CHƯƠNG IV: KẾT KHUYẾN LƯU THÔNG
A. KHUYẾN CHÚNG PHỤNG HÀNH (khuyên đại chúng phụng hành)
A.1. CỬ SỞ TỤNG PHÁP (nêu giới pháp đã tụng)
Kinh văn
1. Phiên âm:
Từ câu “chư Phật tử thính...” cho đến câu “ngã diệc như thị tụng”.
2. Dịch nghĩa:
Các Phật tử lắng nghe! Mười giới trọng, bốn mươi tám giới khinh này, chư Phật trong ba đời đã tụng, sẽ tụng và hiện đang tụng. Nay ta cũng tụng như vậy.
Lời giảng:
Chư Phật tử lắng nghe! Ta đã tụng năm mươi tám giới gồm mười giới trọng và bốn mươi tám giới khinh. Ðây là bổn nguyên tâm địa của chư Phật, do chư Phật trong ba thuở triển chuyển truyền tụng mới có, là căn bản của chư Bồ Tát. Tất cả chúng sanh nhờ đó mà được thành Phật.
Thế nên chư Phật đời quá khứ đã tụng mười giới trọng và bốn mươi tám giới khinh này.
Chư Phật đời vị lai sẽ tụng mười giới trọng và bốn mươi tám giới khinh này. Chư Phật đời hiện tại đương tụng mười giới trọng và bốn mươi tám giới khinh này.
Nay ta cũng tùy thuận chư Phật mà tụng mười giới trọng và bốn mươi tám giới khinh này cũng vậy.
---o0o---
A.2. CHÚC LƯU THÔNG NHƠN (giao phó pháp cho người đời sau lưu truyền)
Kinh văn
1. Phiên âm:
Từ câu “nhữ đẳng nhứt nhứt đại chúng...” cho đến câu “...hóa hóa bất tuyệt”.
2. Dịch nghĩa:
Ðức Phật phán tiếp: “Tất cả đại chúng, quốc vương, vương tử, các quan, tỳ kheo, tỳ kheo ni, tín nam, tín nữ, những người thọ trì giới Bồ Tát, nên phải thọ trì, đọc tụng, giảng thuyết, biên chép quyển giới pháp Phật Tánh thường trụ để lưu thông mãi mãi. Tất cả chúng sanh xoay vần truyền dạy lẫn nhau không dứt.
Lời giảng
Vì chư Phật trong ba thuở đều tụng giới này nên tất cả đại chúng bất luận là quốc vương, vương tử, các quan, tỳ kheo, tỳ kheo ni, tín nam, tín nữ, những người đã thọ trì Bồ Tát giới đều phải nên thọ trì, đọc tụng, giảng thuyết nghĩa lý của giới pháp, biên chép quyển giới pháp thường trụ này, khiến cho quyển giới pháp ấy được lưu thông mãi mãi, và làm cho tất cả chúng sanh xoay vần truyền dạy lẫn nhau không dứt, để tiếp nối huệ mạng của Như Lai. Ðó là điều vô cùng trọng yếu và cấp bách của hiện tại và tương lai.
Tại vì sao giới này được gọi là Phật Tánh thường trụ giới?
Vì giới này không biến dịch, là giới pháp Tâm Ðịa của Ðức Phật Lô Xá Na nên chúng sanh nào không bẩm thọ thì thôi, một khi đã bẩm thọ rồi thì giới
này luôn không lìa nơi tâm, cho đến khi thành Phật nên gọi là Phật Tánh thường trụ giới. Ðây là điểm bất đồng rất lớn giữa giới này và giới pháp trọn đời của Thanh Văn vậy.
---o0o---
A.3. MINH LƯU THÔNG ÍCH (thuyết minh sự lợi ích của lưu thông giới pháp)
Kinh văn:
1. Phiên âm:
Từ câu “đắc kiến thiên Phật...” cho đến câu “thường sanh nhân đạo thiên trung”.
2. Dịch nghĩa:
Do đây, đặng gặp chư Phật, được chư Phật trao tay. Ðời đời khỏi hẳn ba ác đạo và tám khổ nạn, thường được thác sanh trong loài người hay cõi trời. Lời giảng:
Với quyển giới pháp Phật Tánh thường trụ này, Ðức Phật dạy tất cả chúng sanh phải xoay vần truyền dạy lẫn nhau không dứt, như thế thì chúng sanh rốt ráo được lợi ích chi?
Việc ấy trong mấy câu kinh văn trên chỉ rõ như sau:
1. Ðược thấy ngàn Ðức Phật, được chư Phật trao tay. Trên thế gian này, thấy Phật không phải là việc dễ dàng. Vì thường không có Phật xuất hiện. Hoặc khi có Phật xuất hiện ở thế gian thì chúng ta lại bị trầm luân nơi ác đạo, không được sanh trong nhơn gian. Nay nhờ công đức thọ trì, đọc tụng giới pháp này, chẳng những có thể thấy được một Ðức Phật, lại còn có thể thấy được ngàn Ðức Phật.
Ngàn đức Phật được thấy ấy, không phải ở trong ba đời mà là ở trong một đời, chẳng những có thể thấy được ngàn đức Phật, lại còn được chư Phật trao tay.
Vì nghiêm trì Phật Tánh diệu giới này thanh tịnh nên tương lai mới có thể cùng với Ðức Phật Lô Xá Na ở trên đài hoa sen ngàn cánh, đồng nắm tay nhau đi và cũng được nhìn thấy ngàn Ðức Phật Thích Ca cùng nghìn trăm ức Phật Thích Ca ở trước mặt mình.
2. Ðời đời khỏi hẳn ác đạo và tám khổ nạn: Do thọ trì Phật tánh thường trụ diệu giới này, có thể ngăn dứt những lỗi lầm của ba nghiệp thân, khẩu, ý nên không bị đọa vào trong ba ác đạo và tám khổ nạn. Ðây là công năng lực dụng “ly khổ” của giới này.
3. Thường được thác sanh trong loài người hay cõi trời. Do thọ trì Phật Tánh diệu giới này, có thể phát sanh tất cả thiện pháp, nên thường được qua lại cõi nhân thiên để hưởng những sự thù thắng khoái lạc. Ðây là lực dụng “đắc lạc” của giới này.
---o0o---
A.4. TRÙNG KHUYẾN PHỤNG HÀNH (khuyên đại chúng lãnh thọ và thực hành lần nữa)
Kinh văn
1. Phiên âm:
Từ câu “ngã kim tại thử thọ hạ...” cho đến câu “như Vô Tướng Thiên Vương phẩm Khuyến Học trung nhứt nhứt quảng minh.
2. Dịch nghĩa:
Nay ta ở dưới cội Bồ Ðề này lược giảng giới pháp của chư Phật. Tất cả đại chúng phải nhứt tâm học Ba La Ðề Mộc Xoa và hoan hỷ phụng hành.
Như phần Khuyến Học trong phẩm Vô Tướng Thiên Vương mỗi mỗi đều giảng rõ.
Lời giảng
Thọ trì Phật Tánh thường trụ diệu giới này có những lợi ích vĩ đại như vậy, cho nên nay Ta (đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật) đặc biệt ở dưới cội Bồ Ðề này thị hiện thành Ðạo, thị hiện chuyển pháp luân.
Ðầu tiên kiết Ba La Ðề Mộc Xoa, tức mười giới trọng, bốn mươi tám giới khinh, đây chính là lược giảng giới pháp tâm địa của tất cả chúng sanh tu nhơn chứng quả mà bảy đức Phật thời quá khứ đã giảng.
Lược giảng là so sánh với giảng rộng mà nói, vì Tâm Ðịa giới pháp này là Vô Tận Tạng giới, chẳng lẽ chỉ có mười giới trọng và bốn mươi tám giới khinh ư?
Ở đây nói là mười giới trọng và bốn mươi tám giới khinh chẳng qua chỉ là lược giảng một cách thật sơ lược, khái quát mà thôi. Vì thế tất cả đại chúng phải nhứt tâm học Ba La Ðề Mộc Xoa và hoan hỷ phụng hành.
Ðức Phật sở dĩ đinh ninh dặn dò nhiều lần như vậy, chủ ý là để biểu lộ niệm độ sanh rất tha thiết của Ngài, vì Phật Tánh diệu giới này có quan hệ rất lớn đối với chúng sanh, nên Ngài phải mở rộng từ tâm khuyên răn nhắc nhở nhiều lần, để cho chúng sanh khỏi cái nạn ở trong đó mà không hay không biết, lại sanh tâm biếng nhác xem thường.
Ở đây chỉ là lược giảng, nếu muốn biết rõ thì tham khảo phần Khuyến Học trong phẩm Vô Tướng Thiên Vương có giảng rộng.
---o0o---
A.5. THỜI CHÚNG HOAN HỶ (Lúc ấy, đại chúng đều vui mừng)
1. Kinh văn:
Từ câu “tam thiên học sĩ...” cho đến câu “hoan hỷ thọ trì”.
2. Dịch nghĩa:
Lúc đó, chư học sĩ trong cõi Tam Thiên ngồi lóng nghe Ðức Phật tụng giới, hết lòng kính trọng, hoan hỷ thọ trì.
Lời giảng:
Trong lúc Ðức Phật lược giảng giới pháp của bảy Ðức Phật thì có chư vị học sĩ trong cõi tam thiên (chỉ cho chư Bồ Tát hiện ở trong pháp hội bao gồm thiên long bát bộ cùng những người đạo, tục, quý, tiện) ngồi lóng nghe Ðức Phật tụng giới, tức là mười giới trọng, bốn mươi tám giới khinh này.
Cả thảy đều hết lòng kính trọng ngôn giáo của đức Như Lai, cùng nhau hoan hỷ thọ trì, không dám có một niệm lãng quên Phật Tánh chủng tử giới pháp này.
---o0o---
B. LƯU THÔNG ÍCH THẾ (lưu thông giới pháp đem lại lợi ích cho đời)
B.1. KẾT THỊ (nêu rõ phần kết thúc)
B.1.1. TỔNG KẾT BỔN PHẨM (tổng kết phẩm Tâm Ðịa) Kinh văn
1. Phiên âm:
Từ câu “nhĩ thời Thích Ca Mâu Ni Phật” cho đến câu “thiên bách ức Thích Ca diệc như thị thuyết”.
2. Dịch nghĩa:
Lúc ấy, Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni giảng xong về mười vô tận giới pháp trong phẩm Tâm Ðịa pháp môn của Ðức Phật Lô Xá Na đã giảng nơi thế giới Liên Hoa Ðài Tạng lúc trước, nghìn trăm ức đức Thích Ca cũng đồng giảng như vậy.
Lời giảng
Hai chữ “lúc ấy” chỉ lúc Ðức Phật phú chúc, đại chúng lóng nghe thọ trì tâm địa giới này như ở trước đã nói: “Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni giảng xong về mười vô tận giới pháp trong phẩm Tâm Ðịa pháp môn của đức Lô Xá Na đã giảng nơi thế giới Liên Hoa Ðài Tạng lúc trước. Nghìn trăm ức đức Thích Ca cũng đồng giảng như vậy”.
Mấy câu kinh văn trên thuyết minh: “Chẳng những một đức Thích Ca ở trong một tiểu thế giới, một mặt nhật, một mặt nguyệt giảng nói như vậy, mà nghìn trăm ức đức Thích Ca ở trong trăm nghìn ức thế giới, nghìn trăm ức nhật, nguyệt, giảng mười vô tận giới pháp trong phẩm Tâm Ðịa pháp môn của đức Lô Xá Na đã giảng và cũng đồng giảng như vậy.
Trong kinh văn nói: “Mười vô tận giới” là chỉ mười giới trọng.
Ở đây có người hỏi rằng: Kinh này rõ ràng nói mười giới trọng, bốn mươi tám giới khinh, nhưng tại sao trong phần tổng kết chỉ nói có mười giới trọng, không nói bốn mươi tám giới khinh là ý gì?
Nên biết rằng mười giới trọng ý nghĩa hàm nhiếp vô lượng giới, không có giới nào chẳng gồm thâu trong ấy. Vì thế trong phần tổng kết dù chỉ nói mười giới, nhưng thật sự tất cả giới đều nhiếp hết trong ấy. Do đó, bốn mươi tám giới khinh đương nhiên cũng đã nhiếp ở trong ấy rồi.
---o0o---
B.1.2. CỬ THẬP XỨ THUYẾT (nêu mười nơi thuyết pháp) Kinh văn
1. Phiên âm
Từ câu “tùng Ma Hê Thủ La thiên vương cung...” cho đến câu “vi trần thế giới diệc như thị thuyết”.
2. Dịch nghĩa:
Từ cung Ðại Tự Tại Thiên Vương, Ðức Phật đến dưới cây Bồ Ðề này, thuyết pháp có mười chỗ. Vì tất cả Bồ Tát và vô số đại chúng thọ trì, đọc tụng, giảng thuyết pháp nghĩa cũng như vậy.
Nơi nghìn trăm ức thế giới, Liên Hoa Ðài Tạng thế giới, vi trần thế giới, chư Phật cũng giảng thuyết như vậy.
Lời giảng
Giới pháp của Bổn Phật (Phật Lô Xá Na), Tích Phật (hóa Phật) đã giảng ở trước đã lược chỉ ra rồi. Giờ đây là nói về địa phương nói giới pháp, điều ấy ở nơi câu: “Kỳ trung thứ đệ thập trụ xứ sở thuyết” (trong mười nơi ấy, Ðức Phật tuần tự ngự đến thuyết pháp).
Trong phần Tự Thuyết Giới Duyên (nhơn duyên thuyết giới) đã nói, ở đây tóm lược lại: “Từ cung trời Ma Hê Thủ La thiên vương” ở Sắc Giới trở đi, tiếp tục đến “dưới đạo thọ này” (đạo thọ là chỉ cây Bồ Ðề mà đức Bổn Sư Thích Tôn đã ở dưới cây ấy hoàn thành vô thượng Phật đạo) “thuyết pháp cả mười chỗ”: câu này nói mười trụ xứ nơi Ðức Phật thuyết pháp. Là từ cung của Ðại Tự Tại thiên vương cho đến cõi Diêm Phù Ðề, Phật đã giảng nói
giới pháp giống như Ngài đã giảng nói ở cõi Ta Bà này, tất cả đều không khác.
Lại nữa, thuyết pháp trong mười trụ xứ ấy đều vì hàng Bồ Tát tu học đã lâu đời, lâu kiếp, cùng với tất cả Bồ Tát sơ phát tâm, cho đến vô số đại chúng, tất cả đều nhất tâm thọ trì như vậy, đọc tụng như vậy, cho đến giải thuyết ý nghĩa của giới pháp cũng như vậy.
Chẳng những Phật ở trong thế giới này, nơi các trụ xứ ấy, nói pháp như vậy, mà Phật ở trong nghìn trăm ức thế giới ở Liên Hoa Tạng thế giới ở trong vi trần thế giới, nơi các trụ xứ ấy thuyết pháp cũng như vậy.
Vi trần thế giới là hình dung thế giới rất nhiều, không thể dùng chữ, số mục mà tính kể được, cho nên dụ như vi trần. Nghĩa là một hạt bụi nhỏ là một thế giới, cứ theo đó có thể tưởng tượng để biết sự vô tận của thế giới.
Nhưng theo kinh Hoa Nghiêm thuyết minh, ở trong Liên Hoa Tạng thế giới có vô lượng vi trần thế giới. Do đó, trong kinh nói: Nghìn trăm ức thế giới, vi trần thế giới thực ra không ngoài một Liên Hoa Tạng thế giới.
---o0o---
B.1.3. MINH SỞ THUYẾT PHÁP (thuyết minh pháp sở thuyết) Kinh văn
1. Phiên âm
Từ câu “nhứt thiết Phật tâm tạng...” cho đến câu “như thị nhứt thiết Phật thuyết vô lượng nhứt thiết pháp tạng cánh”.
2. Dịch nghĩa:
Tất cả Phật tâm tạng, địa tạng, giới tạng, vô lượng hạnh nguyện tạng, nhân quả Phật tánh thường trụ tạng. Tất cả chư Phật giảng thuyết vô lượng pháp tạng như thế đã xong.
Lời giảng
Chư Phật trong vi trần số thế giới nhiều dường ấy, tuyên thuyết giới pháp không có sai khác.
Vậy pháp sở thuyết ấy là những pháp gì?
Theo kinh văn, tất cả Phật trong mười phương ba đời đều tuyên thuyết các tạng như sau:
* Tâm tạng: có hai nghĩa Thông và Biệt.
- Nói về nghĩa Thông là tất cả các pháp đều thuộc nơi tâm. Tâm này chỉ cho tâm thể bản giác. Tất cả vạn pháp trong pháp giới, không pháp nào chẳng hàm chứa trong ấy. Như Bảo Tạng có thể dung chứa các bảo vật nên gọi là Tạng.
- Còn nghĩa Biệt là chỉ cho ba mươi tâm trong ngôi vị Tam Hiền nên gọi là Tâm Tạng.
* Ðịa tạng cũng đủ hai nghĩa Thông và Biệt.
- Nói về nghĩa Thông thì tất cả các pháp đều có thể gọi là Ðịa. Vì tâm thể của các pháp bình đẳng không hai, nên gọi là Ðịa. Ở trong ấy xuất sanh tất cả thiện pháp công đức nên gọi là Tạng.
- Nói về nghĩa Biệt là riêng chỉ Thập Ðịa trong ngôi vị Thập Thánh nên gọi là Ðịa Tạng.
* Giới tạng cũng gồm hai nghĩa Thông và Biệt.
- Nói về nghĩa Thông thì tất cả các pháp đều có thể gọi là Giới. Phân biệt mà nói thì tâm thể xa lìa, bặt dứt tất cả tội lỗi gọi là Giới. Chỉ trì tác phạm (trì giới: ngăn dứt điều ác; phạm giới: tạo tác tội lỗi). Các oai nghi dù nhỏ nhặt nhưng cả thảy đều đầy đủ nên gọi là Tạng.
- Còn nói về nghĩa Biệt là riêng chỉ cho mười giới trọng, bốn mươi tám giới khinh ở trong kinh này.
*Vô lượng hạnh nguyện tạng cũng có hai nghĩa Thông và Biệt.
- Nói về nghĩa Thông thì tất cả các pháp đều có thể gọi là hạnh nguyện.
- Nói về nghĩa Biệt là chỉ cho lục độ, vạn hạnh, mười đại nguyện v.v... Cổ đức đối với loại này đã giải thích rằng: Hạnh Nguyện Tạng nghĩa là từ tâm thể phát sanh. Thực hành các thiện hạnh gọi là Hạnh. Giữ gìn hạnh ấy thành thiện niệm gọi là Nguyện. Vô lượng môn hạnh như bể cả, không thể cùng; vô lượng môn nguyện như hư không không thể tận nên gọi là Tạng.
*Nhân quả Phật tánh thường trụ tạng cũng có hai nghĩa Thông và Biệt.
- Nói về nghĩa Thông thì tất cả pháp đều gọi là Nhân Quả Phật Tánh Thường Trụ Tạng.
- Nói về nghĩa Biệt là riêng chỉ cho Phật Tánh bổn nguyên tâm địa, phẩm Hạ của kinh này.
Cổ đức giải thích về loại này như sau:
- Nhân: chỗ tu hành đầu tiên của tâm thể.
- Quả: chỗ chứng đắc cuối cùng của tâm thể.
Phật Tánh không sanh không diệt, không đến, không đi, thường trụ, nghĩa là thiện chân Phật tánh này. Dù tùy duyên lập các danh tự bất đồng, nhưng mà tánh vẫn không đổi thay.
- Nếu nói về Tâm thì gọi là bất sanh, bất diệt, thanh tịnh bổn tâm.
- Nói về Ðịa thì gọi là Chơn Như Bình Ðẳng Giới Ðịa.
- Nói về Giới thì gọi là Quang Minh Kim Cương Bảo Giới.
- Nói về Hạnh thì gọi là Phổ Hiền Hạnh Nguyện.
- Ở nơi Nhân thì gọi là Tự Tánh Thâm Nhân. - Ở nơi Quả thì gọi là Cứu Cánh Cực Quả.
Vì tự tánh này bao trùm cả phàm thánh, suốt xưa, suốt nay, rộng lớn trùm khắp, không thể xét lường, nên gọi là Tạng. Phật Tánh chẳng phải nhân, chẳng phải quả, nhưng mà nhân quả không ra ngoài Phật Tánh.
Cho nên nói Ðại Thừa Nhân là Thật Tướng của các pháp; Ðại Thừa Quả cũng là Thật Tướng của các pháp.
Thật Tướng ấy tức là dị danh của Phật Tánh. Nay đây Nhân cũng là Phật Tánh, Quả cũng Phật Tánh. Phật Tánh thường trụ thì nhân quả cũng đều là thường trụ. Ðây gọi là Nhân Quả Phật Tánh Thường Trụ Tạng.
Lại nữa, Tâm tạng, địa tạng, giới tạng chính là giới này, là Bồ Tát Tâm Ðịa vậy. Ðại Hạnh, Ðại Nguyện do giới này phát sanh. Chánh Nhân, Chánh Quả do giới này mà được. Thường Trụ Phật Tánh do giới này mà chứng. Rộng lớn thay giới pháp, đến đây là cùng tột rồi vậy!
Tất cả chư Phật giảng thuyết vô lượng tất cả pháp tạng như thế đã viên mãn cứu cánh.
---o0o---
B.1.4. ÐẠI CHÚNG PHỤNG HÀNH (đại chúng tuân theo và thực hành lời Phật dạy)
Kinh văn
1. Phiên âm
Từ câu “thiên bá ức thế giới trung...” cho đến câu “như Phật Hoa Vương Thất Hạnh phẩm trung thuyết”.
2. Dịch nghĩa:
Hết thảy chúng sanh trong nghìn trăm ức thế giới đều thọ trì hoan hỷ phụng hành.
Còn về phần giảng rộng những hành tướng của Tâm Ðịa thời như trong phẩm Phật Hoa Quang Vương Thất Hạnh có nói.
Lời giảng
Tất cả chư Phật giảng nói tâm tạng, địa tạng v.v... vô lượng tất cả pháp môn đã viên mãn cứu cánh. Bấy giờ, tất cả chúng sanh trong trăm ngàn ức thế giới ai ai cũng đều nhận chân mà thọ trì, người người đều hoan hỷ phụng hành, cũng thế, chúng sanh trong thế giới này đều tín thọ phụng hành.
Trước đã nói là thuộc về Ðức Phật cùng với ngôn giáo “năng bị”. Ðoạn kinh văn này là nói cơ nghi của tất cả chúng sanh “sở bị”. Sáu chữ “thọ trì hoan hỷ phụng hành” chứng tỏ cơ giáo hợp nhau, khế hợp đến mức hoàn hảo. Vì nếu cơ giáo không khế hợp nhau, thì dù cho Phật tuyên thuyết bằng cách nào, tất cả chúng sanh cũng không bao giờ hoan hỷ phụng hành.
Việc chư Phật thuyết pháp độ sanh đại lược là như thế. Còn về phần giảng rộng đạo lý, tướng của Tâm Ðịa ở đây không thể nói cho hết được, cần phải
xem phẩm Phật Hoa Quang Vương Thất Hạnh của Ðại Bộ Phạm Võng mới giảng rõ.
Kinh văn nói “tướng tướng” nếu nói đơn giản là từ nơi một tướng Tâm Ðịa rộng khai ra vô lượng giới tướng, nên gọi là Tướng Tướng. Nói rõ hơn, Giới là tướng của Tâm Ðịa, nhưng Tâm Ðịa vốn không có hình tướng. Vì đối với giới có tướng trì, phạm, do giới tướng này mà nói là tướng của Tâm Ðịa. Giới tướng có Tổng, có Biệt.
Tổng tướng là chỉ mười giới trọng. Biệt tướng là bốn mươi tám giới khinh. Nhưng thật ra Tổng tướng hay Biệt tướng đều vô hạn, vô lượng, trùng trùng vô tận, giống như mành lưới của Thiên Ðế Thích. Nên biết điều ấy không phải là pháp gì khác, mà là Thật Tướng của các pháp, cho nên mệnh danh là “tướng tướng”.
---o0o---
B.2. KỆ TÁN (dùng lời kệ để ca ngợi)
B.2.1. TÁN TRÌ PHÁP ÍCH (tán thán lợi ích thọ trì giới pháp) Kinh văn
1. Phiên âm
Từ câu “Minh nhơn nhẫn huệ cường...” cho đến câu “trí giả thiện tư lương”.
2. Dịch nghĩa:
Người trí nhiều Ðịnh, Huệ, Thọ trì được pháp này, Lúc còn chưa thành Phật, Ðược hưởng năm điều lợi. Một là thập phương Phật, Thương tưởng hộ trì luôn. Hai là lúc lâm chung, Chánh niệm lòng vui vẻ, Ba là sanh chỗ nào,
Cùng Bồ Tát làm bạn. Bốn là những công đức Giới độ đều thành tựu. Năm: đời này, đời sau, Ðủ giới và phước huệ, Ðây là các Phật tử,
Người trí khéo nghĩ lường Lời giảng
Ðến đây đã giảng kết húc đại đoạn kinh văn trường hàng. Giờ đây bắt đầu dùng kệ để tán mỹ, trước tiên, tán mỹ kết quả lợi ích của việc phụng trì giới pháp.
“Người sáng nhẫn huệ mạnh”: câu này thuyết minh rằng tâm địa đại giới không phải người trí huệ thiển bạc hay ngu si vô trí có thể thọ trì được, mà phải là người đủ trí huệ, bậc minh đạt mới có thể đúng pháp phụng trì. Thế nên ở đây nói là “minh nhân” tức là người sáng suốt, có đủ Nhẫn và Huệ.
- Nhẫn là tượng trưng Ðịnh Lực.
- Huệ là tượng trưng cho Huệ Lực.
Vì định lực có đầy đủ sức mạnh thì tâm của hành giả mới không bị bất cứ sự vật nào ở ngoại giới làm lay động.
Do huệ lực có đầy đủ sức mạnh, chẳng những không bị sự vật ngoại giới lay động mà còn có thể xoay chuyển được sự vật ở ngoại giới, để đoạn hoặc chứng chân.
Vì thế, chúng ta thấy rõ, đối với người Phật tử thọ trì Tâm Ðịa đại giới, Ðịnh và Huệ Lực cả hai không thể thiếu một được.
Nếu chỉ có Huệ lực mà không có Ðịnh lực thì trí huệ ấy chẳng qua chỉ là cuồng huệ, không thể phát sanh công dụng đoạn hoặc chứng chân.
Nếu chỉ có Ðịnh lực mà không có Huệ Lực thì định lực ấy thuộc về si định, không thể có công năng lay chuyển sự vật ngoại giới.
Lại còn có thể giải thích rằng:
- Nhẫn chỉ cho sự giữ gìn của Tâm, sức nhẫn ấy rất cứng rắn, cho nên gọi là “nhẫn mạnh”. Nhẫn mạnh rất cứng rắn có thể giữ gìn giới hạnh vĩnh viễn thường hằng, trước sau không dời đổi.
- Huệ là chỉ cho sự linh thông của Tâm. Huệ ấy rất sắc bén cho nên gọi là “huệ mạnh”. Huệ mạnh sắc bén có thể giữ gìn giới hạnh một cách khôn khéo, viên dung vô ngại.
Chỉ có người như vậy mới có thể thọ trì được tâm địa giới pháp này.
Lưu ý: Câu kệ này khác với bổn dịch Việt văn: “Người trí nhiều định huệ”. Vì cần phải theo nguyên tắc Hán văn nên phải dịch: “Người sáng nhẫn huệ mạnh” để phù hợp với phần giải thích.
“Người có thể hộ trì tâm địa giới pháp” như vậy, chẳng những “tương lai quyết định thành Phật không còn nghi”, mà chính “ngay trong lúc còn chưa thành Phật”, trước tiên, chính mình có thể an nhiên “hưởng năm điều lợi ích thù thắng”:
Năm điều lợi ích như sau:
Một là thập phương Phật,
Thường tưởng hộ trì luôn.
Hai câu này thuyết minh sự lợi ích thứ nhất thâu hoạch được: tâm địa giới pháp này là mẹ của chư Phật, tức là từ nơi giới pháp này mà lưu xuất. Tất cả chư Phật đều do giới này mà thành Chánh Ðẳng Chánh Giác.
Nay nếu bạn có thể đúng như pháp giữ gìn giới này thì đã cùng với khí phần của chư Phật giao tiếp nhau, và có thể nối nắm được huệ mạng của chư Phật. Thế nên cảm đến mười phương chư Phật và được chư Phật dũ lòng từ bi thương xót, luôn vì hành giả thủ hộ, khiến cho tất cả ma quỷ ngày một xca lìa, thánh đạo mỗi ngày được tăng trưởng, và có thể nối thạnh được Phật chủng. Trong kinh Kim Cang nói: “Như Lai khéo hộ niệm chư Bồ Tát" chính là ý này vậy.
Hai là lúc lâm chung, Chánh niệm lòng vui vẻ,
Hai câu này thuyết minh sự lợi ích thứ hai: người Phật tử đúng như pháp giữ gìn tịnh giới của Như Lai, đã được khí phần của Như Lai thì không gì đã có đủ Phật nhãn, thế nên đến lúc sanh mạng này kết thúc, nhờ oai lực của giới đức làm cho hành giả chánh kiến phân minh, xa lìa tất cả điên đảo, mộng tưởng, đạt được cứu cánh Niết Bàn, được đại an lạc tự tại.
Người nghiêm trì tịnh giới đến mức độ này, khi lâm chung, không bị các thống khổ đến khủng bố, nên không bị thối thất giới này. Dù cho người ấy có bị vòng sắt nóng cháy đỏ tròng trên đầu, xoay qua xoay lại, trong tâm vẫn an vui không khiếp sợ. Ðấy là do định huệ viên minh tuyệt nhiên không bao giờ có chỗ hủy phạm giới pháp nên nội tâm vẫn sanh đại hoan hỷ.
Ba là sanh chỗ nào, Cùng Bồ Tát làm bạn.
Hai câu này thuyết minh sự lợi ích thứ ba: vì bạn là một Phật tử chân chánh, nghiêm trì tịnh giới của Như Lai, nên dù còn ở trong vòng sanh tử luân hồi, thọ sanh bất cứ nơi nào, đời đời kiếp kiếp không bao giờ tiếp xúc, gặp gỡ kẻ ác hữu, gian đảng, chỉ gặp hiền thánh Bồ Tát ở trong Tam Hiền Thập Thánh để làm pháp lữ, để cùng tiến bước trên con đường Bồ Ðề vô thượng.
Ðối với một Phật tử hành Bồ Tát hạnh, điều này là một tăng thượng duyên vô cùng trọng yếu. Vì nếu gặp phải ác hữu bất tam bất tứ (không ra gì hết) thì chẳng những không thể tăng tiến Bồ Ðề tâm, lại còn có thể bị thối thất tâm Bồ Ðề. Tâm Bồ Ðề đã thối thất thì quả Bồ Ðề vô thượng cũng vô hy vọng.
Bốn là nhóm công đức Giới độ đều thành tựu.
Hai câu này thuyết minh sự lợi ích thứ tư: giới là chỗ chứa nhóm tất cả công đức, như quả đại địa có khả năng sanh trưởng vạn vật.
Nếu bạn thường có tâm thâm tín đối với giới này như vậy, thì giới phẩm của bạn đã trọn vẹn. Khi giới phẩm đã được trọn vẹn thì tất cả nhóm công đức tự nhiên cũng được viên mãn thành tựu.
Do đây có thể thấy rằng: muốn cho tất cả thiện pháp công đức được hoàn thành, trước tiên cần phải thành tựu đầy đủ giới độ. Vì nếu giới hạnh không thanh tịnh thì các độ khác và vạn hạnh công đức pháp tài quyết không thể thành tựu viên mãn được. Vì thế, đối với việc nghiêm trì giới hạnh phải luôn luôn lưu ý.
Năm là đời này, đời sau,
Tánh giới, phước huệ đủ.
Hai câu này thuyết minh sự lợi ích thứ năm: Ở phần trước đã nói qua về giới này, là giới bổn nguyên Phật tánh. Vì thế, phải thông đạt được giới Phật tánh thì mới có thể đạt đến mức “toàn tánh khởi tu, toàn tu ở nơi tánh”.
Vì ở nơi toàn tánh khởi công năng tu hành, cho nên phước đức do trí huệ được viên mãn. Do chỗ toàn tu hiển tánh cho nên huệ nhờ nơi phước đức mà được viên mãn.
Trong bộ Hợp Chú nói: “Tánh giới tức chánh nhân lý thể, chính là pháp thân đức. Nghiêm trì giới Phật Tánh tức duyên nhân phước thiện, chính là giải thoát đức. Ngộ tánh của giới tức là liễu nhân trí huệ, chính là bát nhã đức”. Trong đời hiện tại, nếu bạn nghiêm trì tịnh giới, thì chẳng những ngày đêm sáu thời, phước đức trí huệ của bạn được nhiệm vận tăng trưởng mà ngay đến trong tương lai thành Phật, cũng được phước huệ viên mãn tôn nghiêm, thành bậc Ðại Thánh Lưỡng Túc Tôn vậy.
Nếu nghiêm trì được giới pháp như vậy thì chắc chắn đạt được năm lợi ích kể trên, và phước huệ dần dần được viên mãn. Ðây chính là những Phật tử tương lai nối thạnh Phật vị như ở trước đã nói.
Người nào thọ giới pháp của Phật rồi tức đã vào hàng chư Phật. Vì thế, người trí đối với việc này cần phải khéo léo dụng tâm suy xét nghĩ lường, không được xem thường mảy may. Vì chỉ theo đúng như pháp mà nghĩ lường, thể hội để tu hành, mới thật là người con chân thật của Phật và mới có thể chứng đắc quả vô thượng Bồ Ðề vậy.
---o0o---
B.2.2. TỰ HỌC PHÁP SỰ (giảng giải về việc học giới pháp)
B.2.2.1. KHUYẾN QUÁN GIỚI THỂ (khuyên nên quán sát giới thể)
Kinh văn
1. Phiên âm
Từ câu “kẻ trước tướng giả...” cho đến câu “tất do thị xứ xuất”.
2. Dịch nghĩa
Kẻ trước tướng chấp ngã, Không thể được pháp này. Người trầm không trệ tịch, Cũng không gieo giống được, Muốn nẩy mầm Bồ Ðề,
Trí huệ soi thế gian,
Phải nên quan sát kỹ,
Thật Tướng của các pháp. Không sanh cũng không diệt, Không thường cũng không đoạn. Chẳng đồng cũng chẳng khác, Chẳng đến cũng chẳng đi,
Trong thể nhất tâm ấy,
Siêng tu tập trang nghiêm,
Công hạnh của Bồ Tát,
Phải tuần tự học tập
Nơi học, nơi vô học,
Chớ móng tưởng phân biệt
Ðấy là đệ nhất đạo.
Cũng gọi pháp Ðại Thừa
Hết thảy lỗi hý luận
Ðều từ đây dứt sạch,
Vô thượng trí của Phật,
Ðều do đây mà thành.
Lời giảng
Giới pháp bổn nguyên tâm địa của chúng sanh thuộc về Trung Ðạo liễu nghĩa không lý luận, nên kẻ “chấp trước tướng Ngã” tức là kẻ phàm phu chấp Có, dĩ nhiên “không thể được diệu giới pháp này”. Phàm phu chấp trước Ngã tướng rất dễ thấy biết nên không cần giải nói.
Còn người “diệt thọ thủ chứng” (người trầm không trệ tịch) chỉ cho hàng Nhị Thừa chấp Không, thuộc về loại mầm cây héo, hột giống hư, nên “cũng không gieo giống được”.
Người diệt thọ thủ chứng ý nghĩa như thế nào?
Chính là chỉ các bậc thánh nhân trong Nhị Thừa, các ngài diệt trừ thọ mạng hiện tại để thủ chứng cảnh tịch diệt Niết Bàn, nên gọi là “diệt thọ thủ chứng”.
Thông thường trong các kinh gọi là “khôi thân diệt trí” vậy. Vì các thánh giả Tiểu Thừa thủ chứng lý Thiên Không nên không phải là chỗ gieo giống Bồ Ðề. Giới pháp bổn nguyên tâm địa vốn là chúng sanh và Phật đều bình đẳng, nên đúng lý ra, dù là phàm phu hay Nhị Thừa đều có thể tín thọ gieo giống. Ở đây, nói phàm phu và Nhị Thừa đều là vô phần vì không phải là không thể bẩm thọ hay giới phẩm không thể thấm nhuần trên thân, mà là do các vị ấy không khéo nghĩ lường mà thôi.
Phàm phu và Nhị Thừa nếu muốn nẩy mầm Bồ Ðề, để tâm này tương lai thành bậc Ðẳng Chánh Giác, cần phải dùng quang minh của trí huệ soi trong thế gian, để phá trừ ngôi nhà tối tăm phiền não của tất cả chúng sanh. Ðiều ấy không cần hướng ra ngoại cảnh để tìm cầu, mà chỉ nên phát khởi trí huệ thanh tịnh vô ngại ở trong tâm địa giới pháp này, khéo vận dụng tâm mình để tịnh quan sát Thật Tướng của các pháp.
Ba chữ “tịnh quan sát” trong kệ văn có thể giải thích:
- Tịnh là dị danh của chữ Chỉ.
- Sát là sự thẩm xét kỹ lưỡng của Quán.
Nghĩa là chỉ có sự tu tập Chỉ Quán song tu mới có thể gọi là chân thật tu hành, và cũng chỉ có chân tu như thế mới được có chỗ thể nhận Thật Tướng của các pháp. Nói một cách thông thường thì tất cả các pháp đều do duyên hòa hợp mà sanh. Ðã là pháp duyên sanh thì nhất định không có tự tánh, đương thể tức không.
Trong kinh thường nói: “Tánh không tức duyên khởi, duyên khởi tức tánh không”, là chỉ cho ý trên vậy. Trong tánh không tịch của các pháp, tất cả tướng đều không có, nên gọi là Thật Tướng.
Theo Không Tông nói: “Thật Tướng tức là vô tướng, mà đã vô tướng thì chính là không tánh vậy”.
Theo kinh Phạm Võng này thì Chân Không Vô Tướng chính thật là Thật Tướng. Thật Tướng chính là chỉ cho bổn nguyên tâm thể.
Bổn nguyên tâm thể viên mãn thanh tịnh như thế, đã không thuộc về duyên sanh, cũng không thuộc về duyên diệt, nên hoàn toàn khác với pháp sanh diệt mà phàm phu vọng chấp cho là thật có. Cho nên nói “không sanh cũng không diệt”.
Bổn nguyên tâm thể viên mãn thanh tịnh này chẳng những không thuộc về pháp sanh diệt của phàm phu, mà cũng không thuộc về pháp đoạn thường của ngoại đạo vọng chấp. Vì bổn nguyên tâm thể mỗi sát na vốn không dừng thì sao có thể nói nó là thường trụ? Lại nữa, bổn nguyên tâm thể là pháp
muôn thuở thường hằng, như như thì làm sao có thể nói nó là đoạn diệt? Vì thế nên nói “không thường cũng không đoạn”.
Bổn nguyên tâm thể thanh tịnh viên mãn chẳng những không thuộc về pháp sanh diệt của phàm phu và pháp đoạn thường của ngoại đạo, lại còn không thuộc vào số lượng như thông thường gọi là một hay khác. Vì các loại sai khác khó hợp nhau nên không phải là một; đồng một thể khó phân chia nên không phải là khác. Cho nên nói: “Không một cũng không khác”.
Bổn nguyên tâm thể thanh tịnh vốn xa lìa các tướng động tịnh, nên nếu muốn đón rước nó thì chẳng biết nó đến chỗ nào. Vì nó vốn là không đến. Muốn tìm kiếm nó thì chẳng biết nó ở đâu. Vì nó vốn là không đi. Có động, có tịnh, mới là có đến, có đi. Bổn nguyên tâm thể đã không động không tịnh thì làm gì có sự đến và đi? Cho nên nói: “Chẳng đến cũng chẳng đi”.
Pháp không sanh, diệt, đoạn, thường, một khác đến đi như thế thì rốt ráo chỉ cho pháp gì? Ðó chỉ là một tâm thể. Nhưng trong Nhất Tâm ấy, cần phải vận dụng phương tiện siêng tu tập trang nghiêm.
---o0o---
Trang nghiêm bằng cách nào?
Bồ Tát muốn trang nghiêm bổn nguyên tâm địa này, cần phải từ nơi tự tâm mà khởi dụng. Dùng trí phương tiện chiếu soi cảnh giới tâm, tức là chỉ cho Thật Tướng. Vì thế kệ văn bên trên bảo là “tịnh quán sát”. Do đó, quán sát và trì giới đều là phương tiện trang nghiêm.
- Quán sát là phương tiện thuộc về Lý, gọi là Trí Huệ Trang Nghiêm. - Trì giới là phương tiện thuộc về Sự, gọi là Công Ðức Trang Nghiêm.
Nếu chỉ siêng năng, dùng nhiều phương tiện tu hành, mà không dùng trí quán sát, là thuộc về pháp hữu vi hữu lậu, nên không có Sở Trang Nghiêm. Còn chỉ dùng trí tịnh quán mà không siêng năng dùng phương tiện tu tập là thuộc về khô khao, không tịch, không có Thể Trang Nghiêm.
Thế nên ở trong thể Nhất Tâm phải vận dụng trí huệ khéo léo và dùng nhiều phương tiện tu tập để trang nghiêm. Giới thanh tịnh, trí huệ thanh tịnh như người rửa tay, đồng rửa cả hai tay, không thể nói cái nào trước, cái nào sau. Phước đức và trí huệ trang nghiêm như vậy là “sự việc của Bồ Tát nên làm” (công hạnh của Bồ Tát). Vì huệ giải như vậy, chỉ có bậc Bồ Tát phát Ðại Thừa tâm, bẩm thọ Ðại Thừa giới mới có thể làm được, không phải là chỗ mà hàng phàm phu cùng thánh giả Nhị Thừa có thể nghĩ lường và làm được. Tuy về mặt ngôn ngữ giảng nói như vậy, nhưng không phải chỉ là nói suông cho xong chuyện, mà còn phải tuần tự theo đúng như pháp, khéo léo học tập
mới có thể được chân thực tương ưng, nên nói rằng phải “tuần tự học tập”.
Về phương pháp tuần tự học tập ấy như thế nào? Như trong hai câu kệ:
“Nơi học, nơi vô học,
Chớ móng tưởng phân biệt”
Hai câu này ý nghĩa như thế nào?
Nghĩa là đối với việc học tập, không nên khởi tâm phân biệt cho là việc học tập. Vì nếu khởi tâm phân biệt như vậy, tức là đã thuộc về vọng niệm phân biệt. Tại sao vậy?
Nên biết rằng sự tu học đây là xứng tánh tu học. Nghĩa là học tập tức không học tập; ở trong chỗ không tu mà có tu học rõ ràng. Cho nên học cùng với vô học vừa xem qua dường như có thứ tự; nhưng trên thực tế, dường như dấu chim bay trên hư không, đâu có dấu vết gì mà có thể kiếm tìm?
Sự học tập cũng như vậy, đâu có thứ tự gì! Ðây là điểm bất đồng rất lớn với pháp môn Tiệm Thứ Tu Học. Vì đây thuộc về lý cứu cánh cực viên đốn nên không có một tâm niệm phân biệt mảy may. Vì thế nên nói: “Chớ móng tưởng phân biệt”.
Không móng tưởng phân biệt, điều này trọng yếu phi thường. Vì khi động niệm phân biệt, tức đã thuộc về tác dụng hoạt động hữu vi của tâm thức, chứ không phải là vô phân biệt của Bát Nhã Chân Trí. Do đó, không thể thú hướng vào Trung Ðạo Ðệ Nhất Nghĩa Ðế. Cần yếu nhất là phải ở trong chỗ không móng tưởng phân biệt, thì Trung Ðạo mới rõ ràng hiển hiện. Ðấy là Ðệ Nhất Ðạo. Có đi lên Trung Ðạo Ðệ Nhất Nghĩa Ðế mới không bị lạc vào đường quanh co của Nhị Thừa, cho nên nói: “Cũng gọi pháp Ðại Thừa”. Tâm địa Thật Tướng xa lìa phân biệt này giống như đống lửa lớn, bất cứ cái gì đụng đến liền bị tiêu diệt, không thể nào tồn tại. Cũng thế, các thứ vọng chấp như chấp có, chấp không, chấp nhân, chấp ngã, chấp bỉ, chấp thử v.v... ở trên thế gian này đều thuộc về pháp hý luận. Một khi gặp phải Tâm Ðịa thật tướng cũng như củi gặp lửa, đều bị tiêu diệt sạch, cho nên nói:
Hết thảy lỗi hý luận Ðều từ đây dứt sạch,
Lại nữa, Thật Tướng tâm địa xa lìa phân biệt này giống như biển cả, không có một thứ đại trân bảo nào lại không từ đấy mà xuất sanh.
Những thứ đại trân bảo là chỉ cho những pháp gì?
Là chỉ tất cả trí huệ biện tài, thần thông tam muội, Nhất Thiết Chủng Trí và vô lượng công đức pháp tài của quả vị chư Phật đều từ trong đó mà lưu xuất. Cho nên nói:
Vô thượng trí của Phật,
Ðều do đây mà thành.
Vì thế, trong bộ Pháp Ẩn nói: “Ðến đây thì do mầm Bồ Ðề mà kết quả Bồ Ðề, quang minh của trí huệ sáng soi chiếu khắp không cùng tận. Xưa nay tất cả chúng sanh ở mười phương thế giới, ba đời đều như người mù mà được thấy, như trong nhà tối mà gặp đèn, cho nên nói: “Quang minh soi thế gian” vậy. Nếu chẳng phải là bậc đại minh thì làm gì có thể khéo suy nghĩ diệu nghĩa trong tâm địa như vậy.
---o0o---
B.2.2.2. KHUYẾN HỘ GIỚI TƯỚNG (khuyên hộ trì giới tướng) Kinh văn
1. Phiên âm
Từ câu “thị cố Phật tử...” cho đến câu “thánh chúa sở xưng tán”.
2. Dịch nghĩa
Vì thế nên Phật tử
Phải phát tâm dõng mãnh,
Nghiêm trì giới của Phật,
Tròn sạch như minh châu,
Chư Bồ Tát quá khứ,
Ðã từng học giới này,
Hàng vị lai sẽ học,
Người hiện tại đương học,
Ðây là đường Phật đi,
Là chỗ Phật khen ngợi.
Lời giảng
Ðoạn văn trên đây là thuộc về thể văn tụng, khuyên hộ giới tướng. Tịnh giới đã từ nơi Thật Tướng tâm địa xuất sanh, vì thế nên Phật tử đối với tịnh giới lại không lo gìn giữ hay sao?
Hơn nữa, giới pháp lại rất dễ phạm, thêm khó hộ trì. Thế nên người Phật tử muốn hộ trì giới pháp không mảy may trái phạm, phải thật tinh tấn dõng mãnh. Cho nên nói phải phát đại tâm dõng mãnh (phát tâm dõng mãnh) “nghiêm trì giới của Phật”.
Phải hộ trì bằng cách nào?
Phải hộ trì như minh châu, không để cho có sự tổn nhiễm mảy may. Như thế mới là người Phật tử hộ trì Kim Cương Quang Minh Bửu Giới trong tâm địa.
Ý nghĩa cần phải hộ trì tịnh giới của chư Phật như giữ gìn ngọc minh châu trong bộ Pháp Ẩn có giải thích ba nghĩa như sau:
1. Khiết tịnh là giữ gìn không cho nhiễm ô.
2. Viên mãn là giữ gìn không cho sứt mẻ.
3. Quang minh là giữ gìn không cho mờ tối.
Chỉ có hộ trì tịnh giới của chư Phật như giữ gìn ngọc minh châu như vậy mới gọi là chân thật hộ trì tịnh giới của chư Phật. Ba nghĩa Khiết Tịnh, Viên Mãn, Quang Minh chính là ý nghĩa Lô Xá Na vậy.
Hộ trì tịnh giới đầy đủ ba nghĩa như vậy tức là Tam Tụ Tịnh Giới:
- Các ác pháp không pháp nào chẳng sạch rốt ráo là thuộc về Nhiếp Luật Nghi Giới.
- Các thiện pháp không pháp nào chẳng viên mãn thuộc về Nhiếp Thiện Pháp Giới.
- Quang minh soi khắp tất cả chúng sanh là thuộc về Nhiếp Chúng Sanh Giới.
Chư Bồ Tát quá khứ dĩ nhiên đã từng học giới này.
Chư Bồ Tát vị lai cũng ở trong ấy sẽ học.
Chư Bồ Tát hiện tại chính đang ở trong ấy nay đang học.
Chẳng những chư Bồ Tát trong ba đời đồng học mà cũng là chỗ hằng sa chư Phật đồng đi, cho nên nói: “Ðây là đường Phật đi”. Phật là bậc thánh nên gọi là Thánh Chúa. Người Phật tử hộ trì tịnh giới tinh tấn dõng mãnh như vậy, do nhân trì tịnh giới này sẽ viên chứng quả vô thượng Bồ Ðề. Do vậy, chư Phật sao lại chẳng tán mỹ? Thế nên nói; “Ðại Thánh Chúa ngợi khen”.
---o0o---
B.2.3. KHUYẾN HỘ HỒI HƯỚNG (khuyên hộ trì hồi hướng cho chúng sanh)
Kinh văn
1. Phiên âm
Từ câu “ngã dĩ tùy thuận thuyết” cho đến câu “tất đắc thành Phật đạo”.
2. Dịch nghĩa
Ta đã giảng giới xong, Phước đức nhiều vô lượng, Hồi hướng cho chúng sanh, Ðồng đến Nhứt Thiết Trí, Nguyện ai nghe pháp này, Ðều được thành Phật đạo. Lời giảng
Ðây là văn tụng khuyên hộ trì tịnh giới hồi hướng cho chúng sanh. “Ta” là chỉ đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật đã tùy thuận theo chư Phật giảng tâm địa đại giới này, phước đức ấy chứa nhóm đương nhiên là rộng lớn vô lượng. Nhưng vô lượng phước đức này không phải mong cầu riêng cho cá nhân mình mà là đem hồi hướng cho chúng sanh tất cả đồng đến Nhứt Thiết Chủng Trí.
Nói một cách khác là mình cùng với tất cả chúng sanh đều đồng thành Phật đạo. Chẳng những hồi hướng như vậy và còn nguyện ai được nghe pháp này đều được thành Phật đạo. Nghĩa là nguyện cho tất cả chúng sanh đều được thành Phật, không một chúng sanh nào chẳng thành Phật như trong kinh gọi: “Một phen trải qua nhĩ căn vĩnh viễn thành hạt giống Bồ Ðề, y pháp tu hành, quyết định thành Chánh Giác”, chính là ý này.
Bồ Tát Giới Bổn Giảng Ký đến đây đã viên mãn kết thúc. Là Phật tử tu học Phật pháp, dù có sự sai khác giữa Ðại Thừa, Tiểu Thừa nhưng phải lấy Ðại Thừa làm cơ bổn.
Muốn vào Ðại Thừa, điều kiện trước tiên là phải phát Bồ Ðề tâm, thọ Bồ Tát giới.
Bồ Tát Giới là con đường tối yếu của chư Phật, là bậc nghiêm sư của chư thánh hiền. Vì nếu không có Bồ Tát giới làm nghiêm sư, thì bạn không thể bước lên thềm thang của chư thánh hiền. Và nếu không có Bồ Tát giới làm con đường tối yếu, thì bạn không thể đi lên con đường lớn của chư Phật.
Thế nên chư Phật đều lấy giới này làm mục tiêu đồng tuyên dương. Chư Hiền Thánh cũng đồng lấy giới này làm mục tiêu cùng nhau thực hành.
Như trước đã nói qua, Ðại Bổn kinh Phạm Võng này có 61 phẩm. Và phẩm Bồ Tát Tâm Ðịa đã giảng đây là thuyết minh về Quang Minh Kim Cương Bửu Giới, thường trụ Phật Tánh, là giới pháp của chư Bồ Tát đầu tiên cần phải hết sức tu học.
Nếu như có thể học cho thật kỹ giới pháp này, thì chẳng những có thể thành một vị Bồ Tát danh phù hợp với thật, mà có đối với việc thành Phật cũng nắm chắc trong tay không có điều gì nghi ngờ. Vậy tôi (Pháp Sư giảng kinh) nguyện mong tất cả Phật tử hiện diện trong pháp hội này cùng tất cả những vị không hiện diện, đều nên hết sức cố gắng! Cố gắng!
---o0o---
CHUNG - PHẦN PHỤ LỤC
CHÚ THÍCH NGHI THỨC TỤNG GIỚI BỒ TÁT MỖI NỬA THÁNG DO SA MÔN HOẰNG TÁN LƯỢC THÍCH
KHOA MỤC CỦA NGHI THỨC TỤNG GIỚI
1. Quy kính Tam Bảo.
2. Sách tu (sách tấn đại chúng tu hành)
3. Tác tiền phương tiện (những phương tiện trước khi làm việc)
4. Tụng giới tự (tụng lời tựa pháp Ðại Thừa)
5. Kiết vấn.
6. Chánh thức tụng Giới Kinh.
Tham khảo tác giả Nghi Thức Tụng Giới Bồ Tát chưa rõ là người nào. Tuy nhiên, tìm xét trước sau phần nhiều là chép trong kinh văn của Bồ Tát Giới Bổn và Giới Bổn của Nhứt Thiết Hữu Bộ.
Bồ Tát Giới Bổn do ngài Ðàm Vô Sấm Pháp Sư ở triều Bắc Lương phiên dịch. Còn giới bổn của Nhứt Thiết Hữu Bộ do ngài Nghĩa Tịnh Tam Tạng Pháp Sư triều Ðường, niên hiệu Cảnh Long năm thứ tư phụng chiếu phiên dịch. Căn cứ trong văn lời tựa của Bồ Tát giới này thì nói là ở trong thời kỳ Tượng Pháp.
Vì đức Như Lai diệt độ vào khoảng thời gian một ngàn năm, giáo pháp của Ngài lưu truyền đến Trung Quốc, từ nhà Hán, vua Minh Ðế cho đến nhà Tống vua Nhân Tông, năm Tân Mão, giáo pháp của Như Lai phổ biến ở Trung Quốc thời gian một ngàn năm gọi là Tượng Pháp. Từ đó về sau đều gọi là Mạt Pháp.
Theo lời Tựa nói là ở thời Tượng Pháp, là lẽ tất nhiên tác giả không phải thời kỳ Mạt Pháp và nghi thức tụng giới không phải người ở vào triều Ðường biên tập mà có thể là người trong Thiên Thai Giáo ở vào cuối đời nhà Ðường đầu nhà Tống biên tập vậy.
Ðến giờ tụng giới Bồ Tát, đại chúng vân tập, nếu đã lạy Thù Ân thì khỏi phần này, còn không có lạy Thù Ân thì nên lạy thêm trước khi tụng giới.
- Chí tâm đảnh lễ Liên Hoa Ðài Tạng thế giới Phạm Võng giáo chủ Lô Xá Na Phật (tam bái).
- Chí tâm đảnh lễ Liên Hoa Ðài Thiên Hoa Thượng Phật (tam bái)
- Chí tâm đảnh lễ thiên bá ức hóa thân Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật (tam bái).
- Chí tâm đảnh lễ Phật thuyết Phạm Võng Kinh Bồ Tát Giới (tam bái) Vừa lạy vừa quán tưởng
Pháp tánh như hư không bất khả kiến,
Thường trụ Pháp Bảo thật nan tư,
Ngã kim tam nghiệp như pháp thỉnh,
Duy nguyện hiển hiện thọ cúng dường.
- Chí tâm đảnh lễ Tây Thiên Ðông Ðộ lịch đại tổ sư (tam bái)
Khi sắp tụng giới, trong chúng cử vị nào có khả năng lên tụng giới. Người tụng giới lên pháp tòa bạch đại chúng rằng:
- Tôi Bồ Tát tỳ kheo... khể thủ lễ bái kính bạch đại chúng: Hôm nay chúng tăng sai tôi tụng giới, sợ e có chỗ sai lầm. Vậy cúi mong người đồng tụng từ bi chỉ giáo cho!
Chánh văn
---o0o---
1. QUY KÍNH TAM BẢO
Chúng thọ Bồ Tát giới lắng nghe! Quy mạng Lô Xá Na,
Mười phương Kim Cương Phật, Ðảnh lễ đức Di Lặc,
Sẽ hạ sanh thành Phật, Nay tụng ba tụ giới, Bồ Tát đều lắng nghe. Lời giảng
“Nam mô” là tiếng Phạn, Trung Hoa dịch là Quy Mạng, cũng gọi là Quy Y. Lô Xá Na, Trung Hoa dịch là Tịnh Mãn, là chỉ Báo Thân Phật.
“Mười phương Kim Cương Phật” là chư Phật trong mười phương thế giới đều nhập Kim Cương đại định, đoạn trừ vô minh vi tế, rốt sau mà thành Chánh Ðẳng Chánh Giác.
Nói về khía cạnh công năng gọi là Kim Cương, còn nói về phương diện sở chứng mệnh danh là Phật.
Phật là giác, gồm tự giác, giác tha và giác hạnh viên mãn.
Di Lặc, Trung Hoa dịch là Từ Thị:
Từ Thị Bồ Tát theo Phật xuất gia tạo các bộ luận Ðại Thừa như Du Già Sư Ðịa Luận v.v... Ðời sau tổ thuật (bắt chước theo) như chư đại Bồ Tát Mã Minh, Long Thọ... nên tôn xưng Từ Thị Bồ Tát là Tiền Luận Chủ. Tiểu kiếp thứ 10 sau đây, lúc thọ mạng của con người được tám muôn tuổi thì Ngài sẽ hạ sanh xuống nhơn gian thành Phật.
Ba tụ giới:
1. Nhiếp Luật Nghi Giới:
- Giới là ý nghĩa ngăn những sái quấy, dứt trừ các tội ác.
- Nhiếp Luật Nghi là không giới nào chẳng nghiêm trì.
2. Nhiếp Thiện Pháp Giới: không pháp lành nào chẳng tu tập, tu tập pháp lành là tu khắp lục độ, vạn hạnh.
3. Nhiếp Chúng Sanh Giới: không chúng sanh nào chẳng hóa độ.
Năm mươi tám giới này có công năng đoạn trừ tất cả ác pháp là Nhiếp Luật Nghi Giới. Tất cả ác pháp đã đoạn, thì thành tựu các thiện pháp là Nhiếp Thiện Pháp Giới. Ác pháp đã đoạn, thiện pháp đã viên mãn, đương nhiên làm lợi ích cho hữu tình là Nhiếp Chúng Sanh Giới.
- Nhiếp Luật Nghi Giới phần nhiều chủ về công đức bên trong. - Nhiếp Chúng Sanh Giới thuộc về hóa độ bên ngoài.
- Nhiếp Thiện Pháp Giới kiêm cả bên trong lẫn bên ngoài.
Tại sao vậy?
Vì bên trong dùng thiện pháp tu tập cho chính mình, bên ngoài đem thiện pháp dẫn dắt mọi người. Như thế dưới là hóa độ chúng sanh, giữa thì tu thiện pháp lục độ vạn hạnh, trên thành tựu cực quả của Phật, ác pháp đã hết, thiện pháp được viên mãn.
Nên kinh Bồ Tát Giới Bổn nói: “Thường giáo hóa chúng sanh không bao giờ thấy mệt nhọc, thiện nghiệp đã rốt ráo rồi thì Phật đạo mau thành tựu” là ý này vậy.
Chư Phật mười phương là Phật bảo, Từ Thị Bồ Tát là Ðại Thừa Tăng Bảo, ba tụ giới là Ðại Thừa Pháp Bảo, vì sắp sửa tụng giới nên trước tiên phải thành kính quy mạng Tam Bảo.
“Bồ Tát đều cùng nghe”: câu này răn nhắc đại chúng nghe giới. Nghĩa là thính chúng hiện tiền, phải cùng nhau nhứt tâm lắng nghe cho kỹ, nghe xong phải tư duy để tu tập.
Chánh văn
Giới như gương báu sáng, Chiếu rõ tất cả pháp.
Giới như châu Ma Ni Rưới của giúp kẻ nghèo,. Thoát khổ mau thành Phật. Chỉ giới này hơn cả,
Vì thế nên Bồ Tát, Phải tinh tấn giữ gìn. Lời giảng
Văn kệ trên từ trong kinh Bồ Tát Giới Bổn chép ra, ý nghĩa như sau:
Tâm địa đại giới có công năng phá trừ sự si mê tăm tối của vô minh trong sanh tử từ vô thỉ trở lại, cho nên dụ như chiếc đèn sáng lớn ở thế gian. Vì phá trừ vô minh trong sanh tử tức thuộc về Nhiếp Luật Nghi Giới.
Tâm địa đại giới này có công năng biện biệt chỉ trì tác phạm (chỉ trì là ngăn dứt những điều ác gọi là trì giới, tác phạm là tạo tác những tội ác gọi là
phạm giới). Tất cả các pháp thiện ác đều phân tách rõ ràng, dụ như gương báu sáng trên thế gian, tất cả cảnh vật tốt xấu đều hiện rõ.
Nên trong Tỳ Kheo Giới Bổn nói:
Như người tự soi gương,
Ðẹp xấu sanh vui buồn.
Vì có công năng đoạn trừ ác pháp, chứa nhóm thiện pháp, chiếu rõ công đức trí huệ nơi Phật địa, tức thuộc về Nhiếp Thiện Pháp Giới.
Ma Ni là tiếng Phạn, Trung Hoa dịch là Như Ý. Ma Ni là vua trong các thứ ngọc. Ngọc này sản xuất trong cung Long vương. Người nào được hạt ngọc này tùy theo tâm niệm ưa muốn của chúng sanh, ngọc ấy lưu xuất các thứ thất bảo, kim, ngân v.v... cùng các nhu dụng khác.
Giới này xuất sanh vô lượng thắng định diệu huệ, tất cả thiện pháp thánh tài để cứu giúp những chúng sanh thiếu thốn thiện pháp, như ngọc Ma Ni ở thế gian cứu giúp những người nghèo cùng.
Vì giới này xuất sanh các thánh pháp, cứu giúp sự nghèo cùng cho chúng sanh trong chín cõi, nên thuộc về Nhiếp Chúng Sanh Giới.
Tâm địa đại giới này là diệu thuật thoát ly sanh tử, là pháp tối yếu mau thành bậc Chánh Giác.
Cho nên trong Tỳ Kheo Giới Bổn nói: “Trong tất cả các Luật, Giới kinh là hơn hết. Trong pháp Tiểu Thừa, nhơn thiên, Thanh Văn, Tỳ Kheo Giới Bổn là hơn hết. Trong pháp Bồ Tát Ðại Thừa Tâm Ðịa Ðại Giới thì Tam Tụ Tịnh Giới là hơn hết”. Nên nói:
Thoát khổ mau thành Phật,
Chỉ giới này hơn cả.
Hai chữ “cho nên” nghĩa là đã biết Tâm Ðịa Ðại Giới này có đầy đủ công năng như trên, cho nên chư Bồ Tát phải tinh tấn giữ gìn đừng cho có chút trái phạm.
2. SÁCH TU (sách tấn đại chúng tu hành)
Chánh văn
Chư đại đức! Phần mùa Xuân bốn tháng làm một mùa.
Lời giảng
Theo thế gian một năm có bốn mùa, trong Phật pháp một năm chia làm 3 mùa vì bỏ mùa Thu. Việc này có hai nghĩa:
1. Vì mùa Thu là mùa thành tựu: thời kỳ thu hoạch các thứ như ngũ cốc v.v... đều có kết quả. Ðức Phật vì muốn phá trừ tâm bảo thủ chấp thường của đệ tử, cho là thường, là vui, nên bỏ mùa Thu không tính.
2. Ðức Phật vì các đệ tử khai cho hậu An Cư, lập tháng Ca Ðề (Ca Ðề là tiếng Ấn Ðộ, Trung Hoa dịch là Mão Tinh, vì từ mười sáu tháng Bảy cho
đến Rằm tháng Tám, gặp nhằm sao Mão, cho các vị hậu an cư tiếp tục an cư được thành tựu, và vẫn gọi là Tọa Hạ (kiết hạ), mà không gọi là Tọa Thu). Vì hai lý do trên, nên bỏ không tính mùa Thu.
Trong đây nói phần:
- Mùa Xuân: từ mười sáu tháng Chạp cho đến Rằm tháng Tư. - Mùa Hạ từ mười sáu tháng Tư cho đến Rằm tháng Tám.
- Mùa Ðông từ mười sáu tháng Tám cho đến Rằm tháng Chạp. Chánh văn
Nửa tháng đã qua.
Lời giảng
Trong giới bổn của Nhất Thiết Hữu Bộ nói: “Do không buông lung chắc chắn sẽ chứng đắc Như Lai chánh đẳng chánh giác, huống chi các thiện pháp khác như ba mươi bảy phẩm trợ đạo”.
“Nhân lúc còn mạnh khỏe, các ngài phải gắng sức siêng tu pháp lành”: nghĩa là hiện tại đại chúng mỗi người đầy đủ phước duyên, được nghe tụng giới pháp Ðại Thừa này phải thừa dịp ngay lúc thân còn khỏe mạnh, tinh thần minh mẫn này, gắng sức siêng tu các pháp lành.
Hai chữ “tại sao” là lời gạn trở lại, nghĩa là trong đại chúng đã được nghe tụng giới pháp, tại sao không cần cầu tinh tiến tu hành đạo nghiệp, đâu nên an nhiên đợi đến lúc tuổi già suy yếu không thể tiến tu, vô thường đã đến một bên, lại còn mong mỏi thú vui gì?
Chánh văn
Ngày nay đã qua Mạng sống giảm lần Như cá cạn nước, Nào có vui chi!
Lời giảng
Bài tụng trên, hai câu trước Ðức Phật chỉ thẳng, hai câu sau lập lại thí dụ. Bài này trong kinh Sơn Diệu chép ra.
Bấy giờ, tại Nam Hải sóng nổi dậy, nước tràn ngập các nơi.
Khi ấy, có ba con cá lớn trôi vào trong kinh mắc cạn. Chúng cùng nhau bàn tính rằng: “Hôm nay chúng ta bị tai nạn này, tuy nhiên nước chưa rút, vậy chúng ta phải thừa dịp lội ngược dòng để trở về biển lớn”.
Nhưng có chiếc ghe nhỏ nằm ngăn chặn, không thể nào bơi qua được.
Con cá thứ nhứt đemn hết sức mình nhảy qua ghe trở về bể cả được an toàn. Con thứ nhì nương theo ghe cố lánh mình theo bờ cỏ mà qua được nên cũng trở về bể cả được an toàn. Con thứ ba khí lực đã hao mòn, nước cũng cạn
dần, thế mà nó vẫn ưu du tự tại bơi lội, với cái chết đến một bên mà không hay, không biết. Ðức Phật nhơn đó nói bài kệ trên để cảnh tỉnh người đời. “Ngày nay” tức là chỉ cho ngày hôm nay. Nghĩa là phần hạn của ngày hôm nay nhứt định, đâu có thể gì hy vọng tăng thêm.
Như trong Thạch Sa Tập nói:
Ngày này không lại nữa đâu,
Một phân thời khắc, một phân ngọc vàng.
Ngày này không lại nữa đâu,
Một phân thời khắc, một nhà ngọc châu.
Một ngày đã qua rồi tức mạng sống con người trong ngày ấy bị giảm thiểu trở về sau cho nên nói là “giảm lần”. Ở trong văn kệ Ðức Phật chỉ nói ngày, ngày đã như thế, với năm tháng suy theo đó mà hiểu, đâu nên ngồi yên để cho trôi qua kiếp sống mà đợi đến già?
Con cá si mê kia đã ở trong chỗ nước cạn, lại thêm ngày đêm bị gió thổi, bị ánh mặt trời thiêu đốt, thế mà nó vẫn nhởn nhơ bơi lội, cái chết đến một nơi không hay không biết.
Lấy việc con cá mà suy đến toàn nhơn loại đâu có khác gì! Con người trên thế gian này thân tứ đại: địa, thủy, hỏa, phong xâm lấn lẫn nhau; ngày đêm bức bách, già chết đến một bên còn hơn con cá trong nước cạn thế nên nói: “Nào có vui chi!”
Nếu người nào có thể phát tâm tinh tấn dõng mãnh không chấp trước hai bên (hữu và vô), y theo Trung Ðạo, sự lý vô ngại, viên tu viên chứng, khế hợp pháp vô sanh, vượt qua khỏi hai thứ sanh tử (phần đoạn và biến dịch sanh tử) trở về với bổn chơn nguyên, như con cá thứ nhất đem hết sức lực của mình nhảy qua khỏi ghe trở về biển cả.
Còn người nào nếu căn tánh không được như vậy, cần phải y theo giáo pháp tu hành chứng lý Chơn Không, trải qua các giai cấp địa vị, ra khỏi vòng sanh tử trở về Niết Bàn như con cá thứ hai kia đầu đuôi nương theo chiếc ghe lách mình theo bờ cỏ mà qua để trở về biển cả.
Nếu những người biếng nhác, trễ lười, không có tâm mong cầu tiến lên, chỉ ham muốn chút ít dục lạc cõi Nhân Thiên, vô thường đến một bên mà không hay biết thì không khác gì con cá si mê kia ở trong nước cạn vẫn bơi lội nhởn nhơ.
---o0o---
2. TÁC TIỀN PHƯƠNG TIỆN (phương tiện trước khi làm việc)
Chánh văn
Vị tụng giới hỏi: - Chúng nhóm chưa?
Lời giảng
Ðại phàm thực hành Yết Ma Bố Tát, tất cả pháp sự, trước tiên cần phải tuân hành những pháp phương tiện sau đây mới được thành tựu, cho nên chúng tăng đồng ở trong một đại giới, thân tâm đều phải đồng nhóm họp một chỗ, để tránh khỏi việc biệt chúng phá tăng cho nên cần phải hỏi trước, nếu chúng đã nhóm nên đáp: Chúng đã nhóm.
Chánh văn
Vị tụng giới hỏi: - Hòa hợp chăng?
Lời giảng
Ðồng một pháp sự, chúng Tăng nhóm họp lại một chỗ cần phải thân khẩu không tranh cãi. Những người không đến thì phải dữ dục. Ở trên dù nói chúng đã nhóm họp, nhưng cũng phải phòng ngừa nhân duyên gây gổ tranh cãi vì sợ có chướng ngại cho pháp sự nên kế đó phải hỏi. Nếu chúng hòa hợp thì nên đáp: - Hòa hợp.
Chánh văn
Vị tụng giới hỏi: - Chúng nhóm họp để làm gì?
Lời giảng
Hôm nay chúng nhóm họp để làm những pháp sự gì?
Pháp sự có nhiều điều do chúng Tăng định đoạt nên cần đối trong chúng hỏi việc làm. Hiện nay làm lễ bố-tát thì nên đáp như sau: thuyết giới bố-tát.
Nếu không phải làm lễ bố-tát, nên y theo việc làm mà nói. Có người sau khi chúngTăng nhóm lại, thêm pháp đơn bạch Yết Ma rồi mới kêu sa di Bồ Tát vào, đâu biết rằng giới Bồ Tát rộng thâu tất cả nhơn và phi nhơn (quỷ thần) không hạn cuộc nơi tăng, nên ở không nói thuyết giới yết ma mà nói là thuyết giới bố tát.
Chính trong lúc thọ giới Bồ Tát cũng không có yết ma, chỉ đối trước tượng Phật, Bồ Tát ba lần tác bạch đây tức là Yết Ma. Nếu tỳ kheo làm các yết ma, pháp sự nên gác lại lúc khác. Sau khi bố tát xong, Bồ Tát tỳ kheo trong đây nếu có những người chưa thọ Cụ Túc Giới, bảo phải đi ra mới nên làm pháp Yết Ma.
Chánh văn
Người chưa thọ giới Bồ Tát và không thanh tịnh ra chưa?
Lời giảng
Câu hỏi này chỉ hai hạng người:
1. Chưa thọ tâm địa đại giới.
2. Ðã thọ mà phạm giới, nếu:
- Phạm mười giới trọng, mà chưa đúng pháp sám hối để được thấy hảo tướng.
- Phạm một giới khinh mà chưa đối thủ sám hối.
Cả hai đều không cho cùng chúng Tăng làm lễ bố-tát, bảo phải ra khỏi chúng, rời khỏi chỗ thấy nghe.
Nếu không thì nên đáp: Trong đây không có người chưa thọ giới Bồ Tát và người không thanh tịnh.
Chánh văn
Có bao nhiêu vị Bồ Tát không đến chúc thọ, thuyết dục và thanh tịnh (chúc là dặn, thọ là trao gởi, nghĩa là dặn dò, trao gởi ý kiến của mình).
Lời giảng
“Không đến” là không nhóm nhóm họp. “Chúc thọ” là phàm chúng Tăng làm tất cả những pháp sự thân tâm phải đều nhóm họp, mới thành hòa hợp. Nếu có duyên sự như lo việc Tam Bảo, bị bịnh, săn sóc bệnh nhơn v.v... mới khai cho tâm nhóm họp (thân không thể đến được) thì được phép truyền thân khẩu ưng thuận theo việc làm của chúng Tăng mới được thành tựu không chướng ngại cho pháp sự và không có lỗi biệt chúng.
“Thuyết dục” nghĩa là bày tỏ ý muốn của mình đối với việc làm của chúng tăng, đúng như pháp tâm mình ưa thích, nhưng vì có duyên sự... nên không thể đến nhóm họp nếu cần phải họp này cho một người khác truyền tâm khẩu của mình đi đến và chúc thọ chúng Tăng.
Nên đối với những người chúc thọ nói như sau: “Ðại đức một lòng nhớ nghĩ, tôi là Bồ Tát giới tỳ kheo đối với việc làm của chúng Tăng đúng như pháp giữ dục và thanh tịnh” (1 lần)
Nếu bịnh nặng nói không được thì nên hiện tướng nơi thân, tay. Người nhận lời chúc thọ kia đem ý muốn của người đi không được đến trong chúng tăng, Khi nghe câu hỏi trên liền oai nghi nghiêm chỉnh tác bạch rằng: “Ðại đức Tăng lắng nghe cho! Bồ Tát giới tỳ kheo... tôi nhận dữ dục và thanh tịnh. Thầy ấy đối với việc làm đúng pháp của chúng Tăng dữ dục và thanh tịnh” (1 lần)
Nếu chẳng phải làm lễ bố-tát, chúng Tăng làm yết ma pháp sự khác thì bớt hai chữ “thanh tịnh”; nhưng hiện tại làm lễ bố-tát cũng không được riêng nói “thanh tịnh” vì lúc Bố-tát hay làm các pháp sự khác, cần phải nói “dữ dục và thanh tịnh”, vì mình không có tội và được thanh tịnh, mới cho cùng chúng Tăng bố-tát.
Chánh văn
---o0o---
3. TỤNG LỜI TỰA CỦA GIỚI BỒ TÁT
Chư đại đức chắp tay chí tâm lóng nghe: Nay tôi sắp tụng lời tựa về giới pháp Ðại Thừa của chư Phật, đại chúng lẳng lặng lóng nghe. Trong đây vị nào biết mình có tội phải sám hối. Sám hối thời được an vui. Không sám hối thời tội lỗi càng thêm nặng. Người không có lỗi thời yên lặng! Vì yên lặng nên biết đại chúng thanh tịnh.
Lời giảng
Ở chánh văn câu đầu nói, nghe, có hai việc:
1. Chắp tay cung kính chí thành mà nghe.
2. Không phạm tội được thanh tịnh mới cho nghe.
“Chư Phật tử v.v...” là chỉ tứ chúng Phật tử hiện tiền đang nghe giới. Lời tựa về giới pháp Ðại Thừa của chư Phật tử là tâm địa đại giới này do chư Phật trong ba đời đồng tuyên thuyết, vượt lên trên giới pháp Tiểu Thừa, nên gọi là giới pháp Ðại Thừa. Chữ “tựa” có nghĩa là manh mối, là nguyên do manh mối của một bộ kinh.
“Chúng nhóm” có hai ý nghĩa:
- Thân căn hòa hợp nhóm lại một chỗ.
- Chí tâm lẳng lặng mà nghe giới.
Sám hối thời được an vui là vì nếu vị nào tự biết mình có phạm tội thì trước khi làm lễ bố-tát nên đúng như pháp phát lồ sám hối tội lỗi, mới cho nghe giới. Vì đã đúng như pháp sám hối thì thân tâm thanh tịnh. Do thanh tịnh nên được an vui, đời sau không bị đọa trong tam đồ, cho đến được hưởng thọ đại lạc của cảnh giới Niết Bàn.
Trái lại, nếu không phát lộ sám hối, che giấu trong một đêm, thì phạm tội khinh cấu cho nên nói tội càng thêm nặng.
Nếu người chưa thọ Ngũ Giới thì không được truyền trao giới Bồ Tát cho người (khi tụng giới cần phải tụng âm thinh cho rõ ràng, mỗi chữ rõ ràng không chậm, không mau. Vì chậm thì mất thì giờ chúng ngồi mỏi mệt, sanh phiền não, mau thì nghe không kịp, không thể lãnh hội. Cũng không nên tụng tiếng kéo dài như hát xướng, ca vịnh).
Chánh văn
Sau khi Ðức Phật diệt độ trong thời Mạt Pháp, nên phải tôn kính Ba La Ðề Mộc Xoa chính là giới pháp này. Trì giới này thời như đi đêm tối gặp đèn sáng, như người nghèo được của báu, như bịnh được lành, như người tù được thả, như kẻ đi xa được về nhà. Nên biết rằng giới pháp này là đức thầy sáng suốt của đại chúng, không khác Ðức Phật còn ở đời.
Lời giảng
Ðoạn kinh văn trên là dặn dò, nhắc nhở đại chúng thời Mạt Pháp đối với pháp của Như Lai phải hết lòng tôn kính như bậc thầy sáng suốt của mình. Trong Phật pháp chia làm ba thời kỳ:
- Chánh Pháp: Sau khi đức Như Lai nhập diệt, một ngàn năm đầu là thời kỳ chánh pháp. Thời này người bẩm thọ giới pháp và tu hành mà được chứng Thánh Quả.
- Tượng Pháp: Một ngàn năm thứ hai là thời Tượng Pháp. Chữ Tượng là tương tợ. Nghĩa là thời kỳ này, có giáo pháp, có người thực hành tương tợ với thời kỳ Chánh Pháp nhưng đa số không thể chứng đắc Thánh Quả.
- Mạt Pháp: thời kỳ Chánh Pháp và Tượng Pháp đã qua rồi, hiện nay nhằm vào thời Mạt Pháp. Thời kỳ này dù có người bẩm thọ giáo pháp, nhưng phần nhiều không chịu tu hành. Dù có tu hành cũng không thể chứng đắc Thánh Quả.
Ba La Ðề Mộc Xoa là tiếng Ấn Ðộ, Trung Hoa dịch là Bảo Giải Thoát, nghĩa là bảo đảm chắc chắn cho hành giả được thoát sanh tử mà chứng đắc bốn đức Niết Bàn: Thường, Lạc, Ngã, Tịnh.
Giới pháp này là chiếc đèn lớn Ðại Thừa chánh pháp phá trừ phiền não tối tăm cho chúng sanh, nên dụ như đi đêm tối gặp đèn sáng. Giới này đầy đủ vô lượng công đức pháp tài, làm tư lương phước đức trí huệ cho chư Bồ Tát, cho nên dụ như người nghèo được của báu.
Giới này có công năng trị liệu tam độc, ác nghiệp tội báo cho tất cả chúng sanh, nên dụ như bệnh được lành. Giới này đầy đủ các diệu dụng giải thoát, có công năng trừ diệt bao nhiêu thống khổ, cột trói chúng sanh trong lao ngục tam giới nên dụ như người tù được thả.
Giới này có công năng ngăn dứt dòng sanh tử lưu chuyển trong nhiều kiếp của tất cả chúng sanh, đưa chúng sanh vào thành lớn Niết Bàn, dụ như kẻ đi xa được về nhà.
Năm thí dụ trên là tán thán công năng của giới pháp Ðại Thừa.
Ðại Sư là chỉ cho Bổn Sư Thích Ca Như Lai, vì lúc Như Lai sắp Niết Bàn, ngài A Nan thỉnh vấn đức Phật rằng: “Kính bạch Thế Tôn! Khi Ngài còn tại thế, chúng con lấy Ngài làm thầy. Sau khi đức Như Lai diệt độ, chúng con lấy ai làm thầy?”
Ðức Phật dạy: “Này A Nan! Sau khi ta diệt độ, các ông nên lấy Ba La Ðề Mộc Xoa làm thầy”.
Vì thế nên kinh văn dạy: “Nên biết rằng giới pháp này là Ðức Thầy sáng suốt của đại chúng, không khác Ðức Phật còn tại thế”.
Hiện tại đại chúng đối với giới pháp tôn trọng, nương theo tu hành giống như Phật còn tại thế không khác, nên trong Bồ Tát Giới Bổn Nghĩa Sớ thuyết minh: “Giới Bồ Tát là phương tiện đầu tiên chuyên chở các thiện pháp, là quân trận tiền tuyến đẩy lui ác tặc, thẳng tiến tới trước mà về Niết Bàn. Cội gốc sanh tử do giới này mà có thể hết hẳn”.
Hành giả Thanh Văn là người tu theo hạnh Tiểu Thừa, với Ba La Ðề Mộc Xoa hãy còn hết lòng kính trọng. Ðại sĩ là người có bản hoài tự lợi lợi tha, với giới pháp đâu nên không nghiêm trì?
Thế nên trong ngoài hai chúng Phật tử đều hết lòng kính thờ, tận tâm vâng giữ. Vì giới pháp này là thắng nhơn đưa hành giả đến vô thượng Phật quả, nên hàng Phật tử đối với giới pháp phải hết lòng tôn kính như Ðức Phật.
Chánh văn
Nếu không có lòng sợ tội thời tâm lành khó nẩy nở, cho nên trong kinh có lời dạy: “Chớ xem thường những lỗi nhỏ mà cho là không họa hại, như giọt nước kia dù nhỏ nhưng dần đầy cả chum lớn. Lúc tạo tội chừng trong giây phút mà phải cả nghìn muôn năm chịu khổ nơi địa ngục. Một phen bị đọa lạc mất thân người thời muôn kiếp khó đặng lại”.
Lời giảng
Bài kệ trên trích trong kinh Pháp Cú, nguyên văn như sau: Vật khinh tiểu tội dĩ vi vô ương,
Thủy đích tuy vi tiệm dinh đại khí,
Sát na tạo tội ương đọa vô gián,
Nhất thất nhơn thân vạn kiếp bất phục.
Dịch:
Ðừng khinh tội nhỏ cho là vô hại,
Giọt nước dù nhỏ dần đầy chum lớn,
Tạo tội (trong) sát na bị đọa vô gián,
Thân người mất rồi muôn kiếp khó được.
Ý bài kệ răn nhắc hàng Phật tử biết rõ lý nhân quả không bao giờ sai lạc. Tâm sợ tội khó sanh, tâm lành khó nẩy nở.
Giọt nước là dụ cho những tội nhỏ, nghĩa là những giọt nước kia dù nhỏ mà ngày đêm chảy mãi cũng đầy chum to. Cũng thế, nếu với lỗi nhỏ khinh thường phạm mãi, chứa nhóm thành nhiều, đầy dẫy thân tâm, cho nên Bồ Tát hộ trì giới cấm: với tội khinh xem như tội trọng, hết lòng kính sợ, gìn giữ không dám trái phạm.
Tiếng Phạn gọi là sát-na, Trung Hoa dịch là Nhất Niệm: chỉ cho thời gian rất nhanh, rất ngắn. Trong kinh thí dụ như khoảnh khắc vị đại lực sĩ khảy móng tay một cái, có sáu mươi lăm sát na, trong một sát na có chín trăm lần sanh diệt. Ý nói tạo tội thời gian rất nhanh mà sau khi xả thân đọa vào địa ngục Vô Gián thọ khổ quả thời gian hết sức lâu dài. Từ địa ngục thoát khỏi lại đọa vào ngạ quỷ, súc sanh trôi lăn trong ba cõi, qua lại trong sáu đường, chịu nghìn muôn lần sanh tử, khó tái phục nhơn thân, nên nói “muôn kiếp khó được lại”.
Chánh văn
Sắc trẻ không dừng, dường như ngựa chạy. Mạng người vô thường mau hơn nước dốc. Ngày nay dẫu còn khó bảo đảm được ngày mai.
Lời giảng
Sức lực sắc thân của người mỗi ngày một suy yếu, đổi thay từng sát na không dứt, cho nên dụ như ngựa phi qua kẽ hở nhanh chóng dị thường.
Hai chữ vô thường là nghĩa dời đổi không tạm ngừng. Thân mạng con người cũng thế, đổi thay trong mỗi niệm, sự nhanh chóng ấy còn hơn nước trên dốc
núi chảy xuống. Ðã là vô thường thì thân của con người ở trong hô hấp khó biết được, nghĩa là hơi thở ra mà không trở vào đã qua đời khác. Hơn nữa, ngày nay dù còn sống đây nhưng ngày mai nào có chắc.
Chánh văn
Ðại chúng! Mỗi người nên nhất tâm cần cầu tinh tấn, chớ biếng nhác, trễ lười, phóng túng ngủ nghỉ. Ban đêm phải nhiếp tâm niệm Phật, tham thiền, chớ để thời gian luống qua vô ích mà sau này phải ăn năn. Ðại chúng! Mỗi người nên nhất tâm cung kính y theo giới này, như pháp tu hành, cần nên học tập.
Lời giảng
Ðoạn kinh văn trên hai lần nhắc nhở đại chúng. Lần thứ nhất nhắc nhở rằng: Mỗi người nên nhứt tâm cần cầu tinh tấn v.v... nghĩa là răn nhắc đại chúng phải tinh tấn tu học, đừng để tấc bóng quang âm vàng ngọc trôi qua một cách luống uổng nên ban ngày phải tụng kinh, niệm Phật, lạy Phật, và nghiêm tầm kinh luật, đêm đến lúc đầu hôm và khuya phải nhiếp tâm tọa thiền niệm Phật. Nửa đêm chỉ tạm nghỉ để dưỡng thần, không nên buông lung ngủ nghỉ cho nhiều mà sanh các tội lỗi.
Ðiều duy nhứt là tất cả thời phải chuyên tâm nhất ý niệm danh hiệu của Từ Phụ A Di Ðà Phật để cho tội diệt phước sanh, căn lành tăng trưởng, đến khi xả thân được vãng sanh Cực Lạc, thoát hẳn luân hồi.
Lần thứ hai nhắc nhở rằng: mỗi người phải hết sức thận trọng giữ gìn thân tâm cho thanh tịnh, y theo tâm địa đại giới mà tu hành, siêng năng học tập, y như lời Phật dạy mà hành trì, đừng để cho tạp niệm xen vào, cho nên gọi là “nhất tâm”.
Chánh văn
---o0o---
4. KIẾT VẤN
Chư Ðại Ðức! Nay là ngày thứ mười bốn, mười lăm có trăng (không trăng) v.v... cho đến câu: Nay xin hỏi trong đại chúng đây được thanh tịnh không? (3 lần)
Lời giảng
Nếu vị nào phạm tội khinh cấu mà quên, hôm nay nghe ba phen hỏi, nhớ lại lập tức nên đối với đại chúng phát lồ sám hối, khi được thanh tịnh rồi mới có thể nghe giới.
Nếu tự biết mình có phạm tội mà vẫn im lặng thì phạm thêm tội cố ý vọng ngữ. Cho nên lúc tụng giới, ba lần hỏi trên là để cho đại chúng dùng gương tự soi lấy mình.
Như ngay trong lúc này, đối với đại chúng sám hối e làm náo loạn trong khi bố-tát thì cần phải đối với vị ngồi gần mình mà phát lồ tội lỗi đã phạm.
Hoặc là trong tâm nên tự nghĩ: chờ Bồ Tát xong sẽ đúng pháp mà sám hối. Thực hành như thế mới được phép nghe giới. Nếu tự nhớ mình có phạm mười giới trọng phải rời khỏi chỗ ngồi ra ngoài, chờ chúng Tăng bố-tát xong, phải đối với người hiểu pháp luật, hết lòng thành kính phát lồ, buồn khóc rơi lệ, thỉnh cầu chỉ giáo phương pháp diệt tội. Ba chữ “vì im lặng” là chứng tỏ thanh tịnh.
Chánh văn
Thưa đại chúng! Trong đây thanh tịnh vì im lặng, việc này xin nhận biết như vậy.
Lời giảng
Câu: Việc này xin nhận biết như vậy chứng tỏ người tụng giới đối với việc ấy rõ biết không quên. Ðã ba phen gạn hỏi, trong chúng đều thanh tịnh, vì thanh tịnh nên im lặng. Do sự im lặng của đại chúng nên hôm nay, tôi đối trước việc này, tôi rõ biết như vậy chớ không quên, biết đại chúng thanh tịnh mới có thể vì đại chúng tụng giới kinh.
Chánh văn
---o0o---
5. CHÁNH THỨC TỤNG GIỚI KINH
Tụng Bồ Tát Tâm Ðịa phẩm hạ từ câu “nhĩ thời...” cho đến câu “cộng thành Phật đạo”.
Lời giảng
Nếu khi tụng giới có nạn duyên cũng cần tụng đủ mười giới trọng, bốn mươi tám giới khinh thì nên nói là mười giới trọng Ba La Ðề Mộc Xoa hôm nay sẽ tụng, đến bốn mươi tám giới khinh hôm nay sẽ tụng. Như thế mỗi mỗi tụng đủ năm mươi tám giới.
Lại sợ e gặp trường hợp nạn duyên bức bách thì nên tụng lược toàn văn năm hay sáu giới trong mười giới trọng, còn những giới kia và bốn mươi tám giới khinh, chỉ tụng danh mục của mỗi giới cũng được.
Hiện nay, những tòng lâm ở các nơi phần nhiều buổi mai đại chúng tụng giới kinh, buổi chiều làm lễ Bố Tát thì lược tụng danh mục của giới tướng. Như Ðại Thừa và Tiểu Thừa đều làm lễ bố tát, nếu tụng luôn hai giới bổn sợ thời gian không kịp thì nên chia ra hai buổi, mai tụng giới tỳ kheo, chiều tụng giới Bồ Tát.
Trường hợp chúng đông khó nhóm thì ngày mười bốn tỳ kheo làm lễ bố tát, ngày mười lăm Bồ Tát làm lễ bố tát.
Khi tụng giới xong, vị tụng giới sau khi xuống pháp tòa, kính tạ đại chúng như sau:
“Tôi Bồ Tát giới tỳ kheo thành tâm kính tạ đại chúng. Hôm nay chúng tăng sai tôi tụng giới, ba nghiệp không tinh tấn, trong khi tụng giới văn không thông suốt làm cho đại chúng ngồi lâu mất thì giờ lại mệt mỏi. Cúi xin đại chúng từ bi bố thí hoan hỷ cho...”
---o0o---
HẾT
1 . Hạng mục: Hạng là phần phía sau của cổ, tục gọi là gáy hoặc ót; Mục là đôi mắt. Hai thứ trọng yếu của cơ thể con người, ám chỉ sự trọng yếu của tịnh giới.
2 . Hoàng môn nhị hình: Người bán nam bán nữ, làm thái giám trong cung vua nên gọi là hoàng môn.
3 . Kình tiếp: Kình là vác đồ vật đưa lên cao, ở đây dùng hai chữ “kình tiếp” để hình dung đức Bổn Sư lúc ấy dùng thần thông tiếp dắt đại chúng, chư Thiên, chư Bồ Tát v.v... Cũng như trong kinh Duy Ma Cật thuyết minh đức Bồ Tát Duy Ma Cật tiếp lấy toàn thế giới Hương Chúng của đức Bất Ðộng Như Lai, luôn cả đức Phật và chư Ðại Bồ Tát đem đến cõi Ta Bà này. Ngài cầm trên tay cả đại chúng mà xem giống như chỉ cầm một cái tràng hoa nhẹ nhàng.
4 . Phu dương: phu là bày ra, giăng ra; dương là làm dấy lên, cất lên, khen ngợi. Phơi bày, đăng ra làm cho mọi người đều thấy biết được để tán tụng, khen ngợi.
5 . Thúc phược: Thúc: buộc lại thành bó; phược: lấy dây mà buộc.
6 . Từ Lô Xá Na: Kinh Văn quyển Thượng có chép 2 đoạn:
Ðoạn 1:
Ðức Lô Xá Na tự thuật: “Ngã dĩ bá a tăng kỳ kiếp, tu hành tâm địa, dĩ chỉ vi nhơn. Sơ xả phàm phu, thành Ðẳng Chánh Giác, hiệu vi Lô Xá Na” (Ta đã tu tập tâm địa, trải qua trăm a tăng kỳ kiếp, lấy tâm địa làm nhơn, ban sơ bỏ hẳn tâm phàm, thành bậc vô thượng chánh đẳng chánh giác. Do đó, ta được danh hiệu Lô Xá Na).
Ðoạn 2:
Cũng chính đức Lô Xá Na tự thuật: “Ngã dĩ bá kiếp tu hành thị tâm địa, hiệu ngô vi Lô Xá Na” (ta đã trải qua thời gian trăm kiếp tu tâm địa này, hiện thời gọi ta là Lô Xá Na).
Trong Giới Bổn Việt văn dịch hai câu trên là: “Ta đã từng trăm a tăng kỳ kiếp tu tập tâm địa này, do đó ta được hiệu là Lô Xá Na”.
Dù là không phù hợp với kinh văn, vì đoạn này chỉ nói là “bá kiếp” chứ không nói “bá a tăng kỳ kiếp”, nhưng thật sự không phải sai, vì Hòa Thượng Vạn Ðức căn cứ vào đoạn kinh văn bên trên. Sau đó, Hòa Thượng có chú thích ở số 11, trong phần chú thích.
7 . Tối hậu thân Bồ Tát:
Còn gọi là tối hậu sanh hoặc tối hậu hữu, hoặc hậu thân Bồ Tát, tức là thân rốt sau của Bồ Tát trong đường sanh tử. Sau đó, Bồ Tát đắc quả thành Phật.
- Luận Câu Xá quyển mười tám nói: “Trụ tối hậu hữu gọi là tối hậu sanh”.
- Bộ Câu Xá Quang Ký quyển 18 giải thích: “Tối hậu sanh tức chỉ cho thân sanh trong vương cung”.
- Trong Du Già Lược Soán Luận thuyết minh: “Tối hậu thân nghĩa là đã sanh ở cõi Dục Giới, thì chính ở nơi thân này thành đạo. Vì thế, nên thân này là thân tối hậu hữu, ở trong sanh tử nên gọi là tối hậu thân”.
8 . Ngũ Bất Hoàn Thiên:
Còn gọi là Ngũ Tịnh Cư thiên, bậc thánh nhân đã chứng quả Bất Hoàn ở Ðệ
Tứ Thiền cõi Sắc.
Chỗ của thánh nhân sanh này có năm cảnh giới sau đây:
- Vô Phiền Thiên: cảnh trời này là cảnh giới hoàn toàn không còn những
phiền tạp nên gọi là Vô Phiền Thiên.
- Vô Nhiệt Thiên: cảnh trời này hoàn toàn không có sự nhiệt não.
- Thiện Hiện Thiên: cảnh trời này những thiện pháp thù thắng thường xuất hiện.
- Thiện Kiến Thiên: cảnh trời này thường thấy được những thiện pháp thù thắng.
- Sắc Cứu Cánh Thiên: cảnh trời này là tối thắng Sắc Giới thiên. Trong Thế Phẩm của bộ Câu Xá Tịnh Sớ thuyết minh: “Vì sao năm cõi trời trên gọi là Tịnh Cư thiên? Vì năm cõi ấy, chỉ có thánh nhơn cư trú, không có phàm phu xen lẫn, nên gọi là Tịnh Cư thiên”.
9 . Ðốn Kiết:
Ðốn Kiết ở đây chỉ cho việc khi Thái Tử sắp đản sanh, có rất nhiều điềm lành xuất hiện. Gồm có tất cả ba mươi bốn thứ thoại ứng. Nhưng trước khi
liệt kê, thiết tưởng chúng ta nên biết qua tình trạng của Bồ Tát khi còn ở trong thai.
Khi còn trong thai mẹ, Ngài không bao giờ làm cho mẫu thân có những khổ não, lo buồn và nhất thiết mọi tư thế đi, đứng, nằm, ngồi đều được tự tại, không bị chướng ngại. Ðấy là đối với mẫu thân.
Riêng đối với chúng sanh, Ngài luôn thực hành sự lợi tha giáo hóa, nên vô lượng chúng sanh đều được sự lợi ích thuần thục. Ngày đêm phân ra làm sáu thời:
- Buổi mai, Ngài vì chư Thiên cõi Sắc giảng diệu pháp.
- Khi giữa trưa (đứng bóng), Ngài vì chư Thiên cõi Dục chỉ dạy, giảng nói các pháp.
- Buổi chiều, vì quỷ thần giảng pháp.
- Ban đêm cũng chia ba thời như vậy.
Khi phu nhơn mang thai ngày tháng sắp đủ, bà muốn ngự ra chốn viên lâm để ngoạn cảnh, Bạch Tịnh Ðại Vương hay tin, liền hạ lịnh quét dọn sạch sẽ khu vườn Lâm Tỳ Ni.
Chi tiết này trong kinh Hoa Nghiêm thuyết minh: “Khi phu nhân mang thai đã đủ mười tháng, vào ngày mùng Tám tháng Tư, khi mặt trời sắp mọc, phu nhân trông thấy trong vườn có một cây đại thọ mang tên là Vô Ưu, đang nở hoa màu sắc tươi đẹp, lại ngát hương. Cành cây tỏa ra bốn phía vô cùng xum xuê, tươi tốt. Phu nhân đưa tay phải định kéo cành hoa để hái, Bồ Tát từ nơi hông phải của mẹ thoát thai”.
“Chính lúc ấy, dưới đại thọ bỗng hiện bảy đóa hoa sen bằng thất bảo lớn như bánh xe. Bồ Tát Thích Ca rơi trên hoa sen. Không cần người dìu đỡ, Ngài tự đi bảy bước, đưa tay hữu lên, phát ra âm thanh sư tử hẩu” (tiếng rống của sư tử. Nên biết sư tử là vua trong muôn thú. Khi nó thét một tiếng, tất cả mọi loài thú đều nép phục sợ hãi. Ở đây dùng thí dụ này để chỉ cho âm thanh của Phật cũng vậy. Nghĩa là tiếng nói của Phật khiến tất cả thiên ma, ngoại đạo khi nghe đến đều phải quy hàng).
Câu nói đầu tiên của Ngài là “thiên thượng, thiên hạ, duy Ngã độc tôn” (ta ở trong tất cả nhân, thiên là bực tối tôn, tối thắng, không ai hơn được).
Ngay chính lúc ấy, 34 điềm lành cảm ứng hiện ra:
1) Mười phương thế giới chiếu sáng rực rỡ.
2) Tam thiên đại thiên thế giới có mười tám thứ chấn động. Trong kinh thường gọi sáu loại chấn động, nhưng trong đây nói có mười tám tướng vì sự chấn động của đại địa có 3 loại, mỗi loại có sáu thứ, tổng cộng thành mười tám thứ. Ba loại chấn động: động lục thời, động lục phương, động lục tướng.
+ Ðộng lục thời: sáu thời kỳ chấn động của đại địa. Kinh Trường A Hàm thuyết minh sáu thời kỳ này:
- Lúc Phật nhập thai.
- Lúc Phật xuất thai.
- Lúc Phật thành đạo.
- Lúc Phật chuyển pháp luân.
- Lúc thiên ma khuyến thỉnh và Phật sắp nhập Niết Bàn.
- Lúc Phật nhập Niết Bàn.
+ Ðộng lục phương: cả sáu phương Ðông, Tây, Nam, Bắc, Trung Ương và biên tế đều chấn động.
+ Ðộng lục tướng: Trong sáu loại này, ba thứ đầu thuộc về tướng, ba thứ sau thuộc về thanh. Nơi đây chỉ nêu tên 18 thứ, muốn hiểu rõ xin tham khảo các kinh Ðại Niết Bàn, Ðại Bát Nhã v.v...
- Ðộng (chấn động).
- Dũng (bắn vọt lên).
- Chấn (rung chuyển).
- Kích (đánh).
- Hẩu (tiếng rống).
- Bộc (tiếng nổ).
3) Trên quả đất, những gò nổng trở nên bằng phẳng, cây khô tươi lại, đâm chồi nẩy lộc, lá cành xum xuê tươi tốt, trong cõi nước mọc những cây kỳ đặc (kỳ hoa dị thảo).
4) Cây cối sanh ra những trái ngon ngọt dị thường.
5) Trên đất liền bỗng tự nhiên sanh ra những hoa sen báu lớn như bánh xe. 6) Những kho tàng ẩn trong các kho phát tia sáng rực rỡ.
7) Những trân bảo trong các kho phát tia sáng rực rỡ.
8) Những y phục thượng diệu trên cõi trời tự nhiên rơi xuống.
9) Muôn ngàn sông suối nước đều đứng lặng và trong trẻo.
10) Gió im phăng phắc, mây lành bủa giăng đầy khắp cõi hư không.
11) Gió thơm từ bốn phương thổi đến bát ngát hương thơm và những đám mưa nhẹ rưới xuống khiến mặt đất được im mát, không bị vẩn bụi.
12) Tất cả người bệnh trong nước đều được hồi phục sức khoẻ và trở lại bình thường.
13) Những cung điện, phòng ốc trong nước đều rực sáng, không cần đèn nến.
14) Mặt trời, mặt trăng, sao trên không đều đình trụ không di động.
15) Sao Tỳ Xá Khư (kiết tinh) hiện xuống nhân gian, đợi giờ đản sanh của Thái Tử.
16) Các Phạm thiên vương cầm lọng báu, đứng sắp hàng che khắp trên cung điện.
17) Chư thiên nhân sư ở tám phương đều đem bảo vật đến dâng cúng.
18) Trăm thức ăn ngon quý ở cõi trời tự nhiên hiện ra.
19) Có vô số bình báu đựng nước Cam Lồ.
20) Các thứ xe đẹp quý ở cõi trời chở báu vật đến.
21) Có vô số voi trắng đầu đội hoa sen đứng sắp hàng trước cung điện.
22) Bảo mã thiên thanh tự nhiên đi đến (ngựa tốt quý báu lông màu xanh biếc như da trời).
23) Có 500 bạch sư tử vương từ núi Tuyết Sơn đi ra, chúng rất bạo ác, nhưng lúc bấy giờ đều trở thành hiền thục, không có ác niệm, lòng chúng đều vui mừng.
24) Các kỹ nữ cõi Trời đứng sắp hàng trên hư không, trỗi các âm nhạc thanh tao, vi diệu.
25) Các ngọc nữ trên thiên giới cầm phủ phất lông khổng tước (công) hiện trên vách tường cung điện.
26) Các ngọc nữ trên thiên giới cầm bình vàng đựng đầy nước thơm, đứng sắp hàng trên hư không, rưới cúng dường.
27) Chư thiên đồng ca tụng, tán thán công đức của Thái Tử.
28) Tất cả cảnh giới địa ngục khi Phật đản sanh đều ngưng hành hạ tội nhơn. 29) Tất cả độc trùng ẩn núp dưới đất và các ác quỷ đều phát khởi thiện tâm. 30) Những người sống theo ác luật nghi (6) đều đồng một lúc khởi thiện tâm.
31) Những phụ nữ có thai trong nước, ngày ấy đều sanh con trai. Nếu người nào mắc phải trăm thứ bịnh tật liền được tiêu trừ, thân thể lành mạnh.
32) Tất cả Thọ Thần đều hóa thành hình người, đồng đến đảnh lễ Thái Tử và đứng hầu.
33) Quốc vương trong các nước đều mang bảo vật danh tiếng đến phụng hiến.
34) Tất cả trời, người không nói những tiếng phi pháp.
10 . Thọ ký
Thọ Ký là tiếng Trung Hoa, tiếng Phạn gọi là Hòa-già-la, Thọ Ký còn là tên của một trong số mười hai bộ kinh.
Ðức Phật đối với những chúng sanh đã phát Bồ Ðề tâm, thọ ký cho chúng sanh ấy trong tương lai sẽ thành Phật. Thọ ký có nhiều loại: hai loại, bốn loại, sáu loại, tám loại. Ở đây chỉ đề cập đến hai loại:
- Vô dư thọ ký: Khi Ðức Phật còn tại thế, thọ ký cho Bồ Tát ở kiếp... thành Phật hiệu... Như Lai ứng cúng... ở quốc độ nào, quyến thuộc bao nhiêu...
Ðức Phật nói toàn bộ một cách rõ ràng, nên gọi là Vô Dư Thọ Ký. Trong kinh Pháp Hoa, Phật từng nói rằng: “Nếu ta tại thế hoặc sau khi diệt độ, chúng sanh nào được nghe kinh Pháp Hoa này chừng một câu, một bài kệ đều được ta thọ ký Vô Thượng Bồ Ðề”. Ấy là Vô Dư Thọ Ký.
- Hữu dư thọ ký: Như trong kinh Ðức Phật bảo chúng sanh rằng: “Ông ở đời vị lai khi Ðức Phật xuất thế độ sanh sẽ hết tội này; đức Như Lai ấy sẽ vì ông thọ ký”. Ðấy là Hữu Dư Thọ Ký.
11 . Ngũ trụ phiền não:
Trong kinh thường gọi là Ngũ Trụ Ðịa. Tại sao gọi là Trụ Ðịa? Vì phiền não căn bổn có khả năng sinh ra phiền não chi mạt (chi: cành, mạt: ngọn) nên gọi là Trụ Ðịa, cũng như đất đai có thể sanh trưởng mọi vật.
Có năm loại Phiền Não Trụ Ðịa:
- Kiến Nhứt Xứ Trụ Ðịa: Chỉ cho những Kiến Hoặc (những sự thấy biết không rõ ràng) trong tam giới, thân kiến, biên kiến... Khi chứng nhập bậc Kiến Ðạo thì đoạn trừ được kiến hoặc nhứt xứ, cho nên gọi là “kiến nhứt xứ”.
- Dục Ái Trụ Ðịa: Nghĩa là trong tất cả các loại phiền não ở Dục Giới, trừ Kiến Hoặc và Vô Minh Hoặc ra, thì tội ái trước nặng nhất, nên gọi riêng là Ái.
- Sắc Ái Trụ Ðịa: Nghĩa là trong tất cả loại phiền não ở Sắc Giới, trừ Kiến Hoặc và Vô Minh Hoặc ra, thì tội ái trước nặng nhất, nên gọi riêng tên là Ái. - Hữu Ái Trụ Ðịa: Nghĩa là trong các loại phiền não ở Vô Sắc Giới, trừ Kiến Hoặc và Vô Minh Hoặc ra, thì tội ái trước nặng nhất, cho nên chỉ nêu riêng tên Ái. Chữ Hữu trong từ Hữu Ái là nguyên do của sanh tử, của phiền não. Nơi Vô Sắc Giới, sanh tử là quả báo cuối cùng của sự ái trước, cho nên gọi là Hữu Ái.
- Vô Minh Trụ Ðịa: vô minh là tâm thức si mê, ám độn, không có trí huệ minh đạt. Ấy là cội gốc của tất cả mọi phiền não trong tam giới, nên đặc biệt cho nó là một Trụ.
Trong bộ Ðại Thừa Nghĩa Chương, quyển 5, thuyết minh: Thế nào gọi là Trụ Ðịa?
- Căn bổn phiền não làm cơ sở cho chi mạt phiền não nên gọi là Trụ.
- Căn bổn phiền não sanh ra chi mạt phiền não nên gọi là Ðịa.
Trong Thắng Man Kinh Bảo Quật nói: “Căn bổn phiền não sanh ra chi mạt phiền não nên gọi là Ðịa; làm cho pháp sở sanh được thành lập nên gọi là Trụ”.
(Muốn dễ nhớ, dễ hiểu thì xem biểu đồ Ngũ Trụ Phiền Não)
12 . Thành ngữ “phóng hạ đồ đao” trong kinh điển thường đề cập. Bộ Sơn Ðường Tứ Khảo dẫn giải:
Ngày xưa có một đồ tể ở hội Niết Bàn vừa buông bỏ con dao làm nghề sát hại xuống, lập tức được thành Phật. Ðây ý nói sự bỏ dữ theo lành một cách nhanh chóng, chứ thật sự không phải có thể thành Phật một cách nhanh chóng như thế. Bởi lẽ, tạo ác nghiệp hay thiện nghiệp đều do nơi tâm. Lúc si mê, tùy theo vọng tưởng phiền não tạo ác nghiệp; khi tỉnh ngộ, tùy thuận theo trí huệ mà tạo thiện nghiệp.
Như vậy, Thiện hay Ác nghiệp đồng do tâm tạo nên. Chính trong khi bỏ Ác đấy tức là Thiện. Nên nói: “Phóng hạ đồ đao, lập địa thành Phật”. Hai câu này người thế gian dù chưa tin Phật cũng thường nói đến, nhưng phải hiểu rõ ý nghĩa là như vậy.
Câu này đồng nghĩa với câu: “Phiền não tức Bồ Ðề”. Nghĩa là mê thì phiền não, ngộ thì Bồ Ðề. Nhưng nên biết rằng, từ sự giác ngộ ấy tiến tu phải trải qua ba đại a tăng kỳ kiếp, chứ không phải buông bỏ con dao sát hại mà thành Phật lập tức. Nguyên nhân sự thành Phật ở vô lượng kiếp về sau cũng do giờ phút buông bỏ con dao đồ tể này. Cũng vì thế, chư cổ đức gọi là “hồi đầu thị ngạn”. Ý nói khi si mê thì sanh tử luân hồi; một khi đã hồi quang phản chiếu thì tiến đến cảnh giới Niết Bàn.
13 . Ngũ phương vật sắc:
* Ngũ phương: Ðông, Tây, Nam, Bắc, và Trung Ương.
* Vật sắc: ngũ sắc gồm có hai loại:
- Ngũ chánh sắc: xanh, vàng, đỏ, trắng, đen.
- Ngũ gián sắc: phi (màu điều), hồng, tử (tím), lục (xanh lá cây), lưu hoàng (màu vàng cam).
Bộ Hành Sự Sao Tư Trì Ký nói: “Ngũ sắc gồm nhiếp chánh sắc và gián sắc trong ngũ phương. Mỗi sắc phối hợp với vị trí trong ngũ phương như sau:
Ngũ chánh sắc Phương hướng Ngũ gián sắc
Thanh sắc Bạch sắc Xích sắc Hắc sắc Hoàng sắc
Ðông phương Lục sắc Tây phương Phi sắc
Nam phương Hồng sắc Bắc phương Tử sắc
Trung Ương Lưu hoàng
14 .Lụcnhậpsắctâm(lụcnhậptứclàlụccăn):nhãn–nhĩ-tỉ-thiệt– thân – ý.
Lục căn thuộc về Tâm; Sắc là một ở trong lục trần. Nhưng Sắc ở đây tượng trưng cho lục trần. Lục trần còn gọi là Lục Cảnh. Vì sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp là sáu cảnh sở duyên của sáu căn. Xưa dịch là Lục Nhập, nay dịch là Lục Xứ. Lục Cảnh là Lục Nhập bên ngoài. Lục Căn là Lục Nhập bên trong. Lục Nhập trong Thập Nhị Nhân Duyên là Lục Nhập bên trong, tức Lục Căn. Chữ Nhập nghĩa là Thiệp Nhập, là sáu căn với sáu cảnh thiệp nhập lẫn nhau mà sanh ra sáu thức nên gọi là Xứ.
15 . Lục sư: Ngoại đạo nước Thiên Trúc, trong bộ Phiên Dịch có thiên Lục Sư, nói tên Lục Sư như sau:
1) Phú Lan Na Ca Diếp.
2) Mạc Già Lê Câu Xa Lê.
3) San Xà Dạ Tỳ La Chi.
4) A Kỳ Ða Xí Sá Khâm Bà La.
5) Ca La Cưu Ðà Ca Chiên Diên.
6) Ni Kiền Ðà Nhã Ðề Tử.
16 . Năm duyên thành tựu:
* Lối giải thích thứ nhất:
- Nhân: chỉ người thọ giới
- Tăng chỉ cho chúng tăng như Hòa Thượng truyền giới và Yết Ma, Giáo Thọ, các tôn chứng....
- Pháp: là lúc làm lễ truyền trao giới pháp đúng như pháp, như luật, như lời Phật dạy mà thực hành.
- Y bát là mỗi giới tử lúc thọ giới Cụ Túc phải có đủ ba y và bình bát.
* Lối giải thích thứ hai:
- Nhơn thành tựu: chỉ cho các vị thọ giới thuộc về người trong nhơn đạo và các căn phải đầy đủ, không phải là người phá trọng giới, cũng phải đầy đủ hình tướng của người xuất gia. Trước tiên thọ giới Sa Di, sau mới cho thọ giới Cụ Túc (bên Ni thọ Sa Di, phải thọ Thức Xoa, học giới hai năm mới thọ Cụ Túc).
- Kiết giới thành tựu: bạch Tứ Yết Ma, tăng số đầy đủ, không có lỗi biệt chúng, y bát đầy đủ.
- Tự xưng danh thành tựu: Giới tử thọ giới Cụ Túc phải tự xưng tên của mình và xưng tên của Hòa Thượng, thành tâm khất cầu giới pháp.
- Tâm thành tựu: tâm và cảnh đều tương ứng.
- Sự thành tựu: việc thọ giới được cứu cánh thành tựu, trước là thỉnh sư, sau thọ giới. Xong rồi, trước cũng như sau đều đúng pháp.
17 . Mười ba giá nạn
Nói chung gồm 13 giá tội và mười ba nạn tội. Giá tội thuộc về khinh, chữ “giá” nghĩa là ngăn che. Nạn tội thuộc về trọng; chữ “nạn” là chướng nạn.
* Mười ba nạn tội:
- Biên tội nạn: Người trước kia thọ Cụ Túc Giới, rồi phạm bốn pháp Ba La Di thì người ấy ở bên ngoài Phật pháp nên gọi là Biên Tội.
- Phạm Tỳ Kheo Ni: Lúc còn làm người thế tục, phạm giới tỳ kheo ni nghiêm trì tịnh giới.
- Tặc tâm thọ giới: Lúc làm người thế tục, hoặc xuất gia làm sa di, trộm nghe chúng tăng thuyết giới yết ma, rồi giả dối xưng mình là tỳ kheo, nên gọi là “tặc tâm thọ giới”.
- Người phá nội, ngoại đạo: Người trước kia tu theo ngoại đạo, sau vào Phật pháp thọ giới Cụ Túc. Thọ giới Cụ Túc rồi lại bỏ Phật pháp trở về ngoại đạo, bấy giờ muốn trở lại thọ giới Cụ Túc. Người này với hai bên Phật pháp và ngoại đạo đều phá hoại, tâm tánh không nhất định, nên gọi là “phá nội ngoại đạo”.
- Hoàng môn: năm hạng người bất nam. Trong Luật gọi là “sanh bất nam” là khi vừa sanh ra không có bộ phận dương vật của nam tử. Kiện bất nam là có dương vật nhưng tự cắt (trường hợp cắt sau khi thọ Cụ Túc thì không ở trong cấm lệ), biến bất nam, bán bất nam, đố bất nam.
- Giết cha.
- Giết mẹ.
- Giết A La Hán.
- Phá Tăng và phá pháp luân tăng, nếu là phá yết ma tăng thì không ở trong nạn này.
- Làm thân Phật xuất huyết.
- Nạn phi nhơn: quỷ thần trong bát bộ biến hóa thành hình người để thọ giới. - Súc sanh nạn: súc sanh biến hóa làm hình người để thọ giới.
Nạn nhị hình: người đủ hai căn nam và nữ.
* Mười ba giá tội (có chỗ gọi là thập lục giá):
- Không biết tên mình.
- Không biết tên Hòa Thượng của mình.
- Không đủ hai mươi tuổi.
- Không đủ ba y.
- Không có bình bát.
- Cha không cho phép.
- Mẹ không cho phép.
- Mình thiếu nợ của người.
- Làm nô lệ cho người.
- Ðương làm quan trong quốc gia (nếu hưu trí hay xin nghỉ thì không trong hạn lệ cấm này).
- Không phải là nam tử.
- Có bịnh hủi.
- Có bịnh ung thư.
- Có bịnh bạch lại.
- Mắc bịnh còm xấu, thân hình gầy gò, ốm yếu.
- Bị điên cuồng.
Mười sáu giá tội này thường gọi là “mười ba giá tội”, nhưng trong Luật khi chất vấn giới tử thì chỉ có mười thứ: y bát tính là một, cha mẹ tính là một, năm thứ bịnh tính là một, cộng là mười giá tội.
18 . Trụ Trì Tam Bảo:
Một trong bốn loại Tam Bảo. Kính Quán Vô Lượng Thọ nói: “Là Phật tử phải nhất tâm cung kính Tam Bảo và phụng sự sư trưởng. Tất cả:
- Phật Ðà là Phật Bảo.
- Giáo pháp của Ðức Phật tuyên thuyết là Pháp Bảo.
- Những người theo giáo pháp của Phật tu hành là Tăng Bảo.
- Phật là giác tri.
- Pháp là phép tắc.
- Tăng là hòa hợp.
Bốn loại Tam Bảo:
1) Nhứt Thể Tam Bảo: còn gọi là đồng thể Tam Bảo, đồng tướng Tam Bảo, nghĩa là thể của mỗi Tam Bảo đều có ý nghĩa Tam Bảo. Trên thể của Phật Bảo bao hàm ý nghĩa giác chiếu là Phật Bảo, Quỹ Tắc là Pháp Bảo, không trái chống nhau là Tăng Bảo. Như thế, Phật Bảo có đủ Tam Bảo. Tóm lại, Tam Bảo có quán trí là Phật Bảo, có quỹ tắc là Pháp Bảo, hòa hợp không chống trái là Tăng Bảo.
2) Lý Thể Tam Bảo: trên thể của Chơn Như mà thành lập đủ Tam Bảo. Lý thể Chơn Như cùng với giác tánh, pháp tướng không trái chống nhau nên gọi là Lý Thể Tam Bảo.
3) Hóa Tướng Tam Bảo: Còn gọi là Biệt Tướng Tam Bảo, Chơn Thật Tam Bảo. Tam Bảo này có hai loại:
- Tam Bảo Ðại Thừa: ba thân của chư Phật là Phật Bảo, lục độ là Pháp Bảo, Thập Thánh là Tăng Bảo.
- Tam Bảo Tiểu Thừa: Hóa thân Phật tương tục là Phật Bảo, pháp Tứ Ðế, Thập Nhị Nhân Duyên là Pháp Bảo, tứ quả Thanh Văn, Duyên Giác là Tăng Bảo.
4) Trụ Trì Tam Bảo: Sau khi Phật nhập diệt, Tam Bảo cửu trụ ở thế gian, dùng các danh mộc điêu khắc tượng Phật, hoặc dùng bùn, đất, xi măng tô đắp tượng Phật, dùng giấy vẽ hình tượng Phật... là Phật Bảo. Văn cú trong Tam Tạng thánh điển là Pháp Bảo. Phật tử xuất gia, cạo râu tóc, mặc y hoại sắc là Tăng Bảo.
Bốn loại Tam Bảo trên có hai loại trước thuộc Ðại Thừa, hai loại sau thông cả Ðại, Tiểu Thừa.
19 . Thanh Cung
Cung điện của Thái Tử. Bộ Thần Dị Ký nói: “Ở phương Ðông núi Ðông Minh có một cung điện dùng đá xanh làm vách, ngoài cửa có bảng bằng bạc, cũng dùng đá xanh chạm khắc sáu chữ “thiên địa trưởng nam chi cung” (cung con trưởng nam của trời đất). Vì lý do ấy nên gọi là Thanh Cung. Bộ sách trên nói:
- Phương Ðông thuộc về cung Chấn. Cung Chấn là trưởng tử. Xưa kia Tần Vương lúc còn làm Thái Tử. Phụ hoàng của Tần Vương nói: “Phương vị của con ta ở tại Ðông Cung nên cần đem việc trong cung ủy thác cho Thái Tử”. Vì thế nên nói Ðông Cung là cung điện của Thái Tử ở.
20 . Niệm niệm tương tục; nhứt kỳ tương tục: ý nói về sự vô thường. Vô thường dịch từ ba chữ A-nễ-đát, nghĩa là tất cả các pháp trên thế gian luôn sanh diệt, đổi dời, không một sát-na đình trụ, nên gọi là “vô thường”. Có hai loại:
- Sát na vô thường: từng mỗi sát na đều có sự biến hóa sanh, trụ, dị, diệt. Ðây tức là niệm niệm tương tục.
- Tương tục vô thường: sự tương tục trong một thời kỳ có bốn tướng sanh, trụ, dị, diệt (sanh, lão, bệnh, tử).
Kinh Niết Bàn nói: “Thân này vô thường, niệm niệm không dừng, dường như điển quang, dường như thác nước, dường như huyễn mộng, dường như dương diệm”. Ðây thuộc về nhứt kỳ tương tục, chỉ cho sự tương tục của một thời kỳ của sanh mạng này. Kinh Pháp Bảo Ðàn nói: “Sanh tử là việc lớn, vô thường nhanh chóng”.
Kinh Vô Thường nói: “Trên thế gian chưa từng có việc nào chẳng bị vô thường nó thôn tính”. Lại nữa, thế tục cho vô thường là con quỷ, nên Trần Dục có hai câu thơ rằng:
Nhứt triêu nhược giả vô thường chí,
Kiếm thọ, đao sơn bất phóng y
Dịch:
Nếu như một mai vô thường đến,
Núi đao, rừng kiếm không buông tha.
Là Phật tử, đối với vô thường luôn có tâm sợ sệt. Trong kinh có ví dụ “vô thường lang” nghĩa là vô thường đáng sợ như chó sói.
* Trong Trí Ðộ Luận, quyển 15 thuyết minh: “Bồ Tát dù đối với cảnh Ngũ Dục Thượng Diệu (về danh là Chuyển Luân Vương, về sắc thì ngọc nữ muôn ngàn), cũng không bao giờ sanh tâm ham muốn đắm say.
Tại sao vậy? Vì chư Bồ Tát luôn quán niệm vô thường khổ, không! Thí dụ như vị quốc vương có một viên đại thần có tội mà lại che giấu.
Quốc vương muốn trị phạt bèn bảo đại thần rằng: ‘Nếu khanh tìm được một con dê thật mập mà không có mỡ, trẫm sẽ tha tội cho khanh’.
Viên đại thần có trí liền bắt một con dê cột lại, hằng ngày dùng cỏ tươi non, nước trong nuôi dưỡng, lại mỗi ngày ba lần, đem chó sói đến khủng bố dê. Dê do được nuôi dưỡng kỹ nên rất mập tốt, nhưng không có mỡ. Quốc vương hỏi duyên cớ, viên đại thần tâu lên sự việc.
Bồ Tát cũng thế, thường trông thấy con chó sói vô thường khổ, không v.v... nên tiêu diệt những thứ mỡ kiết sử, phiền não nên thân công đức được mập béo...”
21 . Tứ Nhiếp Pháp: Bồ Tát dùng bốn pháp này để nhiếp hóa chúng sanh. Tứ Nhiếp Pháp gồm:
- Bố Thí Nhiếp: nếu chúng sanh ưa thích tài vật thì đem tài vật bố thí, ưa nghe chánh pháp thì đem chánh pháp bố thí, khiến chúng sanh nhân đó sanh tâm ưa thích, thân cận, nương theo mà bẩm thọ giáo pháp.
- Ái Ngữ Nhiếp: tùy theo căn tánh của chúng sanh mà dùng lời khéo léo, nhã nhặn an ủi, khuyến dụ, khiến chúng sanh sanh tâm thân ái, nương tựa mà bẩm thọ đạo pháp.
- Lợi Hành Nhiếp: từ ba nghiệp thân, khẩu, ý sanh khởi thiện hạnh, làm lợi ích cho chúng sanh.
- Ðồng Sự Nhiếp: dùng pháp nhãn xem căn tánh của chúng sanh, tùy chỗ ưa muốn của chúng mà phân thân thị hiện đồng việc làm với chúng, để chúng sanh do đây mà bẩm thọ đạo pháp.
22 . Ngũ Vô Gián: địa ngục A Tỳ thứ tám trong tám cảnh đại địa ngục. Gọi địa ngục A Tỳ là Ngũ Vô Gián vì có năm duyên cớ không gián đoạn:
- Thủ quả vô gián: thọ quả báo không gián đoạn, vì tạo tội cực ác, chiêu cảm quả khổ trong địa ngục này, thuận theo hiện nghiệp (nghiệp hiện tại) hoặc
sanh nghiệp (nghiệp đời vị lai), thời gian tạo nghiệp cùng với thọ quả liên tục, không gián đoạn đến đời khác.
- Thọ khổ vô gián
- Mạng vô gián: thọ mạng của tội nhơn trong địa ngục này tương tục, không gián đoạn.
- Hình vô gián: ngục A Tỳ này rộng tám muôn do tuần, thân hình của tội nhân cũng lớn tám muôn do tuần, không còn một chỗ hở trống, nên kinh Ðịa Tạng nói: “Nhứt nhân diệc mãn, đa nhân diệc mãn” là lý ấy (một người cũng đầy, mà nhiều người cũng đầy).
23 . Ác Luật Nghi:
Luật Nghi là gì? Nghĩa là ấn định thời gian, công việc, rồi theo chương trình, quy chế đó mà giữ gìn và thực hành đúng theo như vậy.
Có hai loại Luật Nghi:
- Thiện luật nghi: những giới pháp của Ðức Phật chế lập cho hàng đệ tử để y theo đó mà phụng hành, không được trái phạm.
- Ác luật nghi: những người làm nghề săn bắn, chài lưới...
Là Phật tử bất luận tại gia hay xuất gia, chẳng những không được làm theo ác luật, mà lại còn phải xa lánh những người hành nghề theo Ác Luật Nghi. Phẩm An Lạc Hạnh trong kinh Pháp Hoa đã dạy: “Người tu hành không được thân cận Chiên-đà-la, cùng những người sống theo Ác Luật Nghi như nuôi heo, gà, chó... cùng những người làm nghề săn bắn, chài lưới...”
24 . Chiên Ðà La:
Còn gọi là Chiên Ðồ La, Trung Hoa dịch ra nhiều danh từ như Ðồ Giả, Nghiêm Xí, Chấp Bạo Ác Nhơn, Hạ Tánh v.v... Hạng loại Chiên Ðà La này ở ngoài tứ tánh. Những người thuộc hạng này chuyên làm việc sát hại nên gọi là Ðồ Giả. Nam thì gọi là Chiên Ðà La, nữ gọi là Chiên Ðà Lợi.
Nghiêm Xí:
- Nghiêm: Chuyên làm những ác nghiệp để tự nghiêm sức nơi thân.
- Xí: gọi đủ là “tiêu xí”, những người thuộc hạng này, lúc đi ra đường thường cầm chuông rung hay gõ mõ tre để làm cho mọi người nghe thấy (tiêu: nêu ra, nêu lên cho mọi người thấy biết; xí: nghĩa đen là nhón chân lên mà trông cho rõ, nghĩa bóng là trù tính kế hoạch để tạo lợi).
Trong bộ Tây Vực Ký nói: “Người chủng tộc Chiên Ðà La lúc đi đường phải rung chuông, hoặc gõ lên cây tre chẻ đầu, để làm tiêu xí, nếu không sẽ bị quốc vương hành tội”.
Bộ Pháp Hiển Truyện thuyết minh: “Chiên Ðà La gọi là “ác nhân”, phải sống riêng biệt không được ở chung với người khác. Nếu khi vào trong thành thị cần đánh mõ, rung chuông để mọi người nghe thấy mà tránh xa, không được đường đột xông pha vào chỗ đông người”.
25 . Năm người Phiến-đề-la chỉ cho năm vị ác tỳ kheo mắc quả báo sanh làm thạch nữ (là những người không đủ nam căn và nữ căn), xem kinh Vị Tằng Hữu, quyển hạ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét