Thứ Sáu, 6 tháng 10, 2017

Ý Trinh đảnh lễ bảy vị phật quá khứ



GIỚI KỆ CỦA BẢY VỊ PHẬT QUÁ KHỨ

* Phước Thắng




Bảy Đức Phật ở quá khứ là: 


  • Phật Tì-bà-thi, 
  • Phật Thi-khí, 
  • Phật Tì-xá-phù, 
  • Phật Câu-lâu-tôn, 
  • Phật Câu-na-hàm mâu-ni, 
  • Phật Ca-diếp, 
  • Phật Thích-ca Mâu-ni. 


Lịch sử chư Phật này ghi trong các kinh, luật: Tạp A-hàm 34, Trường A-hàm 1, kinh Đại Bản, Kinh Tăng Nhất A-hàm 45, Kinh Hiền Kiếp 7, Kinh Thất Phật Phụ Mẫu Tự Tính Tự, Kinh Thất Phật, Phật Bản Hạnh Kinh Tập 11, Hữu Bộ Tì-nại-da Phá Tăng Sự, Kinh Du Hành Bản Khởi… về nhân thân, sự ra đời, dòng họ, cha, mẹ, thê tử, đệ tử, thị giả, nơi ở, đạo tràng, chúng hội thuyết pháp đầu tiên.

Tập Dị Môn Túc Luận 3 (Đại 26, 378 hạ) đã đặt vấn đề: 

Đời quá khứ là gì? 
Và trả lời rằng: 

“Các hành đã khởi, đã cùng khởi, đã sinh, đã cùng sinh, đã chuyển, đã cùng chuyển, đã nhóm họp, đã xuất hiện, rơi vào quá khứ, diệt hết và biến đổi thành tính quá khứ, loại quá khứ, thuộc về đời quá khứ, đó là nghĩa quá khứ thế”. Một vấn đề nữa, quá khứ chư Phật trên thuộc về kiếp nào? Kiếp chia làm 3 loại: Đại kiếp, Trung kiếp và Tiểu kiếp. Đại kiếp hiện tại gọi là Hiền kiếp, Đại kiếp quá khứ gọi Trang Nghiêm kiếp, Đại kiếp vị lai gọi là Tinh Tú kiếp. Trong mỗi kiếp có 1.000 vị Phật ra đời. Như vậy 7 vị Phật trên thuộc về Quá khứ Trang Nghiêm kiếp, lần lượt ra đời từ đầu kiếp 91 trở đi, tức tuổi thọ loài người từ 80.000 tuổi, 70.000 tuổi… 30.000 tuổi đến Đức Phật Thích-ca Mâu-ni ra đời vào khoảng thế kỷ thứ 4,5 trước Tây lịch.

Thường trong giai đoạn đầu, khi chư Phật ra đời đệ tử đều thanh tịnh, chư Phật chỉ nói một bài kệ ngắn gọn, đệ tử y theo đó tu hành nhanh chóng chứng quả giác ngộ. Nội dung chung nhất là luôn phải chiết phục thân, khẩu, ý, luôn ngăn chận đừng làm các điều ác mà phải hành động thiện, thể hiện điều thiện qua đi, đứng, nằm, ngồi, qua đối nhân, xử thế… 


Vì thế trong Phẩm Tự, Kinh Tăng Nhất A-hàm 1 (Đại 2, 551 thượng) giải thích ý nghĩa cô đọng như sau: “Nghĩa của Tứ-hàm thì trong một bài kệ đều có đầy đủ giáo pháp của chư Phật và giáo pháp của Bích-chi-phật, Thanh văn. Sở dĩ như vậy là vì các điều ác đừng làm thì cấm giới đầy đủ, đạo hạnh thanh bạch; Còn tuân thủ làm các điều thiện thì tâm ý thanh tịnh, tự lòng mình trong sáng, đọan trừ tà kiến điên đảo, đó là lời chư Phật dạy, trừ bỏ ngu hoặc”.

Bảy kệ này, tùy theo kinh, luật ghi lại lời lẽ, câu chữ ngắn, dài có khác nhau nhưng nội dung là một. Ở đây Giới Kệ của 7 vị Phật được trích dịch từ Kinh Đại Bản Trường A-hàm như sau:

1) Giới kệ của Đức Phật Tì-bà-thi (毘婆尸佛) (Vipásyn/ Vipassin) cũng gọi là Tì-bát-thi Phật Duy-vệ. Hán dịch là Thắng Quang Phật, Tịnh Quán Phật, Thắng Kiến Phật, Chúng Chúng Kiến Phật.

Giới Kệ:

忍辱爲第一

佛說無爲最

不以剃鬚髮

害他爲沙門

Phiên âm:

Nhẫn nhục vi đệ nhất

Phật thuyết vô vi tối

Bất dĩ thế tu phát

Hại tha vi sa-môn


Tạm dịch:

Nhẫn nhục là bậc nhất

Niết-bàn là tối thượng

Xuất gia não hại người

Không xứng danh Sa-môn

2) Giới kệ Phật Thi-khí (尸棄佛) (’Sikhi-buddha/Sikhi-buddha). Cũng gọi Thức Phật, Thức-cật Phật, Thức-khí Phật, Thức-khí-na Phật. Hán dịch là Đảnh Kế, Hữu Kế, Hỏa Thủ, Tối Thượng.

Giới kệ:

若眼見非邪

者不座牀亦復然

執志爲專一

是則諸佛敎


Phiên âm:

Nhược nhãn kiến phi tà

Tọa sàng diệc phục nhiên

Chấp chí vi chuyên nhất

Thị tắc chư Phật giáo

Dịch nghĩa:

Như mắt thấy sai quấy

Chỗ nằm ngồi cũng vậy

Giữ chí cho chuyên nhất

Là lời chư Phật dạy

3) Giới kinh Phật Tì-xá-la-bà (Tì-xá-bà) (毘舍羅婆) (Vi`svabhũ/Vi`sabhuk), cũng gọi là Tì-xá-phù, Tì-thấp-bà-bộ Phật, Ti-thứ-bà-phụ Phật, Tì-xá-bà Phật, Tùy-diệp Phật. Hán dịch là Nhất Thiết Thắng, Nhất Thiết Tự Tại, Quảng Sinh.

Giới kệ:

不 害 亦 不 非

奉 行 於 大 戒

於 食 知 止 足

座 牀 亦 復 然

執 志 爲 專 一

是 則 諸 佛 敎

Phiên âm:

Bất hại diệc bất phi

Phụng hành ư đại giới

Ư thực tri chỉ túc

Tọa sang diệc phục nhiên

Chấp chí vi chuyên nhất

Thị tắc chư Phật giáo


Tạm dịch:

Không hại, không sai trái

Luôn hành trì đại giới

Ăn uống biết dừng đủ

Chỗ nằm ngồi cũng vậy
Giữ chí cho chuyên nhất

Là lời chư Phật dạy

4) Giới kệ Phật Câu-lâu-tôn (拘樓孫佛) (Krakucchandha -buddha/ Kalusandha-buddha), cũng gọi là Câu-la-cưu-tôn-đà Phật, Yết-lạc-ca-tôn-đà Phật v.v…Hán dịch là Lãnh Trì, Diệt Lụy, Sở Ưng Đoạn Dĩ Đoạn, Thành Tựu Mỹ Diệu.

Giới kệ:

譬如蜂採花

其色甚香潔

以味惠施他

道士遊聚落

不誹謗於人

亦不觀是非

但自觀身行

諦觀正不正

Phiên âm:

Thí như phong thái hoa

Kỳ sắc thậm hương khiết

Dĩ vị huệ thí tha

Đạo sĩ du tụ lạc

Bất phỉ báng ư nhân

Diệc bất quán thị phi

Đản tự quán thân hành

Đế quán chánh bất chánh


Tạm dịch:

Như ong hút mật hoa

Hương sắc hoa càng thắm

Đem vị ban cho người

Tỳ kheo vào làng xóm

Không phỉ báng một ai

Thị phi chẳng nhìn đến

Chỉ xét hành vi mình

Có đoan chính hay không

5) Giới kệ Phật Câu-na-hàm Mâu-ni (拘那 含 牟 尼 佛) (Kanakamini/Konagamna), cũng gọi là Câu-na-hàm Phật, Ca-na-già-mâu-ni, Câu-na-hàm-mâu-ni, Ca-na-già-mâu-ni, Ca-nặc-ca-mâu-ni. Hán dịch Kiêm Sắc Tiên, Kim Nho, Kim Tịch, là vị Phật thứ 2 trong 1000 vị Phật ở Hiền Kiếp.

Giới kệ:

執志莫輕戲

當學尊寂道

賢者無愁憂

當滅志所念

Phiên âm:

Chấp chí mạc khinh hý

Đương học tôn tịch đạo

Hiền giả vô sầu ưu

Đương diệt chí sở niệm


Tạm dịch:

Giữ tâm chớ khinh đùa

Cần học đạo tịch diệt

Hiền giả không sầu lo

Quyết tâm diệt sở niệm

6) Giới kệ của Đức Phật Ca-diếp (迦葉佛)(Kãs’ypa Buddha, cũng gọi là Ca-diếp-ba Phật, Ca-nhiếp-ba Phật, Ca-nhiếp. Hán dịch là Ẩm Quang Phật.

Giới kệ:

一切惡莫作

當奉行其善

自淨其志意

是則諸佛敎

Phiên âm:

Nhất thiết ác mạc tác

Đương phụng hành kỳ thiện

Tự tịnh kỳ chí ý

Thị tắc chư Phật giáo


Tạm dịch:

Đừng làm các điều ác

Vâng làm các điều thiện

Giữ tâm ý trong sạch

Là lời chư Phật dạy

7) Giới kệ Đức Phật Thích-ca Mâu-ni (釋迦牟尼佛) Đức Phật Thích-Ca Mâu-ni (’Sãkya-muni/Sakya-muni), cũng gọi Thích-ca Văn-ni, Xa-ca-dạ Mâu-ni, Thích-ca Mâu-nẵng, Thích-ca Văn, Thế Tôn, Thích Tôn... Hán dịch: Năng Nhân, Năng Tịch, Tịch Mặc, Năng Mãn, Độ Ốc Tiêu…

Giới kệ:

護口意清淨

身行亦清淨

淨此三行迹

修行仙人道

Phiên âm:

Hộ khẩu ý thanh tịnh

Thân hành diệc thanh tịnh

Tịnh thử tam hành tích

Tu hành tiên nhân đạo


Tạm dịch:

Giữ miệng, ý thanh tịnh

Thân hành cũng trong sạch

Ba nghiệp đều thanh tịnh

Đạo Như Lai tu hành

Giới Bồ-tát cũng hình thành từ 7 kệ trên, cho thấy rõ trong Tam Tụ Tịnh giới: Nhiếp luật nghi giới tức không làm các điều ác. Nhiếp thiện pháp giới tức làm tất cả các điều thiện, Nhiêu ích hữu tình giới làm lợi ích cho tất cả chúng sanh. Như vậy Bảy kệ giới của chư Phật quá khứ là giới luật căn bản của Đạo Phật, không luận xuất gia hay tại gia.

Để kết thúc xin dẫn ra bài kệ của Đức Phật Thích-ca Mâu-ni mà trong Luật Bí Sô thuộc Căn Bản Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ coi đó là Giới Kinh được Ngài đúc kết sau khi Thành đạo:

Tỳ-bát, Thí-thức Khí

Tỳ-xá, Câu-lưu-tôn

Yết-nặc-ca Mâu-ni

Ca-diếp, Thích-ca Tôn

Như vậy Trời trong trời

Bậc Vô-thượng Điều ngự

Bảy Phật đều hùng mạnh

Hay cứu hộ thế gian

Đầy đủ đại danh xưng

Đều nói Giới kinh này.

Chư Phật và đệ tử

Đều cùng tôn kính giới

Do cung kính Giới kinh

Chứng đặng quả Vô-thượng

Người nên cầu xuất ly

Siêng tu trong Phật giáo

Hàng phục quân sanh tử

Như voi phá nhà cỏ

Ở trong pháp luật này

Thường tu không phóng dật

Làm khô biển phiền não

Sẽ hết ngằn mé khổ

Như Giới kinh này nói

Hòa hợp làm trưởng tịnh

Phải cùng tôn kính giới

Như trâu mao tiếc đuôi

Tôi nói Giới kinh rồi

Chúng Tăng trưởng tịnh xong

Phước lợi các hữu tình

Đều trọn thành Phật Đạo.




1. Theo Tứ Phần Luật Tì-kheo Giới bổn thì Giới kinh là: “Thí như người mắt sáng / Tránh được con đường hiểm/ Đời có người thông minh/ Xa lìa các điều ác”. (Đại 22, 1022 trung)

2. Phật giáo đời sau thường sử dùng bài kệ của Đức Phật Ca Diếp nhưng văn tự có hơi khác, đó là 4 câu trong kimh Tăng Nhất A-hàm được Tôn giả A-nan dẫn: “Chư ác mạc tác / Chúng thiện phụng hành/ Tư tịnh kỳ ý/ Thị chư Phật giáo”.

3. (Luật Bí Sô, q2, trang 677. Bản PhotoCopy, Cố HT Thích Đổng Minh dịch)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét