Thứ Tư, 22 tháng 3, 2017

Ý Trinh giới thiệu Bộ Kinh Lương Hoàng Sám

Ý Trinh giới thiệu Bộ Kinh Lương Hoàng Sám 

Các tội lỗi đã từ ba nghiệp phát sanh, nên người muốn dứt trừ hết tội lỗi, tất nhiên phải đem ba nghiệp ấy để sám hối, thì tội lỗi mới được thanh tịnh. 



TỪ BI ĐẠO TRÀNG SÁM PHÁP
LƯƠNG HOÀNG SÁM
Thượng tọa THÍCH TRÍ TỊNH giảo chính
Dịch giả: THÍCH VIÊN GIÁC

Phàm là người sanh trong cõi Dục này, trừ các bực đã hoàn toàn giác ngộ, thì không một ai tránh khỏi lỗi lầm, bởi ba nghiệp gây nên.
Các tội lỗi dã từ ba nghiệp phát sanh, nên người muốn dứt trừ hết tội lỗi, tất nhiên phải đem ba nghiệp ấy để sám hối, thì tội lỗi mới được thanh tịnh.
Phật dạy: “Nếu không có phương pháp sám hối thì, tất cả các Phật tử không một ai mà được giải thoát”. Cũng như, nếu không nhờ bộ Lương Hoàng Sám này thì, bà Hy Thị là Hoàng hậu của vua Lương không làm sao thoát khỏi khổ nạn được.
Vì thế nên bộ Lương Hoàng Sám này có một hiệu lực mạnh mẽ, làm cho người có tội lỗi được tiêu trừ, phước lành tăng trưởng.

Mục Lục
Lời Giới Thiệu (Hòa Thượng Thích Thiện Hòa)
Lời Tựa Tái Bản
Thay Lời Tựa
Lời Chỉ Dẫn
Khai Đàn Khoa Nghi (Phiên Âm)
Nghi Thức Tụng Lương Hoàng Sám (Việt dịch)

I/ Quyển Thứ Nhứt
Sám Pháp Từ Bi Ðạo Tràng
Chương thứ 01: Quy Y Tam bảo
Chương thứ 02: Dứt Nghi Ngờ
Chương thứ 03: Sám Hối
Cuối Quyển Nhứt
Chú Thích Quyển Nhứt
Cảm Rơi Nước Mắt (Mẩu Chuyện)

II/ Quyển Thứ Hai
Đầu Quyển Hai
Chương thứ 04: Phát Bồ Ðề Tâm
Chương thứ 05: Phát Nguyện
Chương thứ 06: Phát Tâm Hồi Hướng
Cuối Quyển Hai
Chú Thích Quyển Hai

III/ Quyển Thứ Ba
Đầu Quyển Ba
Chương thứ 07a: Nói Rõ Quả Báo
Cuối Quyển Ba
Chú Thích Quyển Ba

IV/ Quyển Thứ Tư
Đầu Quyển Tư
Chương thứ 07b: Nói Rõ Quả Báo (tiếp theo)
Chương thứ 08: Ra Khỏi Ðịa Ngục
Cuối Quyển Tư
Chú Thích Quyển Tư

V/ Quyển Thứ Năm
Đầu Quyển Năm
Chương thứ 09a: Giải Oan Thích Kiết
Cuối Quyển Năm
Chú Thích Quyển Năm
Bà Bảy Đón Tùy Hỷ Công Đức Sám Hối (Mẩu Chuyện)

VI/ Quyển Thứ Sáu
Đầu Quyển Sáu
Chương thứ 09b: Giải Oan Thích Kiết (tiếp theo)
Tán Phật và chú nguyện
Cuối Quyển Sáu
Chú Thích Quyển Sáu
Kiết Thất Bảy Ngày (Mẩu Chuyện)

VII/ Quyển Thứ Bảy
Đầu Quyển Bảy
Lời Thuật Khuyến Của Sám Chủ
Chương thứ 10: Tự Vui Mừng
Chương thứ 11: Tưởng Nhớ Ơn Tam bảo
Chương thứ 12: Chủ Sám Lễ Tạ Ðại Chúng
Chương thứ 13: Tổng Phát Ðại Nguyện
Chương thứ 14: Lễ Phật Thế Các Cõi Trời
Chương thứ 15: Lễ Phật Thế Các Các Vị Tiên
Chương thứ 16: Lễ Phật Thế Các Vị Trời
Cuối Quyển Bảy – Cung văn
Chú Thích Quyển Bảy

VIII/ Quyển Thứ Tám
Đầu Quyển Tám
Chương thứ 17: Lễ Phật Thế A Tu La Và Hết Thảy Thiện Thần
Chương thứ 18: Lễ Phật Thế Các Long Vương
Chương thứ 19: Lễ Phật Thế Ma Vương
Chương thứ 20: Lễ Phật Thế Cho Nhơn Ðạo, Quốc Vương v.v…
Chương thứ 21: Lễ Phật Thế Quyến Thuộc Của Quốc Chủ
Chương thứ 22: Lễ Phật Thế Cha mẹ
Chương thứ 23: Lễ Phật Thế Cha mẹ Các Ðời Trước
Chương thứ 24: Lễ Phật Thế Sư trưởng
Chương thứ 25: Lễ Phật Thế Mười Phương Tỳ kheo và Tỳ Kheo ni
Chương thứ 26: Lễ Phật Thế Tứ Chúng Quá Khứ
Cuối Quyển Tám

IX/ Quyển Thứ Chín
Cung văn Đầu Quyển Chín
Chương thứ 27: Lễ Phật Thế Các Chúng Sanh Trong Ðịa Ngục A tỳ
Chương thứ 28: Lễ Phật Thế Các Chúng Sanh Trong Ðịa Ngục Khôi Hà, Ðịa Ngục Thiết Hoàn v.v…
Chương thứ 29: Lễ Phật Thế Chúng Sanh Trong Những Ðịa Ngục Uống Nước Ðồng Sôi, Ðịa Ngục Hầm Hố v.v…
Chương thứ 30: Lễ Phật Thế Chúng Sanh Trong Các Ðịa Ngục, Ðao Binh, Ðồng Phủ v.v…
Chương thứ 31: Lễ Phật Thế Chúng Sanh Trong Các Ðịa Ngục Hỏa Thành Ðao Sơn v.v…
Chương thứ 32: Lễ Phật Thế Chúng Sanh Trong Ðường Ngã Qủi
Chương thứ 33: Lễ Phật Thế Chúng Sanh Trong Ðường Súc sanh
Chương thứ 34: Vì Sáu Ðường Chúng Sanh Mà Phát Nguyện
Chương thứ 35: Cảnh Tỉnh Vô Thường
Chương thứ 36: Lễ Phật Thế Người Làm Công Quả Ở Chùa
Chương thứ 37: Phát Nguyện Hồi Hướng Phát Nguyện Hồi Hướng Thế Cho Chúng Sanh
Cuối Quyển Chín

X/ Quyển Thứ Mười
Cung văn Đầu Quyển Mười
Chương thứ 38: Bồ tát Hồi Hướng
Chương thứ 39: Phát Nguyện
Chương thứ 40: Phần chúc lụy
Cuối Quyển Mười
Bát nhã tâm kinh
Cụ Đàm Huyền sám hối (mẩu chuyện)
Chú Thích Quyển Mười

LỜI GIỚI THIỆU
Phàm là người sanh trong cõi Dục này, trừ các bực đã hoàn toàn giác ngộ, thì không một ai tránh khỏi lỗi lầm, bởi ba nghiệp gây nên.
Các tội lỗi đã từ ba nghiệp phát sanh, nên người muốn dứt trừ hết tội lỗi, tất nhiên phải đem ba nghiệp ấy để sám hối, thì tội lỗi mới được thanh tịnh.
Phật dạy:
“Nếu không có phương pháp sám hối thì, tất cả các Phật tử không một ai mà được giải thoát”.
Cũng như, nếu không nhờ bộ Lương Hoàng Sám nầy thì, bà Hy Thị là Hoàng hậu của vua Lương không làm sao thoát khỏi khổ nạn được.
Vì thế nên bộ Lương Hoàng Sám nầy có một hiệu lực mạnh mẽ, làm cho người có tội lỗi được tiêu trừ, phước lành tăng trưởng.
Cảm thấy sự phiên dịch của Đại đức Thích Viên Giác rất dày công phu, nên tôi xin có vài lời giới thiệu đến toàn thể các Phật tử xa gần và hy vọng rằng, bộ Lương Hoàng Sám này được phổ biến mười phương và sẽ đem lại sự lợi lạc chung cho tất cả; nếu ai có tín tâm thật hành theo.
Cẩn chí
Trị sự Trưởng G.H.T.G.N.V.
THÍCH THIỆN HÒA

THAY LỜI TỰA
Theo lời tựa trong chánh văn thì bộ LƯƠNG HOÀNG SÁM này do Hòa thượng Chí Công biên tập từ đời Vua Lương Võ Đế bên Tầu.
Nguyên Vua Lương Võ Đế, có một bà Hoàng hậu yêu quý nhất tên là Hy Thị. Vì được vua yêu quý nên lòng đố kỵ của bà ngày càng lên cao; Hy Thị ganh tị các cung phi, độc ác với mọi người và hủy báng Tam Bảo. Trong Triều ngoài Quận ai cũng biết Bà Hy Thị là một “quái phi”.
Sau bà nhuốm bệnh nặng, các lương y đều thúc thủ, bà phải từ trần. Một hôm vào lúc đêm khuya, đang ngồi trong cung tịch mịch. Vua Lương Võ Đế nghe tiếng người kêu van thảm thiết.
Dưới ánh đèn mờ, Vua Lương Võ Đế lạnh cả người, muốn chạy trốn, nhưng không được. Vua bèn lên tiếng hỏi: “Ngươi là ai mà đêm khuya thanh vắng nghiêm mật thế này lại vào đây được?” – Hoàng đế ơi! Thiếp đây chính là Hy Thị. Vì quá độc ác nên chết rồi thiếp phải đọa làm rắn mãn xà. Ngày đêm đau khổ, thân thể tanh hôi, vi vẩy đều bị sâu trùng rúc rỉa nhức nhối không thể chịu được.
Nhớ lại tình cầm sắc xưa kia nên thiếp đến đây mong nhờ Hoàng đế tìm phương cứu thiếp. Nói rồi biến mất. Nghe xong, Vua Lương Võ Đế như thoát cơn ác mộng và lòng đau như dao cắt! Ngày mai khi lâm Triều, Vua kể lại chuyện ấy cho bá quan nghe để tìm phương cứu vớt Hy Thị.
Trong số các quan có người đề nghị: Xin cung thỉnh Hòa thượng Chí Công lo việc này. Vua lương Võ Đế chấp thuận. Hòa thượng Chí Công là một cao tăng đắc đạo đương thời. Thể theo lời thỉnh cầu của nhà Vua, ngài liền triệu tập các danh tăng soạn ra Sám Pháp này và lập Đàn tràng làm lễ sám hối cho Hoàng hậu Hy Thị.
Nhà Vua chí tâm, thân hành lễ bái. Vài hôm đầu, người ta nghe có mùi hương lạ thơm nức, ngào ngạt khắp cả đạo tràng.
Lễ tụng đến quyển thứ năm, ngay tại chỗ, trên không trung, Vua Lương Võ Đế nghe có tiếng của Hy Thị. Bà hiện thân thiên nữ đẹp đẽ, nói tiếng ngưởi, tỏ lòng cám ơn Hòa thượng Hoàng đế.
Hy Thị cho biết bà đã thoát nạn và đã sanh lên Đao Lợi Thiên Cung, nhờ công đức sám hối.
Từ đó Sám Pháp này được truyền tụng khắp nơi, rất thạnh hành.
Bản chánh bằng Hán văn trọn bộ 10 quyển. Danh hiệu Phật và lời sám đều rút trong Tam Tạng Thánh giáo Đại thừa.
Năm 1948 – 1950, Bồ tát giới Tuệ Nhuận và một số đạo hữu khá đông ở Bắc việt đã dịch âm ra Việt văn, thành 2 tập.
Năm 1952, lúc còn tu học ở Phật học viện Báo quốc Huế, tôi bắt đầu dịch nghĩa bộ này ra tiếng Việt, đến nay mới đủ cơ duyên xuất bản.
Tôi nguyện xin nhờ công đức phiên dịch này, hầu mong đền đáp lại bốn ơn muôn một và cứu giúp muôn loài phần nào.
Tôi nguyện xin nhờ công đức phiên dịch này, hầu mong giúp hàng sơ cơ một phương pháp tu hành giản dị để cải ác tùng thiện, để đi Tây phương về Lạc Quốc.
Tôi nguyện xin nhờ công đức phiên dịch này làm cho người tu hành ngày càng tinh tiến, nghiệp chướng chóng tiêu trừ, thân tâm thường an lạc và sở cầu được như nguyện.
Tôi cũng xin cầu nguyện cho tất cả người thấy, người nghe, người hủy báng, người tùy hỷ, đều được lợi lạc, thoát khổ não, và nguyện xin cho tất cả chúng sanh xả ly tà kiến, biết sám hối.

SÁM HỐI NGHĨA LÀ GÌ?
- Kinh dạy:
- Sám là sám kỳ tiền khiên. - Hối là hối kỳ hậu quá.
- Sám là ăn năn các việc ác đã làm, thề xin chừa bỏ, không dám tái phạm.
- Hối là hối cải. Những điều ác chưa làm, sau này xin thề nguyện không bao giờ làm nữa. Bao nhiêu điều thiện xin làm hết.
Chữ Phạn gọi là Sám ma; Tàu dịch là hối quá; ghép cả hai chữ lại mà đọc là Sám hối.
Sám hối cũng có sự sám và là sám.
Sự sám tức là thiết lập Đàn tràng, trang nghiêm Phật tượng, cúng dường hương hoa, ân cần đảnh lễ, thành khẩn nguyện cầu tam nghiệp như nhất, tỏ bầy tội lỗi. Cầu xin chư Phật, chư đại Bồ tát phóng hào quang, dùng thần lực, gia hộ cho kẻ tu hành mau tiêu trừ nghiệp chướng, chóng thoát oan khiên, sạch hết tội lỗi.
Lý sám là sám hối tự tâm
Tội thành do tâm tạo
Tội diệt phải do tâm sám;
Tâm không thì tội cũng không,
Tội diệt thì tâm cũng diệt.
Tội không, tâm diệt thì không còn gì nữa mà sám hối. Như vậy mới là chân thật sám hối.
Sau khi lạy một lạy, tụng một câu, người tu hành nên xét lại tự tâm, diệt sạch vọng tưởng, quán lý vô sanh, phải biết tội do nhơn duyên mà thành, thì tội cũng do nhơn duyên mà diệt. Nhơn duyên là những điều kiện tạo nên tội và phương pháp sám hối.
Tội vốn không thật có. Vì không thật có, nên chúng ta có thể chuyển tội thành phước, chuyển khổ thành vui, chuyển mê thành ngộ.
Khi xướng một câu danh hiệu Phật, chúng ta cần phải thật hiểu nghĩa lý danh hiệu ấy. Hiểu để tu tập, để làm theo những đức tánh cao đẹp của chư Phật.
Ví như chúng ta xướng câu. “Nam mô Phổ Quang Phật”, thì ít ra chúng ta cũng phải hiểu sơ như thế này:
Chúng con xin kính lễ (Nam mô) đấng giác ngộ hoàn toàn (Phật) đầy đủ đức tánh cao rộng đẹp đẽ (Phổ) sáng suốt vô biên (Quang).
Ngoài ra chúng ta cũng cần tìm hiểu thêm bản tâm của chúng ta. Tâm của chúng ta cũng có những đức tánh cao rộng đẹp đẽ như thế.
NAM MÔ.- Nghĩa là quy y, kính lễ, v.v...
PHỔ.- Nghĩa là phổ cập, phổ biến, cùng khắp, không có giới hạn, ngoài thời gian và không gian, không phân biệt người và ta. Trái lại Phổ có nghĩa hàm súc những đức tánh từ bi hỷ xả với tất cả mọi loài, mọi vật, mọi chốn, mọi nơi.
Tâm ta cũng có những tánh chất phổ biến như thế. Từ nay ta phải sống theo tiếng gọi của cõi lòng, không tiêu cực mà tích cực, không ích kỷ mà vị tha, không sân hận mà từ bi, không xan tham mà bố thí, không tật đố mà hỷ xả, không ngu si mà trí huệ.
QUANG- Nghĩa là sáng suốt tuyệt đối, soi khắp mười phương, thông suốt ba đời mà không lìa nơi một niệm. Tội nhơn và khổ quả của chúng sanh đã gây tạo và sẽ chịu đền trả, từ bao giờ, ở nơi đâu, nhất nhất đều sáng tỏ, hiểu biết hết.
Tâm ta có tính cách sáng suốt như vậy, từ nay trở đi, ta phải hành động, ăn ở theo tâm tánh sáng suốt ấy, không còn ngu si mê mờ mà tạo tội nữa.
PHẬT- Là đấng giác ngộ hoàn toàn, ta đang kính lễ. Phật cũng tức là tâm sáng suốt thanh tịnh, đầy đủ muôn đức tánh tốt đẹp, trùm khắp pháp giới, ra ngoài thời gian.
Tâm ta cũng có những khả năng giác ngộ, những đức tánh như Phật,
Vậy từ nay trở đi ta phải noi gương Phật, sống cách sáng suốt, đầy đủ đức hạnh như Phật, không tạo tội nữa.
Đại khái như thế, cứ theo từng danh hiệu một mà quán sát tự tâm để sám hối.
Lần lần những khả năng tốt đẹp trong tâm ta do sự sám hối sẽ lưu lộ ra; nào là từ bi hỷ xả, trí huệ, phước đức hạnh phúc dồi dào tuôn ra như nước, mặc sức ta thọ dụng.
Người hiểu được và làm được như thế là người chánh kiến, không còn bôn ba chạy theo ngoại cảnh, không tà kiến quy y theo quỉ mị tà thần.
Người chánh kiến chỉ biết quy y, lễ bái, tôn thờ đức Phật ở tự tâm, nghe tiếng nói của cõi lòng.
Lễ một đức Phật tức là lễ hết thảy mười phương chư Phật. Đem tâm từ bi bình đẳng, sự lý viên dung, trùng trùng vô ngại mà bái sám thì lo gì tội không diệt, phước không sanh.
Nếu người không thông lý, cứ y sự mà tu hành, chí tâm bái sám thì cũng nhờ được thần lực của Tam bảo gia hộ mà tiêu trừ nghiệp chướng, như trong chánh văn đã thuật rõ.
Phật dạy:
“Có hai hạng người mạnh nhất: một là không tạo tội, hai là biết ăn năn”
Phật dạy:
“Nếu không có pháp sám hối thì tất cả đệ tử Phật không thể giải thoát”.
Nhờ sám hối nên vua A Xà Thế phạm tội ngũ nghịch (giết cha) liền được giải thoát.
Ông Trương thiện Hòa sát sanh vô số cũng không đọa địa ngục, vì biết hối hận.
Có một điều đáng chú ý nhất là thân nghiệp và khẩu nghiệp thô tháo bên ngoài dễ trừ. Duy có ý nghiệp, vi tế bên trong, rất khó diệt. Đến quả vị Phật mới hết tham, sân, si.
Do đó người phát đại tâm phải y cứ vào sám pháp đại thừa mới mong chóng trừ diệt được ba độc.
Ngài Phổ Hiển Bồ tát là Trưởng tử của Phật trên Hội Hoa Nghiêm còn phải phát đại nguyện. Ngài nguyện sám hối mãi cho đến cùng tận đời vị lai.
Nếu phiền não và nghiệp chướng của chúng sanh không cùng tận thì sự sám hối của Ngài cũng không bao giờ cùng tận.
Trong kinh Viên Giác, Phật dạy: “Các vị đại Bồ tát lúc lập đạo tràng an cư từ 7 ngày cho đến 21 ngày đầu, sám hối nghiệp chướng”.
Trong kinh Bảo Tích, Phật dạy: “Hàng ngày nên đảnh lễ danh hiệu 35 vị Phật trong kinh ấy mà sám hối nghiệp chướng”.
Trong luật thì pháp sám hối là một vấn đề tối quan trọng, không thể bỏ qua.
Trong luận thì pháp sám hối được giải thích rõ ràng và quyết định sám hối là một việc cần phải có của người chơn tu, không thể thiếu sót.
Không sám hối rất có hại: Nghiệp chướng không tiêu trừ; tội lỗi còn mãi, oan khiên nhiều kiếp theo hoài.
Ngài Ngộ Đạt quốc sư mười đời làm cao tăng mà Triệu Thố vẫn còn theo báo mãi.
Như thế dù cầu hạnh phúc thế gian hay xuất thế gian, việc đời và việc đạo, đều bị trở ngại, tu chứng bất thành.
Kinh sách dùng để sám hối có rất nhiều: Như bộ Vạn Phật, bộ Tam Thiên Phật, bộ Thủy Sám, Hồng Danh sám, Chuẩn Đề sám và Dược Sư sám v.v...
Nhưng bộ Lương Hoàng Sám này lể rõ tội nhơn khổ quả, nghe đến ai cũng phải lạnh mình khiếp sợ mà phát tâm cải ác tùng thiện ngay. Bộ này lại có công năng diệt trừ tiền khiên, oan trái nhiều kiếp, nhiếu đời, đọc đến phải cảm rơi nước mắt. Mỗi chữ, mỗi câu đều nhắm mục đích đền trả bốn ơn, cứu thoát ba cõi, thay thế lục đạo mà sám hối, cầu nguyện cho tam đồ thoát khỏi trầm luân. Cuối cùng lại vì tất cả chúng sanh mà phát nguyện, hồi hướng.
Người tu hành đọc đến bộ Lương Hoàng sám, dù không muốn phát đại tâm cũng phải phát, dù không tin địa ngục cũng phải hợ Tam đồ.
Những người tu Tịnh Độ phát tâm Bồ đề thường nên tu theo pháp sám này, để mau về Cực Lạc.
Có thể nói bộ Lương Hoàng Sám này là “bửu bối” riêng của những người cầu vô thượng đạo, phát bồ đề tâm vậy.
Bộ này có năng lực sanh phước diệt tội không thể nghĩ bàn.
Trong chánh văn có bài kệ tán thán công đức sám hối, đại ý như thế này:
Sám vừa cử lên
Tội lỗi tiêu liền;
Giải được oan trái,
Trừ được tai ương;
Thoát khỏi khổ nạn,
Phước đức vô biên.
Sanh lên Đạo lợi,
Hoặc về Tây phương.
Văn Thủy Sám cũng nói: “Lúc nghiệp báo đến, tội nhơn không thể rúc vào núi đá, lặn xuống đáy nước, bay lên không gian hay ẩn núp đâu được. Duy chỉ có nhờ phương pháp sám hối mả thoát được tai nạn mau chóng hơn hết, độc nhất vô nhị”.
Sám hối lợi cho mình, lợi cho người, cho tất cả tam đồ, lục đạo pháp giới chúng sanh.
Công đức sám hối nói không cùng nghĩ không tận. Tôi chỉ xin đốt nén hương lòng cầu xin Tam bảo gia hộ cho tất cả người thấy, người nghe, người ấn tống đồng phát Bồ đề tâm, đồng cầu sám hối, đồng hồi hướng công đức.

NAM MÔ CẦU SÁM HỐI BỒ TÁT MA HA TÁT

Trong lúc phiên dịch văn này, tôi không có hy vọng gì cao xa hơn là giúp cho hàng sơ cơ một phương pháp tu hành thiết thực để về Tây phương Cực Lạc.
Do đó, đầu quyển thứ nhất có nghi thức khai kinh thông thường dễ tụng. Cuối quyển thứ mười có nghi thức Tịnh độ, cầu sanh An dưỡng làm tiêu chuẩn hồi hướng.
Sau hết tôi xin chân thành cảm tạ chư vị đại thiện tri thức trong Hải hội chỉ giáo cho tôi những khiếm khuyết, mong sao kỳ tái bản được hoàn toàn hơn.
Tôi nguyện xin đem công đức này hướng lên cúng dường ngôi Tam bảo, đức Quán Thế Âm Bồ tát, đức Vô Biên Thân Bồ tát, và chư vị Hộ pháp đã mật hùy gia hộ cho tôi làm một việc mà tôi tưởng tượng tôi không làm được.
Nguyện xin hồi hướng lên chư vị Đại đức Tăng trong hiện tại đã dìu dắt tôi tu hành. Ni chúng bộ V.N. đã phát tâm xuất bản giúp tôi; cùng chư vị thiện nam tín nữ đã ủng hộ tôi nhiều phương diện trong lúc phiên dịch.
Nguyện xin tất cả đều trọn thành Phật đạo.

DỊCH GIẢ: TỲ KHEO THÍCH VIÊN GIÁC
Viết xong tại Tu viên Giác Hải
Điện Nam Hải Quan Âm ở Vạn Giả
Bắc Nha Trang ngày mãn hạ, năm Canh tý 2504 (1960)

Lời Chỉ Dẫn
Vì nhận thấy nhiều Phật tử muốn tụng Lương Hoàng Sám song chưa biết cách lập đàn tràng như thế nào, đọc tụng làm sao cho đúng pháp, có lợi ích nhiều, nên chưa dám tụng tôi xin chỉ dẫn như sau:
Lập đàn bái sám hoặc ở chùa, tại Niệm Phật đường hay tại nhà Phật tử cũng được. Nhưng cần phải hết lòng thành kính và nghiêm trang thanh tịnh.
Trường hợp thuận tiện, quý vị có thể cung thỉnh chư Tăng, một hay nhiều vị làm lễ khai kinh hay hoàn kinh. Nếu không, người tại gia cứ thành tâm đọc tụng, như tụng các kinh khác, không ngại gì. Trước hết đọc phần “NGHI THỨC TỤNG LƯƠNG HOÀNG SÁM” bằng Hán văn dịch âm, rồi tụng tiếp nghi thức bằng Việt văn, nếu cần. Hết phần nghi thức thì tụng phần chánh văn. Cuối mỗi quyển thì tụng các bài hồi hướng và niệm Phật Di Đà cầu sinh Tịnh độ.
Hoặc mỗi thời tụng hết một quyển. Hoặc một quyển chia làm nhiều thời, tùy theo thời giờ của mỗi người, nhàn rỗi hay bận việc.
Việc ăn chay trường hay chay kỳ để tụng Lương Hoàng Sám, cũng tùy theo gia cảnh của mỗi người, không nên câu chấp. Điều quan trọng là phải quyết chí sám hối, chừa bỏ lỗi lầm, chứ không phải ở nơi điều chay mặn. Nhưng ai trai giới tinh thành, phóng sinh làm phước, càng nhiều càng quý, càng cố gắng càng hay, công đức sám hối càng sâu dày hơn nữa.
Những người già yếu bệnh hoạn không thể lạy được thì ngồi mà vái, lắng tai nghe cho rõ lời lẽ và suy nghĩ cho kỹ ý nghĩa, của sám văn cách thành tâm là quý hơn hết.
Có nhiều điểm rất đáng để ý khuyến khích, vì tôi nhận thấy nhiều nơi như ở khuôn Phật giáo An Lạc, ở chùa Châu Lâm, Huế, hoặc ở khuôn Phật giáo Linh Thứu, Nha Trang, các Phật tử cử ra những vị có âm thanh trông trẻo, đọc tụng rõ ràng, khiến người nghe dễ hiểu, dễ phát tâm. Những người này thay nhau tụng còn các người khác ngồi nghe. Nhưng không phải tụng với âm điệu tụng kinh mà nên nhớ đây là cách xưng tội, trước Phật đài, thường thiết cầu Tam bảo cứu hộ. Những đoạn kể lể tội trạng phải đọc cho rõ ràng, chí thành chí khẩn mà cầu xin sám hối. Những đoạn giảng về lý lẽ, về nhân quả cần phải đọc thong thả, phân câu rành mạch, để cho người nghe dễ nhận nhờ giọng đọc hùng mà đầy thiền vị theo tiếng mõ điểm thưa thưa từng câu một. Thỉnh thoảng điểm một tiếng chuông. Cũng có thể không đánh mõ, chỉ điểm chuông thưa thưa để cho người nghe theo dõi ý nghĩa, suy nghĩ tội tình, trong khung cảnh uy linh nhiệm mầu, khói hương nghi ngút. Những vọng niệm không thể xen vào quấy rối tâm thành của Phật tử. Tiếng chuông cảnh tỉnh đánh tan những gì hắc ám trong lòng, làm cho mọi người đều có một tinh thần siêu thoát.
Đọc tụng như thế, tuy tu hành tập thể, mà không có gì làm roan trí. Người không biết chữ cũng nhận thức được lý nghĩa, tự thấy tội lỗi của mình, rồi phát tâm Bồ đề sám hối thế cho người khác trong lục đạo. Trong lúc này, nếu có ống loa phát thanh treo cao và vang dội xa xa, thì những kẻ độc ác phải giật mình mà chừa bỏ những hành vi phi pháp của họ.
Đọc tụng cách này thì khác hẳn lối tụng kinh. Tụng kinh thì mỗi người một quyển, và ai cũng lớn tiếng đọc theo tiếng mõ của người hướng dẫn. Trái lại, tụng Lương Hoàng Sám, không khác gì chư Tăng tụng Luật trong giờ Bố tát. Một vị ngồi trên cao lớn tiếng đọc tụng, các vị khác im lặng ngồi dưới để nghe. Nếu người nào muốn tụng lớn tiếng theo mõ tùy nguy mình, sau khi đạo tràng hoàn tất, hãy tự tụng một mình cũng được, càng quý lắm. Hoặc tất cả mọi người đều tụng lớn tiếng theo nhịp mõ cũng được.
Những điểm trên đây tuy có phần thiển cận và sơ lược, song cũng nhờ nhiều Phật tử góp ý kiến và kinh nghiệm nên tôi cũng không ngại gì mà không nêu ra. Mong quý vị thiện tri thức có gì sơ sót xin hoan hỷ bổ khuyết và chỉ giáo cho. Tôi rất lấy làm thâm cảm.
Huân Tu Lương Hoàng Sám Pháp
Lương Hoàng Bảo Sám

Khai Đàn Khoa Nghi
(Phiên Âm)
Cử tán:
Dương chi tịnh thủy,
Biến sái tam thiên.
Tánh không bát đức lợi nhân thiên;
Pháp giới quảng tăng diên,
Diệt tội tiêu khiên, hỏa diệm hóa hồng liên.
Nam mô Thanh Lương Địa Bồ tát Ma ha tát. (3 lần)
Cung thỉnh tán:
Trí tuệ hoằng thâm đại biện tài,
Đoan cư ba thượng tuyệt trần ai.
Tường quang thước phá thiên sanh bệnh,
Cam lộ năng trừ vạn kiếp tai.
Thúy liễu phất khai kim thế giới,
Hồng liên dũng xuất ngọc lâu đài.
Ngã kim khể thủ phần huơng tán,
Nguyện hướng nhân gian ứng hiện lai.
Nam Mô Quán Thế Âm Bồ tát Ma ha tát. (3 lần)
Gia trì pháp thủy:
Cung Văn
Viên Thông Giáo Chủ,
Mãn nguyệt kim dung,
Thị Di Đà ư Cực Lạc quốc trung,
Trợ Thích Ca ư Sa Bà giới nội;
Xử thiên diệp hồng liên chi tọa.
Cư Lưu Ly chúng bảo chi sơn,
Quá khứ Chính Pháp Minh,
Hiện tiền Quán Tự Tại,
Tam thập nhị ứng, quảng độ quần sinh,
Thất nạn nhị cầu, đa phương ứng vật.
Thù thắng diệu lực, tán mạc năng cùng,
Ngưỡng khấu hồng từ, phủ chương động giám.
Kim thời phụng vị kiến sám mỗ giáp… (tên người lập lễ sám), bẩm Phật di huấn, kiến sám Tỳ kheo mỗ giáp… (tên hiệu vị Tăng chủ lễ) kị lãnh thập phương sĩ thứ nhân đẳng, thỉnh mạng Tăng chúng, tựu vu mỗ xứ,… (tịnh lam hay là gia xứ) tu lễ Lương Hoàng Bảo Sám phổ biến đạo tràng.
Thượng lai khải kiến chi sơ,
Cẩn phần tín hương cung thỉnh
Bồ tát thùy dương liễu nhi biến sái cam lộ,
Trừ nhiệt não dĩ đắc thanh lương;
Tầm thanh cứu khổ ư tứ sinh,
Thuyết pháp độ thoát ư lục đạo;
Tận văn bất trú, kiên cố chi tâm,
Không giác cực viên, cụ tự tại đoan nghiêm chi tướng,
Hữu cầu giai ứng, vô nguyện bất tòng.
Cố ngã truy lưu, đoan bỉnh tịnh quán,
Thành tụng mật ngôn, gia trì pháp thủy.
Thị thủy giả: phương viên tùy khí,
Doanh hư nhậm thời, xuân phán đông ngưng,
Khảm lưu cấn chỉ;
Hạo hạo hồ diệu nguyên mạc trắc,
Thao thao hồ linh phái nan cùng,
Bích giản tạng long, hàn đàm xâm nguyệt;
Hoặc tại quân vương long bút hạ, tán tác ân ba,
Hoặc cư Bồ tát liễu chi đầu, sái vi cam lộ,
Nhất đích tài triêm, thập phương câu tịnh.
Phù thử thủy giả, bát công đức thủy, tự thiên chơn, tiên tẩy chúng sanh nghiệp cấu trần, biến nhập Tỳ Lô ba tạng giới. Cá trung vô xứ bất siêu luân. Thủy bất tẩy thủy diệu cực pháp thân. Trần bất nhiễm trần phản tác tự kỷ. Quyên trừ cấu uế, đản địch đàn tràng. Sái khô mộc nhi tác dương xuân; khiết uế ban nhi thành Tịnh độ. Sở vị nội ngoại trung gian vô trược uế, Thánh phàm u hiển tổng thanh lương.
Bồ tát liễu đầu cam lộ thủy,
Năng linh nhất trích biến thập phương.
Tinh triên cấu uế tận quyên trừ,
Linh thử đàn tràng tất thanh tịnh.
Giáo hữu mật ngôn cẩn đương trì tụng:

Thiên Thủ Thiên Nhãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni.
Nam mô hát ra đát na đá ra dạ da. Nam mô a rị da. Bà lô yết đế thước bát ra da. Bồ đề tát đỏa bà da. Ma ha tát đỏa bà da. Ma ha ca lô ni ca da. Án. Tát bàn ra phạt duệ. Số đát na đát tả. Nam mô tất cát lật đỏa y mông a rị da. Bà lô cát đế thất Phật ra lăng đà bà. Nam mô na ra cẩn trì. Hê rị ma ha bàn đa sa mế. Tát bà a tha đậu du bằng. A thệ dựng. Tát bà tát đá na ma bà dà. Ma phạt dạt đậu. Đát điệt tha. Án a bà lô hê. Lô ca đế. Ca ra đế. Di hê rị. Ma ha Bồ đề tát đỏa. Tát bà tát bà. Ma ra ma ra. Ma hê ma hê rị đà dựng. Câu lô câu lô yết mông. Độ lô độ lô phạt xà da đế. Ma ha phạt xà da đế. Đà ra đà ra. Địa rị ni. Thất Phật ra da. Dá ra dá ra. Mạ mạ phạt ma ra. Mục đế lệ. Y hê y hê. Thất na thất na. A ra sâm Phật ra xá rị. Phạt sa phạt sâm. Phật ra xá da. Hô lô hô lô ma ra. Hô lô hô lô hê rị. Sa ra sa ra. Tất rị tất rị. Tô rô tô rô. Bồ đề dạ bồ đề dạ. Bồ đà dạ bồ đà dạ. Di đế rị dạ. Na ra cẩn trì. Địa rị sắc ni na. Ba dạ ma na. Sa bà ha. Tất đà dạ. Sa bà ha. Ma ha tất đà dạ. Sa bà ha. Tất đà du nghệ. Thất bàn ra dạ. Sa bà ha. Na ra cẩn trì. Sa bà ha. Ma ra na ra. Sa bà ha. Tất ra tăng a mục khư da. Sa bà ha. Sa bà ma ha a tất đà dạ. Sa bà ha. Giả cát ra a tất đà dạ. Sa bà ha. Ba đà ma yết tất đà dạ. Sa bà ha. Na ra cẩn trì bàn dà ra dạ. Sa bà ha. Ma bà rị thắng yết ra dạ. Sa bà ha.
Nam mô hát ra đát na đá ra dạ da.
Nam mô a rị da. Bà lô cát đế. Thước bàn ra dạ. Sa bà ha.
Án tất điện đô. Mạn đà ra. Bạt đà da. Sa bà ha.

Án, nại ma ba cát ngỏa đế, a ba ra mật đạp, a ưu rị a nạp, tô tất nễ, thực chất đạp, điệp tả ra tể giã, đát tháp cả đạt giã, a ra ha đế, tam dược tam bất đạt giã, đát nễ giã tháp. Án, tát rị ba, tang tư cát rị, bát rị thuật đạp, đạt ra mã đế, cả cả nại tang, mã ngột ngỏa đế, tát ba ngỏa tỷ thuật đế, mã hát nại giã, bát rị ngỏa rị tóa ha. (3 lần)

Nguyện tương thử thù thắng công đức chúc tán Phật nhật tăng huy, pháp luân thường chuyển, thế giới hòa bình, chúng sanh an lạc.
Phục vị vong linh tiêu tội chướng, tiêu tội chướng sinh Tịnh độ, An dưỡng giới, đồng phó Long Hoa hội.
Nam mô An dưỡng giới, đồng phó Long Hoa hội. (3 lần)
Dĩ thử kinh chú công đức hồi hướng hộ pháp Long thiên Tam giới, nhạc độc linh thông, thủ hộ đạo tràng chơn tể kỳ phước bảo an bình thiện, trang nghiêm hữu vị tiên vong, phổ nguyện pháp giới oan thân, cộng nhập Tỳ Lô tánh hải.
(Tuyên sớ thỉnh Phật nếu có)

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật chứng minh công đức. (3 lần)
Huỳnh kim mãn nguyệt tướng,
Tam giới độc xưng tôn,
Hàng phục nhứt thế ma
Chư thiên giai cung thủ.
Ngưỡng lao đại chúng tán dương Tam bảo
- Phật Bảo thán nan cùng, công thành vô lượng, vô lượng kiếp trung, nguy nguy trượng lục tử kim dung, giác đạo tuyết sơn phong, mi tế ngọc hào quang xán lạn, chiếu khai lục đạo, lục đạo hôn mong. Long Hoa tam hội nguyện tương phùng, diễn thuyết pháp chánh tông.

Quy y thường trú Phật Đà da, nguy nguy vạn đức Phật Đà da.
- Pháp Bảo thật nan lường, Như Lai kim khẩu, Kim khẩu tuyên dương, Long cung hải tạng tán thiên hương, giác giả tụng lương hàm ngọc trục hà điều, kim tả tự tợ bài thu nhạn, thu nhạn thành hàng, chỉ nhân Tam tạng thỉnh lai đàn, vạn cổ vĩnh phu dương.

Quy y thường trú Đạt Mạ da, hạo hạo tam thừa Đạt Mạ da.
- Tăng Bảo bất tư nghì, thân phi tam nhuế. Tam nhuế vân y, phù bôi chấn tích sát na thì, phó cảm ứng quần ky, kham tác nhân gian công đức chủ, kiên trì giới hạnh, giới hạnh vô vi, ngã kim khể thủ nguyện diêu tri, chấn tích trượng đề huề.

Quy y thường trú Tăng Già da, minh minh lục thông Tăng Già da.

Nam mô Vân Lai Tập Bồ tát Ma ha tát (3 lần)
(Tán Vi Đà, niệm Thiên nữ chú hoàn tuyên sớ)
Vi Đà Thiên Tướng, Hộ Pháp hóa thân,
Ủng hộ Phật pháp, thệ hoằng thâm,
Bảo xử trấn ma quân,
Công đức nan lường,
Kỳ đảo phó phàm tâm.
Nam mô Phổ Nhãn Bồ tát Ma ha tát (3 lần)
Cử hương tán:
Giới định chân hương,
Phần khởi xung thiên thượng,
Trai chủ kiền thành,
Nhiệt tại kim lô phóng,
Khoảnh khắc nhân huân,
Tức biến mãn thập phương,
Tích nhật Gia Du miễn nạn tiêu tai chướng.
Nam mô Hương Vân Cái Bồ tát Ma ha tát (3 lần)
Nguyện khải văn:

CUNG VĂN
Lương hoàng khải kiến, Di Lặc đề danh, Chí Công tập Hoa tạng chi huyền văn, quần kinh lục chư Phật chi thánh hiệu, đại tập Sa môn, hoằng tuyên sám pháp. Sám văn cảm mộng ư Lương triều, thoại khí đằng huy ư Võ Đế. Do thị cảnh cảnh kim quang bất muội, hoàng hoàng bảo diệm phân phương, úc úc hương yên huân nội khuyết, trùng trùng hoa nhụy diệu vương cung. Thanh tiêu vân lý, thiên nhân hiện báo thể chi đoan nghiêm. Bạch ngọc giai tiền, Hy Thị thoát mãng thân chi khổ nạn; dĩ thử tiêu tai, tai tiêu cát chí. Nhân tư diệt tội, tội diệt phước sinh. Nãi phá ám chi minh đăng, chân cứu bệnh chi diệu dược. Ân triêm cửu hữu, đức bỉ tứ sinh; sám chi công đức tán mạc năng cùng. Tư giả sám văn triệu khởi, ngưỡng khấu Phổ Hiền Hạnh Vương, vận tưởng hương hoa cúng dường Thập phương Điều Ngự. Dục nghiêm thanh tịnh chi sám đàn, tiên tụng bí mật chi chương cú. Yếu kỳ thiện quả dĩ châu long, tất sử tội hoa nhi điêu tạ. Ngưỡng khấu Hồng từ đại chương linh ứng.
Phổ Hiền Bồ tát tượng giá quang lâm.
Hữu nhất Bồ tát kiết già phu tọa, danh viết Phổ Hiền, thân bạch ngọc sắc, ngũ thập chủng quang, ngũ thập chủng sắc, dĩ vi hạng quang, thân chư mao khổng, lưu xuất kim quang. Kỳ kim quang đoan, vô lượng hóa Phật, chư hóa Bồ tát, dĩ vi quyến thuộc; an tường từ bộ, vũ đại bảo hoa, chí thành giả tiền. Kỳ tượng khai khẩu, ư tượng nha thượng, chư trì ngọc nữ, cổ nhạc huyền ca, kỳ thanh vi diệu, tán thán Đại thừa, nhất thật chi đạo. Hành giả kiến dĩ, hoan hỷ kính lễ, phục cánh đọc tụng, thậm thâm kinh điển, biến lễ thập phương, vô lượng hóa Phật, lễ Đa Bảo Phật tháp, cập Thích Ca Mâu Ni; tịnh lễ Phổ Hiền chư đại Bồ tát; phát thị thệ nguyện; nhược ngã túc phước, ưng kiến Phổ Hiền. Nguyện Tôn giả biến kiết, thị ngã sắc thân.

Nam mô Phổ Hiền Vương Bồ tát Ma ha tát (3 lần)
- Nhất tâm đảnh lễ thập phương pháp giới thường trú chư Phật.
- Nhất tâm đảnh lễ thập phương pháp giới thường trú Tôn Pháp.
- Nhất tâm đảnh lễ thập phương pháp giới thường trú Hiền Thánh Tăng.

Chủ lễ xướng:
(Thị chư chúng đẳng các các hồ quỳ, nghiêm trì hương hoa, như pháp cúng dường).

Nguyện thử hương hoa biến thập phương, dĩ vi vi diệu quang minh đài. Chư thiên âm nhạc thiên bảo hương. Chư thiên hào thiện thiên bảo y. Bất khả tư nghị diệu pháp trần. Nhất nhất trần xuất nhất thiết trần. Nhất nhất trần xuất nhất thiết pháp. Triển chuyển vô ngại hộ trang nghiêm, biến chí thập phương Tam bảo tiền. Thập phương pháp giai Tam bảo tiền, tất hữu ngã thân tu cúng dường. Nhất nhất giai tất biến pháp giới, bỉ bỉ vô tạp vô chướng ngại. Tận vị lai tế tác Phật sự, phổ huân pháp giới chư chúng sanh. Mông huân giai phát Bồ đề tâm. Đồng nhập vô sinh chứng Phật trí.
Nguyện thử hương hoa vân,
Biến mãn thập phương giới.
Cúng dường nhất thiết Phật,
Tôn Pháp, chư Bồ tát,
Vô biên Thanh văn chúng,
Cập nhất thiết Thánh Hiền,
Duyên khởi quang minh đài,
Quá ư vô biên giới,
Vô biên Phật độ trung,
Thọ dụng tác Phật sự.
Phổ huân chư chúng sanh,
Giai phát Bồ đề tâm,
Dung nhan thậm kỳ diệu,
Quang minh chiếu thập phương,
Ngã Thích tằng cúng dường,
Kim phục hoàn thân cận,
Thánh chúa Thiên trung vương,
Ca Lăng Tần Già thanh,
Ai mẫn chúng sanh giả,
Ngã đẳng kim đỉnh lễ.
Cung thỉnh:
Phật nhiếp kim liên hạ Thứu phong,
Pháp khai Bảo tạng lý Long Cung,
Tăng tùng nội uyển biệt thiền định,
Tam bảo lâm đàn pháp hội đồng.
Nam mô Thập Phương Thường Trú Tam bảo (3 lần)

Cúng hương
Hương tài nhiệt, lư phần bảo đảnh trung,
Chiên đàn trầm nhũ chơn kham cúng,
Hương yên liêu nhiễu liên hoa động,
Thập phương chư Phật hạ thiên cung,
Thanh lương sơn La Hán, nạp thọ nhân thiên cúng. (2 lần)
Nam mô Phổ Hiền Vương Bồ tát Ma ha tát (3 lần)
Nhập sám văn:

CÁI VĂN

Nhất thể Hóa thân, phổ ứng thập phương quốc độ. Nhất âm thuyết pháp, Thanh văn tam giới nhân thiên. Nhất thế Vô Ngại Nhân, giai tùng nhất Đạo, nhất môn, nhi xuất sinh tứ hải. Nhất thừa viên đốn giáo, giai nhân nhất tướng, nhất vị nhi chứng Niết bàn sơn. Tùy cơ như nguyệt ứng thiên gian, ứng vật tợ xuân hồi đại địa, biến duyên pháp giới, phổ tọa đạo tràng. Hy đạo nhãn dĩ chứng tri, giám phàm tình chi vi khổn. Phụng vì kim thời cầu sám hối, đệ tử… đẳng khởi kiến:
Từ Bi Đạo Tràng Sám Pháp, tư đương đệ nhất quyển, nhập đàn duyên khởi. Ngã chư chúng đẳng đoan khác nhất tâm, túc thanh tam nghiệp, y khoa diễn phạm, thiêu hương, tán hoa, cúng dường thập phương Tam bảo, xưng xướng chư Phật hồng danh. Ngũ thể đầu địa, dĩ quy y phát lộ sám trừ chư nghiệp chướng.
Thiết niệm đệ tử chúng đẳng, tự tùng vô thỉ dĩ lai, chí ư kim nhật, nhân mê nhất tánh, lý muội nhất thừa, nhất ế tại nhãn, thời không hoa nhi loạn trụy. Nhất âu tài khởi xử huyễn hải dĩ ba phiên. Nhất chân tam muội quái vi, nhất điểm vô minh tư túng; ý hàm tam độc, nghiệp tạo vạn đoan, khai trần lao bát vạn chi môn, khởi phiền não bách thiên chi chướng. Đam hoan dục cảnh, như cuồng tượng dĩ vô câu. Xu trục vọng duyên tợ phi nga nhi phó hỏa tội, nhược kheo sơn chi chướng, nghiệp như thương hải chi thâm. Ký vi thiểu ư thiện căn, khủng nan đào ư ác quả. Kim tắc ưu cần tại niệm, thoan cách vu tâm. Ngoại thác thắng duyên, nội hoài tàm quý. Tập thử hiện tiền Thánh chúng, phi duyệt sám hối linh văn. Trượng thiên Phật chi oai quang, tẩy đa sinh chi tội cấu.
Ngã nguyện như tư, Phật tức ai lân; ngưỡng khấu hồng từ, minh huân gia bị.
Thiên thượng thiên hạ vô như Phật,
Thập phương thế giới diệc vô tỷ,
Thế gian sở hữu ngã tận kiến,
Nhất thiết vô hữu như Phật giả.

Khởi vận Từ Bi Đạo Tràng Sám Pháp. Nhất tâm quy mạng Tam thế chư Phật:
Nam mô Quá Khứ Tỳ Bà Thi Phật,
Nam mô Thi Khí Phật,
Nam mô Tỳ Xá Phù Phật,
Nam mô Câu Lưu Tôn Phật,
Nam mô Câu Na Hàm Mâu Ni Phật,
Nam mô Ca Diếp Phật,
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật,
Nam mô Đương Lai Hạ Sanh Di Lặc Tôn Phật.
(Đến đây, nếu muốn nghỉ thì tụng hồi hướng mà ra rồi sẽ vào tiếp tụng quyển thứ nhất. Cũng như lễ khai kinh vừa xong. Nếu không muốn nghỉ, thì tụng quyển thứ nhất).
Phần nghi thức khai Đạo Tràng Sám Pháp, đầu quyển thứ nhất, phiên âm Hán văn đến đây là hết.

Nghi Thức Tụng Lương Hoàng Sám (Việt dịch)
Sái tịnh:
Nhành dương nước tịnh,
Rải khắp ba ngàn.
Tánh không tánh đức, lợi trời người
Thế giới rộng thênh thang,
Diệt sạch tai nàn,
Lửa dữ hóa sen vàng.
Nam mô Thanh Lương Ðịa Bồ tát Ma ha tát. (3lần)

Cung thỉnh:
Trí tuệ rộng sâu đại biện tài,
Ngồi trên hoa báu tuyệt trần ai.
Hào quang phá tỏa ngàn đời bệnh,
Cam lộ trừ sạch vạn kiếp tai.
Thế giới vàng kim, liễu xanh phất,
Lâu đài châu ngọc, sen hồng khai.
Hương trần cung thỉnh, con xinn lễ,
Nguyện Ngài thương xót, hiện lại đây.
Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ tát Ma ha tát. (3 lần)

Cúng hương:
Nguyện đem lòng thành kính,
Gởi theo đám mây hương
Phảng phất khắp mười phương
Cúng dường ngôi Tam bảo.
Thề trọn đời giữ đạo
Theo tự tánh làm lành
Cùng pháp giới chúng sanh
Cầu Phật từ gia hộ
Tâm Bồ đề kiên cố
Xa bể khổ nguồn mê
Chóng quay về bờ giác.
Nam Mô Hương Cúng Dường Bồ tát Ma ha tát. (3 lần)
Tán thán Phật:
Đấng Pháp vương vô thượng
Ba cõi chẳng ai bằng
Thầy dạy khắp trời người
Cha lành chung bốn loài
Quy y trọn một niệm
Dứt sạch nghiệp ba kỳ
Xưng dương cùng tán thán
Ức kiếp không cùng tận.
Quán Tưởng
Phật chúng sanh tánh thường rỗng lặng.
Ðạo cảm thông không thể nghĩ bàn,
Lưới đế châu ví đạo tràng.
Mười phương Phật bảo hào quang sáng ngời.
Trước bảo tọa thân con ảnh hiện
Cúi đầu xin thệ nguyện Quy y.

Ðảnh Lễ
Chí tâm đảnh lễ: Nam mô tận hư không biến pháp giới, quá hiện vị lai, Thập phương Chư Phật, Tôn Pháp, Hiền Thánh Tăng, thường trú Tam bảo. (1 lạy)
Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Ta Bà Giáo Chủ Ðiều Ngự Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Ðương Lai hạ sanh Di Lặc Tôn Phật, Ðại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ tát, Ðại Hạnh Phổ Hiền Vương Bồ tát, Hộ pháp chư tôn Bồ tát, Linh Sơn Hội Thượng Phật Bồ tát. (1 lạy)
Chí tâm đảnh lễ: Nam Mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Ðại Từ Ðại Bi A Di Ðà Phật, Ðại Bi Quán Thế Âm Bồ tát, Ðại Thế Chí Bồ tát, Ðại Nguyện Ðịa Tạng Vương Bồ tát, Thanh Tịnh Ðại Hải Chúng Bồ tát. (1 lạy)
Kỳ nguyện:
Đệ tử chúng con tên… Pháp danh… tuổi… hiện trú…
Nguyện xin ngôi Tam bảo thường trú trong mười phương, Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Đức Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật, Đương Lai Hạ Sanh Di Lặc Tôn Phật, Biến Pháp Giới Chư Tôn Bồ tát Ma ha tát và hết thảy Thánh Hiền Tăng, từ bi gia hộ, chứng minh cho chúng con. Chúng con lâu đời lâu kiếp, vì tánh hôn mê, không kể chánh tà, gây nhiều tội ác, tổn người hại vật, hủy báng Phật Pháp Tăng. Hôm nay một dạ chí thành, cầu xin sám hối, tụng trì lễ bái Lương Hoàng Bảo Sám, ăn năn tội lỗi; không dám che giấu, hầu mong nghiệp chướng tiêu trừ, thân tâm an lạc, gia đình cát khánh, hạnh phúc tăng long, Bồ đề kiên cố, hiện tiền phước huệ trang nghiêm. Một hậu được sinh về Cực Lạc quốc, cùng với pháp giới chúng sanh đồng thành Phật đạo. (3 lạy)

Phát đại nguyện:
Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ,
Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn,
Pháp môn vô lượng thệ nguyện học,
Phật đạo Vô thượng thệ nguyện thành.
Tự tánh chúng sanh thệ nguyện độ,
Tự tánh phiền não thệ nguyện đoạn,
Tự tánh pháp môn thệ nguyện học,
Tự tánh Phật đạo thệ nguyện thành.
Nam Mô Chứng Minh Sư Bồ tát Ma ha tát. (3 lần)

Tụng chú Đại Bi:
Nam Mô Đại Bi Hội Thượng Phật Bồ Tát (3 lần)
Thiên Thủ Thiên Nhãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni.
Nam mô hát ra đát na đá ra dạ da. Nam mô a rị da. Bà lô yết đế thước bát ra da. Bồ đề tát đỏa bà da. Ma ha tát đỏa bà da. Ma ha ca lô ni ca da. Án. Tát bàn ra phạt duệ. Số đát na đát tả. Nam mô tất cát lật đỏa y mông a rị da. Bà lô cát đế thất Phật ra lăng đà bà. Nam mô na ra cẩn trì. Hê rị ma ha bàn đa sa mế. Tát bà a tha đậu du bằng. A thệ dựng. Tát bà tát đá na ma bà dà. Ma phạt dạt đậu. Đát điệt tha. Án a bà lô hê. Lô ca đế. Ca ra đế. Di hê rị. Ma ha Bồ đề tát đỏa. Tát bà tát bà. Ma ra ma ra. Ma hê ma hê rị đà dựng. Câu lô câu lô yết mông. Độ lô độ lô phạt xà da đế. Ma ha phạt xà da đế. Đà ra đà ra. Địa rị ni. Thất Phật ra da. Dá ra dá ra. Mạ mạ phạt ma ra. Mục đế lệ. Y hê y hê. Thất na thất na. A ra sâm Phật ra xá rị. Phạt sa phạt sâm. Phật ra xá da. Hô lô hô lô ma ra. Hô lô hô lô hê rị. Sa ra sa ra. Tất rị tất rị. Tô rô tô rô. Bồ đề dạ bồ đề dạ. Bồ đà dạ bồ đà dạ. Di đế rị dạ. Na ra cẩn trì. Địa rị sắc ni na. Ba dạ ma na. Sa bà ha. Tất đà dạ. Sa bà ha. Ma ha tất đà dạ. Sa bà ha. Tất đà du nghệ. Thất bàn ra dạ. Sa bà ha. Na ra cẩn trì. Sa bà ha. Ma ra na ra. Sa bà ha. Tất ra tăng a mục khư da. Sa bà ha. Sa bà ma ha a tất đà dạ. Sa bà ha. Giả cát ra a tất đà dạ. Sa bà ha. Ba đà ma yết tất đà dạ. Sa bà ha. Na ra cẩn trì bàn dà ra dạ. Sa bà ha. Ma bà rị thắng yết ra dạ. Sa bà ha.
Nam mô hát ra đát na đá ra dạ da.
Nam mô a rị da. Bà lô cát đế. Thước bàn ra dạ. Sa bà ha.
Án tất điện đô. Mạn đà ra. Bạt đà da. Sa bà ha.
Án, nại ma ba cát ngỏa đế, a ba ra mật đạp, a ưu rị a nạp, tô tất nễ, thực chất đạp, điệp tả ra tể giã, đát tháp cả đạt giã, a ra ha đế, tam dược tam bất đạt giã, đát nễ giã tháp. Án, tát rị ba, tang tư cát rị, bát rị thuật đạp, đạt ra mã đế, cả cả nại tang, mã ngột ngỏa đế, tát ba ngỏa tỷ thuật đế, mã hát nại giã, bát rị ngỏa rị tóa ha. (3 lần)

Đảnh Lễ:
Ðại từ đại bi mẫn chúng sanh,
Ðại hỷ đại xả tế hàm thức,
Tướng hảo quang minh dĩ tự nghiêm.
Chúng đẳng chí tâm quy mạng lễ.
Nhất tâm đảnh lễ: Nam mô Thập phương tận hư không biến pháp giới, vi trần sát độ trung quá, hiện, vị lai, thường trú Phật, Pháp, Tăng Tam bảo. (1 lạy)

Nhất tâm đảnh lễ:
Nam mô Quá khứ Tỳ Bà Thi Phật
Nam mô Thi Khí Phật
Nam mô Tỳ Xá Phù Phật
Nam mô Câu Lưu Tôn Phật
Nam mô Câu Na Hàm Mâu Ni Phật
Nam mô Ca Diếp Phật
Nam mô Thích Ca Mâu Ni Phật
Nam mô Di Lặc Tôn Phật.

Bài Khai Kinh:
Phật pháp cao siêu lý ẩn sâu,
Trăm nghìn ức kiếp khó tìm cầu,
Duyên lành nghe thấy xin trì tụng,
Nguyện tỏ Như Lai nghĩa nhiệm mầu.
Nam Mô Khai Bảo Tạng Bồ tát Ma ha tát. (3 lần và 3 lạy)

(Tụng tiếp chánh văn quyển thứ nhất) ....quyển thứ mười ( hết)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét