GIỚI KỆ CỦA BẢY VỊ PHẬT QUÁ KHỨ
* Phước Thắng
Bảy Đức Phật ở quá khứ là:
- Phật Tì-bà-thi,
- Phật Thi-khí,
- Phật Tì-xá-phù,
- Phật Câu-lâu-tôn,
- Phật Câu-na-hàm mâu-ni,
- Phật Ca-diếp,
- Phật Thích-ca Mâu-ni.
Lịch sử chư Phật này ghi trong các kinh, luật: Tạp A-hàm 34, Trường A-hàm 1, kinh Đại Bản, Kinh Tăng Nhất A-hàm 45, Kinh Hiền Kiếp 7, Kinh Thất Phật Phụ Mẫu Tự Tính Tự, Kinh Thất Phật, Phật Bản Hạnh Kinh Tập 11, Hữu Bộ Tì-nại-da Phá Tăng Sự, Kinh Du Hành Bản Khởi… về nhân thân, sự ra đời, dòng họ, cha, mẹ, thê tử, đệ tử, thị giả, nơi ở, đạo tràng, chúng hội thuyết pháp đầu tiên.
Tập Dị Môn Túc Luận 3 (Đại 26, 378 hạ) đã đặt vấn đề:
Đời quá khứ là gì?
Và trả lời rằng:
“Các hành đã khởi, đã cùng khởi, đã sinh, đã cùng sinh, đã chuyển, đã cùng chuyển, đã nhóm họp, đã xuất hiện, rơi vào quá khứ, diệt hết và biến đổi thành tính quá khứ, loại quá khứ, thuộc về đời quá khứ, đó là nghĩa quá khứ thế”. Một vấn đề nữa, quá khứ chư Phật trên thuộc về kiếp nào? Kiếp chia làm 3 loại: Đại kiếp, Trung kiếp và Tiểu kiếp. Đại kiếp hiện tại gọi là Hiền kiếp, Đại kiếp quá khứ gọi Trang Nghiêm kiếp, Đại kiếp vị lai gọi là Tinh Tú kiếp. Trong mỗi kiếp có 1.000 vị Phật ra đời. Như vậy 7 vị Phật trên thuộc về Quá khứ Trang Nghiêm kiếp, lần lượt ra đời từ đầu kiếp 91 trở đi, tức tuổi thọ loài người từ 80.000 tuổi, 70.000 tuổi… 30.000 tuổi đến Đức Phật Thích-ca Mâu-ni ra đời vào khoảng thế kỷ thứ 4,5 trước Tây lịch.
Thường trong giai đoạn đầu, khi chư Phật ra đời đệ tử đều thanh tịnh, chư Phật chỉ nói một bài kệ ngắn gọn, đệ tử y theo đó tu hành nhanh chóng chứng quả giác ngộ. Nội dung chung nhất là luôn phải chiết phục thân, khẩu, ý, luôn ngăn chận đừng làm các điều ác mà phải hành động thiện, thể hiện điều thiện qua đi, đứng, nằm, ngồi, qua đối nhân, xử thế…
Vì thế trong Phẩm Tự, Kinh Tăng Nhất A-hàm 1 (Đại 2, 551 thượng) giải thích ý nghĩa cô đọng như sau: “Nghĩa của Tứ-hàm thì trong một bài kệ đều có đầy đủ giáo pháp của chư Phật và giáo pháp của Bích-chi-phật, Thanh văn. Sở dĩ như vậy là vì các điều ác đừng làm thì cấm giới đầy đủ, đạo hạnh thanh bạch; Còn tuân thủ làm các điều thiện thì tâm ý thanh tịnh, tự lòng mình trong sáng, đọan trừ tà kiến điên đảo, đó là lời chư Phật dạy, trừ bỏ ngu hoặc”.
Bảy kệ này, tùy theo kinh, luật ghi lại lời lẽ, câu chữ ngắn, dài có khác nhau nhưng nội dung là một. Ở đây Giới Kệ của 7 vị Phật được trích dịch từ Kinh Đại Bản Trường A-hàm như sau:
1) Giới kệ của Đức Phật Tì-bà-thi (毘婆尸佛) (Vipásyn/ Vipassin) cũng gọi là Tì-bát-thi Phật Duy-vệ. Hán dịch là Thắng Quang Phật, Tịnh Quán Phật, Thắng Kiến Phật, Chúng Chúng Kiến Phật.
Giới Kệ:
忍辱爲第一
佛說無爲最
不以剃鬚髮
害他爲沙門
Phiên âm:
Nhẫn nhục vi đệ nhất
Phật thuyết vô vi tối
Bất dĩ thế tu phát
Hại tha vi sa-môn
Tạm dịch:
Nhẫn nhục là bậc nhất
Niết-bàn là tối thượng
Xuất gia não hại người
Không xứng danh Sa-môn
2) Giới kệ Phật Thi-khí (尸棄佛) (’Sikhi-buddha/Sikhi-buddha). Cũng gọi Thức Phật, Thức-cật Phật, Thức-khí Phật, Thức-khí-na Phật. Hán dịch là Đảnh Kế, Hữu Kế, Hỏa Thủ, Tối Thượng.
Giới kệ:
若眼見非邪
者不座牀亦復然
執志爲專一
是則諸佛敎
Phiên âm:
Nhược nhãn kiến phi tà
Tọa sàng diệc phục nhiên
Chấp chí vi chuyên nhất
Thị tắc chư Phật giáo
Dịch nghĩa:
Như mắt thấy sai quấy
Chỗ nằm ngồi cũng vậy
Giữ chí cho chuyên nhất
Là lời chư Phật dạy
3) Giới kinh Phật Tì-xá-la-bà (Tì-xá-bà) (毘舍羅婆) (Vi`svabhũ/Vi`sabhuk), cũng gọi là Tì-xá-phù, Tì-thấp-bà-bộ Phật, Ti-thứ-bà-phụ Phật, Tì-xá-bà Phật, Tùy-diệp Phật. Hán dịch là Nhất Thiết Thắng, Nhất Thiết Tự Tại, Quảng Sinh.
Giới kệ:
不 害 亦 不 非
奉 行 於 大 戒
於 食 知 止 足
座 牀 亦 復 然
執 志 爲 專 一
是 則 諸 佛 敎
Phiên âm:
Bất hại diệc bất phi
Phụng hành ư đại giới
Ư thực tri chỉ túc
Tọa sang diệc phục nhiên
Chấp chí vi chuyên nhất
Thị tắc chư Phật giáo
Tạm dịch:
Không hại, không sai trái
Luôn hành trì đại giới
Ăn uống biết dừng đủ
Chỗ nằm ngồi cũng vậy
Giữ chí cho chuyên nhất
Là lời chư Phật dạy
4) Giới kệ Phật Câu-lâu-tôn (拘樓孫佛) (Krakucchandha -buddha/ Kalusandha-buddha), cũng gọi là Câu-la-cưu-tôn-đà Phật, Yết-lạc-ca-tôn-đà Phật v.v…Hán dịch là Lãnh Trì, Diệt Lụy, Sở Ưng Đoạn Dĩ Đoạn, Thành Tựu Mỹ Diệu.
Giới kệ:
譬如蜂採花
其色甚香潔
以味惠施他
道士遊聚落
不誹謗於人
亦不觀是非
但自觀身行
諦觀正不正
Phiên âm:
Thí như phong thái hoa
Kỳ sắc thậm hương khiết
Dĩ vị huệ thí tha
Đạo sĩ du tụ lạc
Bất phỉ báng ư nhân
Diệc bất quán thị phi
Đản tự quán thân hành
Đế quán chánh bất chánh
Tạm dịch:
Như ong hút mật hoa
Hương sắc hoa càng thắm
Đem vị ban cho người
Tỳ kheo vào làng xóm
Không phỉ báng một ai
Thị phi chẳng nhìn đến
Chỉ xét hành vi mình
Có đoan chính hay không
5) Giới kệ Phật Câu-na-hàm Mâu-ni (拘那 含 牟 尼 佛) (Kanakamini/Konagamna), cũng gọi là Câu-na-hàm Phật, Ca-na-già-mâu-ni, Câu-na-hàm-mâu-ni, Ca-na-già-mâu-ni, Ca-nặc-ca-mâu-ni. Hán dịch Kiêm Sắc Tiên, Kim Nho, Kim Tịch, là vị Phật thứ 2 trong 1000 vị Phật ở Hiền Kiếp.
Giới kệ:
執志莫輕戲
當學尊寂道
賢者無愁憂
當滅志所念
Phiên âm:
Chấp chí mạc khinh hý
Đương học tôn tịch đạo
Hiền giả vô sầu ưu
Đương diệt chí sở niệm
Tạm dịch:
Giữ tâm chớ khinh đùa
Cần học đạo tịch diệt
Hiền giả không sầu lo
Quyết tâm diệt sở niệm
6) Giới kệ của Đức Phật Ca-diếp (迦葉佛)(Kãs’ypa Buddha, cũng gọi là Ca-diếp-ba Phật, Ca-nhiếp-ba Phật, Ca-nhiếp. Hán dịch là Ẩm Quang Phật.
Giới kệ:
一切惡莫作
當奉行其善
自淨其志意
是則諸佛敎
Phiên âm:
Nhất thiết ác mạc tác
Đương phụng hành kỳ thiện
Tự tịnh kỳ chí ý
Thị tắc chư Phật giáo
Tạm dịch:
Đừng làm các điều ác
Vâng làm các điều thiện
Giữ tâm ý trong sạch
Là lời chư Phật dạy
7) Giới kệ Đức Phật Thích-ca Mâu-ni (釋迦牟尼佛) Đức Phật Thích-Ca Mâu-ni (’Sãkya-muni/Sakya-muni), cũng gọi Thích-ca Văn-ni, Xa-ca-dạ Mâu-ni, Thích-ca Mâu-nẵng, Thích-ca Văn, Thế Tôn, Thích Tôn... Hán dịch: Năng Nhân, Năng Tịch, Tịch Mặc, Năng Mãn, Độ Ốc Tiêu…
Giới kệ:
護口意清淨
身行亦清淨
淨此三行迹
修行仙人道
Phiên âm:
Hộ khẩu ý thanh tịnh
Thân hành diệc thanh tịnh
Tịnh thử tam hành tích
Tu hành tiên nhân đạo
Tạm dịch:
Giữ miệng, ý thanh tịnh
Thân hành cũng trong sạch
Ba nghiệp đều thanh tịnh
Đạo Như Lai tu hành
Giới Bồ-tát cũng hình thành từ 7 kệ trên, cho thấy rõ trong Tam Tụ Tịnh giới: Nhiếp luật nghi giới tức không làm các điều ác. Nhiếp thiện pháp giới tức làm tất cả các điều thiện, Nhiêu ích hữu tình giới làm lợi ích cho tất cả chúng sanh. Như vậy Bảy kệ giới của chư Phật quá khứ là giới luật căn bản của Đạo Phật, không luận xuất gia hay tại gia.
Để kết thúc xin dẫn ra bài kệ của Đức Phật Thích-ca Mâu-ni mà trong Luật Bí Sô thuộc Căn Bản Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ coi đó là Giới Kinh được Ngài đúc kết sau khi Thành đạo:
Tỳ-bát, Thí-thức Khí
Tỳ-xá, Câu-lưu-tôn
Yết-nặc-ca Mâu-ni
Ca-diếp, Thích-ca Tôn
Như vậy Trời trong trời
Bậc Vô-thượng Điều ngự
Bảy Phật đều hùng mạnh
Hay cứu hộ thế gian
Đầy đủ đại danh xưng
Đều nói Giới kinh này.
Chư Phật và đệ tử
Đều cùng tôn kính giới
Do cung kính Giới kinh
Chứng đặng quả Vô-thượng
Người nên cầu xuất ly
Siêng tu trong Phật giáo
Hàng phục quân sanh tử
Như voi phá nhà cỏ
Ở trong pháp luật này
Thường tu không phóng dật
Làm khô biển phiền não
Sẽ hết ngằn mé khổ
Như Giới kinh này nói
Hòa hợp làm trưởng tịnh
Phải cùng tôn kính giới
Như trâu mao tiếc đuôi
Tôi nói Giới kinh rồi
Chúng Tăng trưởng tịnh xong
Phước lợi các hữu tình
Đều trọn thành Phật Đạo.
1. Theo Tứ Phần Luật Tì-kheo Giới bổn thì Giới kinh là: “Thí như người mắt sáng / Tránh được con đường hiểm/ Đời có người thông minh/ Xa lìa các điều ác”. (Đại 22, 1022 trung)
2. Phật giáo đời sau thường sử dùng bài kệ của Đức Phật Ca Diếp nhưng văn tự có hơi khác, đó là 4 câu trong kimh Tăng Nhất A-hàm được Tôn giả A-nan dẫn: “Chư ác mạc tác / Chúng thiện phụng hành/ Tư tịnh kỳ ý/ Thị chư Phật giáo”.
3. (Luật Bí Sô, q2, trang 677. Bản PhotoCopy, Cố HT Thích Đổng Minh dịch)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét