Đọc Hiểu Địa Tạng Vương Bồ Tát
Đức Địa Tạng Bồ Tát là một vị đã chứng bậc đẳng giác trải đến vô lượng a tăng kỳ kiếp rồi.
Ngài có lời đại nguyện rằng: Nếu ngài chưa độ hết chúng sanh, thì ngài không chứng quả Bồ Đề, và nếu sự thọ khổ trong địa ngục hãy còn, thì ngài thề không chịu thành Phật.
Do cái bổn nguyện ấy, nên ngài phân thân nhiều phen, đặng độ thoát hằng hà sa số chúng sanh đương tội khổ, trải đã không biết bao nhiêu kiếp rồi, mà ngài cũng còn làm một vị Bồ Tát như vậy.
Còn như nói đến tiền thân của ngài từ khi chưa chứng quả vị, có kiếp ngài làm con gái, có kiếp thì ngài làm con trai, và cũng có kiếp ngài làm vua nữa.
Nay y theo Kinh Địa Tạng của Phật Thích Ca nói tại cung trời Đao Lợi rất có chứng cớ rõ ràng, mà lược điển một sự tích, khi ngài làm con gái dòng Bà la môn như dưới này.
Hồi đời quá khứ, tại kiếp bất khả tư nghị a tăng kỳ, có đức Phật Giác Hoa Định Tự Tại Vương ra đời.
Sau Phật ấy nhập diệt rồi, đến thời kỳ tượng pháp thì ngài Địa Tạng lúc ấy chưa chứng vị Bồ Tát, sanh làm con gái dòng Bà la môn.
Vì nàng có túc phước rất nhiều, nên hết thảy mỗi người trong hàng thân thích đều tôn trọng cung kính, cho đến khi đi đứng nằm ngồi, cũng đều có hàng chư thiên ủng hộ.
Ngặt vì thân mẫu của nàng tín theo ngoại đạo, nên thường đem lòng tà niệm mà khinh khi Tam Bảo, đã không tin nhân quả nghiệp báo, mà lại còn chê bai chánh pháp nữa.
Khi đó nàng đã biết mẹ mình không tin Phật pháp, thế nào đến khi thác rồi cũng phải trầm luân nơi khổ ải, nên nàng mới hết lòng khuyên can, sớm tối kiếm nhiều lời, phương tiện mà giảng nói, muốn làm sao cho mẹ mình tín ngưỡng theo chánh giáo, thì mới đành lòng.
Song khuyên thì khuyên, can thì can, mà thân mẫu của nàng ác nghiệp đã dẫy đầy và tín tâm lại cạn cợt, nên chẳng có chút gì tin theo.
Ôi chẳng bao lâu bà đã nhuốm bệnh trầm kha, bổng chốc hóa ra người thiên cổ. Vì lúc sanh tiền ác nghiệp đã thành thục, nên chi thần hồn phải theo nghiệp quả mà đoạ lạc vào vô gián địa ngục.
Còn phần nàng, một nỗi thì thương mẹ cách biệt, dậm đất kêu trời, một nổi thì sợ mẹ trầm luân, kinh hồn hãi vía, ngổn ngang trăm mối bên lòng, ăn không ngon, nằm không ngủ, đêm ngày than khóc, ngàn thảm muôn sầu. Tưởng trong cảnh huống ấy, nếu có phương gì mà cứu mẹ được, dầu thịt nát xương mòn nàng cũng không hề tiếc, huống chi nói đến sự gì. Khi ấy nàng mới bán hết những đồ quý báu đem đến chùa Phật mà dâng cúng.
Lúc nàng vào chùa lễ lạy, xem thấy hình tượng của đức Giác Hoa Định Tự Tại Vương Như Lai sơn vẻ trang hoàng, oai dung nghiêm chỉnh, dường như một vị Phật sống thì trong lòng nàng lại bội phần kính ngưỡng.
Nàng lễ bái rồi tự nghĩ rằng: “Phật là bậc đại giác, đủ trí sáng suốt và hiểu thấu các lẽ, nếu được Phật còn tại thế, thì trong lúc mẹ ta chết rồi, thì có phạm tội gì và sanh về đường nào, ắt nhờ Phật từ bi chỉ bảo cho ta biết đặng, có đến nổi đâu mà thảm như thế này!”
Nàng nghĩ như vậy rồi, cứ đứng nhìn sửng tượng Phật mà khóc, không chịu bước ra, dường có vẻ muốn tỏ lòng cầu khẩn với Phật mà mong Phật chỉ bảo chỗ thọ khổ của mẹ mình và nhờ ơn cứu độ.
Vừa một chập lâu, thoạt nghe giữa thinh không có tiếng gọi rằng: “Nàng thánh nữ kia! Thôi đừng buồn rầu khóc lóc nữa, để ta chỉ chỗ thác sanh của mẹ ngươi cho ngươi biết.”
Nàng nghe nói như vậy, liền chấp tay ngửa mặt lên hư không mà bạch rằng: “Từ khi mẹ tôi mất đến nay, ngày đêm thương nhớ, không biết hỏi han ai cho rõ chỗ thác sanh của mẹ tôi, nay không biết đức thánh thần chi mà có lòng đoái thương đến tôi như vậy.”
Lúc nàng nói vừa rồi, giữa thanh không lại có tiếng trả lời rằng: “Ta đây là Giác Hoa Địanh Tự Tại Vương Như Lai mà ngươi cúng dường lễ bái đó! Vì thấy ngươi có lòng thương nhớ mẹ rất tha thiết, thiệt là chí hiếu hơn hạng chúng sanh thường tình, nên ta đến đây mà chỉ bảo.”
Nàng nghe mấy lời Phật nói như thế, thì lòng thiết tha muốn biết rõ tin của mẹ thác sanh về chỗ nào, nên không kể đến thân mình, liền gieo mình xuống đất, tay chân bủn rủn, chết điếng một hồi.
May đâu có những người ở hai bên xúm lại đỡ dậy, nên nàng mới hồi tỉnh lại, rồi bạch với giữa thanh không rằng: “Cúi xin Phật đem lòng từ bi thương xót mà chỉ dùm chỗ thác sanh của mẹ tôi cho mau, chứ tôi đây hình mòn tâm khổ chẳng bao lâu phải chết.”
Khi ấy đức Giác Hoa Định Tự Tại Vương Như Lai mới nói với nàng rằng: “Ngươi cúng dường và lễ bái xong rồi, mau mau sớm trở về nhà, ngồi ngay thẳng và yên lặng mà nghĩ danh hiệu của ta, tự nhiên biết được xứ sở của mẹ ngươi thác sanh.”
Nàng lễ Phật vừa xong, liền trở về nhà cứ y theo lời Phật dạy, nàng ngồi yên lặng một chỗ, niệm danh hiệu của Phật Giác Hoa Định Tự Tại Vương Như Lai một ngày một đêm. Thình lình nàng thần mộng đi đến một chỗ bờ biển kia, nước cuồn cuộn sôi trào, ba đào sóng bủa, lại thấy nhiều giống ác thú, cả mình bằng sắt, nhảy nhót bơi chạy trên mặt biển, không biết là bao nhiêu, lại thấy những đàn ông và đàn bà, kể hơn trăm ngàn, lặn xuống trồi lên ở trên ấy, thảy đều bị những thú dữ kia dành giựt bấu xé mà ăn thịt.
Còn quỉ dạ xoa thì hình thù khác nhau, hoặc có thứ nhiều tay nhiều chân, hoặc có thú nhiều con mắt nhiều đầu, hoặc có thứ nanh bén nhọn như gươm mọc ló ra ngoài miệng, thảy đều áp lại lùa đuổi những bọn tội nhân đến gần cho thú dữ kia ăn thịt. Thiệt cái thảm trạng ấy không dám xem cho lâu!
Nhưng nàng nhờ có sức niệm Phật, nên tâm vẫn thanh tịnh, tự nhiên không có chút lo sợ hãi cả. Xảy ra đâu có một quỷ vương, tên là Vô Độc, thấy hình tướng nàng chẳng phải người phàm, oai nghi không giống kẻ tục, bèn đến trước mặt nàng cúi đầu nghinh tiếp mà bạch rằng; “Dám hỏi đức Bồ Tát vì duyên cớ chi mà đi tới đây?”
Nàng lại hỏi quỷ vương rằng: “Chỗ này kêu là xứ gì?”
Quỷ Vô Độc đáp rằng: “Đây là biển nghiệp thứ nhất, về phía Tây núi Thiết Vi.”
Nàng nghe nói liền bảo rằng: “Ta nghe trong núi Thiết Vi có địa ngục ở chính giữa, việc ấy quả như vậy hay không?”
Quỷ Vô Độc đáp rằng: “Thiệt có địa ngục, chớ không phải huyễn hoặc đâu!”
Nàng nghe rồi bèn khởi lòng kính nghi mà hỏi nữa rằng: “Địa ngục là nơi để giam nhốt những người có tội, còn ta đây có lòng kính ngôi Tam Bảo, mà duyên cớ gì cũng đi đến chỗ ấy như vậy?”
Quỷ Vô Độc đáp rằng: “Phàm người đi đến đây có hai cách: Một là có oai đức thần thông, đến cứu độ cho mấy người tội khổ, hay là đến chơi cho biết, hai là mấy người tội ác đã thành thục, phải đi tới đây mà chịu khổ. Nếu trừ hai lẽ ấy ra, thì không thể đến đây được.”
Nàng lại hỏi nữa rằng: “Nước biển này duyên cớ sao mà lại sôi trào lên hoài, còn ở trong thì có nhiều tội nhân lặn lên hụp xuống, lại bị các loài thú dữ xâu xé ăn thịt như thế!”
Quỷ Vô Độc đáp rằng: “Đây là chỗ nhốt những kẻ chúng sanh tạo ác ở cõi Diêm Phù Đề, nên khi chết rồi, trải qua 49 ngày, không ai kế tự, lo làm việc công đức đặng cứu vớt vong linh bị khốn nạn. Còn những người đã chết đó, lúc sanh tiền lại không có chút mảy gì là điều phước thiện, vì vậy nên cứ theo bổn nghiệp của mình mà chiêu cảm lấy cái khổ báo ở nơi địa ngục tự nhiên trước hết phải đọa tới đây.
Ở bên phía Đông biển này, cách chừng mười vạn do tuần lại có một cái biển nữa, sự đày đọa của chúng sanh bị vào đó còn khổ hơn đây đến bội phần. Còn bên mé Đông biển kia, lại có một cái biển khác, sự thảm trạng thống thiết không thể kể xiết!
Những hạng người thọ khổ là do bình nhật ở thế gian tạo những nghiệp ác mà phải cảm lấy sự tội báo như vậy, nên ba cái biển đó đều gọi là biển nghiệp.”
Nàng lại hỏi quỷ Vô Độc rằng: “Sao đây chỉ thấy có biển nghiệp mà thôi, còn địa ngục lại ở chỗ nào đâu?”
Quỷ Vô Độc đáp rằng: “Ở giữa ba cái biển ấy là chỗ địa ngục. Nếu kể số riêng ra thì nhiều đến trăm ngàn mà sự thọ khổ đều mỗi mỗi khác nhau, như nói về phần ngục lớn thì có 18 chỗ, còn nói về phần ngục trung thì có năm trăm chỗ và lại có ngàn trăm chỗ ngục nhỏ nữa. Sự khổ độc trong mấy chỗ ngục đó không biết bao nhiêu mà kể cho xiết đặng!”
Nàng lại hỏi quỷ vương rằng: “Mẹ ta khi chết đến nay tuy chưa bao lâu mà chẳng biết thần hồn đã đi đến chỗ nào?”
Quỷ vương lại hỏi nàng rằng: “Chẳng hay mẹ của Bồ tát, lúc sanh tiền làm những nghiệp gì, xin tỏ cho tôi rõ.”
Nàng đáp rằng: “Mẹ ta trước bị nhiễm theo tà kiến, chê bai ngôi Tam Bảo, gửi lòng không thường, lập tánh không định, dẫu có nghe lời khuyên can mà tạm tín, rồi cũng trở lại hủy báng nữa. Nay chết tuy chưa bao lâu, ắt có lẽ theo ác nghiệp ấy mà đoạ vào khổ thú, nên ta muốn tìm cho biết chỗ sanh xứ của mẹ ta, nhưng không hiểu ở nơi nào.”
Quỷ Vô Độc hỏi rằng: “Vậy chớ mẹ của Bồ tát tên họ là chi?”
Nàng đáp rằng: “Cha tên là Thi La Thiện Hiện, còn mẹ hiệu là Duyệt Đề Lợi, đều là dòng dõi Bà la môn cả.”
Quỷ Vô Độc nghe rồi, lật đật chấp tay mà bạch với nàng rằng: “Xin thánh giả trở về bổn xứ, chẳng nên thương nhớ lịnh thân mẫu mà buồn rầu làm cho hao mòn quý thể. Số là Duyệt Đề Lợi đã khỏi sự khổ ở chốn địa ngục này mà sanh lên cõi trời cách nay đã ba ngày rồi.
Nguyên bà nhờ có người con hết lòng thảo thuận, lập đàn tràng tu phước và cúng dường nơi tháp tự của đức Giác Hoa Định Tự Tại Vương Như Lai, nên mới cảm đến Phật Thánh mà được sanh về cõi trời như vậy.
Chẳng những thân mẫu của Bồ tát nhờ phước đó mà thoát khỏi chỗ Vô Gián địa ngục, đặng sanh lên cõi trời mà thôi, cho đến những người đồng thọ tội ở đó cũng nhờ duyên phước ấy mà đều đặng an vui mà đồng sanh về cõi thiên đàng trong ngày đó nữa.”
Quỷ vương nói rồi, liền chấp tay tỏ vẻ cung kính mà xin lui.
Còn nàng thì trong lúc ấy, dường như chiêm bao tỉnh giấc, mới rõ biết việc này là nhờ Phật lực làm cho thân mình được đi tới chỗ thác sanh của mẹ như vậy. Nên nàng cảm ơn Phật, lập tức đến trước bổn tượng của đức Giác Hoa Định Tự Tại Vương Như Lai mà phát lời thệ nguyện lớn rằng: “Nay tôi nguyện cho đến kiếp vị lai nếu có chúng sanh nào tạo tội mà chịu khổ ở nơi địa ngục, bất luận là kẻ thân thuộc hay người cừu oán, tội lập ra nhiều pháp môn phương tiện mà cứu độ cho đều được phân giải thoát tất cả.”
Hồi đời quá khứ vô lượng a tăng kỳ kiếp, có đức Phật Thanh Tịnh Liên Hoa Mục ra đời.
Sau Phật diệt rồi, đến thời kỳ tượng pháp, thì ngài Địa Tạng chưa chứng vị Bồ Tát, sanh làm người con gái tên là Quang Mục.
Khi mẹ nàng từ trần, thì nàng ngày đêm lo sợ, không biết mẹ có thoát khỏi tội khổ hay không.
Có một bửa kia, nàng gặp một thầy Tỳ kheo đương khất thực, mà thầy ấy chính là một vị La hán đi giáo hóa chúng sanh. Nàng bèn sắm đủ các món đồ ăn ngon quý, rồi mời vị La hán ấy vào nhà mà cúng dường.
Khi ngài thọ thực rồi, bèn hỏi rằng: “Ngươi muốn cầu nguyện việc chi hay không?”
Nàng thưa rằng: “Bạch ngài! Bởi vì ngày mẹ tôi mất đến nay, tôi buồn rầu thương nhớ bội phần, nghĩ đến ơn nhũ bộ, đức sanh thành, thì ngàn kiếp muôn đời tôi cũng không quên đặng, nên tôi nguyện làm việc tư phước này đặng cầu siêu vong linh cho mẹ tôi nơi chín suối. Nhưng bổn phận tôi là người phàm mắt thịt, không biết mẹ tôi thác sanh về chỗ nào. Vậy xin ngài từ bi chỉ bảo cho tôi biết.”
Vị La hán thấy nàng Quang Mục tuổi nhỏ mà có lòng hiếu đạo như vậy, bèn nhập định thấy mẹ nàng bị đoạ vào chỗ ác thú mà chịu nhiều nỗi thống khổ rất nặng nề.
Khi ngài xuất định rồi, liền hỏi nàng rằng: “Vậy chớ lúc còn sanh tiền ở trên dương thế, mẹ ngươi làm những việc chi, đến nỗi nay lại bị hiện báo ngay ở chỗ ác thú mà chịu hình phạt lớn lao như thế?”
Nàng nghe nói khôn xiết nổi buồn rầu, liền khóc òa một hồi rồi thưa rằng: “Bạch ngài! Số là bình nhật sở hảo của mẹ tôi chỉ thích ăn loài cá trạch, mà lại còn ưa ăn những trứng của nó, hoặc chiên xào, hoặc nấu nướng, không biết ngàn vạn nào mà kể xiết. Thường cái nghiệp sát sanh của mẹ tôi đó cũng đã quá nặng, vậy xin ngài đem lòng từ bi thương xót đến kẻ thơ ấu này làm thế nào cứu vớt mẹ tôi đặng thoát khỏi nơi khổ thú, thì ơn đức ấy vô lượng vô biên.”
Vị La hán thấy tấm lòng chân thiệt của nàng yêu cầu khẩn thiết như vậy, liền dùng cơ phương tiện mà khuyên nhủ nàng rằng: “Ngươi nên chí thành xưng niệm danh hiệu của Phật Thanh Tịnh Liên Hoa Mục, và phát tâm đắp vẻ sơn thếp hình tượng của Phật mà thờ, thì ngày sau nhờ cái công đức đó mà kẻ còn sống đặng thêm sự lợi ích, và người mất rồi lại khỏi sự khổ nạn, hai đàng đều nhờ phần phước báu tất cả.”
Khi nàng Quang Mục nghe lời của vị La hán nói trên, nàng dẫu bỏ thân mạng cũng không tiếc, huống chi là sự gì. Nên nàng liền bán hết thảy những đồ nữ trang và có bao nhiêu tiền của cũng đem ra mướn thợ tạo tượng Phật Thanh Tịnh Liên Hoa Mục và mua vàng sơn thếp mà cúng dường như tỏ dấu yêu cầu đến Phật, đặng nhờ ớn cứu độ cho từ thân.
Có một đêm kia, ước chừng lúc canh ba, nàng vừa mơ màng giấc điệp, bỗng thấy thân Phật hiện ra sắc vàng rực rỡ, lại có hào quang sáng chói mà tỏ cho nàng biết rằng: “Mẹ ngươi chẳng bao lâu rồi cũng thác sanh vào nhà ngươi, hể vừa biết sự đói lạnh thì nói liền, khi đó ngươi sẽ rõ.
“Nàng Quang Mục tỉnh giấc dậy, thì biết là điềm linh ứng của Phật mách bảo, nhưng chưa hiểu cách thác sanh làm sao, nên luống những ưu sầu mà trông đợi.
Cách ít lâu, người tớ gái của nàng sanh được một đứa con, chưa đầy ba ngày mà đã biết nói.
Có một bửa nọ, đứa nhỏ thấy nàng Quang Mục liền cúi đầu mà khóc lóc rất thảm thiết, rồi nói rằng; “Đường sanh nẻo tử, mối nghiệp dây duyên, nếu đã tạo tọi thì tất phải chịu lấy quả báo, chớ không thể tránh được. Ta đây vốn thiệt là mẹ ngươi khi trước. Từ lúc vĩnh biệt đến nay, ta bị đoạ vào địa ngục, chịu nỗi đắng cay, may nhờ phước lực của ngươi, nên ta mới được đầu thai lên đây. Nhưng vì tội báo còn nặng nên ta phải sanh làm thân hèn hạ như thế này. Đã vậy mà lại không thọ, ta chỉ sống được mười ba tuổi mà thôi, rồi lại phải chết vì bị đoạ vào ác đạo nữa. Bây giờ ngươi nghĩ có cách gì làm cho ta ngày sau thoát khổ ấy đặng hay không?
Nàng nghe nói đầu đuôi tự sự, hiệp với lời của Phật mách bảo trong điềm chiêm bao, thì biết là thiệt mẹ của mình, nàng động mối thương tâm, tơ sầu vấn vít, giọt lệ chứa chan, mà thưa với đứa nhỏ ấy rằng: “Nếu quả là mẹ tôi, thì chắc biết đặng những sự tội lỗi lúc sanh tiền làm hạnh nghiệp gì mà phải đoạ vào ác đạo như vậy? Xin tỏ hết cho tôi làm tin.”
Đức nhỏ bèn nói rằng: “Bởi ta ngày trước phạm vào hai nghiệp tội: một là sát sanh và hai là hay mắng người, nên phải đoạ vào địa ngục mà chịu nổi khổ báo như vậy. Nếu không nhờ phước lực của ngươi niệm Phật và đắp vẻ hình tượng của ngài mà thờ, đặng cầu cứu vớt cho ta, thì tưởng không phương gì mà ta mong phần giải thoát cho đặng.”
Nàng lại hỏi nữa rằng: “Vậy chớ những sự tội báo ở nơi địa ngục ra thế nào?”
Đứa nhỏ nói rằng: “Ôi sự thống khổ ấy không nỡ nói ra, mà đã nói thì cũng không biết chừng nào cho hết chuyện.”
Nàng nghe mấy lời ấy liền khóc òa, rồi ngửa mặt lên hư không mà bạch rằng: “Tôi nguyện với chư Phật xin đem lòng đại bi mà cứu cho mẹ tôi đời đời khỏi đoạ vào địa ngục, và từ nay cho mẹ tôi khỏi phạm tội nặng mà sa vào đường ác đạo khác nữa.”
Nàng bèn ra quỳ trước bàn thờ đức Thanh Tịnh Liên Hoa Mục mà nguyện rằng: “Nay tôi vái cùng mười phương chư Phật, xin từ bi thương xót mà chứng minh cho mấy lời thệ nguyện của tôi ở giữa này. Nếu mẹ tôi đời đời lìa khỏi ba đường dữ cùng khỏi làm người hèn hẹ, và đến kiếp nào kiếp nấy cũng khỏi đầu thai làm thân con gái nữa, thì từ đó tôi đối trước tượng Phật Thanh Tịnh Liên Hoa Mục đây cho đến trăm ngàn muôn ức kiếp về sau, hễ thế giới nào có chúng sanh bị các tội khổ ở trong địa ngục, ngạ quỷ và súc sanh, thì tôi thệ nguyện ra sức cứu vớt cả thảy khỏi sự thống khổ nơi ba đường ấy và chừng người nào người nấy đều đặng thành Phật tất cả, tôi mới chịu chứng bậc chánh giác.”
Khi nàng phát thệ nguyện vừa rồi, bỗng nghe giữa hư không có tiếng nói rằng: “Nàng Quang Mục! Ngươi có lòng từ bi lân mẫn rất lớn, biết vì mẹ mà phát lời đại nguyện như thế, nay ta là Thanh Tịnh Liên Hoa Mục, chờ mẹ ngươi mãn đến khi 13 tuổi, được thác sanh làm người Phạm Chí, hưởnng thọ đến trăm tuổi, rồi sau lại được sanh về cõi Vô Ưu, hết sự lo phiền, đủ điều khoái lạc, lại sống lâu đến đời đời kiếp kiếp, và sau được thành Phật quả mà cứu độ tất cả chúng sanh ở cõi nhân gian và thiên thượng, nhiều như số cát sông Hằng.”
Nàng nghe đủ mọi điều tiên chúc của Phật tỏ bày, thì lấy làm vui mừng khôn xiết, liền lễ lạy mà cảm ơn đức ngài.
Từ đó về sau nàng nuôi dưỡng và săn sóc đức con nít ấy kỹ càng và khi đến 13 tuổi nó chết, nàng thương xót và chôn cất một cách tử tế như mẹ vậy.
Trước đời quá khứ vô lượng a tăng kỳ na do tha bất khả thuyết kiếp, thì đức Nhất Thiết Thí Thành Tựu Như Lai và ngài Địa Tạng Bồ Tát đều chưa xuất gia tu hành. Hai người đồng làm vua lân bang với nhau trong một thời kỳ.
Khi ấy, hai vị quốc vương kết nghĩa làm bạn và giao hảo với nhau một cách rất thân thiết, đều phát tâm làm mười điều lành, muốn trên thì quần thần được hưởng cuộc sống hạnh phúc vô vi, dưới thì bá tánh được an cư lạc nghiệp, và sau nữa tất cả chúng sanh đều gội ơn giáo hóa, cảm đức nhân từ, mà bỏ dữ làm lành, đặng mọi phần lợi ích.
Song nhân dân trong các nước lân bang, phần nhiều hay làm điều ác nghiệp, như là tham lam, nóng giận, ngu si, tà kiến, nói thì ngoa ngôn ác ngữ, mắng rủa lẫn nhau, không kính Phật trọng Tăng, chẳng trì giới sát, tật đố mấy người lương thiện, mưu hại những kẻ trung thành, chẳng có chút gì là lòng nhân đức cả.
Đã vậy mà hễ có xảy ra những tai bệnh gì, thì cứ rước bóng rước chàng, vái ma vái quỷ, đem thân mạng mà cầu cứu với bọn tà sư ngoại đạo, sát hại vật mà cúng tế luôn luôn, tạo tác không biết bao nhiêu là tội nghiệp. Hai vị quốc vương thấy nhân dân ở các nước lân bang cứ chuộng sự tà mà làm việc chẳng lành như vậy, động lòng thương xót, mới bàn luận cùng nhau tìm phương tiện gì, đặng hóa độ cho những kẻ ấy khỏi bị cái ác nghiệp thọ báo, trầm luân nơi biển khổ về sau.
Lúc bàn luận xong rồi, một vị phát nguyện rằng: “Nay tôi nguyện xuất gia cầu đạo Bồ Đề cho đặng mau thành chánh giác mà hóa độ tất cả chúng sanh đều được vào cõi niết bàn, thì lòng tôi mới lấy làm thỏa mãn.”
Còn một vị, thì phát nguyện rằng: “Nay tôi nguyện xuất gia tu hạnh Bồ Tát, nếu tôi không độ những loài chúng sanh bị tội khổ được mọi điều an lạc và chứng quả bồ đề, thì tôi chưa chịu thành Phật.”
Trong hai vị quốc vương đồng thời phát nguyện như đã nói trên, thì phát nguyện sớm thành Phật mà hóa độ chúng sanh, tức là ngài Nhất Thiết Trí Thành Tựu Như Lai. Còn vị phát nguyện độ hết chúng sanh rồi sau sẽ thành Phật, tức là ngài Địa Tạng Bồ Tát.
Vì lời thệ nguyện của đức Địa Tạng như vậy, nên đã trải vô số kiếp mà ngài cũng còn làm một vị Bồ Tát. Thiệt tấm lòng độ sanh của ngài to lớn biết là dường nào!
Hồi đời quá khứ, thuộc về kiếp bất khả thuyết, thì tiền thân của đức Địa Tạng Bồ Tát lại sanh làm ông đại trưởng giả, rất hào tộc và có đức độ.
Đương thời kỳ ấy, có đức Phật hiệu là Sư Tử Phấn Tấn Cụ Túc Vạn Hạnh Như Lai ra đời.
Một bữa kia, ông trưởng giả tình cờ gặp vị Phật ấy, thân tướng tốt đẹp, ngàn phước trang nghiêm, thiệt là tuyệt thắng trên đời, xưa nay chưa thấy. Ông càng xem lại càng thương và càng kính, làm cho ông sanh lòng hân hạnh bội phần.
Ông bèn lại gần, cúi đầu chấp tay mà thưa rằng: “Bạch Thế Tôn! Tôi trộm thấy cái dung quang của ngài rất đoan trang nghiêm nghị và viên mãn trăm phần, càng ngó lại càng tươi, càng nhìn lại càng đẹp, thiệt là chẳng ai có cái báo thân như thế! Nhưng tôi tự nghĩ rằng nếu được quả tốt, ắt có nhân lành, vậy chẳng rõ mấy kiếp trước, ngài làm những hạnh nguyện gì mà ngày nay cảm được thân tướng tốt đẹp như thế!
Xin ngài từ bi giảng nói cho tôi biết, chứ tôi đây cũng lấy làm ước ao sao cho được cái tướng hảo ấy.”
Sư Tử Phấn Tấn Cụ Túc Vạn Hạnh Như Lai thấy ông trưởng giả có lòng ước sự làm lành, nên ngài liền bảo rằng: “Nếu ngươi muốn được kim thân diệu tướng như ta đây, thì phải phát tâm tu hành, trải vô lượng kiếp cầu đạo Bồ Đề và một lòng tinh tấn mà hóa độ tất cả những loài chúng sanh thọ khổ cho thoát khỏi đường tội báo và được phần khoái lạc tiêu diêu, do cái duyên phước ấy mà ngày sau sẽ cảm đặng tướng hả như ta đây, chớ không khó gì.”
Ông trưởng giả nghe Phật dạy bảo như vậy, liền quỳ xuống trước mặt ngài mà phát nguyện rằng: “Tôi nguyện từ nay cho đến đời vị lai, không biết bao nhiêu kiếp số về sau, nếu có chúng sanh nào ở trong sáu đường, bị thống khổ về sự tội báo, thì tôi dùng đủ phương tiện mà độ cho được giải thoát tất cả, chừng đó tôi mới chứng Phật quả.”
Vì trong kiếp làm trưởng giả nói trên, đức Địa Tạng có phát lời đại nguyện như vậy, nên từ đấy đến nay, trải đã trăm ngàn vạn ức na do tha, không biết bao nhiêu kiếp số rồi, mà ngài hãy còn làm một vị Bồ Tát.
Xem đó thì biết cái thệ nguyện lợi tha của ngài là vô cùng vô tận, và cái công đức cứu khổ của ngài thiệt là vô lượng vô biên.
Trong truyện Thần Tăng có nói rằng: Sau khi Phật Thích Ca nhập diệt 1,508 năm, nhằm đời nhà Tấn, niên hiệu Vĩnh Huy, năm thứ tư, thì đức Địa Tạng Bồ Tát giáng sanh tại nhà vua nước Tân La. Ngài tục tánh là Kim, tên là Kiều Giác.
Khi được 24 tuổi, ngài xuất gia tu hành có dắt theo một con chó trắng, kêu là con Thiện Thinh (Thiện Thinh là con chó biết nghe tiếng người) qua tỉnh Giang Nam, huyện Thanh Dương, về phía Đông phủ Trì Châu. Ngài lên trên đỉnh núi Cửu Hoa ngồi thiên định trọn 75 năm.
Đến đời nhà Đường niên hiệu Khai Nguyên, năm thứ 16, tối 30 tháng 7, ngài chứng thành đạo quả. Lúc ấy ngài đã được 99 tuổi, mà cũng còn ở trong động núi Cửu Hoa.
Thuở đó, có một vị cát lão là ông Mẫn Công, sẵn lòng từ thiện, hay làm những sự phước thiện, hay làm những sự phước duyên. Trong nhà ông thường năm, mỗi khi trai tăng là 100 vị, mà ông chỉ thỉnh 99 vị, còn một vị để dành thỉnh ngài cho đủ số.
Có một bữa kia, ngài xin ông Mẫn Công một chỗ đất, ước vừa trải đủ cái y cà sa của ngài mà thôi.
Khi ông bằng lòng cho, thì ngài lấy y trải ra, trùm hết cả khoảng đất tại cạnh núi.
Ông Mẫn Công thấy sự thần kỳ như vậy, biết là một vị thánh tăng, nên lại càng bội phần hoan hỉ mà nguyện cúng hết đất ấy, còn người con ông thì xin xuất gia theo ngài.
Ít lâu ông cũng đi tu, trở lại đầu cơ với con, tức là thầy Đạo Minh Hòa Thượng.
Sau ngài lại thiền định 20 năm nữa, đến đời nhà Đường, niên hiệu Chí Đức thứ hai, bữa 30 tháng 7, ngài nhập diệt.
Vì có sự tích của ngài chuyển thế như vậy, nên người đời sau tạo tượng mà thờ ngài, bên tả có thầy Đạo Minh, còn bên hữu có tượng ông Mẫn Công đứng hầu, và mỗi năm đến ngày 30 tháng 7, ai cũng làm lễ kỷ niệm ngài là do tích đó.
Trong Phật giáo Đại thừa, có năm vị Bồ tát trứ danh, tượng trưng cho năm ý nghĩa Đại thừa, đó là Đại Trí Văn Thù Sư Lợi, Đại Hạnh Phổ Hiền, Đại Bi Quán Thế Âm, Đại Từ Di Lặc và Đại Nguyện Địa Tạng Vương. Năm vị Bồ tát này biểu hiện cho năm đức: Trí, Hành (hoặc Hạnh), Bi, Từ và Nguyện. Năm đức này là nhân cách cụ thể tối thượng của đức Phật. Do đó, có thể nói rằng năm vị Bồ tát này là năm phân thân của Đức Phật.
Trong năm vị Bồ tát, đối với tín ngưỡng nhân gian, ngài Quán Thế Âm có thể nói là nổi danh nhất; còn bốn vị Bồ tát kia, trong sự nhận thức thông thường của tín đồ, ít được tín ngưỡng thờ phượng. Hôm nay, nhân ngày ba mươi tháng bảy (AL), vía Đức Bồ Tát Địa Tạng, tôi đặc biệt biên tập quyển sách này, với mục đích trình bày, tán dương một phần nào, dù rất ít, công đức bổn sự của Ngài.
Tập sách này chia làm ba đoạn:
1/ Nhân địa của ngài Địa Tạng: Căn cứ vào kinh Địa Tạng Bổn Nguyện để viết về mẫu truyện ngài Địa Tạng lúc còn làm thân người nữ phàm phu. Đức Phật, lúc sắp nhập Niết bàn, lên cung trời Đao Lợi giảng kinh này để báo hiếu cho mẹ là Ma Da Phu Nhân.
2/ Sử tích của ngài Địa Tạng: Ở đây căn cứ vào các tác phẩm như Tống Cao Tăng Truyện, Thần Tăng Truyện, Cửu Hoa Sơn Chí, v.v… để biên dịch các mẫu truyện ứng hóa thật sự trong lịch sử của ngài Bồ Tát Kim Địa Tạng.
3/ Kinh chứng: Trích lục từ các kinh điển Đại thừa những mẫu truyện liên qua đến công đức lợi ích của ngài Địa Tạng. Trừ phần Kinh chứng ra, hai phần trên toàn bộ là những mẫu truyện phổ thông nhân gian, dùng lời văn bình dị diễn đạt, và cũng sẽ dùng lời kinh để dẫn chứng.
I/ Nhân địa của ngài Địa Tạng.
1/ Câu chuyện về phát nguyện.
a/ Sự phát nguyện của con ông trưởng giả.
Một thuở rất lâu xa về trước, khi ngài Địa Tạng còn là phàm phu, con của một vị đại trưởng giả. Một hôm, ngài đi du ngoại đến một khu đồng vắng, thấy đức Như Lai Sư Tử Phấn Tấn Cụ Túc Vạn Hạnh, thân tướng hoàng kim, trang nghiêm vô tỷ, trong tâm nảy sanh sự kính trọng, vui mừng, vội sụp xuống chân đức Phật đảnh lễ. Lạy xong, ngài bèn hỏi đức Phật:
– Bạch Đức Như Lai! Ngài thật vô cùng trang nghiêm, vô cùng khả kính! Xin hỏi Ngài, cần phải tu những nhân lành nào để có được tướng hảo viên mãn trang nghiêm như vậy?
Đức Phật Sư Tử Phất Tấn Cụ Túc Vạn Hạnh bèn từ ái trả lời:
– Nếu con muốn được thân tướng trang nghiêm như vầy, thì phải ở trong sanh tử dài lâu để độ tất cả chúng sanh đang bị khổ đau. Hơn nữa, trong quá trình độ sanh, con phải tiêu trừ vọng niệm ngã tướng, mới có hy vọng thành tựu!
Nghe xong, ngài cảm thấy vô cùng hân hoan, bèn phát nguyện rằng:
– Con nguyện từ ngày hôm nay cho đến tận đời vị lai, sẽ vì tất cả chúng sanh tội khổ trong sáu nẻo, dùng tất cả phương tiện, khiến cho họ đều được giải thoát, sau đó con mới thành Phật!
Đức Phật nghe xong, im lặng tán đồng. Từ đó đến nay, trải qua không biết bao nhiêu số kiếp, không biết có bao nhiêu chúng sanh đã thành Phật, chỉ có Bồ tát Địa Tạng, vì lòng từ bi tha thiết độ thoát vô tận chúng sanh, mãi cho đến nay vẫn chưa thành Phật.
b/ Sự phát nguyện của vị vua nước nhỏ
Vô số kiếp về trước, có một đức Phật hiệu là Nhất Thiết Trí Thành Tựu. Lúc chưa xuất gia, ngài là vua một nước nhỏ, còn ngài Bồ Tát Địa Tạng (cũng chưa xuất gia) là vua của một nước nhỏ lân cận. Hai vua là bạn thân, đều dùng thập thiện của Phật pháp là không giết hại, không trộm cướp, không tà dâm, không nói dối, không nói lời thô ác, không nói lời đâm thọc, không nói lời vô ích, không tham, không sân, không si, để lãnh đạo quốc gia; không những thế, lại còn nâng cao mực sống của nhân dân trong nước. Thế nhưng, dân chúng của các nước láng giềng, phần lớn đều tạo nghiệp ác, không thể dùng các pháp thiện để trị vì. Hai vị vua thấy thế, cảm thấy rất ưu tư, bèn gặp nhau để tìm biện pháp cứu vãn, khiến những chúng sanh đó bỏ ác làm thiện, thế nhưng, bọn họ tâm tánh cang cường, quen thói làm ác, làm thế nào cũng không cảm hóa được. Một vị vua thấy vậy, rất cảm khái, bèn phát nguyện rằng: “Tôi nguyện sớm thành Phật, độ những chúng sanh cang cường này, không bỏ sót một ai.” Còn vị vua kia thì phát nguyện rằng: “Tôi nguyện rằng nếu tôi không độ tận tất cả chúng sanh tội khổ, khiến cho tất cả đều từ trong sự an lạc thành tựu quả Phật, thì tôi sẽ không thành Phật.”
Không bao lâu, vị vua phát nguyện sớm thành Phật, xuất gia tu hành, thành Phật hiệu là Nhất Thiết Trí Thành Tựu Như Lai; còn vị phát nguyện độ tận chúng sanh sau đó mới thành Phật, mãi cho đến nay, vẫn còn trụ trong giai vị Bồ tát, không từ lao nhọc, hóa độ chúng sanh cang cường, vị đó chính là Bồ tát Địa Tạng. (Kinh Tâm Địa Quán xưng là Bồ tát Địa Tạng Vương).
2/ Câu chuyện về đức hiếu.
a/ Đức hiéu của người nữ Bà la môn.
Khoảng thời gian mà đức Phật Giác Hoa Định Tự Tại Vương giáo hóa chúng sanh có thể gọi là dài nhất so với các đức Phật khác. Đức Phật ấy thọ mạng bốn vạn ức a tăng kỳ kiếp, đây là điều mà chúng sanh trong thời hiện đại không thể tưởng tượng nổi.
Trong thời tượng pháp của Phật Giác Hoa Định Tự Tại Vương, có một người nữ dòng Bà la môn, trang nghiêm đoan chánh, siêng tu phước thiện, cứu người nghèo đói, được mọi người ngưỡng mộ kính phục. Cha cô đã mất, chỉ còn bà mẹ. Rất tiếc, người mẹ lại tin theo tà giáo, điên đảo thị phi, xem thường chánh giáo, làm cho cô gái cảm thấy vô cùng sầu khổ. Cô gái cũng thường khuyên mẹ làm thiện, cải tà quy chánh. Lần lần, bà mẹ cũng sanh khởi một chút lòng tin. Rủi thay, chưa kịp hưởng được ánh sáng lợi ích của chánh pháp, thì bà đột nhiên bị bệnh qua đời.
Cô gái Bà la môn biết rằng mẹ mình lúc còn sống không tin nhơn quả, tạo nhiều nghiệp sát sanh, ác khẩu, v.v…, ắt sẽ bị đọa vào ba đường ác. Cô bèn bán tất cả tài sản, lấy tiền mua các loại danh hương, hoa quả, phẩm vật, v.v… đem đến các chùa bố thí cúng dường. Đến một chùa nọ, thấy trong chùa thờ tượng Phật Giác Hoa Định Tự Tại Vương, vô cùng trang nghiêm, tướng hảo phi phàm, càng thêm kiền thành cung kính, bèn chí thành đảnh lễ, trong lòng nghĩ thầm: “Đức Phật là bậc thánh đại giác ngộ, có trí tuệ bất khả tư nghì. Nếu như đức Phật còn tại thế gian, con đến hỏi ngài về việc đầu thai của mẹ, ắt ngài sẽ biết rõ.” Nghĩ như thế xong, cô bèn bất giác rơi lệ.
Cô gái đứng trước tượng Phật chiêm ngưỡng rất lâu, bổng nhiên từ trên không trung có âm thanh vọng xuống: “Này hiếu nữ đang khóc kia! Con không nên bi ai quá lắm. Ta sẽ chỉ chỗ sanh của mẹ con.” Vừa xong, không còn nghe âm thanh nào khác. Cô gái cảm thấy rất phấn khởi, vui mừng chắp tay hỏi vọng lên: “Vị thánh nào có lòng thương tưởng đến con như vậy! Từ khi mẹ con mất đến nay, ngày đêm con thương nhớ vô vàn, nhưng không biết đi hỏi ai chỗ đầu thai của mẹ con!”
Lúc đó, trên không lại có âm thanh vang lên: “Hiếu nữ! Ta là Phật Giác Hoa Định Tự Tại Vương mà con đang đảnh lễ. Nhân vì thấy con thương tưởng đến mẹ tha thiết, quá hơn người thường, cho nên ta đến bảo cho con biết.”
Cô gái Bà la môn nghe âm thanh từ bi của đức Phật, cảm động đến đỗi ngã quỵ trên mặt đất, giống như núi đổ. Những người chung quanh bèn đỡ cô dậy, một lúc lâu sau mới tỉnh. Lúc đó, cô gái lại ngước mặt lên không trung thưa rằng: “Nguyện Phật từ bi thương xót! Xin hãy cho biết mẹ con sanh về chỗ nào. Hiện nay, mạng sống của con cũng chẳng còn bao lâu nữa. Xin Phật từ bi thương xót!”
– Hiếu nữ! Con hãy an tâm. Sau khi cúng dường xong, con hãy về nhà, ngồi ngay thẳng, niệm danh hiệu ta, liền có thể biết được mẹ con sanh về chốn nào.
Cô gái cúng dường xong, tuân theo lời đức Phật, bèn trở về nhà, dùng lòng hiếu thảo tha thiết nhớ mẹ, ngồi ngay ngắn, niệm danh hiệu của đức Giác Hoa Định Tự Tại Vương Như Lai. Trải qua một ngày đêm, bổng nhiên cảm thấy thân mình đến một bờ biển. Nước trong biển sôi sùng sục. Trên mặt biển có nhiều ác thú, chó sắt, rắn sắt, v.v…, đang chạy tới lui, rượt đuổi vô số nam nữ đang trồi hụp. Lại có những quỷ dạ xoa nhiều tay, nhiều mắt, nhiều đầu, răng nanh chỉa ra như gươm, hành hạ tội nhân làm cho họ cực kỳ thống khổ! Cảnh tượng hãi hùng, không ai dám nhìn lâu. Đang lúc cô gái chứng kiến cảnh tượng khủng khiếp xảy ra, bổng có một quỷ vương tên là Vô Độc đến gần cung kính vái chào: “Thánh nữ! Cô vì cớ gì mà đến nơi này?”
Cô gái cảm thấy rất kỳ quái, bèn hỏi quỷ vương: “Xin hỏi đây là chốn nào?”
– Đây là tầng biển thứ nhất ở phía tây núi Đại Thiết Vi.
– Nghe nói trong núi Thiết Vi có địa ngục, điều này có đúng không?
– Dạ đúng như thế!
– Nếu vậy, tại sao hiện nay tôi lại đến đuợc chốn này?
– Có hai nguyên nhân đến được địa ngục. Nếu không nhờ uy đức thần lực của chư Phật Bồ tát, thì phải do ác nghiệp lực chiêu cảm. Ngoài ra, không cách nào đến được chốn này.
– Nước trong biển tại sao lại sôi sùng sục? Những kẻ đang thọ khổ kia, vì cớ gì mà bị ác thú rượt đuổi như vậy?
– Đây là những chúng sanh tạo ác ở cõi Nam Diêm Phù Đề, vừa mới chết trong vòng bốn mươi chín ngày, không có bà con thân thuộc tu tập công đức để cứu vớt khổ nạn cho họ. Bọn họ lúc sống cũng không tích tập thiện nhân, căn cứ vào những ác nghiệp mà họ đã tạo, chiêu cảm quả báo địa ngục, tự nhiên trước tiên phải đến biển này. Tại phía đông biển này, cách đây khoảng mười vạn do tuần, lại có một biển nữa, những điều thống khổ phải chịu lại còn gấp bội. Qua phía đông nữa, lại có một biển, sự khổ ở đó lại tăng gấp bội. Đây gọi là nghiệp hải, do thân, khẩu, ý tạo nghiệp ác chiêu cảm.
– Như vậy, địa ngục còn ở nơi nào nữa?
– Địa ngục ở trong ba biển vừa nói. Mỗi biển đều có trăm ngàn đại địa ngục khác nhau. Trong mỗi đại địa ngục có mười tám đại địa ngục, hình phạt thống khổ nhất, lại có năm trăm trung địa ngục và trăm ngàn tiểu địa ngục. Trong mỗi ngục đều có vô lượng sự thống khổ.
– Mẹ tôi mới chết chưa được bao lâu, không rõ thần hồn hiện ở chốn nào?
– Thánh nữ! Mẹ cô tên họ là gì?
– Cha mẹ tôi dòng dõi Bà la môn. Cha tôi tên Thi La Thiện Hiện, mẹ tôi tên Duyệt Đế Lợi.
Vô Độc nghe đến tên Duyệt Đế Lợi, bèn vội chắp tay thưa: “Thánh nữ! Xin cô hãy an tâm trở về, không cần phải lo lắng nữa. Tội nhân Duyệt Đế Lợi đã được sanh lên trời ba ngày rồi. Nghe nói nhờ cô tu phước cúng dường chùa tháp thờ đức Phật Giác Hoa Định Tự Tại Vương. Ngày hôm đó không những bà ấy được thoát khổ, mà nhiều tội nhân trong địa ngục cũng được sanh lên trời.
Vô Độc nói xong, bèn chắp tay cáo từ. Cô gái Bà la môn dường như tỉnh mộng. Nhớ lại câu chuyện trong giấc chiêm bao, bèn đến trước tháp thờ đức Phật Giác Hoa Định Tự Tại Vương, thành kính phát nguyện:
– Nguyện cho đến cùng tận đời vị lai, con sẽ thiết lập mọi phương tiện, cứu độ tất cả tội khổ chúng sanh đều được giải thoát.
Sau khi phái nguyện, cô ta bèn chuyên tâm tinh tiến tu tập phước đức. Người con gái ấy, hiện nay là đức Bồ Tát Địa Tạng. Còn quỷ vương Vô Độc, hiện nay là Bồ Tát Tài Thủ.
b/ Đức hiếu của nàng Quang Mục.
Quá khứ, vào thời tượng pháp của đức Phật Thanh Tịnh Liên Hoa Mục Như Lai, có một vị A la hán thường dùng phương tiện ứng cúng để hóa độ chúng sanh. Một hôm, trong lúc đi giáo hóa, gặp một cô gái tên là Quang Mục, thỉnh ngài đến nhà thọ cúng dường. Sau khi thọ trai, vị La hán hỏi cô gái có tâm nguyện gì. Cô gái trả lời: “Hôm nay là ngày giỗ mẹ, con thiết trai cúng dường. Hy vọng nhờ nhân duyên này, cứu được mẹ con. Không biết mẹ con hiện giờ sanh về chốn nào?
Vị La Hán liền nhập định quán sát, thấy mẹ của cô gái đang đọa trong địa ngục, chịu nhiều thống khổ. Sau khi xuất định, bèn hỏi Quang Mục: “Mẹ con lúc sanh tiền đã tạo nghiệp gì mà hiện nay phải đọa vào địa ngục chịu nhiều thống khổ?”
Quang Mục nghe xong nghẹn ngào trả lời: “Mẹ con lúc còn sống, có thói quen ưa ăn cá và ba ba sống, đặc biệt thích ăn cá con và ba ba con. Cách ăn rất là cầu kỳ, thảm khốc. Hơn nữa, số sanh mạng bị giết hại nào chỉ có ngàn muôn! Cúi xin tôn giả nhỏ lòng từ bi thương xót, cứu vớt mẹ con!”
Vị La Hán an ủi Quang Mục: “Nếu con muốn cứu mẹ, phải nên khởi lòng chí thành niệm danh hiệu đức Thanh Tịnh Liên Hoa Mục Như Lai. Hơn nữa, nên tạo vẽ hình tượng của ngài mà cung kính cúng dường, không bao lâu nữa, con sẽ thấy được sự linh ứng.”
Quang Mục nghe xong, liền bèn bán tất cả những vật quý báu, lấy tiền tạo vẽ hình tượng của đức Phật Thanh Tịnh Liên Hoa Mục, sắc tướng hoàng kim, vô cùng trang nghiêm mỹ lệ. Sau đó dùng tâm tha thiết, thành kính lễ bái.
Một hôm, Quang Mục nằm mộng, thấy đức Thanh Tịnh Liên Hoa Mục Như Lai hiện đến, ngài nói: “Chẳng bao lâu nữa, mẹ con sẽ đầu thai vào nhà này. Khi đứa trẻ vừa biết đói lạnh, sẽ nói cho nghe những gì nó đã trải qua.”
Chẳng bao lâu sau, một tớ gái trong nhà sanh một bé trai. Chưa đến ba ngày, đứa bé khóc ròng, chắp tay nói với Quang Mục: “Sinh tử nghiệp duyên đều là tự làm tự chịu. Tôi là mẹ của cô, từ lúc biệt ly đến nay, tôi bị đọa vào địa ngục thọ khổ. Hiện nay, nhờ phước của cô bố thí cúng dường Phật pháp, mà tôi được đầu thai làm con một người hạ tiện. Nhưng chỉ sống được mười ba tuổi, sau đó lại phải bị đọa vào địa ngục. Quang Mục! Hiện giờ cô có biện pháp nào khác để cứu tôi hay không?”
Quang Mục nghe xong, biết đứa bé là mẹ mình đầu thai, cảm thấy nghẹn ngào, bèn hỏi: “Nếu đã là mẹ tôi, ắt phải biết nguyên nhân đọa vào địa ngục. Như vậy mẹ đã tạo những tội ác nào mà phải chịu quả báo này?”
Đứa bé trả lời: “Chỉ phạm hai tội sát sanh và hủy báng Tam bảo là đủ để bị quả báo địa ngục. Nếu không nhờ phước bố thí cúng dường của cô, tôi không cách nào ra khỏi địa ngục!”
Quang Mục lại hỏi: “Quả báo địa ngục, rốt ráo thế nào?”
Đứa bé trả lời: “Sự việc ở địa ngục, không nỡ nói ra. Giả như có nói, thì trăm ngàn vạn kiếp cũng không nói hết.”
Quang Mục nghe nói, nức nỡ nghẹn ngào, hướng lên không trung phát nguyện: “Nguyện mẹ con được vĩnh viễn thoát khổ địa ngục, sau mười ba tuổi không còn bị đọa vào ba đường ác, không sanh vào nhà hạ tiện, và cũng không bị đầu thai làm người nữ. Từ ngày hôm nay trở đi cho đến cùng tận đời vị lai, con nguyện sẽ cứu độ tất cả chúng sanh tội khổ trong địa ngục và ba đường ác, khiến cho chúng sanh thoát ly địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, v.v… Sau khi tất cả đều thành Phật đạo, con mới chứng quả Vô thượng Bồ đề.
Vừa phát nguyện xong, trên không vang lên tiếng của đức Thanh Tịnh Liên Hoa Mục Như Lai: “Quang Mục! Con quả thật là đại từ bi. Vì muốn cứu mẹ mà phát đại thệ nguyện. Ta thấy mẹ con sau khi thọ mười ba tuổi, sẽ đầu thai làm người Phạm chí, sống lâu trăm tuổi, kế đó vãng sanh về cõi Vô Ưu, thọ mạng lâu dài, không thể nghĩ bàn. Cuối cùng sẽ được thành Phật, quảng độ vô số chúng sanh. Hiếu nữ, con hãy an tâm!”
Vị La Hán thuở đó, hiện nay là Bồ Tát Vô Tận Ý, còn mẹ của nàng Quang Mục, là Bồ Tát Giải Thoát.
Những mẫu truyện về phát nguyện và đức hiếu của ngài Địa Tạng, thật sự nhiều như cát sông Hằng,không thể kể xiết. Hiện nay chỉ y vào Kinh Địa Tạng Bổn Nguyện, trích lục bốn đoạn vừa kể ở trên.
II/ Sử tích ngài Địa Tạng
Ngài Địa Tạng trong lịch sử (Kim Địa Tạng , còn có tên Kim Kiều Giác), sanh vào năm 696 TL, tại nước Tân La, hiện nay là Hán Thành, thuộc Nam Hàn. Ngài vốn là một hoàng tử, hưởng thụ cuộc sống vàng son nhung lụa, thế nhưng, tính ngài đạm bạc, không bị ảnh hưởng bởi nếp sống hào nhoáng, mà chỉ chăm lo học hỏi sách vỡ thánh hiền. Mặc dù tướng mạo không quá phi phàm, nhưng lòng từ bi thuần hậu của ngài thì khó có ai sánh kịp.
Vào năm Vĩnh Huy đời Đường Cao Tông, một hôm, ngài đọc hoàn tất kinh điển của bách gia chư tử, bèn buông lời cảm thán: “So với lục kinh của Nho gia, đạo thuật của Tiên gia, thì lý đệ nhất nghĩa đế của nhà Phật là thù thắng hơn hết, hợp với chí nguyện của ta nhất.” Sau đó lập chí xuất gia, năm đó ngài mới hai mươi bốn tuổi.
Sau khi xuất gia, ngài ưa đến chỗ vắng tu tập thiền định, nhân đây bèn nghĩ đến việc lữ hành, tìm một nơi thanh vắng để tĩnh tu. Ngài chuẩn bị thuyền bè, đem theo một ít hành trang và lương thực, đồng thời dắt theo con trắng chó tên Thiện Thính, đã theo ngài từ lúc xuất gia. Một mình ngài lái thuyền rời bến Nhân Xuyên, trương buồm ra khơi, tùy theo hướng gió mà đi, sau nhiều ngày lênh đênh trên biển, ngài đến cửa sông Dương Tử (Trung Hoa). Thuyền bị mắc cạn trên bãi cát, ngài bèn bỏ thuyền đi bộ lên bờ, tiếp tục cuộc hành trình. Sau nhiều ngày lang thang, ngài đến chân núi Cửu Tử ở huyện Thanh Dương, tỉnh An Huy. Thấy phong cảnh nơi đây hùng vĩ, tú lệ, ngài bèn quyết định ở lại. Ngài đi dọc theo triền núi lên phía trên cao dọ thám, phát giác khoảng giữa các ngọn núi là một vùng đất bằng phẳng, quang đãng, vô cùng tịch mịch, bèn trèo lên mỏm đá bên cạnh một khe nước trong vắt ngồi tĩnh tọa.
Một hôm, đang lúc tĩnh tọa, bổng có một con rắn độc con đến cắn vào đùi, nhưng ngài vẫn an nhiên bất động. Giây lát sau, một người đàn tuyệt đẹp từ trên vách núi bay xuống, đến bên cúi lạy, đưa thuốc cho ngài và nói: “Đứa bé trong nhà rắn mắt, xúc phạm tôn nhan. Thiếp xin tạo một con suối mới để đền bù lỗi lầm của cháu nhỏ.”
Nói xong biến mất. Chưa đầy một sát na, trong vách núi phụt ra một dòng suối cuồn cuộn chảy xuống. Từ đó, ngài không còn phải lao nhọc đi xa gánh nước về. (Đây là dòng suối Long Nữ Tuyền nổi danh ở núi Cửu Hoa).
Tương truyền, dưới chân núi có vị trưởng giả tên Mẫn Công, là người ưa thích bố thí cúng dường chư tăng. Ông thường tổ chức cúng dường trai tăng trăm vị. Thế nhưng, mỗi lần như thế, đều thiếu một vị. Vì vậy, mỗi lần tổ chức ông đều tự thân lên núi mời ngài. Nếu không, công đức cúng dường không được viên thành.
Không bao lâu sau, vì muốn mở rộng đạo trường để quảng độ chúng sanh, ngài Địa Tạng bèn đến xin Mẫn Công cúng dường một mảnh đất. Mẫn Công nói: “Tùy ngài muốn bao nhiêu con xin cúng bấy nhiêu.”
Ngài Địa Tạng nghe thế, tung tấm cà sa lên không. Tấm cà sa tỏa rộng bao trùm toàn núi Cửu Hoa. Mẫn Công thấy thế bèn vô cùng hoan hỷ, đem toàn bộ núi Cửu Hoa cúng dường. Mẫn Công có một người con trai, ngưỡng mộ đức hạnh của ngài, bèn đến xuất gia, hiệu là Đạo Minh. Sau đó, Mẫn Công, vì muốn thuận tiện trong việc nghe pháp, bèn bái Đạo Minh làm thầy. Việc này trở thành một giai thoại nổi tiếng trong chốn thiền môn.
Hiện nay, trong các chùa thờ tượng đức Điạ Tạng, phần lớn đều có tượng của cha con Mẫn Công (một nhà sư trẻ và một ông lão) đứng hầu hai bên.
Ngài Địa Tạng ưa thích tu tập thiền định. Ngoài việc giảng kình thuyết pháp, ngài thường mướn người sao chép bốn bộ kinh lớn của Đại thừa, đem đi bố thí khắp nơi.
Năm Chí Đức thứ nhất (TL 765), có danh sĩ Gia Cát Tiết, ngụ tại một làng dưới chân núi, hưóng dẫn các kỳ lão trong làng, lên núi thưởng ngoạn. Đến vùng đất bằng trên núi, thấy mây trôi bàng bạc, ánh nắng chan hòa, tiếng suối từ khe núi chảy ra nghe róc rách. Mọi người bị phong cảnh tú lệ làm mê hoặc, đi dần vào rừng sâu, chợt thấy có một vị thiền sư ngồi trên mõm đá bên cạnh dòng suối, đang nhắm mắt tĩnh tọa. Bên cạnh là một cái đảnh cổ gảy một chân, trong đó có một ít gạo trộn lẫn đất trắng. Một lát sau, vị thiền sư xuất định, lấy gạo đất nấu chín rồi ăn. Ăn xong, ngài lại tiếp tục tĩnh tọa. Những người trong nhóm thấy thế, vô cùng cảm động bèn đến thưa với ngài: “Thưa ngài! Ngài tu khổ hạnh như vầy, đây là lỗi của dân làng chúng con!”
Chẳng bao lâu, mọi người trong làng cùng nhau xây cất một ngôi thiền đường rộng lớn, hơn nữa, quanh năm đều cúng dường thực phẩm không hề gián đoạn.
Năm Kiến Trung thứ nhất (TL. 780), ông Quận thú Trương Nghiêm, nhân vì kính ngưỡng đạo hạnh sùng cao, cùng công nghiệp hoằng pháp của ngài, bèn tâu lên Hoàng Đế Đức Tông, ban sắc dụ chính thức kiến tạo tự viện. Bấy giờ, đạo trường của ngài Địa Tạng mới thực sự hùng vĩ trang nghiêm.
Lúc ấy, các vị tăng nước Tân La nghe danh, có đến vài trăm người tìm đến thân cận tu học với ngài. Dần dần, số người càng lúc càng đông, thực phẩm trở nên thiếu thốn. Một hôm, ngài ra phía ngoài chùa, cho đào rất nhiều đất trắng nhuyễn như bột, dự dịnh bổ túc vào phần ăn. Mọi người trong chùa, cảm hóa bởi đức hạnh của ngài, đều cùng nhau lên tiếng: “Nguyện dùng pháp thực nuôi sống tuệ mạng, không dùng vật thực nuôi sống thân mạng”. Điều này chứng tỏ mọi người trong chùa không lấy thân mạng làm trọng. Thời đó, mọi giới trong Phật giáo đều tỏ lời khen ngợi, ca tụng họ là “Nam mô Các Vị Tăng Gầy Ốm phương nam”.
Một hôm vào mùa hạ, năm Trinh Nguyên thứ mười (TL. 795), ngài triệu tập tăng chúng vào chánh điện để từ giả. Mọi người cảm thấy hoang mang không rõ lý do gì. Lúc ấy, các ngọn núi phát ra tiếng gào thét, những tảng đá lớn ầm ầm rơi xuống vực sâu, mặt trời mặt trăng đều biến đổi màu sắc, nhưng ngài vẫn an tường ngồi kiết già thị tịch. Năm đó ngài vừa đúng chín mươi chín tuổi.
Sau khi viên tịch, nhục thân của ngài được đặt trong một động đá. Ba năm sau, tăng chúng mở động ra, thấy nhục thân vẫn còn nguyên vẹn, tướng mạo giống hệt như lúc sanh tiền. Đại chúng đem nhục thân đến bảo tháp trên ngọn Thần Quang Lãnh. Dọc đường, nghe văng vẳng như có tiếng tích trượng vàng khua động theo nhịp chân của mọi người. Kinh dạy: “Bồ tát bị nạn, hình hài vang động ”. Đây là một dữ kiện chân chánh, không chút hoài nghi, chứng minh sự ứng hóa của ngài Bồ Tát Địa Tạng. Hơn nữa, nếu như cung kính lễ bái nhục thân của ngài Kim Địa Tạng, thì sẽ được lợi ích giống như Kinh Địa Tạng đã nói.
Mấy trăm năm nay, tín đồ Phật giáo, không ngại gian lao, lũ lượt không dứt, phát tâm đến núi Cửu Hoa, triều bái nhục thân của ngài Kim Địa Tạng. Đặc biệt, mỗi năm vào ngày vía của ngài (ba mươi tháng bảy AL), tại thánh địa Cửu Hoa Sơn, trong vòng mấy mươi dặm, dầy đặc những tín đồ, nam nữ lão ấu, đến tham dự nhất bộ nhất chiêm (một bước một xá) hoặc nhất bộ nhất bái (một bước một lạy), đủ chứng tỏ Bồ tát đã kết duyên rộng rãi, sức cảm hóa sâu dày!
III. Kinh Chứng
1/ Bồ Tát Địa Tạng thành tựu đại nguyện độ sanh
Phẩm Thần Thông Tại Cung Trời Đao Lợi trong kinh Địa Tạng nói: … Khi ấy, đức Phật Thích Ca Mâu Ni bảo ngài Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi: “Ông quán xét thấy tất cả chư Phật, Bồ Tát, cùng tất cả long, thiên, quỷ thần, từ thế giới này hoặc thế giới khác, từ cõi này hoặc cõi khác, hôm nay đến tập hội tại cung trời Đao Lợi, ông có biết là bao nhiêu hay không?”
Ngài Văn Thù Sư Lợi bạch Phật: “Bạch Đức Thế Tôn! Nếu dùng thần lực của con, suy lường đến trăm ngàn kiếp, cũng không thể nào tính được.”
Phật bảo ngài Văn Thù Sư Lợi: “Ta dùng phật nhãn quán xét, cũng không thấy rõ hết. Đây đều là do Bồ Tát Địa Tạng, từ kiếp lâu xa đến nay, hoặc đã độ, đang độ, sẽ độ, hoặc đã thành tựu, đang thành tựu, sẽ thành tựu!”
2/ Bồ Tát Địa Tạng Đại Nguyện Vô Tận
Phẩm Địa Thần Hộ Pháp trong Kinh Địa Tạng nói: “Bạch Đức Thế Tôn! Ngài Bồ Tát Địa Tạng, có đại nhân duyên đối với chúng sanh cõi Diêm Phù Đề! Như ngài Văn Thù, Phổ Hiền, Quán Âm, Di Lặc, thị hiện trăm ngàn thân, hóa độ chúng sanh trong lục đạo, nhưng thệ nguyện của các ngài cũng có lúc cùng tận, riêng ngài Bồ Tát Địa Tạng giáo hóa tất cả chúng sanh trong lục đạo, những thệ nguyện độ sanh của ngài trải qua số kiếp như số cát trong trăm ngài vạn ức sông Hằng, không bao giờ cùng tận!”
3/ Bồ Tát Địa Tạng Bất Khả Tư Nghì
a/ Chư Phật tuyên dương tán thán bất tận bất khả tư nghì.
Phẩm Chúc Lụy Nhơn Thiên trong Kinh Địa Tạng nói: Bấy giờ, Đức Thế Tôn đưa cánh tay sắc vàng, xoa đảnh đầu Bồ Tát Địa Tạng, bảo rằng: “Này Bồ Tát Địa Tạng! Thần lực của ông bất khả tư nghì, từ bi của ông bất khả tư nghì, trí tuệ của ông bất khả tư nghì, biện tài của ông bất khả tư nghì! Giả như mười phương chư Phật tán thán, tuyên thuyết sự bất khả tư nghì của ông, trăm ngàn vạn kiếp cũng không nói hết!”
b/ Định lực của Bồ Tát bất khả tư nghì.
Phẩm Tự của Kinh Địa Tạng Thập Luân nói: “…. Nói tóm lại, vị thiện nam tử này (Bồ Tát Địa Tạng), vào mỗi buổi sáng, đều nhập vào hằng hà sa số thiền định, sau khi ra khỏi định, phân thân đi khắp mười phương cõi Phật, giáo hóa thành tựu tất cả chúng sanh, tùy mỗi trưòng hợp, đều khiến an lạc lợi ích. … Hoặc có thế giới, khởi kiếp đao binh, tổn hại hữu tình, vị thiện nam tử này, thấy điều như vậy, vào mỗi buổi sáng, dùng các định lực, trừ diệt đao binh, khiến cho hữu tình từ bi thương xót lẫn nhau, …. Dùng các định lực, trừ các tật bệnh, khiến cho chúng sanh đều được an lạc, …. Dùng các định lực, trừ diệt đói khát, khiến cho chúng sanh đều được no đủ. Vị thiện nam tử này, dùng các định lực, làm vô lượng vô biên bất khả tư nghì việc an lạc lợi ích cho tất cả chúng sanh.”
c/ Thọ trì kinh Địa Tạng và danh hiệu Bồ Tát Địa Tạng bất khả tư nghì.
Phẩm Tổng Trì trong Kinh Kim Cang Tam Muội nói: … Lúc ấy, Đức Như Lai bảo đại chúng: “Vị Bồ Tát ấy thật bất khả tư nghì, thường dùng lòng đại từ cứu bạt tất cả chúng sanh khổ não; nếu có chúng sanh nào, thọ trì kinh Địa Tạng hoặc thọ trì danh hiệu của Bồ Tát ấy, thì không bị đọa vào ba đường ác, tất cả chướng nạn đều bị trừ diệt; nếu có chúng sanh, chuyên tâm thọ trì kinh ấy, không có tạp niệm, tu tập đúng pháp, khi đó, hóa thân của Bồ Tát Địa Tạng sẽ thường đến thuyết pháp, ủng hộ người ấy, không lúc nào rời, khiến người ấy sớm chứng đắc A nậu đa la tam miệu tam bồ đề.”
4/ Bồ Tát Địa Tạng Lợi Ích Chúng Sanh.
a/ Lợi ích trời người
Phẩm Kiến Văn Lợi Ích trong kinh Địa Tạng nói: “Phật bảo ngài Quán Thế Âm Bồ Tát: Trong các thế giới, vào đời hiện tại hoặc vị lai, có người hoặc trời nào, hưởng phước đã hết, năm tướng suy hiện ra, hoặc sẽ bị đọa vào ba đường ác. Những người, trời đó, hoặc nam hay nữ, giả như thấy được hình tượng, hoặc nghe danh hiệu Bồ Tát Địa Tạng, chỉ cần một lần chiêm ngưỡng, hoặc lễ lạy, thì những người hoặc trời đó, phước đức càng thêm tăng trưởng, tiếp tục hưởng thọ phước báo người, trời, vĩnh viễn không còn bị đọa vào ba đường ác. Huống chi là thấy hình tượng, hoặc nghe danh hiệu Bồ Tát, rồi đem hoa, hương, quần áo, thức ăn, trân báu, anh lạc, bố thí cúng dường, thì sẽ được vô lượng vô biên công đức phước lợi.
b/ Lợi ích chúng sanh sắp mất.
Lại nữa, này Quán Thế Âm! Trong các thế giới, vào đời hiện tại hoặc vị lai, những chúng sanh trong sáu nẻo, lúc sắp mạng chung, nếu như nghe được danh hiệu Bồ Tát Địa Tạng, thoáng qua tai một lần, thì những chúng sanh đó vĩnh viễn không bị đọa vào ba nẻo ác thọ khổ. Huống chi lúc mạng chung, cha mẹ họ hàng, đem những tài vật của người sắp mất, như là nhà của, tài vật, trân báu, quần áo, v.v… bán đi lấy tiền tô vẽ hình tượng của ngài Bồ Tát Địa Tạng; hoặc khiến cho người bệnh lúc sắp mất, mắt thấy tai nghe, biết rằng những người thân thuộc đem nhà cửa, trân báu, v.v… của mình bán đi lấy tiền tô vẽ hình tượng Bồ Tát Địa Tạng. Người bệnh nếu bị nghiệp báo phải mang bệnh nặng, thì nhờ công đức này liền đưọc lành mạnh, tuổi thọ thêm lâu, giả như số mạng đã hết, lại còn phải bị đọa vào ác đạo, thì nhờ công đức này, sau khi mạng chung, sẽ được sanh vào cõi người, cõi trời, hưởng thọ quả lành thù thắng, tất cả tội chướng thảy đều dứt sạch.
c/ Lợi ích cho người nghĩ đến việc báo hiếu.
Lại nữa, này Quán Thế Âm! Trong đời vị lai, nếu có người nam người nữ nào, lúc còn thơ bé, hoặc ba tuổi, năm tuổi, mười tuổi trở xuống, mồ côi cha mẹ, hoặc anh em bị mất sớm, sau khi trưởng thành, tưỏng nhớ đến cha mẹ hoặc thân quyến, không biết họ đọa vào nẻo nào, hoặc sanh về thế giới nào, hoặc sanh vào cõi trời nào? Người đó, nếu có thể tô vẽ hình tượng Bồ Tát Địa Tạng, nhẫn đến nghe danh hiệu, hoặc một lần chiêm ngưõng, hoặc đảnh lễ tôn tượng của ngài, hoặc một ngày cho đến bảy ngày, không thoát thất tâm ban đầu, nghe tên thấy hình, chiêm ngưỡng, lễ bái, cúng dường, thì họ hàng quyến thuộc của người đó, những kẻ đáng lẽ bị đọa ác đạo nhiều kiếp, nhờ nhân duyên công đức tô vẽ lễ lạy hình tượng Bồ Tát Địa Tạng, mà được thoát khổ, sanh vào cõi người, trời, hưởng thọ khoái lạc vi diệu, còn những kẻ có sẵn phước lực, đã được sanh về cõi trời, thì cũng nhờ công đức này mà được tăng trưởng nhân duyên xuất thế, hưởng thọ vô lượng khoái lạc. Người nam người nữ đó, nếu lại có thể trong hai mươi mốt ngày, nhất tâm cung kính đảnh lễ hình tượng, xưng niệm danh hiệu đủ một vạn lần, thì Bồ tát Địa Tạng sẽ hiện vô biên thân, đến bảo cho người đó, quyến thuộc sanh về chốn nào, hoặc trong giấc mộng, Bồ tát dùng sức thần thông, dẫn người đó đến gặp quyến thuộc mình ….
d/ Lợi ích cho người cầu nguyện.
Lại nữa, này Quán Thế Âm! Nếu trong đời sau, có thiện nam thiện nữ nào, muốn cầu trăm ngàn vạn ức lời nguyện, trăm ngàn vạn ức sự việc, chỉ cần quy y, chiêm ngưỡng, đảnh lễ, cúng dường, tán thán hình tượng ngài Bồ tát Địa Tạng. Như vậy, tất cả nguyện cầu đều sẽ thành tựu.
e/ Lợi ích cho chúng sanh phát tâm Bồ đề.
Lại nữa, này Quán Thế Âm! Trong đời vị lai, nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nào, muốn phát tâm từ rộng lớn, cứu độ tất cả chúng sanh, muốn tu tập Vô thượng Bồ đề, ra khỏi ba cõi, những thiện nam thiện nữ đó, nếu thấy được hình tượng Bồ Tát Địa Tạng, hoặc nghe được danh hiệu ngài, chí tâm quy y, hoặc dùng hoa, hương, y phục, trân báu, thức ăn cúng dường, chiêm ngưỡng, lễ bái, thì những điều nguyện cầu của họ sẽ mau thành tựu, không bao giờ bị chướng ngại.
f/ Không thể nói hết sự lợi ích của việc thấy hình, nghe tên Bồ tát Địa Tạng.
Đức Phật bảo Bồ tát Quán Thế Âm: “Bồ tát Địa Tạng có nhân duyên lớn với chúng sanh cõi Diêm Phù Đề. Nếu nói lợi ích của việc thấy hình, nghe tên Bồ tát Địa Tạng, v.v… thì trong trăm ngàn kiếp, cũng không thể nói hết …”
5/ Lễ Kính Bồ Tát Địa Tạng Được Lợi Ích
Phẩm Địa Thần Hộ Pháp trong Kinh Địa Tạng nói: “…Trong đó vẽ hình, hoặc tạc tượng Bồ Tát Địa Tạng, bằng vàng, bạc, đồng, sắt, rồi thắp hương cúng dường, chiêm ngưỡng, lễ bái, tán thán thì người đó được mười điều lợi ích: Một là đất đai mầu mỡ, hai là nhà cửa luôn được bình an, ba là người mất được sanh lên trời, bốn là người sống được tăng tuổi thọ, năm là cầu chi được nấy, sáu là không bị nạn nước lửa, bảy là không bị hao tổn, tám là không còn ác mộng, chín là được quỷ thần bảo hộ, mười là thường gặp nhân duyên tu thánh đạo.
Phẩm Phó Chúc Người Trời trong Kinh Địa Tạng nói: “ Trong đời vị lai, nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nào, thấy hình tượng Bồ tát Địa Tạng, và nghe kinh này, nhẫn đến đọc tụng, dùng hương hoa, thức ăn, y phục, trân báu bố thí, cúng dường, ngợi khen, chiêm ngưỡng, lễ bái, thì người đó được hai mươi tám điều lợi ích:
1/ trời, rồng thường hộ trì,
2/ quả lành ngày thêm lớn,
3/ tăng trưởng nhân lành Vô thuợng,
4/ không thoái đạo Bồ đề,
5/ ăn mặc dồi dào đầy đủ,
6/ không bị bệnh tật,
7/ không bị nạn nước lửa,
8/ không bị nạn trộm cướp,
9/ mọi người đều kính trọng,
10/ quỷ thần hộ vệ giúp đỡ,
11/ chuyển thân nữ thành nam,
12/ làm con gái vua chúa, quý tộc,
13/ thân tướng xinh đẹp,
14/ thường sanh cõi trời,
15/ thưòng sanh làm vua chúa,
16/ có túc mạng thông,
17/ mọi sự mong cầu đều toại ý,
18/ quyến thuộc vui vầy,
19/ tránh mọi tai ương,
20/ không đọa ác đạo,
21/ đến đâu cũng không bị trở ngại,
22/ chiêm bao an ổn,
23/ tổ tiên được xa lìa sự khổ,
24/ sanh vào chỗ an lạc,
25/ chư thánh hiền khen ngợi,
26/ thông minh lanh lợi,
27/ giàu lòng từ mẫn,
28/ rốt ráo thành Phật.
6/ Bồ Tát Địa Tạng Tùy Cơ Thuyết Pháp
Phẩm Diêm Phù Đề Chúng Sanh Nghiệp Cảm trong Kinh Địa Tạng nói: “…. Bồ Tát Địa Tạng gặp người sát sanh, thì nói quả báo chết yểu; gặp người trộm cướp, thì nói quả báo bần cùng khổ sở; gặp người tà dâm, thì nói quả báo sanh làm chim sẻ, bồ câu, uyên ương; gặp người nói lời thô ác, thì nói quả báo quyến thuộc bất hòa; gặp người huỷ báng, thì nói quả báo không lưỡi, lở miệng; gặp người nóng giận, thì nói quả báo thân hình xấu xí, tật nguyền; gặp người bỏn sẻn, thì nói quả báo mong cầu không toại; gặp người ăn uống vô độ, thì nói quả báo đói khát, đau cổ; gặp người đặt bẩy, săn bắn, thì nói quả báo sợ hãi, điên cuồng, mất mạng; gặp người bất hiếu cha mẹ, thì nói quả báo trời tru đất triệt; gặp người phóng hỏa đốt rừng, thì nói quả báo điên cuồng mà chết; gặp cha mẹ ghẻ ác độc, thì nói quả báo đời sau bị roi vọt; gặp người bẩy chim non, thì nói quả báo cốt nhục chia lìa; gặp người hủy báng Tam bảo, thì nói quả báo đui, điếc, câm, ngọng; gặp người khinh thường giáo pháp, thì nói quả báo ở mãi trong ác đạo; gặp người phung phí của thường trụ, thì nói quả báo ức kiếp đọa vào địa ngục; gặp người phá phạm hạnh và vu khống tăng ni, thì nói quả báo ở mãi trong loài súc sanh; gặp người giết hại bằng nước sôi, lửa đốt, đâm chém, thì nói quả báo đời đời thường mạng; gặp người phá giới phạm trai, thì nói quả báo làm cầm thú đói khát; gặp người phung phí vô độ, thì nói quả báo thiếu hụt đói khát; gặp người cống cao ngã mạn, thì nói quả báo tôi đòi hèn hạ; gặp người đâm thọc gây hấn, thì nói quả báo không lưỡi, nhiều lưỡi; gặp người u mê tà kiến, thì nói quả báo sanh nơi biên địa.
7/ Đức Phật Giao Phó Bồ Tát Địa Tạng Trách Nhiệm Trọng Đại
Phẩm Nghiệp Cảm trong Kinh Địa Tạng nói: “…. Con nay lại được Đức Thế Tôn giao phó trách nhiệm, trước khi Đức Di Lặc thành Phật, phải độ thoát chúng sanh trong sáu đường. Bạch Đức Thế Tôn, xin ngài chớ lo, con xin vâng lời Phật dạy. Lúc đó Đức Phật bảo Bồ Tát Địa Tạng: Những chúng sanh chưa được giải thoát, tâm tánh không định, quen làm ác thì kết nghiệp ác, quen làm thiện thì kết nghiệp lành, làm thiện làm ác, tùy cảnh thọ sanh, luân hồi năm nẻo, không bao giờ ngừng, trải qua nhiều kiếp, như số vi trần. Mê hoặc chướng nạn, qua nhiều đời kiếp, giống như cá sa vào lưới, vừa tạm ra khỏi, lại sa trở lại. Ta rất lo lắng cho những kẻ đó. Nay ông theo lời nguyện xưa, trải qua số kiếp như vi trần, rộng độ tất cả chúng sanh, thì ta cũng không còn phải lo lắng gì nữa.”
8/ Một Niệm Cung Kính Đều Được Giải Thoát
Phẩm Chúc Lụy Nhân Thiên trong Kinh Địa Tạng nói: “…. Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói kệ:
Đời này đời sau, chúng trời người
Nay ta giao phó hết cho ông
Hãy dùng thần thông cứu độ họ
Đừng để ác đạo lọt vào trong.
Bấy giờ, Bồ Tát Địa Tạng quỳ gối chắp tay bạch Phật: “Bạch Đức Thế Tôn! Xin Đức Thế Tôn chớ nên lo lắng. Trong đời vị lai, nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân, chỉ cần khởi một niệm cung kính đối với Phật pháp, thì con cũng sẽ dùng trăm ngàn phương tiện để độ thoát, khiến họ mau ra khỏi sanh tử. Huống chi những người nghe việc thiện, tinh tiến tu hành, thì những người đó sẽ không bao giờ thoát thất đạo Bồ Đề.”
9/ Bồ Tát Địa Tạng Diệt Định Nghiệp Chơn Ngôn
Án Bát La Mạt Lân Đà Nãnh Ta Bà Ha
(Vào đời Minh, ngài Đại sư Ngẫu Ích, lúc ở núi Cửu Hoa, đã từng kết đàn một trăm ngày, trì tụng chú này năm trăm vạn (5.000.000) lần, sau đó dạy các hàng xuất gia, tại gia, cùng nhau trì tụng mười vạn vạn (1.000.000.000) lần. Việc này rất có linh ứng trong việc tiêu trừ giặc cướp, như bọn Truơng, Lý nỗi loạn vào những năm đời Sùng Trinh, lại còn tiêu trừ nạn đói ở Trung Nguyên, cũng xảy ra vào những năm đó. Thời đại hiện nay, không biết hiểm họa nguyên tử sẽ xảy ra lúc nào, chúng ta lại cần phải tụng trì, hy vọng giảm bớt nghiệp ác của chúng sanh. Đang lúc tôi đang soạn tập sách này, cư sĩ Uông Giác Định đôi lần gởi thư đến, tha thiết ân cần, dặn tôi nên ghi thần chú này vào đây, nay xin đặc biệt cung kính ghi lại.)
10/ Chỉ thị của Bồ Tát Địa Tạng Vào Lúc Sanh Và Lúc Mất
Có một quỷ vương tên Chủ Mạng, bạch với Đức Phật: “Bạch Đức Thế Tôn! Bổn phận của con là cai quản tuổi thọ loài người cõi Diêm Phù Đề, lúc sanh lúc mất, con đều biết rõ. Bổn nguyện của con là làm lợi ích, thế nhưng, họ lại không rõ ý con, thành thử lúc sanh lúc mất, đều không được an ổn. Vì sao? Người Diêm Phù Đề, lúc sắp sanh đẻ, bất luận trai gái, nếu làm các việc thiện, tăng thêm sự an lành cho gia trạch, lại khiến cho thổ địa vô cùng hoan hỷ, ủng hộ cả mẹ lẫn con, được nhiều an lành, gia quyến cũng được lợi ích. Lúc sắp sanh đẻ, cẩn thận chớ nên sát hại, lấy vị béo bổ cho người mẹ ăn, lại còn tụ tập quyến thuộc, ăn thịt uống rượu, đàn ca hát xướng, điều này làm cho mẹ con đứa bé không được an ổn. Vì sao? Lúc mới sanh sản, có vô số ác quỷ cùng các tinh mỵ vây quanh, muốn ăn máu dơ, nhưng con đã sớm sai các vị thổ địa linh kỳ đến bảo hộ mẹ con đứa bé, khiến họ an ổn, lợi ích. Những người như vậy, đã được an vui, đáng lẽ nên làm việc phước thiện, báo đáp công ơn của các thổ địa, ngược lại, làm việc sát hại, tụ tập quyến thuộc, vì lý do này chịu những tai ương, mẹ con đều tổn.
Lại nữa, người Diêm Phù Đề, đến lúc mạng chung, bất luận thiện ác, con đều muốn cho người đó, không bị đọa vào đường ác, huống chi những người tu thiện, tăng trưởng lực lượng cho con. Người Diêm Phù Đề làm thiện, đến lúc lâm chung, còn bị trăm ngàn quỷ thần ác, biến hiện thành cha mẹ, họ hàng, dẫn dụ đọa vào ba đường ác, huống chi những kẻ xưa nay vốn làm ác. Bạch Đức Thế Tôn! Những người Diêm Phù Đề lúc mạng chung, thần thức hôn mê, không còn phân biệt thiện ác, nhẫn đến mắt tai không còn thấy nghe, lúc ấy, họ hàng quyến thuộc phải nên cúng dường rộng rãi, đọc tụng kinh này, niệm danh hiệu Phật Bồ Tát. Nhờ duyên lành này, có thể khiến cho vong linh ra khỏi đường ác, các quỷ thần ác tự động lánh xa. Bạch Đức Thế Tôn! Tất cả chúng sanh lúc sắp mạng chung, nếu nghe được danh hiệu Phật, hoặc danh hiệu Bồ tát, hoặc đọc tụng kinh điển Đại thừa, một câu một kệ, con quán xét thấy người đó, ngoại trừ năm tội vô gián, tất cả tội đọa ác đạo khác, thảy đều tiêu diệt, sẽ được giải thoát.”
Cung kính ghi đến nơi đây, kính thỉnh mọi người chắp tay cùng nhau hồi hướng:
Nguyện đem công đức này
Cúng dường khắp chúng sanh
Nguyện hồi hướng tất cả
Sớm viên thành Phật đạo!
Nam mô Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét