Thiên Y A Na
Bà Thiên Y A Na hay Bà Thánh Mẫu Chúa Ngọc, người Chiêm Thành (gọi tắt là người Chiêm hay Chăm), gọi là nữ thần Poh Yang Inư Nagar (hay Po Ino Nogor), tuy chỉ là một vị thần theo truyền thuyết, nhưng đã được cư dân Việt và Chăm thờ phụng, và đã được nhà Nguyễn xếp vào bậc thượng đẳng thần.
Truyền thuyết
Theo người Chăm
Nữ thần Poh Nagar do bọt nước biển và ánh mây trời sinh ra ngoài biển khơi. Một hôm, nước biển dâng cao đưa bà vào bến sông Yjatran ở Kauthara (Cù Huân). Sấm trời và gió hương liền nổi dậy báo cho muôn loài biết tin bà giáng thế. Tức thì, nước trên nguồn dồn lại thành sông chảy xuống đón mừng bà, và núi cũng hạ mình thấp xuống để đón rước bà.
Khi bà bước lên bờ, thì cây cong xuống để tỏ lòng thần phục, chim muông kéo đến chầu hai bên đường, và hoa cỏ cũng xinh tươi rực rỡ hơn để điểm hương cho mỗi bước chân bà đi. Rồi nữ thần Poh Nagar dùng phép hóa ra cung điện nguy nga, hóa ra trầm hương cùng lúa bắp…
Nhiều phép thuật, bà cũng rất nhiều chồng. Nơi hậu cung của bà, có đến 97 ông. Nhưng trong số đó, chỉ ông Pô Yan Amo là có uy quyền hơn cả. Sống với ngần ấy ông chồng, nhưng bà chỉ sinh được 38 người con gái. Những người con ấy, sau đều thành thần, trong số có ba người được bà truyền nhiều quyền phép, đó là Pô Nogar Dara, Rarai Anaih (cả hai được người dân vùng Phan Rang tôn thờ) và Pô Bia Tikuk. (được người dân Phan Thiết tôn thờ).
Theo người Việt
Đến khi đất Kauthara thuộc về người Việt, thì nữ thần Poh Nagar cũng trở thành vị nữ thần của người Việt với tên gọi là Thiên Y A Na và sự tích của bà cũng được Việt hóa.
Tuy những lời kể có đôi nét khác nhau, nhưng đại để như sau:
Xưa kia tại núi Đại An (nay là Đại Điền), có hai vợ chồng tiều phu già không con, trồng rẫy dưa. Dưa chín, thường bị hái trộm. Rình rập, một đêm ông lão bắt được thủ phạm. Khi biết được kẻ hái là một cô gái nhỏ xinh đẹp nhưng mồ côi, ông liền mang về nuôi. Không ngờ, cô gái ấy vốn là tiên nữ, vì lý do nào đó, phải giáng trần!
Một hôm, mưa lụt lớn, cảnh vật tiêu điều, khiến tiên nữ thêm nhớ cảnh tiên xưa. Cho nên, cô lấy đá và hoa lá tạo thành một hòn giả sơn (hòn non bộ). Cho rằng việc làm đó không thích hợp đối với một phụ nữ, nên người cha nuôi có nặng lời quở mắng. Vì vậy, nhân thấy một khúc kì nam đang trôi dạt, cô bèn biến thân vào khúc cây ấy, để xuôi ra biển cả rồi tấp vào bờ biển nước Trung Hoa.
Mùi hương từ khúc kì nam lan tỏa khắp nơi, khiến nhiều người đến xem, nhưng không một ai nhấc lên nổi. Thái tử nước ấy, nghe tin đồn tìm đến, rồi nhẹ nhàng vác khúc gỗ kia mang về cung. Đêm nọ, Thái tử thấy có bóng người lạ ẩn hiện từ khúc cây kì nam. Rình rập mấy đêm, thì chàng bắt được. Nghe cô gái xinh đẹp tự xưng mình là Thiên Y A Na và khi nghe chuyện của nàng xong, ngay hôm sau, Thái tử đã tâu với vua cha cho phép cưới nàng làm vợ. Sống với Thái tử, Thiên Y A Na sinh được một trai đặt tên là Tri và một gái đặt tên là Quí.
Một hôm, Thiên Y A Na nhớ cảnh cũ người xưa, bèn dắt hai con nhập vào khúc kì nam, vượt biển trở về cố quốc. Khi biết cha mẹ nuôi đã mất, bà cho xây đắp mồ mả, cho sửa sang lại nhà cửa để có chỗ thờ phụng hai ông bà. Thấy dân chúng ở Đại An hãy còn thật thà, chất phác; bà liền đem những gì học được ở quê chồng, như phép tắc, lễ nghi ra chỉ dạy và dạy cả những việc như cày cấy, kéo sợi dệt vải... để người dân quê mình biết cách mưu sinh.
Ít lâu sau, một con chim hạc từ trên mây cao bay xuống, rước bà và hai con về cõi tiên. Nhớ ơn đức, nhân dân địa phương cùng nhau xây tháp, tạc tượng phụng thờ.
Khi đến Đại An, không tin Thiên Y A Na và hai con đã rời bỏ cõi tục, bộ hạ của Thái tử đã tra khảo người dân rất dữ, vì ngỡ họ cố tình che giấu mẹ con bà. Bị oan ức và đau đớn, nhiều người dân đã thắp hương cúng vái bà. Liền đó, một trận cuồng phong nổi dậy, cát chạy đá bay...và toàn bộ những người đến từ phương Bắc đều bị cát vùi thây, thuyền bè của họ cũng bị đá đánh chìm hết…
Theo lời người xưa truyền lại, thì những cụm đá ở trước cửa tháp Bà (tức tháp Po Nagar ở Nha Trang), giữa cửa sông Cù, là những viên đá đã đánh đắm cả đoàn thuyền vừa kể. Sự tích này đã được Kinh lược Phan Thanh Giản chép lại thành bài ký, khắc lên bia đá, dựng sau tháp Bà ở Nha Trang vào năm Tự Đức thứ 9 (1856).
Ngoài ra, vào năm 1925, bác sĩ Sallet chép lời người dân địa phương kể lại, thêm thắt vài chi tiết, đề có một sự tích nữa, tóm gọn như sau:
Một Thái tử Trung Hoa qua Việt Nam tìm vợ, gặp khúc trầm to, muốn đưa lên thuyền, nên cho lính chặt ra làm ba khúc. Tức thì, giông bão nổi lên làm đắm thuyền. Khúc trầm trôi ngược vào sông, tấp vào khu vườn ở làng Bình Thủy (Phan Rí). Do được báo mộng, chủ vườn thức dậy, thì thấy khúc trầm to có ghi chữ Thiên Y (Thiên Y A Na) và hai khúc trầm nhỏ (hai đứa con), và ông đã đem lên cất miếu thờ. Lâu ngày, gỗ trầm hóa đá.
Lại truyền tụng thêm một câu chuyện khác, theo nhà văn Sơn Nam, đó là ngày xưa "có một phú thương người Hoa thử mua hoặc đánh tráo khúc trầm, đưa lên ghe chở về Tàu, thì giông tố liền nổi lên, khiến thuyền phải quày về chỗ cũ".
Tuy nhiên, hai sự tích ghi sau, ít được phổ biến.
Nhận xét truyền thuyết
Khi Phan Thanh Giản làm Kinh lược Tả kỳ, coi Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, ông đã cho khắc sự tích của Thiên Y A Na lên bia ký. Theo nhà văn Sơn Nam, thì ông Giản đã cho rắng "giai thoại của bà Thiên Y là kì quái, là phi lý. Thần tiên mà giận hờn vụn vặt bỏ quê xứ, qua Trung Hoa, rồi vô cớ lại lui về Khánh Hòa. Quỷ thần mà sao có những hành động thiếu tự chủ?". Nhưng theo nhà văn, thì "người dân Việt không thắc mắc chi tiết ấy. Họ chỉ muốn hòa hợp thần thánh cố hữu từ Thanh Hóa với thần thánh địa phương, để cầu phước, nhớ ơn người khuất mặt. Yên ổn về tâm trí thì mới lạc quan mà làm ruộng nước, lên rừng tìm trầm, hái củi, xuống biển đánh cá. Xứ Nha Trang, lộc nước ơn trời, dồi dào hơn so với khu vực từ Huế trở ra Quảng Trị, Quảng Bình. Và tháp Bà Nha Trang từng được giới khảo cổ Pháp khẳng định là đền nữ thần Bà La Môn của vương quốc Chăm...".
Sau khi giới thiệu sự tích bà Thiên Y A Na, thi sĩ Quách Tấn viết:
Sự tích nghe hoang đường nhưng lý thú, và có ý nghĩa. Bởi một khi dân tộc mình bị người ngoại bang dày xéo, bà đã biết dẹp bỏ tình riêng, ra tay tru diệt kẻ bạo ngược. Vậy Hòn Chữ ở giữa sông Cái, mà người dân địa phương bảo rằng đó là đá của bà Thiên Y A Na, là dấu hiệu biểu dương tinh thần dân tộc của nhân dân Khánh Hòa…
Xét khía cạnh khác, trong sách Kiến thức du lịch có đoạn:
Trong truyện dân gian, giữa người Việt và người Chăm có những điểm giống nhau về chủ đề, cấu trúc, hình tượng và ý nghĩa, mà truyện bà Thiên Y A Na là một ví dụ. Đó là kết quả của sự giao lưu, trao đổi, bồi đắp và hòa hợp văn hóa của hai dân tộc.
Tượng thờ
Trong kalan Po Nagar (tức Tháp Bà), tượng nữ thần Poh Nagar (tức Thiên Y A Na) được đặt trong chính điện, trên một cái bệ có vòi luôn quay về hướng Bắc gọi là Snana-droni. Bệ này dùng để thoát nước khi làm lễ tắm tượng, vì dưới chân bệ có một đường thoát nước bằng đá gọi là Soma-sutre xuyên qua tường tháp ra ngoài.
Nữ thần ngồi xếp bằng trên đài sen hai lớp cánh. Sau lưng tượng là một phiến đá lớn hình lá đề chạm kĩ cả hai mặt. GS. Trần Quốc Vượng cho biết, tuy là tượng nữ thần Mẹ của vương quốc, nhưng vì đặt trên một bệ Yoni nên tượng được thể hiện với dạng Uma (tức vừa là vợ & vừa là một cách thể hiện của thần Civa). Với bốn đôi tay cầm các linh vật khác nhau (bên trong cái Uma) và đôi tay thứ 5 để xuôi trên đầu gối, bàn tay trái úp, bàn tay phải mở rộng, vuông góc với cổ tay trong một thế mudra: an ủi- ban phát. Vậy, có thể hiểu toàn bộ đài thờ này tượng trưng cho cặp Linga - Yoni.
Điều đáng lưu ý nữa là tượng nữ thần được thể hiện rất khác với các Uma trinh nữ. Vì tượng có bộ ngực lớn, căng, nhưng hơi sệ; trên làn da bụng có những nếp nhăn của một người nữ đã nhiều lần sinh nở. Rất tiếc, hiện nay pho tượng đã được khoác xiêm y, mũ miện sặc sỡ, làm che khuất những đường nét và vóc dáng tràn trề sinh lạc mà mềm mại, dịu dàng của Bà Mẹ xứ sở.
Thờ phụng & ảnh hưởng
Trích một số ý kiến:
Tín ngưỡng thờ bà Thiên Y A Na được bắt nguồn từ tục thờ bà Ponagar của người Chăm. Hay nói đúng hơn, những người Việt đến định cư ở đất này đã Việt hóa tục thờ Bà Mẹ Xứ Sở của người Chăm bằng truyền thuyết về bà Thiên Y A Na giáng trần tại núi Đại An và hiển thánh ở Tháp Bà - Nha Trang.
Việc thờ cúng Thiên Y A Na có nhiều yếu tố tương tự tục thờ Mẫu ở các tỉnh phía Bắc Việt Nam, có xen lẫn với hiện tượng cầu đồng, hát chầu văn...và đối với người bình dân, ít ai nghĩ đây là một vị thần có nguồn gốc Chămpa. Ở các miếu Bà, mặc dù bên trong miếu có thờ một tượng thần Chămpa, nhưng các truyền thuyết đi kèm thường miêu tả như là nhân thần Việt.
Chúa Xứ Thánh mẫu hay Chúa Xứ Nguyên Nhung là thần phù hộ nông dân trong một ấp. Nguồn gốc là vị thần này là Ũma – tức nữ thần Bảo Tồn của đạo Bà La môn tại Ấn Độ. Nữ thần Ũma được dân tộc Chăm biến thành Pô nagar - bà Mẹ xứ sở; được người Việt biến thành Ngung Mang nương - là nữ thần phù hộ người đi khai hoang. Từ miền Trung, Po Nagar được đồng nhất thành Thiên Y A na - bà Chúa Ngọc Thánh phi, tục gọi là bà Chúa Ngọc, bà Chúa Xứ hoặc Chúa Xứ Thánh mẫu. Nhà Nguyễn xếp Thiên Y A na Diễn Ngọc phi vào bậc thượng đẳng thần...Từ đó, khi khai hoang lập xong một ấp thì lưu dân xây dựng ngôi miếu thờ Chúa Xứ Thánh mẫu. Do vậy, ở Tiền Giang có hàng trăm ngôi miếu thờ, đa số tập trung ở vùng Cai Lậy, Cái Bè, Châu Thành, Chợ Gạo...
Bà Chúa Ngọc nương nương, hay bà Hồng, cô Hồng ở Nam Bộ, bắt nguồn từ Bà Mẹ xứ sở của người Chăm. Bởi Thiên Y A Na ở miền Trung, được nhà Nguyễn tiếp nhận, phong là " Hồng nhân phổ tế linh ứng thượng đẳng thần." Và Bà Đen ở Tây Ninh, Bà Chúa Xứ ở Nam Bộ rõ ràng cũng là sự tiếp nối của bà Thiên Y A Na. Bằng cớ, là tục thờ Bà với nhị vị công tử, gọi là cậu Tài (truyền thuyết là Tri), cậu Quí (nói trại là cậu Chài, cậu Quý). So với giai thoại, thì hai con Bà đều thuộc nam giới.
Nơi Phụng Thờ Thánh Mẫu Thiên Y ana (Bà Chúa Ngọc Nương Nương)
Điện Hòn Chén
Tháp Po Nagar
Điện Hòn Chén
Tháp Po Nagar
Tục thờ thần bản mệnh
Thần bản mệnh là thần phù hộ từng cá nhân. Bên cạnh tục thờ thần bản gia, tục thờ thần bản mệnh cũng khá phổ biến tại Vĩnh Long.
a/ Theo dân gian, một đứa trẻ khi được tượng hình do tinh huyết của cha mẹ rồi lọt lòng và phát triển thành một nhi đồng 12 tuổi… đều có những vị nữ thần phù hộ, gọi là thần độ sinh hay nôm na là “mẹ sanh”.
Hệ thống thần độ sinh đại khái có các vị thần coi việc sản dục như Kim Hoa Thánh mẫu (người Minh Hương gọi là Chú sanh Nương nương, người Việt gọi là Bà chúa Thai sanh, người Hoa quê ở Quảng Đông gọi là Huệ Phước phu nhân), coi việc thai sản và phù hộ trẻ sơ sinh. Dưới quyền Kim Hoa Thánh mẫu có 3 Đức thầy, tức ba vị Tổ sư ngành hộ sản : Tiên sư, Tổ sư, Chánh sư và thập nhị Huệ bà, tức 12 bà mụ, coi việc sinh đẻ trong từng con giáp. Khi trẻ lọt lòng có thập nhị Huệ bà, Lục cung Thánh mẫu và Thủy triều Long cung phù hộ, không phân biệt nam – nữ.
Chúng ta biết, trong các vị thần kể trên có Kim Hoa Thánh mẫu, 3 Đức thầy và thập nhị Huệ bà thuộc tín ngưỡng Hoa – Việt. Riêng Lục cung Thánh mẫu (nữ thần cai quản rừng xanh) và Thủy triều Long cung (nữ thần cai quản sông biển) vừa mang tính thiện vừa mang tính ác. Có lẽ đây là một dạng của nữ thần Thiên Y A Na đã bị Việt hóa thành thần bản địa.
b/ Cũng theo dân gian, một người trưởng thành từ 12 tuổi đến 60 tuổi đều có một vị thần hộ mạng, tục gọi “ông độ”, “mẹ độ”.
Ở Vĩnh Long có nhiều quan niệm, cách tính phức tạp. Quan niệm thứ nhất cho rằng Quan Công, Quan Bình Thái tử (con nuôi Quan Công), Ngũ công nương Phật (Quan Công, Quan Bình, Châu Xương, Vương Linh Quan, tức thần Thiên Lôi và Văn Xương Đế quân tức thần Văn học), Tử Vi Đại đế (vị Tinh Quân ở Bắc cực chuyên trị tà ma), cậu Trày, cậu Quý (hai con của nữ thần Thiên Y A Na) độ mạng phái nam. Còn thần độ mạng phái nữ là Cửu thiên Huyền nữ (nữ thần cai quản 9 tầng trời), Bồ Tát Quan âm, Chúa Tiên nương nương và Chúa Ngọc nương nương (hai dạng hóa thân của nữ thần Thiên Y A Na).
Đặc biệt ở Vĩnh Long còn có quan niệm Phật Tổ, Tử Vi Đại đế và Táo quân độ mạng phái nam. Cũng có quan niệm vị thần độ mạng phái nam là Ngũ đế (tức Thanh, Bạch, Hoàng, Xích và Hắc đế tượng trưng Ngũ hành). Hoặc cũng có vị thần độ mạng phái nữ là Chúa Tiên, Chúa Ngọc, Thánh Anh La sát.
Riêng người Hoa ở Vĩnh Long cũng có quan niệm thần độ mạng nhưng rất đơn giản. Họ cho Tây Vương mẫu (vị nữ thần ở Điêu Từ cung, cai quản tất cả các vị thần tiên) độ mạng phái nữ, còn Quan Công độ mạng phái nam.
Qua hệ thống thần linh vừa kể, có rất nhiều vị thần xuất phát từ Nho giáo hoặc Đạo giáo. Nhưng bên cạnh cũng có nhiều vị thần xuất phát từ văn hóa Chăm. Xa hơn nữa còn có một số yếu tố văn hóa Bà-la-môn được tổ tiên chúng ta tiếp nhận qua người Chăm hay qua Phật giáo, như chằn Rashasa. Cuối cùng, do ảnh hưởng nhân vật Thiết Phiến công chúa (tức mẹ Thánh Anh Đại vương Hồng Hài Nhi) trong truyện Tây Du, chằn Rashasa trở thành nữ thần Thánh Anh La sát, mang tính ác nhiều hơn tính thiện. Tương tự, đối với dân gian, các vị Phật và Bồ tát đều trở thành độ mạng. Nhưng đây là các vị “thiên thần”, chỉ thường mà không “phạt”.
Riêng đối với người Hoa ở Vĩnh Long, do kết quả giao lưu văn hóa nên họ sẵn sàng chấp nhận những vị thần bản địa. Nhiều nhà cũng thờ cậu Trày – cậu Quý (hai người con của nữ thần Po Nagar) nhưng họ quan niệm thờ cho “vui cửa vui nhà” chớ không có sự suy nghĩ như người Việt. Ngoài ra còn có một số phụ nữ Hoa cũng thờ “Cửu thiên Huyền nữ, Thánh A La sát, chúa Tiên, chúa Ngọc” làm thận độ mạng. Trong tập tục tín ngưỡng của người Hoa cũng thấy vào hình bóng của các vị thần này nhưng thờ làm thần độ mạng là tục lệ của người địa phương.
Nhà nghiên cứu Trương Ngọc Tường – Sách Tìm hiểu Văn hóa Vĩnh Long
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét