỦA PHẬT MẪU, TU BỒ TÁT HẠNH GIÁNG THẾ XUỐNG TRẦN GIAN ĐỂ NHẬN TRÁCH NHIỆM SINH RA VỊ PHẬT, VỊ BỒ TÁT CHO TƯƠNG LAI, PHẬT MẪU QUÁN SÁT TẤT CẢ NHỮNG NHÂN DUYÊN, NHỮNG QUẢ VỊ CHỨNG ĐẮC CHO CHÚNG SANH TRÊN CON ĐƯỜNG TU TIẾN HOÁ ĐẠT ĐẾN QUẢ VỊ PHẬT VỀ CÕI NIẾT BÀN THANH TỊNH, CỦA ĐỨC PHẬT CÕI HOA TẠNG THANH TỊNH TỲ LÔ GIÁ NA PHẬT.
CHO NÊN HÌNH ẢNH CỦA MẪU THÂN, LÀ MẸ, LÀ BỒ TÁT,CHÍNH LÀ PHẬT,MÀ MỖI CHÚNG TA PHẢI LUÔN TÔN KÍNH VÀ PHỤNG THỜ.
Kinh Hoa Nghiêm – Phẩm Vào Pháp Giới – 14
Kinh Hoa Nghiêm
Đại Phương Quảng Phật
giảng giải
Phẩm Thứ 39
Hòa Thượng TUYÊN HÓA
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Minh Ðịnh
— o0o —
Phẩm Vào Pháp Giới
Phần 13
— o0o —
41. MA GIA PHU NHÂN
HỘI DUYÊN VÀO THẬT TƯỚNG
Ma Gia phu nhân thảy mười một người, thấu rõ “hội duyên vào thật tướng”, nghĩa là duyên hội trước các vị khác biệt, khiến cho quy về một thật pháp giới, sinh nơi Phật quả.
Dùng Thập địa nhân viên, mới nhập vào Đẳng Giác, đi hết các nơi, lý tột cùng, cho nên Thiện Tài đồng tử cầu kiến Ma Gia phu nhân, chẳng dễ gì gặp được. Do Chủ Thành Thần, Thân Chúng Thần, La Sát Quỷ Vương dẫn đường, mới gặp được mẹ của đức Phật. Đây là biểu thị ý nghĩa vị thắng tấn.
Ma Gia là tiếng Phạn, dịch theo lối xưa là thiên hậu. Dịch theo lối mới là huyễn thuật. Ngài sinh ra đức Phật Thích Ca Mâu Ni được bảy ngày, mạng chung sinh về cõi trời Đao Lợi (Trời Tam Thập Tam). Đức Phật vì báo ân mẹ, mà thăng lên cung trời Đao Lợi, vì mẹ nói Kinh Địa Tạng. Bộ Kinh điển nầy là Hiếu Kinh của Phật giáo, là Kinh mọi người nên tụng, trong Kinh có những cảnh giới không thể nghĩ bàn.
Lúc đó Bồ Tát đã đoạn bốn mươi mốt phần vô minh, vẫn còn một phần sinh tướng vô minh chưa đoạn, sắp chứng được quả vị Diệu Giác (Phật). Công đức và trí huệ của Ngài gần tương đồng với Diệu Giác, nên gọi là Đẳng Giác Bồ Tát.
Nhĩ thời, Thiện tài đồng tử nhất tâm dục nghệ Ma Da Phu nhân sở, tức thời hoạch đắc quán Phật cảnh giới trí, tác như thị niệm: thị thiện tri thức, viễn ly thế gian, trụ vô sở trụ, siêu quá lục xứ, ly nhất thiết trước, tri vô ngại đạo, cụ tịnh Pháp thân, dĩ như huyễn nghiệp nhi hiện hóa thân, dĩ như huyễn trí nhi quán thế gian, dĩ như huyễn nguyện nhi trì Phật thân, tùy ý sanh thân, vô sanh diệt thân, vô lai khứ thân, phi hư thật thân, bất biến hoại thân, vô khởi tận thân, sở hữu chư tướng giai nhất tướng thân, ly nhị biên thân, vô y xứ thân, vô cùng tận thân, ly chư phân biệt như ảnh hiện thân, tri như mộng thân, liễu như tượng thân, như tịnh nhật thân, phổ ư thập phương nhi hóa hiện thân, trụ ư tam thế vô biến dị thân, phi thân tâm thân, do như hư không, sở hạnh vô ngại, siêu chư thế nhãn, duy thị Phổ Hiền tịnh mục sở kiến.
Thiện-Tài nhất tâm muốn đến chỗ Ma-Gia Phu-Nhơn, Tức thời chứng được trí quán phật-cảnh-giới. Thiện-Tài tự nghĩ rằng: thiện-tri-thức nầy xa lìa thế-gian an-trụ nơi vô-sở-trụ, siêu quá sáu trần, lìa tất cả chấp trước, biết đạo vô-ngại, đủ pháp thân thanh-tịnh, dùng nghiệp như-huyễn mà hiện hóa-thân, dùng trí như-huyễn mà quán thế-gian, dùng nguyện như-huyễn mà gìn giữ thân Phật. Theo thân ý-thân, không thân sanh diệt, không thân lai khứ, chẳng phải thân hư thiệt, thân chẳng biến hoại, thân không khởi tận. Có bao nhiêu tướng đều là thân một tướng, thân rời hai bên, thân không chỗ tựa nương, thân vô cùng tận, thân như ảnh hiện rời phân biệt. Biết thân như mộng, như tượng trong gương. Thân như tịnh-nhựt, thân hoá-hiện khắp mười phương. Thân ở tam thế không đổi khác. Thân chẳng phải thân tâm, dường như hư-không chỗ đi vô-ngại, siêu thế-gian-nhãn, chỉ tịnh-nhãn của Phổ-Hiền mới thấy được.
Giảng: Lúc đó, Thiện Tài đồng tử từ giã cô gái Thích Ca Cù Ba rồi, một lòng nghĩ muốn đi đến chỗ Ma Gia phu nhân (thành Ca Tỳ La), tức thời đắc được trí huệ quán cảnh giới Phật. Phàm là hết thảy cảnh giới của Phật, Ngài đều thấu rõ biết được.
Thiện Tài đồng tử bèn nghĩ như vầy: Nếu gần gũi được vị Thiện tri thức nầy, thật là may mắn, Ngài đã xa lìa pháp thế gian. Trụ nơi không chỗ trụ, vượt qua sáu xứ (mắt tai mũi lưỡi thân ý). Lìa khỏi tất cả sự chấp trước, con mắt không chấp vào sắc trần. Tai chẳng chấp vào âm thanh. Mũi chẳng chấp vào hương trần. Lưỡi chẳng chấp vào vị trần. Thân chẳng chấp vào xúc trần. Ý niệm chẳng chấp vàp pháp trần. Lại biết đạo vô ngại, đầy đủ pháp thân thanh tịnh. Dùng nghiệp như huyễn mà thị hiện hoá thân. Dùng trí như huyễn mà quán sát thế gian. Dùng nguyện như huyễn mà giữ gìn thân Phật. Đây là nói Ma Gia phu nhân chứng được môn giải thoát đại nguyện trí huyễn.
Thiện Tài đồng tử thấy mười bảy thứ sắc thân của Ma Gia phu nhân:
1. Thân tuỳ ý sinh: Thứ thân nầy tuỳ ý niệm mà hiện ra.
2. Thân không sinh diệt: Thứ thân nầy chẳng sinh, cũng chẳng diệt.
3. Thân không đến đi: Thứ thân nầy cũng chẳng đến, cũng chẳng đi.
4. Thân chẳng hư thật: Thứ thân nầy chẳng phải hư, chẳng phải thật.
5. Thân chẳng biến hoại: Thứ thân nầy chẳng biến hoại sắc thân, chẳng biến hoại pháp tánh.
6. Thân không khởi tận: Thứ thân nầy chẳng có bắt đầu, chẳng có kết thúc.
7. Thân hết thảy tướng đều một tướng: Thứ thân nầy một tướng sắc thân, vô tướng làm tướng.
8. Thân lìa hai bên: Thứ thân nầy lìa khỏi có, không.
9. Thân không y xứ: Thứ thân nầy không chỗ ỷ lại, không chỗ chấp trước.
10. Thân vô cùng tận: Sắc thân vô tận, tận bờ mé sinh tử của tất cả chúng sinh.
11. Thân lìa các phân biệt như ảnh hiện: Sắc thân chẳng có phân biệt, tuỳ theo sự phân biệt của chúng sinh mà khởi. Giống như thân hình sắc, tuỳ thuận chúng sinh.
12. Thân biết như mộng: Sắc thân giống như mộng, tuỳ tâm hiện sinh.
13. Thân rõ như tượng: Giống như tấm gương, đối diện tượng sinh.
14. Thân như mặt trời: Giống như mặt trời trong sáng, chiếu khắp tất cả, chẳng có phân biệt.
15. Thân hoá hiện khắp trong mười phương: Sắc thân biến hoá tất cả, tuỳ thuận tâm niệm của tất cả chúng sinh mà hiện tiền.
16. Thân trụ nơi ba đời không biến đổi: Thân vĩnh trụ ba đời không biến hoá.
17. Thân chẳng thân tâm: Thân chẳng phải thân tâm.
Mười bảy thứ thân nầy, như hư không, chỗ đi vô ngại, con mắt vượt các thế gian, chỉ con mắt thanh tịnh của Phổ Hiền mới thấy được Ma Gia phu nhân hiện thân.
Như thị chi nhân, ngã kim vân hà nhi đắc thân cận thừa sự cúng dường, dữ kỳ đồng trụ, quán kỳ trạng mạo, thính kỳ âm thanh, tư kỳ ngữ ngôn, thọ kỳ giáo hối? tác thị niệm dĩ, hữu chủ thành Thần, danh viết: bảo nhãn, quyến thuộc vi nhiễu, ư hư không trung nhi hiện kỳ thân, chủng chủng diệu vật dĩ vi nghiêm sức, thủ trì vô lượng chúng sắc bảo hoa dĩ tán Thiện Tài, tác như thị ngôn:
Hạng người như vậy, tôi làm sao được thân cận để kính thờ cúng-dường, để được cùng ở hầu quán-sát dung mạo, nghe tiếng nói. Suy nghĩ lời dạy và nhận lãnh. Bấy giờ có Chủ-Thành-Thần tên là Bửu-Nhãn, quyến-thuộc vây quanh hiện thân trên không-trung, tay cầm những bửu-hoa nhiều màu rải trên mình Thiện-Tài mà bảo rằng:
Giảng: Thiện Tài đồng tử nghĩ như vậy rồi, bèn có Chủ Thành Thần tên là Bảo Nhãn, có rất đông quyến thuộc vây quanh Ngài tứ phía, Ngài hiện thân ở trong hư không, có đủ thứ báu vật tốt đẹp dùng làm nghiêm sức, tay cầm vô lượng hoa báu nhiều màu, rải lên trên thân Thiện Tài để cúng dường rồi nói:
Thiện tri thức như vậy, nay tôi làm sao mà được gần gũi, hầu hạ, cúng dường? Làm sao ta với thiện tri thức cùng ở với nhau được? Làm sao ta có thể quán tướng mạo của thiện tri thức? Làm sao có thể nghe âm thanh của thiện tri thức? Làm sao suy gẫm lời nói của thiện tri thức? Làm sao có thể thọ nhận lời dạy của thiện tri thức? Đây là ý nghĩa biểu thị khó gặp được thiện tri thức.
Thiện nam tử! ưng thủ hộ tâm thành, vị: bất tham nhất thiết sanh tử cảnh giới;
ưng trang nghiêm tâm thành, vị: chuyên ý thú cầu Như Lai thập lực;
ưng tịnh trì tâm thành, vị: tất cánh đoạn trừ xan tật siểm cuống;
ưng thanh lương tâm thành, vị: tư tánh nhất thiết chư pháp thật tánh;
ưng tăng trưởng tâm thành, vị: thành biện nhất thiết trợ đạo chi Pháp;
Nầy Thiện-nam-tử! Phải giữ-gìn tâm-thành, nghĩa là chẳng tham tất cả cảnh-giới.
Phải trang-nghiêm tâm-thành, nghĩa là chuyên ý xu cầu Phật thập-lực.
Phải tịnh-trị tâm thành, nghĩa là dứt hẳn bỏn-sẻn, ganh ghét, dua bợ, phỉnh dối.
Phải thanh-lương tâm-thành, nghĩa là tư-duy thiệt-tánh của tất cả pháp.
Phải tăng-trưởng tâm thành, nghĩa là làm xong tất cả pháp trợ đạo.
Chủ Thành Thần Bảo Nhãn nói với Thiện Tài đồng tử rằng:
Giảng: Thiện nam tử! Ngươi nên giữ gìn tâm thành, đừng có tham luyến tất cả cảnh giới sinh tử.
Ngươi nên trang nghiêm tâm thành, phải chuyên tâm hướng về cầu mười lực của Phật.
Ngươi nên tịnh trị tâm thành, phải triệt để đoạn trừ tham sẻn, đố kị, xiểm nịnh, gian dối, những hành vi không chánh đáng.
Ngươi nên mát mẻ tâm thành, phải suy gẫm đạo lý thật tánh của tất cả các pháp, đừng có tư tưởng phiền não không thanh tịnh.
Ngươi nên tăng trưởng tâm thành, phải thành biện tất cả pháp trợ đạo.
ưng nghiêm sức tâm thành, vị: tạo lập chư Thiền giải thoát cung điện;
ưng chiếu diệu tâm thành, vị: phổ nhập nhất thiết chư Phật đạo tràng thính thọ Bát-nhã Ba-la-mật Pháp;
ưng tăng ích tâm thành, vị: phổ nhiếp nhất thiết Phật phương tiện đạo;
ưng kiên cố tâm thành, vị: hằng cần tu tập Phổ Hiền hạnh nguyện;
Phải nghiêm-sức tâm-thành, nghĩa là tạo lập cung-điện thiền-định giải-thoát.
Phải chiếu-diệu tâm-thành, nghĩa là vào khắp tất cả Phật đạo-tràng nghe lãnh pháp bát-nhã-ba-la-mật.
Phải tăng-ích tâm-thành, nghĩa là nhiếp khắp tất cả Phật phương-tiện-đạo.
Phải kiên-cố tâm-thành, nghĩa là hằng siêng tu tập hạnh nguyện Phô-Hiền.
Giảng: Ngươi nên nghiêm sức tâm thành, phải tạo lập cung điện các thiền giải thoát.
Ngươi nên chiếu sáng tâm thành, phải vào khắp đạo tràng của tất cả chư Phật, lắng nghe nhiếp thọ pháp Bát Nhã Ba La Mật.
Ngươi nên tăng ích tâm thành, phải khắp nhiếp đạo phương tiện thiện xảo của tất cả chư Phật.
Ngươi nên kiên cố tâm thành, phải luôn thường siêng tu tập hạnh nguyện của Bồ Tát Phổ Hiền.
ưng phòng hộ tâm thành, vị: thường chuyên ngữ hãn ác hữu, ma quân;
ưng khuếch triệt tâm thành, vị: khai dẫn nhất thiết Phật trí quang minh;
ưng thiện bổ tâm thành, vị: thính thọ nhất thiết Phật sở thuyết pháp;
ưng phù trợ tâm thành, vị: thâm tín nhất thiết Phật công đức hải;
Phải phòng-hộ tâm-thành, nghĩa là thường chuyên ngăn ngừa ác-hữu và ma-quân.
Phải rỗng suốt tâm-thành, nghĩa là khai dẫn tất cả ánh sáng phật-trí.
Phải khéo bồi bổ tâm-thành, nghĩa là nghe lãnh tất cả phật-pháp.
Phải phò trợ tâm-thành, nghĩa là thâm-tín tất cả phật-công-đức-hải.
Giảng: Ngươi nên phòng hộ tâm thành, phải thường chuyên tâm ngăn ngừa bạn ác và ma quân xâm lược. Ngươi nên rỗng suốt tâm thành, do đó có câu “Tâm bao thái hư, lượng chu sa giới”. Phải mở dẫn trí huệ quang minh của tất cả chư Phật.
Ngươi nên khéo bồi bổ tâm thành, phải nghe thọ pháp của tất cả chư Phật nói. Mười hai môn nầy nói rõ hạnh mười độ, ý nghĩa hiển rõ đều là pháp môn thành Phật. Tâm thành là gì? Tâm nầy là chỗ ở của chánh giác pháp vương, chỗ tụ hội của vạn đức, thành Phật không ra khỏi tâm nầy, cho nên giữ gìn làm diệu hạnh. Dùng mười độ để tu đến Thập địa.
Ngươi nên phù trợ tâm thành, phải tin sâu biển công đức của tất cả chư Phật, đừng có hoài nghi.
ưng quảng đại tâm thành, vị: đại từ phổ cập nhất thiết thế gian;
ưng thiện phước tâm thành, vị: tập chúng thiện Pháp dĩ phước kỳ thượng;
ưng khoan quảng tâm thành, vị: đại bi ai mẫn nhất thiết chúng sanh;
ưng khai tâm thành môn, vị: tất xả sở hữu tùy ưng cấp thí;
Phải quảng đại tâm-thành, nghĩa là đại-từ đến khắp tất cả thế-gian.
Phải khéo che đậy tâm-thành, nghĩa là tích tập những thiện-pháp để đậy trên tâm.
Phải rộng-rãi tâm-thành, nghiẽa là đại-bi thương xót tất cả chúng-sanh.
Phải mở cửa tâm-thành, nghĩa là đem tất cả sở-hửu tùy nghi bố-thí giúp đỡ.
Giảng: Ngươi nên rộng lớn tâm thành, phải có tâm đại từ khắp cùng tất cả chúng sinh thế gian.
Ngươi nên khéo che tâm thành, phải tích tập các pháp lành dùng che phía trên tâm.
Ngươi nên rộng rãi tâm thành, phải có tâm đại bi thương xót tất cả chúng sinh.
Ngươi nên mở cửa tâm thành, phải bố thí pháp tài, phàm là có người đến cầu xin, nên làm hết khả năng, tuỳ chỗ đáng được bố thí cấp cho họ.
ưng mật hộ tâm thành, vị: phòng chư ác dục bất lệnh đắc nhập;
ưng nghiêm túc tâm thành, vị: trục chư ác Pháp bất lệnh kỳ trụ;
ưng quyết định tâm thành, vị: tập nhất thiết trí trợ đạo chi Pháp hằng vô thoái chuyển;
ưng an lập tâm thành, vị: chánh niệm tam thế nhất thiết Như Lai sở hữu cảnh giới;
Phải giữ kín tâm-thành, nghĩa là phòng những ác-dục chẳng cho vào.
Phải nghiêm-túc tâm-thành, nghĩa là đuổi những pháp ác chẳng cho ở chung.
Phải quyết định tâm-thành, nghĩa là tích tập tất cả pháp trợ-đạo hằng không thối chuyển.
Phải an lập tâm-thành, nghĩa là chánh-niệm cảnh-giới của tam-thế tất cả Như-Lai.
Giảng: Ngươi nên mật hộ tâm thành, phải nghiêm phòng tất cả dục niệm không như pháp, đừng để cho nó vào được trong tâm thành của nhà ngươi.
Ngươi nên nghiêm túc tâm thành, phải đuổi các pháp ác ra ngoài, đừng để nó ở trong tâm thành của nhà ngươi.
Ngươi nên quyết định tâm thành, phải tích tập nhất thiết trí pháp trợ đạo, luôn không thối chuyển tâm bồ đề.
Ngươi nên an lập tâm thành, phải chánh niệm hết thảy cảnh giới của tất cả chư Phật ba đời.
ưng oánh triệt tâm thành, vị: minh đạt nhất thiết Phật chánh Pháp luân tu-đa-la trung sở hữu Pháp môn chủng chủng duyên khởi;
ưng bộ phần tâm thành, vị: phổ hiểu thị nhất thiết chúng sanh giai lệnh đắc kiến Tát bà nhã đạo;
ưng trụ trì tâm thành, vị: phát nhất thiết tam thế Như Lai chư Đại nguyện hải;
ưng phú thật tâm thành, vị: tập nhất thiết chu biến pháp giới Đại phước đức tụ;
Phải sáng bóng tâm-thành, nghĩa là thông suốt tất cả những pháp-môn, những duyên-khởi trong khế-kinh của chư Phật đã tuyên thuyết.
Phải bộ phận tâm-thành, nghĩa là hiểu thị khắp tất cả chúng-sanh cho họ được thấy đạo nhất-thiết-trí.
Phải trụ-trì tâm-thành, nghĩa là phát những đại-nguyện-hải của tất cả tam-thế chư Như-Lai.
Phải phú-quý tâm-thành, nghĩa là chứa nhóm tất cả phước-đức lớn cùng khắp pháp-giới.
Giảng: Ngươi nên sáng bóng tâm thành, phải thấu rõ thông đạt hết thảy pháp môn đủ thứ duyên khởi trong chánh pháp luân Tu Đa La của tất cả chư Phật.
Ngươi nên bộ phận tâm thành, phải bảo khắp cho tất cả chúng sinh biết rõ, đều khiến cho họ được thấy đạo nhất thiết trí. Mười một môn nầy, nói rõ mười thứ thắng hạnh của Thập địa. Một tín, hai từ, ba kiên cố, bốn bi, năm xả, sáu bảy đều tàm quý, nghĩa là không dung ác, tám không mệt mỏi, chín nói là làm, mười biết các kinh luận, mười một tức thành tựu thế trí. Nên có thể bảo khắp cho chúng sinh biết.
Ngươi nên trụ trì tâm thành, phải phát các biển đại nguyện của tất cả chư Phật ba đời.
Ngươi nên phú quý tâm thành, phải tích tập chứa nhóm đại phước đức khắp cùng tất cả pháp giới.
ưng lệnh tâm thành minh liễu, vị: phổ tri chúng sanh căn dục đẳng Pháp;
ưng lệnh tâm thành tự tại, vị: phổ nhiếp nhất thiết thập phương Pháp giới;
ưng lệnh tâm thành thanh tịnh, vị: chánh niệm nhất thiết chư Phật Như Lai;
ứng tri tâm thành tự tánh, vị: tri nhất thiết pháp giai vô hữu tánh;
ứng tri tâm thành như huyễn, vị: dĩ nhất thiết trí liễu chư pháp tánh.
Phải làm cho tâm-thành sáng rõ, nghĩa là biết khắp những pháp căn dục của chúng-sanh.
Phải làm cho tâm-thành tự-tại, nghĩa là nhiếp khắp tất cả thập phương pháp-giới.
Phải làm cho tâm-thành thanh-tịnh, nghĩa là chánh-niệm tất cả chư Phật Như-Lai.
Phải biết tự-tánh của tâm-thành, nghĩa là biết tất cả pháp đều không tự-tánh.
Phải biết tâm-thành như huyễn, nghĩa là dùng nhất-thiết-trí biết rõ những pháp-tánh.
Giảng: Ngươi nên khiến cho tâm thành thấu rõ, phải khắp biết pháp căn tánh và dục niệm của tất cả chúng sinh.
Ngươi nên khiến cho tâm thành tự tại, phải khắp nhiếp tất cả chúng sinh mười phương pháp giới. Ngươi nên khiến cho tâm thành thanh tịnh, phải chánh niệm tất cả chư Phật Như Lai. Ngươi nên biết tự tánh tâm thành, phải biết tất cả pháp đều không có tự tánh.
Ngươi nên biết tâm thành như huyễn, phải dùng nhất thiết trí huệ thấu rõ tự tánh các pháp.
Bảy môn nầy là rõ phước trí viên mãn. Hai môn đầu tiên là phước, năm môn sau là trí. Ba môn trước của trí là quyền, hai môn sau là thật.
Chúng ta nghe xong ba mươi ba pháp tâm thành nầy, có cảm tưởng gì không? Nghe Kinh phải y theo pháp tu hành, cung hành thực tiễn, mới đắc được lợi ích của pháp. Nếu nghe rồi, mà như gió thoảng qua tai, chẳng thực hành, thì chẳng có lợi ích gì hết. Do đó có câu: “Nói hay, nói giỏi, mà chẳng thực hành, thì chẳng phải là đạo”. Đây là nói về kinh nghiệm, có thể nói là lời vàng ngọc.
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát nhược năng như thị tịnh tu tâm thành, tức năng tích tập nhất thiết thiện pháp.
Nầy Thiện-nam-tử! Ðại Bồ-Tát nếu có thể tịnh tu tâm-thành như vậy thời có thể tích tập tất cả thiện-pháp.
Giảng: Chủ Thành Thần Bảo Nhãn nói: Phật tử! Nếu đại Bồ Tát thanh tịnh tu hành tâm thành như vậy, thì sẽ tích tập được tất cả pháp lành.
Hà dĩ cố? quyên trừ nhất thiết chư chướng nan cố, sở vị: kiến Phật chướng, văn Pháp chướng, cúng dường Như Lai chướng, nhiếp chư chúng sanh chướng, tịnh Phật quốc độ chướng.
Tại sao vậy? Vì trừ bỏ tất cả những chướng nạn: những là chướng thấy Phật, chướng nghe pháp, chướng cúng-dường Như-Lai, chướng nhiếp chúng-sanh, chướng tịnh phật-độ.
Giảng: Tại sao vậy? Vì trừ bỏ được tất cả các chướng nạn. Đó là: Trừ bỏ chướng nạn thấy Phật, chướng nạn nghe pháp, chướng nạn cúng dường chư Phật, chướng nạn nhiếp thọ các chúng sinh, chướng nạn thanh tịnh cõi nước chư Phật.
Thiện nam tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát dĩ ly như thị chư chướng nan cố, nhược phát hy cầu thiện tri thức tâm, bất dụng công lực tức tiện đắc kiến, nãi chí cứu cánh tất đương thành Phật.
Nầy Thiện-nam-tử! Ðại Bồ-Tát do lìa những chướng nạn như vậy, nếu phát tâm mong cầu thiện-tri-thức, chẳng cần dùng công-lực, bèn được thấy. Nhẫn đến rốt ráo tất sẽ thành Phật.
Giảng: Thiện nam tử! Đại Bồ Tát nhờ lìa tất cả các chướng nạn như vậy, nếu phát tâm cầu thiện tri thức, thì chẳng phí dụng công sức quá nhiều, liền sẽ thấy đượcthiện tri thức, cho đến rốt ráo chắc chắn sẽ thành Phật.
Nhĩ thời, hữu thân chúng Thần, danh: liên hoa Pháp đức cập hương khí quang minh, vô lượng chư Thần tiền hậu vi nhiễu, tùng đạo tràng xuất, trụ hư không trung, ư Thiện Tài tiền, dĩ diệu âm thanh, chủng chủng xưng thán Ma Da Phu nhân, tùng kỳ nhĩ đang phóng vô lượng sắc tướng quang minh võng, phổ chiếu vô biên chư Phật thế giới, lệnh Thiện Tài kiến thập phương quốc độ nhất thiết chư Phật. kỳ quang minh võng, hữu nhiễu thế gian, Kinh nhất tạp dĩ, nhiên hậu hoàn lai, nhập Thiện Tài đảnh, nãi chí biến nhập thân chư mao khổng.
Bấy giờ có Thân-Chúng-Thần tên là Liên-Hoa-Pháp-Ðức và Diệu-Hoa-Quang-Minh, vô-lượng chư thần vây quanh sau trước, ra khỏi đạo-tràng dừng ở không-trung trước mặt Thiện-Tài dùng diệu-âm-thanh ca ngợi. Ma-Gia phu-nhơn, từ bông tai phóng lưới quang-minh vô-lượng sắc tướng chiếu khắp vô-biên thế-giới mười phương, cho Thiện-Tài thấy tất cả chư Phật. Lưới quang-minh đó hữu nhiễu thế-gian giáp một vòng rồi xoay về chiếu đỉnh đầu Thiện-Tài và vào khắp lỗ lông trên thân Thiện-Tài.
Giảng: Lúc bấy giờ, có Thân Chúng Thần tên là Liên Hoa Pháp Đức và Diệu Hoa Quang Minh, có vô lượng các Thần vây quanh trước sau, ra khỏi đạo tràng, trụ ở trong hư không, ở trước mặt Thiện Tài đồng tử, dùng âm thanh vi diệu, tán thán khen ngợi Ma Gia phu nhân. Từ bông tai của Ma Gia phu nhân, phóng ra vô lượng lưới quang minh sắc tướng, chiếu khắp mười phương vô biên thế giới chư Phật, khiến cho Thiện Tài đồng tử thấy được tất cả chư Phật trong mười phương cõi nước. Lưới quang minh đó, nhiễu bên phải thế gian một vòng, rồi sau đó trở về nhập vào đỉnh đầu của Thiện Tài, cho đến vào khắp các lỗ chân lông trên thân của Thiện Tài đồng tử. Cảnh giới nầy, khiến cho Thiện Tài đồng tử đắc được mười thứ pháp ích của mắt.
Thiện Tài tức đắc Tịnh Quang minh nhãn, vĩnh ly nhất thiết ngu si ám cố; đắc ly ế nhãn, năng liễu nhất thiết chúng sanh tánh cố; đắc ly cấu nhãn, năng quán nhất thiết pháp tánh môn cố; đắc tịnh Tuệ-nhãn, năng quán nhất thiết Phật quốc tánh cố; đắc Tỳ Lô Giá Na nhãn, kiến Phật Pháp thân cố; đắc phổ quang minh nhãn, kiến Phật bình đẳng bất tư nghị thân cố; đắc vô ngại quang nhãn, quan sát nhất thiết sát hải thành hoại cố; đắc phổ chiếu nhãn, kiến thập phương Phật khởi đại phương tiện chuyển chánh Pháp luân cố; đắc phổ cảnh giới nhãn, kiến vô lượng Phật dĩ tự tại lực điều phục chúng sanh cố; đắc phổ kiến nhãn, đổ nhất thiết sát chư Phật xuất hưng cố.
Liền đó Thiện-Tài chứng được tịnh-quang-minh-nhãn, vì lìa hẳn tất cả tối ngu-si. Ðược ly-ế-nhãn, vì có thể rõ tánh của tất cả chúng-sanh. Ðược ly-cấu-nhãn, vì có thể quán tất cả môn pháp-tánh. Ðược tịnh-huệ-nhãn, vì có thể quán tánh tất cả phật-độ. Ðược tỳ-lô-giá-na-nhãn, vì thấy pháp-thân-phật. Ðược phổ-quang-minh-nhãn, vì thấy thân phật bình-đẳng bất-tư-nghì. Ðược vô-ngại-quang-nhãn, vì quán-sát tất cả sát-hải thành hoại. Ðược phổ-chiếu-nhãn, vì thấy thập phương Phật khởi đại phương-tiện chuyển chánh-pháp-luân. Ðược phổ-cảnh-giới nhãn, vì thấy vô-lượng Phật dùng sức tự-tại điều-phục chúng-sanh. Ðược phổ-kiến-nhãn, vì thấy tất cả cõi chư Phật xuất thế.
Giảng: Lúc đó, Thiện Tài đồng tử lập tức đắc được mười mắt:
1. Đắc được mắt quang minh thanh tịnh, nên vĩnh viễn lìa tất cả đen tối ngu si.
2. Lìa được màn mắt, nên thấu rõ được tự tánh của tất cả chúng sinh.
3. Lìa được mắt dơ bẩn, nên quán sát được tất cả môn pháp tánh.
4. Đắc được mắt huệ thanh tịnh, nên quán sát được tự tánh tất cả cõi nước chư Phật.
5. Đắc được mắt Tỳ Lô Giá Na, nên thấy được pháp thân của tất cả chư Phật.
6. Đắc được mắt phổ quang minh, nên thấy được pháp thân Phật bình đẳng không nghĩ bàn.
7. Đắc được mắt quang minh vô ngại, nên quán sát được quá trình thành trụ hoại không bốn trung kiếp tất cả biển cõi.
8. Đắc được mắt chiếu khắp, nên thấy được được mười phương chư Phật, dùng đại phương tiện, đại biện tài, đại trí huệ, đại thần thông, chuyển bánh xe chánh pháp.
9. Đắc được mắt khắp pháp giới, nên thấy được vô lượng chư Phật, dùng sức tự tại để điều phục tất cả chúng sinh.
10. Đắc được mắt thấy khắp, nên thấy được tất cả cõi có tất cả chư Phật xuất hiện ra đời.
Tại sao chúng ta chẳng thấy được Phật? Vì nghiệp chướng sâu nặng, bị nghiệp chướng che đậy, cho nên chẳng thấy được Phật, chẳng nghe pháp, chẳng gặp Tăng. Nghiệp chướng cản trở chướng ngại bạn không thể gần gũi được Tam Bảo, không thể phụng sự Tam Bảo, không thể cúng dường Tam Bảo. Vốn muốn ở trong đạo tràng tinh tấn tu hành, nhưng có sự chướng ngại, không thể thu phục được vọng niệm tâm viên ý mã. Lúc nào cũng cứ nghĩ hay là hoàn tục, trở lại đời sống thế tục, vừa hưởng thụ, vừa khoái lạc. Lại đi vào nhà lửa ba cõi, thọ các khổ thiêu đốt. Đây là lối nghĩ hồ đồ, chỉ bất quá khoái lạc nhứt thời, mà mất đi khoái lạc vĩnh cửu.
Chẳng phải chư Phật không cho bạn thấy được các Ngài, mà là do nghiệp chướng của bạn che đậy. Bạn muốn thấy Phật chăng? Thì phải tiêu trừ nghiệp chướng. Tiêu trừ như thế nào? Trước hết, phải phát tâm bồ đề, phải nghe Kinh, nghe pháp, phải tham thiền trì giới, phải cứu giúp chúng sinh khốn khổ, phải trợ giúp đạo tràng làm việc. Tóm lại, phải hi sinh vì Phật giáo, không cầu danh, không cầu lợi, không có bất cứ xí đồ gì, tức là phát tâm bồ đề.
Thời, hữu thủ hộ Bồ Tát pháp đường La-sát quỷ Vương, danh viết: thiện nhãn, dữ kỳ quyến thuộc vạn La-sát câu, ư hư không trung, dĩ chúng hương khí, tán Thiện Tài thượng, tác như thị ngôn:
Bấy giờ có La-Sát Quỷ-Vương thủ hộ pháp-đường của Bồ-Tát, tên là Thiện-Nhãn, cùng quyến thuộc một vạn La-Sát câu hội, ở không trung dùng những hoa đẹp rải trên mình Thiện-Tài mà nói rằng:
Giảng: Lúc đó, có vị La Sát Quỷ Vương thủ hộ Bồ Tát pháp đường, tên là Thiện Nhãn, cùng với quyến thuộc một vạn La Sát cùng tụ hội. Ở trong hư không, dùng các thứ hoa đẹp, rải lên trên đầu Thiện Tài đồng tử, biểu thị sự cúng dường, rồi nói như vầy:
Thiện nam tử! Bồ Tát thành tựu thập pháp, tức đắc thân cận chư thiện tri thức. Hà đẳng vi thập?
Nầy Thiện-nam-tử! Bồ-Tát thành tựu mười pháp thời được thân cận chư thiện-trí-thức.Ðây là mười pháp:
Giảng: Thiện nam tử! Bồ Tát thành tựu mười pháp nầy, thì sẽ được gần gũi các thiện tri thức. Những gì là mười pháp?
Sở vị: kỳ tâm thanh tịnh ly chư siểm cuống;
Đại bi bình đẳng phổ nhiếp chúng sanh, tri chư chúng sanh vô hữu chân thật;
Thú nhất thiết trí, tâm Bất-thoái-chuyển;
Dĩ tín giải lực phổ nhập nhất thiết chư Phật đạo tràng;
Đắc tịnh Tuệ-nhãn liễu chư pháp tánh;
Đó là: Tâm thanh-tịnh rời những dua bợ phỉnh dối.
Ðại-bi bình-đẳng nhiếp khắp chúng-sanh, biết các chúng-sanh không có thiệt.
Xu hướng nhất-thiết-trí tâm không thối chuyển.
Dùng sức tín-giải vào khắp tất cả phật đạo tràng.
Ðược tịnh-huệ-nhãn rõ các pháp tánh.
Giảng: Đó là:
1. Tâm rất thanh tịnh, lìa khỏi các hành vi xiểm nịnh và gian dối.
2. Dùng tâm đại bi bình đẳng, để nhiếp khắp tất cả chúng sinh.
3. Biết tất cả chúng sinh, không có chân thật, tất cả đều là hư vọng, cho dù giáo hoá chúng sinh, cũng chẳng phải chân thật. Bất quá, tuy ở trong hư vọng, nhưng nếu làm một cách chân thật, thì cũng là chân thật.
4. Hướng về nhất thiết trí, bất cứ lúc nào, cũng không thối chuyển bồ đề tâm.
5. Dùng sức tin hiểu, vào khắp đạo tràng tất cả chư Phật.
Đại từ bình đẳng phổ phước chúng sanh;
Dĩ trí quang minh khuếch chư vọng cảnh;
Dĩ cam lồ vũ địch sanh tử nhiệt;
Dĩ quảng đại nhãn triệt giám chư Pháp;
Tâm thường tùy thuận chư thiện tri thức.
Ðại-từ bình-đẳng che chở khắp chúng-sanh.
Dùng trí quang-minh chiếu rỗng những vọng cảnh.
Dùng mưa cam-lộ xối sanh tử nóng.
Dùng mắt quảng đại soi suốt các pháp.
Tâm thường tùy thuận chư thiện-tri-thức.
Giảng: 6. Đắc được mắt trí huệ thanh tịnh, thấu rõ tự tánh tất cả các pháp.
7. Dùng tâm đại từ bình đẳng, để che khắp tất cả chúng sinh.
8. Dùng trí huệ quang minh, chiếu thấu tất cả những cảnh giới vọng.
9. Dùng mưa pháp cam lồ, rưới tắt nóng sinh tử.
10. Dùng mắt huệ rộng lớn, soi suốt thật tướng tất cả các pháp.
Tâm thường tuỳ thuận sự giáo hoá của tất cả các thiện tri thức, tức cũng là phải nghe lời dạy của thiện tri thức, không thể trái nghịch ý của thiện tri thức.
Thị vi thập.
Đó là mười
Chúng ta tu đạo, nhất định phải đi các nơi học hỏi với các vị thiện tri thức. Nếu không đi học hỏi, thì giống như tượng Phật chưa có khai quang, giống như người mù. Khi gần gũi thiện tri thức, nhất định phải tuỳ thuận thiện tri thức. Nếu không tuỳ thuận thiện tri thức, tức là thấy có cái ta, như vậy, thì dù thiện tri thức có lòng tốt giảng giải chân lý như thế nào, bạn cũng đều không nghe. Nếu cái ta và cái thấy của ta không bỏ được, thì làm sao có thể gần gũi thiện tri thức? Dù miễn cưỡng gần gũi, thì cũng giống như chẳng gần gũi. Dù hằng ngày đối diện với thiện tri thức, mà chẳng tuỳ thuận sự giáo hoá của thiện tri thức, thì giống như cách xa thiện tri thức mười vạn tám ngàn dặm. Nếu bạn hay tuỳ thuận sự giáo hoá của thiện tri thức, thì sẽ phá trừ được sự tham sẻn, đố kị, kiêu ngạo, xiểm nịnh, vô minh, phiền não, nói dối .v.v… đủ thứ hành vi không tốt của chính mình. Nếu như chân tâm thành ý nghe thọ sự giáo hoá của thiện tri thức, thì đó mới là thật sự là gần gũi thiện tri thức.
Mười pháp vừa nói ở trên, là mười pháp Bồ Tát thành tựu. Nếu thực hành mười pháp nầy, thì sẽ thường được gần gũi thiện tri thức. Nếu không thực hành mười pháp nầy, thì tuy đối diện với thiện tri thức, cũng giống như chẳng gặp được thiện tri thức, do đó có câu: “Đối diện bất thức Quán Thế Âm”, nghĩa là : “Gặp mà chẳng nhận ra Bồ Tát Quán Thế Âm.
Phục thứ, Phật tử! Bồ Tát thành tựu thập chủng tam muội môn, tức thường hiện kiến chư thiện tri thức. Hà đẳng vi thập?
Lại nầy Thiện-nam-tử! Bồ-Tát thành-tựu mười môn tam-muội thời thường hiện thấy chư thiện-tri-thức. Ðây là mười môn tam-muội:
Giảng: Lại nữa Phật tử! Bồ Tát thành tựu mười thứ pháp môn tam muội, thì sẽ thường thấy các thiện tri thức trong đời hiện tại. Những gì là mười môn tam muội?
Sở vị: pháp không thanh tịnh luân tam muội,
Quan sát thập phương hải tam muội,
Ư nhất thiết cảnh giới bất xả ly bất khuyết giảm tam muội,
Phổ kiến nhất thiết Phật xuất hưng tam muội,
Tập nhất thiết công đức tạng tam muội,
Đó là: Thanh-tịnh luân pháp-không tam-muội.
Quán-sát thập phương hải tam muội.
Nơi tất cả cảnh-giới chẳng rời bỏ chẳng tổn giảm tam-muội.
Thấy khắp tất cả Phật xuất thế tam-muội.
Nhóm tất cả tạng công-đức tam-muội.
Giảng: Đó là:
. Tam muội pháp không thanh tịnh luân. Tất cả pháp đều không, chẳng có mọi sự chấp trước.
2. Tam muội quán sát biển mười phương. Ở trong định quán sát được cảnh giới biển mười phương thế giới.
3. Tam muội nơi tất cả cảnh giới không xả lìa không khuyết giảm. Đối với tất cả cảnh giới, phải có định lực chân chánh, cũng không xả lìa, cũng không khuyết giảm, không bị cảnh giới chuyển, do đó có câu:
“Người chuyển được cảnh giới
Cảnh giới chẳng chuyển được người”.
Khi đến được trình độ cảnh giới nầy, thì như như bất động, rõ ràng sáng suốt.
4. Tam muội thấy khắp tất cả Phật xuất hiện ra đời. Chứng được tam muội nầy, lúc nào cũng thấy khắp mười phương chư Phật xuất hiện ra đời, hoằng dương Phật pháp, giáo hoá chúng sinh.
5. Tam muội tích tập tất cả công đức tạng. Chứng được tam muội nầy, thì sẽ dạy bạn không làm các điều ác, làm các điều lành. Lúc nào cũng hồi quang phản chiếu, trở về cầu nơi chính mình. Không giống như máy chụp hình, chỉ biết chụp người ta, mà không thể chụp chính mình. Điểm nầy phải đặc biệt chú ý! Rất là quan trọng!
Tâm hằng bất xả thiện tri thức tam muội,
Thường kiến nhất thiết thiện tri thức sanh chư Phật công đức tam muội,
Thường bất ly nhất thiết thiện tri thức tam muội
Thường cúng dường nhất thiết thiện tri thức tam muội
Thường ư nhất thiết thiện tri thức sở vô quá thất tam muội.
Tâm hằng chẳng bỏ thiện-tri-thức tam-muội.
Thường thấy tất cả thiện-tri-thức sanh phật công-đức tam-muội.
Thường chẳng rời tất cả thiện-tri-thức tam-muội.
Thường cúng-dường tất cả thiện-tri-thức tam-muội.
Thường không lỗi lầm ở chỗ tất cả thiện-tri-thức tam-muội.
Giảng: 6. Tam muội tâm luôn không bỏ thiện tri thức.
Thiện Tài đồng tử mỗi lần gặp được một vị thiện tri thức, đều hoan hỉ nhảy nhót vui mừng. Khi từ biệt thì vẫn lưu luyến không xả, có lúc mắt không tạm rời, từ từ lui ra mà đi. Chúng ta nghe xong Kinh Hoa Nghiêm rồi, cũng nên tay múa chân nhảy, biểu thị sự cao hứng. Cho nên người tu đạo, đừng xả lìa thiện tri thức, vì thiện tri thức hay chỉ bày con đường chánh pháp, khiến cho chúng ta tinh tấn tiến về trước, thẳng đến Niết Bàn bờ bên kia, mà chẳng đi lầm đường lạc lối, chẳng lãng phí thời gian. Không có sự tu mù luyện đui, đi lầm vào đường tà.
7. Tam muội thường thấy tất cả thiện tri thức sinh công đức chư Phật. Thiện tri thức dạy bạn cải ác hướng thiện, tội diệt phước sanh, bạn sẽ sinh ra mầm bồ đề. Thường gặp thiện tri thức, sẽ sinh ra công đức của tất cả chư Phật.
8. Tam muội thường chẳng lìa tất cả thiện tri thức. Lúc nào cũng muốn gần gũi thiện tri thức, không xả lìa thiện tri thức. Thiện tri thức là đạo sư của chúng ta, nếu không minh bạch sự lý, thì thưa hỏi thiện tri thức, nhất định sẽ được câu trả lời viên mãn.
9. Tam muội thường cúng dường tất cả thiện tri thức. Người tu tập Phật pháp, nhất định phải thường cúng dường thiện tri thức, chẳng phải một vị thiện tri thức, mà là tất cả thiện tri thức.
10. Tam muội thường ở chỗ tất cả thiện tri thức không có lỗi lầm. Ở chỗ thiện tri thức, phải giữ quy cụ, không thể muốn làm gì thì làm. Nếu tạo ra những sự phiền não, thì sẽ có lỗi lầm. Chúng ta vì cầu pháp mà đến gần gũi thiện tri thức, nếu không giữ quy cụ, thì đến để làm gì?
Phật tử! Bồ Tát thành tựu thử thập tam muội môn, thường đắc thân cận chư thiện tri thức, hựu đắc thiện tri thức chuyển nhất thiết Phật Pháp luân tam muội; đắc thử tam muội dĩ, tất tri chư Phật thể tánh bình đẳng, xứ xứ trực ngộ chư thiện tri thức.
Nầy Thiện-nam-tử! Bồ-Tát thành tựu mười môn tam-muội nầy thời thường được thân cận chư thiện-tri-thức. Lại được môn tam-muội thiện-tri-thức chuyển tất cả phật-pháp-luân. Ðược môn tam-muội nầy rồi thời đều biết chư Phật thể tánh bình-đẳng, gặp thiện-tri-thức mọi nơi.
Giảng: Phật tử! Bồ Tát thành tựu mười môn tam muội nầy, thường được gần gũi các thiện tri thức. Lại được thiện tri thức chuyển tất cả Phật pháp luân tam muội. Tức là giảng Kinh thuyết pháp, khai đạo trí huệ cho bạn, dạy bạn nghiên cứu Kinh điển, học tập giới luật, lạy Phật như thế nào, lễ sám như thế nào, tụng Chú như thế nào, ngồi thiền như thế nào, chỉ ra chỗ sai của bạn. Bạn đắc được tam muội nầy rồi, đều biết thể tánh của chư Phật là bình đẳng, do đó có câu: “Pháp thì bình đẳng, chẳng có cao thấp”. Bạn đi đến các nơi đều gặp được các thiện tri thức. Vì bạn đã trồng xuống căn lành nầy, cho nên có nhân duyên nầy.
Hằng ngày chúng ta nghe Kinh Hoa Nghiêm ở đây, nếu không y chiếu đạo lý Kinh văn mà thực hành, thì cũng giống như không nghe. Dù nghe được một câu Kinh, hoặc một bài kệ, mà có thể y pháp tu hành, thì được pháp ích, cũng giống như hằng ngày nghe Kinh. Do đó, nghe mà chẳng hành, giống như không nghe, còn cách xa đạo một đoạn đường dài.
Bộ Kinh Hoa Nghiêm Đại Phương Quảng Phật nầy, là Kinh Pháp Giới, do đó có câu:
“Vô bất tùng thử pháp giới lưu
Vô bất hoàn quy thử pháp giới”.
Nghĩa là:
Tất cả đều từ pháp giới nầy mà ra
Hết thảy đều trở về pháp giới nầy.
Cũng có thể nói là Kinh Hư Không. Tại sao phải nói như vậy? Vì tận hư không khắp pháp giới, chẳng có một nơi nào chẳng phải là chỗ Kinh Hoa Nghiêm ở đó. Kinh Hoa Nghiêm ở tại chỗ nào, thì Phật ở tại chỗ đó, pháp ở tại chỗ đó, hiền Thánh Tăng ở tại chỗ đó. Cho nên, lúc ban đầu khi đức Phật Thích Ca thành đạo dưới cội bồ đề, trước hết nói Kinh Hoa Nghiêm, vì tất cả pháp thân Đại Sĩ mà nói, chẳng phải vì người nhị thừa nói. Người nhị thừa, “Có mắt chẳng thấy Lô Xá Na, có tai chẳng nghe giáo viên đốn”. Tại sao có hiện tượng nầy? Vì tâm lượng của người nhị thừa quá hẹp hòi, không thể tiếp thọ pháp môn rộng lớn vô thượng xả mình vì người nầy.
Bộ Kinh nầy còn gọi là Kinh Không Thể Nghĩ Bàn, vì cảnh giới diệu không thể tả, chẳng phải cảnh giới tâm của một số người nghĩ bàn được. Sau khi Phật vào Niết Bàn rồi, tôn giả Đại Ca Diếp, tôn giả A Nan, tôn giả Ưu Ba Ly, cả thảy năm trăm người, ở trong động Thất Diệp núi Linh Thứu kết tập Kinh điển tiểu thừa. Bồ Tát Văn Thù, Bồ Tát Di Lặc, và tôn giả A Nan, cùng với các đại Bồ Tát ở trong núi Thiết Vi kết tập Kinh điển đại thừa. Kinh nầy kết tập rồi, vì nhân duyên lưu thông chưa thành thục, nên để ở tại thư viện dưới Long cung, để cho Long Vương giữ gìn bộ Kinh nầy. Phật diệt độ bảy trăm năm sau, Bồ Tát Long Thọ (Tây Thiên tổ thứ mười bốn) đến Long cung đọc tụng bộ Kinh nầy, thời gian ba ngày thì thuộc lòng nhớ hết bộ Kinh nầy (có mười vạn bài kệ), trở về nhân gian, viết ra hết không sót một chữ nào, trở thành bộ Kinh Không Thể Nghĩ Bàn, từ đó lưu thông trên thế gian.
Hôm nay chúng ta gặp được bộ Kinh Hoa Nghiêm nầy, nghe được bộ Kinh Hoa Nghiêm nầy, nên cảm kích ân điển của Bồ Tát Long Thọ. Ngài còn tả Bất Khả Tư Nghì Kinh Luận, cũng có mười vạn bài kệ, đáng tiếc đã thất truyền, nếu còn lưu truyền thì chúng ta thọ nhận được lợi ích càng thâm sâu hơn.
Bộ Kinh Hoa Nghiêm nầy, như vầng mây cát tường ở trong hư không, chiếu khắp ba ngàn đại thiên thế giới, mưa xuống pháp vũ cam lồ, thấm nhuần khắp ruộng tâm của tất cả chúng sinh, khiến cho căn lành tăng trưởng. Bộ Kinh nầy, giống như mặt trời, chiếu khắp thế gian, khiến cho tất cả chúng sinh được ấm áp, được ánh sáng. Bộ Kinh nầy như đại địa, sinh trưởng tất cả vạn vật, sum sê tươi tốt. Cho nên nói Kinh Hoa Nghiêm còn tồn tại, thì chánh pháp sẽ trụ thế lâu dài.
Chúng ta mỗi ngày nghiên cứu Kinh Hoa Nghiêm, tức là y trị tập khí mao bệnh của chúng ta. Nếu có tâm tham, nghe Kinh Hoa Nghiêm thì nên trừ khử tâm tham. Nếu có tâm sân, nghe Kinh Hoa Nghiêm, thì nên trừ khử tâm sân. Nếu có tâm si, nghe Kinh Hoa Nghiêm thì nên trừ khử tâm si. Ba độc tiêu diệt, thì tâm thanh tịnh, vọng tâm không hiện, chân tâm hiện tiền. Lúc đó, sẽ đắc được tự tại, chứng được giải thoát.
Bộ Kinh nầy, chẳng phải chỉ riêng vì Bồ Tát nói, mà cũng vì bạn, tôi và họ mà nói. Đừng cho rằng bộ Kinh nầy, chẳng có quan hệ gì với chúng ta, Bồ Tát là Thánh nhân, mới minh bạch cảnh giới nầy. Chúng ta phàm phu, bất quá chỉ nghe mà thôi, vốn chẳng làm tới được cảnh giới của bậc Thánh nhân. Nếu có lối nghĩ như thế, thì tự mình phế bỏ, tự mình đoạn tuyệt con đường của bậc Thánh nhân.
Kinh Hoa Nghiêm từ bắt đầu cho đến hiện tại, mỗi câu Kinh văn, đều là pháp bảo vô thượng. Nếu chúng ta cung hành thực tiễn, y chiếu nghĩa Kinh tu hành, thì nhất định sẽ thành Phật. Kinh Hoa Nghiêm là mẹ của chư Phật, Kinh Hoa Nghiêm là pháp thân của chư Phật. Đức Phật tán thán Kinh Kim Cang rằng:
“Phàm là Kinh điển ở chỗ nào, thì có Phật ở chỗ đó”.
Có thể nói: “Kinh Hoa Nghiêm ở chỗ nào, thì có Phật ở chỗ đó”.
Vì chúng ta nghiệp chướng quá nặng, nên thấy Phật mà chẳng nhận ra. Do đó có câu: “Trước mắt chẳng biết Bồ Tát Quán Thế Âm”. Các vị hãy nhìn xem! Ngàn tay ngàn mắt của Bồ Tát Quán Thế Âm, thường phóng đại quang minh vô ngại, chiếu khắp chúng sinh hữu duyên trong ba ngàn đại thiên thế giới. Chúng ta hằng ngày ở đây lạy Bồ Tát Quán Âm, niệm Bồ Tát Quán Âm, trong Vạn Phật Bảo Điện của Vạn Phật Thánh Thành, mà chẳng thấy Bồ Tát Quán Âm. Tại sao vậy? Vì tâm chẳng kiền thành, ý chẳng kiên cố, chỉ là làm cho có lệ, người ta lạy mình cũng lạy, người ta niệm mình cũng niệm, làm việc phô trương, mà chẳng thành tâm, chuyển theo cảnh giới của người khác, mà trong thân tâm mình chẳng tu hành một cách đàng hoàng.
Chúng ta lạy Bồ Tát Quán Thế Âm, niệm Bồ Tát Quán Thế Âm, phải tự mình phản tỉnh mình, phải chăng mình còn tính nóng giận rất lớn chăng? Phải chăng tật xấu của mình xưa kia chưa sửa được chăng? Nếu có tình hình như vậy, thì dù bạn lạy đến hết kiếp thuở vị lai, niệm đến hết kiếp thuở vị lai, cũng chẳng bao giờ thấy được Bồ Tát Quán Thế Âm. Nếu triệt để cải ác hướng thiện, chân chánh trừ khử tập khí mao bệnh của mình, sửa lỗi làm mới, tẩy sạch vọng tưởng, được như vậy, thì Bồ Tát Quán Thế Âm mới từ quang phổ chiếu, chắc chắn sẽ gia trì cho bạn, khiến cho bạn được mát mẻ, chẳng còn nóng bức. Phải biết rằng, trên thế gian nầy, chẳng có việc gì không mệt nhọc mà được kết quả. Do đó có câu:
“Trồng trọt một phần, thì thu hoạch một phần”.
Thiên hạ không ai làm bánh sẵn, để cho bạn ngồi đó hưởng. Không lạy Phật mà muốn gặp Phật, đó chỉ là vọng tưởng của người ngu si.
Tại sao có người tu hành nhiều năm, mà chẳng khai mở trí huệ? Tại sao có người tu hành chẳng bao lâu, trong sự bất tri bất giác thì khai mở trí huệ, đắc được biện tài vô ngại? Sự khác biệt ở đây là do sự tinh tấn tu hành, dụng công. Dũng mãnh tinh tấn sẽ đắc được trí huệ, giải đãi phóng dật sẽ đắc được sự ngu si. Đạo lý nầy rất là nông cạn, ai ai cũng đều biết, nhưng mọi người chẳng thực hành! Chúng ta thân làm Sa Môn, nhất định phải siêng tu giới định huệ, diệt trừ tham sân si. Mỗi lời nói, cử chỉ, hành động, đều phải như pháp. Thời thời hồi quang phản chiếu, đừng giống như tấm gương phản chiếu, cứ hướng ra ngoài chiếu. Nếu chiếu ngược lại thì mới có sự tiến bộ.
Chúng ta nghe Kinh Hoa Nghiêm, đọc Kinh Hoa Nghiêm, lạy Kinh Hoa Nghiêm, nếu không y chiếu đạo lý nói trong Kinh Hoa Nghiêm đi thực hành, thì Kinh là Kinh, bạn là bạn, tôi là tôi, họ là họ, đều chẳng có liên quan gì với nhau, chẳng hợp mà làm một. Phải nghĩ đem Kinh điển với mình hợp mà làm một, phải làm theo nghĩa nói ở trong Kinh thì mới được. Bằng không, cứ tưởng mơ thì không thể nào hết khát được, bánh vẽ không thể nào no được.
Chỉ nghe Kinh Hoa Nghiêm mà không thực hành diệu pháp của Kinh Hoa Nghiêm, như vậy tâm từ bi không nhiều, tâm hỉ xả không đủ, chỉ có vô minh phiền não chứa nhóm đi theo bạn, không rời nửa bước, ảnh hưởng đến vọng tưởng lăn xăn của bạn, thì tâm không có định lực. Đây là không minh bạch đạo lý của Kinh, cũng chẳng hiểu được yếu quyết nghe Kinh. Nghe Kinh rồi, bất cứ là một câu Kinh văn, hoặc là một bài kệ, đều phải suy gẫm rằng: Ta nên làm như thế nào? Ta có chạy theo tập khí mao bệnh chăng? Hay là y theo nghĩa Kinh tu hành? Luôn luôn hỏi mình như thế, thì nhất định sẽ đắc được lợi ích lớn.
Tại sao chúng ta chẳng đắc được lợi ích lớn? Vì xem Kinh là Kinh, ta với Kinh chẳng có quan hệ gì. Nếu ta với Kinh điển trở thành một khối, hợp mà làm một, thì sẽ đắc được lợi ích của pháp. Kỳ thật, mục đích lúc ban đầu đức Phật nói Kinh Hoa Nghiêm, là vì vị lại chúng sinh, chúng ta và đại chúng hiện tại trong pháp hội Hoa Nghiêm mà nói. Đây chính thân khẩu đức Phật đối với chúng ta nói Kinh điển, chúng ta nghe đến Kinh văn của bộ Kinh nầy, thì giống như chính tai nghe được pháp âm của Phật. Ngài từ bi vì chúng ta mà nói đạo lý Kinh nầy, dạy chúng ta y chiếu theo Kinh điển tu hành.
Bất cứ pháp gì, cũng đều không vượt ra ngoài phạm vi tự tánh của mỗi con người chúng ta. Tự tánh của chúng ta, tận hư không khắp pháp giới, đầy khắp tất cả mọi nơi. Cho nên phải phóng tâm lượng ra cho thật lớn, phải có cảnh giới tâm rộng lớn có thể bao thái hư, lượng rộng lớn khắp cùng sa giới, thì bạn với Kinh Hoa Nghiêm hợp mà làm một. Do đó có câu: “Hai mà chẳng hai”. Ai ai cũng đều muốn dùng cảnh giới vô lượng vô biên của Kinh Hoa Nghiêm, làm cảnh giới của chính mình. Dùng trí huệ vô lượng vô biên của Kinh Hoa Nghiêm, làm trí huệ của chính mình. Bạn xem! Đây thật là rộng lớn biết bao! Do đó có câu: “Rất rộng lớn, rất tinh vi, phóng ra thì di lục hợp, cuộn lại thì thối tàng nơi mật. Cảnh giới nầy, thật là không thể nghĩ bàn!
Thuyết thị ngữ thời, Thiện tài đồng tử ngưỡng thị không trung nhi đáp chi ngôn: Thiện tai thiện tai! nhữ vi ai mẩn nhiếp thọ ngã cố, phương tiện giáo ngã kiến thiện tri thức.
Thiện-Tài ngước nhìn không-trung mà thưa rằng: Lành thay, lành thay! Ngài vì thương xót nhiếp thọ tôi mà phương-tiện dạy cho tôi pháp thấy thiện-tri-thức.
Giảng: Khi La Sát Quỷ Vương Thiện Nhãn nói lời nầy, thì Thiện Tài đồng tử ngửa mặt lên không, tìm nơi phát ra âm thanh. Phát hiện lời nói của La Sát Quỷ Vương, bèn mà đáp rằng: Lành thay! Lành thay! Ngài vì thương xót tôi, nhiếp thọ tôi, mà dùng pháp phương tiện dạy tôi gặp thiện tri thức.
Nguyện vi ngã thuyết: vân hà vãng nghệ thiện tri thức sở? ư hà phương xứ thành ấp tụ lạc cầu thiện tri thức?
Xin ngài vì tôi mà chỉ bảo: thế nào đến chỗ thiện-tri-thức? Tìm thiện-tri-thức ở chỗ nào?
Giảng: Xin Ngài hãy vì tôi mà nói. Tôi làm thế nào đi đến được chỗ của bậc thiện tri thức? Cầu thiện tri thức ở phương xứ thành ấp nào? Làm thế nào tôi được gặp thiện tri thức? Xin Ngài hãy chỉ bày rõ con đường, để cho tôi được gặp thiện tri thức, thấu rõ tâm nguyện của tôi.
La-sát đáp ngôn: Thiện nam tử! nhữ ưng phổ lễ thập phương, cầu thiện tri thức; chánh niệm tư tánh nhất thiết cảnh giới, cầu thiện tri thức; dũng mãnh tự tại biến du thập phương, cầu thiện tri thức; quán thân quán tâm như mộng như ảnh, cầu thiện tri thức.
La-Sát-Vương nói: Nầy Thiện-nam-tử! Ngươi nên đảnh lễ khắp mười phương để cầu thiện-tri-thức. Nên chánh-niệm tư-duy tất cả cảnh-giới để cầu thiện-thi-thức. Nên dũng-mãnh tự-tại du hành khắp mười phương để cầu thiện-tri-thức. Nên quán thân, quán tâm như mộng như ảnh để cẩu thiện-tri-thức.
Giảng: La Sát Quỷ Vương Thiện Nhãn đáp rằng: Thiện nam tử! Ngươi nên lễ khắp mười phương, để cầu thiện tri thức. Ngươi phải chuyên tâm nhất chí chánh niệm suy gẫm tất cả cảnh giới, để cầu thiện tri thức. Ngươi phải dũng mãnh tự tại du khắp mười phương, để cầu thiện tri thức. Ngươi phải quán thân quán tâm, giống như mộng, như hình bóng, để cầu thiện tri thức. Tóm lại, ngươi đừng có sợ khổ, đừng có sợ mệt nhọc, một lòng một dạ, đi cầu thiện tri thức. Tâm thành sẽ có sự cảm ứng, do đó có câu: “Cảm ứng đạo giao”, thì tự nhiên sẽ gặp được thiện tri thức.
Chúng ta nghe Kinh, nghe pháp, nhất định phải thực hành, đừng có nghe xong thì thôi, hoặc nói vài câu khẩu đầu thiền, tự cảm thấy đã đủ, như vậy thì chẳng có lợi ích gì. Do đó có câu:
“Nói hay, nói giỏi, mà chẳng thực hành, thì chẳng phải đạo”.
Nhất định phải y pháp tu hành, thì mới tương ưng với đạo. Nên nhớ! Nên nhớ! Ở đâu cũng đều phải lợi ích người khác, đừng nghĩ chỉ biết lợi ích cho mình, đừng vì lợi mà làm cho mình mờ mắt, thấy lợi thì quên nghĩa, làm ra việc điên đảo không hợp lý. Người xuất gia, nếu giữ giới không cất giữ tiền bạc, thì không có những phiền phức nầy.
Nhĩ thời, Thiện Tài thọ hành kỳ giáo, tức thời đổ kiến Đại bảo liên hoa tùng địa dũng xuất, Kim cương vi hành, diệu bảo vi tạng, ma-ni vi diệp, quang minh bảo vương dĩ vi kỳ đài, chúng bảo sắc hương dĩ vi kỳ tu, vô số bảo võng di phước kỳ thượng. ư kỳ đài thượng, hữu nhất lâu quán, danh: phổ nạp thập phương pháp giới tạng, kì diệu nghiêm sức, Kim cương vi địa, thiên trụ hàng liệt, nhất thiết giai dĩ ma-ni bảo thành, diêm phù đàn kim dĩ vi kỳ bích, chúng bảo anh lạc tứ diện thùy hạ, giai bệ, lan thuẫn châu táp trang nghiêm.
Thiện-Tài y lời làm theo, tức thời thấy đại-bửu-liên-hoa từ đất vọt lên: cộng bằng kim-cang, diệu-bửu làm tạng, mi-ni làm cánh, quang-minh bửu-vương làm đài, hương báu nhiều màu làm tua, vô-số lưới báu giăng che phía trên. Trên đài sen báu ấy có lâu các đẹp lạ tên là Phổ-Nạp-Thập-Phương-Pháp-Giới-Tạng trang-nghiêm. Nền bằng kim-cang, ngàn cột ngay hàng đều bằng ma-ni-bửu. Vách bằng vàng Diêm-Phù-Ðàn. Bốn mặt thòng những chuỗi ngọc. Thềm bực lan-can trang-nghiêm giáp vòng.
Giảng: Lúc đó, Thiện Tài đồng tử tiếp thọ lời dạy của La Sát Quỷ Vương Thiện Nhãn, thực hành giáo pháp của Ngài, lập tức thấy được hoa sen lớn từ dưới đất vọt lên. Hoa sen đó rất thanh tịnh, trang nghiêm vạn phần, cộng bằng kim cang, báu đẹp làm tạng, ma ni làm lá, quang minh bảo vương dùng làm đài, hương báu nhiều màu dùng làm nhuỵ, vô số vô lượng lưới báu che phủ phía trên hoa sen báu lớn đó.
Trên đài hoa có một lầu quán, tên là Phổ nạp thập phương pháp giới tạng, dùng báu đẹp kỳ lạ, để trang nghiêm tô sức, kim cang làm đất, có ngàn cột thẳng hàng, tất cả đều làm bằng ma ni báu, vách bằng vàng Diêm Phù Đàn, các chuỗi báu thòng rũ tứ phía, thềm bực lan can trang nghiêm khắp chung quanh.
Kỳ lâu quán trung, hữu như ý bảo liên hoa chi tọa, chủng chủng chúng bảo dĩ vi nghiêm sức, diệu bảo lan thuẫn, bảo y gian liệt, bảo trướng, bảo võng dĩ phước kỳ thượng, chúng bảo tăng phiên châu táp thùy hạ, vi phong từ động, quang lưu hưởng phát; bảo hoa tràng trung vũ chúng hương khí, bảo linh đạc trung xuất mỹ âm thanh, bảo hộ dũ gian thùy chư anh lạc, ma-ni thân trung lưu xuất hương thủy, bảo tượng khẩu trung xuất liên hoa võng, bảo sư tử khẩu thổ diệu hương vân, phạm hình bảo luân xuất tùy nhạc âm, Kim cương bảo linh xuất chư Bồ-tát đại nguyện chi âm, Bảo nguyệt tràng trung xuất Phật hóa hình, tịnh tạng bảo vương hiện tam thế Phật thọ sanh thứ đệ, nhật tạng ma-ni phóng Đại quang minh biến chiếu thập phương nhất thiết Phật sát, ma-ni bảo vương phóng nhất thiết Phật viên mãn quang minh, Tỳ Lô Giá Na ma-ni bảo vương hưng cúng dường vân cúng dường nhất thiết chư Phật Như Lai, như ý châu Vương niệm niệm thị hiện Phổ Hiền thần biến sung mãn Pháp giới, Tu-Di bảo vương xuất Thiên cung điện, Thiên chư thải nữ chủng chủng Diệu-Âm Ca tán Như Lai bất khả tư nghị vi diệu công đức.
Trong lâu các có tòa như-ý bửu-liên-hoa nghiêm-sức với những châu báu, bửu-lan bửu-y xen lẫn, bửu-trướng bửu-võng che phía trên. Những phan lụa báu thòng rủ bốn phía. Gió nhẹ thổi lay phóng ánh sáng phát âm vang. Trong tràng bửu-hoa tuôn những hoa đẹp. Trong lục-lạc báu phát âm-thanh tốt. Trong cửa báu thòng những chuỗi ngọc. Trong thân ma-ni chảy nước thơm. Trong miệng tượng-bửu xuất hiện lưới liên-hoa. Trong miệng bửu sư-tử thổi mây diệu-hương. Bửu-luân phạm-hình phát tiếng vui dạ-linh, kim-cang-bửu phát tiếng bồ-tát đại-nguyện. Trong tràng bửu-nguyệt xuất hiện hình phật-hóa. Tịnh-tạng bửu-vương hiện tam-thế Phật thứ đệ thọ sanh. Nhựt-tạng ma-ni phóng đại quang-minh chiếu khắp tất cả quốc-độ mười phương. Ma-Ni bửu-vương phóng quang-minh viên-mãn của tất cả chư Phật. Tỳ-Lô-Giá-Na ma-ni bửu-vương nổi mây đồ cúng để dâng hiến tất cả chư Phật Như-Lai. Như-ý châu-vương niệm niệm thị hiện phổ-hiền thần-biến sung-mãn pháp-giới. Tu-di bửu-vương xuất hiện thiên-cung-điện, trong đây chư thiên-nữ dùng diệu âm ca tụng công-đức vi-diệu bất-tư-nghì của đức Như-Lai.
Giảng: Trong lầu quán Phổ nạp thập phương pháp giới tạng đó, có toà hoa sen báu như ý, có đủ thứ các báu dùng làm nghiêm sức. Có lan can báu đẹp, có y báu xen lẫn với nhau trong lầu quán. Có trướng báu và lưới báu, dùng phủ phía trên toà báu. Lại có các phan lụa báu, giăng khắp chung quanh, gió nhẹ thổi động phan báu, toả ra ánh sáng báu khắp tứ phía, vang ra âm thanh vi diệu. Trong tràng hoa báu, mưa xuống các hoa đẹp. Trong lục lạc báu, vang ra âm thanh rất hay. Giữa những cửa báu, thòng xuống các chuỗi ngọc. Trong thân ma ni, chảy ra nước thơm. Trong miệng voi báu, thổi ra lưới hoa sen. Trong miệng sư tử, thổi ra mây diệu hương. Bánh xe báu hình phạm, vang ra tuỳ âm nhạc. Linh kim cang báu, vang ra tiếng đại nguyện của các Bồ Tát. Trong nguyệt tràng báu, hiện ra hình hoá Phật. Tịnh tạng bảo vương, hiện ra ba đời chư Phật thọ sanh thứ tự. Nhựt tạng ma ni, phóng đại quang minh, chiếu khắp mười phương tất cả cõi Phật. Ma ni bảo vương, phóng ra quang minh viên mãn của tất cả chư Phật. Tỳ Lô Giá Na ma ni bảo vương, nổi mây cúng dường, để cúng dường tất cả chư Phật Như Lai. Châu vương như ý, niệm niệm thị hiện thần biến Bồ Tát Phổ Hiền, đầy khắp pháp giới. Tu Di bảo vương, hiện ra cung điện trời, có các thể nữ trên trời, dùng đủ thứ diệu âm, để ca xướng khen ngợi công đức Như Lai vi diệu không thể nghĩ bàn.
Nhĩ thời, Thiện Tài kiến như thị tọa, phục hưũ vô lượng chúng tọa vi nhiễu, Ma Da Phu nhân tại bỉ tọa thượng, ư nhất thiết chúng sanh tiền, hiện tịnh sắc thân.
Xung quanh bửu-tòa nầy lại có vô-lượng bửu-tòa. Ma-Gia Phu-Nhơn hiện tịnh-sắc-thân ngồi trên đại bửu-tòa ấy: những là sắc-thân siêu tam-giới, vì đã thoát tất cả loài hữu-lậu.
Giảng: Lúc đó, Thiện Tài đồng tử thấy toà hoa sen báu trang nghiêm như ý như vậy, chung quanh toà báu, có vô lượng chúng ngồi vây quanh. Thấy Ma Gia phu nhân đang ngồi trên toà báu đó, nhập tam muội sắc thân, thị hiện bốn mươi thứ sắc thân thanh tịnh, ở trước tất cả chúng sinh.
Sở vị: siêu tam giới sắc thân, dĩ xuất nhất thiết chư hữu thú cố;
Tùy tâm lạc sắc thân, ư nhất thiết thế gian vô sở trước cố;
Phổ chu biến sắc thân, đẳng ư nhất thiết chúng sanh số cố;
Vô đẳng bỉ sắc thân, lệnh nhất thiết chúng sanh diệt đảo kiến cố;
Vô lượng chủng sắc thân, tùy chúng sanh tâm chủng chủng hiện cố;
Sắc-thân tùy tâm sở-thích, vì với tất cả thế-gian không chấp trước.
Sắc-thân cùng khắp, vì bằng số tất cả chúng-sanh.
Sắc-thân không gì sánh bằng, vì làm cho tất cả chúng-sanh diệt trừ kiến chấp điên đảo.
Sắc-thân vô-lượng thứ, vì tùy tâm của chúng-sanh mà thị-hiện.
Giảng: Đó là:
1. Hiện sắc thân vượt qua ba cõi. Ma Gia phu nhân tuy thân ở trong ba cõi, nhưng đã vượt khỏi tam giới hai mươi lăm cõi, không thọ sinh tử trong tam giới. Do đó có câu:
“Thân tại trần, tâm xuất trần,
Trong giếng trồng hoa chẳng nhiễm trần”.
2. Hiện sắc thân tuỳ tâm ưa thích, vì nơi tất cả thế gian không chấp trước.
3. Hiện sắc thân khắp cùng, vì sắc thân đồng với số tất cả chúng sinh.
4. Hiện sắc thân không gì bằng, vì khiến cho tất cả chúng sinh diệt trừ cái thấy điên đảo, hiện ra trí huệ chân chánh.
5. Hiện sắc thân vô lượng thứ, vì tuỳ đủ thứ tâm của chúng sinh, mà thị hiện đủ thứ sắc thân.
Vô biên tướng sắc thân, phổ hiện chủng chủng chư hình tướng cố;
Phổ đối hiện sắc thân, dĩ đại tự tại nhi thị hiện cố;
Hóa nhất thiết sắc thân, tùy kỳ sở ưng nhi hiện tiền cố;
Hằng thị hiện sắc thân, tận chúng sanh giới nhi vô tận cố;
Vô khứ sắc thân, ư nhất thiết thú vô sở diệt cố;
Sắc-thân vô-biên tướng, vì hiện khắp những hình tướng.
Sắc-thân đối hiện khắp nơi, vì dùng đại tự-tại để thị-hiện.
Sắc-thân giáo hóa tất cả, vì tùy nghi mà thị-hiện.
Sắc-thân hằng thi-hiện, vì tận chúng-sanh-giới mà vẫn vô-tận.
Sắc-thân vô-khứ, vì nơi tất cả loài vẫn không diệt.
Giảng: 6. Hiện sắc thân vô biên tướng, vì khắp hiện đủ thứ tất cả hình tướng.
7. Hiện sắc thân khắp đối hiện, vì dùng đại tự tại mà thị hiện sắc thân.
8. Hiện sắc thân hoá tất cả, vì tuỳ theo chúng sinh đáng được giáo hoá, mà hiện ra ở trước họ.
9. Thường thường thị hiện sắc thân, dù cõi chúng sinh cùng tận, nhưng sắc thân nầy vẫn không cùng tận.
10. Hiện sắc thân không đi, vì trong tất cả loài không có diệt.
Ma Gia phu nhân nhập vào cảnh giới tam muội sắc thân, có thể hiện đủ thứ tam muội, tức có tức không, tức không tức có, không, có chẳng hai. Lìa khỏi tất cả lời nói, lìa khỏi tất cả nghĩ bàn, cho nên không thể dùng tâm nghĩ, không thể dùng lời bàn luận.
Vô lai sắc thân, ư chư thế gian vô sở xuất cố;
Bất sanh sắc thân, vô sanh khởi cố;
Bất diệt sắc thân, ly ngữ ngôn cố;
Phi thật sắc thân, đắc như thật cố;
Phi hư sắc thân, tùy thế hiện cố;
Sắc-thân vô-lai, vì nơi tất cả thế-gian vẫn không sanh.
Sắc-thân bất-sanh, vì không sanh khởi.
Sắc-thân bất-diệt vì rời ngữ ngôn.
Sắc-thân chẳng phải thiệt, vì được như thiệt.
Sắc-thân chẳng phải hư, vì tùy thế-gian mà hiện.
Giảng: 11. Hiện sắc thân không đến, vì nơi các thế gian, không chỗ sinh.
12. Hiện sắc thân không sinh, vì không sinh khởi, cho nên không có bắt đầu, cũng không có kết thúc.
13. Hiện sắc thân không diệt, vì không sinh, nên không diệt. Lìa khỏi tất cả lời nói thế gian. Do đó có câu: “Miệng muốn nói mà lời đã tan mất, tâm muốn duyên mà suy nghĩ không còn nữa”.
14. Hiện sắc thân chẳng thật, nói nó thật có chăng? Lại chẳng phải thật có, giống tựa như thật có.
15. Hiện sắc thân chẳng hư, nói nó là hư giả chăng? Cũng chẳng phải hư giả, vì nó tuỳ thế gian mà hiện.
Vô động sắc thân, sanh diệt vĩnh ly cố;
Bất hoại sắc thân, pháp tánh bất hoại cố;
Vô tướng sắc thân, ngôn ngữ đạo đoạn cố;
Nhất tướng sắc thân, vô tướng vi tướng cố;
Như tượng sắc thân, tùy tâm ưng hiện cố;
Sắc-thân vô-động, vì lìa hẳn sanh diệt.
Sắc-thân bất hoại, vì pháp-tánh bất hoại.
Sắc-thân vô-tướng, vì dứt đường ngôn ngữ.
Sắc-thân một tướng, vì lấy vô-tướng làm tướng.
Sắc-thân như tượng, vì tùy tâm ứng-hiện.
Giảng: 16. Hiện sắc thân không động, nó là không sinh không diệt, vĩnh viễn lìa sinh tử, cho nên như như bất động, rõ ràng sáng suốt.
17. Hiện sắc thân bất hoại, tức nhiên bất động, thì cũng bất hoại. Pháp tánh vốn có, cũng là bất hoại.
18. Hiện sắc thân vô tướng, vì lời nói đã dứt, tâm hành xứ diệt.
19. Hiện sắc một tướng, vì vô tướng làm tướng, cho nên không có gì mà không có tướng.
20. Hiện sắc thân như tượng, vì tuỳ tâm chúng sinh, ứng chúng sinh cơ, mà thị hiện thân nầy.
Như huyễn sắc thân, huyễn trí sở sanh cố;
Như diễm sắc thân, đãn tưởng sở trì cố;
Như ảnh sắc thân, tùy nguyện hiện sanh cố;
Như mộng sắc thân, tùy tâm nhi hiện cố;
Pháp giới sắc thân, tánh tịnh như không cố;
Sắc-thân như huyễn, vì huyễn-trí sanh ra.
Sắc-thân như diệm, vì chỉ do tưởng mà còn.
Sắc-thân như ảnh, vì tùy nguyện hiện sanh.
Sắc-thân như mộng, vì tùy tâm mà hiện.
Sắc-thân pháp-giới, vì tánh tịnh như hư-không.
Giảng: 21. Hiện sắc thân như huyễn, vì đây là do trí huệ huyễn hoá sinh ra.
22. Hiện sắc thân như diệm, vì giống như dương diệm, chỉ tưởng sở trì.
23. Hiện sắc thân như bóng, vì tuỳ theo nguyện xưa đã phát ra mà hiện sinh.
24. Hiện sắc thân như mộng, vì tuỳ thuận tâm niệm của chúng sinh mà thị hiện.
25. Hiện sắc thân pháp giới, vì tánh thanh tịnh rộng lớn như hư không.
Đại bi sắc thân, thường hộ chúng sanh cố;
Vô ngại sắc thân, niệm niệm chu biến pháp giới cố;
Vô biên sắc thân, phổ tịnh nhất thiết chúng sanh cố;
Vô lượng sắc thân, siêu xuất nhất thiết ngữ ngôn cố;
Vô trụ sắc thân, nguyện độ nhất thiết thế gian cố;
Sắc thân đại-bi, vì thường cứu hộ chúng-sanh.
Sắc-thân vô-ngại, vì niệm niệm cùng khắp pháp-giới.
Sắc-thân vô-biên, vì tịnh khắp tất cả chúng-sanh.
Sắc-thân vô-lượng, vì siêu xuất tất cả ngữ ngôn.
Sắc-thân vô-trụ, vì nguyện độ tất cả thế-gian.
Giảng: 26. Hiện sắc thân đại bi, vì thường hộ trì hết thảy chúng sinh.
27. Hiện sắc thân vô ngại, vì niệm niệm khắp cùng pháp giới.
28. Hiện sắc thân vô biên, vì khắp thanh tịnh tâm niệm của tất cả chúng sinh.
29. Hiện sắc thân vô lượng, vì vượt khỏi số mục tất cả lời nói có thể nói ra.
30. Hiện sắc thân không trụ, vì đại thệ nguyện thuở xưa phát ra, tu pháp Ba La Mật, tức là vì độ tất cả chúng sinh thế gian, lìa khổ được vui.
Vô xứ sắc thân, hằng hóa chúng sanh bất đoạn cố;
Vô sanh sắc thân, huyễn nguyện sở thành cố;
Vô thắng sắc thân, siêu chư thế gian cố;
Như thật sắc thân, định tâm sở hiện cố;
Bất sanh sắc thân, tùy chúng sanh nghiệp nhi xuất hiện cố;
Sắc-thân vô-xứ, vì hằng hóa độ chúng-sanh không thôi dứt.
Sắc-thân vô-sanh, vì huyễn-nguyện làm thành.
Sắc-thân vô-thắng, vì siêu các thế-gian.
Sắc-thân như-thật, vì định-tâm hiện ra.
Sắc-thân chẳng sanh, vì tùy nghiệp của chúng-sanh mà xuất-hiện.
Giảng: 31. Hiện sắc thân không xứ, vì sắc thân hiện ra, chẳng có xứ sở nhất định, vì thường giáo hoá chúng sinh không dứt.
32. Hiện sắc thân không sinh, vì do nguyện lực huyễn hoá mà thành tựu.
33. Hiện sắc thân không thắng, vì thân nầy vượt khỏi tất cả thân chúng sinh thế gian.
34. Hiện sắc thân như thật, vì do tu định tâm hiện thân.
35. Hiện sắc thân chẳng sinh, vì tuỳ theo nghiệp lực của chúng sinh mà hiện thân.
Như ý châu sắc thân, phổ mãn nhất thiết chúng sanh nguyện cố;
Vô phân biệt sắc thân, đãn tùy chúng sanh phân biệt khởi cố;
Ly phân biệt sắc thân, nhất thiết chúng sanh bất năng trai cố;
Vô tận sắc thân, tận chư chúng sanh sanh tử tế cố;
Thanh tịnh sắc thân, đồng ư Như Lai vô phân biệt cố.
Sắc-thân châu như-ý, vì khắp thỏa mãn tất cả nguyện cầu của chúng-sanh.
Sắc-thân vô-phân-biệt, vì chỉ tùy theo chúng-sanh phân-biệt mà khởi.
Sắc-thân rời phân-biệt, vì tất cả chúng-sanh chẳng biết được.
Sắc-thân vô-tận, vì tận sanh-tử-tế của các chúng-sanh.
Sắc-thân thanh-tịnh, vì đồng vô-phân-biệt với Như-Lai.
Giảng: 36. Hiện sắc thân như ý châu, vì khắp mãn nguyện sở cầu của tất cả chúng sinh.
37. Hiện sắc thân không phân biệt, vì chỉ tuỳ tâm phân biệt của chúng sinh mà sinh khởi thân.
38. Hiện sắc thân lìa phân biệt, vì lìa khỏi tất cả lời nói và tất cả tư tưởng, tất cả chúng sinh không biết được sự hiện thân như thế nào.
39. Hiện sắc thân vô tận, vì tận bờ mé sinh tử của các chúng sinh.
40. Hiện sắc thân thanh tịnh, vì chẳng những thân thanh tịnh, mà tâm cũng thanh tịnh, chẳng có chút ý niệm nhiễm ô nào, đồng với Phật, không có gì phân biệt.
Ma Gia phu nhân hiện ra nhiều sắc thân như vậy, tại sao? Vì dạy chúng ta đừng chấp trước nhục thân nầy. Nếu chứng được Thánh quả, thì có vô lượng vô biên thân. Nhục thân nầy giống như ngục tù, nhốt chúng ta ở trong lồng, không được tự tại, không được giải thoát. Muốn thoát khỏi cái lồng nầy, thì phải biết kế xuất lồng, bằng không, vĩnh viễn bị nhốt ở trong lồng.
Lão Tử đã từng nói: “Sở dĩ ta có đại hoạn, vì ta có thân”. Chữ hoạn ở đây, có thể nói là chữ bệnh. Ta có đại bệnh, vì có thân nầy. Nếu không có thân nầy, thì cũng chẳng có đại bệnh. Lại nói: “Nếu ta không có thân, thì sao ta lại có bệnh”? Lão tử biết thân thể là vật không tốt, có nó rồi, thì khổ não không thể chịu nổi. Chẳng có nó, thì không có khổ não.
Một số người xem thân thể như là bảo bối, thương tiếc bảo hộ, lại sợ nó đói, lại sợ nó khát, lại sợ nó nóng, lại sợ nó lạnh, lúc nào cũng lo cho nó, lúc nào cũng phục vụ cho nó, lúc nào cũng làm nô lệ cho nó. Vì có thân nầy, mà nhìn chẳng thấu, buông chẳng đặng. Đem hết tâm cơ, nghĩ hết biện pháp, duy trì nó, bảo hộ nó an toàn. Nhưng đến lúc, nó chẳng màn đến bạn, nó bỏ đi chẳng có chút cảm tình nào với bạn cả, xem bạn làm thế nào!
Như thị thân giả, phi sắc, sở hữu sắc tướng như ảnh tượng cố;
Phi thọ, thế gian khổ thọ cứu cánh diệt cố;
Phi tưởng, đãn tùy chúng sanh tưởng sở hiện cố;
Phi hành, y như huyễn nghiệp nhi thành tựu cố;
Ly thức, Bồ Tát nguyện trí không Vô tánh cố, nhất thiết chúng sanh ngữ ngôn đoạn cố, dĩ đắc thành tựu tịch diệt thân cố.
Thân như vậy chẳng phải sắc, vì bao nhiêu sắc-tướng như ảnh tượng cả.
Chẳng phải thọ, vì đã diệt hẳn khổ-thọ của thế-gian.
Chẳng phải tưởng, vì chỉ tùy theo chúng-sanh tưởng mà hiện.
Chẳng phải hành, vì nương theo nghiệp như-huyễn mà thành-tựu.
Chẳng phải thức, vì là nguyện-trí không vô-tánh của Bồ-Tát, vì ngữ ngôn của tất cả chúng-sanh đều dứt, vì đã thành-tựu thân tịch-diệt.
Giảng: Bốn mươi thứ sắc thân như vậy, cũng chẳng phải do sắc uẩn trong năm uẩn thành tựu. Vì tuy có sắc tướng tồn tại, nhưng giống như hình bóng, hư vọng chẳng thật.
Cũng chẳng phải do thọ uẩn trong năm uẩn thành tựu, vì ba thứ khổ, tám thứ khổ, vô lượng thứ khổ của thế gian, rốt ráo đã diệt.
Cũng chẳng phải do tưởng uẩn trong năm uẩn thành tựu, vì chỉ tuỳ chúng sinh tưởng mà hiện.
Cũng chẳng phải do hành uẩn trong năm uẩn thành tựu, vì nương nghiệp như huyễn mà thành tựu.
Cũng chẳng phải do thức uẩn trong năm uẩn thành tựu, vì Bồ Tát phát thệ nguyện, đắc được trí huệ, thấu rõ lý không, vốn là vô tánh, vì lời nói của tất cả chúng sinh đã dứt, vì đã thành tựu được thân tịch diệt.
Nhĩ thời, Thiện tài đồng tử hựu kiến Ma Da Phu nhân, tùy chư chúng sanh tâm chi sở lạc, hiện siêu quá nhất thiết thế gian sắc thân.
Bấy giờ Thiện-Tài lại thấy Ma-Gia Phu-Nhơn tùy theo tâm sở-thích của các chúng-sanh mà hiện sắc-thân siêu quá tất cả thế-gian.
Giảng: Lúc đó, Thiện Tài đồng tử lại thấy được Ma Gia phu nhân, tuỳ thuận tâm ưa thích của tất cả chúng sinh, mà thị hiện sắc thân hơn hẳn tất cả thế gian.
Sở vị: hoặc hiện siêu quá tha hóa tự tại thiên nữ thân nãi chí siêu quá tứ đại thiên vương Thiên nữ thân, hoặc hiện siêu quá long nữ thân nãi chí siêu quá nhân nữ thân, hiện như thị đẳng vô lượng sắc thân, nhiêu ích chúng sanh.
Những là: hoặc hiện thân siêu quá thiên-nữ nơi trời Tha-Hóa Tự-Tại, nhẫn đến siêu quá thiên-nữ nơi trời Tứ-Thiên-Vương. Hoặc hiện thân siêu quá Long-Nữ, nhẫn đến siêu quá nhơn-nữ. Hiện vô-lượng sắc-thân như vậy để lợi ích chúng-sanh,
Giảng: Đó là: Hoặc hiện thân hơn hẳn Thiên nữ cõi trời Tha Hoá Tự Tại, cho đến thân hơn hẳn Thiên nữ cõi trời Tứ Đại Thiên Vương. Hoặc hiện thân hơn hẳn Long nữ, cho đến thân hơn hẳn người nữ thế gian. Hiện vô lượng sắc thân như vậy, để lợi ích chúng sinh
Tập nhất thiết trí trợ đạo chi Pháp, hành ư bình đẳng đàn ba-la-mật, đại bi phổ phước nhất thiết thế gian. xuất sanh Như Lai vô lượng công đức, tu tập tăng trưởng nhất thiết trí tâm, quan sát tư tánh chư Pháp thật tánh; hoạch thâm nhẫn hải, cụ chúng định môn, trụ ư bình đẳng tam muội cảnh giới, đắc Như Lai định viên mãn quang minh, tiêu kiệt chúng sanh phiền não cự hải; tâm thường chánh định, vị thường động loạn, hằng chuyển thanh tịnh bất thoái Pháp luân, thiện năng liễu tri nhất thiết Phật Pháp, hằng dĩ trí tuệ quán Pháp thật tướng; kiến chư Như Lai tâm Vô yếm túc, tri tam thế Phật xuất hưng thứ đệ, kiến Phật tam muội thường hiện tại tiền, liễu đạt Như Lai xuất hiện ư thế vô lượng vô số chư thanh tịnh đạo, hành ư chư Phật hư không cảnh giới; phổ nhiếp chúng sanh, các tùy kỳ tâm, giáo hóa thành tựu; nhập Phật vô lượng thanh tịnh Pháp thân, thành tựu đại nguyện, tịnh chư Phật sát, cứu cánh điều phục nhất thiết chúng sanh, tâm hằng biến nhập chư Phật cảnh giới;
Nhóm họp pháp trợ-đạo nhất-thiết-trí, hành bình-đẳng đàn ba-la-mật, đại-bi che khắp tất cả thế-gian, xuất sanh vô-lượng công-đức của Như-Lai, tu tập tăng trưởng tâm nhất-thiết-trí, quán sát tư duy thật-tánh của các pháp, được thâm-nhẫn, đủ định-môn, an trụ cảnh-giới tam-muội bình-đẳng, được Như-Lai định, viên-mãn quang-minh, tiêu cạn biển lớn phiền-não của chúng-sanh, tâm thường chánh-định chưa từng động loạn, hằng chuyển pháp-luân thanh-tịnh bất-thối. Khéo biết rõ tất cả phật-pháp, hằng dùng trí-huệ quán pháp thật-tướng, thấy chư Như-Lai không lòng nhàm, biết tam-thế Phật thứ đệ xuất thế tam-muội, thấy Phật thường hiện-tiền, thấu rõ Như-Lai xuất hiện nơi đời, vô-lượng vô-số những đạo thanh-tịnh, đi nơi cảnh-giới hư-không của Phật. Nhiếp khắp chúng-sanh đều theo tâm họ để giáo-hóa thành-tựu, nhập Phật vô-lượng thanh-tịnh pháp thân, thành-tựu đại nguyện nghiêm-tịnh phật-độ, rốt ráo điều phục tất cả chúng-sanh, tâm hằng vào khắp cảnh-giới của chư Phật,
Giảng: Tích tập nhất thiết trí pháp trợ đạo. Tu hành bình đẳng pháp môn bố thí Ba La Mật. Dùng tâm đại bi trùm khắp tất cả chúng sinh thế gian. Sinh ra vô lượng công đức của chư Phật. Tu tập tăng trưởng tâm nhất thiết trí. Quán sát suy gẫm nghiên cứu thật tánh của các pháp. Đắc được biển nhẫn thâm sâu. Đầy đủ các môn thiền định. Trụ nơi cảnh giới tam muội bình đẳng. Đắc được định viên mãn quang minh của Như Lai. Khô cạn biển cả phiền não của tất cả chúng sinh. Tâm thường chánh định chưa từng động loạn, bất cứ lúc nào, cũng chẳng bị cảnh giới làm giao động, hoặc tán loạn. Luôn luôn chuyển bánh xe pháp thanh tịnh bất thối. Khéo biết rõ pháp của tất cả chư Phật nói. Luôn luôn dùng mắt trí huệ để quán sát thật tướng của các pháp.
Thấy được tất cả chư Phật, tâm không khi nào nhàm đủ. Biết chư Phật ba đời thứ tự xuất hiện ra đời. Thường thấy tam muội của Phật thường hiện tiền. Thấu rõ thông đạt Như Lai xuất hiện ra đời, vô lượng vô số các đạo thanh tịnh. Đi nơi cảnh giới hư không của chư Phật, nhiếp khắp tất cả chúng sinh, đều tuỳ theo tâm họ, để giáo hoá thành tựu. Chứng nhập vô lượng pháp thân thanh tịnh của chư Phật, thành tựu đại nguyện đã phát ra, thanh tịnh cõi nước chư Phật. Rốt ráo điều phục tất cả chúng sinh cang cường, tâm luôn vào khắp cảnh giới của chư Phật.
Xuất sanh Bồ Tát tự tại thần lực, dĩ đắc Pháp thân thanh tịnh vô nhiễm, nhi hằng thị hiện vô lượng sắc thân; tồi nhất thiết ma lực, thành Đại thiện căn lực, xuất sanh chánh pháp lực, cụ túc chư Phật lực, đắc chư Bồ-tát tự tại chi lực, tốc tật tăng trưởng nhất thiết trí lực; đắc Phật trí quang, phổ chiếu nhất thiết, tất tri vô lượng chúng sanh tâm hải, căn, tánh, dục, giải chủng chủng sái biệt; kỳ thân phổ biến thập phương sát hải, tất tri chư sát thành hoại chi tướng, dĩ quảng đại nhãn kiến thập phương hải, dĩ chu biến trí tri tam thế hải, thân phổ thừa sự nhất thiết Phật hải, tâm hằng nạp thọ nhất thiết pháp hải; tu tập nhất thiết Như Lai công đức, xuất sanh nhất thiết Bồ Tát trí tuệ, thường lạc quan sát nhất thiết Bồ Tát tùng sơ phát tâm nãi chí thành tựu sở hạnh chi đạo, thường cần thủ hộ nhất thiết chúng sanh, thường lạc xưng dương chư Phật công đức, nguyện vi nhất thiết Bồ Tát chi mẫu.
Xuất sanh bồ tát tự-tại thần-lực, đã được pháp thân thanh-tịnh vô-nhiễm mà hằng thị-hiện vô-lượng sắc thân, xô dẹp tất cả ma-lực thành sức đại thiện-căn, xuất sanh sức chánh-pháp, đầy đủ phật-lực, được sức tự-tại của chư Bồ-Tát, mau tăng trưởng sức nhất-thiết-trí, được phật-trí-quang chiếu khắp tất cả, biết hết tâm tánh giải dục sai biệt của vô-lượng chúng-sanh, thân cùng khắp mười phương cõi, biết rõ tướng thành hoại của các cõi, dùng quảng-đại-nhãn thấy thập-phương-hải, dùng châu-biến-trí biết tam-thế-haỉ, thân khắp thừa-sự tất cả phật-hải, tâm hằng nạp thọ tất cả pháp-hải, tu tập tất cả công-đức của Như-Lai, xuất sanh tất cả trí-huệ của Bồ-Tát, thường thích quán-sát tất cả Bồ-Tát từ sơ-phát-tâm nhẫn đến thành tựu đạo bồ-tát, thường siêng thủ hộ tất cả chúng-sanh, thường thích tán dương công-đức của chư Phật, nguyện làm mẹ của tất cả Bồ-Tát.
Giảng: Sinh ra thần lực tự tại của Bồ Tát. Đã đắc được pháp thân thanh tịnh không nhiễm, mà luôn luôn thị hiện vô lượng sắc thân. Hàng phục được tất cả ma lực, thành tựu được sức lực căn lành lớn. Sinh ra sức lực chánh pháp, đầy đủ lực của chư Phật. Đắc được lực nhậm vận tự tại của các Bồ Tát, mau chóng tăng trưởng lực nhất thiết trí.
Đắc được trí huệ quang minh của Phật chiếu khắp tất cả thế giới, đều biết biển tâm của vô lượng chúng sinh, căn tánh, ham muốn, hiểu biết, có đủ thứ cảnh giới khác nhau. Thân đó khắp cùng mười phương biển cõi, đều biết tướng thành trụ hoại không của các cõi. Dùng mắt pháp rộng lớn, thấy được biển mười phương thế giới. Dùng trí huệ khắp cùng, biết được biển pháp ba đời. Thân phụng sự khắp tất cả biển chư Phật, nhiều như biển cả. Tâm tức là biển pháp, luôn nạp thọ tất cả biển các pháp. Nếu tâm chẳng phải là biển pháp, thì làm sao mà nạp thọ được tất cả biển pháp! Tu tập tất cả công đức của chư Phật đã tu. Nếu chẳng tu công đức của chư Phật, thì làm sao mà thành Phật! Sinh ra trí huệ đầy đủ của tất cả Bồ Tát. Đầy đủ trí huệ của Bồ Tát, cũng chẳng thái quá, cũng chẳng bất cập, đúng là lý thể chân chánh. Bất cứ làm việc gì, đều phải tuân theo quy cụ, thứ tự như pháp, đây tức là trí huệ của Bồ Tát. Thường thích quán sát, quán sát gì? Phải hướng bên ngoài quán sát cảnh giới của tất cả Bồ Tát, phải hướng vào bên trong quán sát chính mình, đã phát bồ đề tâm chưa? Bồ Tát từ lúc ban đầu phát tâm, cho đến thành tựu đạo tu hành, đều lợi ích người khác, chẳng phải lợi ích chính mình. Tư tưởng của Bồ Tát là:
“Bố thí không cầu đền đáp,
Chẳng tìm lỗi lầm của người khác”.
Cho nên phải quán sát đạo của tất cả Bồ Tát tu hành. Thường siêng giữ gìn tất cả chúng sinh. Thường thích khen ngợi công đức của chư Phật. Nguyện làm mẹ của tất cả hậu thân Bồ Tát (thân cuối cùng sắp thành Phật).
Nhĩ thời, Thiện tài đồng tử kiến Ma Da Phu nhân hiện như thị đẳng Diêm-phù-đề vi trần số chư phương tiện môn. Ký kiến thị dĩ, như Ma Da Phu nhân sở hiện thân số, Thiện Tài diệc hiện tác nhĩ hứa thân, ư nhất thiết xứ Ma Da chi tiền cung kính lễ bái, tức thời chứng đắc vô lượng vô số chư tam muội môn, phân biệt quan sát, tu hành chứng nhập.
Thiện-Tài thấy Ma-Gia Phu-Nhơn hiện diêm-phù-đề vi-trần-số môn phương-tiện như vậy. Ðúng như số thân của Ma-Gia Phu-Nhơn đã hiện, Thiện-Tài cũng tự hiện bao nhiêu thân ở trước tất cả Ma-Gia Phu-Nhơn mà cung kính lễ bái. Tức thời Thiện-Tài chứng được vô-lượng vô-số môn tam-muội, phân biệt quan-sát tu hành chứng nhập.
Lúc đó, Thiện Tài đồng tử thấy Ma Gia phu nhân hiện các môn phương tiện nhiều như số hạt bụi Diêm Phù Đề như vậy. Thấy được những cảnh giới như vậy rồi, như số sắc thân của Ma Gia phu nhân thị hiện, Thiện Tài đồng tử cũng chứng được tam muội đó, cũng hiện ra chừng ấy thân, ở trước tất cả chỗ của Ma Gia phu nhân trong mười phương, cung kính lễ bái. Lập tức lúc đó chứng được vô lượng vô số các môn tam muội, phân biệt quán sát, tu hành chứng nhập tam muội đó.
Tùng tam muội khởi, hữu nhiễu Ma Da tinh kỳ quyến thuộc, hợp chưởng nhi lập, bạch ngôn: đại thánh! Văn-thù-sư-lợi Bồ Tát giáo ngã phát A-nậu-đa-la-tam miểu tam Bồ-đề tâm, cầu thiện tri thức, thân cận cúng dường.
Sau khi xuất định, Thiện-Tài hữu nhiễu Phu-Nhơn và quyến-thuộc của Phu-Nhơn, đứng chắp tay cung kính thưa rằng: Bạch Ðại-thánh! Văn-Thù-Sư-Lợi Bồ-Tát dạy tôi phát tâm vô-thượng bồ-đề, cầu thiện-tri-thức để thân cận cúng-dường.
Giảng: Thiện Tài đồng tử từ tam muội dậy, đi nhiễu bên phải Ma Gia phu nhân, và quyến thuộc của Ngài, rồi chắp tay đứng ở trước toà của Ma Gia phu nhân. Thiện Tài đồng tử bạch với Ma Gia phu nhân rằng: “Đức Thánh! Con nhờ Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi dạy con phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, cầu thiện tri thức, gần gũi cúng dường. Con đều đi đến hầu hạ cúng dường từng vị, từng vị thiện tri thức, không có vị thiện tri thức nào mà con không cúng dường.
Ngã ư nhất nhất thiện tri thức sở, giai vãng thừa sự, vô không quá giả; tiệm lai chí thử, nguyện vi ngã thuyết: Bồ Tát vân hà học Bồ Tát hạnh nhi đắc thành tựu?
Ở chỗ mỗi vị thiện-tri-thức tôi đều đến kính thờ không bỏ luống, lần lượt đến đây. Xin Dại-Thánh vì tôi mà dạy bảo Bồ-Tát thế nào học bồ-tát hạnh mà được thành-tựu?
Giảng: Con ở chỗ mỗi vị thiện tri thức lắng nghe thiện tri thức nói pháp, đắc được lợi ích của pháp rất lớn. Con dần dần mới đi đến thành Ca Tỳ La, xứ sở của Ngài ở. Xin đức Thánh hãy từ bi, xin vì con mà nói: Bồ Tát làm thế nào học Bồ Tát hạnh, mà được thành tựu A nậu đa la tam miệu tam bồ đề”?
Đáp ngôn: Phật tử! ngã dĩ thành tựu Bồ Tát Đại nguyện trí huyễn giải thoát môn, thị cố thường vi chư Bồ-tát mẫu.
Ma-Gia Phu-Nhơn nói: Nầy Thiện-nam-tử! Ta đã thành-tựu môn giải-thoát bồ-tát-đại-nguyện-trí-huyễn, do đây ta thường làm mẹ của Bồ-Tát.
Giảng: Ma Gia phu nhân đáp rằng: Phật tử! Ta đã thành tựu môn giải thoát Bồ Tát đại nguyện trí huyễn. Ta có trí huệ, nhận thức được tất cả đều là như huyễn, như hoá, không chấp trước vào môn giải thoát nầy. Nhờ nhân duyên đó, cho nên thường làm mẹ của các Bồ Tát sắp thành Phật.
Giải thích sơ lược về môn giải thoát đại nguyện trí huyễn, có hai nghĩa: Một là nguyện lớn. Hai là trí lớn. Nguyện lớn, là nguyện làm mẹ của tất cả chư Phật. Trí lớn phân làm hai. Một là quyền trí. Hai là thật trí. Quyền trí, là khởi nguyện lớn, thành việc huyễn. Thật trí, tức là Bát Nhã, sinh ra chân thân của Phật. Huyễn có hai nghĩa: Một là nguyện trí thể hư, đương tướng đều huyễn. Hai nghĩa là trí làm sinh ra Phật. Môn giải thoát, là không, vô tướng, vô nguyện, ba thứ thiền định. Năm thứ thiền định nầy, là cửa Niết Bàn, do đó mà được tên nầy.
Phật tử! như ngã ư thử Diêm-phù-đề trung Ca-tỳ la thành Tịnh Phạn Vương gia, hữu hiếp nhi sanh Tất đạt Thái-Tử, hiện bất tư nghị tự tại thần biến; như thị, nãi chí tận thử thế giới hải, sở hữu nhất thiết Tỳ Lô Giá Na Như Lai, giai nhập ngã thân, thị hiện đản sanh tự tại thần biến.
Nầy Thiện-nam-tử! Như ta ở tại cung vua Tịnh-Phạn nơi thành Ca-Tỳ-La nầy, từ hông bên hữu sanh Thái-Tử Tất-Ðạt hiện bất-tư-nghì thần-biến tự-tại. Như vậy nhẫn đến tận thế-giới hải nầy, tất cả Tỳ-Lô-Giá-Na Như-Lai đều vào thân ta mà thị-hiện đản-sanh tự-tại thần-biến.
Giảng: Phật tử! Ta ở trong nhà vua Tịnh Phạn, thành Ca Tỳ La cõi Diêm Phù Đề nầy, từ hông bên phải mà sinh thái tử Tất Đạt Đa, hiện ra thần biến tự tại không thể nghĩ bàn. Cảnh giới như vậy, cho đến hết biển thế giới nầy, hết thảy tất cả Phật Tỳ Lô Giá Na, đều vào trong thân của ta, thị hiện đản sinh đủ thứ tự tại thần thông biến hoá.
Hựu, Thiện nam tử! ngã ư Tịnh Phạn Vương cung, Bồ Tát tướng dục hạ sanh chi thời, kiến Bồ Tát thân nhất nhất mao khổng hàm phóng quang minh, danh: nhất thiết Như Lai thọ sanh công đức luân, nhất nhất mao khổng giai hiện bất khả thuyết bất khả thuyết Phật sát vi trần số Bồ Tát thọ sanh trang nghiêm.
Lại nầy Thiện-nam-tử! Lúc ta ở cung vua Tịnh-Phạn, lúc Bồ-Tát sắp hạ sanh, ta thấy thân của Bồ-Tát mỗi mỗi lỗ lông đều phóng quang-minh tên là Nhất-Thiết-Như-Lai-Thọ-Sanh-Công-Ðức-Luân. Mỗi lỗ lông đều hiện bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết phật sát vi-trần-số Bồ-Tát thọ sanh trang-nghiêm.
Giảng: Ma Gia phu nhân lại gọi một tiếng thiện nam tử! Khi ta ở trong cung vua Tịnh Phạn, lúc Bồ Tát (Phật Thích Ca Mâu Ni) sắp hạ sinh, thì ta thấy mỗi mỗi lỗ chân lông trên thân Bồ Tát, đều phóng quang minh, tên là Nhất thiết Như Lai thọ sinh công đức luân. Trong mỗi mỗi lỗ chân lông, đều hiện cảnh giới Bồ Tát thọ sinh trang nghiêm, nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết bất khả thuyết cõi Phật.
Bỉ chư quang minh, giai tất phổ chiếu nhất thiết thế giới; chiếu thế giới dĩ, lai nhập ngã đảnh nãi chí nhất thiết chư mao khổng trung.
Những quang-minh đó thảy đều chiếu khắp tất cả thế-giới, rồi nhập vào đảnh của ta và khắp các chân lông.
Giảng: Tất cả quang minh đó, thảy đều chiếu khắp tất cả mười phương thế giới. Chiếu sáng mười phương thế giới rồi, tất cả quang minh đó, lại nhập vào đảnh đầu của ta, cho đến vào trong tất cả các lỗ chân lông trên thân ta.
Hựu, bỉ quang trung phổ Hiện-Nhất-Thiết Bồ Tát danh hiệu, thọ sanh thần biến, cung điện quyến thuộc, ngũ dục tự ngu; hựu kiến xuất gia, vãng nghệ đạo tràng, thành đẳng chánh giác, tọa sư tử tọa, Bồ Tát vi nhiễu, chư Vương cúng dường, vi chư Đại chúng chuyển chánh pháp luân;
Lại trong quang-minh ấy hiện khắp tất cả danh-hiệu của Bồ-Tát, cùng thọ-sanh, thần-biến, cung-điện, quyến-thuộc, ngũ dục tự vui của Bồ-Tát. Trong quang-minh lại thấy Bồ-Tát xuất-gia, đến đạo-tràng thành Ðẳng-Chánh-Giác, ngồi tòa sư-tử, Bồ-Tát vây quanh, các vua chúa cúng-dường, vì đại-chúng mà chuyển pháp-luân.
Giảng: Lại ở trong quang minh đó, khắp hiện danh hiệu của tất cả Bồ Tát, thọ sinh, thần biến, cung điện và quyến thuộc, dùng tài sắc danh ăn và ngủ năm dục tự làm cho mình vui. Hoặc là dùng sắc thanh hương vị xúc năm trần làm cho mình vui.
Ta lại thấy được cảnh giới Bồ Tát tám tướng thành đạo. Xuất gia rồi, đi đến bồ đề đạo tràng, nửa đêm thấy sao mai mọc mà thành Đẳng Chánh Giác, ngồi toà báu sư tử. Có vô số Bồ Tát vây quanh, có tất cả các ông vua cúng dường, đức Phật vì các đại chúng chuyển bánh xe chánh pháp, tức cũng là diễn nói pháp lớn Kinh Hoa Nghiêm Đại Phương Quảng Phật, diệu nghĩa nhất chân pháp giới.
Hựu kiến Như Lai vãng tích tu hành Bồ Tát đạo thời, ư chư Phật sở cung kính cúng dường, phát Bồ-đề tâm, tịnh Phật quốc độ, niệm niệm thị hiện vô lượng hóa thân, sung biến thập phương nhất thiết thế giới, nãi chí tối hậu nhập Bát Niết Bàn. Như thị đẳng sự, mị bất giai kiến.
Lại thấy đức Như-Lai thuở xưa lúc tu hành bồ-tát-đạo, cung kính cúng-dường chư Phật, phát tâm bồ-đề, nghiêm-tịnh phật-độ, niêm niệm thị-hiện vô-lượng hóa-thân khắp thập phương thế-giới, nhẫn đến rốt sau nhập niết-bàn. Tất cả những sự như vậy đều thấy rõ cả.
Giảng: Ta lại thấy thuở xưa, khi đức Phật Thích Ca Mâu Ni tu hành Bồ Tát đạo, thời ở chỗ tất cả chư Phật, cung kính cúng dường chư Phật, phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, thanh tịnh trang nghiêm tất cả cõi nước chư Phật. Niệm niệm thị hiện vô lượng hoá thân, đầy khắp mười phương tất cả thế giới, cho đến cuối cùng vào Bát Niết Bàn. Tất cả những cảnh giới như vậy, ta đều nhìn thấy rõ ràng.
Hựu, Thiện nam tử! bỉ diệu quang minh nhập ngã thân thời, ngã thân hình lượng tuy bất du bổn, nhiên kỳ thật dĩ siêu chư thế gian. Sở dĩ giả hà? ngã thân Nhĩ thời lượng đồng hư không, tất năng dung thọ thập phương Bồ Tát thọ sanh trang nghiêm chư cung điện cố.
Nầy Thiện-nam-tử! Lúc diệu-quang-minh ấy vào thân của ta, hình lượng của thân ta dầu chẳng hơn trước, nhưng thật ra thời đã siêu thế-gian. Tại sao vậy? Vì lúc đó thân của ta lượng đồng hư-không, đều có thể dung thọ những cung-điện trang-nghiêm của thập phương Bồ-Tát thọ sanh.
Giảng: Lại nữa thiện nam tử! Khi quang minh vi diệu đó vào thân ta, thì hình lượng thân ta, tuy vẫn như cũ, nhưng kỳ thật, đã vượt hơn tất cả thế gian, thậm chí còn lớn hơn tất cả thế gian. Tại sao? Vì lúc đó thân ta, lượng đồng hư không, đều hoàn toàn dung thọ được tất cả cung điện trang nghiêm Bồ Tát mười phương thọ sinh.
Nhĩ thời, Bồ Tát tùng Đâu suất thiên tướng hàng thần thời, hữu thập Phật sát vi trần số chư Bồ-tát, giai dữ Bồ Tát đồng nguyện, đồng hành, đồng thiện căn, đồng trang nghiêm, đồng giải thoát, đồng trí tuệ, chư địa, chư lực, Pháp thân, sắc thân, nãi chí Phổ Hiền thần thông hạnh nguyện, tất giai đồng đẳng, như thị Bồ Tát tiền hậu vi nhiễu; hựu hữu bát vạn chư long Vương đẳng, nhất thiết thế chủ, thừa kỳ cung điện, câu lai cúng dường.
Lúc Bồ-Tát từ cung trời Ðâu-Suất sắp giáng thần, có mười phật-sát vi-trần-số Bồ-Tát đồng nguyện, đồng hạnh, đồng thiện-căn, đồng trang nghiêm, đồng giải-thoát, đồng trí-huệ, trí-lực, pháp-thân, sắc-thân, nhẫn đến phổ-hiền thần-thông hạnh nguyện thảy đều đồng với Bồ-Tát. Vi-trần-số Bố-Tát nầy cùng vây quanh. Lại có tám vạn Long-Vương và tất cả Thế-Chủ thừa cung-điện của mình đều đến cúng-dường.
Giảng: Lúc đó, khi Bồ Tát từ cung trời Đâu Suất sắp hàng sinh, thì có các Bồ Tát nhiều như số hạt bụi mười cõi Phật, đều đồng nguyện, đồng hạnh, đồng căn lành, đồng trang nghiêm, đồng giải thoát, đồng trí huệ, các lực, các địa, pháp thân, sắc thân với Bồ Tát (Phật Thích Ca Mâu Ni), cho đến thần thông và hạnh nguyện của Bồ Tát Phổ Hiền, thảy đều đồng nhau. Bồ Tát như vậy, vây quanh trước sau đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Lại có tám vạn các Long Vương, cùng với tất cả chủ thế gian, ngồi cung điện của mình, đều đến cúng dường Phật.
Bồ Tát Nhĩ thời, dĩ thần thông lực, dữ chư Bồ-tát phổ Hiện-Nhất-Thiết Đâu suất thiên cung; nhất nhất cung trung, tất hiện thập phương nhất thiết thế giới Diêm-phù-đề nội thọ sanh ảnh tượng, phương tiện giáo hóa vô lượng chúng sanh, lệnh chư Bồ-tát ly chư giải đãi vô sở chấp trước.
Bấy giờ Bồ-Tát dùng sức thần-thông cùng chư Bồ-Tát quyến-thuộc hiện khắp tất cả Ðâu-Suất Thiên-Cung. Mỗi mỗi Thiên-Cung đều hiện hình tượng thọ sanh trong tất cả Diêm-Phù-Ðề ở thập phương thế-giới, phương-tiện giáo hóa vô-lượng chúng-sanh, khiến chư Bồ-Tát rời giải-đãi, không chấp trước.
Giảng: Lúc đó, Bồ Tát dùng sức thần thông, với các Bồ Tát, khắp hiện tất cả cung trời Đâu Suất. Trong mỗi mỗi cung điện, đều hiện hình tượng thọ sinh trong tất cả thế giới Diêm Phù Đề ở mười phương, dùng pháp môn phương tiện để giáo hoá vô lượng chúng sinh, khiến cho các Bồ Tát lìa các giải đãi, không còn sự chấp trước.
Hựu dĩ thần lực, phóng đại quang minh, phổ chiếu thế gian, phá chư hắc ám, diệt chư khổ não; lệnh chư chúng sanh, giai thức tú thế sở hữu nghiệp hạnh, vĩnh xuất ác đạo.
Lại dùng thần-lực phóng đại quang-minh chiếu khắp thế-gian phá những tối tăm diệt những khổ não, làm cho các chúng-sanh đều biết những hành nghiệp đã có từ đời trước, hầu thoát hẳn ác-đạo.
Giảng: Lại dùng thần lực phóng đại quang minh, chiếu khắp tất cả thế gian, phá trừ tất cả đen tối, tiêu diệt tất cả khổ não, khiến cho tất cả chúng sinh đều biết được hết thảy hạnh nghiệp đời trước, vĩnh viễn thoát khỏi ba đường ác.
Hựu vi cứu hộ nhất thiết chúng sanh, phổ hiện kỳ tiền, tác chư thần biến. Hiện như thị đẳng chư kì đặc sự, dữ quyến thuộc câu, lai nhập ngã thân.
Lại vì cứu hộ tất cả chúng-sanh mà hiện ra trước họ, để hiện những thần-biến. Bồ-Tát đã hiện những sự kỳ-đặc như vậy rồi cùng quyến-thuộc đến nhập vào thân của ta.
Giảng: Bồ Tát lại vì cứu hộ tất cả chúng sinh, cho nên khắp hiện ra ở trước họ, thị hiện đủ thứ thần thông biến hoá, hiện ra các việc kỳ lạ đặc biệt như vậy. Tất cả Bồ Tát cùng với quyến thuộc tụ hội, đến vào thân ta.
Bỉ chư Bồ-tát ư ngã phước trung, du hành tự tại, hoặc dĩ tam thiên đại thiên thế giới nhi vi nhất bộ, hoặc dĩ bất khả thuyết bất khả thuyết Phật sát vi trần số thế giới nhi vi nhất bộ.
Chư Bồ-Tát ấy ở trong bụng ta du hành tự-tại: hoặc dùng Ðại-Thiên thế giới làm một bước, nhẫn đến hoặc dùng bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết phật-sát vi-trần-số thế giới làm một bước.
Giảng: Các Bồ Tát đó ở trong bụng ta, du hành tự tại, chẳng bị bất cứ sự hạn chế nào. Tại sao? Vì trong bụng ta, lượng lớn như hư không. Hoặc dùng ba ngàn đại thiên thế giới làm một bước. Hoặc dùng các thế giới nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết bất khả thuyết cõi Phật làm một bước.
Hựu, niệm niệm trung, thập phương bất khả thuyết bất khả thuyết nhất thiết thế giới chư Như Lai sở, Bồ Tát chúng hội, cập Tứ Thiên vương thiên, tam thập tam thiên, nãi chí sắc giới chư phạm thiên vương, dục kiến Bồ Tát xứ thai thần biến, cung kính cúng dường, thính thọ chánh pháp, giai nhập ngã thân. Tuy ngã phước trung tất năng dung thọ như thị chúng hội, nhi thân bất quảng đại diệc bất bách trách; kỳ chư Bồ-tát các kiến tự xứ chúng hội đạo tràng, thanh tịnh nghiêm sức.
Lại trong mỗi niệm, chúng hội Bồ-Tát ở chỗ chư Phật Như-Lai nơi bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tất cả thế-giới mười phương, cùng dục-giới sắc-giới chư Thiện-Vương chư Phạm-Vương vì muốn thấy thần-biến của Bồ-Tát ở trong thai mẹ để cung kính cúng-dường nghe lãnh chánh pháp nên đều đến vào thân của ta. Dầu trong bụng của ta đều có thể dung thọ tất cả chúng-hội như vậy, mà thân ta vẫn không lớn thêm, cũng chẳng chật hẹp. Chư Bồ-Tát và chúng-hội đều tự thấy mình ở đạo-tràng thanh-tịnh nghiêm-sức.
Giảng: Lại ở trong niệm niệm, các Bồ Tát chúng hội trong mười phương bất khả thuyết bất khả thuyết tất cả thế giới, đạo tràng của chư Phật và trời Tứ Thiên Vương, trời Tam Thập Tam, cho đến các cõi trời Phạm Thiên cõi sắc giới, muốn thấy thần biến của Bồ Tát ở trong thai mẹ, để cung kính cúng dường, nghe thọ chánh pháp, đều vào trong thân ta. Tuy trong bụng ta, đều dung thọ được nhiều chúng hội như vậy, mà thân ta cũng chẳng rộng lớn, cũng chẳng nhỏ hẹp. Các Bồ Tát đó đều thấy nơi chúng hội đạo tràng của mình thanh tịnh nghiêm sức.
Thiện nam tử! như thử tứ thiên hạ Diêm-phù-đề trung, Bồ Tát thọ sanh, ngã vi kỳ mẫu; tam thiên đại thiên thế giới bách ức tứ thiên hạ Diêm-phù-đề trung, tất diệc như thị. Nhiên ngã thử thân bản lai vô nhị, phi nhất xứ trụ, phi đa xứ trụ.
Nầy Thiện-nam-tử! Như trong Diêm-Phù-Ðề nầy Bồ-Tát thọ sanh, ta làm mẹ, trong tất cả trăm ức Diêm-Phù-Ðề khắp Ðại-Thiên thế-giới cũng như vậy. Nhưng thân của ta đây bổn lai không hai, chẳng phải ở một xứ, chẳng phải ở nhiều xứ.
Giảng: Thiện nam tử! Như Bồ Tát thọ sinh trong bốn thiên hạ cõi Diêm Phù Đề nầy, ta làm mẹ của Ngài. Trong ba ngàn đại thiên thế giới, trăm ức bốn thiên hạ cõi Diêm Phù Đề, cũng lại như thế. Mà thân ta đây, vốn không hai, chẳng phải ở một nơi, chẳng phải ở nhiều nơi.
Hà dĩ cố? dĩ tu Bồ Tát Đại nguyện trí huyễn trang nghiêm giải thoát môn cố.
Tại sao vậy? Vì ta tu môn giải-thoát bồ-tát đại-nguyện trí-huyễn trang-nghiêm.
Giảng: Tại sao vậy? Vì nhờ tu môn giải thoát Bồ Tát đại nguyện trí huyễn trang nghiêm.
Thiện nam tử! như kim Thế Tôn, ngã vi kỳ mẫu; vãng tích sở hữu vô lượng chư Phật, tất diệc như thị nhi vi kỳ mẫu. Thiện nam tử! ngã tích tằng tác liên hoa trì Thần, thời hữu Bồ Tát ư liên hoa tạng hốt nhiên hóa sanh, ngã tức phủng trì chiêm thị dưỡng dục, nhất thiết thế gian giai cộng hiệu ngã vi: Bồ Tát mẫu.
Nầy Thiện-nam-tử! Như đức Thế-Tôn hiện nay, ta làm mẹ của Ngài, bao nhiêu chư Phật thuở xưa ta cũng làm mẹ như vậy.
Giảng: Nầy Thiện-nam-tử! Thuở xưa, ta từng làm Thần ao sen. Bấy giờ có Bồ-Tát bỗng nhiên hóa sanh nơi liên-hoa-tạng, ta liền bồng ẵm săn sóc nuôi nấng. Thế-gian gọi ta là mẹ của Bồ-Tát.
Thiện nam tử! Như nay đức Thế Tôn xuất hiện ra đời, ta làm mẹ của Ngài, bao nhiêu chư Phật thuở xưa ta cũng làm mẹ như vậy.
Thiện nam tử! Thuở xưa, hết thảy vô lượng chư Phật xuất hiện ra đời, cũng như vậy, ta cũng từng làm mẹ của các Ngài. Tại sao vậy? Vì ta đã phát đại nguyện nầy.
Thiện nam tử! Xưa kia ta đã từng làm Thần giữ gìn ao sen, lúc đó có vị Bồ Tát, bỗng nhiên hoá sinh trên tạng hoa sen. Ta lập tức ẵm bồng Bồ Tát, săn sóc nuôi dưỡng. Cho nên tất cả mọi người thế gian đều gọi ta là mẹ của Bồ Tát.
Hựu, ngã tích vi Bồ-đề trường Thần, thời hữu Bồ Tát ư ngã hoài trung hốt nhiên hóa sanh, thế diệc hiệu ngã vi: Bồ Tát mẫu.
Lại thuở xưa, ta từng làm Thần bồ-đề-tràng. Bấy giờ có Bồ-Tát bỗng nhiên hóa-sanh trong lòng của ta. Người đời ấy cũng gọi ta là mẹ của Bồ-Tát.
Giảng: Lại nữa, thuở xưa khi ta làm Thần giữ gìn bồ đề đạo tràng, thời lúc đó có Bồ Tát, bỗng nhiên hoá sinh trong lòng của ta, cho nên tất cả mọi người thế gian cũng gọi ta là mẹ của Bồ Tát.
Thiện nam tử! hữu vô lượng tối hậu thân Bồ Tát, ư thử thế giới chủng chủng phương tiện thị hiện thọ sanh, ngã giai vi mẫu. Thiện nam tử! như thử thế giới hiền kiếp chi trung, quá khứ thế thời, Câu Lưu Tôn Phật, Câu Na Hàm Mâu Ni Phật, Ca-diếp Phật cập kim Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni Phật hiện thọ sanh thời, ngã vi kỳ mẫu.
Nầy Thiện-nam-tử! Có vô-lượng tối-hậu-thân Bồ-Tát phương-tiện thị-hiện thọ sanh nơi thế-giới nầy, ta đều làm mẹ của các Ngài. Nầy Thiện-nam-từ! Như ở thế-giới Ta-Bà nầy, trong kiếp Hiền, quá khứ đức Câu-Lưu-Tôn Phật, đức Câu-Na-Hàm-Mâu-Ni-Phật, đức Ca-Diếp Phật và đức Thích-Ca-Mâu-Ni Phật, hiện nay thị hiện thọ sanh, ta đều làm mẹ
Giảng: Thiện nam tử! Có vô lượng thân Bồ Tát cuối cùng (Bồ Tát sắp thành phật), ở trong thế giới nầy, dùng đủ thứ phương tiện để thị hiện thọ sinh, ta cũng đều làm mẹ của các Ngài.
Thiện nam tử! Như ở trong kiếp Hiền thế giới nầy, có một ngàn vị Phật xuất hiện ra đời. Đời quá khứ, có ba vị Phật xuất hiện ra đời, một là đức Phật Câu Lưu Tôn, hai là đức Phật Câu Na Hàm Mâu Ni, ba là đức Phật Ca Diếp. Hiện tại là đức Phật Thích Ca Mâu Ni, khi hiện thọ sinh, thì ta đều làm mẹ của các Ngài.
Vị lai thế trung, Di Lặc Bồ-tát tùng Đâu suất thiên tướng hàng thần thời, phóng đại quang minh phổ chiếu Pháp giới, thị Hiện-Nhất-Thiết chư Bồ-tát chúng thọ sanh thần biến, nãi ư nhân gian sanh Đại tộc gia, điều phục chúng sanh; ngã ư bỉ thời, diệc vi kỳ mẫu.
Đời vị-lai, Dị-Lặc Bồ-Tát từ Thiên-Cung Ðâu-Suất lúc sắp giáng thần phóng đại quang-minh chiếu khắp pháp-giới thị-hiện thấn-biến thọ sanh cùng chúng Bồ-Tát, ta cũng sẽ lảm mẹ.
Giảng: Trong đời vị lai Bồ Tát Di Lặc, Ngài từ nội viện cung trời Đâu Suất, khi sắp hàng thần, phóng đại quang minh, chiếu khắp tận hư không biến pháp giới, thị hiện thọ sinh thần biến tất cả các chúng Bồ Tát, bèn sinh vào nhân gian dòng dõi quý tộc đại phú đại quý, điều phục tất cả chúng sinh, lúc đó ta cũng sẽ làm mẹ của Đương Lai Hạ Sinh Di Lặc Tôn Phật.
Như thị thứ đệ, hữu Sư-tử Phật, Pháp-Tràng Phật, thiện nhãn Phật, tịnh hoa Phật, Hoa đức Phật, đề xá Phật, phất sa Phật, thiện ý Phật, Kim Cương Phật, ly cấu Phật, nguyệt quang Phật, trì cự Phật, danh xưng Phật, Kim cương thuẫn Phật, thanh tịnh nghĩa Phật, cám thân Phật, đáo bỉ ngạn Phật, bảo diệm sơn Phật, trì cự Phật, liên hoa đức Phật, danh xưng Phật, vô lượng công đức Phật, tối thắng đăng Phật, trang nghiêm thân Phật, thiện uy nghi Phật, từ đức Phật, vô trụ Phật, Đại uy quang Phật, vô biên âm Phật, thắng oán địch Phật, ly nghi hoặc Phật, thanh tịnh Phật, đại quang Phật, tịnh tâm Phật, vân đức Phật, trang nghiêm đảnh kế Phật, thọ Vương Phật, bảo đang Phật, hải tuệ Phật, diệu bảo Phật, hoa quan Phật, mãn nguyện Phật, đại tự tại Phật, diệu đức Vương Phật, tối tôn thắng Phật, chiên đàn vân Phật, cám nhãn Phật, thắng tuệ Phật, quan sát tuệ Phật, sí thịnh Vương Phật, kiên cố tuệ Phật, tự tại danh Phật, Sư tử Vương Phật, tự tại Phật, tối thắng đảnh Phật,
Kế đó theo thứ tự, có Sư-Tử Phật, Pháp-Tràng Phật, Thiện-Nhãn Phật, Tịnh-Hoa Phật, Hoa-Ðức Phật, Ðề-Xá Phật, Phất-Sa Phật, Thiện-Ý Phật, Kim-Cang Phật, Ly-Cấu Phật, Nguyệt-Quang Phật, Trì-Cự Phật, Danh-Xưng Phật, Kim-Cang-Thuẩn Phật, Thanh-Tịnh-Nghĩa Phật, Cám-Thân Phật, Ðáo-Bỉ-Ngạn Phật, Bửu-Diệm-Sơn Phật, Trì-Minh Phật, Liên-Hoa-Ðức Phật, Danh-Xưng Phật, Vô-Lượng-Công-Ðức Phật, Tối-Thắng-Ðăng Phật, Trang-Nghiêm-Thân Phật, Thiện-Oai-Nghi Phật, Từ-Ðức Phật, Vô-Trụ Phật, Ðại-Oai-Quang Phật, Vô-Biên-Âm Phật, Thắng-Oán-Ðịch Phật, Ly-Nghi-Hoặc Phật, Thanh-Tịnh Phật, Ðại-Quang Phật, Tịnh-Tâm Phật, Vân-Ðức Phật, Trang-nghiêm-Ðảnh-Kế Phật, Thọ-Vương Phật, Bửu-Ðăng Phật, Hải-Huệ Phật, Diệu-Bửu Phật, Hoa-Quan Phật, Mãn-Nguyện Phật, Ðại-Tự-Tại Phật, Diệu-Ðức-Vương Phật, Tối-Tôn-Thắng Phật, Chiên-Ðàn-Vân Phật, Cám-Nhãn Phật, Thắng-Huệ Phật, Quán-Sát-Huệ Phật, Xí-Thạnh-Vương Phật, Kiên-Cố-Huệ Phật, Tự-Tại-Danh Phật, Sư-Tử-Vương Phật, Tự-Tại Phật, Tối-Thắng-Ðảnh Phật
Kim Cương trí sơn Phật, diệu đức tạng Phật, bảo võng nghiêm thân Phật, thiện tuệ Phật, Tự tại Thiên Phật, Đại Thiên Vương Phật, vô y đức Phật, thiện thí Phật, diệm tuệ Phật, Thủy Thiên Phật, đắc thượng vị Phật, xuất sanh vô thượng công đức Phật, Tiên nhân thị vệ Phật, tùy thế ngữ ngôn Phật, công đức tự tại tràng Phật, quang tràng Phật, quán thân Phật, diệu thân Phật, hương diệm Phật, Kim cương bảo nghiêm Phật, hỉ nhãn Phật, ly dục Phật, cao đại thân Phật, tài Thiên Phật, vô thượng Thiên Phật, thuận tịch diệt Phật, trí giác Phật, diệt tham Phật, Đại diệm Vương Phật, tịch chư hữu Phật, tỳ xá khư Thiên Phật,
Kim Cương trí sơn Phật, diệu đức tạng Phật, bảo võng nghiêm thân Phật, thiện tuệ Phật, Tự tại Thiên Phật, Đại Thiên Vương Phật, vô y đức Phật, thiện thí Phật, diệm tuệ Phật, Thủy Thiên Phật, đắc thượng vị Phật, xuất sanh vô thượng công đức Phật, Tiên nhân thị vệ Phật, tùy thế ngữ ngôn Phật, công đức tự tại tràng Phật, quang tràng Phật, quán thân Phật, diệu thân Phật, hương diệm Phật, Kim cương bảo nghiêm Phật, hỉ nhãn Phật, ly dục Phật, cao đại thân Phật, tài Thiên Phật, vô thượng Thiên Phật, thuận tịch diệt Phật, trí giác Phật, diệt tham Phật, Đại diệm Vương Phật, tịch chư hữu Phật, tỳ xá khư Thiên Phật,
Kim Cương sơn Phật, trí diệm đức Phật, an ổn Phật, sư tử xuất hiện Phật, viên mãn thanh tịnh Phật, thanh tịnh hiền Phật, đệ nhất nghĩa Phật, bách quang minh Phật, tối tăng thượng Phật, thâm tự tại Phật, Đại địa Vương Phật, Trang nghiêm Vương Phật, giải thoát Phật, Diệu-Âm Phật, thù thắng Phật, tự tại Phật, vô thượng y vương Phật, công đức nguyệt Phật, vô ngại quang Phật, công đức tụ Phật, nguyệt hiện Phật, nhật thiên Phật, xuất chư hữu Phật, dũng mãnh danh xưng Phật, quang minh môn Phật, Ta La Vương Phật,Kim-Cang-Trí-Sơn Phật, Diệu-Ðức-Tạng Phật, Bửu-Võng-Nghiêm-Thân Phật, Thiện-Huệ Phật, Tự-Tại-Thiên Phật, Ðại-Thiên-Vương Phật, Vô-Y-Ðức Phật, Thiện-Thí Phật, Diệm-Huệ Phật, Thủy-Thiên Phật, Ðắc-Thượng-Vị Phật, Xuất-Sanh-Vô-Thượng-Công-Ðức Phật, Tiên-Nhân-Thị-Vệ Phật, Tùy-Thế-Ngữ-Ngôn Phật, Công-Ðức-Tự-Tại-Tràng Phật, Quang-Tràng Phật, Quán-Thân Phật, Diệu-Thân Phật, Hương-Diệm Phật, Kim-Cang-Bửu-Nghiêm Phật, Hỉ-Nhãn Phật, Ly-Dục Phật, Cao-Ðại-Thân Phật, Tài-Thiên Phật, Vô-Thượng-Thiên Phật, Thuận-Tịch-Diệt Phật, Trí-Giác Phật, Diệt-Tham Phật, Ðại-Diệm-Vương Phật, Tịch-Chư-Hữu Phật, Tỳ-Xá-Khư-Thiên Phật, Kim-Cang-Sơn Phật, Trí-Diệm-Ðức Phật, An-Ổn Phật, Sư-Tử-Xuất-Hiện Phật, Viên-Mãn-Thanh-Tịnh Phật, Thanh-Tịnh-Hiền Phật, Ðệ-Nhất-Nghĩa Phật, Bá-Quang-Minh Phật, Tối-Tăng-Thượng Phật, Thâm-Tự-Tại Phật, Ðại-Ðịa-Vương Phật, Trang-Nghiêm-Vương Phật, Giải-Thoát Phật, Diệu-Âm Phật, Thù-Thắng Phật, Tự-Tại Phật, Vô-Thương-Y-Vương Phật, Công-Ðức-Nguyệt Phật, Vô-Ngại-Quang Phật, Công-Ðức-Tụ Phật, Nguyệt-Hiện Phật, Nhựt-Thiên Phật, Xuất-Chư-Hữu Phật, Dũng-Mãnh-Danh-Xưng Phật, Quang-Minh-Môn Phật, Ta-La-Vương Phật
Tối thắng Phật, dược Vương Phật, bảo Thắng Phật, Kim Cương tuệ Phật, Vô năng thắng Phật, vô năng ánh tế Phật, chúng hội Vương Phật, Đại danh xưng Phật, mẫn trì Phật, Vô Lượng Quang Phật, đại nguyện quang Phật, pháp tự tại bất hư Phật, bất thoái địa Phật, tịnh thiên Phật, thiện Thiên Phật, kiên cố khổ hạnh Phật, nhất thiết thiện hữu Phật, giải thoát âm Phật, du hí Vương Phật, diệt tà khúc Phật, đảm bặc Tịnh Quang Phật, cụ chúng đức Phật, tối thắng nguyệt Phật, chấp minh cự Phật, thù diệu thân Phật, bất khả thuyết Phật, tối thanh tịnh Phật, hữu an chúng sanh Phật, Vô Lượng Quang Phật, vô úy âm Phật, thủy thiên đức Phật, bất động tuệ quang Phật, hoa Thắng Phật, nguyệt diệm Phật, bất thoái tuệ Phật, ly ái Phật, Vô Trước tuệ Phật, tập công đức uẩn Phật, diệt ác thú Phật, phổ tán hoa Phật, sư tử hống Phật, đệ nhất nghĩa Phật, vô ngại kiến Phật, phá tha quân Phật, bất trước tướng Phật, ly phân biệt hải Phật, đoan nghiêm hải Phật, Tu-di sơn Phật, Vô Trước trí Phật,
Tối-Thắng Phật, Dược-Vương Phật, Bửu-Thắng Phật, Kim-Cang-Huệ Phật, Vô-Năng-Thắng Phật, Vô-Năng-Ánh-Tế Phật, Chúng-Hội-Vương Phật, Ðại-Danh-Xưng Phật, Mẫn-Trì Phật, Vô-Lương-Quang Phật, Ðại-Nguyện-Quang Phật, Pháp-Tự-Tại-Bất-Hư Phật, Bất-Thối-Ðịa Phật, Tịnh-Thiên Phật, Thiện-Sư Phật, Kiên-Cố-Khổ-Hạnh Phật, Nhất-Thiết-Thiện-Hữu Phật, Giải-Thoát-Âm Phật, Du-Hí-Vương Phật, Diệt-Tà-Khúc Phật, Chiêm-Bặc-Tịnh-Quang Phật, Cụ-Chúng-Ðức Phật, Tối-Thắng-Nguyệt Phật, Chấp-Minh-Cự Phật, Thù Diệu-Thân Phật, Bất-Khả-Thuyết Phật, Tối-Thanh-Tịnh Phật, Hữu-An-Chúng-Sanh Phật, Vô-Lượng-Quang Phật, Vô-Úy-Âm Phật, Thủy-Thiên-Ðức Phật, Bất-Ðộng-Huệ-Quang Phật, Hoa-Thắng Phật, Nguyệt-Diêm Phật, Bất-Thối-Huệ Phật, Ly-Ái Phật, Vô-Trước-Huệ Phật, Tập-Công-Ðức-Uẩn Phật, Diệt-Ác-Thú Phật, Phổ-Tán-Hoa Phật, Sư-Tử-Hống Phật, Ðệ-Nhất-Nghĩa Phật, Vô-Ngại-Kiến Phật, Phá-Tha-Quân Phật, Bất-Trước-Tướng Phật, Ly-Phân-Biệt-Hải Phật, Ðoan-Nghiêm-Hải Phật, Tu-Di-Sơn Phật, Vô-Trước-Trí Phật
Vô biên tọa Phật, thanh tịnh trụ Phật, tùy sư hạnh Phật, tối thượng thí Phật, thường nguyệt Phật, nhiêu ích Vương Phật, bất động tụ Phật, phổ nhiếp thọ Phật, nhiêu ích tuệ Phật, trì thọ Phật, vô diệt Phật, cụ túc danh xưng Phật, đại uy lực Phật, chủng chủng sắc tướng Phật, vô tướng tuệ Phật, bất động Thiên Phật, diệu đức nan tư Phật, mãn nguyệt Phật, giải thoát nguyệt Phật, vô thượng Vương Phật, hy hữu thân Phật, phạm cúng dường Phật, bất thuấn Phật, thuận tiên cổ Phật, tối thượng nghiệp Phật, thuận Pháp trí Phật, Vô thắng Thiên Phật, bất tư nghị công đức quang Phật, Tuỳ Pháp hành Phật, vô lượng hiền Phật, phổ tùy thuận tự tại Phật, tối tôn Thiên Phật, như thị nãi chí Lâu-chí Như Lai, tại hiền kiếp trung, ư thử tam thiên đại thiên thế giới, đương thành Phật giả, tất vi kỳ mẫu.
Vô-Biên-Toà Phật, Thanh-Tịnh-Trụ Phật, Tùy-Sư-Hành Phật, Tối-Thượng-Thí Phật, Thường-Nguyệt Phật, Nhiêu-Ích-Vương Phật, Bất-Ðộng-Tụ Phật, Phổ-Nhiếp-Thọ Phật, Nhiêu-Ích-Huệ Phật, Trì-Thọ Phật, Vô-Diệt Phật, Cụ-Túc-Danh-Xưng Phật, Ðại-Oai-Lực Phật, Chủng-Chủng-Sắc-Tướng Phật, Vô-Tướng-Huệ Phật, Bất-Ðộng-Thiên Phật, Diệu-Ðức-Nan-Tư Phật, Mãn-Nguyệt Phật, Giải-Thoát-Nguyệt Phật, Vô-Thượng-Vương Phật, Hi-Hữu-Thân Phật, Phạm-Cúng-Dường Phật, Bất-Thuấn Phật, Thuận-Tiên-Cổ Phật, Tối-Thượng-Nghiệp Phật, Thuận-Pháp-Trí Phật, Vô-Thắng-Thiên Phật, Bất-Tư-Nghì-Công-Ðức-Quang Phật, Tùy-Pháp-Hành Phật, Vô-Lượng-Hiền Phật, Phổ-Tùy-Thuận-Tự-Tại Phật, Tối-Tôn-Thiên Phật, nhẫn đến đức Lâu-Chí Như-Lai, tất cả là một ngàn đức Phật đã và sẽ thành Phật trong Hiền-Kiếp nơi Ta-Bà thế-giới nầy, ta đều làm mẹ của các Ngài.
Các đức Phật thứ tự xuất hiện ra đời như vậy, có đức Phật Sư Tử, cho đến đức Phật Lâu Chí. Đưa ra gồm có một trăm chín mươi bốn vị Phật làm đại biểu. Danh hiệu của các vị Phật xin hãy xem Kinh văn, khỏi nói ở đây. Ma Gia phu nhân nói, những vị Phật đó, ở trong kiếp Hiền, sẽ thành Phật trong ba ngàn đại thiên thế giới nầy, ta đều làm mẹ của các Ngài.
Như ư thử tam thiên đại thiên thế giới, như thị ư thử thế giới hải thập phương vô lượng chư thế giới nhất thiết kiếp trung, chư hữu tu hành Phổ Hiền hạnh nguyện, vi hóa nhất thiết chư chúng sanh giả, ngã tự kiến thân tất vi kỳ mẫu.
Cũng như ở cõi Ðại-Thiên nầy, vô-lượng thế-giới ở mười phương, trong tất cả kiếp, những bực tu hành hạnh nguyện Phổ-Hiền để hóa độ chúng-sanh, ta đều tự thấy thân mình làm mẹ của các Ngài.
Như trong ba ngàn đại thiên thế giới nầy, trong biển thế giới mười phương vô lượng các thế giới, tất cả kiếp như vậy, như có tu hành hạnh nguyện Bồ Tát Phổ Hiền, vì giáo hoá tất cả các chúng sinh, ta tự thấy thân mình, đều làm mẹ của các Ngài.
Nhĩ thời, Thiện tài đồng tử bạch Ma Da Phu nhân ngôn: đại thánh đắc thử giải thoát, Kinh kim kỷ thời?
Lúc đó, Thiện-Tài bạch rằng: Ðại-Thánh được môn giải-thoát nầy đến nay là bao nhiêu thời-gian?
Giảng: Lúc đó, Thiện Tài đồng tử bạch Ma Gia phu nhân rằng: Đức Thánh! Ngài đắc được môn giải thoát Bồ Tát đại nguyện trí huyễn nầy, đến nay đã được bao lâu?
Đáp ngôn: Thiện nam tử! nãi vãng cổ thế, qua bất khả tư nghị phi tối hậu thân Bồ Tát thần thông đạo nhãn sở tri kiếp số, Nhĩ thời hữu kiếp danh: Tịnh Quang, thế giới danh: Tu-Di đức, tuy hữu chư sơn ngũ thú tạp cư, nhiên kỳ quốc độ chúng bảo sở thành, thanh tịnh trang nghiêm vô chư uế ác.
Ma-Gia Phu-Nhơn nói: Nầy Thiện-nam-tử! Thuở xưa, quá bất-tư-nghì kiếp số, chẳng phải đạo-nhãn của bực tối-hậu-thân Bồ-Tát biết được, có kiếp tên là Tịnh-Quang, thế-giới tên là Tu-Di-Ðức, dầu là năm loài ở lộn lạo, nhưng cõi đó bằng những chất báu thanh-tịnh trang-nghiêm không có sự nhơ uế xấu xí.
Giảng: Ma Gia phu nhân đáp rằng: Thiện nam tử! Vào thuở xa xưa, trải qua số kiếp không thể nghĩ bàn, chẳng phải thần thông đạo nhãn của Bồ Tát thân cuối cùng biết được số kiếp đó. Lúc bấy giờ, có kiếp tên là Tịnh Quang. Thế giới tên là Tu Di Đức, tuy có các núi cao, là nơi năm loài cùng ở với nhau. Nhưng cõi nước đó, làm bằng các châu báu, rất thanh tịnh trang nghiêm, không có sự dơ bẩn xấu ác.
Hữu thiên ức tứ thiên hạ, hữu nhất tứ thiên hạ, danh: Sư-tử-tràng, ư trung hữu bát thập ức vương thành. Hữu nhất vương thành, danh: tự tại tràng; hữu Chuyển luân Vương, danh: đại uy đức.
Cõi đó có ngàn ức Tứ-Thiên-Hạ. Trong đó có một Tứ-Thiên-Hạ tên là Sư-Tử-Tràng. Nơi đây có tám mươi ức Vương-Thành. Có một Vương-Thành tên là Tự-Tại-Tràng, ngự trị bởi Chuyển-Luân-Vương tên là Ðại-Oai-Ðức.
Giảng: Có ngàn ức bốn thiên hạ, có một bốn thiên hạ tên là Sư Tử Tràng. Trong đó có tám mươi ức thành vua, có một thành vua tên là Tự Tại Tràng, có vị Chuyển Luân Thánh Vương, tên là Đại Oai Đức.
Bỉ vương thành Bắc, hữu nhất đạo tràng, danh: mãn nguyệt quang minh; kỳ đạo tràng thần, danh viết: từ đức.
Phía bắc Vương-Thành Tự-Tại-Tràng, có một đạo-tràng tên là Mãn-Nguyệt-Quang-Minh. Thần đạo-tràng nầy tên là Từ-Ðức.
Giảng: Hướng bắc thành vua Tự Tại Tràng đó, có một đạo tràng, tên là Mãn Nguyệt Quang Minh, có vị Thần Đạo Tràng, tên là Từ Đức.
Thời, hữu Bồ Tát, danh: ly cấu tràng, tọa ư đạo tràng, tướng thành chánh giác. Hữu nhất ác ma, danh: kim sắc quang, dữ kỳ quyến thuộc vô lượng chúng câu, chí Bồ Tát sở.
Bấy giờ có Bồ-Tát tên là Ly-Cấu-Tràng ngồi nơi đạo-tràng nầy thành Ðẳng-Chánh-Giác. Có một ác-ma tên là Kim-Sắc-Quang cùng quyến thuộc vô-lượng chúng câu hội đến chỗ Bồ-Tát.
Giảng: Bấy giờ, có vị Bồ Tát hiệu là Ly Cấu Tràng, ngồi nơi đạo tràng sắp thành Chánh Giác, thì có một ác quỷ, tên là Kim Sắc Quang, cùng với quyến thuộc vô lượng chúng tụ hội, đi đến chỗ đạo tràng Bồ Tát Ly Cấu Tràng, để nhiễm loạn tâm Ngài, chẳng muốn Ngài thành Đẳng Chánh Giác.
Bỉ đại uy đức Chuyển luân Thánh Vương dĩ đắc Bồ Tát thần thông tự tại, hóa tác binh chúng, kỳ số bội đa, vi nhiễu đạo tràng; chư ma hoàng phố, tất tự bôn tán; cố bỉ Bồ Tát đắc thành A-nậu-đa-la tam-miệu-tam Bồ-đề.
Chuyển-Luân-Vương Ðại-Oai-Ðức đã được bồ-tát thần-thông tự-tại, biến hóa binh chúng đông hơn quân ma bao vây đạo-tràng. Quân ma sợ hãi tự tan rã. Do đó Bồ-Tát Ly-Cấu-Tràng thành Vô-Thượng Chánh-Giác.
Giảng: Vị Chuyển Luân Thánh Vương Đại Oai Đức đó, đã đắc được thần thông tự tại của Bồ Tát, có thể biến hoá ra vô lượng binh chúng, số nhiều gấp bội hơn chúng ma, vây quanh đạo tràng, giữ gìn vị Bồ Tát Ly Cấu Tràng. Ác ma Kim Sắc Quang và quyến thuộc của chúng đều kinh hoàng sợ hãi, tự động tan rã bỏ chạy. Lúc đó, Bồ Tát Ly Cấu Tràng đó chứng được thành tựu quả vị Phật A nậu đa la tam miệu tam bồ đề (Chánh Đẳng Chánh Giác).
Thời, đạo tràng thần kiến thị sự dĩ, hoan hỉ vô lượng, tiện ư bỉ Vương nhi sanh tử tưởng, đảnh lễ Phật túc, tác thị nguyện ngôn: thử Chuyển luân Vương, tại tại sanh xứ, nãi chí thành Phật, nguyện ngã thường đắc dữ kỳ vi mẫu.
Thần đạo-tràng thấy sự việc trên đây, lòng hoan hỉ vô-lượng, với Chuyển-Luân-Vương tưởng là con trai của mình, đối trước Phật pháp nguyện rằng: Chuyển-Luân-Vương nầy chẳng luận sanh chỗ nào, nguyện tôi đều làm mẹ của Vương, nhẫn đến đời Vương thành Phật cũng vậy.
Giảng: Lúc đó, vị Thần Đạo Tràng Từ Đức thấy việc đó rồi, sinh tâm hoan hỉ vô lượng, bèn nghĩ tưởng vị Chuyển Luân Thánh Vương Đại Oai Đức đó là con của mình. Bèn đảnh lễ đức Phật, phát nguyện rằng: Tương lai vị Chuyển Luân Thánh Vương nầy sinh ở chỗ nào, cho đến khi thành Phật, nguyện cho tôi thường được làm mẹ của Ngài.
Tác thị nguyện dĩ, ư thử đạo tràng, phục tằng cúng dường thập na-do-tha Phật.
Sau khi phát nguyện, nơi đạo-tràng ấy, Thần lại từng cúng dường mười na-do-tha đức Phật.
Giảng: Phát nguyện đó rồi, ở nơi đạo tràng đó, lại từng cúng dường mười Na do tha vị Phật.
Thiện nam tử! ư nhữ ý vân hà, bỉ đạo tràng thần khởi dị nhân hồ? Ngã thân thị dã. Chuyển luân Vương giả, kim Thế Tôn Tỳ Lô Giá Na thị.
Nầy Thiện-nam-tử! Thuở xưa ấy, Thần đạo-tràng tên Từ-Ðức chính là tiền thân của ta. Chuyển-Luân-Vương Ðại-Oai-Ðức là tiền thân của đức Tỳ-Lô-Giá-Na Như-Lai.
Giảng: Thiện nam tử! Ý ngươi như thế nào? Vị Thần Đạo Tràng đó đâu phải là người nào khác, chính là thân ta (Ma Gia phu nhân) vậy. Còn vị Chuyển Luân Thánh Vương đó, đâu phải là ai khác, nay chính là đức Thế Tôn Tỳ Lô Giá Na (Phật Thích Ca Mâu Ni) vậy.
Ngã tùng ư bỉ phát nguyện dĩ lai, thử Phật Thế tôn, ư thập phương sát nhất thiết chư thú, xứ xứ thọ sanh, chủng chư thiện căn, tu Bồ Tát hạnh, giáo hóa thành tựu nhất thiết chúng sanh, nãi chí thị hiện trụ tối hậu thân, niệm niệm phổ ư nhất thiết thế giới, thị hiện Bồ Tát thọ sanh thần biến, thường vi ngã tử, ngã thường vi mẫu.
Từ lúc ta phát nguyện thuở xưa ấy, đức Tỳ-Lô-Giá-Na Như-Lai phàm thọ sanh ở xứ nào cõi nào tu bồ-tát hạnh gieo thiện-căn giáo-hóa chúng-sanh, nhẫn đến thị-hiện tối-hậu-thân, mỗi niệm khắp tất cả thế-giới, thị-hiện thần-biến bồ-tát thọ sanh, thường làm con trai của ta, ta thường làm mẹ của Ngài.
Giảng: Ma Gia phu nhân nói: Từ đó ta phát nguyện đến nay, đức Phật Thế Tôn nầy, ở trong mười phương cõi nước, tất cả các loài, nơi nơi thọ sinh. Tại sao? Vì thị hiện ra loài đó, thì mới có thể giáo hoá loài chúng sinh đó. Bởi nhân duyên đó, cho nên thị hiện chúng sinh thai, noãn, thấp hoá. Bất cứ trong loài nào, cũng đều trồng tất cả căn lành, tu tất cả Bồ Tát hạnh, giáo hoá chúng sinh chín pháp giới, thành tựu chúng sinh chín pháp giới, cho đến thị hiện trụ thân cuối cùng, tức là thân sắp thành Phật. Niệm niệm khắp trong tất cả thế giới, thị hiện Bồ Tát thọ sinh thần biến, thường làm con của ta, ta thường làm mẹ của Ngài.
Thiện nam tử! quá khứ, hiện tại thập phương thế giới vô lượng chư Phật tướng thành Phật thời, giai ư tề trung phóng đại quang minh, lai chiếu ngã thân cập ngã sở trụ cung điện ốc trạch; bỉ tối hậu sanh, ngã tất vi mẫu.
Nầy Thiện-nam-tử! Quá-khứ và hiện-tại thập phương thế-giới, vô-lượng chư Phật lúc sắp thành Ðẳng-Chánh-Giác, đều từ nơi rốn phóng đại-quang-minh chiếu đến thân ta và cung-diện của ta ở tối-hâu-thân của các Ngài, ta đều làm mẹ.
Giảng: Thiện nam tử! Quá khứ, hiện tại, mười phương thế giới, có vô lượng chư Phật lúc sắp thành Phật, ở nơi rốn của các Ngài đều phóng đại quang minh, để chiếu đến thân ta và cung điện nhà cửa chỗ của ta ở. Cho đến thân cuối cùng của các Ngài, ta đều làm mẹ của các Ngài.
Thiện nam tử! ngã duy tri thử Bồ Tát Đại nguyện trí huyễn giải thoát môn.
Nầy Thiện-nam-tử! Ta chỉ biết môn giải-thoát bồ-tát đại-nguyện-trí-huyễn nầy.
Giảng: Thiện nam tử! Ta chỉ biết môn giải thoát Bồ Tát đại nguyện trí huyễn nầy, những môn giải thoát khác không thể biết được.
Như chư Bồ-Tát Ma-ha-tát, cụ đại bi tạng, giáo hóa chúng sanh thường Vô yếm túc, dĩ tự tại lực, nhất nhất mao khổng thị hiện vô lượng chư Phật thần biến; ngã kim vân hà năng tri năng thuyết bỉ công đức hạnh?
Như chư đại Bồ-Tát có đủ tạng đại-bi giáo-hóa chúng-sanh thường không nhàm đủ, dùng sức tự-tại mỗi mỗi lỗ lông thị-hiện thần-biến của vô lượng chư Phật. Ta thế nào biết được nói được công-đức-hạnh ấy.
Giảng: Như các đại Bồ Tát đủ đại bi tạng, để giáo hoá tất cả chúng sinh, thường không khi nào nhàm đủ. Dùng sức nhậm vận tự tại, trong mỗi mỗi lỗ chân lông, thị hiện vô lượng thần biến của chư Phật. Nay ta làm sao biết được, nói được, những hạnh công đức đó?
Thiện nam tử! ư thử thế giới tam thập tam thiên, hữu Vương danh: chánh niệm, kỳ Vương hữu nữ danh: Thiên Chủ quang.
Nầy Thiện-nam-tử! Ở thế-giới nầy, nơi Ðao-Lợi-Thiên, có Thiên-Vương tên là Chánh-Niệm. Thiên-Vương có người con gái tên là Thiện Chủ-Quang.
Giảng: Thiện nam tử! Tại cõi trời Tam Thập Tam (trời Đao Lợi) thế giới Ta Bà nầy, có vị Thiên Vương tên là Chánh Niệm. Vị Thiên Vương đó có người con gái, tên là Thiên Chủ Quang.
Nhữ nghệ bỉ vấn: Bồ Tát vân hà học Bồ Tát hạnh, tu Bồ Tát đạo? thời, Thiện tài đồng tử kính thọ kỳ giáo, đầu diện tác lễ, nhiễu vô số tạp, luyến mộ chiêm ngưỡng, khước hành nhi thoái.
Ngươi đến đó hỏi Bồ-Tát thế nào học bồ-tát-hạnh, tu bồ-tát-đạo? Thiện-Tài Ðồng-Tử kỉnh lễ nơi chân Ma-Gia Phu-Nhơn, hữu nhiễu vô số vòng, luyến mộ chiêm ngưỡng từ tạ mà đi.
Giảng: Ngươi hãy đến đó hỏi cô ta: Thánh nữ, Bồ Tát làm thế nào học Bồ Tát hạnh, làm thế nào tu Bồ Tát đạo? Cô ta sẽ nói rõ cho ngươi biết. Lúc đó, Thiện Tài đồng tử cung kính thọ nhận lời dạy của Ma Gia phu nhân, bèn cuối đầu làm lễ, rồi đi nhiễu quanh bên phải vô lượng vòng, ái mộ chiêm ngưỡng, từ tạ mà đi đến cõi trời tham vấn Thánh nữ Thiên Chủ Quang, thỉnh giáo vấn đề muốn biết.
Tối thắng Phật, dược Vương Phật, bảo Thắng Phật, Kim Cương tuệ Phật, Vô năng thắng Phật, vô năng ánh tế Phật, chúng hội Vương Phật, Đại danh xưng Phật, mẫn trì Phật, Vô Lượng Quang Phật, đại nguyện quang Phật, pháp tự tại bất hư Phật, bất thoái địa Phật, tịnh thiên Phật, thiện Thiên Phật, kiên cố khổ hạnh Phật, nhất thiết thiện hữu Phật, giải thoát âm Phật, du hí Vương Phật, diệt tà khúc Phật, đảm bặc Tịnh Quang Phật, cụ chúng đức Phật, tối thắng nguyệt Phật, chấp minh cự Phật, thù diệu thân Phật, bất khả thuyết Phật, tối thanh tịnh Phật, hữu an chúng sanh Phật, Vô Lượng Quang Phật, vô úy âm Phật, thủy thiên đức Phật, bất động tuệ quang Phật, hoa Thắng Phật, nguyệt diệm Phật, bất thoái tuệ Phật, ly ái Phật, Vô Trước tuệ Phật, tập công đức uẩn Phật, diệt ác thú Phật, phổ tán hoa Phật, sư tử hống Phật, đệ nhất nghĩa Phật, vô ngại kiến Phật, phá tha quân Phật, bất trước tướng Phật, ly phân biệt hải Phật, đoan nghiêm hải Phật, Tu-di sơn Phật, Vô Trước trí Phật,
Tối-Thắng Phật, Dược-Vương Phật, Bửu-Thắng Phật, Kim-Cang-Huệ Phật, Vô-Năng-Thắng Phật, Vô-Năng-Ánh-Tế Phật, Chúng-Hội-Vương Phật, Ðại-Danh-Xưng Phật, Mẫn-Trì Phật, Vô-Lương-Quang Phật, Ðại-Nguyện-Quang Phật, Pháp-Tự-Tại-Bất-Hư Phật, Bất-Thối-Ðịa Phật, Tịnh-Thiên Phật, Thiện-Sư Phật, Kiên-Cố-Khổ-Hạnh Phật, Nhất-Thiết-Thiện-Hữu Phật, Giải-Thoát-Âm Phật, Du-Hí-Vương Phật, Diệt-Tà-Khúc Phật, Chiêm-Bặc-Tịnh-Quang Phật, Cụ-Chúng-Ðức Phật, Tối-Thắng-Nguyệt Phật, Chấp-Minh-Cự Phật, Thù Diệu-Thân Phật, Bất-Khả-Thuyết Phật, Tối-Thanh-Tịnh Phật, Hữu-An-Chúng-Sanh Phật, Vô-Lượng-Quang Phật, Vô-Úy-Âm Phật, Thủy-Thiên-Ðức Phật, Bất-Ðộng-Huệ-Quang Phật, Hoa-Thắng Phật, Nguyệt-Diêm Phật, Bất-Thối-Huệ Phật, Ly-Ái Phật, Vô-Trước-Huệ Phật, Tập-Công-Ðức-Uẩn Phật, Diệt-Ác-Thú Phật, Phổ-Tán-Hoa Phật, Sư-Tử-Hống Phật, Ðệ-Nhất-Nghĩa Phật, Vô-Ngại-Kiến Phật, Phá-Tha-Quân Phật, Bất-Trước-Tướng Phật, Ly-Phân-Biệt-Hải Phật, Ðoan-Nghiêm-Hải Phật, Tu-Di-Sơn Phật, Vô-Trước-Trí Phật
Vô biên tọa Phật, thanh tịnh trụ Phật, tùy sư hạnh Phật, tối thượng thí Phật, thường nguyệt Phật, nhiêu ích Vương Phật, bất động tụ Phật, phổ nhiếp thọ Phật, nhiêu ích tuệ Phật, trì thọ Phật, vô diệt Phật, cụ túc danh xưng Phật, đại uy lực Phật, chủng chủng sắc tướng Phật, vô tướng tuệ Phật, bất động Thiên Phật, diệu đức nan tư Phật, mãn nguyệt Phật, giải thoát nguyệt Phật, vô thượng Vương Phật, hy hữu thân Phật, phạm cúng dường Phật, bất thuấn Phật, thuận tiên cổ Phật, tối thượng nghiệp Phật, thuận Pháp trí Phật, Vô thắng Thiên Phật, bất tư nghị công đức quang Phật, Tuỳ Pháp hành Phật, vô lượng hiền Phật, phổ tùy thuận tự tại Phật, tối tôn Thiên Phật, như thị nãi chí Lâu-chí Như Lai, tại hiền kiếp trung, ư thử tam thiên đại thiên thế giới, đương thành Phật giả, tất vi kỳ mẫu.
Vô-Biên-Toà Phật, Thanh-Tịnh-Trụ Phật, Tùy-Sư-Hành Phật, Tối-Thượng-Thí Phật, Thường-Nguyệt Phật, Nhiêu-Ích-Vương Phật, Bất-Ðộng-Tụ Phật, Phổ-Nhiếp-Thọ Phật, Nhiêu-Ích-Huệ Phật, Trì-Thọ Phật, Vô-Diệt Phật, Cụ-Túc-Danh-Xưng Phật, Ðại-Oai-Lực Phật, Chủng-Chủng-Sắc-Tướng Phật, Vô-Tướng-Huệ Phật, Bất-Ðộng-Thiên Phật, Diệu-Ðức-Nan-Tư Phật, Mãn-Nguyệt Phật, Giải-Thoát-Nguyệt Phật, Vô-Thượng-Vương Phật, Hi-Hữu-Thân Phật, Phạm-Cúng-Dường Phật, Bất-Thuấn Phật, Thuận-Tiên-Cổ Phật, Tối-Thượng-Nghiệp Phật, Thuận-Pháp-Trí Phật, Vô-Thắng-Thiên Phật, Bất-Tư-Nghì-Công-Ðức-Quang Phật, Tùy-Pháp-Hành Phật, Vô-Lượng-Hiền Phật, Phổ-Tùy-Thuận-Tự-Tại Phật, Tối-Tôn-Thiên Phật, nhẫn đến đức Lâu-Chí Như-Lai, tất cả là một ngàn đức Phật đã và sẽ thành Phật trong Hiền-Kiếp nơi Ta-Bà thế-giới nầy, ta đều làm mẹ của các Ngài.
Các đức Phật thứ tự xuất hiện ra đời như vậy, có đức Phật Sư Tử, cho đến đức Phật Lâu Chí. Đưa ra gồm có một trăm chín mươi bốn vị Phật làm đại biểu. Danh hiệu của các vị Phật xin hãy xem Kinh văn, khỏi nói ở đây. Ma Gia phu nhân nói, những vị Phật đó, ở trong kiếp Hiền, sẽ thành Phật trong ba ngàn đại thiên thế giới nầy, ta đều làm mẹ của các Ngài.
Như ư thử tam thiên đại thiên thế giới, như thị ư thử thế giới hải thập phương vô lượng chư thế giới nhất thiết kiếp trung, chư hữu tu hành Phổ Hiền hạnh nguyện, vi hóa nhất thiết chư chúng sanh giả, ngã tự kiến thân tất vi kỳ mẫu.
Cũng như ở cõi Ðại-Thiên nầy, vô-lượng thế-giới ở mười phương, trong tất cả kiếp, những bực tu hành hạnh nguyện Phổ-Hiền để hóa độ chúng-sanh, ta đều tự thấy thân mình làm mẹ của các Ngài.
Như trong ba ngàn đại thiên thế giới nầy, trong biển thế giới mười phương vô lượng các thế giới, tất cả kiếp như vậy, như có tu hành hạnh nguyện Bồ Tát Phổ Hiền, vì giáo hoá tất cả các chúng sinh, ta tự thấy thân mình, đều làm mẹ của các Ngài.
Nhĩ thời, Thiện tài đồng tử bạch Ma Da Phu nhân ngôn: đại thánh đắc thử giải thoát, Kinh kim kỷ thời?
Lúc đó, Thiện-Tài bạch rằng: Ðại-Thánh được môn giải-thoát nầy đến nay là bao nhiêu thời-gian?
Giảng: Lúc đó, Thiện Tài đồng tử bạch Ma Gia phu nhân rằng: Đức Thánh! Ngài đắc được môn giải thoát Bồ Tát đại nguyện trí huyễn nầy, đến nay đã được bao lâu?
Đáp ngôn: Thiện nam tử! nãi vãng cổ thế, qua bất khả tư nghị phi tối hậu thân Bồ Tát thần thông đạo nhãn sở tri kiếp số, Nhĩ thời hữu kiếp danh: Tịnh Quang, thế giới danh: Tu-Di đức, tuy hữu chư sơn ngũ thú tạp cư, nhiên kỳ quốc độ chúng bảo sở thành, thanh tịnh trang nghiêm vô chư uế ác.
Ma-Gia Phu-Nhơn nói: Nầy Thiện-nam-tử! Thuở xưa, quá bất-tư-nghì kiếp số, chẳng phải đạo-nhãn của bực tối-hậu-thân Bồ-Tát biết được, có kiếp tên là Tịnh-Quang, thế-giới tên là Tu-Di-Ðức, dầu là năm loài ở lộn lạo, nhưng cõi đó bằng những chất báu thanh-tịnh trang-nghiêm không có sự nhơ uế xấu xí.
Giảng: Ma Gia phu nhân đáp rằng: Thiện nam tử! Vào thuở xa xưa, trải qua số kiếp không thể nghĩ bàn, chẳng phải thần thông đạo nhãn của Bồ Tát thân cuối cùng biết được số kiếp đó. Lúc bấy giờ, có kiếp tên là Tịnh Quang. Thế giới tên là Tu Di Đức, tuy có các núi cao, là nơi năm loài cùng ở với nhau. Nhưng cõi nước đó, làm bằng các châu báu, rất thanh tịnh trang nghiêm, không có sự dơ bẩn xấu ác.
Hữu thiên ức tứ thiên hạ, hữu nhất tứ thiên hạ, danh: Sư-tử-tràng, ư trung hữu bát thập ức vương thành. Hữu nhất vương thành, danh: tự tại tràng; hữu Chuyển luân Vương, danh: đại uy đức.
Cõi đó có ngàn ức Tứ-Thiên-Hạ. Trong đó có một Tứ-Thiên-Hạ tên là Sư-Tử-Tràng. Nơi đây có tám mươi ức Vương-Thành. Có một Vương-Thành tên là Tự-Tại-Tràng, ngự trị bởi Chuyển-Luân-Vương tên là Ðại-Oai-Ðức.
Giảng: Có ngàn ức bốn thiên hạ, có một bốn thiên hạ tên là Sư Tử Tràng. Trong đó có tám mươi ức thành vua, có một thành vua tên là Tự Tại Tràng, có vị Chuyển Luân Thánh Vương, tên là Đại Oai Đức.
Bỉ vương thành Bắc, hữu nhất đạo tràng, danh: mãn nguyệt quang minh; kỳ đạo tràng thần, danh viết: từ đức.
Phía bắc Vương-Thành Tự-Tại-Tràng, có một đạo-tràng tên là Mãn-Nguyệt-Quang-Minh. Thần đạo-tràng nầy tên là Từ-Ðức.
Giảng: Hướng bắc thành vua Tự Tại Tràng đó, có một đạo tràng, tên là Mãn Nguyệt Quang Minh, có vị Thần Đạo Tràng, tên là Từ Đức.
Thời, hữu Bồ Tát, danh: ly cấu tràng, tọa ư đạo tràng, tướng thành chánh giác. Hữu nhất ác ma, danh: kim sắc quang, dữ kỳ quyến thuộc vô lượng chúng câu, chí Bồ Tát sở.
Bấy giờ có Bồ-Tát tên là Ly-Cấu-Tràng ngồi nơi đạo-tràng nầy thành Ðẳng-Chánh-Giác. Có một ác-ma tên là Kim-Sắc-Quang cùng quyến thuộc vô-lượng chúng câu hội đến chỗ Bồ-Tát.
Giảng: Bấy giờ, có vị Bồ Tát hiệu là Ly Cấu Tràng, ngồi nơi đạo tràng sắp thành Chánh Giác, thì có một ác quỷ, tên là Kim Sắc Quang, cùng với quyến thuộc vô lượng chúng tụ hội, đi đến chỗ đạo tràng Bồ Tát Ly Cấu Tràng, để nhiễm loạn tâm Ngài, chẳng muốn Ngài thành Đẳng Chánh Giác.
Bỉ đại uy đức Chuyển luân Thánh Vương dĩ đắc Bồ Tát thần thông tự tại, hóa tác binh chúng, kỳ số bội đa, vi nhiễu đạo tràng; chư ma hoàng phố, tất tự bôn tán; cố bỉ Bồ Tát đắc thành A-nậu-đa-la tam-miệu-tam Bồ-đề.
Chuyển-Luân-Vương Ðại-Oai-Ðức đã được bồ-tát thần-thông tự-tại, biến hóa binh chúng đông hơn quân ma bao vây đạo-tràng. Quân ma sợ hãi tự tan rã. Do đó Bồ-Tát Ly-Cấu-Tràng thành Vô-Thượng Chánh-Giác.
Giảng: Vị Chuyển Luân Thánh Vương Đại Oai Đức đó, đã đắc được thần thông tự tại của Bồ Tát, có thể biến hoá ra vô lượng binh chúng, số nhiều gấp bội hơn chúng ma, vây quanh đạo tràng, giữ gìn vị Bồ Tát Ly Cấu Tràng. Ác ma Kim Sắc Quang và quyến thuộc của chúng đều kinh hoàng sợ hãi, tự động tan rã bỏ chạy. Lúc đó, Bồ Tát Ly Cấu Tràng đó chứng được thành tựu quả vị Phật A nậu đa la tam miệu tam bồ đề (Chánh Đẳng Chánh Giác).
Thời, đạo tràng thần kiến thị sự dĩ, hoan hỉ vô lượng, tiện ư bỉ Vương nhi sanh tử tưởng, đảnh lễ Phật túc, tác thị nguyện ngôn: thử Chuyển luân Vương, tại tại sanh xứ, nãi chí thành Phật, nguyện ngã thường đắc dữ kỳ vi mẫu.
Thần đạo-tràng thấy sự việc trên đây, lòng hoan hỉ vô-lượng, với Chuyển-Luân-Vương tưởng là con trai của mình, đối trước Phật pháp nguyện rằng: Chuyển-Luân-Vương nầy chẳng luận sanh chỗ nào, nguyện tôi đều làm mẹ của Vương, nhẫn đến đời Vương thành Phật cũng vậy.
Giảng: Lúc đó, vị Thần Đạo Tràng Từ Đức thấy việc đó rồi, sinh tâm hoan hỉ vô lượng, bèn nghĩ tưởng vị Chuyển Luân Thánh Vương Đại Oai Đức đó là con của mình. Bèn đảnh lễ đức Phật, phát nguyện rằng: Tương lai vị Chuyển Luân Thánh Vương nầy sinh ở chỗ nào, cho đến khi thành Phật, nguyện cho tôi thường được làm mẹ của Ngài.
Tác thị nguyện dĩ, ư thử đạo tràng, phục tằng cúng dường thập na-do-tha Phật.
Sau khi phát nguyện, nơi đạo-tràng ấy, Thần lại từng cúng dường mười na-do-tha đức Phật.
Giảng: Phát nguyện đó rồi, ở nơi đạo tràng đó, lại từng cúng dường mười Na do tha vị Phật.
Thiện nam tử! ư nhữ ý vân hà, bỉ đạo tràng thần khởi dị nhân hồ? Ngã thân thị dã. Chuyển luân Vương giả, kim Thế Tôn Tỳ Lô Giá Na thị.
Nầy Thiện-nam-tử! Thuở xưa ấy, Thần đạo-tràng tên Từ-Ðức chính là tiền thân của ta. Chuyển-Luân-Vương Ðại-Oai-Ðức là tiền thân của đức Tỳ-Lô-Giá-Na Như-Lai.
Giảng: Thiện nam tử! Ý ngươi như thế nào? Vị Thần Đạo Tràng đó đâu phải là người nào khác, chính là thân ta (Ma Gia phu nhân) vậy. Còn vị Chuyển Luân Thánh Vương đó, đâu phải là ai khác, nay chính là đức Thế Tôn Tỳ Lô Giá Na (Phật Thích Ca Mâu Ni) vậy.
Ngã tùng ư bỉ phát nguyện dĩ lai, thử Phật Thế tôn, ư thập phương sát nhất thiết chư thú, xứ xứ thọ sanh, chủng chư thiện căn, tu Bồ Tát hạnh, giáo hóa thành tựu nhất thiết chúng sanh, nãi chí thị hiện trụ tối hậu thân, niệm niệm phổ ư nhất thiết thế giới, thị hiện Bồ Tát thọ sanh thần biến, thường vi ngã tử, ngã thường vi mẫu.
Từ lúc ta phát nguyện thuở xưa ấy, đức Tỳ-Lô-Giá-Na Như-Lai phàm thọ sanh ở xứ nào cõi nào tu bồ-tát hạnh gieo thiện-căn giáo-hóa chúng-sanh, nhẫn đến thị-hiện tối-hậu-thân, mỗi niệm khắp tất cả thế-giới, thị-hiện thần-biến bồ-tát thọ sanh, thường làm con trai của ta, ta thường làm mẹ của Ngài.
Giảng: Ma Gia phu nhân nói: Từ đó ta phát nguyện đến nay, đức Phật Thế Tôn nầy, ở trong mười phương cõi nước, tất cả các loài, nơi nơi thọ sinh. Tại sao? Vì thị hiện ra loài đó, thì mới có thể giáo hoá loài chúng sinh đó. Bởi nhân duyên đó, cho nên thị hiện chúng sinh thai, noãn, thấp hoá. Bất cứ trong loài nào, cũng đều trồng tất cả căn lành, tu tất cả Bồ Tát hạnh, giáo hoá chúng sinh chín pháp giới, thành tựu chúng sinh chín pháp giới, cho đến thị hiện trụ thân cuối cùng, tức là thân sắp thành Phật. Niệm niệm khắp trong tất cả thế giới, thị hiện Bồ Tát thọ sinh thần biến, thường làm con của ta, ta thường làm mẹ của Ngài.
Thiện nam tử! quá khứ, hiện tại thập phương thế giới vô lượng chư Phật tướng thành Phật thời, giai ư tề trung phóng đại quang minh, lai chiếu ngã thân cập ngã sở trụ cung điện ốc trạch; bỉ tối hậu sanh, ngã tất vi mẫu.
Nầy Thiện-nam-tử! Quá-khứ và hiện-tại thập phương thế-giới, vô-lượng chư Phật lúc sắp thành Ðẳng-Chánh-Giác, đều từ nơi rốn phóng đại-quang-minh chiếu đến thân ta và cung-diện của ta ở tối-hâu-thân của các Ngài, ta đều làm mẹ.
Giảng: Thiện nam tử! Quá khứ, hiện tại, mười phương thế giới, có vô lượng chư Phật lúc sắp thành Phật, ở nơi rốn của các Ngài đều phóng đại quang minh, để chiếu đến thân ta và cung điện nhà cửa chỗ của ta ở. Cho đến thân cuối cùng của các Ngài, ta đều làm mẹ của các Ngài.
Thiện nam tử! ngã duy tri thử Bồ Tát Đại nguyện trí huyễn giải thoát môn.
Nầy Thiện-nam-tử! Ta chỉ biết môn giải-thoát bồ-tát đại-nguyện-trí-huyễn nầy.
Giảng: Thiện nam tử! Ta chỉ biết môn giải thoát Bồ Tát đại nguyện trí huyễn nầy, những môn giải thoát khác không thể biết được.
Như chư Bồ-Tát Ma-ha-tát, cụ đại bi tạng, giáo hóa chúng sanh thường Vô yếm túc, dĩ tự tại lực, nhất nhất mao khổng thị hiện vô lượng chư Phật thần biến; ngã kim vân hà năng tri năng thuyết bỉ công đức hạnh?
Như chư đại Bồ-Tát có đủ tạng đại-bi giáo-hóa chúng-sanh thường không nhàm đủ, dùng sức tự-tại mỗi mỗi lỗ lông thị-hiện thần-biến của vô lượng chư Phật. Ta thế nào biết được nói được công-đức-hạnh ấy.
Giảng: Như các đại Bồ Tát đủ đại bi tạng, để giáo hoá tất cả chúng sinh, thường không khi nào nhàm đủ. Dùng sức nhậm vận tự tại, trong mỗi mỗi lỗ chân lông, thị hiện vô lượng thần biến của chư Phật. Nay ta làm sao biết được, nói được, những hạnh công đức đó?
Thiện nam tử! ư thử thế giới tam thập tam thiên, hữu Vương danh: chánh niệm, kỳ Vương hữu nữ danh: Thiên Chủ quang.
Nầy Thiện-nam-tử! Ở thế-giới nầy, nơi Ðao-Lợi-Thiên, có Thiên-Vương tên là Chánh-Niệm. Thiên-Vương có người con gái tên là Thiện Chủ-Quang.
Giảng: Thiện nam tử! Tại cõi trời Tam Thập Tam (trời Đao Lợi) thế giới Ta Bà nầy, có vị Thiên Vương tên là Chánh Niệm. Vị Thiên Vương đó có người con gái, tên là Thiên Chủ Quang.
Nhữ nghệ bỉ vấn: Bồ Tát vân hà học Bồ Tát hạnh, tu Bồ Tát đạo? thời, Thiện tài đồng tử kính thọ kỳ giáo, đầu diện tác lễ, nhiễu vô số tạp, luyến mộ chiêm ngưỡng, khước hành nhi thoái.
Ngươi đến đó hỏi Bồ-Tát thế nào học bồ-tát-hạnh, tu bồ-tát-đạo? Thiện-Tài Ðồng-Tử kỉnh lễ nơi chân Ma-Gia Phu-Nhơn, hữu nhiễu vô số vòng, luyến mộ chiêm ngưỡng từ tạ mà đi.
Giảng: Ngươi hãy đến đó hỏi cô ta: Thánh nữ, Bồ Tát làm thế nào học Bồ Tát hạnh, làm thế nào tu Bồ Tát đạo? Cô ta sẽ nói rõ cho ngươi biết. Lúc đó, Thiện Tài đồng tử cung kính thọ nhận lời dạy của Ma Gia phu nhân, bèn cuối đầu làm lễ, rồi đi nhiễu quanh bên phải vô lượng vòng, ái mộ chiêm ngưỡng, từ tạ mà đi đến cõi trời tham vấn Thánh nữ Thiên Chủ Quang, thỉnh giáo vấn đề muốn biết.
=============================
42. CÔ GÁI THIÊN CHỦ QUANG
HỘI DUYÊN VÀO THẬT TƯỚNG
Thiên Chủ Quang là bi trí thắng dụng, quang tịnh tự tại, nghĩa là phá tối. Thánh nữ Thiên Chủ Quang ở cõi trời Tam Thập Tam, tức là cõi trời Đạo Lợi, Ma Gia phu nhân bỏ hoá chỗ sinh thiên vậy, liền biết Ma Gia phu nhân chẳng phải một mình ở cõi trời. Nên Phổ Kinh có nói rằng, ở thành Ca Tỳ La vậy.
Toại vãng Thiên cung, kiến bỉ Thiên nữ, lễ túc vi nhiễu, hợp chưởng tiền trụ, bạch ngôn: Thánh Giả! ngã dĩ tiên phát a nậu đa la tam miệu tam Bồ-Đề tâm, nhi vị tri Bồ Tát vân hà học Bồ Tát hạnh? vân hà tu Bồ Tát đạo?
Thiện-Tài đến Thiên-Cung Ðao-Lợi, đảnh lễ Thiên-Nữ Thiên-Chủ-Quang, hữu nhiễu cung kính, chắp tay thưa rằng: Ðại-Thánh! Tôi đã phát tâm vô-thượng bồ-đề mà chưa biết Bồ-Tát thế nào học bồ-tát-hạnh, thế nào tu bồ-tát-đạo?
Giảng: Thiện Tài đồng tử chiếu theo sự chỉ thị của Ma Gia phu nhân, đi đến cung trời Tam Thập Tam, thấy vị Thánh nữ Thiên Chủ Quang đó, bèn đảnh lễ, đi nhiễu quanh bên phải vô số vòng, chắp tay cung kính, đứng ở trước vị Thánh nữ bạch rằng: Bạch đức Thánh! Con từ trước đã phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, mà chưa biết Bồ Tát làm thế nào học Bồ Tát hạnh? Làm thế nào tu Bồ Tát đạo?
Ngã văn Thánh Giả thiện năng dụ hối, nguyện vi ngã thuyết!
Tôi nghe Ðại-Thánh khéo có thể dạy bảo, xin chỉ dạy cho.
Giảng: Con nghe Ma Gia phu nhân giới thiệu, nói đức Thánh khéo chỉ dạy chúng sinh, cho nên xin Ngài hãy vì con mà nói nghĩa lý nầy.
Thiên nữ đáp ngôn: Thiện nam tử! ngã đắc Bồ Tát giải thoát, danh: vô ngại niệm thanh tịnh trang nghiêm.
Thiện-Nữ nói: Nầy Thiện-nam-tử! Ta được bồ-tát giải-thoát-môn tên là vô-ngại-niệm thanh-tịnh trang-nghiêm.
Giảng: Thánh nữ Thiên Chủ Quang đáp rằng: Thiện nam tử! Ta đắc được giải thoát tam muội Bồ Tát, tên là Vô Ngại Niệm Thanh Tịnh Trang Nghiêm (dùng một niệm vô ngại trí, quán khắp ba đời, đều hiện rõ, mà không có quá khứ, vị lai, hiện tại. Không lìa niệm khác, vì niệm thanh tịnh. Niệm Phật công đức, có ích bi trí, nên gọi là trang nghiêm).
Thiện nam tử! ngã dĩ thử giải thoát lực, ức niệm quá khứ, hữu tối thắng kiếp, danh: thanh liên hoa. Ngã ư bỉ kiếp trung, cúng dường hằng-hà sa-số chư Phật Như Lai.
Nầy Thiện-nam-tử! Ta ở nơi thế-lực của môn giải-thoát nầy, ghi nhớ quá-khứ có một kiếp tên là thanh-liên-hoa. Trong kiếp đó, ta cúng-dường hằng-hà-sa-số chư Phật Như-Lai.
Giảng: Thiện nam tử! Ta nhờ sức giải thoát nầy, mà nghĩ nhớ lại quá khứ có kiếp tối thù thắng, tên là Thanh Liên Hoa. Ta ở trong kiếp đó, cúng dường chư Phật Như Lai nhiều như số cát sông Hằng.
Bỉ chư Như Lai, tòng sơ xuất gia, ngã giai chiêm phụng, thủ hộ cúng dường, tạo tăng già lam, doanh biện thập vật.
Chư Như-Lai ấy từ khi mới xuất gia, ta đều săn sóc kính thờ kiến tạo tăng-già-lam, sắm sửa vật dụng.
Giảng: Các đức Như Lai đó, từ lúc ban đầu xuất gia, ta đều thờ phụng, hộ trì cúng dường các Ngài. Lại vì các Ngài tạo Tăng già lam (chỗ ở của chư Tăng), lại vì các Ngài sắm sửa tất cả vật dụng cần dùng.
Hựu, bỉ chư Phật tùng vi Bồ-tát trụ mẫu thai thời, đản sanh chi thời, hành thất bộ thời, Đại sư tử hống thời, trụ Đồng tử vị tại cung trung thời, hướng Bồ-đề thụ thành chánh giác thời, chuyển chánh Pháp luân hiện Phật thần biến giáo hóa điều phục chúng sanh chi thời; như thị nhất thiết chư sở tác sự, tùng sơ phát tâm nãi chí Pháp tận, ngã giai minh ức, vô hữu di dư, thường hiện tại tiền, niệm trì bất vong.
Lại lúc chư Phật ấy làm Bồ-Tát ở thai mẹ, lúc đản-sanh, lúc đi bảy bước, lúc đại sư-tử-hống, lúc làm đồng-tử ở tại cung, lúc đến cội bồ-đề thành Ðẳng-Chánh-Giác, lúc chuyển pháp-luân hiện thần-biến giáo-hóa điều phục chúng-sanh, tất cả sự việc nhẫn đến pháp-tận, ta đều ghi nhớ rõ không sai sót.
Giảng: Lại nữa chư Phật đó, từ lúc làm Bồ Tát ở trong thai mẹ, lúc đản sinh, lúc đi bảy bước, lúc đại sư tử hống, lúc còn nhỏ ở trong cung, lúc hướng về cội bồ đề thành Chánh Giác, lúc chuyển bánh xe pháp, lúc thị hiện Phật thần biến, lúc giáo hoá điều phục chúng sinh, tất cả những việc làm như vậy, từ lúc ban đầu phát tâm, cho đến lúc pháp diệt tận, ta đều nhớ rõ ràng, không có sót thừa, những cảnh giới đó thường hiện ra ở trước, nhớ trì không quên mất.
Hựu, ức quá khứ kiếp, danh: thiện địa, ngã ư bỉ cúng dường thập hằng-hà sa-số chư Phật Như Lai;
Ta lại nhớ kiếp quá-khứ tên là Thiện-Ðịa, trong kiếp ấy ta cúng-dường mười hằng-hà-sa-số chư Phật Nhu-Lai.
Giảng: Ta lại nhớ kiếp quá khứ tên là Thiện Địa, ta ở trong kiếp đó, từng cúng dường chư Phật Như Lai, nhiều như số hạt bụi mười sông Hằng.
Hựu, quá khứ kiếp danh vi: diệu đức, ngã ư bỉ cúng dường nhất Phật thế giới vi trần số chư Phật Như Lai;
Ta lại nhớ kiếp quá-khứ tên là Diệu-Ðức, trong kiếp ấy ta cúng-dường một phật-sát vi-trần-số chư Phật Như-Lai.
Giảng: Ta lại nghĩ nhớ kiếp quá khứ tên là Diệu Đức, ta ở trong kiếp đó, cúng dường chư Phật Như Lai, nhiều như số hạt bụi một Phật thế giới.
Hựu, kiếp danh: vô sở đắc, ngã ư bỉ cúng dường bát thập tứ ức bách thiên na-do-tha chư Phật như lai;
Ta lại nhớ kiếp quá-khứ tên là Vô-Sở-Ðắc, trong kiếp ấy ta cúng-dường tám mươi bốn ức trăm ngàn na-do-tha chư Phật Như-Lai.
Giảng: Ta lại nhớ kiếp quá khứ tên là Vô Sở Đắc, ta ở trong kiếp đó, cúng dường tám mươi bốn ức trăm ngàn Na do tha chư Phật Như Lai.
Hựu, kiếp danh: thiện quang, ngã ư bỉ cúng dường Diêm-phù-đề vi trần số chư Phật Như Lai;
Ta lại nhớ kiếp quá-khứ tên là Thiện-Quang trong kiếp ấy ta cúng-dường diêm-phù-đề vi-trần-số chư Phật Như-Lai.
Giảng: Ta lại nhớ kiếp quá khứ tên là Thiện Quang, ta ở trong kiếp đó, cúng dường chư Phật Như Lai, nhiều như số hạt bụi cõi Diêm Phù Đề.
Hựu, kiếp danh: Vô Lượng Quang, ngã ư bỉ cúng dường nhị thập hằng-hà sa-số chư Phật Như Lai;
Ta lại nhớ kiếp quá-khứ tên là Vô-Lượng-Quang, trong kiếp ấy ta cúng-dường hai mươi hằng-hà-sa-số chư Phật Như-Lai.
Giảng: Ta lại nhớ kiếp quá khứ tên là Vô Lượng Quang, ta ở trong kiếp đó, cúng dường chư Phật Như Lai, nhiều như cát hai mươi sông Hằng.
Hựu, kiếp danh: tối thắng đức, ngã ư bỉ cúng dường nhất hằng hà sa số chư Phật Như Lai;
Ta lại nhớ kiếp quá-khứ tên là Tối-Thắng-Ðức, trong kiếp ấy ta cúng-dường một hằng-hà-sa-số chư Phật Như-Lai.
Giảng: Ta lại nhớ kiếp quá khứ tên là Tối Thắng Đức, ta ở trong kiếp đó, cúng dường chư Phật Như Lai, nhiều như số cát một sông Hằng.
Hựu, kiếp danh: thiện bi, ngã ư bỉ cúng dường bát thập hằng-hà sa-số chư Phật Như Lai;
Ta lại nhớ kiếp quá-khứ tên là Thiện-Bi, trong kiếp ấy ta cúng-dường tám mươi hằng-hà-sa-số chư Phật Như-Lai.
Giảng: Ta lại nhớ kiếp quá khứ tên là Thiện Bi, ta ở trong kiếp đó, cúng dường chư Phật Như Lai, nhiều như số cát tám mươi sông Hằng.
Hựu, kiếp danh: thắng du, ngã ư bỉ cúng dường lục thập hằng-hà sa-số chư Phật Như Lai;
Ta lại nhớ kiếp quá-khứ tên là Thắng-Du, trong kiếp ấy ta cúng-dường sáu mươi hằng-hà-sa-số chư Phật Như-Lai.
Giảng: Ta lại nhớ kiếp quá khứ tên là Thắng Du, ta ở trong kiếp đó, cúng dường chư Phật Như Lai, nhiều như số cát sáu mươi sông Hằng.
Hựu, kiếp danh: diệu nguyệt, ngã ư bỉ cúng dường thất thập hằng-hà sa-số chư Phật Như Lai.
Ta lại nhớ kiếp quá-khứ tên là Diệu-Nguyệt, trong kiếp ấy ta cúng-dường bảy mươi hằng-hà-sa-số chư Phật Như-Lai.
Giảng: Ta lại nhớ kiếp quá khứ tên là Diệu Nguyệt, ta ở trong kiếp đó, cúng dường chư Phật Như Lai, nhiều như số cát bảy mươi sông Hằng.
Thiện nam tử! như thị ức niệm hằng hà sa kiếp, ngã thường bất xả chư Phật Như Lai, ưng, chánh đẳng giác, tòng bỉ nhất thiết chư Như Lai sở, văn thử vô ngại niệm thanh tịnh trang nghiêm Bồ Tát giải thoát, thọ trì tu hành hằng bất vong thất.
Nầy Thiện-nam-tử! Ghi nhớ quá-khứ hằng-hà-sa-số kiếp như vậy, ta thường chẳng bỏ rời chư Phật Như-Lai Chánh-Ðẳng-Giác. Ở chỗ chư Như-Lai như vậy ta nghe môn giải-thoát bồ-tát vô-ngại-niệm thanh-tịnh trang-nghiêm nầy thọ trì tu hành hằng chẳng quên mất.
Giảng: Thiện nam tử! Ta nghĩ nhớ số kiếp nhiều như số cát sông Hằng như vậy, ta thường gần gũi chư Phật, cúng dường chư Phật, không bỏ chư Phật Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Ta ở chỗ đạo tràng của tất cả các Như Lai đó, nghe được pháp môn giải thoát Bồ Tát vô ngại niệm thanh tịnh trang nghiêm rồi, thọ trì pháp môn đó, tu hành pháp môn đó, luôn không quên mất.
Giống như chúng ta tu trì 42 thủ nhãn, phải thọ trì mỗi ngày, không thể gián đoạn. Mỗi ngày tu trì pháp nầy thì thọ trì. Tu trì pháp nầy, thì đừng khởi vọng tưởng, chuyên tâm nhất chí, tức là tu hành. Vĩnh viễn không quên mất, tức đắc được lợi ích của pháp, có công đức không thể nghĩ bàn, diệu không thể tả.
Như thị, tiên kiếp sở hữu Như Lai, tòng sơ Bồ Tát, nãi chí Pháp tận, nhất thiết sở tác, ngã dĩ tịnh nghiêm giải thoát chi lực, giai tùy ức niệm, minh liễu hiện tiền, trì nhi thuận hành, tằng vô giải phế.
Những kiếp trước như vậy có bao nhiêu đức Như-Lai từ sơ Bồ-Tát nhẫn đến pháp tận, tất cả sự việc của chư Phật đã làm, ta dùng sức giải-thoát thanh-tịnh trang-nghiêm, đều ghi nhớ rõ ràng như hiện trước mắt, và ta giữ gìn tùy thuận tuân hành từng không bỏ phế.
Giảng: Thánh nữ Thiên Chủ Quang nói: Những kiếp trước kia nhiều như số cát sông Hằng như vậy, trong mỗi kiếp, có bất khả thuyết bất khả thuyết chư Phật Như Lai. Các Ngài từ lúc ban đầu phát tâm bồ đề, cho đến lúc Phật pháp diệt hết (thời đại mạt pháp), tất cả hết thảy những việc làm, ta nhờ sức giải thoát Tịnh trang nghiêm, đều tuỳ theo sự nghĩ nhớ, thấu rõ pháp của các Ngài nói, thảy đều hiện tiền. Ta y pháp tu hành, chưa từng khi nào lười biếng phế bỏ.
Thiện nam tử! ngã duy tri thử vô ngại niệm thanh tịnh giải thoát.
Nầy Thiện-nam-tử! Ta chỉ biết môn giải-thoát vô-ngại-niệm thanh-tịnh trang-nghiêm nầy.
Giảng: Thiện nam tử! Ta chỉ biết pháp môn giải thoát Vô ngại niệm thanh tịnh trang nghiêm nầy.
Như chư Bồ-Tát Ma-ha-tát, xuất sanh tử dạ lãng nhiên minh triệt, vĩnh ly si minh vị thường hôn mị, tâm vô chư cái, thân hành khinh an, ư chư pháp tánh thanh tịnh giác liễu, thành tựu thập lực khai ngộ quần sanh; nhi ngã vân hà năng tri năng thuyết bỉ công đức hạnh?
Như chư đại Bồ-Tát ra khỏi đêm sanh tử, sáng suốt rời hẳn si tối, chưa từng mê ngủ, tâm không bị che chướng, thân luôn khinh an, thanh tịnh biết rõ các pháp-tánh, thành tựu thập-lực khai ngộ quần sanh. Ta thế nào biết được nói được công-đức-hạnh đó.
Giảng: Như nói về các đại Bồ Tát đã thoát khỏi đêm dài sinh tử, sáng suốt thấu rõ tỏ ngộ, vĩnh lìa ngu si đen tối, chưa từng mê ngủ, tâm không bị năm cái che chướng, thân luôn nhẹ nhàng, tức là chẳng có chút phiền não nào. Năm cái tức là:
1. Tham dục cái.
2. Sân khuể cái.
3. Thuỳ miên cái.
4. Trạo hối cái.
5. Nghi pháp cái.
Đối với tự tánh của tất cả các pháp, vừa thanh tịnh, vừa tỏ ngộ. Thành tựu mười lực của Phật:
1. Trí lực tri giác xứ phi xứ.
2. Trí lực biết nghiệp báo ba đời.
3. Trí lực biết các thiền giải thoát tam muội.
4. Trí lực biết các căn thắng liệt.
5. Trí lực biết đủ thử sự hiểu biết.
6. Trí lực biết đủ thứ cõi.
7. Trí lực biết tất cả chí xứ đạo.
8. Trí lực biết thiên nhãn vô ngại.
9. Trí lực biết túc mạng vô ngại.
10. Trí lực biết vĩnh đoạn tập khí.
Khiến cho tất cả chúng sinh đều được khai ngộ, đắc được đại trí huệ. Đối với những pháp môn nầy, mà ta làm sao biết được, nói được, những hạnh công đức đó!
Thiện nam tử! Ca-tỳ la thành hữu Đồng tử sư, danh viết: Biến hữu.
Nầy Thiện-nam-tử! Thành Ca-Tỳ-La có Ðồng-Tử-Sư tên là Biến-Hữu.
Giảng: Thiện nam tử! Ở trong thành Ca Tỳ La có vị sư phụ đồng tử, tên là Biến Hữu.
Nhữ nghệ bỉ vấn: Bồ Tát vân hà học Bồ Tát hạnh, tu Bồ Tát đạo? thời, Thiện tài đồng tử dĩ văn Pháp cố, hoan hỉ dũng dược, bất tư nghị thiện căn tự nhiên tăng quảng; đảnh lễ kỳ túc, nhiễu vô số tạp, từ thoái nhi khứ.
Ngươi đến đó hỏi Bồ-Tát thế nào học bồ-tát-hạnh, tu bồ-tát-đạo. Nhờ nghe pháp, Thiện-Tài vui mừng hớn hở thiện-căn bất-tư-nghì tự-nhiên thêm lớn rộng, bèn đảnh lễ nơi chân Thiên-Nữ Thiên-Chủ-Quang, hữu nhiễu vô-số vòng từ tạ mà đi.
Giảng: Ngươi đến đó hỏi: Bồ Tát làm thế nào học Bồ Tát hạnh? Làm thế nào tu Bồ Tát đạo?
Lúc đó, Thiện Tài đồng tử nhờ sự nghe pháp, nên hoan hỉ nhảy nhót vui mừng, căn lành không nghĩ bàn của Ngài, tự nhiên tăng thêm rộng lớn. Thiện Tài đảnh lễ Thánh nữ Thiên Chủ Quang, đi nhiễu quanh bên phải vô lượng vòng, rồi từ tạ Thánh nữ mà đi. Bèn từ cung trời trở về nhân gian, đi đến thành Ca Tỳ La để thưa hỏi đồng tử sư Biến Hữu.
==========================
43. ĐỒNG TỬ SƯ BIẾN HỮU
HỘI DUYÊN VÀO THẬT TƯỚNG
Thiện-Tài từ Thiên-Cung xuống đi lần đến thành Ca-Tỳ-La chỗ của Biến-Hữu đảnh lễ hữu-nhiễu, đứng chắp tay cung kính thưa rằng: Ðại-Thánh! Tôi đã phát tâm vô-thượng bồ-đề, mà chưa biết Bồ-Tát thế nào học bồ-tát-hạnh, thế nào tu bồ-tát-đạo?
Giảng: Thiện Tài đồng tử từ cung trời Tam Thập Tam trở về nhân gian, đi từ từ đến thành Ca Tỳ La, đến chỗ vị Biến Hữu đảnh lễ, đi nhiễu quanh bên phải vô số vòng, rồi chắp tay cung kính, đứng về một bên, bạch với vị Biến Hữu rằng: Đức Thánh! Con trước đã phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, mà chưa biết Bồ Tát làm thế nào học Bồ Tát hạnh? Làm thế nào tu Bồ Tát đạo?
Ngã văn Thánh Giả thiện năng dụ hối, nguyện vi ngã thuyết! biến hữu đáp ngôn: Thiện nam tử! thử hữu Đồng tử, danh: thiện tri chúng nghệ, học Bồ Tát tự trí. Nhữ khả vấn chi, đương vi nhữ.
Tôi nghe Ðại-Thánh khéo dạy bảo, xin chỉ dạy cho. Biến-Hữu nói: Nầy Thiện-nam-tử! Nơi đây có Ðồng-Tử tên là Thiện-Tri-Chúng-Nghệ-Học-Bồ-Tát-Tự-Trí, ngươi nên đến hỏi. Thiện-Tài vâng lời đến đảnh lễ đồng-tử, cung kính thưa rằng:
Giảng: Con nghe đức Thánh khéo chỉ dạy tất cả chúng sinh, xin đức Thánh từ bi, hãy vì con mà nói đạo lý nầy. Vị Biến Hữu đáp rằng: Thiện nam tử! Ở nơi đây có vị đồng tử, tên là Thiện Tri Chúng Nghệ, học Bồ Tát tự trí. Ngươi đi đến đó hỏi Ngài, vị đó sẽ vì ngươi nói tỉ mỉ. Thiện Tài đồng tử đảnh lễ từ tạ mà đi, tìm thưa hỏi vị thiện tri thức khác.
==============================
44. THIỆN TRI CHÚNG NGHỆ ĐỒNG TỬ
HỘI DUYÊN VÀO THẬT TƯỚNG
Vị đồng tử nầy rất thông minh, có đại trí huệ. Đối với tất cả nghề nghiệp, túc mạng, âm nhạc, kỹ nghệ .v.v… không học mà biết, không thầy mà tự thông. Có thể nói tinh thông mọi thứ, đã đạt đến cảnh giới tận thiện tận mỹ, cho nên gọi Thiện Tri Chúng Nghệ đồng tử. Đồng tử là sự hy vọng xuất gia tu đạo, nương theo chỗ Tỳ Kheo mà ở, nên gọi là đồng tử. Bồ Tát là Pháp Vương tử của Như Lai, nên gọi là đồng tử. Giống như Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi gọi là Văn Thù Sư Lợi đồng tử. Lại lấy niệm không dâm dục, nghĩa giống như đồng tử thế gian.
Nhĩ thời, Thiện Tài tức chí kỳ sở, đầu đính lễ kính, ư nhất diện lập, bạch ngôn: Thánh Giả! ngã dĩ tiên phát a nậu đa la tam miệu tam Bồ-Đề tâm, nhi vị tri Bồ Tát vân hà học Bồ Tát hạnh? vân hà tu Bồ Tát đạo? ngã văn Thánh Giả thiện năng dụ hối, nguyện vi ngã thuyết!
Bấy giờ, Thiện Tài liền đi đến chỗ vị Thiện Tri Chúng Nghệ đồng tử, đảnh lễ cung kính, đứng về một bên, bạch rằng: Đức Thánh! Con trước đã phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, mà chưa biết Bồ Tát làm thế nào học Bồ Tát hạnh? Làm thế nào tu Bồ Tát đạo? Con nghe đức Thánh khéo chỉ dạy, xin hãy vì con mà nói.
Giảng: Lúc đó, Thiện Tài đồng tử liền đến chỗ Thiện Tri Chúng Nghệ đồng tử, đảnh lễ cung kính chắp tay, đứng về một bên, hướng về Thiện Tri Chúng Nghệ đồng tử bạch rằng: Đức Thánh! Con trước đã phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, mà chưa biết Bồ Tát làm thế nào học Bồ Tát hạnh? Làm thế nào tu Bồ Tát đạo? Con nghe đức Thánh khéo chỉ bảo dạy dỗ tất cả chúng sinh, cho nên xin đức Thánh hãy từ bi vì con mà nói đạo lý nầy.
Thời, bỉ Đồng tử cáo Thiện Tài ngôn: Thiện nam tử! ngã đắc Bồ Tát giải thoát, danh: thiện tri chúng nghệ.
Ðồng-Tử nói: Nầy Thiện-nam-tử! Ta được bồ-tát giải-thoát-môn tên là thiện-tri-chúng-nghệ.
Giảng: Lúc đó, Thiện Tri Chúng Nghệ đồng tử bảo Thiện Tài đồng tử rằng: Thiện nam tử! Ta chứng đắc được Bồ Tát giải thoát tam muội, tên là Thiện tri chúng nghệ. Dùng trí huệ vô ngại, vì cùng tận kỹ nghệ thế gian.
Ngã hằng xướng trì thử chi tự mẫu:
Ta hằng xướng trì những tự-mẫu nầy:
Giảng: Thiện Tri Chúng Nghệ nói: Ta luôn luôn xướng niệm tu trì bốn mươi hai tự mẫu Hoa Nghiêm. Trong Trí Luận có nói: “Các Đà La Ni đều từ phân biệt lời mà sinh ra. Bốn mươi hai tự (chữ) là căn bản của tất cả chữ. Do chữ mà có lời, do lời mà có tên, do tên mà có nghĩa. Nếu Bồ Tát nghe chữ, cho đến hiểu nghĩa. Chữ đó bắt đầu chữ A sau Đà, trong có bốn mươi, đắc được chữ Đà La Ni đó, thì thành tựu được nhiều lợi ích”.
Xướng niệm 42 tự mẫu Hoa Nghiêm, có lợi ích gì? Có sự diệu dụng vô cùng tận, có thể tiêu trừ tội nghiệp hết sạch, sức lực không thể nghĩ bàn. Tóm lại, có nghĩ cũng nghĩ không đến được, có nói cũng nói không ra, cho nên nói không thể nghĩ bàn. Vậy, tu trì như thế nào? Trong Du Già Nghĩa Quy Sớ Sao có nói rằng: “Ai muốn sớm vào một thừa, thì tu tập quán thân Tỳ Lô Giá Na Như Lai. Trước hết nên phát khởi hạnh nguyện vi diệu của Bồ Tát Phổ Hiền. Còn phải dùng ba mật gia trì thân tâm. Liền có thể ngộ nhập biển đại trí huệ của Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi. Sau đó người tu hành, trước hết ở chỗ vắng vẻ, nhiếp niệm an tâm, nhắm mắt ngồi kiết già ngay ngắn, vận tâm duyên khắp vô biên biển cõi, quán sát kỹ càng tất cả Như Lai ba đời, ở trước khắp mỗi vị Phật Bồ Tát, ân cần cung kính, lễ bái đi nhiễu quanh.
Lại dùng đủ thứ biển mây đồ cúng dường, dâng cúng tất cả các Thánh chúng như vậy, cúng dường rộng lớn rồi, lại phải quán tâm mình. Tâm vốn không sinh, tự tánh thành tựu. Quang minh chiếu khắp như hư không. Lại phải khởi tâm bi thâm sâu, thương xót chúng sinh, chẳng ngộ tâm mình, luân hồi các loài. Tôi sẽ giáo hoá cứu độ khắp, khiến cho họ khai ngộ hết không sót thừa. Lại phải quán sát tâm mình, tâm các chúng sinh, và tâm chư Phật, vốn không có gì khác biệt, bình đẳng một tướng, thành đại bồ đề tâm. Trong suốt thanh tịnh, rộng lớn khắp cùng. Tròn sáng trong sạch, thành vầng mặt trăng lớn. Lượng đồng hư không, chẳng có bờ mé.
Lại ở trong mặt trăng, bày bố 42 chữ Phạn vòng về bên phải, thảy đều sắc vàng ròng, phóng đại quang minh, chiếu sáng mười phương, phân minh hiển hiện. Trong mỗi quang minh, có đủ vô lượng biển cõi. Mỗi mỗi biển cõi, có vô lượng chư Phật. Mỗi mỗi chư Phật, có vô lượng Thánh chúng, vây quanh trước sau. Ngồi bồ đề tràng, thành Đẳng Chánh Giác. Trí vào ba đời, thân khắp mười phương. Chuyển đại pháp luân, độ thoát tất cả chúng sinh. Đều khiến cho họ hiện chứng vô trụ Niết Bàn. Lại phải ngộ nhập môn Bát Nhã Ba La Mật 42 chữ, thấu rõ tất cả pháp đều không chỗ đắc. Quán pháp giới thảy đều bình đẳng, không có sự khác biệt. Người tu Du Già, nếu có thể quán hành tương ưng với Đà La Ni, thì lập tức hiện chứng được trí thân Tỳ Lô Giá Na Như Lai. Ở trong chư Phật, đắc được không chướng ngại”.
42 chữ, đều nói nhập vào môn Bát Nhã Ba La Mật. Bát Nhã dịch là trí huệ. Ba La Mật dịch là đến bờ kia. Dùng từ chữ vào môn vô tướng, cho nên chữ nghĩa làm môn. Vì dùng ngộ để hiển nghĩa, đều nói không thể đắc được trí, không chỗ đắc tức là Bát Nhã.
Trong Kinh Văn Thù Ngũ Tự có nói rằng: Thọ trì Đà la ni nầy, liền nhập vào tất cả pháp bình đẳng, sớm được thành tựu Ma Ha Bát Nhã. Chỉ tụng một biến, giống như trì tám vạn bốn ngàn tạng Tu đa la, tức là tạng Kinh.
Văn Thù Ngũ Tự Tâm Chú tức là: A, Đa, Ba, Giả, Na. Dùng chữ A vì pháp vốn không sinh, chữ Na không có tánh tướng. Dùng chữ Na vì không có tánh tướng, chữ Giả không có các hạnh. Dùng chữ Giả vì không có các hạnh, chữ Ba không có đệ nhất nghĩa. Dùng chữ Ba vì không có đệ nhất nghĩa, chữ Đa không có trần cấu nghĩa. Dùng chữ Đa vì không có trần cấu nghĩa, chữ A pháp vốn không sinh.
Xướng A tự thời, nhập Bát-nhã Ba-la-mật môn, danh: dĩ Bồ Tát uy lực nhập vô sái biệt cảnh giới;
Lúc xướng chữ A, thời nhập bát-nhã ba-la-mật-môn tên là bồ-tát-oai-lực nhập vô-sai-biệt cảnh-giới.
Giảng: 1. Ý nghĩa chữ A là vô sinh. Dùng lý vô sinh, thống lý vạn pháp, cho nên nói không khác biệt. Bồ Tát đắc được vô sinh nầy, liền thông đạt các pháp không, dứt tất cả chướng, cho nên là oai lực.
Trong Trí Luận có nói rằng: Chữ nầy là môn thật tướng, liền hiển ba thứ Bát Nhã, chẳng lìa bỏ nhau, tự tức văn tự Bát Nhã. Nhập vào môn Bát Nhã Ba La Mật, tức quán chiếu Bát Nhã, ngộ chẳng sinh, tức thật tướng Bát Nhã.
Xướng ĐA tự thời, nhập Bát-nhã Ba-la-mật môn, danh: vô biên sái biệt môn;
Lúc xướng chữ ÐA, thời nhập bát-nhã ba-la-mật-môn tên là vô-biên-sai-biệt-môn.
Giảng: 2. Chữ Đa nghĩa là thanh tịnh không nhiễm, lìa khỏi trần cấu. Trong Kim Cang Đỉnh có nói rằng: Vì như như bất khả đắc. Như tức là vô biên sai biệt, nên như bất khả đắc. Chữ Đa, còn là chữ La. Trong Niết Bàn có nói rằng: Chữ La, có thể hoại tham sân si, nói pháp chân thật, cũng có nghĩa hoại trần cấu.
Xướng BA tự thời, nhập Bát-nhã Ba-la-mật môn, danh: phổ chiếu Pháp giới;
Lúc xướng chữ BA, thời nhập bát-nhã ba-la-mật-môn tên là phổ-chiếu-pháp-giới.
Giảng: 3. Chữ Ba, trong Ngũ Tự Kinh có nói rằng: Cũng không có đệ nhất nghĩa đế, các pháp bình đẳng, tức là chân tục cả hai đều mất, là chân pháp giới. Các pháp bình đẳng, là chiếu khắp. Chữ La còn là chữ Bả. Trong Kim Cang Đỉnh có nói rằng: Bả, đệ nhất nghĩa bất khả đắc, liền đủ tướng Bát Nhã.
Xướng GIẢ tự thời, nhập Bát-nhã Ba-la-mật môn, danh: phổ luân đoạn sái biệt;
Lúc xướng chữ GIẢ, thời nhập bát-nhã ba-la-mật-môn tên là phổ-luân-đoạn-sai-biệt.
Giảng: 4. Chữ Giả, là các pháp không có các hạnh. Là các hạnh tức không, nên khắp thôi sai biệt. Kim cang luân hay đoạn trừ tất cả phiền não của chúng sinh. Chữ Giả còn là chữ Già. Trong Niết Bàn có nói rằng: Già, tức là nghĩa tu. Vì điều phục tất cả các chúng sinh, mà hạnh xuất thế cũng bất khả đắc, mới là môn Bát Nhã vậy.
Xướng NA tự thời, nhập Bát-nhã Ba-la-mật môn, danh: đắc vô y vô thượng;
Lúc xướng chữ NA, thời nhập bát-nhã ba-la-mật-môn tên là đắc-vô-y-vô-thượng.
Giảng: 5. Chữ Na, là các pháp không có tánh tướng. Lới nói văn tự đều bất khả đắc. Là tánh tướng cả hai đều mất, nên không chỗ nương. Năng sở cả hai đều mất, gọi là vô thượng. Ở trên là Văn Thù Ngũ Tự Tâm Chú, ở trong Năng Quy Quán Tâm có nói rằng: Ông biết là quan trọng, nên quán tâm nầy. Bổn lai thanh tịnh, không nhiễm, không chấp, lìa khỏi phân biệt cái ta và của ta.
Xướng LÃ tự thời, nhập Bát-nhã Ba-la-mật môn, danh: ly y chỉ vô cấu;
Lúc xướng chữ LÃ, thời nhập bát-nhã ba-la-mật-môn tên là y-chỉ-vô-cấu.
Giảng: 6. Chữ La, có thể ngộ tất cả pháp, vì lìa khỏi duyên của thế gian, vì chi ái nhân duyên vĩnh viễn chẳng hiện, lìa khỏi thế gian nên không nương tựa, vì ái chẳng hiện nên không dơ bẩn.
Xướng ÐẢ (khinh hô )tự thời, nhập Bát-nhã Ba-la-mật môn, danh: Bất-thoái-chuyển phương tiện;
Nhĩ thời, Thiện Tài tức chí kỳ sở, đầu đính lễ kính, ư nhất diện lập, bạch ngôn: Thánh Giả! ngã dĩ tiên phát a nậu đa la tam miệu tam Bồ-Đề tâm, nhi vị tri Bồ Tát vân hà học Bồ Tát hạnh? vân hà tu Bồ Tát đạo? ngã văn Thánh Giả thiện năng dụ hối, nguyện vi ngã thuyết!
Bấy giờ, Thiện Tài liền đi đến chỗ vị Thiện Tri Chúng Nghệ đồng tử, đảnh lễ cung kính, đứng về một bên, bạch rằng: Đức Thánh! Con trước đã phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, mà chưa biết Bồ Tát làm thế nào học Bồ Tát hạnh? Làm thế nào tu Bồ Tát đạo? Con nghe đức Thánh khéo chỉ dạy, xin hãy vì con mà nói.
Giảng: Lúc đó, Thiện Tài đồng tử liền đến chỗ Thiện Tri Chúng Nghệ đồng tử, đảnh lễ cung kính chắp tay, đứng về một bên, hướng về Thiện Tri Chúng Nghệ đồng tử bạch rằng: Đức Thánh! Con trước đã phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, mà chưa biết Bồ Tát làm thế nào học Bồ Tát hạnh? Làm thế nào tu Bồ Tát đạo? Con nghe đức Thánh khéo chỉ bảo dạy dỗ tất cả chúng sinh, cho nên xin đức Thánh hãy từ bi vì con mà nói đạo lý nầy.
Thời, bỉ Đồng tử cáo Thiện Tài ngôn: Thiện nam tử! ngã đắc Bồ Tát giải thoát, danh: thiện tri chúng nghệ.
Ðồng-Tử nói: Nầy Thiện-nam-tử! Ta được bồ-tát giải-thoát-môn tên là thiện-tri-chúng-nghệ.
Giảng: Lúc đó, Thiện Tri Chúng Nghệ đồng tử bảo Thiện Tài đồng tử rằng: Thiện nam tử! Ta chứng đắc được Bồ Tát giải thoát tam muội, tên là Thiện tri chúng nghệ. Dùng trí huệ vô ngại, vì cùng tận kỹ nghệ thế gian.
Ngã hằng xướng trì thử chi tự mẫu:
Ta hằng xướng trì những tự-mẫu nầy:
Giảng: Thiện Tri Chúng Nghệ nói: Ta luôn luôn xướng niệm tu trì bốn mươi hai tự mẫu Hoa Nghiêm. Trong Trí Luận có nói: “Các Đà La Ni đều từ phân biệt lời mà sinh ra. Bốn mươi hai tự (chữ) là căn bản của tất cả chữ. Do chữ mà có lời, do lời mà có tên, do tên mà có nghĩa. Nếu Bồ Tát nghe chữ, cho đến hiểu nghĩa. Chữ đó bắt đầu chữ A sau Đà, trong có bốn mươi, đắc được chữ Đà La Ni đó, thì thành tựu được nhiều lợi ích”.
Xướng niệm 42 tự mẫu Hoa Nghiêm, có lợi ích gì? Có sự diệu dụng vô cùng tận, có thể tiêu trừ tội nghiệp hết sạch, sức lực không thể nghĩ bàn. Tóm lại, có nghĩ cũng nghĩ không đến được, có nói cũng nói không ra, cho nên nói không thể nghĩ bàn. Vậy, tu trì như thế nào? Trong Du Già Nghĩa Quy Sớ Sao có nói rằng: “Ai muốn sớm vào một thừa, thì tu tập quán thân Tỳ Lô Giá Na Như Lai. Trước hết nên phát khởi hạnh nguyện vi diệu của Bồ Tát Phổ Hiền. Còn phải dùng ba mật gia trì thân tâm. Liền có thể ngộ nhập biển đại trí huệ của Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi. Sau đó người tu hành, trước hết ở chỗ vắng vẻ, nhiếp niệm an tâm, nhắm mắt ngồi kiết già ngay ngắn, vận tâm duyên khắp vô biên biển cõi, quán sát kỹ càng tất cả Như Lai ba đời, ở trước khắp mỗi vị Phật Bồ Tát, ân cần cung kính, lễ bái đi nhiễu quanh.
Lại dùng đủ thứ biển mây đồ cúng dường, dâng cúng tất cả các Thánh chúng như vậy, cúng dường rộng lớn rồi, lại phải quán tâm mình. Tâm vốn không sinh, tự tánh thành tựu. Quang minh chiếu khắp như hư không. Lại phải khởi tâm bi thâm sâu, thương xót chúng sinh, chẳng ngộ tâm mình, luân hồi các loài. Tôi sẽ giáo hoá cứu độ khắp, khiến cho họ khai ngộ hết không sót thừa. Lại phải quán sát tâm mình, tâm các chúng sinh, và tâm chư Phật, vốn không có gì khác biệt, bình đẳng một tướng, thành đại bồ đề tâm. Trong suốt thanh tịnh, rộng lớn khắp cùng. Tròn sáng trong sạch, thành vầng mặt trăng lớn. Lượng đồng hư không, chẳng có bờ mé.
Lại ở trong mặt trăng, bày bố 42 chữ Phạn vòng về bên phải, thảy đều sắc vàng ròng, phóng đại quang minh, chiếu sáng mười phương, phân minh hiển hiện. Trong mỗi quang minh, có đủ vô lượng biển cõi. Mỗi mỗi biển cõi, có vô lượng chư Phật. Mỗi mỗi chư Phật, có vô lượng Thánh chúng, vây quanh trước sau. Ngồi bồ đề tràng, thành Đẳng Chánh Giác. Trí vào ba đời, thân khắp mười phương. Chuyển đại pháp luân, độ thoát tất cả chúng sinh. Đều khiến cho họ hiện chứng vô trụ Niết Bàn. Lại phải ngộ nhập môn Bát Nhã Ba La Mật 42 chữ, thấu rõ tất cả pháp đều không chỗ đắc. Quán pháp giới thảy đều bình đẳng, không có sự khác biệt. Người tu Du Già, nếu có thể quán hành tương ưng với Đà La Ni, thì lập tức hiện chứng được trí thân Tỳ Lô Giá Na Như Lai. Ở trong chư Phật, đắc được không chướng ngại”.
42 chữ, đều nói nhập vào môn Bát Nhã Ba La Mật. Bát Nhã dịch là trí huệ. Ba La Mật dịch là đến bờ kia. Dùng từ chữ vào môn vô tướng, cho nên chữ nghĩa làm môn. Vì dùng ngộ để hiển nghĩa, đều nói không thể đắc được trí, không chỗ đắc tức là Bát Nhã.
Trong Kinh Văn Thù Ngũ Tự có nói rằng: Thọ trì Đà la ni nầy, liền nhập vào tất cả pháp bình đẳng, sớm được thành tựu Ma Ha Bát Nhã. Chỉ tụng một biến, giống như trì tám vạn bốn ngàn tạng Tu đa la, tức là tạng Kinh.
Văn Thù Ngũ Tự Tâm Chú tức là: A, Đa, Ba, Giả, Na. Dùng chữ A vì pháp vốn không sinh, chữ Na không có tánh tướng. Dùng chữ Na vì không có tánh tướng, chữ Giả không có các hạnh. Dùng chữ Giả vì không có các hạnh, chữ Ba không có đệ nhất nghĩa. Dùng chữ Ba vì không có đệ nhất nghĩa, chữ Đa không có trần cấu nghĩa. Dùng chữ Đa vì không có trần cấu nghĩa, chữ A pháp vốn không sinh.
Xướng A tự thời, nhập Bát-nhã Ba-la-mật môn, danh: dĩ Bồ Tát uy lực nhập vô sái biệt cảnh giới;
Lúc xướng chữ A, thời nhập bát-nhã ba-la-mật-môn tên là bồ-tát-oai-lực nhập vô-sai-biệt cảnh-giới.
Giảng: 1. Ý nghĩa chữ A là vô sinh. Dùng lý vô sinh, thống lý vạn pháp, cho nên nói không khác biệt. Bồ Tát đắc được vô sinh nầy, liền thông đạt các pháp không, dứt tất cả chướng, cho nên là oai lực.
Trong Trí Luận có nói rằng: Chữ nầy là môn thật tướng, liền hiển ba thứ Bát Nhã, chẳng lìa bỏ nhau, tự tức văn tự Bát Nhã. Nhập vào môn Bát Nhã Ba La Mật, tức quán chiếu Bát Nhã, ngộ chẳng sinh, tức thật tướng Bát Nhã.
Xướng ĐA tự thời, nhập Bát-nhã Ba-la-mật môn, danh: vô biên sái biệt môn;
Lúc xướng chữ ÐA, thời nhập bát-nhã ba-la-mật-môn tên là vô-biên-sai-biệt-môn.
Giảng: 2. Chữ Đa nghĩa là thanh tịnh không nhiễm, lìa khỏi trần cấu. Trong Kim Cang Đỉnh có nói rằng: Vì như như bất khả đắc. Như tức là vô biên sai biệt, nên như bất khả đắc. Chữ Đa, còn là chữ La. Trong Niết Bàn có nói rằng: Chữ La, có thể hoại tham sân si, nói pháp chân thật, cũng có nghĩa hoại trần cấu.
Xướng BA tự thời, nhập Bát-nhã Ba-la-mật môn, danh: phổ chiếu Pháp giới;
Lúc xướng chữ BA, thời nhập bát-nhã ba-la-mật-môn tên là phổ-chiếu-pháp-giới.
Giảng: 3. Chữ Ba, trong Ngũ Tự Kinh có nói rằng: Cũng không có đệ nhất nghĩa đế, các pháp bình đẳng, tức là chân tục cả hai đều mất, là chân pháp giới. Các pháp bình đẳng, là chiếu khắp. Chữ La còn là chữ Bả. Trong Kim Cang Đỉnh có nói rằng: Bả, đệ nhất nghĩa bất khả đắc, liền đủ tướng Bát Nhã.
Xướng GIẢ tự thời, nhập Bát-nhã Ba-la-mật môn, danh: phổ luân đoạn sái biệt;
Lúc xướng chữ GIẢ, thời nhập bát-nhã ba-la-mật-môn tên là phổ-luân-đoạn-sai-biệt.
Giảng: 4. Chữ Giả, là các pháp không có các hạnh. Là các hạnh tức không, nên khắp thôi sai biệt. Kim cang luân hay đoạn trừ tất cả phiền não của chúng sinh. Chữ Giả còn là chữ Già. Trong Niết Bàn có nói rằng: Già, tức là nghĩa tu. Vì điều phục tất cả các chúng sinh, mà hạnh xuất thế cũng bất khả đắc, mới là môn Bát Nhã vậy.
Xướng NA tự thời, nhập Bát-nhã Ba-la-mật môn, danh: đắc vô y vô thượng;
Lúc xướng chữ NA, thời nhập bát-nhã ba-la-mật-môn tên là đắc-vô-y-vô-thượng.
Giảng: 5. Chữ Na, là các pháp không có tánh tướng. Lới nói văn tự đều bất khả đắc. Là tánh tướng cả hai đều mất, nên không chỗ nương. Năng sở cả hai đều mất, gọi là vô thượng. Ở trên là Văn Thù Ngũ Tự Tâm Chú, ở trong Năng Quy Quán Tâm có nói rằng: Ông biết là quan trọng, nên quán tâm nầy. Bổn lai thanh tịnh, không nhiễm, không chấp, lìa khỏi phân biệt cái ta và của ta.
Xướng LÃ tự thời, nhập Bát-nhã Ba-la-mật môn, danh: ly y chỉ vô cấu;
Lúc xướng chữ LÃ, thời nhập bát-nhã ba-la-mật-môn tên là y-chỉ-vô-cấu.
Giảng: 6. Chữ La, có thể ngộ tất cả pháp, vì lìa khỏi duyên của thế gian, vì chi ái nhân duyên vĩnh viễn chẳng hiện, lìa khỏi thế gian nên không nương tựa, vì ái chẳng hiện nên không dơ bẩn.
Xướng ÐẢ (khinh hô )tự thời, nhập Bát-nhã Ba-la-mật môn, danh: Bất-thoái-chuyển phương tiện;
Lúc xướng chữ ÐẢ, thời nhập bát-nhã ba-la-mật-môn tên là bất-thối-chuyển-phương-tiện.
Giảng: 7. Chữ Đả, có thể ngộ tất cả pháp, điều phục tịch tĩnh, chân như bình đẳng. Vì không phân biệt, mới không thối chuyển phương tiện. Chữ Đả còn là chữ Na. Trong Trí Luận có nói rằng: Nếu nghe được chữ Đả, thì biết tướng tất cả pháp thiện.
Xướng BÀ (bồ ngã thiết )tự thời, nhập Bát-nhã Ba-la-mật môn, danh: Kim cương trường;
Giảng: 7. Chữ Đả, có thể ngộ tất cả pháp, điều phục tịch tĩnh, chân như bình đẳng. Vì không phân biệt, mới không thối chuyển phương tiện. Chữ Đả còn là chữ Na. Trong Trí Luận có nói rằng: Nếu nghe được chữ Đả, thì biết tướng tất cả pháp thiện.
Xướng BÀ (bồ ngã thiết )tự thời, nhập Bát-nhã Ba-la-mật môn, danh: Kim cương trường;
Lúc xướng chữ BÀ, thời nhập bát-nhã ba-la-mật-môn tên là kim-cang-tràng.
Giảng: 8. Chữ Bà, có thể tất cả pháp, vì lìa khỏi duyên buộc giải, mới nhập vào kim cang tràng. Đức Phật nhập vào kim cang tam muội, dứt hoặc như kim cang. Tại kim cang tràng, đắc được không buộc giải, là thật dứt vậy.
Xướng ÐỒ (đồ giải thiết )tự thời, nhập Bát-nhã Ba-la-mật môn, danh viết: phổ luân;
Lúc xướng chữ ÐỒ, thời nhập bát-nhã ba-la-mật-môn tên là nhật-phổ-luân.
Giảng: 9. Chữ Đồ, có thể ngộ tất cả pháp, lìa nóng kiêu bẩn, vì đắc được sự mát mẻ, là phổ thôi nghĩa. Trong Trí Luận có nói rằng: Nếu nghe chư Đồ, thì liền biết các pháp chẳng nóng, chẳng nóng tức được mát mẻ, mới là tướng Bát Nhã.
Xướng SA (sử ngã thiết )tự thời, nhập Bát-nhã Ba-la-mật môn, danh vi: hải tạng;
Lúc xướng chữ SA, thời nhập bát-nhã ba-la-mật-môn tên là hải-tạng.
Giảng: 10. Chữ Sa, có thể ngộ tất cả pháp, vì không quái ngại, giống như biển dung chứa. Giống như nước với nhau, vì chẳng ngại nhau.
Xướng PHƯỢC (phòng khả thiết )tự thời, nhập Bát-nhã Ba-la-mật môn, danh: phổ sanh an trụ;
Lúc xướng chữ PHƯỢC, thời nhập bát-nhã ba-la-mật-môn tên là phổ-sanh-an-trụ.
Giảng: 11. Chữ Phược, có thể ngộ tất cả pháp, vì lời nói đã bặc, nên có thể khắp an trụ. Trong Trí Luân có nói rằng: Nếu nghe đến chư Phược, thì biết tất cả pháp lìa tướng lời nói.
Xướng ĐÁ (đô ngã thiết )tự thời, nhập Bát-nhã Ba-la-mật môn, danh: viên mãn quang;
Lúc xướng chữ ÐÁ, thời nhập bát-nhã ba-la-mật-môn tên là viên-mãn-quang.
Giảng: 12. Chữ Đá, có thể ngộ tất cả pháp, vì chân như bất động, bất động liền viên mãn phát quang. Trong trí luận có nói rằng: Nếu nghe chữ Đá thì liền biết các pháp ở trong như bất động.
Xướng DÃ (dĩ khả thiết )tự thời, nhập Bát-nhã Ba-la-mật môn, danh: sái biệt tích tụ;
Lúc xướng chữ DÃ, thời nhập bát-nhã ba-la-mật-môn tên là sai-biệt-tích-tụ.
Giảng: 13. Chữ Dã, có thể ngộ tất cả pháp, vì chân thật chẳng sinh, tức các thừa sai biệt tích tụ, đều bất khả đắc. Trong trí luận có nói rằng: Nếu nghe chữ Dã, liền biết các pháp vào trong thật tướng, chẳng sinh, chẳng diệt. Chữ Dã còn là chữ Dạ.
Xướng SẮC-TRA tự thời, nhập Bát-nhã Ba-la-mật môn, danh: phổ quang minh tức phiền não;
Lúc xướng chữ SẮC-TRA, thời nhập bát-nhã ba-la-mật-môn tên là phổ-quang-minh-tức-phiền-não.
Giảng: 14. Chữ Sắc Tra, có thể ngộ tất cả pháp, vì chế phục tướng nhậm trì bất khả đắc. Phổ quang minh tức hay chế phục nhậm trì, phiền não tức sở chế phục. “Tức” nghĩa là phục. Trong trí luận có nói rằng: Nếu nghe chữ Sắc Tra, liền biết tất cả pháp tướng không chướng ngại.
Xướng CA tự thời, nhập Bát-nhã Ba-la-mật môn, danh: vô sái biệt vân;
Lúc xướng chữ CA, thời nhập bát-nhã ba-la-mật-môn tên là Vô-sai-biệt-vân.
Giảng: 15. Chữ Ca, có thể ngộ tất cả pháp, vì kẻ làm bất khả đắc, thì nghiệp làm như mây, đều không khác biệt. Trong trí luận có nói rằng: Nếu nghe chữ Ca, thì liền biết trong các pháp không có kẻ làm.
Xướng SA (tô ngã thiết )tự thời, nhập Bát-nhã Ba-la-mật môn, danh: hàng chú đại vũ;
Lúc xướng chữ SA, thời nhập bát-nhã ba-la-mật-môn tên là giáng-chú-đại-vũ.
Giảng: 16. Chữ Sa, có thể ngộ tất cả pháp, tức thời tánh bình đẳng, bất khả đắc. Trong trí luận có nói rằng: Nếu nghe chữ Sa, thì biết tất cả pháp tất cả mọi thứ bất khả đắc. Trong Niết Bàn có nói rằng: Sa, vì các chúng sinh diễn nói chánh pháp. Ý sáng chủng trí đúng thời mà nói, vì cũng bất khả đắc. Nay Kinh tên Giáng chú đại vũ vậy.
Xướng MẠ tự thời, nhập Bát-nhã Ba-la-mật môn, danh: Đại lưu thoan kích chúng phong tề trì;
Lúc xướng chữ MẠ, thời nhập bát-nhã ba-la-mật-môn tên là đại-lưu-thoan-khích-chúng-phong-tề-trĩ.
Giảng: 17. Chữ Ma, có thể ngộ tất cả pháp, ngã sở chấp tánh bất khả đắc. Đại lưu là ngã mạn tức sinh tử chảy mãi. Nước chảy xiết mau lẹ, ngã mạn cao vời. Nếu các đỉnh núi đứng trơ trọi, vì đều do ngã sở chấp. Trong trí luận có nói rằng: Nếu nghe chữ Ma, nghĩa là biết tất cả pháp lìa ngã sở.
Xướng GIÀ (thượng thanh khinh hô )tự thời, nhập Bát-nhã Ba-la-mật môn, danh: phổ an lập;
Lúc xướng chữ GIÀ, thời nhập môn bát-nhã ba-la-mật tên là phổ-an-lập.
Giảng: 18. Chữ Già, có thể ngộ tất cả pháp, vì hạnh thủ tánh bất khả đắc. Lời an lập, vì dùng hạnh thủ mà có thể an lập. Trong trí luận có nói rằng: Nếu nghe chữ Già, thì liền biết đáy tất cả pháp bất khả đắc.
Xướng THA (tha khả thiết )tự thời, nhập Bát-nhã Ba-la-mật môn, danh: chân như bình đẳng tạng;
Lúc xướng chữ THA, thời nhập môn bát-nhã ba-la-mật tên là chơn-như-bình-đẳng-tạng.
Giảng: 19. Chữ Tha, có thể ngộ tất cả pháp, vì tánh xứ sở bất khả đắc. Dùng chân như bình đẳng, là xứ sở chỗ nương của tất cả pháp. Trong trí luận có nói rằng: Nếu nghe chữ Tha, thì liền biết bốn câu như pháp bất khả đắc. Như pháp tức là xứ sở, vì như pháp thời pháp.
Xướng XÃ tự thời, nhập Bát-nhã Ba-la-mật môn, danh: nhập thế gian hải thanh tịnh;
Lúc xướng chữ XÃ, thời nhập môn bát-nhã ba-la-mật tên là nhập-thế-gian-hải-thanh-tịnh.
Giảng: 20. Chữ Xã, tức ngộ tất cả pháp, chỗ sinh khởi bất khả đắc. Dùng có năng, có sở, vì là biển thế gian. Chữ Xã còn là chữ Xà. Trong Trí Luận có nói rằng: Nếu nghe chữ Xà, liền biết các pháp sinh tử bất khả đắc.
Xướng TOẢ tự thời, nhập Bát-nhã Ba-la-mật môn, danh: niệm nhất thiết Phật trang nghiêm;
Lúc xướng chữ TOẢ, thời nhập môn bát-nhã ba-la-mật tên là niệm-nhứt-thiết-phật-trang-nghiêm.
Giảng: 21. Chữ Toả, tức ngộ tất cả pháp, tánh an ổn bất khả đắc. Dùng niệm Phật trang nghiêm, vì an ổn nhất. Chữ Toả còn là chữ Bà Phược, còn là chữ Thấp Ba. Trong Trí Luận có nói rằng: Nếu nghe chữ Thấp Ba, liền biết tất cả pháp bất khả đắc, như Thấp Ba bất khả đắc, chữ Thấp Ba nghĩa không khác biệt. Mà trong Quang Tán có nói rằng: Không chỗ khởi. Không chỗ khởi, tức nghĩa an ổn.
Xướng ÐÀ tự thời, nhập Bát-nhã Ba-la-mật môn, danh: quan sát giản trạch nhất thiết pháp tụ;
Lúc xướng chữ ÐÀ, thời nhập môn bát-nhã ba-la-mật tên là quán-sát-giản-trạch-nhất-thiết-pháp-tụ.
Giảng: 22. Chữ Đá còn là chữ Đà, tức ngộ tất cả pháp, tánh trì giới bất khả đắc. Dùng giản pháp tụ, vì liền có thể trì giới tánh. Trong Trí Luận có nói rằng: Nếu nghe chữ Đà, thì biết tánh tất cả pháp bất khả đắc.
Xướng XA (thi hà thiết )tự thời, nhập Bát-nhã Ba-la-mật môn, danh: tùy thuận nhất thiết Phật giáo luân quang minh;
Lúc xướng chữ XA, thời nhập môn bát-nhã ba-la-mật tên là tùy-thuận-nhất-thiết-phật-giáo-luân-quang-minh.
Giảng: 23. Chữ Xa, tức ngộ tất cả pháp, tánh tịch tĩnh bất khả đắc. Vì dùng tịch tĩnh thì thuận Phật giáo. Trong Trí Luận có nói rằng: Nếu nghe chữ Xa, liền biết tướng tịch diệt của chư Phật.
Xướng KHƯ tự thời, nhập Bát-nhã Ba-la-mật môn, danh: tu nhân địa trí tuệ tạng;
Lúc xướng chữ KHƯ, thời nhập môn bát-nhã ba-la-mật tên là tu-nhơn-địa-trí-huệ-tạng.
Giảng: 24. Chữ Khư, tức ngộ tất cả pháp, tánh như hư không bất khả đắc. Nhờ trí huệ như hư không, nên có thể dung chứa. Chữ Khư còn là chữ Khứ. Trong Trí Luận có nói rằng: Nếu nghe chữ Khứ, thì biết tất cả pháp, đồng với hư không bất khả đắc.
Xướng XOA (sở ngã thiết )tự thời, nhập Bát-nhã Ba-la-mật môn, danh: tức chư nghiệp hải tạng;
Lúc xướng chữ XOA, thời nhập môn bát-nhã ba-la-mật tên là tức-chư-nghiệp-hải-tạng.
Giảng: 25. Chữ Xoa, tức ngộ tất cả pháp, tánh hết bất khả đắc. Do đó biển nghiệp sâu rộng, đều bao dung hết, cho nên tên là tạng. Trong Trí Luận có nói rằng: Nếu nghe chữ Xoa, liền biết hết tất cả pháp bất khả đắc.
Xướng SA (tô hột thiết ) ÐA (thượng thanh hô )tự thời, nhập Bát-nhã Ba-la-mật môn, danh: quyên chư hoặc chướng khai Tịnh Quang minh;
Lúc xướng chữ SA-ÐA, thời nhập môn bát-nhã ba-la-mật tên là quyên-chư-hoặc-chướng-khai-tịnh-quang-minh.
Giảng: 26. Chữ Sa Đa, tức ngộ tất cả pháp, nhậm trì nơi xứ chẳng phải xứ, khiến tánh bất động bất khả đắc. Dùng hoặc chướng làm chẳng phải xứ. Khai tĩnh quang minh làm xứ sở. Ở đây dùng lìa chướng chân không làm xứ như thật. Trong Trí Luận có nói rằng: Nếu nghe chữ Đa, liền biết bờ mé các pháp bất khả đắc.
Xướng NHƯƠNG tự thời, nhập Bát-nhã Ba-la-mật môn, danh: tác thế gian trí tuệ môn;
Lúc xướng chữ NHƯƠNG, thời nhập môn bát-nhã ba-la-mật tên là tác-thế-gian-trí-huệ-môn.
Giảng: 27. Chữ Nhưỡng, lối khác dịch là chữ Nương, tức ngộ tất cả pháp, biết được tánh bất khả đắc. Năng biết là trí huệ, sở biết là cửa. Chữ Nhưỡng còn là chữ Nhược. Trong Trí Luận có nói rằng: Nếu nghe chữ Nhược, liền biết trong tất cả pháp không có tướng trí.
Xướng HẠT-LÃ-ÐA (thượng thanh )tự thời, nhập Bát-nhã Ba-la-mật môn, danh: sanh tử cảnh giới trí tuệ luân;
Lúc xướng chữ HẠT-LÃ-ÐA, thời nhập môn bát-nhã ba-la-mật tên là sanh-tử-cảnh-giới-trí-huệ-luân.
Giảng: 28. Chữ Hạt Lã Đa, tức ngộ tất cả pháp, chấp trước nghĩa tánh bất khả đắc. Do đó chấp trước là cảnh sinh tử, nghĩa tức trí huệ luân. Dùng chấp trước sinh tử là sở quán cảnh của trí huệ. Chữ Hạt Lã Đa còn là chữ Tha. Trong Trí Luận có nói rằng: Nếu nghe chữ Tha, liền biết nghĩa tất cả pháp bất khả đắc.
Xướng BÀ (bồ ngã thiết )tự thời, nhập Bát-nhã Ba-la-mật môn, danh: nhất thiết trí cung điện viên mãn trang nghiêm;
Lúc xướng chữ BÀ, thời nhập môn bát-nhã ba-la-mật tên là nhất-thiết-trí-cung-điện-viên-mãn-trang-nghiêm.
Giảng: 29. Chữ Ba, tức ngộ tất cả pháp, tánh có thể phá hoại bất khả đắc. Lời viên mãn. Tam Tạng Pháp Sư Bất Không dịch là đạo tràng. Do đó, cung điện đạo tràng, trang nghiêm theo duyên, nên có thể phá hoại, tức chẳng phải trang nghiêm, nên bất khả đắc. Cho nên đó nói rằng: Khi đọc chữ Ba, thì nhập vào môn Bát Nhã Ba La Mật nhất thiết cung điện đạo tràng trang nghiêm. Trong Trí Luận có nói rằng: Nếu nghe chữ Ba, thì biết rõ tướng phá hoại tất cả pháp bất khả đắc.
Xướng XA (thượng thanh hô )tự thời, nhập Bát-nhã Ba-la-mật môn, danh: tu hành phương tiện tạng các biệt viên mãn
Lúc xướng chữ XA, thời nhập môn bát-nhã ba-la-mật tên là tu-hành-phương-tiện-tạng-các-biệt-viên-mãn.
Giảng: 30. Chữ Xa, lối khác dịch là Tha. Tức ngộ tất cả pháp, tánh che đậy dục lạc bất khả đắc. Tức phương tiện tuỳ hỉ lạc, nên các biệt viên mãn. Tức che đậy bất khả đắc. Trong Trí Luận có nói rằng: Nếu nghe chữ Xa, liền biết tất cả pháp không chỗ đi.
Xướng SA (tô hột thiết )MA tự thời, nhập Bát-nhã Ba-la-mật môn, danh: tùy thập phương hiện kiến chư Phật;
Giảng: 8. Chữ Bà, có thể tất cả pháp, vì lìa khỏi duyên buộc giải, mới nhập vào kim cang tràng. Đức Phật nhập vào kim cang tam muội, dứt hoặc như kim cang. Tại kim cang tràng, đắc được không buộc giải, là thật dứt vậy.
Xướng ÐỒ (đồ giải thiết )tự thời, nhập Bát-nhã Ba-la-mật môn, danh viết: phổ luân;
Lúc xướng chữ ÐỒ, thời nhập bát-nhã ba-la-mật-môn tên là nhật-phổ-luân.
Giảng: 9. Chữ Đồ, có thể ngộ tất cả pháp, lìa nóng kiêu bẩn, vì đắc được sự mát mẻ, là phổ thôi nghĩa. Trong Trí Luận có nói rằng: Nếu nghe chư Đồ, thì liền biết các pháp chẳng nóng, chẳng nóng tức được mát mẻ, mới là tướng Bát Nhã.
Xướng SA (sử ngã thiết )tự thời, nhập Bát-nhã Ba-la-mật môn, danh vi: hải tạng;
Lúc xướng chữ SA, thời nhập bát-nhã ba-la-mật-môn tên là hải-tạng.
Giảng: 10. Chữ Sa, có thể ngộ tất cả pháp, vì không quái ngại, giống như biển dung chứa. Giống như nước với nhau, vì chẳng ngại nhau.
Xướng PHƯỢC (phòng khả thiết )tự thời, nhập Bát-nhã Ba-la-mật môn, danh: phổ sanh an trụ;
Lúc xướng chữ PHƯỢC, thời nhập bát-nhã ba-la-mật-môn tên là phổ-sanh-an-trụ.
Giảng: 11. Chữ Phược, có thể ngộ tất cả pháp, vì lời nói đã bặc, nên có thể khắp an trụ. Trong Trí Luân có nói rằng: Nếu nghe đến chư Phược, thì biết tất cả pháp lìa tướng lời nói.
Xướng ĐÁ (đô ngã thiết )tự thời, nhập Bát-nhã Ba-la-mật môn, danh: viên mãn quang;
Lúc xướng chữ ÐÁ, thời nhập bát-nhã ba-la-mật-môn tên là viên-mãn-quang.
Giảng: 12. Chữ Đá, có thể ngộ tất cả pháp, vì chân như bất động, bất động liền viên mãn phát quang. Trong trí luận có nói rằng: Nếu nghe chữ Đá thì liền biết các pháp ở trong như bất động.
Xướng DÃ (dĩ khả thiết )tự thời, nhập Bát-nhã Ba-la-mật môn, danh: sái biệt tích tụ;
Lúc xướng chữ DÃ, thời nhập bát-nhã ba-la-mật-môn tên là sai-biệt-tích-tụ.
Giảng: 13. Chữ Dã, có thể ngộ tất cả pháp, vì chân thật chẳng sinh, tức các thừa sai biệt tích tụ, đều bất khả đắc. Trong trí luận có nói rằng: Nếu nghe chữ Dã, liền biết các pháp vào trong thật tướng, chẳng sinh, chẳng diệt. Chữ Dã còn là chữ Dạ.
Xướng SẮC-TRA tự thời, nhập Bát-nhã Ba-la-mật môn, danh: phổ quang minh tức phiền não;
Lúc xướng chữ SẮC-TRA, thời nhập bát-nhã ba-la-mật-môn tên là phổ-quang-minh-tức-phiền-não.
Giảng: 14. Chữ Sắc Tra, có thể ngộ tất cả pháp, vì chế phục tướng nhậm trì bất khả đắc. Phổ quang minh tức hay chế phục nhậm trì, phiền não tức sở chế phục. “Tức” nghĩa là phục. Trong trí luận có nói rằng: Nếu nghe chữ Sắc Tra, liền biết tất cả pháp tướng không chướng ngại.
Xướng CA tự thời, nhập Bát-nhã Ba-la-mật môn, danh: vô sái biệt vân;
Lúc xướng chữ CA, thời nhập bát-nhã ba-la-mật-môn tên là Vô-sai-biệt-vân.
Giảng: 15. Chữ Ca, có thể ngộ tất cả pháp, vì kẻ làm bất khả đắc, thì nghiệp làm như mây, đều không khác biệt. Trong trí luận có nói rằng: Nếu nghe chữ Ca, thì liền biết trong các pháp không có kẻ làm.
Xướng SA (tô ngã thiết )tự thời, nhập Bát-nhã Ba-la-mật môn, danh: hàng chú đại vũ;
Lúc xướng chữ SA, thời nhập bát-nhã ba-la-mật-môn tên là giáng-chú-đại-vũ.
Giảng: 16. Chữ Sa, có thể ngộ tất cả pháp, tức thời tánh bình đẳng, bất khả đắc. Trong trí luận có nói rằng: Nếu nghe chữ Sa, thì biết tất cả pháp tất cả mọi thứ bất khả đắc. Trong Niết Bàn có nói rằng: Sa, vì các chúng sinh diễn nói chánh pháp. Ý sáng chủng trí đúng thời mà nói, vì cũng bất khả đắc. Nay Kinh tên Giáng chú đại vũ vậy.
Xướng MẠ tự thời, nhập Bát-nhã Ba-la-mật môn, danh: Đại lưu thoan kích chúng phong tề trì;
Lúc xướng chữ MẠ, thời nhập bát-nhã ba-la-mật-môn tên là đại-lưu-thoan-khích-chúng-phong-tề-trĩ.
Giảng: 17. Chữ Ma, có thể ngộ tất cả pháp, ngã sở chấp tánh bất khả đắc. Đại lưu là ngã mạn tức sinh tử chảy mãi. Nước chảy xiết mau lẹ, ngã mạn cao vời. Nếu các đỉnh núi đứng trơ trọi, vì đều do ngã sở chấp. Trong trí luận có nói rằng: Nếu nghe chữ Ma, nghĩa là biết tất cả pháp lìa ngã sở.
Xướng GIÀ (thượng thanh khinh hô )tự thời, nhập Bát-nhã Ba-la-mật môn, danh: phổ an lập;
Lúc xướng chữ GIÀ, thời nhập môn bát-nhã ba-la-mật tên là phổ-an-lập.
Giảng: 18. Chữ Già, có thể ngộ tất cả pháp, vì hạnh thủ tánh bất khả đắc. Lời an lập, vì dùng hạnh thủ mà có thể an lập. Trong trí luận có nói rằng: Nếu nghe chữ Già, thì liền biết đáy tất cả pháp bất khả đắc.
Xướng THA (tha khả thiết )tự thời, nhập Bát-nhã Ba-la-mật môn, danh: chân như bình đẳng tạng;
Lúc xướng chữ THA, thời nhập môn bát-nhã ba-la-mật tên là chơn-như-bình-đẳng-tạng.
Giảng: 19. Chữ Tha, có thể ngộ tất cả pháp, vì tánh xứ sở bất khả đắc. Dùng chân như bình đẳng, là xứ sở chỗ nương của tất cả pháp. Trong trí luận có nói rằng: Nếu nghe chữ Tha, thì liền biết bốn câu như pháp bất khả đắc. Như pháp tức là xứ sở, vì như pháp thời pháp.
Xướng XÃ tự thời, nhập Bát-nhã Ba-la-mật môn, danh: nhập thế gian hải thanh tịnh;
Lúc xướng chữ XÃ, thời nhập môn bát-nhã ba-la-mật tên là nhập-thế-gian-hải-thanh-tịnh.
Giảng: 20. Chữ Xã, tức ngộ tất cả pháp, chỗ sinh khởi bất khả đắc. Dùng có năng, có sở, vì là biển thế gian. Chữ Xã còn là chữ Xà. Trong Trí Luận có nói rằng: Nếu nghe chữ Xà, liền biết các pháp sinh tử bất khả đắc.
Xướng TOẢ tự thời, nhập Bát-nhã Ba-la-mật môn, danh: niệm nhất thiết Phật trang nghiêm;
Lúc xướng chữ TOẢ, thời nhập môn bát-nhã ba-la-mật tên là niệm-nhứt-thiết-phật-trang-nghiêm.
Giảng: 21. Chữ Toả, tức ngộ tất cả pháp, tánh an ổn bất khả đắc. Dùng niệm Phật trang nghiêm, vì an ổn nhất. Chữ Toả còn là chữ Bà Phược, còn là chữ Thấp Ba. Trong Trí Luận có nói rằng: Nếu nghe chữ Thấp Ba, liền biết tất cả pháp bất khả đắc, như Thấp Ba bất khả đắc, chữ Thấp Ba nghĩa không khác biệt. Mà trong Quang Tán có nói rằng: Không chỗ khởi. Không chỗ khởi, tức nghĩa an ổn.
Xướng ÐÀ tự thời, nhập Bát-nhã Ba-la-mật môn, danh: quan sát giản trạch nhất thiết pháp tụ;
Lúc xướng chữ ÐÀ, thời nhập môn bát-nhã ba-la-mật tên là quán-sát-giản-trạch-nhất-thiết-pháp-tụ.
Giảng: 22. Chữ Đá còn là chữ Đà, tức ngộ tất cả pháp, tánh trì giới bất khả đắc. Dùng giản pháp tụ, vì liền có thể trì giới tánh. Trong Trí Luận có nói rằng: Nếu nghe chữ Đà, thì biết tánh tất cả pháp bất khả đắc.
Xướng XA (thi hà thiết )tự thời, nhập Bát-nhã Ba-la-mật môn, danh: tùy thuận nhất thiết Phật giáo luân quang minh;
Lúc xướng chữ XA, thời nhập môn bát-nhã ba-la-mật tên là tùy-thuận-nhất-thiết-phật-giáo-luân-quang-minh.
Giảng: 23. Chữ Xa, tức ngộ tất cả pháp, tánh tịch tĩnh bất khả đắc. Vì dùng tịch tĩnh thì thuận Phật giáo. Trong Trí Luận có nói rằng: Nếu nghe chữ Xa, liền biết tướng tịch diệt của chư Phật.
Xướng KHƯ tự thời, nhập Bát-nhã Ba-la-mật môn, danh: tu nhân địa trí tuệ tạng;
Lúc xướng chữ KHƯ, thời nhập môn bát-nhã ba-la-mật tên là tu-nhơn-địa-trí-huệ-tạng.
Giảng: 24. Chữ Khư, tức ngộ tất cả pháp, tánh như hư không bất khả đắc. Nhờ trí huệ như hư không, nên có thể dung chứa. Chữ Khư còn là chữ Khứ. Trong Trí Luận có nói rằng: Nếu nghe chữ Khứ, thì biết tất cả pháp, đồng với hư không bất khả đắc.
Xướng XOA (sở ngã thiết )tự thời, nhập Bát-nhã Ba-la-mật môn, danh: tức chư nghiệp hải tạng;
Lúc xướng chữ XOA, thời nhập môn bát-nhã ba-la-mật tên là tức-chư-nghiệp-hải-tạng.
Giảng: 25. Chữ Xoa, tức ngộ tất cả pháp, tánh hết bất khả đắc. Do đó biển nghiệp sâu rộng, đều bao dung hết, cho nên tên là tạng. Trong Trí Luận có nói rằng: Nếu nghe chữ Xoa, liền biết hết tất cả pháp bất khả đắc.
Xướng SA (tô hột thiết ) ÐA (thượng thanh hô )tự thời, nhập Bát-nhã Ba-la-mật môn, danh: quyên chư hoặc chướng khai Tịnh Quang minh;
Lúc xướng chữ SA-ÐA, thời nhập môn bát-nhã ba-la-mật tên là quyên-chư-hoặc-chướng-khai-tịnh-quang-minh.
Giảng: 26. Chữ Sa Đa, tức ngộ tất cả pháp, nhậm trì nơi xứ chẳng phải xứ, khiến tánh bất động bất khả đắc. Dùng hoặc chướng làm chẳng phải xứ. Khai tĩnh quang minh làm xứ sở. Ở đây dùng lìa chướng chân không làm xứ như thật. Trong Trí Luận có nói rằng: Nếu nghe chữ Đa, liền biết bờ mé các pháp bất khả đắc.
Xướng NHƯƠNG tự thời, nhập Bát-nhã Ba-la-mật môn, danh: tác thế gian trí tuệ môn;
Lúc xướng chữ NHƯƠNG, thời nhập môn bát-nhã ba-la-mật tên là tác-thế-gian-trí-huệ-môn.
Giảng: 27. Chữ Nhưỡng, lối khác dịch là chữ Nương, tức ngộ tất cả pháp, biết được tánh bất khả đắc. Năng biết là trí huệ, sở biết là cửa. Chữ Nhưỡng còn là chữ Nhược. Trong Trí Luận có nói rằng: Nếu nghe chữ Nhược, liền biết trong tất cả pháp không có tướng trí.
Xướng HẠT-LÃ-ÐA (thượng thanh )tự thời, nhập Bát-nhã Ba-la-mật môn, danh: sanh tử cảnh giới trí tuệ luân;
Lúc xướng chữ HẠT-LÃ-ÐA, thời nhập môn bát-nhã ba-la-mật tên là sanh-tử-cảnh-giới-trí-huệ-luân.
Giảng: 28. Chữ Hạt Lã Đa, tức ngộ tất cả pháp, chấp trước nghĩa tánh bất khả đắc. Do đó chấp trước là cảnh sinh tử, nghĩa tức trí huệ luân. Dùng chấp trước sinh tử là sở quán cảnh của trí huệ. Chữ Hạt Lã Đa còn là chữ Tha. Trong Trí Luận có nói rằng: Nếu nghe chữ Tha, liền biết nghĩa tất cả pháp bất khả đắc.
Xướng BÀ (bồ ngã thiết )tự thời, nhập Bát-nhã Ba-la-mật môn, danh: nhất thiết trí cung điện viên mãn trang nghiêm;
Lúc xướng chữ BÀ, thời nhập môn bát-nhã ba-la-mật tên là nhất-thiết-trí-cung-điện-viên-mãn-trang-nghiêm.
Giảng: 29. Chữ Ba, tức ngộ tất cả pháp, tánh có thể phá hoại bất khả đắc. Lời viên mãn. Tam Tạng Pháp Sư Bất Không dịch là đạo tràng. Do đó, cung điện đạo tràng, trang nghiêm theo duyên, nên có thể phá hoại, tức chẳng phải trang nghiêm, nên bất khả đắc. Cho nên đó nói rằng: Khi đọc chữ Ba, thì nhập vào môn Bát Nhã Ba La Mật nhất thiết cung điện đạo tràng trang nghiêm. Trong Trí Luận có nói rằng: Nếu nghe chữ Ba, thì biết rõ tướng phá hoại tất cả pháp bất khả đắc.
Xướng XA (thượng thanh hô )tự thời, nhập Bát-nhã Ba-la-mật môn, danh: tu hành phương tiện tạng các biệt viên mãn
Lúc xướng chữ XA, thời nhập môn bát-nhã ba-la-mật tên là tu-hành-phương-tiện-tạng-các-biệt-viên-mãn.
Giảng: 30. Chữ Xa, lối khác dịch là Tha. Tức ngộ tất cả pháp, tánh che đậy dục lạc bất khả đắc. Tức phương tiện tuỳ hỉ lạc, nên các biệt viên mãn. Tức che đậy bất khả đắc. Trong Trí Luận có nói rằng: Nếu nghe chữ Xa, liền biết tất cả pháp không chỗ đi.
Xướng SA (tô hột thiết )MA tự thời, nhập Bát-nhã Ba-la-mật môn, danh: tùy thập phương hiện kiến chư Phật;
Lúc xướng chữ SA-MẠ, thời nhập môn bát-nhã ba-la-mật tên là tùy-thập-phương-hiện-kiến-chư-phật.
Giảng: 31. Chữ Sa Ma, tức ngộ tất cả pháp, tánh có thể nghĩ nhớ bất khả đắc. Chữ Sa Ma còn là chữ Thấp Đạm. Trong Trí Luận có nói rằng: Nếu nghe chữ Thấp Đạm, liền biết nghĩa các pháp kiên cố như kim cang.
Xướng HA-BÀ (nhị tự giai thượng thanh hô )tự thời, nhập Bát-nhã Ba-la-mật môn, danh: quan sát nhất thiết vô duyên chúng sanh phương tiện nhiếp thọ lệnh xuất sanh vô ngại lực;
Giảng: 31. Chữ Sa Ma, tức ngộ tất cả pháp, tánh có thể nghĩ nhớ bất khả đắc. Chữ Sa Ma còn là chữ Thấp Đạm. Trong Trí Luận có nói rằng: Nếu nghe chữ Thấp Đạm, liền biết nghĩa các pháp kiên cố như kim cang.
Xướng HA-BÀ (nhị tự giai thượng thanh hô )tự thời, nhập Bát-nhã Ba-la-mật môn, danh: quan sát nhất thiết vô duyên chúng sanh phương tiện nhiếp thọ lệnh xuất sanh vô ngại lực;
Lúc xướng chữ HA-BÀ, thời nhập môn bát-nhã ba-la-mật tên là quán-sát nhất-thiết vô-duyên chúng-sanh phương-tiện nhiếp-thọ linh xuất-sanh vô-ngại-lực.
Giảng: 32. Chữ Ha Bà, lối khác dịch là chữ Ha Phược. Tức ngộ tất cả pháp, tánh có thể hô chiêu bất khả đắc. Do đó vì vô duyên chiêu khiến cho hữu duyên. Trong Trí Luận có nói rằng: Nếu nghe chữ Hoả, liền biết tất cả pháp không âm thanh.
Xướng THA (thất khả thiết )tự thời, nhập Bát-nhã Ba-la-mật môn, danh: tu hành thú nhập nhất thiết công đức hải;
Lúc xướng chữ THA, thời nhập môn bát-nhã ba-la-mật tên là tu-hành-xu-nhập-nhất-thiết-công-đức-hải.
Giảng: 33. Chữ Tha, tức ngộ tất cả pháp, tánh dũng kiện bất khả đắc, dùng dũng kiện mới có thể tu nhập công đức. Trong Trí Luận có nói rằng: Nếu nghe chữ Tha, liền biết tất cả pháp không sẻn, không thí.
Giảng: 32. Chữ Ha Bà, lối khác dịch là chữ Ha Phược. Tức ngộ tất cả pháp, tánh có thể hô chiêu bất khả đắc. Do đó vì vô duyên chiêu khiến cho hữu duyên. Trong Trí Luận có nói rằng: Nếu nghe chữ Hoả, liền biết tất cả pháp không âm thanh.
Xướng THA (thất khả thiết )tự thời, nhập Bát-nhã Ba-la-mật môn, danh: tu hành thú nhập nhất thiết công đức hải;
Lúc xướng chữ THA, thời nhập môn bát-nhã ba-la-mật tên là tu-hành-xu-nhập-nhất-thiết-công-đức-hải.
Giảng: 33. Chữ Tha, tức ngộ tất cả pháp, tánh dũng kiện bất khả đắc, dùng dũng kiện mới có thể tu nhập công đức. Trong Trí Luận có nói rằng: Nếu nghe chữ Tha, liền biết tất cả pháp không sẻn, không thí.
Xướng GIÀ (thượng thanh hô )tự thời, nhập Bát-nhã Ba-la-mật môn, danh: trì nhất thiết pháp vân kiên cố hải tạng;
Lúc xướng chữ GIÀ, thời nhập môn bát-nhã ba-la-mật tên là trì-nhất thiết-pháp-vân-kiên-cố-hải-tạng.
Giảng: 34. Chữ Già, tức ngộ tất cả pháp, tánh dày bình đẳng bất khả đắc. Do đó dày như đất, có thể giữ gìn bình đẳng. Cũng có thể dung chứa, như biển bình đẳng, có thể bao mây mưa thuyết pháp, dùng bất khả đắc, nên có thể giữ gìn, có thể dung chứa. Trong Trí Luận có nói rằng: Nếu nghe chữ Già, liền biết các pháp không dày, không mỏng.
Giảng: 34. Chữ Già, tức ngộ tất cả pháp, tánh dày bình đẳng bất khả đắc. Do đó dày như đất, có thể giữ gìn bình đẳng. Cũng có thể dung chứa, như biển bình đẳng, có thể bao mây mưa thuyết pháp, dùng bất khả đắc, nên có thể giữ gìn, có thể dung chứa. Trong Trí Luận có nói rằng: Nếu nghe chữ Già, liền biết các pháp không dày, không mỏng.
Xướng TRA tự thời, nhập Bát-nhã Ba-la-mật môn, danh: tùy nguyện phổ kiến thập phương chư Phật;
Lúc xướng chữ TRA, thời nhập môn bát-nhã ba-la-mật tên là tùy-nguyện-phổ-kiến-thập-phương-chư-Phật.
Giảng: 35. Chữ Tra, lối khác dịch là chữ Sá. Tức ngộ tất cả pháp, tánh tích tập bất khả đắc. Do đó tích tập niệm Phật, nên có thể thấy khắp. Chữ Tra còn là chữ Tha. Trong Trí Luận có nói rằng: Nếu nghe chữ Tha, liền biết tất cả pháp không chỗ trụ.
Giảng: 35. Chữ Tra, lối khác dịch là chữ Sá. Tức ngộ tất cả pháp, tánh tích tập bất khả đắc. Do đó tích tập niệm Phật, nên có thể thấy khắp. Chữ Tra còn là chữ Tha. Trong Trí Luận có nói rằng: Nếu nghe chữ Tha, liền biết tất cả pháp không chỗ trụ.
Xướng NÃ (nãi khả thiết )tự thời, nhập Bát-nhã Ba-la-mật môn, danh: quan sát tự luân hữu vô tận chư ức tự;
Lúc xướng chữ NÃ, thời nhập môn bát-nhã ba-la-mật tên là quán-sát tự-luân hữu vô-tận chư ức tự.
Giảng: 36. Chữ Nã, lối khác dịch là chữ Ninh. Tức ngộ tất cả pháp, lìa các sự kiện cãi. Không vãng lai, tánh đi đứng nằm ngồi bất khả đắc. Do đó dùng thường quán tự luân, vì biết chúng sinh không, pháp không. Trong Trí Luận có nói rằng: Nếu nghe chữ Nã, liền biết tất cả pháp và chúng sinh không đi, không đến, chẳng sinh, chẳng diệt, chẳng ngồi, chẳng nằm, chẳng đứng, chẳng dậy, chúng sinh không, pháp không.
Lúc xướng chữ NÃ, thời nhập môn bát-nhã ba-la-mật tên là quán-sát tự-luân hữu vô-tận chư ức tự.
Giảng: 36. Chữ Nã, lối khác dịch là chữ Ninh. Tức ngộ tất cả pháp, lìa các sự kiện cãi. Không vãng lai, tánh đi đứng nằm ngồi bất khả đắc. Do đó dùng thường quán tự luân, vì biết chúng sinh không, pháp không. Trong Trí Luận có nói rằng: Nếu nghe chữ Nã, liền biết tất cả pháp và chúng sinh không đi, không đến, chẳng sinh, chẳng diệt, chẳng ngồi, chẳng nằm, chẳng đứng, chẳng dậy, chúng sinh không, pháp không.
Xướng SA (tô hột thiết ) PHÃ tự thời, nhập Bát-nhã Ba-la-mật môn, danh: hóa chúng sanh cứu cánh xứ;
Lúc xướng chữ SA-PHÃ, thời nhập môn bát-nhã ba-la-mật tên là hóa-chúng-sanh-cứu-cánh-xứ.
Giảng: 37. Chữ Sa Phã, tức ngộ tất cả pháp, đầy khắp quả báo bất khả đắc. Do đó hoá sinh cứu kính, mới đầy khắp quả báo. Nhân quả đều không, mới viên mãn. Chữ Sa Phã còn là chữ Phã. Trong Trí Luận có nói rằng: Nếu nghe chữ Phã, liền biết tất cả pháp nhân quả đều không.
Lúc xướng chữ SA-PHÃ, thời nhập môn bát-nhã ba-la-mật tên là hóa-chúng-sanh-cứu-cánh-xứ.
Giảng: 37. Chữ Sa Phã, tức ngộ tất cả pháp, đầy khắp quả báo bất khả đắc. Do đó hoá sinh cứu kính, mới đầy khắp quả báo. Nhân quả đều không, mới viên mãn. Chữ Sa Phã còn là chữ Phã. Trong Trí Luận có nói rằng: Nếu nghe chữ Phã, liền biết tất cả pháp nhân quả đều không.
Xướng SA (đồng tiền âm ) CA tự thời, nhập Bát-nhã Ba-la-mật môn, danh: quảng đại tạng vô ngại biện quang minh luân biến chiếu;
Lúc xướng chữ SA-CA, thời nhập môn bát-nhã ba-la-mật tên là quảng-đại-tạng-vô-ngại-biện-quang-minh-luân-biến-chiếu.
Giảng: 38. Chữ Sa Ca, lối khác dịch là chữ Tắc Ca. Tức ngộ tất cả pháp, tánh tích tụ uẩn bất khả đắc. Do đó uẩn tích làm tạng rộng lớn. Quang luân vô ngại sở tích uẩn vậy. Trong Trí Luận có nói rằng: Nếu nghe chữ Ca, liền biết tất cả pháp năm chúng bất khả đắc. Năm chúng tức là sắc thọ tưởng hành thức năm uẩn vậy.
Xướng DÃ (di khả thiết ) TA (tô khả thiết )tự thời, nhập Bát-nhã Ba-la-mật môn, danh: tuyên thuyết nhất thiết Phật Pháp cảnh giới;
Lúc xướng chữ DÃ-TA, thời nhập môn bát-nhã ba-la-mật tên là tuyên-thuyết nhất-thiết-phật-pháp cảnh-giới.
Giảng: 39. Chữ Dã Sa, ức ngộ tất cả pháp, tánh tướng suy già bất khả đắc. Do đó tánh suy già tức cảnh giới Phật pháp. Trong Trí Luận có nói rằng: Nếu nghe chữ Tha, liền biết chữ Tha là không, các pháp cũng thế, cũng là không.
Xướng THẤT giả tự thời, nhập Bát-nhã Ba-la-mật môn, danh: ư nhất thiết chúng sanh giới pháp lôi biến hống;
Lúc xướng chữ THẤT, thời nhập môn bát-nhã ba-la-mật tên là nhất-thiết chúng-sanh-giới pháp-lôi biến-hống.
Giảng: 40. Chữ Thất Giả, lối khác dịch là Thất Tả. Tức ngộ tất cả pháp, dấu chân tích tụ bất khả đắc. Do đó tích tụ tức tất cả chúng sinh. Pháp lôi tức là dấu chân. Chân tức là năng đi, do đi mà có dấu, dấu là sở đi. Pháp lôi, pháp hống, tức pháp đi vậy. Trong Trí Luận có nói rằng: Nếu nghe chữ Giá, liền biết nghĩa tất cả pháp tướng bất động.
1. Đắc được nghĩ nhớ mạnh mẽ.
2. Đắc được tàm quý thù thắng.
3. Đắc được sức kiên cố.
4. Đắc được pháp chỉ thú.
5. Đắc được tăng thượng giác.
6. Đắc được huệ thù thắng.
7. Đắc được vô ngại biện.
8. Đắc được môn tổng trì.
9. Đắc được không nghi hoặc.
10. Đắc được trái thuận không sinh thương ghét.
11. Đắc được không cao thấp bình đẳng mà trụ.
12. Đắc được lời nói âm thanh khéo léo đối với hữu tình.
13. Đắc được uẩn khéo léo, xứ khéo léo, giới khéo léo.
14. Đắc được duyên khởi khéo léo, nhân khéo léo, duyên khéo léo.
15. Đắc được pháp khéo léo.
16. Đắc được căn thắng liệt trí khéo kéo.
17. Đắc được tha tâm trí khéo léo.
18. Đắc được quán tinh lịch khéo léo.
19. Đắc được thiên nhĩ trí khéo léo, túc trụ tuỳ niệm trí khéo léo, thần cảnh trí khéo léo, sinh tử trí khéo léo, lậu tận trí khéo léo.
20. Đắc được nói xứ phi xứ trí khéo léo, oai nghi thi thiết đến đi khéo léo.
Thiện nam tử! ngã duy tri thử thiện tri chúng nghệ Bồ Tát giải thoát.
Nầy Thiện-nam-tử! Ta chỉ biết môn giải-thoát bồ-tát thiện tri chúng nghệ nầy.
Giảng: Thiện nam tử ! Ta chỉ biết tam muội Bồ Tát giải thoát khéo biết các nghề nầy
Như chư Bồ-Tát Ma-ha-tát, năng ư nhất thiết thế, xuất thế gian thiện xảo chi Pháp, dĩ Trí Thông đạt đáo ư bỉ ngạn; thù phương dị nghệ, hàm tống vô di; văn tự, toán số, uẩn kỳ thâm giải; y phương, chú thuật, thiện liệu chúng bệnh;
Như chư đại Bồ-Tát có thể đối với pháp thiện-xảo thế-gian và xuất-thế-gian dùng trí thông đạt đến bỉ-ngạn. Những phương-pháp lạ, những nghề nghiệp khéo đều thấu đáo không sót. Hiểu rành những văn tự toán số, Y-phương, chú-thật, trị lành bịnh tật.
Giảng: Như các đại Bồ Tát đối với tất cả pháp môn thiện xảo thế xuất thế gian, dùng sức trí huệ thông đạt đến nơi bờ kia. Đối với những phương khác nhau, nghề khác nhau, Bồ Tát đều tinh thông, không sót chỗ nào. Bồ Tát đối với văn tự, toán số, năm uẩn .v.v… đều hiểu biết thâm sâu. Dùng đủ thứ phương y, đủ thứ chú thuật, khéo trị tất cả các chứng bệnh.
Hựu thiện quan sát Thiên văn địa lý, nhân tướng cát hung, điểu thú âm thanh, vân hà khí hậu, niên cốc phong kiệm, quốc độ an nguy, như thị thế gian sở hữu kỹ nghệ, mạc bất cai luyện, tận kỳ nguyên bổn; hựu năng phân biệt xuất thế chi Pháp, chánh danh biện nghĩa, quan sát thể tướng, tùy thuận tu hành, trí nhập kỳ trung, vô nghi, vô ngại, vô ngu ám, vô ngoan độn, Vô ưu não, vô trầm một, vô bất hiện chứng. Nhi ngã vân hà năng tri năng thuyết bỉ công đức hạnh?
Bồ-Tát lại khéo quán-sát thiên-văn, địa-lý, tướng người tốt xấu, tiếng của chim thú, mây ráng khí hậu, trúng mùa, thất thu, quốc độ an nguy, tất cả kỹ nghệ thế-gian Bồ-Tát đều rành rẽ tận nguyên bổn tất cả. Bồ-Tát lại có thể phân biệt pháp xuất thế, chánh-danh biện-nghĩa quán-sát thể tướng, tùy thuận tu hành, trí nhập trong đó, không nghi ngại, không ngu tối, không ngoan độn, không ưu-não, không trầm một, đều hiện chứng tất cả. Ta thế nào biết được, nói được công-đức-hạnh đó.
Giảng: Bồ Tát lại khéo quán sát thiên văn địa lý, tướng người cát hung. Lại có thể biết âm thanh chim thú, nói được tiếng cầm thú. Quán sát mây mù khí hậu, liền biết trong năm trúng mùa, hoặc thất thu, đất nước an nguy. Hết thảy những kỹ nghệ thế gian như vậy, chẳng có chỗ nào mà không nghiên cứu, chẳng có gì không luyện tập, Bồ Tát đều biết rõ hết nguồn gốc kỹ nghệ.
Bồ Tát lại phân biệt được pháp xuất thế, chánh danh, biện nghĩa, quán sát tất cả thể tướng, tuỳ thuận pháp môn thiện xảo phương tiện để tu hành. Có đủ thứ trí huệ, chứng được đủ thứ cảnh giới, không có nghi hoặc, không có quái ngại, không có ngu si đen tối, không có độn tánh ngoan cố, không có lo buồn, không có trầm một, những cảnh giới đó thảy đều hiện chứng, mà ta làm sao biết được, nói được những hạnh công đức đó ?
Nhữ nghệ bỉ vấn: Bồ Tát vân hà học Bồ Tát hạnh, tu Bồ Tát đạo?
Ngươi đến đó hỏi Bồ-Tát thế nào học bồ-tát-hạnh, tu bồ-tát-đạo?
Giảng: Ngươi đến đó hỏi: Bồ Tát làm thế nào học Bồ Tát hạnh ? Làm thế nào tu Bồ Tát đạo? Cô ta sẽ vì ngươi nói kỹ càng.
Ngã văn Thánh Giả thiện năng dụ hối, nguyện vi ngã thuyết!
Hiền thắng đáp ngôn: Thiện nam tử! ngã đắc Bồ Tát giải thoát, danh: vô y xứ đạo tràng; ký tự khai giải, phục vi nhân thuyết.
Giảng: Tôi nghe đức Thánh khéo dạy bảo, xin chỉ dạy cho.
Ưu-bà-di Hiền-Thắng nói: Nầy Thiện-nam-từ! Ta được môn bồ-tát giải-thoát tên là vô-y-xứ đạo-tràng. Nơi môn giải-thoát nầy, ta đã thông đạt và đem dạy người.
Con nghe đại Thánh khéo chỉ dạy tất cả chúng sinh, cho nên con đến đây thỉnh giáo, xin đại Thánh hãy từ bi vì con mà nói.
Ưu bà di Hiền Thắng đáp rằng: Thiện nam tử! Ta chứng được tam muội Bồ Tát giải thoát, tên là Vô y xứ đạo tràng (trong ngoài không nương, tức là đạo tràng), liền tự mình khai ngộ, thấu hiểu chân lý, rồi đem đạo lý hiểu được vì người khác nói, khiến cho họ cũng hiểu được, do đó có câu: “Tự giác giác tha, tự độ độ tha”.
Hựu đắc vô tận tam muội, phi bỉ tam muội pháp hữu tận, vô tận, dĩ năng xuất sanh nhất thiết trí tánh nhãn vô tận cố, hựu năng xuất sanh nhất thiết trí tánh nhĩ vô tận cố, hựu năng xuất sanh nhất thiết trí tánh tỳ vô tận cố, hựu năng xuất sanh nhất thiết trí tánh thiệt vô tận cố, hựu năng xuất sanh nhất thiết trí tánh thân vô tận cố, hựu năng xuất sanh nhất thiết trí tánh ý vô tận cố, hựu năng xuất sanh nhất thiết trí tánh công đức ba đào vô tận cố, hựu năng xuất sanh nhất thiết trí tánh trí tuệ quang minh vô tận cố, hựu năng xuất sanh nhất thiết trí tánh tốc tật thần thông vô tận cố.
Ta lại được môn vô-tận tam-muội, vì có thể xuất sanh nhất-thiết-trí-tánh nhãn vô-tận, nhĩ vô-tận, tỹ vô-tận, thiệt vô-tân, thân vô-tận, ý vô-tận, công-đức vô-tận, trí-huệ vô-tận, thần-thông vô-tận.
Ta còn đắc được vô tận tam muội, chẳng phải tam muội pháp đó có cùng tận, hoặc chẳng cùng tận, mà vì hay sinh ra nhất thiết trí huệ tánh sáu căn .v.v… chẳng cùng tận. Vì hay sinh ra nhất thiết trí tánh căn mắt chẳng cùng tận. Lại hay sinh ra nhất thiết trí tánh căn tai chẳng cùng tận. Lại hay sinh ra nhất thiết trí tánh căn mũi chẳng cùng tận. Lại hay sinh ra nhất thiết trí tánh căn lưỡi chẳng cùng tận. Lại hay sinh ra nhất thiết trí tánh căn thân chẳng cùng tận. Lại hay sinh ra nhất thiết trí tánh căn ý chẳng cùng tận. Lại hay sinh ra nhất thiết trí tánh công đức ba đào chẳng cùng tận. Lại hay sinh ra nhất thiết trí tánh trí huệ quang minh chẳng cùng tận. Lại hay sinh ra nhất thiết trí tánh thần thông mau chóng chẳng cùng tận.
Thiện nam tử! ngã duy tri thử vô y xứ đạo tràng giải thoát. Như chư Bồ-Tát Ma-ha-tát nhất thiết Vô Trước công đức hạnh, nhi ngã vân hà tận năng tri thuyết?
Nầy Thiện-nam-tử! Ta chỉ biết môn bồ-tát giải-thoát vô-y-xứ đạo-tràng nầy. Như chư đại Bồ-Tát tất cả công-đức-hạnh không chắp trước, ta thế nào biết được nói được.
Giảng: Thiện nam tử! Ta chỉ biết giải thoát Vô y xứ đạo tràng nầy. Như tất cả các đại Bồ Tát, các Ngài không chấp trước tất cả công đức hạnh, mà ta làm sao biết được, nói ra được.
Thiện nam tử! Nam phương hữu thành, danh vi: ốc điền; bỉ hữu Trưởng-giả, danh: kiên cố giải thoát.
Nầy Thiện-nam-từ! Phương nam có thành Ốc-Ðiền. Trong thành ấy có trưởng-giả Kiên-Cố-Giải-Thoát.
Giảng: Thiện nam tử! Ở phương nam có thành tên là Ốc Điền, trong thành đó có vị trưởng giả, tên là Kiên Cố Giải Thoát.
Nhữ khả vãng vấn: Bồ Tát vân hà học Bồ Tát hạnh, tu Bồ Tát đạo?
Ngươi nên đến đó hỏi Bồ-Tát thế nào học bồ-tát-hạnh, thế nào tu bồ-tát-đạo?
Giảng: Ngươi hãy đi đến đó hỏi: Bồ Tát làm thế nào học Bồ Tát hạnh? Làm thế nào tu Bồ Tát đạo? Ngài sẽ vì ngươi mà nói rõ.
Nhĩ thời, Thiện Tài lễ hiền thắng túc, nhiễu vô số tạp, luyến mộ chiêm ngưỡng, từ thoái Nam hành.
Thiện-Tài đảnh lễ Hiền-Thắng, hữu nhiễu vô-số vòng, luyến mộ chiêm ngưỡng từ tạ mà đi qua hướng nam
Giảng: Lúc đó, Thiện Tài đảnh lễ ưu bà di Hiền Thắng, nhiễu quanh bên phải vô lượng vòng, luyến mộ chiêm ngưỡng, rồi từ tạ mà đi về hướng nam thành Ốc Điền, tham phương vị trưởng giả Kiên Cố Giải Thoát.
Lúc xướng chữ SA-CA, thời nhập môn bát-nhã ba-la-mật tên là quảng-đại-tạng-vô-ngại-biện-quang-minh-luân-biến-chiếu.
Giảng: 38. Chữ Sa Ca, lối khác dịch là chữ Tắc Ca. Tức ngộ tất cả pháp, tánh tích tụ uẩn bất khả đắc. Do đó uẩn tích làm tạng rộng lớn. Quang luân vô ngại sở tích uẩn vậy. Trong Trí Luận có nói rằng: Nếu nghe chữ Ca, liền biết tất cả pháp năm chúng bất khả đắc. Năm chúng tức là sắc thọ tưởng hành thức năm uẩn vậy.
Xướng DÃ (di khả thiết ) TA (tô khả thiết )tự thời, nhập Bát-nhã Ba-la-mật môn, danh: tuyên thuyết nhất thiết Phật Pháp cảnh giới;
Lúc xướng chữ DÃ-TA, thời nhập môn bát-nhã ba-la-mật tên là tuyên-thuyết nhất-thiết-phật-pháp cảnh-giới.
Giảng: 39. Chữ Dã Sa, ức ngộ tất cả pháp, tánh tướng suy già bất khả đắc. Do đó tánh suy già tức cảnh giới Phật pháp. Trong Trí Luận có nói rằng: Nếu nghe chữ Tha, liền biết chữ Tha là không, các pháp cũng thế, cũng là không.
Xướng THẤT giả tự thời, nhập Bát-nhã Ba-la-mật môn, danh: ư nhất thiết chúng sanh giới pháp lôi biến hống;
Lúc xướng chữ THẤT, thời nhập môn bát-nhã ba-la-mật tên là nhất-thiết chúng-sanh-giới pháp-lôi biến-hống.
Giảng: 40. Chữ Thất Giả, lối khác dịch là Thất Tả. Tức ngộ tất cả pháp, dấu chân tích tụ bất khả đắc. Do đó tích tụ tức tất cả chúng sinh. Pháp lôi tức là dấu chân. Chân tức là năng đi, do đi mà có dấu, dấu là sở đi. Pháp lôi, pháp hống, tức pháp đi vậy. Trong Trí Luận có nói rằng: Nếu nghe chữ Giá, liền biết nghĩa tất cả pháp tướng bất động.
Xướng SÁ (sỉ gia thiết )tự thời, nhập Bát-nhã Ba-la-mật môn, danh: dĩ vô ngã Pháp khai hiểu chúng sanh;
Lúc xướng chữ SÁ, thời nhập môn bát-nhã ba-la-mật tên là dĩ vô-ngã-pháp khai-hiểu chúng-sanh.
Giảng: 41. Chữ Sá, lối dịch khác là chữ Thác, tức ngộ tất cả pháp, tánh tướng thúc đuổi bất khả đắc. Do đó dùng hiểu sự vô ngã, tức là thúc đuổi khiến cho đến bờ bên kia. Nếu là bậc biểu ước thì đây sẽ là Đẳng Giác. Pháp thân muốn đầy, xưa vốn muốn bằng. Nên quên hai bờ. Trong Trí Luận có nói rằng: Nếu nghe chữ Sá, liền biết tất cả pháp đó đây hai bờ bất khả đắc.
Xướng ÐÀ tự thời, nhập Bát-nhã Ba-la-mật môn, danh: nhất thiết pháp luân sái biệt tạng.
Lúc xướng chữ ÐÀ, thời nhập môn bát-nhã ba-la-mật tên là nhất-thiết pháp-luân sai-biệt-tạng.
Giảng: 42. Chữ Đà, tức ngộ tất cả pháp, nơi rốt ráo bất khả đắc. Nói về sai biệt tạng, là nơi rốt ráo nầy bất khả đắc, hàm chứa tất cả pháp luân, cũng là nơi quy cực của tất cả pháp luân. Ước biểu vị đương diệu giác, là rốt ráo bờ mé tất cả pháp. Tận kỳ xứ sở, không sinh, không chết, không có kẻ làm, ý đều bồ đề vậy. Trong Trí Luận có nói rằng : Nếu nghe chữ Trà, tức biết tất cả pháp bất khả đắc.
Bốn mươi hai tự mẫu ở trên, đều nói về môn nhập vào Bát Nhã Ba La Mật, mà bậc Đẳng Giác bạn lành, nói pháp môn tự mẫu nầy, ý lìa tướng văn tự, lìa tâm duyên tướng, cho đến lìa tất cả tướng, mới chứng nhập được nguồn tâm nhứt pháp giới vậy.
Bốn mươi hai tự mẫu, pháp môn tổng nhiếp bốn mươi hai bậc. Tức bậc Thập trụ, Thập hạnh, Thập hồi hướng, Thập Địa, Đẳng giác, Diệu giác. Phải lìa lời nói mới có thể chứng nhập. Thiện Tài đồng tử, tham một vị thiện tri thức, thì tiến lên một bậc. Thiện Tài đồng tử tham đến tột cùng bậc nhân, thì phải quên lời đốn chứng. Cho nên bốn mươi hai chữ nầy, mỗi mỗi đều lập, nhập vào môn Bát Nhã Ba La Mật. Mà Bát Nhã nầy, rốt ráo là căn bổn quả trí của Phật. Bốn mươi hai chữ nầy, đều nói bất khả đắc. Bất khả đắc vẫn đắc bồ đề, đó là nơi trở về tột cùng nhập vào pháp giới.
Xướng tự mẫu nầy, thì dẫn nhập vào môn Bát Nhã, chứ chẳng phải chữ là Bát Nhã, điểm nầy phải minh bạch. Thọ trì pháp môn chữ nầy, có thể đắc được hai mươi thứ công đức :
Lúc xướng chữ SÁ, thời nhập môn bát-nhã ba-la-mật tên là dĩ vô-ngã-pháp khai-hiểu chúng-sanh.
Giảng: 41. Chữ Sá, lối dịch khác là chữ Thác, tức ngộ tất cả pháp, tánh tướng thúc đuổi bất khả đắc. Do đó dùng hiểu sự vô ngã, tức là thúc đuổi khiến cho đến bờ bên kia. Nếu là bậc biểu ước thì đây sẽ là Đẳng Giác. Pháp thân muốn đầy, xưa vốn muốn bằng. Nên quên hai bờ. Trong Trí Luận có nói rằng: Nếu nghe chữ Sá, liền biết tất cả pháp đó đây hai bờ bất khả đắc.
Xướng ÐÀ tự thời, nhập Bát-nhã Ba-la-mật môn, danh: nhất thiết pháp luân sái biệt tạng.
Lúc xướng chữ ÐÀ, thời nhập môn bát-nhã ba-la-mật tên là nhất-thiết pháp-luân sai-biệt-tạng.
Giảng: 42. Chữ Đà, tức ngộ tất cả pháp, nơi rốt ráo bất khả đắc. Nói về sai biệt tạng, là nơi rốt ráo nầy bất khả đắc, hàm chứa tất cả pháp luân, cũng là nơi quy cực của tất cả pháp luân. Ước biểu vị đương diệu giác, là rốt ráo bờ mé tất cả pháp. Tận kỳ xứ sở, không sinh, không chết, không có kẻ làm, ý đều bồ đề vậy. Trong Trí Luận có nói rằng : Nếu nghe chữ Trà, tức biết tất cả pháp bất khả đắc.
Bốn mươi hai tự mẫu ở trên, đều nói về môn nhập vào Bát Nhã Ba La Mật, mà bậc Đẳng Giác bạn lành, nói pháp môn tự mẫu nầy, ý lìa tướng văn tự, lìa tâm duyên tướng, cho đến lìa tất cả tướng, mới chứng nhập được nguồn tâm nhứt pháp giới vậy.
Bốn mươi hai tự mẫu, pháp môn tổng nhiếp bốn mươi hai bậc. Tức bậc Thập trụ, Thập hạnh, Thập hồi hướng, Thập Địa, Đẳng giác, Diệu giác. Phải lìa lời nói mới có thể chứng nhập. Thiện Tài đồng tử, tham một vị thiện tri thức, thì tiến lên một bậc. Thiện Tài đồng tử tham đến tột cùng bậc nhân, thì phải quên lời đốn chứng. Cho nên bốn mươi hai chữ nầy, mỗi mỗi đều lập, nhập vào môn Bát Nhã Ba La Mật. Mà Bát Nhã nầy, rốt ráo là căn bổn quả trí của Phật. Bốn mươi hai chữ nầy, đều nói bất khả đắc. Bất khả đắc vẫn đắc bồ đề, đó là nơi trở về tột cùng nhập vào pháp giới.
Xướng tự mẫu nầy, thì dẫn nhập vào môn Bát Nhã, chứ chẳng phải chữ là Bát Nhã, điểm nầy phải minh bạch. Thọ trì pháp môn chữ nầy, có thể đắc được hai mươi thứ công đức :
1. Đắc được nghĩ nhớ mạnh mẽ.
2. Đắc được tàm quý thù thắng.
3. Đắc được sức kiên cố.
4. Đắc được pháp chỉ thú.
5. Đắc được tăng thượng giác.
6. Đắc được huệ thù thắng.
7. Đắc được vô ngại biện.
8. Đắc được môn tổng trì.
9. Đắc được không nghi hoặc.
10. Đắc được trái thuận không sinh thương ghét.
11. Đắc được không cao thấp bình đẳng mà trụ.
12. Đắc được lời nói âm thanh khéo léo đối với hữu tình.
13. Đắc được uẩn khéo léo, xứ khéo léo, giới khéo léo.
14. Đắc được duyên khởi khéo léo, nhân khéo léo, duyên khéo léo.
15. Đắc được pháp khéo léo.
16. Đắc được căn thắng liệt trí khéo kéo.
17. Đắc được tha tâm trí khéo léo.
18. Đắc được quán tinh lịch khéo léo.
19. Đắc được thiên nhĩ trí khéo léo, túc trụ tuỳ niệm trí khéo léo, thần cảnh trí khéo léo, sinh tử trí khéo léo, lậu tận trí khéo léo.
20. Đắc được nói xứ phi xứ trí khéo léo, oai nghi thi thiết đến đi khéo léo.
Thiện nam tử! ngã xướng như thị tự mẫu thời, thử tứ thập nhị Bát-nhã Ba-la-mật môn vi thủ, nhập vô lượng vô số Bát-nhã Ba-la-mật môn.
Nầy Thiện-nam-tử! Lúc ta xướng những tự-mẫu như vậy, thời trước tiên ta nhập bốn mươi hai môn bát-nhã ba-la-mật đây cùng với vô-lượng vô-số môn bát-nhã ba-la-mật.
Giảng: Thiện Tri Chúng Nghệ đồng tử nói với Thiện Tài đồng tử : Thiện nam tử ! Khi ta đọc xướng bốn mươi hai tự mẫu, thì dùng bốn mươi hai môn Bát Nhã Ba La Mật nầy làm đầu, chứng nhập vào vô lượng vô số môn Bát Nhã Ba La Mật. Đủ thứ lời nói, đều không ra khỏi bốn mươi hai tự mẫu nầy. Kinh Hoa Nghiêm diễn nói vô tận pháp giới, pháp môn bốn mươi hai bậc viên dung nhân quả, đều không ra khỏi sự biểu đạt ngôn ngữ âm thanh, cho nên bốn mươi hai chữ tổng nhiếp pháp môn bốn mươi hai bậc.
Nầy Thiện-nam-tử! Lúc ta xướng những tự-mẫu như vậy, thời trước tiên ta nhập bốn mươi hai môn bát-nhã ba-la-mật đây cùng với vô-lượng vô-số môn bát-nhã ba-la-mật.
Giảng: Thiện Tri Chúng Nghệ đồng tử nói với Thiện Tài đồng tử : Thiện nam tử ! Khi ta đọc xướng bốn mươi hai tự mẫu, thì dùng bốn mươi hai môn Bát Nhã Ba La Mật nầy làm đầu, chứng nhập vào vô lượng vô số môn Bát Nhã Ba La Mật. Đủ thứ lời nói, đều không ra khỏi bốn mươi hai tự mẫu nầy. Kinh Hoa Nghiêm diễn nói vô tận pháp giới, pháp môn bốn mươi hai bậc viên dung nhân quả, đều không ra khỏi sự biểu đạt ngôn ngữ âm thanh, cho nên bốn mươi hai chữ tổng nhiếp pháp môn bốn mươi hai bậc.
Thiện nam tử! ngã duy tri thử thiện tri chúng nghệ Bồ Tát giải thoát.
Nầy Thiện-nam-tử! Ta chỉ biết môn giải-thoát bồ-tát thiện tri chúng nghệ nầy.
Giảng: Thiện nam tử ! Ta chỉ biết tam muội Bồ Tát giải thoát khéo biết các nghề nầy
Như chư Bồ-Tát Ma-ha-tát, năng ư nhất thiết thế, xuất thế gian thiện xảo chi Pháp, dĩ Trí Thông đạt đáo ư bỉ ngạn; thù phương dị nghệ, hàm tống vô di; văn tự, toán số, uẩn kỳ thâm giải; y phương, chú thuật, thiện liệu chúng bệnh;
Như chư đại Bồ-Tát có thể đối với pháp thiện-xảo thế-gian và xuất-thế-gian dùng trí thông đạt đến bỉ-ngạn. Những phương-pháp lạ, những nghề nghiệp khéo đều thấu đáo không sót. Hiểu rành những văn tự toán số, Y-phương, chú-thật, trị lành bịnh tật.
Giảng: Như các đại Bồ Tát đối với tất cả pháp môn thiện xảo thế xuất thế gian, dùng sức trí huệ thông đạt đến nơi bờ kia. Đối với những phương khác nhau, nghề khác nhau, Bồ Tát đều tinh thông, không sót chỗ nào. Bồ Tát đối với văn tự, toán số, năm uẩn .v.v… đều hiểu biết thâm sâu. Dùng đủ thứ phương y, đủ thứ chú thuật, khéo trị tất cả các chứng bệnh.
Hữu chư chúng sanh, quỷ mị sở trì, oán tăng chú trớ, ác tinh biến quái, tử thi bôn trục, điên giản, luy sấu, chủng chủng chư tật, hàm năng cứu chi, sử đắc thuyên dũ; hựu thiện biệt tri kim ngọc, châu bối, san hô, lưu ly, ma-ni, xa cừ, kê tát la đẳng nhất thiết Bảo Tạng, xuất sanh chi xứ, phẩm loại bất đồng, giá trực đa thiểu; thôn doanh hương ấp, đại tiểu đô thành, cung điện uyển viên, nham tuyền tẩu trạch, phàm thị nhất thiết nhân chúng sở cư, Bồ Tát hàm năng tùy phương nhiếp hộ;
Lại biết rành những chỗ sản xuất vàng, bạc, châu, ngọc, san-hô, lưu-ly, ma-ni, xa-cừ, tất cả kho tàng bửu-vật, những phẩm-loại, những giá-trị. Những xóm làng thành ấp, cung điện vườn tược, núi, rừng, suối, ao phàm những chỗ ở của tất cả nhơn chúng, Bồ-Tát đều có thể phương-tiện nhiếp thọ.
Giảng: Nếu có chúng sinh, bị quỷ mị bắt giữ, khống chế họ, mất đi tự do, hoặc oán hận ghét những người khác. Hoặc dùng chú trù ẻo người khác, hoặc bỏ bùa người khác, hoặc vũ trụ xuất hiện ngôi sao ác, như sao chổi, hoặc có đủ thứ hiện tượng biến quái, hoặc trong mộng bị tử thi rượt đuổi, hai chân không cử động được, hoặc bị chứng bệnh thần kinh tán loạn, hoặc bị giựt kinh phong, khi phát bệnh thì chẳng còn biết trời đất là gì, đập phá đồ đạt, tay chân co giật, lớn tiếng kêu la, hoặc thân thể ốm gầy như cây củi. Đủ thứ những chứng bệnh đó, Bồ Tát đều cứu chữa được, khiến cho chúng sinh đều khỏi bệnh.
Bồ Tát lại khéo biết rõ chỗ nào sinh ra vàng, đá ngọc, châu báu, san hô, lưu ly, ma ni, xa cừ, tất cả bảo tàng, phẩm loại đều khác nhau, giá trị bao nhiêu, Bồ Tát đều biết.
Bất cứ thôn ấp xóm làng, đô thành lớn nhỏ, cung điện vườn tược, suối ao, phàm là chỗ tất cả dân chúng ở, Bồ Tát đều tuỳ phương nhiếp thọ bảo hộ.
Lại biết rành những chỗ sản xuất vàng, bạc, châu, ngọc, san-hô, lưu-ly, ma-ni, xa-cừ, tất cả kho tàng bửu-vật, những phẩm-loại, những giá-trị. Những xóm làng thành ấp, cung điện vườn tược, núi, rừng, suối, ao phàm những chỗ ở của tất cả nhơn chúng, Bồ-Tát đều có thể phương-tiện nhiếp thọ.
Giảng: Nếu có chúng sinh, bị quỷ mị bắt giữ, khống chế họ, mất đi tự do, hoặc oán hận ghét những người khác. Hoặc dùng chú trù ẻo người khác, hoặc bỏ bùa người khác, hoặc vũ trụ xuất hiện ngôi sao ác, như sao chổi, hoặc có đủ thứ hiện tượng biến quái, hoặc trong mộng bị tử thi rượt đuổi, hai chân không cử động được, hoặc bị chứng bệnh thần kinh tán loạn, hoặc bị giựt kinh phong, khi phát bệnh thì chẳng còn biết trời đất là gì, đập phá đồ đạt, tay chân co giật, lớn tiếng kêu la, hoặc thân thể ốm gầy như cây củi. Đủ thứ những chứng bệnh đó, Bồ Tát đều cứu chữa được, khiến cho chúng sinh đều khỏi bệnh.
Bồ Tát lại khéo biết rõ chỗ nào sinh ra vàng, đá ngọc, châu báu, san hô, lưu ly, ma ni, xa cừ, tất cả bảo tàng, phẩm loại đều khác nhau, giá trị bao nhiêu, Bồ Tát đều biết.
Bất cứ thôn ấp xóm làng, đô thành lớn nhỏ, cung điện vườn tược, suối ao, phàm là chỗ tất cả dân chúng ở, Bồ Tát đều tuỳ phương nhiếp thọ bảo hộ.
Hựu thiện quan sát Thiên văn địa lý, nhân tướng cát hung, điểu thú âm thanh, vân hà khí hậu, niên cốc phong kiệm, quốc độ an nguy, như thị thế gian sở hữu kỹ nghệ, mạc bất cai luyện, tận kỳ nguyên bổn; hựu năng phân biệt xuất thế chi Pháp, chánh danh biện nghĩa, quan sát thể tướng, tùy thuận tu hành, trí nhập kỳ trung, vô nghi, vô ngại, vô ngu ám, vô ngoan độn, Vô ưu não, vô trầm một, vô bất hiện chứng. Nhi ngã vân hà năng tri năng thuyết bỉ công đức hạnh?
Bồ-Tát lại khéo quán-sát thiên-văn, địa-lý, tướng người tốt xấu, tiếng của chim thú, mây ráng khí hậu, trúng mùa, thất thu, quốc độ an nguy, tất cả kỹ nghệ thế-gian Bồ-Tát đều rành rẽ tận nguyên bổn tất cả. Bồ-Tát lại có thể phân biệt pháp xuất thế, chánh-danh biện-nghĩa quán-sát thể tướng, tùy thuận tu hành, trí nhập trong đó, không nghi ngại, không ngu tối, không ngoan độn, không ưu-não, không trầm một, đều hiện chứng tất cả. Ta thế nào biết được, nói được công-đức-hạnh đó.
Giảng: Bồ Tát lại khéo quán sát thiên văn địa lý, tướng người cát hung. Lại có thể biết âm thanh chim thú, nói được tiếng cầm thú. Quán sát mây mù khí hậu, liền biết trong năm trúng mùa, hoặc thất thu, đất nước an nguy. Hết thảy những kỹ nghệ thế gian như vậy, chẳng có chỗ nào mà không nghiên cứu, chẳng có gì không luyện tập, Bồ Tát đều biết rõ hết nguồn gốc kỹ nghệ.
Bồ Tát lại phân biệt được pháp xuất thế, chánh danh, biện nghĩa, quán sát tất cả thể tướng, tuỳ thuận pháp môn thiện xảo phương tiện để tu hành. Có đủ thứ trí huệ, chứng được đủ thứ cảnh giới, không có nghi hoặc, không có quái ngại, không có ngu si đen tối, không có độn tánh ngoan cố, không có lo buồn, không có trầm một, những cảnh giới đó thảy đều hiện chứng, mà ta làm sao biết được, nói được những hạnh công đức đó ?
Thiện nam tử! thử Ma kiệt đề quốc, hữu nhất tụ lạc, bỉ trung hữu thành, danh: Bà đát na; hữu ưu-bà-di, hiệu viết: hiền thắng.
Nầy Thiện-nam-từ! Nước Ma-Kiệt-Ðề có một tụ-lạc, trong đó có thành Bà-Ðát-Na. Trong thành ấy có một ưu-bà-di tên là Hiền-thắng.
Giảng: Thiện nam tử ! Nước Ma Kiệt Đề nầy, có một thôn xóm, trong thôn xóm đó có một thành tên là Bà Đát Na. Trong thành đó, có vị ưu bà di tên là Hiền Thắng,
Nầy Thiện-nam-từ! Nước Ma-Kiệt-Ðề có một tụ-lạc, trong đó có thành Bà-Ðát-Na. Trong thành ấy có một ưu-bà-di tên là Hiền-thắng.
Giảng: Thiện nam tử ! Nước Ma Kiệt Đề nầy, có một thôn xóm, trong thôn xóm đó có một thành tên là Bà Đát Na. Trong thành đó, có vị ưu bà di tên là Hiền Thắng,
Nhữ nghệ bỉ vấn: Bồ Tát vân hà học Bồ Tát hạnh, tu Bồ Tát đạo?
Ngươi đến đó hỏi Bồ-Tát thế nào học bồ-tát-hạnh, tu bồ-tát-đạo?
Giảng: Ngươi đến đó hỏi: Bồ Tát làm thế nào học Bồ Tát hạnh ? Làm thế nào tu Bồ Tát đạo? Cô ta sẽ vì ngươi nói kỹ càng.
Thời, Thiện tài đồng tử đầu diện kính lễ tri nghệ chi túc, nhiễu vô số tạp, luyến ngưỡng từ khứ.
Thiện-Tài đảnh lễ Tri-Nghệ Ðồng-Tử, hữu-nhiễu vô-số vòng, luyến mộ chiêm ngưỡng từ tạ mà đi.
Giảng: Lúc đó, Thiện Tài đồng tử cung kính đảnh lễ Thiện Tri Chúng Nghệ đồng tử, đi nhiễu bên phải vô lượng vòng, luyến mộ chiêm ngưỡng từ tạ mà đi về hướng nam nước Ma Kiệt Đề tham phương vị ưu bà di Hiền Thắng.
Bậc Hiền Thắng, hiền do thẳng thiện. Không nương đạo tràng nên tối thẳng thiện. Ưu ba di dịch là cận sự nữ, tức là nữ cư sĩ tại gia tu giữ năm giới, phụng hành thập thiện. Là cư sĩ nữ gần gũi Tam Bảo, thừa sự Tam Bảo, cúng dường Tam Bảo, hộ trì Tam Bảo.
Thiện-Tài đảnh lễ Tri-Nghệ Ðồng-Tử, hữu-nhiễu vô-số vòng, luyến mộ chiêm ngưỡng từ tạ mà đi.
Giảng: Lúc đó, Thiện Tài đồng tử cung kính đảnh lễ Thiện Tri Chúng Nghệ đồng tử, đi nhiễu bên phải vô lượng vòng, luyến mộ chiêm ngưỡng từ tạ mà đi về hướng nam nước Ma Kiệt Đề tham phương vị ưu bà di Hiền Thắng.
=======================
45. ƯU BÀ DI HIỀN THẮNG
HỘI DUYÊN VÀO THẬT TƯỚNG
Bậc Hiền Thắng, hiền do thẳng thiện. Không nương đạo tràng nên tối thẳng thiện. Ưu ba di dịch là cận sự nữ, tức là nữ cư sĩ tại gia tu giữ năm giới, phụng hành thập thiện. Là cư sĩ nữ gần gũi Tam Bảo, thừa sự Tam Bảo, cúng dường Tam Bảo, hộ trì Tam Bảo.
Hướng tụ lạc thành, chí hiền thắng sở, lễ túc vi nhiễu, hợp chưởng cung kính, ư nhất diện lập, bạch ngôn: Thánh Giả! ngã dĩ tiên phát a nậu đa la tam miệu tam Bồ-Đề tâm, nhi vị tri Bồ Tát vân hà học Bồ Tát hạnh? vân hà tu Bồ Tát đạo?
Thiện-Tài đến thành Bà-Ðát-Na đảnh lễ Hiền-Thắng, hữu-nhiễu cung kính, chắp tay thưa rằng: Bạch đức Thánh! Tôi đã phát tâm vô-thượng bồ-đề, mà chưa biết Bồ-Tát thế nào học bồ-tát-hạnh, thế nào tu bồ-tát-đạo.
Giảng: Thiện Tài đồng tử đi về hướng nam thành thôn xóm, đến chỗ vị ưu bà di Hiền Thắng, đảnh lễ đi nhiễu quanh bên phải vô lượng vòng, chắp tay cung kính đứng về một bên, mà bạch với vị ưu bà di Hiền Thắng rằng: Đại Thánh! Con trước đã phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, mà chưa biết Bồ Tát làm thế nào học Bồ Tát hạnh? Làm thế nào tu Bồ Tát đạo?
Thiện-Tài đến thành Bà-Ðát-Na đảnh lễ Hiền-Thắng, hữu-nhiễu cung kính, chắp tay thưa rằng: Bạch đức Thánh! Tôi đã phát tâm vô-thượng bồ-đề, mà chưa biết Bồ-Tát thế nào học bồ-tát-hạnh, thế nào tu bồ-tát-đạo.
Giảng: Thiện Tài đồng tử đi về hướng nam thành thôn xóm, đến chỗ vị ưu bà di Hiền Thắng, đảnh lễ đi nhiễu quanh bên phải vô lượng vòng, chắp tay cung kính đứng về một bên, mà bạch với vị ưu bà di Hiền Thắng rằng: Đại Thánh! Con trước đã phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, mà chưa biết Bồ Tát làm thế nào học Bồ Tát hạnh? Làm thế nào tu Bồ Tát đạo?
Ngã văn Thánh Giả thiện năng dụ hối, nguyện vi ngã thuyết!
Hiền thắng đáp ngôn: Thiện nam tử! ngã đắc Bồ Tát giải thoát, danh: vô y xứ đạo tràng; ký tự khai giải, phục vi nhân thuyết.
Giảng: Tôi nghe đức Thánh khéo dạy bảo, xin chỉ dạy cho.
Ưu-bà-di Hiền-Thắng nói: Nầy Thiện-nam-từ! Ta được môn bồ-tát giải-thoát tên là vô-y-xứ đạo-tràng. Nơi môn giải-thoát nầy, ta đã thông đạt và đem dạy người.
Con nghe đại Thánh khéo chỉ dạy tất cả chúng sinh, cho nên con đến đây thỉnh giáo, xin đại Thánh hãy từ bi vì con mà nói.
Ưu bà di Hiền Thắng đáp rằng: Thiện nam tử! Ta chứng được tam muội Bồ Tát giải thoát, tên là Vô y xứ đạo tràng (trong ngoài không nương, tức là đạo tràng), liền tự mình khai ngộ, thấu hiểu chân lý, rồi đem đạo lý hiểu được vì người khác nói, khiến cho họ cũng hiểu được, do đó có câu: “Tự giác giác tha, tự độ độ tha”.
Hựu đắc vô tận tam muội, phi bỉ tam muội pháp hữu tận, vô tận, dĩ năng xuất sanh nhất thiết trí tánh nhãn vô tận cố, hựu năng xuất sanh nhất thiết trí tánh nhĩ vô tận cố, hựu năng xuất sanh nhất thiết trí tánh tỳ vô tận cố, hựu năng xuất sanh nhất thiết trí tánh thiệt vô tận cố, hựu năng xuất sanh nhất thiết trí tánh thân vô tận cố, hựu năng xuất sanh nhất thiết trí tánh ý vô tận cố, hựu năng xuất sanh nhất thiết trí tánh công đức ba đào vô tận cố, hựu năng xuất sanh nhất thiết trí tánh trí tuệ quang minh vô tận cố, hựu năng xuất sanh nhất thiết trí tánh tốc tật thần thông vô tận cố.
Ta lại được môn vô-tận tam-muội, vì có thể xuất sanh nhất-thiết-trí-tánh nhãn vô-tận, nhĩ vô-tận, tỹ vô-tận, thiệt vô-tân, thân vô-tận, ý vô-tận, công-đức vô-tận, trí-huệ vô-tận, thần-thông vô-tận.
Ta còn đắc được vô tận tam muội, chẳng phải tam muội pháp đó có cùng tận, hoặc chẳng cùng tận, mà vì hay sinh ra nhất thiết trí huệ tánh sáu căn .v.v… chẳng cùng tận. Vì hay sinh ra nhất thiết trí tánh căn mắt chẳng cùng tận. Lại hay sinh ra nhất thiết trí tánh căn tai chẳng cùng tận. Lại hay sinh ra nhất thiết trí tánh căn mũi chẳng cùng tận. Lại hay sinh ra nhất thiết trí tánh căn lưỡi chẳng cùng tận. Lại hay sinh ra nhất thiết trí tánh căn thân chẳng cùng tận. Lại hay sinh ra nhất thiết trí tánh căn ý chẳng cùng tận. Lại hay sinh ra nhất thiết trí tánh công đức ba đào chẳng cùng tận. Lại hay sinh ra nhất thiết trí tánh trí huệ quang minh chẳng cùng tận. Lại hay sinh ra nhất thiết trí tánh thần thông mau chóng chẳng cùng tận.
Thiện nam tử! ngã duy tri thử vô y xứ đạo tràng giải thoát. Như chư Bồ-Tát Ma-ha-tát nhất thiết Vô Trước công đức hạnh, nhi ngã vân hà tận năng tri thuyết?
Nầy Thiện-nam-tử! Ta chỉ biết môn bồ-tát giải-thoát vô-y-xứ đạo-tràng nầy. Như chư đại Bồ-Tát tất cả công-đức-hạnh không chắp trước, ta thế nào biết được nói được.
Giảng: Thiện nam tử! Ta chỉ biết giải thoát Vô y xứ đạo tràng nầy. Như tất cả các đại Bồ Tát, các Ngài không chấp trước tất cả công đức hạnh, mà ta làm sao biết được, nói ra được.
Thiện nam tử! Nam phương hữu thành, danh vi: ốc điền; bỉ hữu Trưởng-giả, danh: kiên cố giải thoát.
Nầy Thiện-nam-từ! Phương nam có thành Ốc-Ðiền. Trong thành ấy có trưởng-giả Kiên-Cố-Giải-Thoát.
Giảng: Thiện nam tử! Ở phương nam có thành tên là Ốc Điền, trong thành đó có vị trưởng giả, tên là Kiên Cố Giải Thoát.
Nhữ khả vãng vấn: Bồ Tát vân hà học Bồ Tát hạnh, tu Bồ Tát đạo?
Ngươi nên đến đó hỏi Bồ-Tát thế nào học bồ-tát-hạnh, thế nào tu bồ-tát-đạo?
Giảng: Ngươi hãy đi đến đó hỏi: Bồ Tát làm thế nào học Bồ Tát hạnh? Làm thế nào tu Bồ Tát đạo? Ngài sẽ vì ngươi mà nói rõ.
Nhĩ thời, Thiện Tài lễ hiền thắng túc, nhiễu vô số tạp, luyến mộ chiêm ngưỡng, từ thoái Nam hành.
Thiện-Tài đảnh lễ Hiền-Thắng, hữu nhiễu vô-số vòng, luyến mộ chiêm ngưỡng từ tạ mà đi qua hướng nam
Giảng: Lúc đó, Thiện Tài đảnh lễ ưu bà di Hiền Thắng, nhiễu quanh bên phải vô lượng vòng, luyến mộ chiêm ngưỡng, rồi từ tạ mà đi về hướng nam thành Ốc Điền, tham phương vị trưởng giả Kiên Cố Giải Thoát.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét