Thứ Năm, 29 tháng 10, 2020

CỬU THIÊN HUYỀN NỮ độ chúng sanh

Cửu Thiên Huyền Nữ (Thánh vía mùng 9/9) - Tết Hoa Cúc Cửu Trùng Cửu

Cửu Trùng Thiên Chốn Tiên Cảnh Mẫu Ngự

Cung Trời Phật Mẫu Ngự












 

Điện Rồng Phật Mẫu

 







Tượng Cửu Thiên Huyền Nữ thờ

 



















Thứ Ba, 27 tháng 10, 2020

Phật Giảng Chân Tâm




🌼Đây là toàn bài chú lăng nghiêm tiếng phạn:
https://www.youtube.com/watch?v=e6qQKGjpA3o


🌼Đây là toàn bài chú lăng nghiêm tiếng VIỆT - THẦY TỤNG:
https://www.youtube.com/watch?v=gfWoojL-vm4


🌼Đây là toàn bài chú lăng nghiêm tiếng VIỆT (PHẬT TỬ MAI ĐỨC CHÍNH TỤNG tại gia) :
https://www.youtube.com/watch?v=5s7KGiKKUNs


🌼Đây là bài Tâm chú lăng nghiêm tiếng VIỆT (PHẬT TỬ MAI ĐỨC CHÍNH TỤNG tại gia) :
https://www.youtube.com/watch?v=nuyC5y0UQlg


🌼Đây là bài Tâm chú lăng nghiêm tiếng VIỆT (PHẬT TỬ MAI ĐỨC CHÍNH TỤNG tại gia) :
https://www.youtube.com/watch?v=vZXKFWNiZXo&t=1s


🌼Đây là bài Tâm chú lăng nghiêm tiếng VIỆT (PHẬT TỬ MAI ĐỨC CHÍNH TỤNG tại gia) :
https://www.youtube.com/watch?v=iqMFvZk3aDY


🌸NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT.


Phật Giảng Chân Tâm

KINH THỦ LĂNG NGHIÊM

Thích Duy Lực


--------------------------------------------------------------------------------

QUYỂN MỘT

Tôi nghe như vầy: Lúc bấy giờ tại tịnh xá Kỳ Hoàn thành Thất La Phiệt, Đức Phật và chúng Đại Tỳ Kheo một ngàn hai trăm năm mươi vị, đều là Đại A La Hán, đã ra khỏi luân hồi, đầy đủ oai nghi, giúp Phật hoằng pháp nơi các quốc độ, trì giới thanh tịnh, làm mô phạm cho tam giới, ứng hiện vô số thân, hóa độ chúng sanh đến cùng tột vị lai ra khỏi trần lao. Hàng đệ tử được phó chúc trụ trì Phật pháp gồm có: Đại Trí Xá lợi Phất, Ma Ha Mục Kiền Liên, Ma Ha Câu Si La, Phú Lâu Na Di Đa La Ni Tử, Tu Bồ Đề, Ưu Ba Ni Sa Đà v.v... là bậc thượng thủ, và có vô số Bích Chi với môn đồ đồng đến nơi Phật cùng các Tỳ Kheo mãn hạ tự tứ. Khi ấy, mười phương Bồ Tát tuân theo lời Phật sẽ cầu Mật nghĩa, hỏi đạo để quyết nghị.

Bấy giờ, Như Lai trải tòa ngồi yên vì đại chúng trong Hội khai thị pháp chưa từng có, nghĩa lý thâm sâu, diệu âm thuyết pháp vang khắp mười phương thế giới, hằng sa Bồ Tát đều đến tụ hợp, trong đó Văn Thù Sư Lợi là bậc Thượng thủ.

Khi ấy, vua Ba Tư Nặc nhân ngày giỗ của phụ vương làm lễ trai tăng, sắm đủ các món ăn quý báu, đích thân đến thỉnh Phật và chư Đại Bồ Tát vào cung thọ trai. Trong thành còn có nhiều trưởng giả, cư sĩ khác cũng cùng ngày thiết lễ trai tăng, thỉnh Phật đến thọ cúng dường. Phật sai Văn Thù dẫn đầu chư Bồ Tát và A La Hán, chia thành nhiều nhóm, ứng lời mời đến thọ trai nơi các trai chủ. Chỉ có A Nan được vị khác mời riêng, đi xa chưa về, không kịp cùng dự với tăng chúng.

Lúc ấy, trên đường trở về, một mình A Nan chẳng có thượng tọa và A Xà Lê cùng đi, ngày đó lại không ai mời đi cúng dường, trong tâm mong cầu gặp được vị trai chủ sau cùng. Trước kia, A Nan đã từng nghe Phật quở Tu Bồ Đề và Đại Ca Diếp, là bậc A La Hán, mà người chuyên chọn khất thực nhà giàu, người chuyên chọn khất thực nhà nghèo, tâm chẳng bình đẳng, quyết tuân theo pháp bình đẳng bất nhị của Như Lai, để tránh mọi sự chê bai và nghi hoặc, trong tâm cho rằng: Đối với trai chủ, chẳng kể quý tộc hay hèn hạ, thức ăn dơ sạch, phát tâm từ bi để thành tựu cho tất cả chúng sanh đều được gieo trồng vô lượng công đức. Vừa nghĩ như vậy, tay ôm bình bát, đi từng nhà dọc theo đường phố, oai nghi nghiêm chỉnh, đúng pháp khất thực.

Lúc A Nan đang khất thực đi ngang nhà dâm, bị nàng huyễn thuật Ma Đăng Già dùng tà chú Phạm Thiên của ngoại đạo tóc vàng nhiếp vào nhà dâm, vuốt ve cám dỗ, sắp bị hoại giới thể.

Phật đã biết trước việc này, thọ trai xong, liền về, vua và đại thần, trưởng giả cư sĩ, đều đi theo Phật, xin nghe pháp yếu.

Bấy giờ, đảnh đầu Thế Tôn phóng ra hào quang bách bửu vô úy, trong hào quang nở ra bửu liên hoa ngàn cánh, trên đó có hóa thân Phật ngồi kiết già thuyết thần chú, sai Văn Thù đem chú đến cứu hộ, tà chú tiêu diệt, dắt A Nan và Ma Đăng Già về nơi Phật ở.

A Nan gặp Phật, đảnh lễ rơi lệ, hối hận xưa nay chỉ ham học rộng nghe nhiều, chưa tròn đạo lực, nay ân cần thỉnh hỏi Như Lai về phương tiện đầu tiên của ba thứ thiền quán: Sa Ma Tha (1), Tam Ma (2) và Thiền Na (3), mà mười phương Như Lai đã tu được thành chánh giác. Khi đó có hằng sa Bồ Tát và các bậc Đại A La Hán, Bích Chi Phật nơi mười phương đều xin cùng nghe, im lặng ngồi yên để lãnh thọ pháp yếu của Phật.

Khi ấy, Thế Tôn giơ tay dịu dàng rờ đầu A Nan, nói với A Nan và đại chúng:

- Có pháp Tam Ma Đề, gọi là Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm Vương, bao hàm vạn hạnh, là đường lối vi diệu trang nghiêm, cũng là pháp môn đưa đến giải thoát cuối cùng của mười phương Như Lai, nay ngươi hãy chú ý nghe.

A Nan đảnh lễ, kính vâng lời Phật dạy.

Phật bảo A Nan:

- Ngươi và ta là anh em, cùng một giống nòi, chẳng biết lúc mới phát tâm, ở nơi pháp ta, ngươi thấy tướng thù thắng gì liền xả ân ái sâu nặng của thế gian?

A Nan bạch Phật:

- Con thấy ba mươi hai tướng thù thắng tuyệt diệu của Như Lai, hình thể trong sáng như lưu ly, thường tự nghĩ tướng này chẳng phải do dục ái sanh ra. Tại sao? Vì dục ái ô nhiễm xấu xí, cấu kết tinh huyết nhơ bẩn chẳng thể sanh ra diệu tướng quang minh, thanh tịnh thù thắng như thế, do đó nên khâm mộ theo Phật xuất gia.

Phật nói:

- Lành thay! A Nan, các ngươi nên biết, tất cả chúng sanh từ vô thỉ đến nay, sanh tử liên tục, chỉ vì chẳng biết chơn tâm thường trụ, thể tánh trong sạch sáng tỏ, lại nương theo vọng tưởng, vọng tưởng chẳng chơn nên có luân hồi. Mười phương chư Phật cùng một đạo lìa khỏi sanh tử đều do trực tâm, vì tâm hạnh và lời nói ngay thẳng, như thế từ đầu đến cuối, cho đến các ngôi bậc, ở khoảng giữa chẳng có các tướng quanh co.

- Nay ngươi muốn tham cứu vô thượng Bồ Đề, phát minh chơn tánh, hãy trực tâm mà trả lời câu hỏi của ta. A Nan, nay ta hỏi ngươi: lúc ngươi phát tâm duyên theo ba mươi hai tướng của Như Lai, lấy gì để thấy? Ai biết sự ham thích?

- Bạch Thế Tôn, dùng tâm và mắt của con thấy tướng thù thắng của Như Lai, sanh lòng ham thích nên phát tâm, nguyện xả bỏ sanh tử.

Phật bảo:

- Như ngươi vừa nói, sự ham thích do nơi tâm và mắt. Nếu chẳng biết tâm và mắt ở đâu thì chẳng thể hàng phục được trần lao; ví như đất nước có giặc, vua sai binh dẹp trừ, binh lính tất phải biết sào huyệt của giặc. Khiến ngươi bị luân chuyển ấy là lỗi tại tâm và mắt. Ta hỏi ngươi: Tâm và mắt của ngươi hiện đang ở đâu?
BẢY CHỖ GẠN HỎI TÌM TÂM

Phá chấp tâm ở trong thân

- Bạch Thế Tôn! Tất cả mười loại chúng sanh trên thế gian đều cho tâm thức ở trong thân. Nay con nhận được mắt con ở trên mặt con và tâm thức ở trong thân, như mắt Thanh Liên Hoa của Như Lai ở trên mặt Như Lai vậy.

Phật bảo:

- A Nan! Nay ngươi ngồi trong giảng đường của Như Lai, nhìn thấy rừng Kỳ Đà ở chỗ nào?

- Bạch Thế Tôn! Giảng đường rộng rãûi thanh tịnh này trong vườn Cấp Cô Độc, còn rừng Kỳ Đà thì ở ngoài giảng đường.

- A Nan! Bây giờ ngươi ở trong giảng đường trước tiên thấy gì?

- Bạch Thế Tôn! Con ở trong giảng đường trước thấy Như Lai, sau thấy đại chúng, rồi nhìn ra ngoài mới thấy rừng cây.

- A Nan! Ngươi thấy rừng cây, do nhân nào được thấy?

- Bạch Thế Tôn! Vì cửa sổ giảng đường mở trống nên con ở trong thấy suốt bên ngoài.

Phật bảo A Nan:

- Như ngươi vừa nói, thân ở trong giảng đường, nhờ cửa mở trống nên thấy rừng cây; mà có chúng sanh nào ở trong giảng đường chẳng thấy Như Lai, lại thấy rừng cây bên ngoài chăng?

- Bạch Thế Tôn! Ở trong giảng đường chẳng thấy Như Lai, lại thấy rừng cây bên ngoài thì chẳng đúng.

- A Nan! Ngươi cũng như vậy, linh tâm của ngươi tất cả sáng tỏ, nếu tâm sáng tỏ hiện tiền của ngươi thật ở trong thân thì trước tiên phải thấy rõ trong thân. Vậy có chúng sanh nào trước thấy trong thân rồi sau mới thấy vật bên ngoài chăng? Dẫu chẳng thấy được tim, gan, tỳ, vị, thì các chỗ: móng ra, tóc dài, gân chuyển cũng phải thấy chứ, sao lại chẳng thấy? Nếu trong thân còn chẳng thấy thì làm sao thấy vật bên ngoài? Cho nên ngươi nói "Cái tâm giác tri trụ ở trong thân" là chẳng đúng. (Tự tánh bất nhị, vốn chẳng có nghĩa đúng và chẳng đúng, chỉ vì trị bệnh chấp thật nên nói chẳng đúng).

Phá chấp tâm ở ngoài thân

A Nan cúi đầu bạch Phật:

- Con nghe lời dạy của Như Lai, ngộ được tâm con thật ở ngoài thân. Tại sao? Ví như đèn thắp trong phòng thì trước phải chiếu sáng trong phòng, rồi sau mới từ cửa rọi ra ngoài sân. Tất cả chúng sanh chẳng thấy trong thân, chỉ thấy ngoài thân, cũng như ngọn đèn ở ngoài phòng chẳng thể chiếu sáng trong phòng, nghĩa này rõ ràng, chẳng còn nghi ngờ, vậy so với nghĩa lý rốt ráo của Phật chẳng sai ư?

Phật bảo A Nan:

- Các Tỳ Kheo vừa theo ta khất thực trong thành rồi trở về rừng Kỳ Đà. Ta đã thọ trai xong, ngươi thử nghĩ, trong số Tỳ Kheo, chỉ một người ăn mà các vị khác được no chăng?

- Bạch Thế Tôn! Không ạ! Tại sao? Dù các Tỳ Kheo đều là bậc A La Hán, nhưng cơ thể chẳng đồng, đâu thể một người ăn mà khiến cả chúng đều no.

- A Nan! Nếu tâm giác tri của ngươi thật ở ngoài thân thì trong ngoài khác nhau, chẳng có liên quan, hễ tâm biết thì thân chẳng biết, thân biết thì tâm chẳng biết. Nay ta đưa tay cho ngươi xem, trong lúc mắt thấy, tâm ngươi biết được chăng?

- Bạch Thế Tôn! Vâng biết.

- A Nan! Nếu thân và tâm cùng biết một lượt thì sao lại nói tâm ở ngoài thân? Nên biết, ngươi nói "tâm giác tri trụ ở ngoài thân" là chẳng đúng.

Phá chấp tâm ẩn núp sau con mắt

- Bạch Thế Tôn! Như lời Phật dạy, chẳng thấy bên trong nên chẳng ở trong thân; thân tâm cùng biết một lượt chẳng thể rời nhau nên chẳng ở ngoài thân, nay con thiết nghĩ tâm ở một chỗ.

- Ở chỗ nào?

- Tâm giác tri này đã chẳng biết trong mà thấy bên ngoài, theo con nghĩ là nó ẩn núp sau con mắt. Ví như có người lấy chén lưu ly úp vào hai mắt (ngày nay có thể nói là đeo kính), tuy có vật úp ở ngoài mà chẳng ngại nhãn căn, tùy sự thấy liền phân biệt được. Tâm giác tri của con chẳng thấy bên trong vì ở nơi con mắt, thấy rõ ràng bên ngoài vì ẩn núp sau con mắt.

Phật bảo A Nan:

- Theo lời ngươi nói, tâm núp sau con mắt như con mắt núp sau chén lưu ly, vậy thì lúc thấy núi sông, mắt thấy chén lưu ly chăng?

- Bạch Thế Tôn! Thật thấy chén lưu ly.

- A Nan, con mắt núp sau chén lưu ly thì thấy được chén lưu ly; còn tâm núp sau con mắt sao chẳng thấy mắt? Dù cho là thấy mắt, mắt tức là cảnh, cảnh làm sao thấy cảnh? Nếu chẳng thấy mắt thì ngươi nói "Tâm giác tri ẩn núp sau con mắt" là chẳng đúng.

Phá chấp nhắm mắt thấy tối là thấy trong thân

- Bạch Thế Tôn! Nay con lại thiết nghĩ rằng, thân thể của chúng sanh, tạng phủ ở trong, khiếu huyệt (ngũû căn) ở ngoài, nơi tạng thì tối, nơi khiếu thì sáng. Nay con ở trước mặt Phật, mở mắt thấy sáng gọi là thấy bên ngoài, nhắm mắt thấy tối gọi là thấy trong thân, nghĩa này thế nào?

Phật bảo A Nan:

- Khi ngươi nhắm mắt thấy tối, cái cảnh tối ấy là đối với mắt hay chẳng đối với mắt?

- Nếu đối với mắt thì tối ở trước mắt, tức ở ngoài thân, sao nói ở trong thân? Giả sử cho tối là trong thân thì lúc trong phòng tối chẳng có ánh sáng, những gì trong phòng tối đều là tạng phủ của ngươi sao?

- Nếu chẳng đối với mắt thì làm sao được thấy? Nếu lìa sự thấy bên ngoài, thành lập sự thấy đối vào trong, khi nhắm mắt thấy tối gọi là thấy trong thân; vậy khi mở mắt thấy sáng sao chẳng thấy mặt?

- Lại, nếu chẳng thấy mặt thì cái nghĩa "con mắt đối vào trong" chẳng thể thành lập: nếu thấy mặt thì tâm giác tri và nhãn căn đều ở tại hư không, làm sao nói ở trong?

- Lại, nếu ở ngoài hư không thì chẳng phải thân ngươi, tức hiện nay Như Lai thấy mặt ngươi cũng là thân ngươi sao? Vậy mắt ngươi thấy biết thì thân ngươi chẳng biết. Nếu ngươi cho thân và mắt cùng biết một lượt, thì phải có hai cái biết, tức một thân ngươi phải thành hai Phật! Nên biết ngươi nói "thấy tối gọi là thấy trong thân" là chẳng đúng.

Phá chấp sự suy nghĩ là tâm

- Con đã từng nghe Phật khai thị chúng rằng: Tâm sanh nên các pháp sanh, pháp sanh nên các tâm sanh. Nay con suy nghĩ, chính cái suy nghĩ ấy là tâm của con; tùy sự suy nghĩ tâm liền có, cũng chẳng ở trong, ngoài và chính giữa.

- A Nan, ngươi nói pháp sanh nên các tâm sanh, tùy sự suy nghĩ tâm liền có. Tâm chẳng có tự thể thì chẳng thể suy nghĩ; nếu chẳng có tự thể mà suy nghĩ được thì vô căn phải thấy được vô trần, nghĩa này chẳng đúng.

Nếu có tự thể thì ngươi thử dùng tay tự búng thân mình xem, cái tâm biết của ngươi là từ trong thân ra hay từ bên ngoài ra? Nếu từ bên trong ra thì phải thấy trong thân; nếu từ bên ngoài ra thì trước tiên phải thấy mặt.

- Mắt chủ sự thấy, tâm chủ sự biết, tâm không phải như mắt, nói tâm thấy là chẳng đúng nghĩa.

Phật bảo A Nan:

- Nếu thấy là con mắt thì ngươi ở trong phòng, cửa biết thấy chăng? (phòng dụ cho thân, cửa dụ cho mắt). Như kẻ đã chết con mắt vẫn còn, lẽ ra phải thấy được vật; nếu thấy được vật thì sao gọi là chết?

- Lại, tâm hay biết của ngươi nếu thật có tự thể, là một thể hay nhiều thể? Nay nơi thân ngươi, tâm cùng khắp cơ thể hay chẳng cùng khắp?

- Nếu nói một thể, khi tay ngươi búng một chi, lẽ ra tứ chi đều biết, nếu đều biết thì chỗ búng chẳng có, nếu có chỗ búng thì chẳng phải một thể. Nếu như nhiều thể thì thành nhiều người, vậy thể nào là của ngươi?

- Nếu nói khắp cả cơ thể thì đồng như sự búng kể trên, nếu chẳng khắp thì khi ngươi rờ đầu và chân, đầu có biết chân phải không biết, nhưng hiện nay ngươi lại chẳng phải như vậy. Nên biết ngươi nói: "Tùy sự suy nghĩ tâm liền có" là chẳng đúng.

Phá chấp tâm ở chính giữa

- Bạch Thế Tôn! Khi Phật với Văn Thù và các Pháp Vương Tử luận về thật tướng, con cũng nghe Phật nói tâm chẳng ở trong cũng chẳng ở ngoài. Theo như con nghĩ, vì chẳng biết trong nên chẳng phải ở trong, thân tâm cùng biết một lượt nên chẳng phải ở ngoài, nay cùng biết một lượt mà chẳng thấy bên trong, tất phải ở giữa.

- Ngươi nói "ở giữa" thì cái chính giữa ấy phải rõ ràng, chẳng phải không chỗ. Theo ngươi suy xét, giữa ở chỗ nào? Ở nơi xứ (12 xứ, gồm cả lục căn, lục trần) hay ở nơi thân?

- Nếu ở nơi thân, nơi ngoài da thì chẳng phải là giữa; ở giữa thì đồng như ở trong. Nếu ở nơi xứ, là có thể nêu ra hay chẳng thể nêu ra? Nếu chẳng thể nêu ra thì đồng như không có; nếu có thể nêu ra lại chẳng định được chỗ nào. Tại sao? Ví như có người cắm cây nêu làm chính giữa, nhìn từ phương Đông thì cho cây nêu ở phương Tây, nhìn từ phương Nam thì cho cây nêu ở phương Bắc, cái thể giữa được nêu ra đã lẫn lộn thì tâm cũng thành rối loạn, chẳng rõ ở đâu.

A Nan thưa:

- Con nói "chính giữa" chẳng phải hai thứ này. Như Thế Tôn nói: Nhãn căn và sắc trần duyên nhau sanh ra nhãn thức. Nhãn căn phân biệt, sắc trần vô tri, thức sanh nơi giữa, tức là tâm vậy.

Phật bảo:

- Nếu tâm ngươi ở giữa căn trần, vậy tâm thể này gồm cả hai hay chẳng gồm? Nếu gồm cả hai thì vật và thể xen lộn, vật thì vô tri, thể thì có biết, thành hai thứ đối địch, lấy gì làm giữa? Nếu lìa biết (căn) và không biết (trần) thì chẳng có thể tánh, vậy lấy tướng nào làm chính giữa? Nên biết ngươi nói "Tâm ở chính giữa" là chẳng đúng.

Phá chấp "tất cả vô trước" là tâm

- Bạch Thế Tôn! Khi xưa con thấy Phật với bốn đại đệ tử (Mục Kiền Liên, Tu Bồ Đề, Phú Lâu Na và Xá Lợi Phất) cùng chuyển pháp luân, thường nói "cái tâm giác tri chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, cũng chẳng ở giữa, chẳng ở chỗ nào cả, tất cả vô trước gọi là tâm". Vậy con vô trước, được gọi là tâm chăng?

Phật bảo A Nan:

- Ngươi nói cái tâm giác tri chẳng ở chỗ nào cả, vậy như các loài bay trên hư không, ở dưới nước và trên bờ, gọi là tất cả vật tượng nơi thế gian mà ngươi vô trước đó, là có hay không? Không thì đồng như lông rùa sừng thỏ, nói gì vô trước? Nếu có sự vô trước thì chẳng thể gọi là không. Không tướng mới không, chẳng không thì có tướng, tâm đã chấp có tướng, thì còn nói gì vô trước? Nên biết, nói "Tất cả vô trước gọi là tâm giác tri" là chẳng đúng.

Bấy giờ, A Nan ở trong đại chúng từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch vai áo tay phải, quỳ gối chân phải, chắp tay cung kính bạch Phật:

- Con là em út của Như Lai, được Phật thương mến, nay dù xuất gia nhưng còn ỷ lại nơi lòng thương của Phật, chỉ ham học rộng nghe nhiều, chưa được vô lậu, chẳng uốn dẹp được tà chú, bị nhiếp vào nhà dâm, chỉ vì chẳng biết chỗ đến của Chơn Thật, kính mong Thế Tôn từ bi thương xót, khai thị cho chúng con đường lối tu thiền quán Sa Ma Tha, khiến kẻ Xiển đề xóa bỏ ác kiến.

Nói xong đảnh lễ, năm vóc gieo sát đất, cùng đại chúng khao khát kính nghe chỉ dạy.

Lúc ấy, Thế Tôn từ trên mặt phóng ra đủ thứ hào quang, sáng lạn như trăm ngàn mặt trời, chiếu khắp các thế giới Phật, khiến thành sáu thứ rung động, mười phương vô số quốc độ đồng thời hiện ra. Oai thần của Phật khiến các thế giới hợp thành một thế giới, tất cả chư Đại Bồ Tát trong thế giới đều an trụ nơi quốc độ của mình, chắp tay lắng nghe.

Phật bảo A Nan:

- Tất cả chúng sanh từ vô thỉ đến nay, đủ thứ điên đảo tạo thành giống nghiệp, kết tụ nghiệp nhân thành quả luân hồi. Những người tu hành chẳng được chứng quả vô thượng Bồ Đề, trở thành Thanh Văn, Duyên Giác hoặc thành cõi trời ngoại đạo, ma vương và quyến thuộc ma, đều do chẳng biết hai thứ căn bản, tu tập sai lầm, cũng như nấu cát mà muốn thành cơm, dẫu cho trải qua nhiều kiếp cũng chẳng đắc đạo.
- Thế nào là hai thứ căn bản?

- Một là căn bản của sanh tử từ vô thỉ, tức là nay nhận tâm phan duyên làm tự tánh của ngươi và chúng sanh;

- Hai là bản thể vốn thanh tịnh của Bồ Đề Niết Bàn từ vô thỉ, tức là cái bản thức (4) vốn sáng tỏ, hay sanh các duyên mà bị các duyên che khuất thành lạc mất của ngươi. Vì chúng sanh lạc mất bản thức sáng tỏ, dù hàng ngày sống trong bản thức mà chẳng tự biết, oan uổng vào lục đạo.

- A Nan, nay ngươi muốn biết đường tu thiền quán Sa Ma Tha, mong ra khỏi sanh tử, vậy ta hỏi ngươi.

Liền đó, Như Lai giơ cánh tay sắc vàng co năm ngón tay, bảo A Nan:

- Ngươi có thấy chăng?

A Nan đáp:

- Thấy.

Phật bảo:

- Ngươi thấy cái gì?

A Nan đáp:

- Con thấy Như Lai giơ tay, co ngón tay thành nắm tay sáng ngời, chói tâm và mắt con.

Phật bảo:

- Ngươi dùng cái gì để thấy?

- Con và đại chúng đều dùng mắt thấy.

Phật bảo A Nan:

- Theo lời ngươi đáp, Như Lai co ngón tay thành nắm tay sáng ngời, chói tâm mắt của ngươi, vậy lúc nắm tay ta chói rọi, mắt ngươi thấy được, lấy gì làm tâm?

A Nan đáp:

- Nay Như Lai gạn hỏi tâm ở chỗ nào, con dùng tư tưởng suy tìm, thì cái hay suy tìm ấy, con cho là tâm.

Phật bảo:

- Sai rồi, A Nan! Cái ấy chẳng phải tâm ngươi.

A Nan giựt mình đứng dậy, chắp tay bạch Phật rằng:

- Cái ấy chẳng phải tâm con thì gọi là cái gì?

Phật bảo A Nan:

- Ấy là tướng vọng tưởng của tiền trần, mê hoặc chơn tánh của ngươi. Do ngươi xưa nay nhận giặc làm con, lạc mất bản thức chơn thường, nên bị luân chuyển.
- Bạch Thế Tôn! Con là em cưng của Phật, vì mến Phật nên xuất gia. Tâm con chẳng những cúng dường Như Lai, mà còn muốn trải khắp hằng sa quốc độ, phụng sự chư Phật và thiện tri thức, phát tâm dũng mãnh, làm những Phật sự khó làm, đều dùng tâm này; dẫu cho báng pháp, bỏ hẳn thiện căn cũng vì tâm này. Nếu Thế Tôn phát minh cái ấy chẳng phải tâm, vậy con thành không có tâm, đồng như đất gỗ, lìa giác tri này chẳng còn gì cả, sao Như Lai nói cái ấy chẳng phải tâm? Con thật kinh sợ, và cả đại chúng đều chẳng khỏi nghi hoặc, kính mong Thế Tôn rủõ lòng từ bi, khai thị cho kẻ chưa ngộ.

Bấây giờ, Thế Tôn muốn cho A Nan và đại chúng đều được chứng nhập vô sanh pháp nhẫn, nơi tòa sư tử, xoa đầu A Nan khai thị rằng:

- Như Lai thường nói: Chư pháp sở sanh, duy tâm sở hiện. Tất cả nhân quả, thế giới vi trần đều do tâm này mới thành có thể tánh. A Nan, tất cả sự vật trên thế gian, cho đến cỏ, lá, chỉ mành, cứu xét cội gốc đều có thể tánh, dẫu cho hư không cũng có danh hiệu, huống là cái tánh trong sạch sáng tỏ của tất cả tâm lại chẳng có tự thể ư? Nếu ngươi chấp thật cái tánh giác tri phân biệt cho là tâm, thì tâm này lìa tất cả sự vật lục trần phải riêng có tự thể (chẳng theo cảnh trần sanh diệt). Như ngươi hiện nay đang nghe thuyết pháp, là do âm thanh nên có phân biệt; dẫu cho diệt hết tất cả kiến, văn, giác, tri, trong giữ u nhàn, cũng còn là bóng phân biệt của pháp trần.

- Ta chẳng bảo ngươi chấp thật phi tâm, nhưng ngươi hãy xét kỹ nơi tâm: nếu lìa tiền trần mà có tự thể của tánh phân biệt, tức là chơn tâm của ngươi. Nếu tánh phân biệt lìa trần chẳng có tự thể, ấy là bóng phân biệt của tiền trần. Trần chẳng thường trụ, khi biến diệt thì tâm này đồng như lông rùa, sừng thỏ, vậy pháp thân của ngươi thành ra đoạn diệt, còn ai tu chứng vô sanh pháp nhẫn? (Cảnh trần có hai loại: đối với ngũ căn gọi là tiền trần, đối với ý căn gọi là pháp trần).

Tức thời, A Nan cùng đại chúng im lặng ngơ ngác, chẳng còn lý lẽ gì để nói nữa.

Phật bảo A Nan:

- Tất cả người tu học trên thế gian, vì chưa dứt sạch tập khí phiền não, dù đã tu đến chín bậc thiền định, chẳng thành quả A La Hán, đều do chấp trước sanh tử vọng tưởng, cho là chơn thật, nên ngươi dẫu được học rộng nghe nhiều, chẳng chứng thánh quả.

A Nan nghe rồi, lại đau xót rơi lệ, năm vóc gieo sát đất, quỳ gối chắp tay bạch Phật rằng:

- Từ khi con phát tâm xuất gia, ỷ cậy oai thần của Phật, thường nghĩ rằng chẳng nhọc tự tu, cho rằng Như Lai sẽ ban cho tam muội, không biết thân tâm vốn chẳng thể thay thế nhau được, nên lạc mất bản tâm; thân dù xuất gia, tâm chẳng nhập đạo, như đứa con nghèo bỏ cha chạy trốn. Đến nay mới biết, dẫu cho học rộng nghe nhiều, nếu chẳng tu hành (5) thì khác gì người chẳng nghe! Cũng như nói ăn mà không ăn thì làm sao được no!

- Thế Tôn, hiện nay chúng con bị hai chướng ràng buộc (phiền não chướng và sở tri chướng), vì chẳng biết tự tánh thường tịch, mong Như Lai thương xót kẻ khốn cùng, khai phát diệu tâm, sáng tỏ đạo nhãn cho chúng con.

Lúc ấy, Như Lai từ chữ vạn ( ) trước ngực phóng ra hào quang, rực rỡ trăm ngàn màu sắc, đồng thời chiếu khắp mười phương vô số quốc độ Phật, soi khắp đỉnh đầu tất cả Như Lai trong mười phương bửu sát, rồi xoay về soi cả đầu A Nan cùng đại chúng, bảo A Nan rằng:

- Nay ta vì ngươi dựng đại pháp tràng, khiến mười phương chúng sanh đều được diệu tâm sáng tỏ, pháp nhãn thanh tịnh. A Nan, trước ngươi trả lời thấy nắm tay chói sáng, vậy cái nắm tay này do đâu mà có? Làm sao thành nắm tay? Ngươi lấy gì để thấy?

A Nan đáp:

- Do tánh thanh tịnh sáng ngời như núi báu của thân Phật sanh ra hào quang, ngón tay Phật co nắm lại thành nắm tay, chính mắt con thấy tướng nắm tay vậy.

Phật bảo A Nan:

- Hôm nay ta nói thật cho nghe: Những người có trí cũng phải nhờ thí dụ mới được khai ngộ. A Nan, ví như tay của ta, nếu chẳng có cánh tay thì chẳng thành nắm tay của ta, nếu chẳng có con mắt ngươi thì chẳng thành sự thấy của ngươi. Vậy lấy nhãn căn của ngươi so với nắm tay của ta, hai nghĩa giống nhau chăng?

- Bạch Thế Tôn! Vâng giống. Nếu chẳng có con mắt thì chẳng thành sự thấy của con, vậy đem nhãn căn của con so với nắm tay của Như Lai, hai nghĩa giống nhau.

Phật bảo A Nan:

- Ngươi nói giống nhau, nghĩa này chẳng đúng. Tại sao? Như người không có cánh tay thì tuyệt nhiên chẳng có nắm tay, nhưng người không có mắt thì chẳng phải không thấy. Vì sao? Ngươi thử hỏi người mù có thấy gì chăng? Người ấy ắt sẽ trả lời: "Nay trước mắt tôi chỉ thấy tối đen, chẳng còn thấy gì khác". Xét theo nghĩa này thì tiền trần tự tối, sự thấy đâu có giảm bớt!

A Nan nói:

- Những người mù trước mắt chỉ thấy tối đen, sao gọi là thấy?

Phật bảo A Nan:

- Người mù không có mắt, chỉ thấy tối đen, so với người có mắt ở trong phòng tối, cũng chỉ thấy tối đen, hai thứ tối đen ấy có khác hay chẳng khác?

- Bạch Thế Tôn! Thật chẳng có khác.

- A Nan, nếu người không có mắt, thấy toàn tối đen, bỗng được mắt sáng, liền thấy các sắc tướng trước mắt, gọi là "mắt thấy", người ở trong phòng tối cũng toàn thấy tối đen, bỗng được đèn sáng, cũng thấy các sắc tướng trước mắt, thì phải gọi là "đèn thấy". Nếu đèn có thấy thì chẳng được gọi là đèn, lại đèn thấy thì có dính dáng gì đến ngươi? Vậy biết, đèn chỉ có tác dụng hiển hiện sắc tướng, sự thấy là mắt, chẳng phải đèn; mắt chỉ có tác dụng hiển hiện sắc tướng, sự thấy là tâm, chẳng phải mắt.

A Nan và đại chúng dù nghe lời Phật nói vậy, miệng tuy im lặng, nhưng tâm vẫn chưa ngộ, mong được giảng rõ thêm, nên thành tâm chắp tay, đợi Phật dạy bảo.

Bấy giờ, Thế Tôn duỗi cánh tay sáng ngời, mở năm ngón tay, bảo A Nan và đại chúng:

- Lúc ta mới thành đạo nơi Lộc Viên, có nói với năm vị Tỳ Kheo và tứ chúng rằng: Tất cả chúng sanh chẳng thành Bồ-Đề và chứng quả A La Hán, đều tại lầm theo phiền não khách trần. Lúc đó, các ngươi do đâu được khai ngộ, nay chứng thánh quả?

Khi ấy, Kiều Trần Như đứng dậy bạch Phật:

- Con là bậc trưởng lão trong chúng được gọi là hiểu rộng biết nhiều, vì ngộ hai chữ Khách Trần nên được chứng quả. Thế Tôn, ví như người đi đường vào nghỉ ở khách sạn, ăn ngủ xong rồi lên đường đi tiếp, chẳng thể ở lại, còn người chủ thì cư trú tại đó, chẳng cần đi đâu. Vậy chẳng trụ là khách, trụ gọi là chủ, nên lấy sự "chẳng trụ" làm nghĩa chữ Khách.

- Cũng như mưa mới tạnh, ánh sáng mặt trời rọi qua kẽ hở, thấy rõ tướng bụi trần lăng xăng nơi hư không. Trần thì lay động. Hư không tịch nhiên. Vậy tịch lặng gọi là không, lay động gọi là trần, nên lấy sự "lay động" làm nghĩa chữ Trần.

Phật nói:

- Đúng thế!

Tức thời Như Lai ở trong đại chúng co năm ngón tay, nắm rồi lại mở, mở rồi lại nắm, hỏi A Nan:

- Nay ngươi thấy gì?

A Nan đáp:

- Con thấy bàn tay của Như Lai lúc mở lúc nắm.

Phật bảo A Nan:

- Ngươi thấy tay ta mở nắm, là tay ta có mở có nắm, hay cái thấy của ngươi có mở có nắm?

A Nan đáp:

- Bàn tay của Như Lai tự mở nắm, chứ chẳng phải tánh thấy của con có mở nắm.

Phật hỏi:

- Cái nào động, cái nào tịnh?

A Nan đáp:

- Tay Phật chẳng trụ, tánh thấy của con tịnh còn chẳng có, làm sao có động! (Bản kiến bất nhị, động tịnh đều chẳng nhiễm).

Phật nói:

- Đúng thế!

Liền đó, Như Lai từ trong bàn tay phóng ra một tia hào quang rọi bên phải A Nan. A Nan liền quay đầu nhìn bên phải, Phật lại phóng một tia hào quang rọi bên trái A Nan, A Nan lại quay đầu nhìn bên trái, Phật bảo A Nan:

- Đầu ngươi vì sao lại lay động?

A Nan đáp:

- Con thấy Như Lai phóng hào quang đến hai bên cạnh con, nên theo đó nhìn qua nhìn lại, đầu tự lay động.

- A Nan, ngươi nhìn theo hào quang lay động là đầu ngươi động hay cái thấy động?

- Bạch Thế Tôn! Đầu con tự động, tánh thấy của con ngưng còn chẳng có, nói gì lay động! (Bản kiến không đối đãi, động và chẳng động đều chẳng dính dáng).

Phật nói:

- Đúng thế!

Do đó, Phật bảo đại chúng rằng:

- Nếu chúng sanh cho "lay động" là trần, "chẳng trụ" là khách, các ngươi hãy xem, như A Nan đầu tự lay động mà tánh thấy chẳng động; lại tay ta tự mở nắm mà tánh thấy chẳng mở nắm. Vậy sao các ngươi hiện nay lại cho động là thân, cho động là cảnh, từ đầu đến cuối niệm niệm sanh diệt, lạc mất chơn tánh, hành theo điên đảo. Vì tâm tánh chẳng chơn, nhận vật làm mình, tự trôi lăn theo dòng sanh tử, cam chịu luân hồi

Phật bảo A Nan:

- Tất cả chúng sanh từ vô thỉ đến nay, đủ thứ điên đảo tạo thành giống nghiệp, kết tụ nghiệp nhân thành quả luân hồi. Những người tu hành chẳng được chứng quả vô thượng Bồ Đề, trở thành Thanh Văn, Duyên Giác hoặc thành cõi trời ngoại đạo, ma vương và quyến thuộc ma, đều do chẳng biết hai thứ căn bản, tu tập sai lầm, cũng như nấu cát mà muốn thành cơm, dẫu cho trải qua nhiều kiếp cũng chẳng đắc đạo.
- Thế nào là hai thứ căn bản?

- Một là căn bản của sanh tử từ vô thỉ, tức là nay nhận tâm phan duyên làm tự tánh của ngươi và chúng sanh;

- Hai là bản thể vốn thanh tịnh của Bồ Đề Niết Bàn từ vô thỉ, tức là cái bản thức (4) vốn sáng tỏ, hay sanh các duyên mà bị các duyên che khuất thành lạc mất của ngươi. Vì chúng sanh lạc mất bản thức sáng tỏ, dù hàng ngày sống trong bản thức mà chẳng tự biết, oan uổng vào lục đạo.

-----------------------------------------------------------
- Căn bản của sanh tử từ vô thỉ tức chỉ chân tính vốn không sinh tử, nay chúng sinh bỏ chân tính mà nhận tâm phan duyên làm tự tánh nên bị sinh tử.
- Bản thể vốn thanh tịnh của Bồ Đề Niết bàn từ vô thỉ tức chân mệnh vốn không có duyên nghiệp, sau vì bị phân chia thành lưỡng nghi mà sinh ra duyên nghiệp tự che mờ chính nó cho nên chúng sinh phải chịu oan uổng vào trong lục đạo.
Rất rõ ràng Kinh Thủ lăng Nghiêm Phật Như Lai cũng bàn về tính mệnh.

Chín phương Trời mười phương Phật




Chín phương Trời mười phương Phật

Tiếng đời thường nói: “Chín phương Trời mười phương Phật”. Cho nên kẻ thế lầm tưởng rằng Phật lớn hơn Trời vì Trời chỉ có chín phương mà Phật lại mười phương. Lời nói cổ truyền ấy có nghĩa là kẻ thế không tu luyện lúc lâm chung thần hồn sẽ xuất ra cửu khiếu thì tất nhiên không vượt ra ngoài bầu trời đất đặng, vẫn còn trong vòng chín phương Trời. Còn người có tu luyện, nhờ phép Ðạo vận chuyển khai phá Thiên Môn (Nê Hườn cung) là cửa thứ mười, con đường duy nhất thẳng đến Thiên môn Phật cảnh; cho nên đến lúc quy liễu giác hồn xuất ra nơi đó; nếu giác hồn xuất tại Thiên môn thì tự nhiên thoát khỏi bầu Trời Ðất thẳng đền Phật phương. Từ nơi đơn điền mà muốn vượt khỏi Thiên Môn, chơn thần phải vượt qua 3 cửa.

1. Ải thứ nhất: cung Khôn. Nơi đây có đường đi xuống mà không có đường đi lên. Nếu không nhờ phép đạo vận hành càn khôn nghịch chuyển thì chỉ có phương giáng hạ chứ không thể thăng thượng được.

2. Ải thứ hai: cung Khãm. Lênđến ngang lưng chỗ thận thủy là cung Khãm. Bịt bùng không nẻo qua rồi cũng phải nhờ phép chiết khãm điền Ly làm cho đường cốt tủy thông thì chơn hồn mới lên cửa Thiên Môn đặng.

3. Ải thứ ba: cung Càn. Cửa đóng then cài kín mít cũng nhờ phép đạo vận hành biến Càn vi Khôn, chuyển Khôn thành Càn mà khai phá Thiên Môn, thông đồng Thái Cực. Nhờ vậy, mà đến khi quy liễu, mới do con đường quen thuộc là cửa thứ mười (phương Phật) mà quy nhứt bổn.

Thảo Lư 25.03 Ðinh Mão (1927)

ĐỜI SỐNG TÂM LINH








MINH-LÝ THÁNH-HỘI, Tuất thời 26-9 Mậu-Thân (16-11-1968)

HÃY LO CHO ĐỜI SỐNG TÂM LINH

THI:
Mở cửa càn khôn ngắm bể dâu,
Chín mươi hai ức sẽ về đâu;
Sương phong gió bão đường triêu mộ,
Rừng rậm non cao nẻo cuối đầu.
Nếu nhớ chia tay nơi đỉnh thư ,
Thì đừng lỡ bước chốn sông mâu;
Trập trùng vó ký miền Ly Khảm,
Cứu cánh chờ ai gởi đạo mầu.

ĐÔNG-PHƯƠNG CHƯỞNG-QUẢN, Bần Đạo chào mừng chư hiền đệ hiền muội.
Chư hiền đệ hiền muội! trước khi bước chơn đặt mình vào ngưỡng cửa đạo giáo hay tôn giáo, chư hiền đệ hiền muội đã có một ý niệm là thích việc thiện, tin tưởng Đấng Vô Hình sẽ cứu rỗi linh hồn mình khi mãn duyên kiếp trần ai.
Tu là để cứu cửu huyền thất tổ. Trước nhứt là trau sửa thân tâm, rèn luyện bản tánh, xa lánh đường tội lỗi nơi cõi đời hiện tại. Khi vào cửa Đạo rồi lo phần học hỏi kinh sách Thánh giáo Thánh ngôn, cùng những bạn đã đi trước mình một khoảng đường Đạo học. Khi học hiểu hết một đôi phần về đạo lý, từ vũ trụ quan đến nhân sinh quan, được một vài yến sáng rọi trong tâm hồn, thấy được cõi đời đây là giả tạm. Một kiếp làm người tuy nói rằng ước định là trăm năm, nhưng trong chuỗi đời ba vạn sáu ngàn ngày là mấy ai tròn hưởng. Tấm thân tứ đại quanh năm ngày tháng mãi quay cuồng trong chỗ lo nghĩ buồn vui cùng sướng khổ. Nhưng hỏi lại có mấy ai được trong cảnh buồn ít vui nhiều, quẩn quẩn quanh quanh trong chỗ đủ thiếu phải chăng giàu nghèo. Bảy tám mươi cũng gọi một đời mà năm ba tuổi cũng cho là một kiếp, lẽ vô thường nào đâu có hẹn với con người sự dài vắn rủi may. Từ đó con người mới nảy sanh ra một ý niệm là tạo những điều kiện tối cần cho phần thể chất để sống trong nếp sống tương đối, còn bao nhiêu thì giờ lo đào tạo những điều kiện cho đời sống tâm linh, gieo hột giống lành cho kiếp tương lai, làm công quả cho vững móng nền âm chất.
Tuy nhiên, trong gia đình và xã hội của người tu niệm cũng thường vấp phải những chướng ngại vật làm cản ngăn bước tiến trên đường lập công bồi đức. Bởi vì, phàm hễ mang thể xác con người ắt đã chịu ảnh hưởng cùng hậu quả của duyên nghiệp trong tam thế. Vì đó mà màn vô minh đã che, làm mờ đi phần nào những điều sáng suốt. Vì vậy, trong giới tu hành hay bị lầm lẫn những gì là chơn là giả, những gì là bản ngã, là chơn như. Phải trái khôn phân, vàng thau khó định. Do đó mà người tu thì nhiều, thành công đắc quả thì ít. Cũng có những trường hợp vì chủ quan trong ích kỷ mà đưa đẩy con người vào phú quí đỉnh chung công hầu khanh tướng. Chính vì đó trong chủ đề đạo lý, Bần Đạo muốn nêu một vài khía cạnh của bề trái cuộc đời đạo lý cho chư hiền suy nghĩ:

THI:
Đạo lý cao thâm rán học hành,
Tạo điều kiện tốt kiếp lai sanh;
Đừng quên hiện kiếp trong nhân ngã,
Phân biện bạc chì trược với thanh.

Bần Đạo rất vui hôm nay nhìn thấy chư hiền đệ hiền muội đều có điểm quang năng tinh tiến về phần đạo học. Nhưng đoái nhìn cảnh đời đang xáo trộn, nhân loại đang lâm vào cuộc thương hải tang điền, cơ mạt kiếp âu đành, những nguyên nhân có được phản hồi nơi quê xưa vị cũ để lập đời Thánh Đức Thượng Nguơn, đó là điều cần thiết cho những bực lãnh đạo giáo đồ lưu tâm hơn hết.

BÀI:
Đêm thanh nương áng mây lành,
Thần cơ diệu bút tả thành từng câu.
Gởi cho người năm châu bốn bể,
Gởi cho hàng khanh tể thứ dân;
Gởi cho chí sĩ tài nhân,
Cho trang đạo đức cho phần thiện tâm.
Cuộc phù thế thăng trầm đắc thất,
Kiếp sinh tồn duy vật duy tâm;
Đường trần vó ngựa trăm năm,
Xét xem kim cổ bao lăm đổi đời.
Nhìn chuyển biến trong thời nguơn hạ,
Thấy nhân loài chiến họa thiên tai;
Rủ lòng mở cửa Cao-Đài,
Quy nguyên Tam Giáo hoằng khai đạo mầu.
Ôi! thế sự cơ cầu chen lấn,
Hỡi nhơn sanh quanh quẩn đường trần;
Có thân thử hỏi lại thân,
Mấy cơn chìm nổi mấy lần nhục vinh.
Mộng vương bá trường chinh trống đổ,
Xui con người vào chỗ tương tàn;
Lợi danh bán tước mua quan,
Bo bo của tạm lại hoàn tay không.
Nỗi tham vọng túi trong chẳng đáy,
Niềm đau thương nhân loại không đừng;
Xét ra càng lại dửng dưng,
Bởi lo cá thể nhân quần suy vi.
Nếu sớm biết tu trì hạnh đạo,
Chẳng muộn màng cởi tháo nghiệp duyên;
Dầu đời đang lúc đảo điên,
Chính mình thoát khổ dạy truyền người sau.
Tu là để luyện trau tâm tánh,
Tu là gìn phẩm hạnh vi nhân;
Tu là tự cứu bản thân,
Tu là an mối tình dân vẹn tròn.
Chớ sợ tu không còn danh lợi,
Đừng ngại tu phú quới phải xa;
Nhân xưa tiền kiếp tạo ra,
Ngày nay kết quả cho ta cho người.
Danh thiệt danh trên đời bia tạc,
Lợi chánh là lợi lạc muôn dân;
Lợi danh nêu để sử thần,
Ấy nguồn danh lợi vĩ nhân Thánh hiền.
Lợi vật chất bạc tiền giả tạm,
Danh mượn xin trong đám công hầu;
Có gì hưởng đặng bền lâu,
Thoạt qua cửa sổ vó câu trập trùng.
Nền Đạo học khôn cùng xây đắp,
Nghiệp tiền nhân đề cập tương lai;
Trần ai ai biết trần ai,
Lánh thân cất bước ra ngoài tỏa cương.
Tìm chơn lý lập trường tự cứu,
Học Đạo mầu quả tựu công thành;
Cũng là lợi, cũng là danh,
Cổ kim ghi tạc sử xanh bao người.
Nỗi cộng nghiệp thương đời diễn tiến,
Luật tuần hoàn luân chuyển lại qua;
Hỡi ai! trong cảnh trời tà,
Mau chơn quày gót rót ra vòng trần.
Mượn đất Thánh non Thần an hưởng,
Dùng kệ kinh tối thượng học hành;
Cho qua những cuộc phân tranh,
Để xem vận hội lập thành gần đây.
Hãy nhìn xem nhân tài chí sĩ,
Kìa thấy chăng chước mị mưu tà;
Rấp ranh xẻ bảy chia ba,
Mảnh thân tan tác ruột rà phân ly.
Tài trí chẳng làm gì tài trí,
Bá vương càng lâm lụy bá vương;
Nếu trông thấy cảnh đoạn trường,
Hỏi ai, ai có biết đường giải nguy.
Mở cửa rộng từ bi bác ái,
Đón ngăn loài tà quái xâm lăng;
Đạo tâm soi sáng cõi trần,
Một phần tu niệm muôn phần hưởng chung.
Hỡi ai có đại hùng đại lực,
Kìa nhân loài khổ cực đau thương;
Chơn truyền đạo pháp hoằng dương,
Lập cơ cứu cánh bốn phương thoát nàn.
Ngô đồng trổ phụng hoàng cất cánh,
Đỉnh non thần phát hiện chơn nhơn;
Cứu đời trong buổi hạ nguơn,
Nhờ tay đạo đức góp phần chung lo.
Qua biển khổ nương đò bát nhã,
Thoát lưới trần cậy gã Già-Lam;
Đơn thơ xuất thánh siêu phàm,
Thái bình vạn vật muôn năm gội nhuần...

Bủu Minh Ðàn.Trang Web Phục Vụ Nhơn Sanh Miễn Phí.,
Webmaster Trương Ngọc An

HỘI LONG HOA




NGŨ PHỤNG KỲ SƠN

(Tý thời, 18-8 Canh tý/8-/10-/1960)

CHƯƠNG TRÌNH LONG HOA ĐẠI HỘI

THI :

NHỊ thập bát môn chuyển cửu trùng,

LANG đài Phật pháp quảng bao dung,

HIỂN lệnh Long Hội Hoa Thiên định,

THÁNH Phật Thần Tiên độ kẻ trung.

Chào chư­ thiên mạng đàn tiền đẳng đẳng! CÓ KHƯƠNG THÁI CÔNG ngự bút! Tiểu Thánh xin xuất ngoại, hộ cơ.

THĂNG.
TIẾP ĐIỂN:

THI :

KHƯƠNG ninh thạnh trị biết bao lần,

THÁI lập thượng đời có đặc ân,

CÔNG đức cho dày ra chiếm bảng,

GIÁNG khai nguồn hạ Đại Phong Thần!

Lão chào mừng chư­ thiên mạng! Lão đến đây để phụ trách cùng ĐỨC DI LẠC PHẬT VƯƠNG thỉnh Phật Tiên Thánh Thần đến chứng minh việc sắp đặt chương trình Long Hoa Đại Hội. Vậy chư­ thiên mạng cung nghinh TAM-TRẤN, TAM GIÁO, cùng ĐỨC NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐỀ lai lâm chiếu chỉ để chư­ thiên mạng thọ ký, xem đó làm bước tiến, hầu thi hành nhiệm vụ của mình mà Chí Tôn đó giao phó. Lão chào chung tất cả đàn tiền! Lão kiếu!

-THĂNG.

TIẾP ĐIỂN:

Thần Tiên hội lại luận ch­ương trình,

VIỄN TRẤN THẦN OAI đến chứng minh! (Thăng)

NAM HẢI QUAN ÂM tùng thính lịnh! (Thăng)

GIÁO TÔNG THÁI BẠCH, ngã KIM TINH.

TAM TRẤN mừng chung thiên mạng! Khá thành tâm cung nghinh

TAM GIÁO lâm cơ chứng đàn .

THĂNG.

TIẾP ĐI ỂN:

THI:

THÍCH CA PHẬT TỔ giáng trần gian! (Thăng)

THÁI THƯỢNG LÃO QUẤN đến chứng đàn! (Thăng)

KHỐNG THÁNH NHO TÔNG, ra chuyển thế;

Ban ân đồ đệ, tiếp THIÊN HOÀNG! (Thăng)

TIẾP ĐIỂN:

HỔNG QUÂN LÃO TỔ hóa phân trời! (Thăng)

KIM M ẪU DIÊU TRÌ chứng kiến nơi! (Thăng)

Cha cả linh hồn, THẦY, NGỌC Đế!

Ban ơn lớn nhỏ khá nghe lời!

Thầy, Cha linh hồn mừng mỗi con nam nữ có mặt! Giờ này Thầy ly cung Bạch Ngọc đến chứng lễ và ban chỉ cho DI-LẠC PHẬT-VƯƠNG truyền lời việc Long Hoa Đại Hội, để cho các con lấy đó nghiệm suy mà xét đoán, dò lần trên bước đường hành đạo.
Phần phụ trách, Thầy đã có đặc ân cho KHƯƠNG THÁI CÔNG. Vậy
các con khá tuân lịnh !

THI :

"DI LẠC, THẦY GIAO LỊNH CHUỞNG QUYỀN,

LONG HOA ĐẠI HỘI THỈNH THẦN TIÊN;

TAY CẦM ẤN NGỌC, BAN VÀ THƯỞNG,

TAM GIÁO CÔNG ĐỒNG, SẮC CHỈ TRUYỀN".

-THĂNG-

Tiếp Điển:

THI :

DI vì Thánh lịnh của Trời ban,

LẠC hội công đồng tại thế gian;

PHẬT luật y hành cho phải phép,

VƯƠNG minh trạch đức mới phân phàm.

BÀI :

Cuộc tuần huờn khai thiên chí cực,

Nay phục thỉ, phản lực qui nguyên;

Khiến nên vạn loại nan tuyền,

Ngũ châu xáo trộn, đảo điên trần hồng.

Đại quốc mạnh bất công luật pháp,

Tiểu nhược nguy nan đáp hòa bình;

Phải cam tâm chịu lụy mình,

Sớm Tần, chiều Sở, thân hình ngẩn ngơ.

Do tịch địa thiên cơ mới mở,

Lập Tam Kỳ phản trở Thượng nguồn,

Lạc loài đạo đức nhơn nhơn,

Tồn sanh nguyên chưởng trong cơn mạt đời.

Tiền khai đạo, Thầy Trời chuyển hóa,

Phân Tam Giang, danh tá Cao Đài ;

Càn Khôn Chúa Tể linh oai,

Độ đoàn con dại. trần ai khổ sầu.

Đ­ưa anh tài đứng đầu đạo đức,

Rước vĩ nhân trí thức dung hòa;

Tôi hiền trung hiếu nước nhà.

Lên bờ Tây Vức, được qua BẮC ĐÀI.

Lo trùng tựu kim giai bái mạng,

Người thiếu tu, độc đoán, chờ gần;

Nhơn hiền, hiếu tử chầu sân,

Giúp nền Đạo cả pháp tân Cao Đài.

CHÚNG ĐỆ TỬ PHẬT NAY NGHE LỊNH:

SẮC CHỈ TA PHỤNG LĨNH NGỌC HOÀNG;

CẦM CÂN THƯỞNG PHẠT TRẦN GIAN,

TRƯỚC LO TRỊ-ĐẠO, SAU TOAN TRỊ ĐỜI !

LÝ DO, Ta để lời tuyên bố:

Lập chương trình ức độ Long Hoa;

Khổ lao Tiên Phật hằng hà,

Cồn dâu hóa bể, luật đà đổi thay!

ĐẠO TỶ SỐ KHÔNG NGOÀI BA SÁU,

ĐỜI HAI NGÀN TUYÊN CÁO CŨNG TRONG!

LONG HOA KHAI DIỄN ĐẠI ĐÔNG,

NẠN TAI NGƯỜI THẾ KHẮP TRONG TUẦN HOÀN.

Thu thâu cảnh, Đông tàn để lại,

Xuân không già há phải hoa râm;

Lần tay tính lại mấy năm,

Thiên sanh Tý, ngoại canh nhựt thời.

Đừng ngại biếm lãng lơi tấc dạ,

Chớ khoe khoang trồng đá dời sông;

Trời Nam phụng kiến ngô đồng,

Đất vàng hạc gáy, cá rồng phi thiên.

Đời danh lợi, uy quyền chen chúc,

Đạo không ngoài lúc thúc chạy theo;

Bên lề đường cái thông reo,

Bóng huỳnh thấp thoáng núi đèo biển sông.

Cảnh hùng vĩ não lòng nhân loại,

Tiếng ó reo bên bãi tha ma;

Lời than này cửa, nọ nhà,

Giấc mơ tỉnh dậy, trời đà quá trưa.

Cày sao còn, NGHIÊU chưa đủ lối,

Cuốc Nguyệt đài, THUẤN vội thôi đi;

THẠCH SÙNG danh lợi còn gì?

NHAN UYÊN bầu nước có chi nhọc nhằn?

Lấy chuyện xa phân trần tích cũ,

Đem việc này nhắn nhủ cho đời;

Người nay sao lại lỗi thời,

Đạo không ra Đạo, mà Đời cũng không?

Đời mê ngủ hết mong lay động,

Đạo mơ màng tiếng trống điểm sang;

Thu qua rỉ rả, Đông tàn,

Đông tàn thì cũng thương tang nỗi niềm.

T ừ bao lâu ẩn im giấc mộng,

Nay làm sao đặng trọng đức hiền;

Còn gì thống nhứt qui nguyên,

Còn gì chi phái, ảo huyền hồi quê!

Đời mong vọng đường về vật chất,

Đạo không cần, Bạch Ngọc Ở đâu?

Trót sa chân khỏi nhịp cầu,

Gọi rằng qua vịnh, gọi đâu bến bờ?

Không hay biết thời cơ huyên náo,

Thì cho rằng phép Đạo chẳng linh;

Chư­ nhu bởi thiếu đức tin,

Mò lần đêm tối, bất bình lối đi!

Tý canh nghiệp, huyền vi chuyển hướng

Tý mười hai, thạnh vượng thái hòa;

Khí lành ngắm nhã làm hoa,

Mười hai Nhâm Tý còn xa dặm dài !

Trong hai ngàn, bảy hai thiên vận,

Ngoài tám tư­, ba tám ngoại canh;

Ngô đồng phụng đậu sơ cành,

Cây lau đợi tụyết, trổ sanh bông vàng.

Xa tiếng vạc kêu vang đêm vắng,

Gần nhôn nhao cò trắng quanh cầu;

Ó vàng cá chọi diều hâu,

Trên cành cu gáy, bồ câu rủ về.

Đường dặm dài lối dê in dấu,

Bóng trăng tà khuất giậu tre xanh;

Bao nhiêu thời sự bất thành,

Bấy nhiêu dâu bể tan tành còn chi?

Nơi sơn đảnh còn gì ngọc đá,

Chốn thung tòng hoa quả thiên minh;

Vài hàng cao ẩn bút tình,

ĐỀ THƠ TUYÊN BỐ CHƯƠNG TRÌNH LONG HOA:

"Phần khai thông chung hòa tư­ tưởng,

Nhắm mục phiêu ấn tư­ợng ghi vào;

Gìn lòng đạo đức tương rau,

Lập trường bác ái được vào thi khoa".

Đời bình trị mới là chế giảm,

Mới phân ra cửu phẩm, tam thừa;

Cái dày, cái nhặt, cái tha,

Đạo trong tỷ số chỉ chừa một thôi!

M ỗi hướng lãnh dụng thời khả đắc,

Khá vầy liên, tay bắt miệng hô;

Chung nhau xây dựng tiền đồ,

Trên nền đạo đức gấm tô hoa màu.

Một lời nói, lúc nào cũng vậy,

SƠ một lời, tổn hại khuynh nguy;

Long Hoa đặc trách nhiệm kỳ,

Một điều thiên lệch ắt thì phải sai.

Nên cẩn kỹ một hai chu đáo,

Xem tận tường người Đạo thật thà;

Việc gì họp lại năm ba,

Bàn cho cạn lý, đem ra thực hành.

Trước ma quỷ, vút nanh xiềng xích,

Rủi lâm vào, mục đích chết thôi;

SỢ trời hơn cả sợ người,

Trung thành đạo đức, sáng tươi nhơn thần.

Phần HIỆP THIÊN ân cần ôn cố,

Bàn thỉnh mời TỨ BỘ giáng đàn;

Phật Tiên xuống chốn trần gian,

Long Hoa Đại Hội chung đàng diễn khai.

Vậy chúng đệ tử nghiêm chỉnh đàn tiền.

CÓ TỨ ĐẠI BỘ CHÂU đến! Khá

cung nghinh! Bần Tăng kiếu!

THĂNG-

THI :

Tứ Đại BỘ CHÂU đến tá cơ,

Giáng lâm trần thế một đôi giờ;

Chương trình đại sự ghi vài điểm,

Bút ngọc để lời mượn phú thơ.

Lão chào mừng chư­ thiên mạng đàn tiền đẳng đẳng! Được phép tọa thiền

nghe Lão khải giáo!

THI BÀI:

Ngồi đàm luận chư­ huynh ĐÔNG, BẮC,

Ánh hào quang ngũ sắc chói ngời;

PHẬT VƯƠNG DI LẠC đến nơi,

Bước vào vui vẻ liền mời Ta đây.

Trời trăng lặng, tiếng chày trong xóm,

Đất tươi màu mấy khóm hương lan;

Sắc vâng đại diện giáng đàn,

Rằng ta: NAM THIỀM, HỒNG BÀNG là đây!

Lấy tay tính: năm này cũng Tý,

Tý mấy kỳ, thiên ý đã phân;

Tý khai, Tý chuyển mấy lần,

Tý canh đã đến hồng trần gian lung.

Tý Nhâm đến, quanh vùng thế giới,

Đặng an lành, lạc thế âu ca;

Chim linh đậu trước thềm nhà,

Là điềm đại họa, Long Hoa diễn trường.

Ta nh ận thấy vô phương cứu cánh,

Tý bao giờ bóng ảnh sai đâu?

Gượng vui cười đặng cho sầu,

Buộc lòng đến chứng, thốt câu ngỡ ngàng!

PHẢI CHỨNG CẢNH TRẦN GIAN THẢM KHỐC,

NHỚ KHI PHÂN TRỜI ĐẤT ĐẾN GIỜ;

CHƯA HỀ NÁO NHIỆT THIÊN CƠ,

MÀ NAY RÚNG ĐỘNG THẨN THỜ THÂM TÂM!

Một thời gian ba năm lặng lẽ,

Liên miên trường buồn tẻ vắng tanh;

ĐÓ là ngày Đạo đã thành,

Thành ngày tận thế, nhơn sanh khổ lòng.

Tay hướng Đạo Thiên phong Chức sắc,

Bệnh trầm kha nghèo ngặt, thuốc chi?

Linh đơn có những thứ gì?

Nằm trên đống thuốc phải thì chịu đau

Lời ngụ ý, hiểu sao tự xét,

Máy thiên cơ lậu thiệt khó lòng;

Lượng mình đảm nhiệm Thiên phong,

THIÊN VƯƠNG đến dự, giã trong đàn tiền !

THĂNG-

TI ẾP ĐIẺN:

TIẾP BÀI:

Ngã: THIÊN TƯỚNG giáng miền trần thế,

Chào chư hiền, tịnh để nghe qua!

Đặng thơ DI LẠC thỉnh mà,

Mời Ta phê chuẩn Long Hoa chương trình.

Để một chữ, động tình sanh chúng,

Ghi một lời, bóp bụng nghe theo;

Éo le máy tạo ngặt nghèo,

Than ôi, họa phước đều theo hành tàng!

Tý canh nghiệp, muôn ngàn khổ não,

Đến Giáp thìn cơn bão lòng đau;

Phan vương, Nguyễn tái, Trần giao,

Thìn thăng, Tý xuất, tiêu hao vạn loài.

Người ăn muối, kẻ thời khát nước,

Nghĩ buồn cười, mưu chước lung tung;

Ai rằng ta cũng anh hùng,

Khoe khoang chánh nghĩa, tận trung giống nòi.

Hùm ngồi chuồng chờ coi thịt lại,

Tận vào mồm mới nhảy tưng tưng;

Chẳng may gặp choảng beo rừ­ng,

VỚ ngang bị táp, nhảy tưng chạy đùa.

Beo đắc thế hục hùa theo dính,

Hùm bao giờ chịu nhịn hay sao?

Đôi bên đều trổ tài cao,

Cả hai lòi ruột, chẳng nào còn nguyên!

Một dãy núi, một chuồng trong ổ,

Kiếp thú cầm quái gỡ biết chi ?

Người sao cũng tánh la thì,

Hết đời beo cọp, còn gì lố lăng!

Nhựt, nguyệt, tinh, ba lằn sanh khí,

Nguyệt tịnh động đêm ví có nhau;

Sáng trăng thì chẳng có sao,

Sao nhiều đêm tối, trăng nào còn đâu?

Động sanh khí trong bầu trời đất,

Quyết liệt vì tính chất hùng thiêng;

Làm cho quả đất chinh nghiêng,

Thần hao, tinh kiệt, khí riêng lạnh lùng.

Lu ận thiên cơ nghiệm cùng thân thế,

CÓ phải đời tận thế hay không?

Tới đây vừa mãn điển đồng,

Ta rồi phân sự ghi trong chương trình.

TH ĂNG-

TIẾP ĐIẺN:

TIẾP BÀI:

Đang luận xét nhân tình bi đát,

Đặng phúc thơ DI LẠC đến liền;

Ta là đại diện Táng Tiên,

Ngã: TÂY PHƯƠNG SÓC giáng miền trần gian!

Chào thiên ân trung đàn nghiêm chình!

Được tọa thiền, an tịnh nghe phân !

Lệ rơi từng giọt thương trần,

Đề thơ chứng kiến hồng trần gian nan.

L ần tay bấm từng trang thế kỷ,

Đặt tay nằm suy nghĩ ngổn ngang;

Than ôi máy tạo hành tàng,

Bánh xe luân chuyển trần hoàn đổi thay.

R ồng uốn quanh đầu quay đất BẮC,

Mình tại LÀO, đuôi vắt qua NAM;

Chân đưa đất MIẾN thung CHÀM,

Kỳ giương lộn xuống THÁI LAN phi đằng.

H Ạ UY DI bóng trăng vần vũ

Chốn MÃ LAI tinh tú hiện ra;

Trời chiều bóng ngã ác tà,

ĐÀI LOAN núi đá phun ra tít mù.

TH ĂNG LONG cảnh lu bù khói lửa,

Khách vi vi rải họa trời âu;

Hiềm vì đại lợi buổi đầu,

BÁ LINH tiếng trống canh lầu điểm sang.

Dù muốn không bàng hoàng khốn khó,

BỈ xâm rồi, phải có HÒA LAN;

Làm cho khách tới lạc đàng,

LIÊN cung GIA NÃ nào an cõi lòng.

DI ỄN KHẮP NƠI THIÊN LONG ĐỊA CHẤN,

CẢ MUÔN VÙNG NHỮNG TRẬN CUỒNG PHONG;

GỚM GHÊ NHỮNG LÚC THỦY HỒNG,

Chia rành kim tuyến rẽ đồng BA TƯ­.

Xong nhi ệm vụ, từ từ gát bút,

Đã xong phần đôi phút luận bàn;

Giã từ thiên mạng lưỡng ban,

Ta về động nội tính toan sau này.

-THĂNG-

TI ẾP ĐI ẺN :

TIẾP BÀI:

Nhìn Nam Bắc Đông Tây bốn hướng,

Ngó xuống trần khí tượng xung thiên;

Lần tay tính lại mấy niên,

Tính coi trần thế dữ hiền ra sao?

Phút KHƯƠNG THƯỢNG bước vào ra mắt,

Rằng có thơ DI LẠC gởi mời;

Nãy giờ Lão đợi hết hơi,

Chờ Tây phương SÓC dứt lời ra sao?

Bần Đạo đây: VƯƠNG NGAO LÃO TỔ,

Để đôi lời cứu bổ chương trình;

Chư hiền tịnh tọa tâm thành,

Tu hành thì ít, giả danh thì nhiều!

CÓ ăn chịu, đành tiêu diệt! đáng!,

Không ăn thì cũng máng họa tai.

Từ xa kinh sách phô bày,

Dạy đi nhắc lại, có ai đâu hành?

Ngao ngán thay kỳ sanh nguyên tử,

Hòa chất này đâu tự muôn đời ;

Ngũ hành biến hóa mọi nơi,

Hành tinh điện tử một thời chín ra.

Một có chín, chín mà tám mốt,

Chín mốt là tính rốt bao nhiêu?

Tử đi sanh khắc một chiều,

Ngũ hành chính chóng kinh tiêu diệt người.

BI ẾN HÓA ĐÂY: THAY TRỜI CHẰNG ĐẶNG?

VÂNG LỊNH TRỜI, LÃNH MẠNG KỲ BA;

Coi chừng Canh Ngũ ướm ra,

Lôi đình chấn động trồi ba quốc hồn.

Chim nh ấp cánh bay dồn BẢY NÚI,

Cá quạt đuôi mừng lội qua sông;

Cây khô khỉ ngó thèm bần,

CỎ rau nội quạnh mong cần có đâu?

Ch ương trình luận để vài câu,

Giã từ đàn nội, Ta thâu điển lành!

-THĂNG-

TI ẾP ĐIỂN:

TIẾP BÀI:

Luận về đại hội nhân sanh,

Đời thay Đạo đổi, ngũ hành chuyển luân.

Xuân Giáp Thìn nửa mừng nửa khóc,

Năm não sầu trách móc đệ huynh;

Gây bao nhiêu chuyện bất bình,

Mang về tai họa chống kình với nhau.

Hạ tiếng ve gọi sầu tỉnh lại,

Đạo phân trần phải trái chuyện xa;

N ước đời trong lóng đục ngừa,

Mồi ngon lưỡi bén cũng vừa lòng tham.

Ngoài mười sáu phân đoàn vĩ tuyến, (17è)

Trong Nam này uyển chuyển pháo xe;

HOÀNH SƠN câu thúc nhiều bề,

Đoàn ong tấp nập kéo về CHI LĂNG.

Nơi điện thiên, cầm đăng khải trí,

Chốn chương tòa suy nghĩ vẩn vơ;

Nước non trong cảnh mịt mờ,

Ngày sau phó, luận, hiện giờ gặp Ta.

Thu phong thu ỷ, sông Hà tràn tới,

Cảnh mịt mù đi có vế không;

Thái dương rọi trước phương Đông,

Đến năm Quí Dậu, Lạc Hồng điểm may.

Gà heo óc niên dài ngoại vắng,

Chó lạc đường về đặng yên nơi ;

Heo ra muôn cảnh rã rời,

Nước dâng tràn khắp tơi bời dân Nam.

Chuột ngoi ngóp tìm đàng ẩn tránh,

Trâu quay về, tạm cảnh yên nơi;

Nhân dân than khóc ngất người,

Tai trời ách nước, ôi thôi khắp cùng !

Lần tay tính đồng chung ghi nhớ,

Giáp Ngọ rồi, Tần SỞ chia hai;

Trên đường lao lý dặm dài,

Ngày đi thảng lại lạc loài nhân sanh.

Long Hoa điểm đầu Canh Tý luận,

Bao niên trường hoàng chủng uy danh;

Mười hai lần chuyển ngũ hành,

ĐÔNG Âu, TÂY Á, tan tành còn đâu !

Thủy hỏa phong hoàn câu chấn động,

Trãm long xà nhứt thống phong cương;

Đến năm Quí Dậu mới t­ường,

Ai còn, ai mất, ai th­ương chủng loài.

Qua Kỷ Dậu, Phật ngài phán xét,

Còn Thanh Phong, Minh Nguyệt bày khai;

Lần lần chữ vạn bùng bay,

Trăng sao mây án, đổi thay địa cầu ?

Nước non nhuộm một màu xanh xám,

Núi sông dài bao quản chi chi;

ĐẠO KHAI ĐÃ ĐỦ TAM KỲ,

ĐEM VE MỘT MỐI ĐẾ QUI CHỦNG LOÀI.

CH Ủ NHƠN ÔNG CAO ĐÀI PHÁN ĐOÁN,

Quỉ thần hờn, người oán, than ôi !

Thiên khuynh Tây Bắc phục hồi,

Đông Nam thể chất khuyết rồi lại tan.

Lấp BIỀN THÁI qua làn Đông Á,

XÔ THÀNH NAM vào ngả TÂY PHI;

Bàn tay Nam tộc có gì?

Chuyển người ngoại tộc tới qui HÁN THÀNH.

Mượn ngũ châu nhựt hành nguyệt hãng,

Dụng cán cân nền tảng ĐÔNG Âu;

Trả vay chung thỉ đáo đầu,

ĐẠI TÂY DƯƠNG chuyển, ĐÔNG ÂU điêu tàn.

ẤN, MÃ, MIỀN, tiếng than ai thấu,

NAM HÀN cùng MÃ TẤU, KIM Môn;

TỨ XUYÊN SÔNG đã dập dồn,

LIÊN BANG xáo trộn nó dồn TƯ KHOA.

HIỆP CHỦNG QUỐC, THÀNH HOA THỊNH ĐỒN,

Phẫn uất lòng, hỗn độn khóc than;

KHÔNG KHOE GIÀU CÓ BẠC VÀNG,

MỘT CÂN BẠC ĐỒI MỘT TRÀNG CÂN RAU !

X à hãm tĩnh lọt vào trong lưới,

Quyết liệt rồi thế giới điêu tàn;

Tam nguơn xây chuyển tuần hoàn,

Dù không dù muốn, họa tràn cũng chung!

Năm tháng ngày lao lung từng khúc,

Không thời gian một phút yên đâu;

Đao binh sóng dậy buổi đầu,

Bảy năm bước một đâu đâu cũng đều.

Hết chủ nghĩa danh nêu cùng khắp,

Tới khoa tranh chủng tộc dấy tràn;

Lập thành trận địa nát tan,

Tai nguy khí độc chiến tràng thi nhau.

N ẠN NGUYÊN TỬ TIÊU HAO NĂM SÁU,

TAI HỌA TRỜI HUYÊN NÁO HAI BA;

CỘNG ĐI ĐẾM LẠI RÕ MÀ,

MUỜI HAO TÁM CHÍN MỚI RA THÁI BÌNH !

Để cứu vãn tình hình nhân loại,

Lấy một phần lập lại đời sau;

Cao Đài chọn giống Nam giao;

Nguyên linh bày bố Đạo Cao trận đồ.

Cửa sanh ly bước vô BÁT QUÁI,

MỞ ĐỔ THIÊN trấn tại HÀ TIÊN;

CỬU LONG môn huyệt hậu miền,

TRUNG GIANG, CỬU KHÚC nối liền khảm khai.

Th ất thập địa BỒNG LAI khôn trấn,

Chỗ Thần Tiên lược trận xuất binh;

TÂY NINH tổ ấm gia đình,

Là nơi quốc hội vạn linh luận bàn.

Trung tâm BẠCH HỔ QUANG bày bố,

Cửa tây cung HẮC HỔ huấn sanh;

CỬU LONG phun thủy mây thành,

Trong ngày thất dạ ngũ hành bình yên.

Ph ân phàm Thánh, Ca tràng tuyển lựa,

Khúc Bảo Giang, tôi chúa vui mừng;

Bửu tòa Thạnh thế Trung hưng,

THÁP MƯỜI hoa lệ, đổi rừng AN GIANG.

ĐÔNG THÁP bỗông thở than lệ đổ,

Đất ĐỊNH TƯỜNG dời chỗ đổi sông;

Một giờ địa chấn lôi phong,

SÀI THÀNH, HÀ NỘI, HẢI PHÒNG còn chi !

Mười hai năm, vật gì cũng đổi,

Đất PHÙ TANG rung dội rên la;

Sóng tràn địa lục TRUNG HOA,

ĐÀI SƠN núi đá phun ra ngất ngời.

Chớ hấp tấp vội cười đây đó,

Than một lời lệ đổ thâm bâu;

ĐỒI THAY TRỌN QUẢ ĐỊA CẦU,

CAO ĐÀI, DUY VẬT, ĐÁO ĐẰU MỚI HAY!

Cứ mãi miết đua tài kình chống,

Vẫn hoài hoài nuôi mộng đấu tranh;

Lớn xúi giục, nhỏ tán thành,

Đấu tranh ai hưởng, chỉ rành đây coi?

Đường tên đạn dường thoi sanh tử,

CÓ mấy đời hung dữ vẹn toàn?

Thì ra cướp trộm giàu sang,

Ai đâu hiền đức lang thang tội tù.

Đời tàn bạo, bóng cu chóng mất,

Chơi dao thì định chắc bị dao;

Xưa nay chém giết anh hào,

Vui say súng đạn, ai nào toàn thây?

Hội Thần Thánh Đông Tây Nam Bắc,

Tam Giáo Tòa giở luật xét minh;

Dầu cho dạ sắt lòng đinh,

Lệ rơi dài vắn, động tình xiết bao!

V ì chơi linh nhiều màu xinh xắn,

Lớp thú cầm tu đặng hóa thân;

Oán gây chuyện trước Phong Thần,

Kẻ đôn người đốc, kẻ mầng người lo.

Luật thiên định không cho huờn xác,

Lẫn linh hồn thưởng phạt vong tồn;

Diệt luôn một kiếp linh hồn,

Không đày không đọa, bảo tồn cũng không.

Đại nguyên căn khó lòng cứu vãn,

Phạm sát sanh là phạm Thiên điều;

TU HÀNH ĐÃ CÓ MỤC PHIÊU,

KHÔNG THƯƠNG, KHÔNG GHÉT, BẤY NHIÊU LÀ CÒN!

CHƯƠNG TRÌNH điểm ngòi son khó nhọc,

Nhứ định rồi thưởng phạt rõ ràng;

Người sầu, quỉ khóc, thần than,

Trời thay, đất diệt, thế gian tan tành!

PH Ầ THỨ NHẤT: Chiến tranh gây hấn,

Tức bực rồi ĐẠI VẬN THỨ BA;

Chín năm tan nát cửa nhà,

Họa phân chủ nghĩa bất hòa gian hung.

Ngôi thứ ba anh hùng trổ mặt,

PHÂN THỨ NHÌ: TÍNH CHẤT DUY Tâm;

Chia ra tôn giáo ba phần:

Tây Phi, Bắc Ấn chiếm lần Đông Nam.

PH ẦN THỨ BA: ÔN HOÀNG vận chuyển,

Gió mưa hòa sấm điện chớp giăng;

Lành còn dữ mất chưa yên,

Long kỳ cù rống liên miên ầm đùng,

PH ÂN THỨT­: ĐẤT RUNG NÚI NGÃ;

Bao lâu đài đổ xả, thây phơi,

Chó gà tiếng bặt đêm ngày,

Đường không, nhà trống, chẳng ai một ng­ười !

PH ÂN THỬ Năm: đổi trời thay đất,

CHUYỀN NGŨ HÀNH THẤT NHẬT liên miên;

Công đồng Phật Thánh Thần Tiên,

Tây Phương Cực Lạc tại miền trần gian.

PH ẦN THỨ SÁU: THIÊN HOÀNG trở lại,

Phân Càn Khôn thế giới ra tư,

Thái dương chánh Bắc lên từ

Thái âm luân chuyển đêm như­ ngày giờ.

PH ÂN THỨ BÀY: chia bờ ranh giới,

Lập ĐỊA HOÀNG vạn đợi cỏ cây;

Bốn mùa thời tiết Đông Tây,

Mưa hòa nắng dịu, gió mây trong vàng.

PHẦN THỨ TÁM: NHƠN HOÀNG trị thế,

Đạo đức gìn luật lệ an bang;

Long hoa đã hết lệ tràn,

Âu ca lạc nghiệp bình an vui vầy!

THĂNG -

TIẾP ĐIỂN:

DI về cao thượng mật tâm thơ,

LẠC nẻo xa xăm cách bến bờ;

PHẬT pháp tà quyền nên biến cải,

VƯƠNG trong thập ngoạt đổi thiên cơ.

THI:

Vì việc tà thần mới đổi thay,

Làm cho đệ tử phải ai hoài;

Bản đồ lậu sự nên thâu lại,

Tạm một thời gian, Phật đáo lai.

THI BÀI

Nay Phật Vương ban ơn đệ tử !

Tịnh tọa thiền, ưu lự nghe phân

Phật nay xuống chốn hồng trần,

Để lời chỉ bảo thiên ân lo lường

Từ tam miền, trung ­ương cũng thế,

Bảng Huỳnh Đạo tạm bế thời gian;

Tà ma lợi dụng đạo vàng,

Giả danh, giả nghĩa, làm càn chẳng kiêng,

Lũ yêu quỉ Thần Tiên chẳng kể,

Phải tạm ngưng quyền thế nhứt thời;

Chẳng nên thố lộ cơ Trời,

Làm cho ma quỉ tiếng đời mỉa mai.

Hạ tấm bảng Thiên Khai Huỳnh Đạo,

Đợi tới ngày Phật bảo hành hương;

Khuyên đệ tử dạ chớ sờn,

Có Ta trị thế khải đờn thiền minh.

Ngày Thiên Khai Đạo Huỳnh trở lại,

Ấy là ngày mở tại VĨNH LONG;

TÂN HÒA Tự có sắc phong,

Là cơ Di Lạc đại đồng uyên thâm.

Quỉ xuất hiện miền Đông thành nội,

Để phô bày cái dối giả danh;

Lợi dụng Thiên Khai Đạo Huỳnh,

Cũng cơ bút chuyển, huyền linh Ngọc Hoàng,

Lòng dục vọng nhân tài đô thị;

Tưởng đâu rằng thiên ý bày khai;

Nào ngờ lũ quỉ dụng oai,

Mượn danh Ngọc Đế mà bày chuyện riêng;

Khổ cho Đạo điều nghiên chẳng nổi,

Cứ mãi mê tiếng gọi rền vang,

Lý thuyết mê hoặc rõ ràng

Cũng xưng Thần Thánh, đạo vàng khuếch trương.

Thương nhân sanh không tường tận được,

Thà cam đành ô thước khổ tâm;

Đừng cho ma quỉ tính ngầm,

Bôi lem danh nghĩa tối tăm đạo vàng.

BIẾT THƯƠNG YÊU, GIAN NAN TÌM LẦY,

KHÔNG THƯƠNG YÊU, CẠM BẢY SA HẦM.

Kêu gào đã mấy mươi năm,

Tỉnh đi sanh chúng, tự tầm phương hay!

Tạm đổi danh lòng này cũng khó,

Tùy thiên cơ nhượng bộ quỉ ma,

Quỉ ma dụng lịnh Giáo Tòa.

Phái phân hư­ thiệt rõ mà trắng đen;

Ai trong sạch luốc lem giá phẩm,

Bao niên trường suy gẫm lại coi;

Tây Phương trối giọng túc còi,

Thập bát nhị ngoạt nhựt coi lịnh tràng

Phật vâng sắc Ngọc Hoàng Thượng Đế,

Mỗi việc chi thực tế có đây;

Éo le ngày tháng đổi thay,

Khúc quanh Phật đạo dở hay nhiều bề

SƠ NHỨT NHỰT Phật phê cho đúng,

NHÂM DẦN NIÊN, TỨ NGOẠT phô bày;

NGỌ THỜI, cơ bút diễn khai,

Giao cho Phật tử đặng rày hành trang.

Vậy đạo tâm tính toan từng b­ước,

Cứu xét rành mực thước phái chi.

Trải sang biết mấy thời kỳ,

Thể đạo Phật pháp ẩn vi hành tàng,

Rồi cũng phải lớp màn tạm bế,

Bởi tà quyền cậy thế hành hung.

Cung nghinh bửu tượng khó lòng,

Ngô Triều khủng bố long đong tai nàn,

Đến Giáp Thìn sắc ban trở lại,

Cậy miền Đông vận tải lịnh truyền;

Củng cố đường hướng thọ thiên;

Nam thành, Nguyễn phải điều nghiên thi hành.

Lần lần bước khúc quanh Phật đạo,

Khẩu tịnh yên túc bảo hành bư­ơn,

Thọ mạng lịnh dạy đêm tr­ường;

Dẫn đường tiến bư­ớc tầm chương mà hành.

Cần rèn luyện lòng lành sáng chói,

Cho nhơn sanh học hỏi giả chơn.

Tấm lòng tự mỗi cá nhơn,

Là tay hướng đạo thiệt hơn hiểu rành,

PHẬT ĐỊNH TRƯỚC CHIẾN TRANH NÀO SÁI,

PHẠT THẾ TRẦN, SÀNG SẢY CHÚNG SANH;

UYỂN THÂU NHỮNG KẺ TÂM THÀNH,

LÒNG CÒN THIỆN NGUYỆN, BIẾT HÀNH THIỆN LƯƠNG.

CÓ giặc ngoài biên cương chực sẵn,

Còn những phe phái đảng chờ trong.

Cận đây tháo lưới bẻ lồng,

Phóng sanh chim cá núi sông mọi đàng.

Giặc TRUNG HOA sắp sang, Đảng Cộng, '

Làm nhiều điểu ảo vọng đầy vơi;

Loạn ly diễn biến khắp nơi,

Giựt giành quyền lợi đoạt thời ngôi cao.

Kìa XIÊM LA tràn vào tranh cạnh;

NỌ TẦN HOÀNG ỷ mạnh hành hung;

AN GIANG tỉnh ấy quá hung,

Tang thương biến đổi đồng chung xóm làng.

Còn TÂY ÂU mưu toan quỉ kế;

Gây nhiều điều khó thể nói ra.

Xét xem thời cuộc thiết tha,

Hiểm nguy nghèo ngặt, hung đa, ít lành.

KẾ ĐÂY THẤY THỊ THÀNH NGHIÊNG NGỬA,

KHẮP HOÀN CẦU NGÒI LỬA BIẾN THIÊN;

MÁU RƠI THỊT ĐỔ ĐẢO ĐIÊN,

GIỰT GIÀNH CẤU XÉ LIỀN LIỀN ĐÓ ĐÂY.

SỔ CHÂU ÂU Phương Tây đã dứt,

Còn HOA KỲ giành giựt chủ quyền.

TÀU cùng NHỰT BỔN tiếp liên;

ĂNG LÊ, ĐỨC QUỐC vào miền VIỆT NAM;

Binh nước ngoài sẽ đem trợ chiến,

Còn nội binh lập biến cơ huyền,

Đồng ra phát pháo ứng liền.

Đón ngăn PHIÊN QUỐC, CAO MIÊN dữ dằn.

Môn đồ ôi ? đất bằng sóng dậy;

Quá hung tàn rõ bấy trắng đen, .

PHIÊN TẦN oanh liệt chẳng hèn,

Nhưng rồi cũng chịu, khó chen ngai rồng;

Do luật định đại đồng khi trước,

NAM KỲ này khảo dượt chúng sanh;

MƯU HAY, TRÍ GIỎI KHÓ THÀNH,

ĐỦ TÀI, HẠNH, ĐỨC, TÂM THÀNH ỨNG CƠ.

Qua lớp màn cuộc cờ loạn rối.

Sẽ luận bày tiếp nối khởi tuồng,

Môn đồ tua khá lo lường,

Trong cơn nguy ngặt, Phật thường độ cho,

Nay gặp lúc Kỳ Ba mạt hạ,

Cả hoàn cầu thủy hỏa khổ sầu.

Trả vay vay trả đáo đầu;

Dễ nào tránh khỏi luật hầu công minh;

Dân tà quyền thình lình nổi dậy,

Theo Tây phương ắt phải lạc lầm,

Nhơn sanh bởi tại giả tâm.

Chẳng thông thời thế bị lầm đó thôi,

Dân da đen thôi rồi mắc kế.

Muốn đoạt thành ngôi đế Nam Bang,

Cũng vì da trắng mưu toan;

Xúi gây việc quấy, MIÊN tràn nghe theo;

Đó là cơ họa gieo dân số,

Nay đúng kỳ tạo chỗ tâm truyền.

TẦN HOÀNG nào rõ luật thiên,

Tin lời ANH, PHÁP oan khiên dãi dầu,

Quân PHÁP lại khởi đầu cuộc chiến,

Gần đây rồi diễn biến dẫy tràn.

Gian nguy ác liệt khóc than,

Thảm thương cho tỉnh AN GIANG lụy phiền;

Rồi cũng bởi lúa tiền trì kéo;

Mà phải vương chết héo chết khô.

TẦN BANG là đứa mọi nô;

Hành trình tận sát hồ đồ ghê thay;

Kế đây rồi trong ngoài đều loạn;

Có phải đâu một nạn giặc Tần,

SÀI GÒN, GIA ĐỊNH CHÉM ĐÂM,

TAN TÀNH VẬT CHẤT, NÃO NẦN LĂM THAY?

Đảng Dân Chủ chịu rày thảm khốc,

Đúng kỳ rồi, phút chốc rã rời,

Làm chi nên việc nghịch trời;

Khuấy dân hại nước, nhiễu đời thử xem !

Các đạo binh ngoài đem lập kế.

Sẽ kéo vào phế đế, đoạt ngôi,

Gây nên nhơn loại nạn nhồi,

Giống giồng giành giựt, chết thôi chật đàng.

Các tôn giáo mưu toan đế chủ,

Nhưng giả tuồng nhiệm vụ phô trương;

Nào hay ngựa ẩn đường truông,

Phật Vương cứu thế khởi tuồng Long Hoa.

Chừng khi gặp được gà sắc đỏ,

Ắt rạng điềm tỏ rõ ngũ châu,

Nhà Nam bá chủ gồm thâu,

Minh Hoàng xuất hiện, đâu đâu phục tùng.

Vậy từ đây trở đi còn nhiều cơ khảo thí. Trải qua những giai đoạn Đạo chuyển, phần đông chư­ môn sanh cho thế là tai họa khổ hình, rồi trách đất giận trời, nói Thần Thánh chẳng linh để cho bị hại. Nào ngờ đó là trường thi đấu sức,
là lò tạo giồi mài, Phật Tiên cũng do đó mà nâng bước. MỎI KHI CƠ THỬ THÁCH RA ĐỜI LÀ LÚC TOÀN ĐẠO CÓ PHẦN TIẾN BỘ. mở cuộc khảo sát thí sinh để coi lại bước Đạo,
đường tu, sức người chí nguyện, rồi mới nhấc lên các bậc phẩm thừa, để rồi Thiên Tôn ân ban quyền pháp. Nhưng sự hiểu biết có mấy người, còn phần đông lại cho là chướng ngại thì làm sao mong đạt chứng công đức cao dày.
Vậy chư­ Thiên sắc được lịnh khai cơ chuyển pháp để rồi có lịnh Thiên Tôn phổ truyền trong quần chúng rõ cơ Di Lạc ra đời. Giờ đây chư­ môn đồ khá trang nghiêm,
xông trầm hương, tiếp giá ĐÚC NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ
duyệt lại chương trình Long Hoa Đại Hội. Thiên Tôn ban ân lành? Thiên Tôn thượng ỷ !

THĂNG -

TIẾP ĐIỀN:

NGỌC ẩn kỳ sơn xuất tại Nam,

HOÀNG gia xuống thế độ con phàm,

THƯỢNG khai cơ Đạo vận thiên định,

ĐỀ xuất Nam Bang diệt phẩm hàm;

GIÁO hóa con thơ hành chánh pháp;

ĐẠO mầu huấn luyện sắc Già Lam,

NAM kỳ đế chúa còn im ẩn,

PHUƠNG hướng định rồi dạ phải cam.

Các con khá đại tịnh, nghe Thầy khải giáo !

THI

Nơi nơi biến ngặt lộn quanh rồi,

Thế sự chinh nghiêng quá lắm thôi !

Màn cảnh đổi thay lòng ríu rít,

Chạnh sầu thương nhớ bởi vì đời.

Kêu chung nam nữ mau lo liệu,

Đàn nội kêu con chớ rã rời,

Tỉnh thức mơ hòe trong mộng ảo,

Đời tàn muôn dặm dập dồn ôi!

THI BÀI :

Thầy, Chúa Tể hoàn cầu vũ trụ,

Giáng thế trần dụng đủ huyền linh.

Các con giữ dạ sắt đinh,

Vâng lời Thầy phán tận tình chớ lơi;

Đời nghiêng ngửa chiều mơi xáo trộn;

Đời đã tàn đau thốn ớ con !

Lời Thầy dạy trẻ sắt son,

Đời còn chi nữa mà con nghi ngờ;

Đời càng ước càng mơ mộng khổ;

Đời càng đem lại chỗ hố sâu.

Đạo nay như nước tịnh bầu.

Cứu nguy sanh chúng con âu chí thành;

Nhớ những thuở giày sành đạp sỏi;

Nhớ những hồi khó nỗi đau thương,

Con ôi, non nước đoạn trường,

Đạo mầu con giữ, tạo đường hiếu trung,

Xưa TỪ VÂN não nùng biết mấy.

Lâm nạn rồi chẳng thấy bầy trâu,

HUYỀN TRANG tám mốt nạn sầu,

Mới qua Đông ĐỘ mà hầu thỉnh kinh.

TIẾT NHƠN QUÍ lâm hình gian nịnh;

TRƯƠNG QUÍ PHI toan vịnh công lao;

Ngày cùng mới rõ anh hào,

Lọc lừa sàng sảy chì thau hãn tàng,

KHƯƠNG TỨ NHA dậm ngàn chúa chí.

Phải ngồi câu sông Vị đợi thời;

Ngày nay mối đạo luân vơi ;

Thánh vương bảy vị chịu đời lao lung;

Vậy mới rằng anh hùng xử thế,

Vậy mới rằng Minh đế Hoàng gia

Con ôi, vững chí Đạo nhà,

VĂN VƯƠNG, DỦ Lý mới ra Châu trào,

KHUYÊN CÁC CON HIỆP NHAU HÀNH CHÁNH,

RÁN ẤN NƯƠNG, YẾU MẠNH CHĂNG MÀNG;

ĐỢI CHỜ XUẤT CHÚA NAM BANG,

YẾU RỒI LẠI MẠNH, CON TOAN HIẾU LIỀN.

Thầy ứa lụy, nhà thiền vắng vẻ,

Thấy các con chia rẽ chẳng hòa.

THẦY NHÌN LỤY NGỌC NHỎ SA,

BỞI CON CÒN MẮC CON MA KIM TIỀN.

Xúi giục con đảo điên tấc dạ,

Làm cho con mất cả tâm hồn,

Nay đây cận đến.hoàng hôn.

Không lo mền chiếu nhập môn trào đình.

Ngọn cờ phất, binh chinh xuất chúa;

Lưỡi gươm linh tua tủa khắp trời,

Cái ngày tận thế đến nơi;

Thây nằm chật núi, chuột dơi xé rời,

Máu hòa sông, đỏ tươi đồng nội.

Sấm thiên lôi nổ dội chỉnh ghê;

Còn chi non nước gia tề.

Còn chi xã tắc, phu thê ân tình !

Ớ CHƠN LINH GIEO MÌNH THỀ SỰ !

Ớ CON ĐỜI DANH DỰ CÔNG HẦU,

LƯỠI GƯƠM NÓ ĐÃ KÊ ĐẦU,

ĐOẠN DÂY OAN NGHIỆT, DIỆT CÂU MÊ ĐỜI.

Mà còn dạ chiều mơi tật đố,

Mà còn ham gây gổ tranh giành;

Biết đâu định luật tử sanh,

Còn mong chi nữa, tơ mành vấn vương,

KHUYÊN CÁC CON MỘT ĐƯỜNG ĐI THĂNG,

ĐỪNG SỜN LÒNG, CHỊU ĐẮNG NUỐT CAY;

HÀNH XONG SẮC LỊNH CAO ĐÀI,

CHỈ RÀNH CHO ĐÓ, HẬU LAI CON TUỜNG.

Nhưng bước đầu muôn đường khổ cực,

Khi vận thành thơm rực danh bia;

Đạo mầu Thầy định xa kia.

Các con phận sự, khóa chìa Thầy giao,

Thầy thường dụng muôn màu giáo huấn;

Để giúp con xây dựng nhiệm mầu,

Thầy nào gạt trẻ khổ sầu,

Luyện trau tâm pháp cao sâu tỏ tường.

Bước đi lên tầm phương liệu trước;

Nền tảng này vận nước ứng cơ;

Màu vàng đất Việt dựng cờ,

Cứu nguy sanh chúng khỏi bờ chiến tranh.

Các con ơi, muốn thành chánh vị,

Đáng mặt trang tài trí của đời;

Thì con vưng thửa lịnh Trời;

Ẩn vào thiền tự, chiều mơi công trình,

Đặng các con tập tành tấc dạ,

Chờ ngày sau giải họa thế trần.

Diệt tiêu tà mị vô thần,

Thì con đắc chí cứu dân muôn ngàn,

Phò Phật Vương, Minh Hoàng trừ nạn,

Đặng lập đời xinh rạng thượng nguồn,

Kỳ này trẻ gắng keo sơn,

Lối đường Thầy định nhiều cơn khảo nhồi.

HỠI CÁC CON LẠC LOÀI VỊ CŨ,

MẨY NGÀN NĂM NGÔI CỰU BỎ LÌA;

NGÀY NAY TRỚ BƯỚC QUAY VỀ,

CON ĐỪNG MƠ MỘNG ĐẦM ĐÌA TRÂM LUÂN!

Con hỡi con, não nùng chi bấy?

Con hỡi con xem thấy hãn tàng!

Bao nhiêu việc cõi thế gian,

Thầy đây đã thốt, hai hàng lệ rơi.

Từ giã con cõi đời, Thầy trở,

Duyệt chương trình, Thầy mở bạch thư;

Giao cho DI LẠC chủ từ,

Thầy hồi Bạch Ngọc, con chừ hành y!

THĂNG