Thứ Hai, 27 tháng 3, 2017
Ý Trinh hát nhạc Huế
Ý Trinh ngưỡng mộ giọng hát ngọt ngào của Danh ca Hương Lan
Hương Lan hát Huế thì nên tìm CD Huế Xưa, Huế Bây Giờ nhé:
1. HUẾ XƯA
2. VỸ DẠ ĐÒ TRĂNG
3. KHÚC TÌNH CA XỨ HUẾ
4. LÁ THƯ MIỀN TRUNG
5. TỪ ĐÀM QUÊ HƯƠNG TÔI
6. CHIỀU CỐ ĐÔ
7. HUẾ BÂY GIỜ
8. GIÃ TỪ CỐ ĐÔ
9. CẦU SƯƠNG ĐIỂM CỎ
10. GỢI GIẤC MƠ XƯA
11. TRỞ VỀ HUẾ
12. VÙNG QUÊ TƯƠNG LẠI
CD này thì Ý Trinh hay nghe và yêu thích
Ý Trinh xem thuyết pháp : Kinh Hoa Nghiêm và Quán Thế Âm – Lắng Nghe Tâm Mà Tu Tập
Ý Trinh xem thuyết pháp : Kinh Hoa Nghiêm và Quán Thế Âm – Lắng Nghe Tâm Mà Tu Tập
Ý Trinh xem thuyết pháp : Hòa Thượng Giới Đức - Người học Phật có thể hiểu sai và tu sai Tứ Diệu Đế
Ý Trinh xem thuyết pháp : Hòa Thượng Giới Đức - Người học Phật có thể hiểu sai và tu sai Tứ Diệu Đế
Ý Trinh nói về Thuốc Nitromint 2.6mg
Tác dụng của thuốc nitromint 2.6mg
Nitromint 2.6mg là một loại thuốc được dùng phổ biến
trong các vấn đề tim mạch, nhất là tình trạng đau thắt ngực và suy tim. Để hiểu
hơn về tác dụng của thuốc nitromint 2.6mg cũng như cách sử dụng thuốc
nitromint 2.6mg hiệu quả an toàn, chúng ta hãy cùng theo dõi bài viết dưới
đây.
Thông tin về thuốc nitromint 2.6mg
Tên gọi biệt dược: NITRO-BID, NITRO-DUR, NITROSTAT,
TRANSDERM-NITRO, MINITRAN, DEPONIT, NITROL
Thành phần gồm: Nitroglycerin và tá dược
Tác dụng của thuốc nitromint 2.6mg
Các nitrate trong đó có nitroglycerin có tác dụng điều chỉnh
mất cân bằng giữa lượng máu và oxy đến tim.
Nitroglycerin có tác dụng giãn mạch trên các cơ trơn của mạch
máu. Thuốc làm giãn các tĩnh mạch và động mạch, cũng như các mạch vành, do đó
làm nhẹ công của tim, tiền tải, hậu tải và nhu cầu oxy của tim.
Viên nén Nitromint có tác dụng kéo dài tác dụng giãn mạch
vành.
Do đó, nitromint 2.6mg điều trị bệnh suy tim và thường được
dùng kết hợp với digitalis, thuốc lợi tiểu, ACEI hay giãn mạch.
Ngoài ra ở bệnh nhân đau thắt ngực, Nitroglycerin ưu tiên
giãn mạch máu cung cấp máu cho tim mà ở đó không có đủ oxy.
Nitromint 2.6mg là thuốc giãn mạch, thường dùng để điều trị
đau thắt ngực.
Thuốc cải thiện sự tuần hoàn của mạch vành, sự cung cấp oxy
cho cơ tim đang bị thiếu máu cục bộ, cung lượng tim và sự dung nạp vận động.
Những lưu ý khi dùng thuốc nitromint 2.6mg
Thuốc có thể gây cảm giác bỏng miệng thoáng qua, cảm
giác mạch đập trong đầu, nhức đầu, bốc hỏa mặt, hoa mắt, đánh trống ngực, cảm
giác nóng, buồn nôn, toát mồ hôi.
Chống chỉ định với các bệnh nhân bị mẫn cảm với thành phần
thuốc hay nitrat hữu cơ.
Không dùng trong những trường hợp bị huyết áp thấp, suy
tuần hoàn, giảm thể tích máu, sốc do tim, thiếu máu.
Không dùng cho những bệnh nhân có tiền sử nhồi máu cơ
tim, bệnh cơ tim phì đại hay tắc nghẽn, hẹp van động mạch chủ hay van hai lá,
chèn ép màng ngoài tim.
Chống chỉ định kết hợp với các thành phần sildenafil,
vardenafil, tadalafil.
Khi giảm liều phải tiến hành từ từ tránh tình trạng nhờn
thuốc.
Cẩn trọng và tham khảo bác sĩ khi dùng cho các trường hợp bị
mắc bệnh tim do phổi
Cần đặt biệt lưu ý khi dùng cho những người cao tuổi, người
bị mắc gan, thận, kém dinh dưỡng, hội chứng kém dung nạp
glucose/galactose.
Cẩn trọng khi dùng cho phụ nữ có thai & cho con bú.
Những người lái xe & vận hành máy có thể cần thận trọng
vì nó có thể gây buồn ngủ.
Hướng dẫn sử dụng thuốc nitromint 2.6mg
♣ Liều dùng được điều chỉnh tùy theo tình trạng của bệnh
nhân và do thầy thuốc quyết định:
♣ Đối với trường hợp ngăn ngừa đau thắt ngực
thì liều khoảng 2 – 3 viên 2,5 mg/ngày, chia ra nhiều lần trong ngày.
♣ Đối với trường hợp hỗ trợ điều trị suy tim
trái hoặc suy tim toàn bộ: 6 – 12 viên 2,5 mg/ngày, chia làm 2 – 3 lần/ngày.
♣ Uống thuốc nuốt trọn viên, không nhai hoặc ngậm.
Trên đây là bài viết liên quan đến tác dụng của thuốc nitromint
2.6mg. Hi vọng, bài chia sẻ này đã giúp độc giả có thêm hiểu biết một
số loại thuốc phổ biến. Chúc các bạn luôn khỏe mạnh!
*Lưu ý: Các thông tin về thuốc trên Ý Trinh blogger chỉ
mang tính chất tham khảo cho mọi người mở rộng kiến thức về thuốc tây .
Khi dùng thuốc cần tuyệt đối tuân theo theo hướng dẫn
của Bác sĩ tại bệnh viện hay phòng khám chuyên khoa .
Ý Trinh sưu tầm.
Ý Trinh nói về bệnh Trái rạ (Thuỷ đậu)
Theo kinh nghiệm của Ý Trinh nhìn nhận :
Bệnh thủy đậu có thể chữa khỏi hoàn toàn mà không để lại di
chứng nếu phát hiện kịp thời và chữa trị đúng cách.Hãy cùng tham khảo nhé!
CÁCH CHỮA BỆNH THỦY ĐẬU NHANH KHỎI KHÔNG ĐỂ LẠI SẸO
Thủy đậu là bệnh truyền nhiễm do virus Varicella Zoster gây
ra.
Bệnh lây truyền qua đường hô hấp nên thường phát triển thành dịch.
Thời tiết
chuyển mùa, không khí nóng ẩm tạo điều kiện cho virut gây bệnh phát triển mạnh.
Điều đáng lo ngại là năm nay đã có người lớn mắc thủy đậu và thường có biến chứng
viêm não nặng, 1 trường hợp đã tử vong tại Bệnh viện Bệnh nhiệt đới TP.HCM
tháng 1/2013.
Biểu hiện của bệnh thủy đậu
Bệnh thủy đậu trải qua 4 thời kỳ:
Thời kỳ ủ bệnh trung bình
từ 14 - 15 ngày.
Nếu bệnh nhân suy giảm miễn dịch, thời kỳ này có thể ngắn hơn.
Thời kỳ khởi phát (24-48h), người bệnh sốt nhẹ, sốt cao ở bệnh nhân suy giảm
nhiễm dịch kèm theo mệt mỏi, chán ăn, nhức đầu và phát ban (tiền thân của bóng
nước) là những hồng ban nổi trên nền da bình thường.
Thời kỳ toàn phát (thời kỳ
đậu mọc): giảm sốt, nổi bong bóng nước trên nền da màu hồng, sau đó các nốt phỏng
xuất hiện ở da đầu, mặt, lan xuống thân và tay chân với số lượng nhiều ít khác
nhau tùy từng cơ thể.
Thời kỳ hồi phục: sau khoảng 1 tuần, hầu hết bóng nước
đóng mày, đa số không để lại sẹo trừ các bóng nước bị bội nhiễm.
Thủy đậu có các biến chứng gì?
Khi các mụn nước vỡ ra và bị nhiễm khuẩn có thể gây sẹo xấu,
đặc biệt, khi bệnh nhân gãi nhiều ở vùng tổn thương, đây là biến chứng hay gặp
nhất ở trẻ nhỏ.
Biến chứng khác thường gặp là tổn thương thần kinh trung
ương bao gồm: viêm não (nhức đầu, co giật, rối loạn ý thức), tổn thương thần
kinh (liệt thần kinh) và hội chứng Reye (kết hợp tổn thương gan và não, có khả
năng gây tử vong), viêm phổi.
Các biến chứng đặc biệt nặng có thể xảy ra trên bệnh
nhân AIDS, luput, bệnh bạch cầu, bệnh ung thư và bệnh nhân dùng thuốc ức chế miễn
dịch như corticoid.
Trẻ sơ sinh có mẹ bị thủy đậu ở 3 tháng cuối của thai kỳ sẽ
chịu những nguy cơ cao của bệnh. Nếu mẹ phát bệnh thủy đậu 5 ngày trước hoặc 2
ngày sau khi sinh, tỉ lệ tử vong của trẻ sơ sinh có thể lên đến 30%.
Điều trị bệnh thủy đậu
Quan trọng nhất trong chăm sóc và điều trị thủy đậu là làm sạch
da và vệ sinh thân thể: tắm rửa bằng các dung dịch sát khuẩn, thay quần áo nhiều
lần trong ngày, cắt ngắn và vệ sinh móng tay, tránh cọ xát làm các bóng nước bị
vỡ. Dùng kháng sinh chỉ khi nghi ngờ có biểu hiện bội nhiễm.
Điều trị triệu chứng:
Ngứa là triệu chứng gặp ở hầu hết bệnh
nhân bị thủy đậu, đặc biệt ở những bệnh nhân có nổi nhiều bóng nước.
Thuốc có
thể dùng là các thuốc kháng histamin như: chlopheniramin, loratadine…, ngoài
ra, dùng các thuốc bôi tại chỗ như hồ nước và xanh methylen cũng có hiệu quả rõ
rệt. Xanh methylen là loại thuốc sát khuẩn nhẹ có dạng dung dịch dùng ngoài 1%
hoặc dung dịch milian (gồm xanh methylen, tím gentian, ethanol, nước cất…). Khi
bệnh nhân đau và sốt cao, có thể cho dùng acetaminophen, không sử dụng aspirin
vì có thể gây hội chứng Reye.
Điều trị đặc hiệu bằng thuốc kháng virut:
Thủy đậu là một bệnh
lành tính, thuốc kháng virut chỉ dùng trong trường hợp bệnh nặng, phòng biến chứng
viêm phổi thủy đậu, biến chứng nội tạng hoặc các bệnh nhân có suy giảm miễn dịch
như HIV/AIDS, phụ nữ có thai, người mới ghép tạng, sử dụng corticoid dài ngày.
Tuy nhiên, do bệnh thường gặp nặng ở đối tượng trẻ vị thành niên và người lớn
nên có thể cân nhắc sử dụng thuốc cho các đối tượng này.
Acyclovir (adenin guanosine):
Acyclovir là một thuốc kháng
virut thuộc nhóm ức chế ADN polymerase. Là dẫn xuất guanosin vào cơ thể dưới
tác dụng của thymidin kynase và một số enzym khác tạo thành acyclovir
triphosphat, đây là chất một mặt ức chế cạnh tranh với
ADN polymerase của virut
nên ức chế sự nhân đôi của ADN; mặt khác, nó gắn vào cuối chuỗi ADN và đóng vai
trò là chất kết thúc chuỗi ADN, vì vậy, nó ức chế sự nhân lên của virut.
Điểm
đáng chú ý là nồng độ của acyclovir triphosphat trong tế bào nhiễm virut cao gấp
50 - 100 lần ở tế bào lành và ADN của virut nhạy cảm với acyclovir triphosphat
hơn ADN của tế bào vật chủ nên độc tính của acyclovir triphosphat với tế bào
lành ít hơn rất nhiều so với tế bào bị nhiễm virut.
Acyclovir có thể dùng đường
uống, đường tiêm hoặc đường tại chỗ (bôi ngoài da), thuốc phân bố rộng rãi vào
dịch cơ thể và các cơ quan như thận, não, gan, phổi... và thức ăn không làm ảnh
hưởng tới khả năng hấp thu thuốc.
Thời gian bán thải từ 3 - 4 giờ nên thường
sau 4 - 5 giờ sẽ dùng thuốc một lần. Thuốc có hiệu quả nhất nếu khi sử dụng
trong vòng 24h trước khi nổi bóng nước, trung bình 5 - 7 ngày hoặc đến khi
không có bong bóng nước mới xuất hiện nữa.
Liều lượng phụ thuộc lứa tuổi hoặc cân nặng (đối với trẻ nhỏ).
Trường hợp nặng hơn hoặc có biến chứng như viêm màng não, trẻ suy giảm miễn dịch,
có thể dùng acyclovir đường tĩnh mạch.
Biện pháp phòng ngừa
Khi trong gia đình, trường học, công sở... có người mắc bệnh,
cần cách ly bệnh nhân 7 - 10 ngày để tránh lây lan cho cộng đồng. Nếu trẻ ở độ
tuổi đi học, khi mắc bệnh phải nghỉ học và người lớn phải nghỉ làm 1 - 2 tuần.
Tuy nhiên, việc cách ly bệnh nhân không bảo đảm ngừa được bệnh cho người khác
vì siêu vi có thể lây lan từ trước khi phát mụn nước và sau khi mụn nước đã
lành.
Tạo miễn dịch thụ động: Tiêm globin miễn dịch như VZIG
(Herpes – Zoster immune globin) hay HZIP (Herpes – Zoster immune plasma) cho những
người suy giảm miễn dịch sau khi tiếp xúc trực tiếp với người bị thủy đậu. Các
đối tượng có chỉ định dùng bao gồm: trẻ dưới 15 tuổi bị suy giảm miễn dịch chưa
bị thủy đậu hoặc chưa được chủng ngừa, trẻ sơ sinh sinh ra từ các bà mẹ bị thủy
đậu trong vòng 5 ngày trước hoặc 2 ngày sau sinh. Thuốc chỉ cần 1 liều duy nhất.
Tạo miễn dịch chủ động: Tiêm vaccin để ngừa thủy đậu là giải
pháp hiệu quả nhất hiện nay. Khả năng dự phòng đạt 90 - 100% với thủy đậu nặng
và 70 - 90% với thủy đậu nhẹ. Vaccin ngừa thủy đậu tạo được miễn nhiễm lâu dài
gần như suốt đời, tính an toàn cao, ít tác dụng phụ.
Hiện nay, các bác sĩ khuyến cáo nên tiêm tiêm phòng thủy đậu
cho hầu hết các trẻ em. Chỉ cần tiêm 2 mũi. Mũi đầu tiên tiêm lúc trẻ 1 tuổi và
mũi thứ hai (tiêm nhắc lại) lúc 4 tuổi. Đối với người lớn chưa bị thủy đậu, có
thể tiêm phòng vào bất cứ lúc nào.
NHỮNG LƯU Y KHI BỊ THỦY ĐẬU
Thủy đậu là một bệnh truyền nhiễm cấp tính gây dịch do virut
Varicella zoster gây ra. Bệnh thường nhẹ nhưng rất dễ lây.
Người bệnh là nguồn lây duy nhất.
Người ốm làm lây bệnh ngay
từ khi có triệu chứng đầu tiên cho đến khi nốt đậu đóng vảy (thường ở ngày thứ
7 kể từ khi đậu mọc).
Virut từ đờm dãi, nước mũi, nước bọt trẻ ốm bắn sang người
lành khi nói, ho hoặc hắt hơi, xâm nhập vào cơ thể qua mũi-họng, rồi theo đường
máu đến cư trú ở lớp tế bào thượng bì da và niêm mạc (niêm mạc miệng, kết mạc mắt...)
và gây nên những nốt phỏng ở đó.
Tỷ lệ mắc bệnh thường cao ở các đô thị, nơi đông dân và
trong những tháng lạnh. Tuổi mắc nhiều nhất là 2-7 tuổi, ít khi gặp ở trẻ dưới
6 tháng. Người lớn cũng mắc nếu như lúc nhỏ chưa mắc.
Sau một thời gian ủ bệnh chừng 14-15 ngày thì bệnh phát.
Trong nhiều trường hợp, trẻ vẫn ăn, chơi bình thường làm cho người mẹ không để
ý, đến khi đậu mọc mới biết hoặc tình cờ phát hiện được một vài nốt ở đầu. Có
khi trẻ sốt nhẹ, sổ mũi, biếng ăn, không chịu chơi, đau mỏi các khớp, dễ kích
thích, ngứa, rồi 24-36 giờ sau đậu mọc.
Ban mọc khắp nơi, không theo một trình
tự nhất định: ban mọc nhiều ở da đầu, trong các kẽ chân tóc. Đậu thường thưa,
nhưng cũng có trường hợp mọc dày chi chít, mọc cả ở niêm mạc miệng, kết mạc mắt
rồi vỡ ngay.
Thoạt đầu, những nốt đỏ giống như ban sởi, vài giờ sau thành
nốt phỏng. Nốt phỏng rất nông trông như giọt sương, hình quả xoan; nếu lấy hai
ngón tay căng nốt phỏng ra, ta sẽ thấy mặt nốt phẳng nhăn lại.
Các nốt này mọc
rất nhanh và mọc làm nhiều đợt cách nhau 2-3 ngày, do đó ở cùng một vùng da, có
thểí gặp đủ loại nốt: có nốt to, nốt nhỏ, có nốt đỏ, nốt phỏng, có nốt đã đóng
vảy. Nhìn chung, sức khỏe của trẻ ít thay đổi.
Đến ngày thứ 4-6, nốt đậu đóng vảy,
vảy có màu nâu sẫm. Một tuần sau vảy bong và không để lại sẹo. Bệnh khỏi và cơ
thể thu được miễn dịch bền vững.
Người lớn chưa từng mắc cũng có thể bị bệnh và bệnh thường nặng.
Người bệnh thường sốt cao 39-40oC, trằn trọc, mê sảng; nốt phỏng có thể kèm
theo máu.
Phụ nữ có thai bị thủy đậu trong nửa đầu của thai kỳ có thể
gây dị dạng ở não bộ, da... của bào thai.
Với trẻ suy dinh dưỡng, còi xương, những người bị eczema hoặc
có bệnh về máu, bệnh thường nặng, nốt phỏng hay bị loét, hoại tử, có chứa chấy
nhày màu xám; có khi còn gây viêm thận cấp, viêm tai giữa, viêm phổi, viêm loét
giác mạc, viêm tủy thoáng qua, viêm màng não vô khuẩn.
Nếu trẻ gãi nhiều hoặc chăm sóc vệ sinh không chu đáo, nốt
phỏng có thể bị bội nhiễm gây nhiễm khuẩn da nặng hoặc nhiễm khuẩn máu do vi
khuẩn tụ cầu.
Thủy đậu là một bệnh nhẹ, song rất cần được chăm sóc chu đáo
để không xảy ra biến chứng.
- Trẻ ốm phải cho cách ly tại nhà trong suốt thời gian từ
khi bệnh bắt đầu cho đến khi bong hết vảy. Trước khi cho trẻ trở lại vườn trẻ,
lớp học... phải tắm gội trẻ cho sạch vảy.
- Giữ cho da của trẻ luôn luôn sạch sẽ. Quần áo phải được giặt
bằng xà phòng và nước sạch rồi là trước khi mặc. Chú ý giữ sạch tay và cắt ngắn
móng tay; trẻ nhỏ phải cho mang bao tay, xoa bột tan (talc) vô khuẩn hoặc phấn
rôm khắp người để trẻ đỡ ngứa. Hằng ngày (ngày 2-3 lần) nhỏ mắt, mũi thuốc sát
khuẩn như chloramphenicol 0,4% hoặc acgyrol 1%.
- Khi nốt phỏng vỡ, chỉ nên bôi thuốc xanh metilen; không được
bôi mỡ tetraxiclin, mỡ penixilin hay thuốc đỏ.
- Không được tự ý dùng thuốc kháng sinh. Mọi trường hợp nhất
thiết phải được thầy thuốc thăm khám bệnh chỉ định và hướng dẫn cụ thể.
- Khi thấy trẻ đột nhiên sốt cao hoặc nốt phỏng mọc dày chi
chít, hoặc chảy nước mắt tự nhiên, sợ ánh sáng cần cho trẻ đi khám bệnh ngay.
Bạn yên tâm, bệnh thủy đậu không phải là bệnh đậu mùa. Bệnh
đậu mùa là bệnh mang tính truyền nhiễm và đôi khi là bệnh hay lây nguy hiểm đến
tính mạng, gây ra bởi siêu vi trùng Variola. Loại bệnh đậu mùa thường được thấy
và gây ra nguy hiểm được gọi là Variola chủ.
Thủy đậu là một bệnh ngoài da do virus gây ra, rất thường gặp
ở trẻ em. Tác nhân gây bệnh là virus varicella-zoster, tuy nhiên bệnh có thể gặp
ở mọi lứa tuổi.
Các nốt thủy đậu mọc rất nhanh và mọc làm nhiều đợt cách
nhau 2-3 ngày, có thể gặp đủ loại nốt đậu độ tuổi khác nhau (nốt to, nhỏ, nốt đỏ,
nốt phỏng, nốt đã đóng vẩy).
Thủy đậu lây truyền rất nhanh, có thể có biến chứng nguy hiểm
khi các mụn nước vỡ ra và bị nhiễm trùng, có thể gây sẹo xấu, đặc biệt khi bệnh
nhân gãi nhiều ở vùng tổn thương, nhiễm trùng da là biến chứng của thủy đậu thường
gặp nhất.
Khi phát hiện sớm và điều trị kịp thời, bệnh thường tiến triển
lành tính: đậu thường thưa, đến ngày thứ 4 hoặc ngày thứ 6, nốt đậu đóng vẩy, vẩy
có màu nâu sẫm. Một tuần sau bong vẩy và không để lại sẹo.
Trường hợp của em do bệnh thủy đậu bị nhiễm trùng nên
để lại sẹo rỗ, tiếc là không có cách chữa dân gian nào chữa được sẹo
này để hướng dẫn cho em, sẹo này phải nhờ đến công nghệ siêu dẫn kim
cương, siêu mài mòn.
Công nghệ siêu dẫn kim cương sẽ dùng những hạt tinh thể kim
cương bắn vào bề mặt để lấy đi lớp da sừng sần sùi, tổn thương lâu ngày, đồng
thời kích thích tái tạo lại lớp da mới từ bên dưới.
Thủy đậu là một bệnh lây nhiễm do siêu vi có tên là
Varicella Zoster. Bệnh thường gây ra tổn thương da dưới dạng các mụn - bóng nước
có quầng da đỏ xung quanh. Ngoài ra bệnh có thể gây tổn thương nội tạng như
viêm phổi…
Các tổn thương da có thể tự lành sau 7-10 ngày hoặc biến
mất nhanh hơn khi được uống thuốc kháng siêu vi trong vòng 1-2 ngày đầu. Khi
lành, tổn thương da biến mất hoàn toàn mà không để lại sẹo bởi vì các mụn -
bóng nước này nằm rất nông trên da.
Tuy nhiên nếu tổn thương da bị bội nhiễm vi trùng hóa thành
các mụn - bóng mủ hoặc bị dị ứng hoặc kích ứng chồng lên do cách chăm sóc không
đúng như không tắm khi bị bệnh hoặc đắp lá cây cỏ… thì sẽ có nguy cơ để lại sẹo
tại các tổn thương da.
Như vậy khi thủy đậu chỉ gây tổn thương trên da mà không ảnh
hưởng nội tạng thì vấn đề quan trọng là chăm sóc da tránh để bị nhiễm trùng và
hạn chế tối đa khả năng lây lan cho người khác (siêu vi có thể lây qua đường thở
hoặc tiếp xúc trực tiếp với dịch tiết của các mụn - bóng nước bị bể).
Chúng ta
nên chăm sóc bệnh như sau:
1. Thuốc uống: chỉ nên dùng theo sự hướng dẫn của
bác sĩ chuyên khoa nhiễm, da liễu hoặc nhi.
2. Thuốc bôi:
• Khi tổn thương còn mụn - bóng nước thì dùng các thuốc
bôi màu như Milian, Eosin 2%... Các thuốc này có tác dụng kháng khuẩn và giúp
làm khô tổn thương.
• Khi tổn thương đã khô mài màu nâu vàng, các thuốc bôi
dạng gel hoặc kem chứa kháng sinh được dùng. Các thuốc này vừa ngăn ngừa tổn
thương khỏi bị nhiễm trùng vừa giúp làm giảm cảm giác căng và khó chịu trên bề
mặt tổn thương.
• Khi tổn thương đã khô mài, không có mủ thì có thể
dùng các thuốc giúp liền sẹo như Madecassol, Curiosin, Cicaplast, Epithélial…
Các thuốc này sẽ kích thích tăng sinh các sợi liên kết, đàn hồi, hỗ trợ vết
thương lành đẹp.
3. Chăm sóc khác: bổ sung đầy đủ các vitamin và yếu tố vi lượng
cho da thông qua chế độ ăn hoặc thuốc uống. Không nên bôi bất kỳ thuốc bôi hoặc
đắp cây cỏ hạt… theo truyền miệng mà chỉ nên dùng thuốc bôi theo sự hướng dẫn của
bác sĩ chuyên khoa. Giữ vệ sinh cơ thể sạch sẽ. Nghỉ ngơi nhiều. Hạn chế tiếp
xúc người khác trong khoảng thời gian 5-7 ngày đầu phát ban.
BÀI THUỐC NAM CHỮA THỦY ĐẬU
Thủy đậu còn gọi thủy hoa, dân gian hay gọi là bệnh trái rạ.
Đây là loại bệnh truyền nhiễm thông thường, trẻ em hay mắc phải, thỉnh thoảng
cũng gặp ở người lớn.
Sau đây là cách phân loại bệnh và những vị thuốc
nam dễ tìm để chữa trị căn bệnh này.
1. Loại nhẹ
* Triệu chứng: Sốt nhẹ hoặc không sốt, chảy nước mũi, ho ít,
ăn uống bình thường, các nốt đậu mọc rải rác màu hồng nhạt, ngứa nhiều.
* Phép chữa: Sơ phong thanh nhiệt.
* Bài thuốc: Lá dâu tằm tươi 30 g rửa sạch, lá
tre tươi 20 g, cỏ màn chầu tươi 20 g rửa sạch thái ngắn, cam thảo đất tươi
20 g thái ngắn. Nước 1.000 ml, sắc còn 300 ml, mỗi lần uống 30-50 ml, chia uống
trong ngày.
Nếu người bệnh không sốt nóng, mụn đậu mọc thưa ít, ăn ngủ,
tiêu tiểu bình thường, có thể không cần uống thuốc, nên dùng nước đun sôi để
nguội tắm rửa, tránh gió và điều dưỡng tốt.
2. Loại nặng
* Triệu chứng: Sốt cao, buồn phiền, khát, thủy đậu mọc dày,
sắc tím tối, mặt đỏ, miệng môi khô hồng, niêm mạc miệng có những nốt phỏng.
* Phép chữa: Thanh nhiệt giải độc là chủ yếu.
* Bài thuốc: Vỏ đậu xanh hoặc đậu xanh cả vỏ 20-30 g, rau om
tươi 20 g rửa sạch, quả dành dành 16 g, kim ngân hoa 16 g, rễ cỏ
tranh 12 g. Bài thuốc này nên sắc 2 lần. Lần đầu cách sắc như bài thuốc trên, lần
sau đổ 600 ml nước sắc còn 200 ml, dồn lại với nước thứ nhất, cô lại còn 300 ml
chia 2 lần uống trong ngày. Trẻ em tùy theo tuổi có thể dùng 1/2 liều. Dùng
liên tục cho đến khi khỏi hẳn.
BÀI THUỐC CHỮA BỆNH THỦY ĐẬU BẰNG Y HỌC CỔ TRUYỀN
Theo y học cổ truyền, thủy đậu là do phong nhiệt xâm phạm
vào phế qua đường miệng. Đây là bệnh thường ở phần vệ và phần khí, rất ít khi gặp
ở phần huyết.
Cần phát hiện sớm
Đối với thủy đậu, sau một thời gian ủ bệnh khoảng trên dưới
2 tuần thì bệnh phát. Nhiều trẻ mắc bệnh vẫn ăn ngủ chạy nhảy bình thường, nên
người lớn ít để ý cho đến khi thủy đậu mọc, hoặc tình cờ phát hiện được một vài
nốt ở đầu khi gội đầu cho trẻ. Có khi trẻ sốt nhẹ, sổ mũi, biếng ăn, bỏ chơi,
ngứa… Một số trẻ lớn có thể kêu đau mỏi các khớp, và 2-3 ngày sau thủy đậu mọc.
Thoạt đầu là ban, nhìn giống ban sởi, mọc khắp nơi ở da đầu,
trong các kẽ chân tóc, vài giờ sau thành nốt phỏng. Nốt phỏng rất nông, có hình
quả xoan, trông như giọt sương, nếu lấy hai ngón tay căng nốt phỏng ra sẽ thấy
mặt nốt phẳng nhăn lại.
Các nốt đậu mọc rất nhanh và mọc làm nhiều đợt cách
nhau 2-3 ngày, do đó ở cùng một vùng da có thể gặp đủ loại nốt đậu: to, nhỏ, đỏ,
phỏng, hay nốt đã đóng vảy. Nếu bị bội nhiễm vi khuẩn, nốt đậu sẽ làm mủ, sưng
to và rất ngứa làm trẻ gãi trầy da, để lại sẹo sâu.
Nhìn chung, khi được phát hiện sớm và điều trị kịp thời, bệnh
thường tiến triển lành tính, một tuần sau vảy bong và không để lại sẹo. Nhưng nếu
không được phát hiện sớm, không chăm sóc điều trị kịp thời và đúng cách, bệnh sẽ
nặng và gây ra nhiều biến chứng.
Một số bài thuốc
Với trường hợp nhẹ - thủy đậu mọc rải rác, sốt nhẹ; có khi
không sốt, ho ít, nước mũi trong loãng, ăn uống và tinh thần bình thường (bệnh
chỉ có ở phần vệ), thì phương pháp chữa là sơ phong thanh nhiệt.
Bài thuốc gồm
các vị:
lá dâu 12g, lá tre 16g,
cam thảo đất 8g,
bạc hà 6g,
rễ sậy 10g,
ngân
hoa 10g,
kinh giới 8g.
Sắc uống ngày 1 thang.
Nếu nặng hơn - thủy đậu mọc nhiều,
màu sắc tím tối, xung quanh nốt đậu có màu đỏ sẫm, sốt cao phiền khát, mặt đỏ,
niêm mạc miệng có những nốt phỏng, rêu lưỡi vàng, chất lưỡi đỏ (tà vào phần khí
và phần dinh), thì bài thuốc gồm các vị: bồ công anh 16g, kinh nhân 12g, tế
sinh địa 12g, liên kiều 8g, xích thược 8g, chi tử sao 8g.
Nếu khát nước nhiều,
miệng khô thì thêm: thiên hoa phấn, sa sâm, mạch môn (mỗi loại 8-12g). Sắc uống
ngày 1 thang - ban đầu cho 3 chén nước, sắc các vị thuốc còn lại 1,5 chén; nước
hai cho tiếp 3 chén nước vào, sắc còn lại 1 chén. Hòa hai nước lại, chia dùng 3
lần trong ngày.
Sau cùng, cần tham khảo thêm ý kiến từ nhà chuyên môn để có
hướng điều trị tốt hơn cho từng trường hợp.
Ý Trinh sưu tầm.
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)