Ý Trinh đọc về tinh yếu của giới luật mà Đức Phật đã có dẫn dụ rõ trong Cương Yếu giới luật thọ pháp phật đã ghi chép về thân phận Huỳnh Môn đã từng tồn tại và giáo huấn về những nghiệp thân Huỳnh Môn, giúp cho người Huỳnh Môn từ bỏ ,cải huấn thân nghiệp trên con đường giác ngộ và học truyền thụ phật pháp. Ý Trinh tự thấy mình cũng là một nhân tố của nghiệp Huỳnh Môn nên khi nghe giáo Pháp của Đức Phật nói trong kinh sách, Ý Trinh đã thức tỉnh và hiểu rõ những căn cơ, lý khế đó mà ban nói lại cho những anh chị em cùng cảnh ngộ thấy rõ cơ chế đó mà mình nguyện sanh về cõi Cực Lạc đều có thể tự tại tu học, Từ xưa Đức Phật đã có đề cập về những người Huỳnh Môn, chính là những hình thức con người ngày nay là những người Đồng Tính Luyến Ái, do đó chúng ta đã được Đức Phật giáo huấn trên con đường tu học, chứ không phân biệt đối xử hay chê trách. Tất cả những nghiệp hạnh của con người thọ lấy đều có nguyên nhân sâu xa, Nếu ai vô tình cười cợt, trêu đùa, chê trách, phỉ báng , thì đều sa vào vòng luân hồi phải tự chính mình chuốc lấy y như những hành thức mà mình đã lỡ tuôn ra, muốn thoát khỏi bánh xe luân hồi ấy thì chỉ tự mình nhận ra và phải tự giải thoát chính mình chứ không ai cứu cả.
Từ đó tất cả các hình thái, nhân tố từng cá thể trong vũ trụ đều có thể cải tà qui chánh để học lấy giáo pháp chân chính của Đức Phật truyền dạy, khi biết nguyên nhân gây nên những nghiệp cảnh và thọ lấy thì chúng sanh phải biết buông bỏ để bước đi trên con đường tiến hoá.
Huỳn Môn là gì : là từ cổ để chỉ những người khó phân biệt giới tính, là người Nam nhưng có những cử chỉ, hành động như người Nữ ( Người Đồng Tính Nam), hoặc là người Nam nhưng có sở thích trong tư tưởng ,có lối hành dâm chỉ với Nam, thích được giao hợp với Nam - Nam ( Gay Top), hoặc tự cho mình là Nữ và muốn người Nam yêu thương, và sinh hoạt tình dục đồng tính ( Gay Bottom) , hoặc như cuôc sống hiện đại ngày nay là những dạng người Bi-sexual ( Người vừa thích tình dục với Nam và cũng thích tình dục với Nữ), hoặc là người thọ sinh là Nam, nhưng tất cả hành động sinh hoạt ăn mặc, trang điểm, mong muốn có tình yêu như người Nữ chỉ muốn yêu Đàn Ông, hoặc tranh giành tình yêu của Đàn Ông với Phụ Nữ (vì nghĩ rằng mình là nữ cần giành giật tình yêu hay làm kẻ thứ 3 trong tình yêu với Nam), các vùng miền còn gọi là ( Đồng Cô, Pê Đê, Bóng lại cái), những ý nghĩa của Huỳnh Môn được cắt nghĩa như trên, ngoài ra cũng đề cập đến những giới tính ngày nay mà xã hội đương đại đều tồn tại đó là những từ ngữ như : LGBT là tên viết tắt của cộng đồng những người đồng tính luyến ái nữ (Lesbian), đồng tính luyến ái nam (Gay), song tính luyến ái (Bisexual) và hoán tính hay còn gọi là người chuyển giới (Transgender).
Huỳnh Môn từ trong giới luật của Phật giáo đã đề cập là : có những hành động được cho là không trong sạch, ghi chép rằng, từ những hành động này mà phạm bất tính hạnh nên sẽ khó Tu đạo, trừ khi từ bỏ hoàn toàn giới thức ấy, để gạn lọc từ trong tâm (Tâm hoàn toàn trong sạch tinh khiết như Hoa Sen), thức, nghiệp mới lĩnh hội được giáo pháp của Đức Phật truyền dạy.
Phật pháp đều nhìn thấu những hành vi và hành động của tất cả muôn loài, Phật pháp không phân biệt những tầng lớp, loài, hạng của muôn loài trong vũ trụ, nhưng để bước vào thế giới Tịnh Lưu Ly trong sạch thì tất cả phải tuân theo những giới luật mà Phật đã ban hành, để từ đó không còn chấp vào bất kì nghiệp cảnh nào, bước lên đường giải thoát để mong cầu trở về cảnh giới Chính đẳng chính giác.
Những gì là hành bất tính của Huỳnh Môn
Những người có hướng tâm dâm đến nơi :
- Đường Miệng ( Oral Sex - quan hệ tình dục bằng đường miệng)
- Đường Tiểu Tiện (Sex - quan hệ tình dục bằng cơ quan sinh dục )
- Đường Đại Tiện (Anal Sex - quan hệ tình dục bằng đường hậu môn)
Những lối hành dâm ấy vừa tưởng đến thì phạm, không tưởng thì không phạm. Người muốn không phạm thì phải biết chế ngự những tâm thức, giới, si cuồng, loạn tâm, thống não, bức bách , thì không phạm.
( Trên đây là sự ghi chép lại ,Ý Trinh tham khảo theo lịch sử của kinh sách đã ban hành, và Ý Trinh giải nghĩa theo cách nói của xã hội hiện giờ để các anh chị em cùng thân phận được dễ hiểu và thấu đáo hơn , Ý Trinh cảm ơn vì đã đọc bài viết )
Trích dẫn phần dẫn nói về giới Huỳnh Môn :
Vậy tại sao do cơ duyên gì ? những người phải chịu những sự chi phối như vậy đều có nguyên do của nghiệp để định đoạt con người thọ lãnh những hình thức quả báo .
Quả báo nói về thọ thân Nam-Nữ (Giới tính)
Vũ trụ là một cơ thể sống thống nhất với nhau, trong đó mọi vật thể đều dường như có một sức sống thầm kín ẩn dấu bên trong dù đó là chất hữu cơ hay chất vô cơ. Ngay cả sự bùng vỡ một tinh cầu cũng chỉ là giai đoạn cho những sự sinh hóa kế tiếp theo sau của vũ trụ.
Ngay cả một chiếc lá vàng rơi rụng cũng không nằm ngoài tiến trình sống của vạn hữu. Tất cả đều sống, đều sinh hóa vô tận.
Tuy nhiên, sự sống biểu hiện rõ nét nhất nơi đời sống của sinh vật qua quá trình giao phối của hai giao tử đực cái để cho ra đời những giống con tiếp tục duy trì chủng loại. Giao tử đực có nhiệm vụ cung cấp cho đủ điều kiện để giao tử cái nuôi dưỡng phát triển thai mầm lớn lên.
Dường như giống cái có trách nhiệm nhiều nhất trong việc sinh sản con cái. Giống đực chỉ có nhiệm vụ hỗ trợ ban đầu qua giao phối, có khi chỉ để tìm khoái lạc cho bản năng.
Một vài giống đực có giúp đỡ nuôi nấng vợ mình trong quá trình thai sản. Một số khác chỉ cung cấp tinh trùng rồi chuồn êm, không một chút bận tâm vì bổn phận.
Con người cũng vậy, tình yêu và tình dục làm cho nam nữ gần gũi nhau để duy trì nòi giống. Người mẹ mang nặng đẻ đau. Người cha làm lụng nuôi nấng. Đó là mẫu gia đình bình thường trong xã hội.
Nhưng sự khác biệt về vai trò, năng lực, quyền hạn giữa nam và nữ đã là một vấn đề có ý nghĩa lớn.
Một số dân tộc tôn trọng phụ nữ và một số khác thì ngược lại. Thậm chí hiện nay tại một vùng quê ở Á Châu, nếu biết được đứa con sẽ ra đời là con gái, người ta sẽ phá thai.
Trong kinh A Di Đà của Phật giáo Bắc Phương, hình ảnh một thế giới lý tưởng là thế giới “không có người nữ và không có đường ác”. Quan niệm trọng nam khinh nữ trở thành phổ biến suốt các đại lục từ Trung Đông qua Châu Á.
Điều này có thể giải thích theo luật cung cầu.
Dường như tỉ lệ người nữ luôn luôn cao hơn người nam trong cơ chế nhiễm sắc thể khi thụ tinh. Tỉ lệ nhiễm sắc thể có dạng Y để tạo thành bào thai nam luôn luôn thấp. Thêm nữa, người nam do có sức khỏe nên phải luôn luôn dự phần vào chiến tranh và không tránh khỏi chết chóc.
Điều này càng làm cho tỉ lệ nam nữ mất cân đối hơn. Khi nữ nhiều nam ít sự phân biệt đối xử là một hệ quả tất yếu buộc phải xảy ra. Giá trị người nữ trở nên thấp kém so với nam giới.
Người ta thành lập ngày phụ nữ 8-3, người ta đấu tranh đòi quyền bình đẳng cho phụ nữ... Tất cả những điều đó càng chứng tỏ rằng thực sự phụ nữ đã từng bị ngược đãi.
Ngoài lý do cung cầu để giải thích sự phân biệt đối xử giữa nam và nữ, người ta còn đưa ra một số lý do về tính khí. Người nữ được xem là hạng người yếu đuối, ích kỷ, gian trá, thâm hiểm... Đến nỗi chữ “gian” của Trung Quốc được ghép bằng ba chữ “nữ” lại với nhau.
Triết gia Schopenhawer cay cú với người nữ không biết dường nào. Ông cho rằng:
“Chỉ có một người đàn ông bị mờ mắt vì sự thúc đẩy của xác thịt mới có thể tặng danh từ phái đẹp cho cái giống người thấp bé, vai hẹp, mông rộng, chân ngắn kia, vì toàn thể vẻ đẹp của giống này đều luôn kết chặt chẽ với bản năng tính dục. Thay vì gọi họ là phái đẹp, để bảo đảm hơn, nên tả đàn bà là giống thiếu thẩm mỹ...” (Luận về đàn bà)
Chỉ có luật Nghiệp Báo thì vô tư công bình thoát ra ngoài các định kiến của con người.
Nơi này người đàn bà phải quy phục với đàn ông thì tại một nơi khác đàn bà là nữ hoàng.
Nơi này người đàn bà phải chìu chuộng chồng thì ở nơi khác người đàn bà được galant hết mực.
Có những người đàn ông phải đi ăn xin trong khi kẻ bố thí là một phụ nữ giàu có sang trọng. Biết bao nhiêu sinh viên nam giới phải lẳng lặng nghe lời giảng sâu sắc của một nữ giáo sư đại học.
Biết bao nhiêu quyết định sáng suốt của một lãnh tụ là do gợi ý của vị phu nhân ở phía sau...
Dựa vào một tiêu chuẩn nào đó để đánh giá trị hơn kém giữa người nam và người nữ là một điều thiên lệch bất công.
Dựa vào một tiêu chuẩn nào đó để đánh giá trị hơn kém giữa người nam và người nữ là một điều thiên lệch bất công.
Trên bất cứ lãnh vực nào, nữ cũng như nam đều có khả năng đạt đến như nhau. Mặc dù tỉ lệ thành công của người nam cao hơn người nữ rất nhiều.
Số lãnh tụ nam, bác học nam, nghệ sĩ nam luôn luôn đông hơn nữ. Một lý do vô cùng đơn giản là vì người nam không bị gián đoạn bởi quá trình thai sản.
Thời gian mang thai và chăm sóc trẻ con đã làm gián đoạn sự nghiệp của người nữ, khiến cho họ không thể nào thành công như người nam.
Nhiều công trình đang thực hiện phải dang dở.
Nhiều khóa học phải bỏ ngang. người nữ đã khiêm tốn nhận lấy trách nhiệm nuôi dạy con để cho người nam được liên tục trong quá trình tạo nên sự nghiệp. Sự thành công của người nam chính là phần nổi của tảng băng rất dễ trông thấy, trong khi phần chìm ở dưới là công lao của người nữ.
Chính Đức Phật , giữa một xã hội Ấn Độ trọng nam khinh nữ, cũng nói rằng:
“Có nhiều người nữ còn tốt hơn người nam”.
Tuy nhiên, một số sai biệt căn bản sau đây vẫn là tiêu chuẩn thông thường giữa nam và nữ.
Nhưng ngoài cấu tạo sinh lý, những tiêu chuẩn khác không lấy gì làm cố định. Có những người nam mang nhiều tính chất của người nữ và ngược lại, cũng có những người nữ mang tính chất của người nam. Có những người nam yếu đuối, rụt rè, ích kỷ và cũng có những người nữ mạnh bạo, phô trương, rộng rãi.
Rất là dễ dàng để cho một người bị chuyển giới tính khi sinh sang một đời sống mới.
Nếu một người nam có tư tưởng khinh thường người nữ, có hành vi hạ thấp nhân phẩm phụ nữ. Kiếp sau, anh ta sẽ sinh làm người nữ trong một xã hội có truyền thống trọng nam khinh nữ để anh ta phải chịu đựng lại những đau khổ mà anh ta từng gây ra cho nữ giới.
Hoặc một chàng trai đa tình, suốt đời dẫm lên không biết bao nhiêu cuộc đời của phụ nữ, kiếp sau anh cũng sẽ làm được người nữ để chịu đựng sự bạc tình của người khác.
Ngay cả một người chồng tốt, chung thủy với vợ, nhưng đã làm cho vợ sinh đẻ quá nhiều. Kiếp sau anh cũng có thể trở lại làm người nữ để chịu đựng cái cảnh mang nặng đẻ đau đầy ý nghĩa.
Thông thường, một người nam chuyển thân làm nữ vẫn còn giữ lại nhiều tính chất của người nam như cứng rắn, dạn dĩ, xốc vác. Đôi khi họ tự cảm thấy bực bội vì thân thể nữ giới của mình.
Ngược lại, có những người nữ hăng hái làm việc từ thiện xã hội, xông xáo vào nơi nguy hiểm để cứu giúp nạn nhân, trong tâm thích được làm người nam để tiện làm việc thiện. Đời sau họ sẽ chuyển thân nam để tiện làm việc thiện, nhưng vẫn còn phảng phất một số tính chất của người nữ như dáng đi mềm mại, giọng nói trong thanh.
Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm dạy: "NẾU QUÊN MẤT TÂM BỒ ĐỀ MÀ TU CÁC PHÁP LÀNH, ĐÓ LÀ NGHIỆP MA." Giáo Pháp nào có Tâm Bồ Đề là giáo pháp chân chính của Phật Thích Ca Mâu Ni.
Phật cũng dạy rằng "Thời Mạt Pháp, người nữ đa số tinh tấn siêng năng, tiến cảnh vượt bậc, người nam đa số say đắm sắc dục, làm loạn giáo pháp..."
Âu cũng là Nhân Quả từ những suy nghĩ không đúng vậy!
Thiện Tai! Thiện Tai!
Vạn Vật Duy Tâm Tạo,
Mạt Pháp Cũng Do Người!
bài học khuyến dạy :
MẤT THẦN THÔNG VÌ KIÊU NGẠO
Lúc đang trú tại Chùa Tam Duyên một sáng nọ Ngài (Hòa Thượng Tuyên Hóa) bảo Quả Năng:
- Hôm nay sẽ có một đứa bé đến xin xuất gia, khi nó đến con hãy báo cho Thầy biết.
Đến trưa, Quả Năng hăm hở chạy vào phòng thở hổn hển thưa:
- Bạch Sư phụ, đứa bé mà Sư phụ nói hồi sáng đó, nó đến rồi.
Ngài bước ra ngoài thấy một đứa bé trai trạc mười một, mười hai tuổi khuôn mặt bướng bỉnh, áo quần lem luốc nhưng dáng người đoan chánh, tướng mạo giống như một vị Tỳ kheo.
Bé vừa thấy Ngài dường như đã gặp được người thân thuộc, vui mừng không thể cầm được nước mắt.Ngài cố ý hỏi thử:
- Con đến đây làm gì?
Với lòng tin vững chắc em trả lời:
- Con muốn xuất gia.
- Cái gì? Có phải con vì không có cơm ăn, áo mặc, nhà ở mà đến đây nương náu cửa chùa phải không?
- Dạ không phải! Bởi vì con có một chứng bệnh kỳ lạ lắm, làm con nằm ngồi gì cũng không yên, con thật rầu vì tự biết mình đã bị ma chướng.
- Làm sao con biết được?
- Lúc lên năm tuổi, con có thể chữa bịnh cho người khác được, nếu con bảo họ mau hết bịnh, thì họ sẽ mau hết bịnh ngay. Cách đây khoảng hơn một tháng trong ba ngày liên tiếp con đều mơ giống nhau, thấy một Ông Sư như vị này (bé chỉ tượng Ngài Phật Di Lặc). Ông Sư mập này bảo con rằng: Hãy đến chùa Tam Duyên cầu xuất gia với Pháp sư An Từ (tên khác của Hòa Thượng Tuyên Hóa) thì bịnh con sẽ hết. Con đã đi bộ hơn một ngàn ba trăm dặm trong ba tháng trường nay mới đến được đây. Trên đường đi đêm xuống con ngủ trên các cánh đồng hoang. Đêm nọ, có một bầy chó sói đến vây quanh con, con quát chúng rằng: Chúng bây muốn ăn “đạn” không? thì tự nhiên chúng nó bỏ đi ngay. Con thật sự chỉ muốn xuất gia nên tìm đến đây!
Khi ấy quân Nhật mới vừa đầu hàng, vùng Đông Bắc chưa có xe cộ lưu thông. Trên đường đi Quả Tá lượm được quả lựu đạn, nên đuổi được bầy sói. Đây là do chư Phật, Bồ Tát gia hộ cho em.
- Xuất gia không dễ đâu, làm việc mà người ta không thể làm, thọ những gì mà người khác không thể thọ. Tiện tay Ngài với lấy cái bánh bao đang cúng trên bàn Phật, nhai rồi nhả xuống đất mà nói: Nếu con có thể lượm bánh lên ăn thì mình sẽ tính sau.
Không chút nhờm gớm bé bốc bánh đó lên ăn liền tức khắc. Qua sự thử thách này, Ngài chánh thức nhận em làm tiểu Sa Di, pháp danh là Quả Tá. Sau khi xuất gia Qủa Tá không còn bệnh ma chướng nữa, chú nỗ lực dụng công tu hành, chưa đầy nửa năm đắc được thiên nhãn thông cùng tha tâm thông. Chú có thể biết được đời quá khứ và đọc được tư tưởng của người nên mọi người đều gọi chú là Tiểu Thần Thông.
Ngày nọ, có người hỏi chú:
- Chú có thần thông, vậy thầy chú có thần thông không?
Nghe hỏi thế chú kiêu ngạo trả lời:
- Tôi cũng không biết Thầy tôi có thần thông hay không nữa?
Ngay lúc ấy thần thông của chú bị biến mất hết. Bệnh ma chướng lúc xưa nay bỗng trở lại vì lời nói hồ đồ của chú. Ngài vì chú mà tận lực cầu xin chư Phật, Bồ Tát gia hộ nên bệnh ma chướng của chú từ từ tiêu mất. Ngài liền tưởng khởi bốn câu kệ:
Tu đạo như leo sào trăm trượng,
Khi xuống thì dễ, trèo lên khó,
Nếu năng vượt qua đầu ngọn sào,
Mười phương thế giới đều hiện tiền.
Vậy chúng ta sao không luôn cảnh giác?
Trích Từ Quyển Hòa Thượng Tuyên Hóa Cuộc Đời và Sự Nghiệp Hoằng Hóa
Chính Đức Phật , giữa một xã hội Ấn Độ trọng nam khinh nữ, cũng nói rằng:
“Có nhiều người nữ còn tốt hơn người nam”.
Tuy nhiên, một số sai biệt căn bản sau đây vẫn là tiêu chuẩn thông thường giữa nam và nữ.
- Một là sức khỏe. Tính trung bình sức khỏe của nam giới vượt hơn nữ giới. Vì thế, tiêu chuẩn thi đấu thể thao của nữ luôn luôn được đòi hỏi thấp hơn của nam.
- Hai là vóc dáng. Trung bình vóc dáng người nữ nhỏ nhắn hơn người nam. Nếu đi sâu vào phân tích giải phẫu cơ thể thì còn rất nhiều điểm khác biệt, bên cạnh hình thể, âm thanh người nữ cũng khác với người nam.
- Ba là tâm lý. Tính chất đặc trưng của người nữ là kín đáo, rụt rè, kiên nhẫn, dễ xúc động, đa cảm, nhẹ về lý trí, trực giác mạnh. Đôi khi người ta còn gán cho người nữ tính ích kỷ, hẹp hòi.
- Bốn là sinh lý. Sinh lý giữa nữ và nam có rất nhiều sai biệt để mỗi bên có thể thực hiện chức năng của mình. Các nội tiết tố, các thời kỳ hành kinh, cấu tạo não, tổ chức sinh dục... làm phân biệt rõ nét hai giới tính.
Nhưng ngoài cấu tạo sinh lý, những tiêu chuẩn khác không lấy gì làm cố định. Có những người nam mang nhiều tính chất của người nữ và ngược lại, cũng có những người nữ mang tính chất của người nam. Có những người nam yếu đuối, rụt rè, ích kỷ và cũng có những người nữ mạnh bạo, phô trương, rộng rãi.
Rất là dễ dàng để cho một người bị chuyển giới tính khi sinh sang một đời sống mới.
Nếu một người nam có tư tưởng khinh thường người nữ, có hành vi hạ thấp nhân phẩm phụ nữ. Kiếp sau, anh ta sẽ sinh làm người nữ trong một xã hội có truyền thống trọng nam khinh nữ để anh ta phải chịu đựng lại những đau khổ mà anh ta từng gây ra cho nữ giới.
Hoặc một chàng trai đa tình, suốt đời dẫm lên không biết bao nhiêu cuộc đời của phụ nữ, kiếp sau anh cũng sẽ làm được người nữ để chịu đựng sự bạc tình của người khác.
Ngay cả một người chồng tốt, chung thủy với vợ, nhưng đã làm cho vợ sinh đẻ quá nhiều. Kiếp sau anh cũng có thể trở lại làm người nữ để chịu đựng cái cảnh mang nặng đẻ đau đầy ý nghĩa.
Thông thường, một người nam chuyển thân làm nữ vẫn còn giữ lại nhiều tính chất của người nam như cứng rắn, dạn dĩ, xốc vác. Đôi khi họ tự cảm thấy bực bội vì thân thể nữ giới của mình.
Ngược lại, có những người nữ hăng hái làm việc từ thiện xã hội, xông xáo vào nơi nguy hiểm để cứu giúp nạn nhân, trong tâm thích được làm người nam để tiện làm việc thiện. Đời sau họ sẽ chuyển thân nam để tiện làm việc thiện, nhưng vẫn còn phảng phất một số tính chất của người nữ như dáng đi mềm mại, giọng nói trong thanh.
Có một số người chuyển giới tính ngay trong kiếp hiện tại. Đang là người nam, bỗng nhiên họ dần dần xuất hiện tính chất của người nữ như đổi giọng nói, ngực và mông to ra, vai và eo nhỏ lại. Hoặc một số người không bị biến dạng về hình thể nhưng luôn luôn mang một ý nghĩ mạnh mẽ rằng mình là người nữ, và đem lòng thương yêu những người nam (hiện tượng pédé).
Sự chuyển đổi giới tính này đều có nguyên nhân từ quá khứ. Hoặc là họ đã đủ duyên để làm nữ, khiến cho nghiệp thúc đẩy tâm lý, sinh lý (tuyến nội tiết) hoặc phẫu thuật đưa họ sang nữ giới ngay trong hiện tại. Hoặc sự trêu chọc kẻ á nam á nữ cũng tạo thành quả báo lưỡng tính không rõ rệt nơi một người.
Bình thường thì người nữ nhiều tình cảm hơn người nam, do đó, dường như người mẹ thương con nhiều hơn người cha. Tình thương của người mẹ là một hình ảnh đẹp đẽ muôn đời được loài người ca ngợi. Chính tình thương con sâu đậm của người mẹ làm cho người mẹ được phước rất nhiều mà đôi khi người cha không bằng được. Đó là nói trong phạm vi gia đình. Nhưng khi bước sang lãnh vực xã hội, người nam với tính chất hào phóng, gan dạ, xông xáo... đã chiếm ưu thế, đã đóng góp được nhiều công sức hơn người nữ, và do vậy, phước cũng nhiều hơn.
Trong Kinh Công Đức Tạo Tượng Phật có dạy như sau:
- Nếu người nữ nào hay tạo tượng Phật, thì hẳn không thọ lại thân phụ nữ. Giả như thọ thân, thì đó là bậc nữ lưu tôn quý đệ nhứt hơn hết. Nhưng các người nữ có năm thứ đức, những gì người nữ tạo tượng sẽ được, hơn cả nữ giới. Năm đức là gì?
Một là: Sanh nở con cái.
Hai là: Giòng dõi tôn quý.
Ba là: Bẩm tánh trinh lương.
Bốn là: Thể chất tướng mạo đẹp đẽ cả hai.
Năm là: Dáng vẻ mỹ mãn.
- Di Lặc! Tất cả người nữ có tám nhân duyên cho nên hằng chịu thân nữ nhiều đời. Thế nào là tám?
Một là: Yêu dấu thân nữ.
Hai là: Ham đắm dục lạc của người phụ nữ.
Ba là: Miệng thường khen ngợi dung chất nữ nhơn.
Bốn là: Lòng không ngay thẳng, che dấu việc làm.
Năm là: Chán nản chồng mình.
Sáu là: Cõi lòng nặng trĩu nhớ đến người khác.
Bảy là: Biết người có ơn nhưng mình bội nghịch.
Tám là: Trang sức tà ngụy muốn người mê luyến.
Nếu hay dứt hẳn tám điều như thế, tạo hình tượng Phật, mãi đến thành Phật, thường làm đàn ông. Chịu thân nữ nữa là điều vô lý.
- Di Lặc! Có bốn thứ nhân duyên, khiến những người nam chịu thân nữ nhơn. Thế nào là bốn?[55]
Một là: Dùng tiếng người nữ khinh cười gọi Phật, chư vị Bồ Tát, các vị Thánh nhơn.
Hai là: Với người giữ giới, đem lòng chê bai, nói rằng phạm giới.
Ba là: Ưa đi nịnh hót dối gạt người khác.
Bốn là: Thấy ai hơn mình tâm sanh ganh ghét.
Nếu đàn ông nào làm bốn việc trên, sau khi chết rồi ắt chịu thân nữ, lại phải trải qua vô lượng nỗi khổ trong các ngã ác. Nếu phát lòng tin sâu dày sám hối việc làm lúc trước và tạo tượng Phật, các tội như trên đều bị tiêu diệt, rốt ráo chẳng còn chịu thân người nữ.
- Di Lặc! Có bốn thứ nhân duyên, khiến những người nam chịu thân huỳnh môn[56]. Những gì là bốn?
Một là: Tàn hại hình dáng người và súc sanh.
Hai là: Đối với Sa môn gìn giữ tịnh giới mà nổi sân hận chế giễu chê bai.
Ba là: Tình nhiều tham dục, cố tâm phạm giới.
Bốn là: Gần người phạm giới, lại khuyên người phạm.
Nếu người nam nào trước làm điều này, sau khởi lòng tin tạo hình tượng Phật, mãi đến thành Phật chẳng chịu báo đó, thường làm đàn ông các căn đầy đủ.
Di Lặc! Có bốn thứ nghiệp hay khiến đàn ông chịu thân hai hình[57], thấp hèn nhứt trong tất cả mọi người. Những gì là bốn?
Một là: Loạn dâm nhơ nhớp ở chốn tôn nghiêm.
Hai là: Với thân người nam mà đắm nhiễm bậy.
Ba là: Chính tự nơi mình làm việc dâm dục.
Bốn là: Mua bán nữ sắc cho những người khác.
Nếu chúng sanh nào làm các việc ấy, rất tự trách lỗi, hối chỗ phạm trước, khởi lòng tịnh tín tạo tượng Phật, mãi đến thành Phật, chẳng chịu thân ấy.
Di Lặc! Lại có bốn duyên khiến những người nam, tâm họ thường sanh ái dục của nữ[58], thích người với mình làm chuyện đàn ông. Thế nào là bốn?
Một là: Hoặc ngờ, hoặc giỡn báng bổ người khác.
Hai là: Ưa lối phục sức trang điểm của nữ.
Ba là: Làm chuyên dâm nhơ với người nữ bà con.
Bốn là: Thật không đức tốt, vọng nhận người lạy.
Do nhân duyên này khiến những đàn ông khởi những phiền não khác biệt như thế. Nếu như ăn năn những lỗi đã phạm, chẳng tạo lỗi mới, tâm sanh tin ưa tạo hình tượng Phật, tội kia đã diệt tâm nọ cũng dứt.
[55] Sau khi nói căn nguyên người nữ, do ái nhiễm nặng nên hằng chịu thân nữ. Tiếp đến Đức Phật dạy về căn nguyên người nam, do tạo bốn nghiệp sau chịu thân nữ. Kinh Báo Phụ Mẫu Trọng Ân dạy: “Đời trước thường hay lui tới tự viện cúng dường Tam Bảo, hộ trì Tăng chúng, cho nên được thân nam tử.”. Đời nay nếu dùng giọng nữ réo gọi Thánh nhơn, chê người khác, nhỏ mọn ganh ghét người giỏi hơn mình... Tạo bốn nghiệp trên sau mất thân nam, phải chịu thân nữ. Văn trên nói đến “các vị Thánh nhơn” Thánh nhơn ở đây chỉ cho các bực Tu Đà Hoàn hướng, Tu Đà Hoàn quả, Nhứt Lai hướng, Nhứt Lai quả, Bất Hoàn hướng, Bất Hoàn quả, A La Hán hướng, A La Hán.
[56] Huỳnh môn: Tiếng Phạn gọi là Bát tra a tỳ đàm. Trung Hoa dịch là “người khuyết căn.” Trong luật có ghi năm loại huỳnh môn. 1. Sanh huỳnh môn: Từ khi sanh ra, tướng thì con trai, nhưng khuyết nam căn. 2. Huỳnh tàn huỳnh môn: Do vợ lớn vợ nhỏ ghen tương cắt bỏ khi tuổi còn ấu thơ. 3. Cát khước huỳnh môn: Do vua, quan, thâu người vào cung cấm, cắt bỏ để phòng bị thê thiếp cung nhơn. 4. Đố huỳnh môn: Do thấy người khác hành dục, khi đó thân căn sanh khởi. 5. Bán nguyệt huỳnh môn: Nửa tháng như người nam, nửa tháng không phải nam.
[57] Thân hai hình: Khi thì đàn ông khi thì đàn bà. Nghĩa là khi xúc chạm người nam, dục tướng dấy khởi, bỗng nhiên biến thành người nữ. Khi thân cận người nữ, dục tướng dấy khởi, bỗng thành thân nam. Trước đây, khi nghe nói và xem trong kinh nói đến điều này, chúng tôi rất phân vân chưa rõ hư thực thế nào. Về sau có người thuật lại cùng chúng tôi rằng “thân hai hình” lại có thật. Chừng đó chúng tôi mới tin chắc điều này. Đời trước tạo nhân nào, đời sau chịu quả ấy. Đức Phật là đấng Nhứt Thiết Trí biết suốt ngắn mé nghiệp tánh của chúng sanh. Điều Ngài nói ra không bao giờ sai lầm. Được nghe những lời Phật dạy, chúng ta hãy tránh tạo những cái nhân thấp kém như trên, để vị lai khỏi chuốc lấy quả báo thấp hèn như kinh đã dạy.
[58] “Tâm họ thường sanh ái dục của nữ”: Sự ái dục giữa nam nữ là một định luật vốn có tự ngàn xưa, không mấy ai tránh khỏi. Tuy vậy trong đạo phu thê phải có tiết độ chừng mực, vừa để bảo tồn thọ mạng, vừa bảo vệ hạnh phúc ở đời. Người nam nếu dâm dục thường xuyên, sau khi chết sẽ đọa địa ngục giường sắt cột đồng. Tự thấy mình nằm trên giường sắt, có những trụ đồng, gương soi biến thành chó cắn xé, thiêu đốt tội nhơn, tội nhơn chịu những thống khổ như thế trải qua nhiều kiếp. Những hành tướng này đều từ bốn đại, năm uẩn và tang thức biến hiện, không phải thật. Trời đặt để địa ngục như thế. Đạo lý của Phật thuyết minh vạn pháp duy tâm là vậy.
Sự chuyển đổi giới tính này đều có nguyên nhân từ quá khứ. Hoặc là họ đã đủ duyên để làm nữ, khiến cho nghiệp thúc đẩy tâm lý, sinh lý (tuyến nội tiết) hoặc phẫu thuật đưa họ sang nữ giới ngay trong hiện tại. Hoặc sự trêu chọc kẻ á nam á nữ cũng tạo thành quả báo lưỡng tính không rõ rệt nơi một người.
Bình thường thì người nữ nhiều tình cảm hơn người nam, do đó, dường như người mẹ thương con nhiều hơn người cha. Tình thương của người mẹ là một hình ảnh đẹp đẽ muôn đời được loài người ca ngợi. Chính tình thương con sâu đậm của người mẹ làm cho người mẹ được phước rất nhiều mà đôi khi người cha không bằng được. Đó là nói trong phạm vi gia đình. Nhưng khi bước sang lãnh vực xã hội, người nam với tính chất hào phóng, gan dạ, xông xáo... đã chiếm ưu thế, đã đóng góp được nhiều công sức hơn người nữ, và do vậy, phước cũng nhiều hơn.
Trong Kinh Công Đức Tạo Tượng Phật có dạy như sau:
- Nếu người nữ nào hay tạo tượng Phật, thì hẳn không thọ lại thân phụ nữ. Giả như thọ thân, thì đó là bậc nữ lưu tôn quý đệ nhứt hơn hết. Nhưng các người nữ có năm thứ đức, những gì người nữ tạo tượng sẽ được, hơn cả nữ giới. Năm đức là gì?
Một là: Sanh nở con cái.
Hai là: Giòng dõi tôn quý.
Ba là: Bẩm tánh trinh lương.
Bốn là: Thể chất tướng mạo đẹp đẽ cả hai.
Năm là: Dáng vẻ mỹ mãn.
- Di Lặc! Tất cả người nữ có tám nhân duyên cho nên hằng chịu thân nữ nhiều đời. Thế nào là tám?
Một là: Yêu dấu thân nữ.
Hai là: Ham đắm dục lạc của người phụ nữ.
Ba là: Miệng thường khen ngợi dung chất nữ nhơn.
Bốn là: Lòng không ngay thẳng, che dấu việc làm.
Năm là: Chán nản chồng mình.
Sáu là: Cõi lòng nặng trĩu nhớ đến người khác.
Bảy là: Biết người có ơn nhưng mình bội nghịch.
Tám là: Trang sức tà ngụy muốn người mê luyến.
Nếu hay dứt hẳn tám điều như thế, tạo hình tượng Phật, mãi đến thành Phật, thường làm đàn ông. Chịu thân nữ nữa là điều vô lý.
- Di Lặc! Có bốn thứ nhân duyên, khiến những người nam chịu thân nữ nhơn. Thế nào là bốn?[55]
Một là: Dùng tiếng người nữ khinh cười gọi Phật, chư vị Bồ Tát, các vị Thánh nhơn.
Hai là: Với người giữ giới, đem lòng chê bai, nói rằng phạm giới.
Ba là: Ưa đi nịnh hót dối gạt người khác.
Bốn là: Thấy ai hơn mình tâm sanh ganh ghét.
Nếu đàn ông nào làm bốn việc trên, sau khi chết rồi ắt chịu thân nữ, lại phải trải qua vô lượng nỗi khổ trong các ngã ác. Nếu phát lòng tin sâu dày sám hối việc làm lúc trước và tạo tượng Phật, các tội như trên đều bị tiêu diệt, rốt ráo chẳng còn chịu thân người nữ.
- Di Lặc! Có bốn thứ nhân duyên, khiến những người nam chịu thân huỳnh môn[56]. Những gì là bốn?
Một là: Tàn hại hình dáng người và súc sanh.
Hai là: Đối với Sa môn gìn giữ tịnh giới mà nổi sân hận chế giễu chê bai.
Ba là: Tình nhiều tham dục, cố tâm phạm giới.
Bốn là: Gần người phạm giới, lại khuyên người phạm.
Nếu người nam nào trước làm điều này, sau khởi lòng tin tạo hình tượng Phật, mãi đến thành Phật chẳng chịu báo đó, thường làm đàn ông các căn đầy đủ.
Di Lặc! Có bốn thứ nghiệp hay khiến đàn ông chịu thân hai hình[57], thấp hèn nhứt trong tất cả mọi người. Những gì là bốn?
Một là: Loạn dâm nhơ nhớp ở chốn tôn nghiêm.
Hai là: Với thân người nam mà đắm nhiễm bậy.
Ba là: Chính tự nơi mình làm việc dâm dục.
Bốn là: Mua bán nữ sắc cho những người khác.
Nếu chúng sanh nào làm các việc ấy, rất tự trách lỗi, hối chỗ phạm trước, khởi lòng tịnh tín tạo tượng Phật, mãi đến thành Phật, chẳng chịu thân ấy.
Di Lặc! Lại có bốn duyên khiến những người nam, tâm họ thường sanh ái dục của nữ[58], thích người với mình làm chuyện đàn ông. Thế nào là bốn?
Một là: Hoặc ngờ, hoặc giỡn báng bổ người khác.
Hai là: Ưa lối phục sức trang điểm của nữ.
Ba là: Làm chuyên dâm nhơ với người nữ bà con.
Bốn là: Thật không đức tốt, vọng nhận người lạy.
Do nhân duyên này khiến những đàn ông khởi những phiền não khác biệt như thế. Nếu như ăn năn những lỗi đã phạm, chẳng tạo lỗi mới, tâm sanh tin ưa tạo hình tượng Phật, tội kia đã diệt tâm nọ cũng dứt.
[55] Sau khi nói căn nguyên người nữ, do ái nhiễm nặng nên hằng chịu thân nữ. Tiếp đến Đức Phật dạy về căn nguyên người nam, do tạo bốn nghiệp sau chịu thân nữ. Kinh Báo Phụ Mẫu Trọng Ân dạy: “Đời trước thường hay lui tới tự viện cúng dường Tam Bảo, hộ trì Tăng chúng, cho nên được thân nam tử.”. Đời nay nếu dùng giọng nữ réo gọi Thánh nhơn, chê người khác, nhỏ mọn ganh ghét người giỏi hơn mình... Tạo bốn nghiệp trên sau mất thân nam, phải chịu thân nữ. Văn trên nói đến “các vị Thánh nhơn” Thánh nhơn ở đây chỉ cho các bực Tu Đà Hoàn hướng, Tu Đà Hoàn quả, Nhứt Lai hướng, Nhứt Lai quả, Bất Hoàn hướng, Bất Hoàn quả, A La Hán hướng, A La Hán.
[56] Huỳnh môn: Tiếng Phạn gọi là Bát tra a tỳ đàm. Trung Hoa dịch là “người khuyết căn.” Trong luật có ghi năm loại huỳnh môn. 1. Sanh huỳnh môn: Từ khi sanh ra, tướng thì con trai, nhưng khuyết nam căn. 2. Huỳnh tàn huỳnh môn: Do vợ lớn vợ nhỏ ghen tương cắt bỏ khi tuổi còn ấu thơ. 3. Cát khước huỳnh môn: Do vua, quan, thâu người vào cung cấm, cắt bỏ để phòng bị thê thiếp cung nhơn. 4. Đố huỳnh môn: Do thấy người khác hành dục, khi đó thân căn sanh khởi. 5. Bán nguyệt huỳnh môn: Nửa tháng như người nam, nửa tháng không phải nam.
[57] Thân hai hình: Khi thì đàn ông khi thì đàn bà. Nghĩa là khi xúc chạm người nam, dục tướng dấy khởi, bỗng nhiên biến thành người nữ. Khi thân cận người nữ, dục tướng dấy khởi, bỗng thành thân nam. Trước đây, khi nghe nói và xem trong kinh nói đến điều này, chúng tôi rất phân vân chưa rõ hư thực thế nào. Về sau có người thuật lại cùng chúng tôi rằng “thân hai hình” lại có thật. Chừng đó chúng tôi mới tin chắc điều này. Đời trước tạo nhân nào, đời sau chịu quả ấy. Đức Phật là đấng Nhứt Thiết Trí biết suốt ngắn mé nghiệp tánh của chúng sanh. Điều Ngài nói ra không bao giờ sai lầm. Được nghe những lời Phật dạy, chúng ta hãy tránh tạo những cái nhân thấp kém như trên, để vị lai khỏi chuốc lấy quả báo thấp hèn như kinh đã dạy.
[58] “Tâm họ thường sanh ái dục của nữ”: Sự ái dục giữa nam nữ là một định luật vốn có tự ngàn xưa, không mấy ai tránh khỏi. Tuy vậy trong đạo phu thê phải có tiết độ chừng mực, vừa để bảo tồn thọ mạng, vừa bảo vệ hạnh phúc ở đời. Người nam nếu dâm dục thường xuyên, sau khi chết sẽ đọa địa ngục giường sắt cột đồng. Tự thấy mình nằm trên giường sắt, có những trụ đồng, gương soi biến thành chó cắn xé, thiêu đốt tội nhơn, tội nhơn chịu những thống khổ như thế trải qua nhiều kiếp. Những hành tướng này đều từ bốn đại, năm uẩn và tang thức biến hiện, không phải thật. Trời đặt để địa ngục như thế. Đạo lý của Phật thuyết minh vạn pháp duy tâm là vậy.
Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm dạy: "NẾU QUÊN MẤT TÂM BỒ ĐỀ MÀ TU CÁC PHÁP LÀNH, ĐÓ LÀ NGHIỆP MA." Giáo Pháp nào có Tâm Bồ Đề là giáo pháp chân chính của Phật Thích Ca Mâu Ni.
Phật cũng dạy rằng "Thời Mạt Pháp, người nữ đa số tinh tấn siêng năng, tiến cảnh vượt bậc, người nam đa số say đắm sắc dục, làm loạn giáo pháp..."
Âu cũng là Nhân Quả từ những suy nghĩ không đúng vậy!
Thiện Tai! Thiện Tai!
Vạn Vật Duy Tâm Tạo,
Mạt Pháp Cũng Do Người!
bài học khuyến dạy :
MẤT THẦN THÔNG VÌ KIÊU NGẠO
Lúc đang trú tại Chùa Tam Duyên một sáng nọ Ngài (Hòa Thượng Tuyên Hóa) bảo Quả Năng:
- Hôm nay sẽ có một đứa bé đến xin xuất gia, khi nó đến con hãy báo cho Thầy biết.
Đến trưa, Quả Năng hăm hở chạy vào phòng thở hổn hển thưa:
- Bạch Sư phụ, đứa bé mà Sư phụ nói hồi sáng đó, nó đến rồi.
Ngài bước ra ngoài thấy một đứa bé trai trạc mười một, mười hai tuổi khuôn mặt bướng bỉnh, áo quần lem luốc nhưng dáng người đoan chánh, tướng mạo giống như một vị Tỳ kheo.
Bé vừa thấy Ngài dường như đã gặp được người thân thuộc, vui mừng không thể cầm được nước mắt.Ngài cố ý hỏi thử:
- Con đến đây làm gì?
Với lòng tin vững chắc em trả lời:
- Con muốn xuất gia.
- Cái gì? Có phải con vì không có cơm ăn, áo mặc, nhà ở mà đến đây nương náu cửa chùa phải không?
- Dạ không phải! Bởi vì con có một chứng bệnh kỳ lạ lắm, làm con nằm ngồi gì cũng không yên, con thật rầu vì tự biết mình đã bị ma chướng.
- Làm sao con biết được?
- Lúc lên năm tuổi, con có thể chữa bịnh cho người khác được, nếu con bảo họ mau hết bịnh, thì họ sẽ mau hết bịnh ngay. Cách đây khoảng hơn một tháng trong ba ngày liên tiếp con đều mơ giống nhau, thấy một Ông Sư như vị này (bé chỉ tượng Ngài Phật Di Lặc). Ông Sư mập này bảo con rằng: Hãy đến chùa Tam Duyên cầu xuất gia với Pháp sư An Từ (tên khác của Hòa Thượng Tuyên Hóa) thì bịnh con sẽ hết. Con đã đi bộ hơn một ngàn ba trăm dặm trong ba tháng trường nay mới đến được đây. Trên đường đi đêm xuống con ngủ trên các cánh đồng hoang. Đêm nọ, có một bầy chó sói đến vây quanh con, con quát chúng rằng: Chúng bây muốn ăn “đạn” không? thì tự nhiên chúng nó bỏ đi ngay. Con thật sự chỉ muốn xuất gia nên tìm đến đây!
Khi ấy quân Nhật mới vừa đầu hàng, vùng Đông Bắc chưa có xe cộ lưu thông. Trên đường đi Quả Tá lượm được quả lựu đạn, nên đuổi được bầy sói. Đây là do chư Phật, Bồ Tát gia hộ cho em.
- Xuất gia không dễ đâu, làm việc mà người ta không thể làm, thọ những gì mà người khác không thể thọ. Tiện tay Ngài với lấy cái bánh bao đang cúng trên bàn Phật, nhai rồi nhả xuống đất mà nói: Nếu con có thể lượm bánh lên ăn thì mình sẽ tính sau.
Không chút nhờm gớm bé bốc bánh đó lên ăn liền tức khắc. Qua sự thử thách này, Ngài chánh thức nhận em làm tiểu Sa Di, pháp danh là Quả Tá. Sau khi xuất gia Qủa Tá không còn bệnh ma chướng nữa, chú nỗ lực dụng công tu hành, chưa đầy nửa năm đắc được thiên nhãn thông cùng tha tâm thông. Chú có thể biết được đời quá khứ và đọc được tư tưởng của người nên mọi người đều gọi chú là Tiểu Thần Thông.
Ngày nọ, có người hỏi chú:
- Chú có thần thông, vậy thầy chú có thần thông không?
Nghe hỏi thế chú kiêu ngạo trả lời:
- Tôi cũng không biết Thầy tôi có thần thông hay không nữa?
Ngay lúc ấy thần thông của chú bị biến mất hết. Bệnh ma chướng lúc xưa nay bỗng trở lại vì lời nói hồ đồ của chú. Ngài vì chú mà tận lực cầu xin chư Phật, Bồ Tát gia hộ nên bệnh ma chướng của chú từ từ tiêu mất. Ngài liền tưởng khởi bốn câu kệ:
Tu đạo như leo sào trăm trượng,
Khi xuống thì dễ, trèo lên khó,
Nếu năng vượt qua đầu ngọn sào,
Mười phương thế giới đều hiện tiền.
Vậy chúng ta sao không luôn cảnh giác?
Trích Từ Quyển Hòa Thượng Tuyên Hóa Cuộc Đời và Sự Nghiệp Hoằng Hóa
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét