Thứ Ba, 21 tháng 3, 2017

Ý Trinh và Buddha : Tôn giả Ca Chiên Diên



V.-CA CHIÊN DIÊN

迦旃延-論議第一

和哥哥對台演講


  南印度阿槃提國的獮猴食村上,有一個富裕的家庭,是婆羅門的種族,受著當時人民的普遍尊敬。

  迦旃延尊者,就是出生在這個婆羅門的家庭裡。他的父親是當時國王所拜的國師,家中擁有廣大的土地、成百的僕役,有權勢、有財富,是國中首屈一指的大戶人家。

  迦旃延尊者的名字本來叫做那羅陀,是婆羅門國師的第二個孩子。迦旃延,只是他的姓,因為後來名聲大了,大家就以他的姓代替了他的名字。

  迦旃延的哥哥也是一位天資聰明、英俊豪爽的人,當初跟隨他父親出家作婆羅門後,就獨自到各國參訪遊歷,地方走得多,明師見得多,自然通曉很多的學術,學會了很多的藝能。在外數年,有一天回到故鄉,召集村人,公開宣說他認為最高的哲理吠陀論等。

  沒有出過門的迦旃延,知道哥哥回來講吠陀論,也發出通告,搭起講台,和哥哥對台同時演說吠陀論的哲學,無礙的辯才,扼要的說明,把哥哥的聽眾都吸引過來,大家聽後都異口同聲的評判說:「弟弟遠勝過哥哥。」

  可是,天性好勝的哥哥,經此打擊,便開始嫉妒弟弟迦旃延。兩人都不服氣,一鬧就鬧到父親面前。怒氣沖沖的哥哥,先向做國師的父親說道:

  「父親!請您管教管教無法無天的弟弟,他實在太丟我的面子,我是一個遊學多年的人,難道我還不如他?他偏偏在我演講的時候,和我對台,拉我聽眾!」

  少年的迦旃延,不慌不忙的解釋道:

  「請父親原諒,學問是公開的,誰都有權利研究和演說。哥哥到外國遊歷,我在家中研究,我沒有要勝過哥哥的心,只想知道這幾年來在家中的悉心研究,是不是有一點成績?哥哥遊歷的結果是滿肚子勝負心,我在家中是真心的做學問。不必麻煩父親管教,我們自己管教自己最好,希望哥哥也能這樣想。」

  做國師的父親,聽了兩個愛子各執一辭的話,竟不知怪誰才對。最後,和他們的母親商量,把弟弟迦旃延送到南方優禪耶尼城附近頻陀山阿私陀仙人處學習,免得讓他在家,使哥哥不能出人頭地。

(http://sites.google.com/site/terrycomic2/Untitled-9.jpg)

V.- Tôn giả CA CHIÊN DIÊN

(Katyayana - Kaccayana, Kaccana)

(Vị luận sư lỗi lạc nhất)



1.- THI ĐUA DIỄN THUYẾT VỚI ANH:

Tại thôn Nhĩ Hầu (có thể cũng tức là kinh thành Ưu Thiền Ni, Ujayana - Ujjeni - chú thích của người dịch) của vương quốc A Bàn Đề (Avanti) ở miền Nam Ấn Độ, có một gia đình hào phú thuộc chủng tộc Bà la môn, rất được mọi người kính trọng. Đó là gia đình của tôn giả Ca Chiên Diên. 

Thân phụ của tôn giả được phong chức quốc sư của quốc vương đương thời. Gia đình ấy có ruộng đất rộng lớn, nuôi hàng trăm nô bộc, có quyền thế lớn, có gia sản lớn, có thể nói, đó là gia đình danh giá bậc nhất của vương quốc.

Thật ra, tên của tôn giả là Na La Đà (Nalaka), còn Ca Chiên Diên là họ. Bởi vì sau này tiếng tăm của tôn giả trở nên lừng lẫy, cho nên mọi người đã lấy họ làm tên để gọi tôn giả, rồi thành quen.

Tôn giả là người con thứ hai trong gia đình. Anh của tôn giả là một người tư chất thông minh, tướng mạo anh tuấn, tính tình hào sảng. Sau khi theo cha xuất gia, và trở thành một vị sa môn của Bà la môn giáo, ông một mình đi chu du cầu học. Ông đã đi rất nhiều nơi, học với rất nhiều vị minh sư, cho nên được thông hiểu nhiều về học thuật, lại có được nhiều kĩ năng. Khi tự thấy rằng mình đã công thành danh toại, ông trở về cố hương. Một ngày nọ, ông triệu tập đông đảo dân chúng lại để giảng kinh Vệ Đà, và công nhiên tự cho mình là người thông tuệ nhất về triết học Vệ Đà.

Ca Chiên Diên từ trước đến giờ chưa hề bước chân ra khỏi cửa, nay thấy người anh trở về dựng đài giảng kinh Vệ Đà, bèn cũng dựng đài đối diện với anh, cũng thông báo mời dân chúng để để nghe mình giảng luận về triết lí Vệ Đà. Nhờ có biện tài vô ngại, nhờ nêu lên được những điểm quan yếu, sâu xa, Ca Chiên Diên dần dần đã thu hút hết số thính giả của người anh, Thính giả bình luận với nhau rằng: “Ông em xem ra giỏi hơn ông anh rất nhiều!”.

Nghe lời bình phẩm này, người anh, vốn bản tính hiếu thắng, đã tỏ ra rất hậm hực, và ghen tức với Ca Chiên Diên, nhưng cả hai anh em đều không ai chịu nhường ai, lời qua tiếng lại, cuối cùng đem nhau đến trước thân phụ để nhờ phân xử. Với thái độ rất bực tức, người anh nói trước:

- Thưa cha! Xin cha hãy dạy bảo thằng em ương ngạnh của con đi! Nó đã làm mất mặt con quá rồi. Con đã từng đi chu du tham học lâu năm, chẳng lẽ lại không bằng nó! Trong khi con thuyết giảng, nó lại muốn đương đầu với con, cũng dựng đài thuyết giảng, dẫn dụ hết thính chúng của con về cho nó ...

Cậu thiếu niên Ca Chiên Diên không tỏ vẻ gì sợ hãi, giải thích:

- Xin cha xét cho! Học vấn là một việc công khai, ai cũng có quyền học hỏi, nghiên cứu và diễn thuyết. Anh con thích đi các nơi để học hỏi, còn con thì chỉ thích ở nhà để tự nghiên cứu lấy. 
Con không hề muốn phải giỏi hơn anh con, mà chỉ muốn biết rằng trong bao năm nằm nhà cố gắng tự học lấy, con có thu nhập được chút ít kết quả nào không.
 Rõ ràng là, kết quả của bao năm chu du cầu học, anh con đã mang về nặng trĩu cái tâm hơn thua; còn con nằm nhà chỉ thật lòng học tập mà thôi.
 Con không muốn phiền cha phải lo lắng dạy bảo, chúng con có thể tự biết lo cho mình, hi vọng anh con cũng biết nghĩ như vậy.

Cha làm quốc sư, đối với hai con đều thương yêu rất mực, đứng trước cảnh này cũng chẳng biết xử trí ra sao. 

Cuối cùng ông đem câu chuyện bàn với vợ, gởi Ca Chiên Diên về ở với sa môn A Tư Đà (Asita) để học tập, như vậy sẽ tránh được chuyện anh em xích mích.

舅父的教示

  說起阿私陀仙人,他就是迦旃延嫡親的舅父,是他母親的長兄,在印度,阿私陀是當時博學而有神通的仙人,佛陀初降誕為太子,曾受淨飯王延請,到宮內為太子占相的就是他。他占相後,曾向淨飯王說:「大王!你這位太子,非常賢明,將來一定會出家學道,成就佛陀的聖果,可惜我老了,怕等不及他成就佛陀就將別世。我雖然不能領受他的教理,但一定教我的後輩跟他學習。」那時阿私陀仙人說後,還雙目不住的流出眼淚來。

  迦旃延自從被父親送到頻陀山後,阿私陀仙人深深欣賞外甥的聰明,恨不一口氣把自己所知道的全教給迦旃延,迦旃延也不辜負舅父的希望,不久,就對四禪五通,完全通達。

  迦旃延從此不再思念家鄉,第一、他不想靠著父親的餘蔭,因為自己是國師的兒子,才被尊敬;第二、他想到好勝的哥哥,知道現在更無法和哥哥共處。因此迦旃延立定志願,要另創他的世界。父母差人來接他回去,他也婉言謝絕。

  阿私陀仙人知道迦旃延不被家庭恩受束縛,更是歡喜,因此,有一天,就對迦旃延說道:

  「迦旃延!照你現在的志願看起來,你將來一定可以成為偉大的人物,但要遇到明師才好。我知道的這一點東西,實在還不夠你所求所學。現在有一位大覺者的佛陀已經出世,等到成道以後,你要趕快去跟他學習!」

  阿私陀仙人的話,迦旃延聽了半信半疑,不過,他對自己將來能成為大人物的話,是只有相信沒有半點的疑惑。

  有一次阿私陀仙人帶著迦旃延飄然出山,到了波羅奈國鹿野苑附近,建築了一間房屋,安住下來。從房屋完成的那一天起,阿私陀仙人每天叫迦旃延祈禱三次,祈禱大覺者的佛陀早日開悟證果。阿私陀仙人更告訴他的外甥道:

  「迦旃延!照我的推算預知,佛陀不久就要成道了,他成道後一定會先到鹿野苑來轉法輪。我只能知道如此而已,至於佛陀究竟覺悟了什麼真理,怕我是沒有福氣聽聞,你要記好,佛陀證道後,你要趕快去跟佛陀求法和修道!」

  阿私陀仙人說後不久,就與世長辭了。沒有師父的迦旃延,從此便向社會眩耀他的學問和才能。父親是國師,舅舅是阿私陀仙人,他雖沒有這麼想,但社會群眾對他供養恭敬,真是無微不至。可惜迦旃延就這麼耽於名聞利養,忘記阿私陀仙人所說要向大覺佛陀求道的遺言。

2.- SỰ DẠY DỖ CỦA ÔNG CẬU:

Đạo sĩ A Tư Đà ở miền Nam của vương quốc, là cậu ruột của Ca Chiên Diên. Ông vừa học rộng, vừa có thần thông, cho nên rất nổi tiếng ở khắp Ấn Độ thời đó. Khi thái tử Tất Tạt Đa (Siddhartha - Siddhatta) ở thành Ca Tì La Vệ (Kapilavastu - Kapilavatthu), ở vương quốc Thích Ca (Sakya) vừa đản sinh, ông liền được vua Tịnh Phạn (Suddhodana) triệu kiến để xem tướng cho thái tử. 

Ông tâu vua rằng: “Vị thái tử hiền minh này về sau sẽ xuất gia học đạo và sẽ đạt được quả vị giác ngộ vẹn toàn. Rất tiếc thần nay tuổi đã già, sợ không sống được cho đến ngày Ngài thành đạo. Thần tuy không được diễm phúc học tập giáo pháp của Ngài, nhưng thần nhất định dạy bảo đám hậu bối của thần sẽ phải học tập giáo pháp đó”. 

Nói xong, vì quá tủi thân, ông đã không cầm được nước mắt.

Từ ngày được cha mẹ gửi gấm về đây. Ca Chiên Diên rất được đạo sĩ A Tư Đà cưng quí. Ông đã đem tất cả cái gia sản tinh thần của ông truyền dạy lại hết cho đứa cháu thông tuệ của mình. Để đáp lại, Ca Chiên Diên cũng hết sức siêng năng chăm chỉ để không phụ tấm lòng hoài vọng của ông cậu. 

Chẳng bao lâu, cả tứ thiền, ngũ thông, Ca Chiên Diên đều hoàn toàn chứng đắc. Từ đó, Ca Chiên Diên không còn nghĩ tưởng gì đến gia đình nữa. Thứ nhất, chàng không muốn dựa vào uy tín và quyền thế của thân phụ để được người đời kính trọng; thứ nhì, nghĩ đến người anh hiếu thắng của mình, chàng biết là không thể nào cùng ở chung được. Do đó, chàng quyết chí tự lập để xây dựng một tương lai cho chính mình. Thỉnh thoảng song thân có cho người xuống gọi chàng về thăm nhà nhưng chàng đã khéo léo từ tạ, không về.

Đạo sĩ thấy cháu mình không còn bị ràng buộc bởi sợi dây gia đình nữa, một hôm ông bảo chàng:

- Cháu ạ! Cứ như chí nguyện của cháu hiện giờ thì trong tương lai cháu nhất định sẽ trở thành một nhân vật lỗi lạc, nhưng chầu cần phải gặp minh sư chỉ dạy mới được. Cái kiến thức hạn hẹp của cậu, nay không còn đủ để đáp ứng cho cái sở học và sở cầu của cháu nữa. Hiện giờ cậu biết có một đấng Đại Giác đã ra đời. Đợi đến khi Người thành Đạo rồi thì cháu hãy mau tìm đến xin tu học với Người.


Ca Chiên Diên nghe cậu nói, lòng nửa tin nửa ngờ, đối với câu bảo rằng, tương lai chàng sẽ trở thành một nhân vật lỗi lạc, thì chàng tin tưởng hoàn toàn mà không có chút gì hoài nghi cả.

Một ngày nọ, đạo sĩ dẫn Ca Chiên Diên đi về hướng kinh thành Ba La Nại (Varasai - Baranasi), vương quốc Ca Thi (Kasi). Khi đến vùng phụ cận của vườn Nai (Mrgadava - Migadaya) thì ông dừng lại, dựng một căn nhà nhỏ để hai cậu cháu cùng ở. Sau khi chỗ ở đã ổn định, đạo sĩ bảo Ca Chiên Diên mỗi ngày phải cầu nguyện ba lần rằng: “Cầu nguyện cho đấng Đại Giác sớm thành đạo”. Rồi một hôm khác nữa, đạo sĩ lại bảo chàng:

- Cháu ạ! Theo cậu dự đoán thì đấng Đại Giác ấy sẽ thành đạo trong một ngày rất gần đây. Sau khi thành đạo, nhất định Người sẽ đến vườn Nai quay bánh xe pháp trước tiên. Cậu chỉ biết đến thế thôi, còn Người sẽ giác ngộ chân lí gì, nói pháp gì, sợ rằng cậu không có đủ phước đức để nghe được. Cháu hãy ghi nhớ lấy, sau khi đấng Đại Giác ấy chứng đạo rồi thì cháu hãy mau mau theo Người mà xin tu học.

Sau khi dặn dò Ca Chiên Diên mọi điều cẩn thận, đạo sĩ A Tư Đà tạ thế. 

Từ đó, dù không còn được minh sư dắt dẫn nữa, nhưng với kiến thức và tài năng của mình, Ca Chiên Diên vẫn có một chỗ đứng vinh quang trong xã hội. Dù ông không có ý dựa vào cái uy thế quốc sư của thân phụ, cũng như cái danh tiếng lẫy lừng của ông cậu sa môn A Tư Đà, nhưng xã hội quần chúng vẫn trông vào những thứ hào quang ấy mà kính trọng và cúng dường ông; để rồi, thật là đáng tiếc, vì ngày một đắm chìm vào cái vũng danh vọng và lợi dưỡng ấy, Ca Chiên Diên đã quên mất “đấng Đại Giác” mà ông cậu đã từng ân cần dặn dò phải tìm đến để xin tu học.

神秘的偈文


  迦旃延認為自己已經得道,應該接受世人的供養,何必還希望什麼佛陀出世。因此在他舅父辭世不久,他就不再祈禱能早日遇到大覺者的佛陀。

  過了好久,波羅奈城附近的曠野,掘出很多古城的遺跡,其中有一塊石碑,上面刻著世人所不認識的字跡,像是寫著一首偈文,但沒有人會念它,甚至社會上傳說,就是那碑文有人識得,可是真義一定也要大覺者才能知道。

  有一天,國王對大臣宣布道:

  「國家現在獲得古代遺留的寶物,寶物中的石碑偈文,大家要趕快把它念出來。不然,鄰國會笑我們波羅奈國無人。七天之內,如果還無人識得,就把你們的官職,一個個的降級!」

  國王的詔命雖然嚴格,但大臣們從來就不曾見過這碑文上的字體,大家都面面相覷,沒有辦法。最後只得建議國王,希望國王掛榜通示全國,誰能認識石碑上的偈文,就賞他美女和金銀財寶。

  國王的王榜掛出後,消息傳到迦旃延的耳中,他想到舅父阿私陀仙人,不但曾經教過他地上各國的文字,就是天上的文字他也認識不少。因此,迦旃延很有自信的去揭榜應徵。

  石碑上的偈文,迦旃延的確是認識的,他說那是梵天上的文字,沒有神通的人是不會認識。因忐當著國王面前,把石碑上的偈文翻釋誦出來。

  那偈文是這樣的意思:

  
王中之王是誰?
  聖中之聖是誰?
  何謂愚者?
  何謂智人?
  怎樣離開垢穢?
  怎樣獲證涅槃?
  誰是沈溺在生死海裡?
  誰是逍遙於解脫國中?

  久為人們所念不出的神秘偈文,聰明的迦旃延終於揭開了那神秘的帳幕,很快的這首偈文傳誦了全國。但是雖然大家都會誦念這首偈文,卻沒有人懂得這偈文指的是什麼意思,就是迦旃延也回答不出來。

  石碑上的偈文,每一句都是些抽象的疑問,若以當時所有的學說來解答,雖然也行,但那解答的仍然是個疑問,這是可以斷言的。國王對迦旃延雖也承認其博學,連天上的梵文都認識,但不能解釋偈文的意義,仍然是最大的遺憾,因此國王更下令高價懸賞,求教天下的人來解答這首偈文。

  迦旃延不肯服輸,他向國王承諾,七日之內,他一定要回答那偈文的真意。


3.- BÀI KỆ THẦN BÍ:

Ca Chiên Diên tự cho mình là bậc đắc đạo, đương nhiên là phải nhận được cung kính cúng dường của người đời, hà tất phải trông mong ở một “đấng Đại Giác” nào nữa! Bởi vậy, không bao lâu sau ngày đạo sĩ A Tư Đà tạ thế, ông không còn hàng ngày cầu nguyện để sớm gặp “đấng Đại Giác” nữa.

Một thời gian khá lâu sau đó, tại một nơi đồng trống ở vùng phụ cận thành Ba La Nại, người ta bỗng đào được nhiều di tích của một thành phố xưa. Trong số các cổ vật đó, có một tấm bia khắc một thứ cổ tự gì đó trông giống như một bài kệ, mà không ai đọc được cả. Truyền thuyết trong dân chúng nói rằng, giả sử có người đọc được văn bia ấy đi nữa thì về ý nghĩa đích thực của nó cũng chỉ có “đấng Đại Giác” mới hiểu được mà thôi.
Một hôm, quốc vương của thành Ba La Nại tuyên bố trước các triều thần:

- Nước ta vừa phát hiện được một số cổ vật quí báu của thời xưa, trong đó có một bài văn bia. Vậy các khanh hãy cố gắng đọc cho được văn bia ấy để các nước láng giềng khỏi chê cười nước ta không có người tài giỏi. Trong vòng bảy ngày, nếu không ai đọc được thì trẫm sẽ tước bỏ hết quan chức của các khanh.

Dù vua đã có lệnh gắt gao, nhưng các vị triều thần vẫn lấy mắt nhìn nhau, vì từ trước đến giờ đã có ai từng trông thấy thứ chữ ấy bao giờ đâu! Rõ ràng là không ai có biện pháp nào cả. Cuối cùng họ chỉ biết cùng nhau lập kiến nghị trình lên quốc vương, yết bảng tuyên cáo cho nhân dân toàn quốc, nếu ai có thể đọc được bài kệ khắc trên tấm bia ấy thì sẽ được tưởng thưởng gái đẹp, vàng bạc cùng các báu vật khác.

Bảng tuyên cáo của triều đình đã được yết lên, và tin tức ấy được loan truyền tới ta Ca Chiên Diên. Ông hồi tưởng, đạo sĩ A Tư Đà trước kia không những đã dạy cho ông tất cả các loại văn tự hiện lưu hành trong dân gian, mà còn dạy rất nhiều loại văn tự của các cõi trời nữa. Bởi vậy, chàng rất tự tin là mình sẽ đọc được thứ văn tự khắc trên tấm bia cổ kia.

Quả nhiên, Ca Chiên Diên đã đọc được bài văn bia ấy. Đó là một bài kệ được viết bằng thứ văn tự Phạm Thiên mà chỉ có những người đã chứng thần thông mới hiểu thấu được. Ông đến trước đức vua phiên đọc  bài kệ ấy như sau:


Vua của các vị vua là ai?
Thánh của các bậc thánh là ai?
Thế nào là người ngu?
Thế nào là người trí?
Làm sao xa lìa được dơ bẩn?
Làm sao chứng đạt được niết bàn?
Ai chìm đắm trong biển sinh tử?
Ai tiêu dao tự tại trong cõi giải thoát?

Lâu nay không ai đọc được bài kệ thần bí đó cả, bây giờ có nhà bác học Ca Chiên Diên là người đầu tiên đọc được. Chẳng bao lâu, bài kệ ấy đã được truyền tụng ra khắp nước. Nhưng người ta chỉ đọc lên bài kệ thôi, còn ý nghĩa của nó thì không ai hiểu được, mà ngay cả Ca Chiên Diên cũng không giải thích nổi. Mỗi câu kệ là cả một vấn đề to lớn. Người ta cố dùng những học thuyết đương thời để giải đáp, nhưng vì không có giải đáp nào rốt ráo, trọn vẹn, cho nên nghi vấn này lại sinh ra nghi vấn khác, rốt cuộc họ vẫn ở trong cái vòng lẩn quẩn.

Ca Chiên Diên dù được nhà vua công nhận là người học rộng tài cao quán chúng, nhưng vì không thông hiểu được ý nghĩa của bài kệ cho nên vẫn bị nhà vua quở trách. Vua lại hạ lệnh tăng giá thêm cho giải thưởng để cầu cho được bậc cao nhân giải đáp ý nghĩa bài kệ.

Ca Chiên Diên vẫn không chịu thua, bèn hứa với quốc vương, nội trong bảy ngày nhất định ông sẽ giải đáp được.

請教佛陀去

  迦旃延向國王許下諾言,回去後拚命的思考,可是這偈文所指的問題,並不是用思考想像就可以明白。一定要一位大覺者才能解答。

  迦旃延到了沒有辦法的時候,只得去求教別人。首先他到富蘭那迦葉那裡請教,然後又再一一的去請問六師外道,迦旃延覺得他們的回答都是膚淺之見,和自己知道的一樣,並不是那偈文的真意。

  迦旃延在到處碰壁後,他想起了佛陀。雖想起了佛陀,可是他還不肯前去求教。他心裡想,這首偈文是天上的文字,有資格的權威老婆羅門都不知道,年紀還很輕的瞿曇(佛陀在俗的姓名),哪裡能知道呢?後來他又想回來,舅父別世前,再三的叮嚀,佛陀成道後,一定要去跟隨佛陀學習,但年輕的瞿曇怎麼能成就功行圓滿的佛陀呢?最後他終於想通了,悟道是不依年齡大小來決定的,因此他就向鹿野苑的方向走去。

  從古到今,如果說真正能夠解答這首偈文的,的的確確是只有佛陀一個人,不管這石碑上的偈文事實與否,但總是暗示著那意義的深刻。佛陀多年的努力修道,其目的就是要揭開這些問題的謎底,佛陀的證悟,就是這個問題最靈活的答案。

  拜見到佛陀的迦旃延,覺得舅父的話的確真實不虛。他還沒有知道佛陀如大海的智慧時,單是佛陀的相好莊嚴,就使他生起無比的恭敬之心。

  迦旃延雙手合掌,把偈文誦念一遍,希望佛陀為他解答。

  佛陀沒有考慮,像被撞擊的洪鐘,也以偈回答道:

  
王中之王是第六天王,
  聖中之聖是大覺佛陀,
  被無明所染的謂之愚者,
  能滅諸煩惱的謂之智人,
  修道除貪瞋痴即離垢穢,
  能完成戒定慧即證涅槃,
  有我法執著者沈溺在生死海裡,
  證緣起法性者逍遙於解脫國中。

  聰明的迦旃延,聽了佛陀的回答,其每一句都流入他的肺腑,心中的一點暗影,像給朗朗的智慧之光所驅除。他歡喜興奮,竟然好久說不出一句對佛陀感激的話來,最後他誦著佛陀的偈語只是向佛陀不住地頂禮。難怪迦旃延會激動,他聽了佛陀的話,當即開悟了,他從此邁進了真理的世界。

  佛陀很歡喜迦旃延,嘉許他的善根深厚,並且又再向他說了些法理,迦旃延禮謝後,即奉著佛陀的偈語回報國王,然後向信他的人宣布,他從此要皈依佛陀,做大聖者佛陀的弟子。

4.- RỐT CUỘC RỒI CŨNG TÌM ĐẾN ĐẤNG ĐẠI GIÁC:

Ông trở về nhà, để hết tâm tư suy nghĩ. Nhưng những vấn đề được nêu ra trong bài kệ đâu có thể dùng tâm trí suy nghĩ mà làm cho sáng tỏ được!

 Những vấn đề đó nhất định phải có một bậc Đại Giác mới mong giải đáp được. Khi đã nghĩ như thế, và không đã hoàn toàn không còn trông cậy vào tài trí của mình nữa, Ca Chiên Diên bèn đi các nơi để cố tìm những bậc cao minh giúp đỡ. 

Ông lần lượt đi thỉnh giáo các vị học giả uyên bác, tiếng tăm lừng lẫy lúc bấy giờ như Phú Lan Na Ca Diếp (Puranakasyapa - Puranakassapa) trong nhóm Lục Sư chẳng hạn, nhưng kiến giải của họ bất quá cũng chỉ như ông là cùng. Rốt cuộc, chân ý của bài kệ vẫn không ai làm sáng tỏ được. 

Đến lúc Ca Chiên Diên cảm thấy là mình đã “đụng tường” rồi, bấy giờ ông mới sực nhớ là có “đấng Đại Giác” đã ra đời! Nhớ thì có nhớ đấy, nhưng ông vẫn không chịu đi tìm Ngài để thỉnh giáo. Ông nghĩ rằng, bài kệ kia là văn tự Phạm Thiên, đến như những đạo sĩ Bà la môn lão thành, có đầy đủ tư cách và quyền uy mà cũng không hiểu được thì đạo sĩ Cồ Đàm trẻ tuổi kia làm sao hiểu nổi!

Rồi ông lại suy nghĩ, trước giờ lâm chung, cậu mình đã dặn dò cẩn thận, đã lập đi lặp lại đến mấy lượt rằng, sau khi đấng Đại Giác đã thành đạo rồi thì mình phải tìm đến để cầu xin tu học, nhưng đạo sĩ Cồ Đàm trẻ tuổi như vậy, làm sao có thể là một đức Phật, một bậc đại giác với công hạnh viên mãn được!

Nhưng cuối cùng ông lại tự bảo, sự ngộ đạo đâu có thể dựa vào tuổi tác già trẻ mà xác quyết! Do vậy, ông đã quyết định lên đường tìm về vườn Nai.

Sau khi được bái kiến đức, Phật, Ca Chiên Diên mới biết rằng lời dạy của cậu mình lúc trước quả thật không sai. Ông chưa biết được trí tuệ của Phật rộng lớn đến thế nào, nhưng mới nhìn thấy dung quang uy nghi của Ngài thì ông đã sinh niềm cung kính vô bờ bến. 

Ông liền chắp tay, đọc lên nguyên văn bài bệ và cầu xin Phật chỉ dạy. Ngài cũng dùng kệ để giải đáp:

Vua của các vua là vị thiên vương cung trời thứ sáu.
Thánh của các bậc thánh là đức đại giác Phật Đà.
Để cho vô minh làm ô nhiễm là người ngu.
Có khả năng tiêu diệt mọi phiền não là người trí.
Dứt bỏ được tham sân si thì lìa được dơ bẩn.
Hoàn thành được giới định tuệ thì chứng niết bàn.
Còn vướng mắc vào ngã và pháp là còn chìm đắm trong biển sinh tử.
Thấy rõ được pháp tánh duyên khởi thì tiêu dao tự tại trong cõi giải thoát.


Mỗi lời giải đáp của đức Phật đều như thấm sâu vào tim phổi của Ca Chiên Diên, khiến cho những bóng mờ vẫn ẩn núp trong tâm trí ông từ bấy lâu nay đều bị ánh sáng trí tuệ quét sạch. 

Ông vui mừng đến nỗi, đã trải qua một lúc khá lâu mà không thốt lên được tiếng nào! 

Lời khai thị của đức Phật đã như một động lực mạnh mẽ, làm cho ông tỏ ngộ và bắt đầu đặt chân vào thế giới của chân lí. Cuối cùng, ông đọc lại nguyên văn bài kệ của Phật dạy, rồi đảnh lễ và lui ra ...

Ca Chiên Diên trở vào hoàng cung bệ kiến quốc vương, đọc bài kệ của Phật cho nhà vua và toàn thể triều thần nghe.

 Sau đó, ông tuyên bố cho tất cả mọi người biết là ông sẽ trở lại vườn Nai ngay để xin qui y làm đệ tử Phật ...

勸念三寶


  天資聰明的迦旃延,終於被佛陀崇高的智慧和偉大的人格所感動,成為教團中開悟證果的弟子,迦旃延非常歡喜,不但自己從此得救,更遂了舅父阿私陀仙人的宿願。

  尊者迦旃延,本來就是一位不平凡的人物,何況他現在跟隨佛陀出家,並證得了阿羅漢果。他通達很多外道的經論,有很多外道的朋友,他發願要先把在迷途上徬徨的修道者,一一感化過來皈依佛陀,接受佛陀的真理。

  因此,迦旃延在教團中不但熱心服務和修道,在教團外更是熱心傳法弘化,宣揚佛理。人能弘道,非道弘人,救世主佛陀的真理,得著迦旃延尊者有力的弘傳推動,更容易普及社會人群,深入人心,自是意料中的事。

  佛陀的救世真理,是亙古今而不變,歷萬劫而長新的,迦旃延越宣揚越有信心,他認為自己能做佛陀真理的使者,實在是最大的榮幸。因為迦旃延對佛法的信心、熱忱,使他的大名像百花的芬芳,遠遠的飄颺,無論誰,一提到迦旃延的名字,總是要豎起大姆指。

  有一次,佛陀到自己的祖國北方的迦毘羅衛國宣化,迦旃延也跟著佛陀住在訶利聚落的精舍裡,在這裡的村莊,無論大家小戶,都有他宣化的足跡。有一天,村上有名的八城長者病了,他想到要去特別向他說法,解除他的病苦。

  迦旃延到了八城長者的家中,對睡在床上的八城長說道:

  「長者!聽說您的貴體有點欠安,我奉佛陀的慈命,特來向您慰問。您找醫生醫治了嗎?」

  「謝謝佛陀和你,我的病怕是無望了,很多醫生都說我害的是不治之症。」八城長者很傷感的說。

  「那您可以稱念三寶(念佛、念法、念僧),仰仗三寶的威德,您的心就能清淨,病就會好的。」

  「尊者!我們皈依三寶,是希望擁護三寶,淨化人間,獻出自己的所有,不應該對三寶還有要求。」

  「那是不錯的,無常的世間,不可向三寶要求常住;有病的身體,不可向三寶要求健康。信仰是犧牲個己,成就大我。小苦小病,要自己設法,不要太麻煩佛法僧。但人力無法解救,真心祈求三寶,三寶的慈光仍會普被,您這樣做不會錯的!」

  八城長者聽了迦旃延的話,每天一心一意的稱念三寶,他的不治之症就漸漸的痊癒了。

  這雖是佛法的廣大無邊,但也是迦旃延關心病人,用佛法的慈悲甘露,治療眾生的病苦!

5.- KHUYÊN NIỆM TAM BẢO:

Rốt cuộc rồi Ca Chiên Diên cũng được ánh sáng trí tuệ của bậc Đại Giác chiếu rọi và đã trở thành một trong những vị đệ tử ưu tú, đứng hàng đầu trong giáo đoàn. 

Ca Chiên Diên hoan hỉ vô cùng, vì không những tự mình đã được cứu độ, mà còn làm tròn được tâm nguyện của đạo sĩ A Tư Đà.

 Tôn giả vốn dĩ đã là một nhân vật phi phàm, nay lại được theo Phật xuất gia và chứng quả A La Hán, thì tài trí ấy lại càng siêu việt. 

Tôn giả đã thông hiểu rất nhiều kinh luận ngoại đạo, cho nên điều phát nguyện đầu tiên của tôn giả là phải đưa những người bạn kia ra khỏi con đường mê lầm để quay về tiếp nhận chân lí và nương tựa nơi Tam Bảo.

Vì có tâm nguyện như vậy, cho nên tôn giả, lúc sống trong tu viện thì đem hết tâm lực để tu học, còn lúc ra bên ngoài thì cũng đem hết tâm lực để hoằng truyền chánh pháp. Giáo pháp cứu đời do đức Phật khám phá, giờ đây nhờ có sự hoằng hóa tích cực của Ca Chiên Diên mà được phổ cập dễ dàng trong nhân quần xã hội. 

Tôn giả cho rằng, được làm sứ giả của đức Như Lai là một vinh hạnh tột cùng của đời mình; và cũng vì lòng nhiệt thành ấy mà tiếng tăm của tôn giả trở nên lừng lẫy, như mùi thơm của hoa bay tỏa khắp nơi, ai nghe đến tên cũng đều tỏ lòng kính nể.

Một lần nọ, đức Phật trở về quê hương Ca Tì La Vệ để giáo hóa. Trong số tăng chúng đi theo Phật có tôn giả Ca Chiên Diên. Phật và đại chúng tạm trú tại thôn Hạ Lị. Trong thời gian lưu trú tại đây, một hôm, trong thôn có một vị trưởng giả lâm trọng bệnh. Ca Chiên Diên muốn đích thân đến dùng Phật pháp để tiêu trừ bệnh khổ cho ông ta.
Tôn giả đến trong lúc vị trưởng giả đang nằm trên giường bệnh. Tôn giả hỏi thăm:

- Thưa trưởng giả! Đức Thế Tôn nghe nói trưởng giả không được khỏe nên sai tôi đến thăm. Chẳng hay trưởng giả đã cho mời thầy thuốc đến chữa trị chưa?

Vị trưởng rất cảm động trả lời:

- Con xin cám ơn đức Thế Tôn và đại đức. Bịnh của con đã đến lúc quá nặng rồi, không còn hi vọng gì chữa được. Rất nhiều thầy thuốc đều đã bảo như vậy.

- Vậy xin trưởng giả hãy chuyên tâm quán niệm Tam Bảo, mong nhờ uy đức lớn lao của Tam Bảo mà tâm ý của trưởng giả được thanh tịnh, rồi bịnh sẽ thuyên giảm.

- Thưa đại đức! Con qui y Tam Bảo với hi vọng được hộ trì Tam Bảo để đam lại lợi lạc cho nhân gian. Con nên hiến cúng cho Tam Bảo những gì mình có chứ đâu dám yêu cầu này nọ nơi Tam Bảo!

- Trưởng giả nói rất đúng! Cõi thế gian là vô thường, chúng ta không thể nào yêu cầu Tam Bảo làm cho ta được thường trú mãi mãi. Thân thể phải bị bịnh tật, chúng ta không thể nào yêu cầu Tam Bảo làm cho ta khỏe mạnh suốt đời. 
Người có đức tin vào Tam Bảo lúc nào cũng hi sinh cá nhân để xây dựng cuộc sống chung cùng. Bịnh hoạn, đau khổ của cá nhân, chúng ta hãy biết tự lo lấy chứ đâu có dám làm phiền đến Phật Pháp Tăng, nhưng thưa trưởng giả, sức người thi có giới hạn mà ánh từ quang của Tam Bảo thì trải khắp mọi nơi, nếu chúng ta thành tâm cần cầu thì ánh từ quang ấy sẽ rọi chiếu đến.

Nghe lời khuyên của Ca Chiên Diên, vị trưởng giả hàng ngày chuyên niệm Tam Bảo. 

Ông cảm thấy thân tâm dần dần trở nên an lạc và bệnh tình cũng ngày càng thuyên giảm.

宣說平等法

  迦旃延有時跟隨在佛陀的身邊修學,有時獨自一個人在各方雲遊教化。他和富樓那的教化方法稍有不同,富樓那說法教化的時候,總是集合成千上萬的人聽講,而尊者迦旃延卻歡喜個別的教化。

  一個人,又一個人,面對面的講,這是親切的說法,真理才能更深入人的心房。這個方式,無論是誰,只要迦旃延說幾句話,一定會使對方有好的印象和相信他的說法。

  有一次佛陀住在祇園精舍,迦旃延帶著三衣一缽,獨自穿過廣闊的森林,到西方去為摩偷羅國王說法。

  他到了摩偷羅國王的國中,先把當地的民情風俗、生活習慣打聽清楚以後,他就到王城中請見國王。

  摩偷羅國王一見到迦旃延就問道:

  「尊者!我聽說你本是婆羅門的種姓,這是最高貴的人種,而佛陀是剎帝利的種姓,你現在皈依做他的弟子,這不是太委屈你了嗎?」

  「大王!這非但不委屈,做大聖佛陀的弟子,我反而感到很光榮!」

  「奇怪!捨棄梵天口中所生的清淨人種,做本是剎帝利種姓的佛陀的弟子,叫人真是不解!」

  頑固守舊的國王,不明理的我見、我執充滿心中,他對迦旃延的說話像是不屑一聽的樣子。

  尊者迦旃延一點也沒有生氣,他溫和的解釋道:

  「大王!我過去是婆羅門,我和你也是一樣的看法。但聽了佛陀的教示,我知道這是錯誤的認識。社會上分婆羅門、剎帝利、吠舍、首陀羅等等的不同階級,在職業上說有宗教、政治、商業、農工的分類工作,這本無可厚非,但要以此形成階級,解說人種的優劣,那是非法的!無論哪一種種姓的人,都是有善也有惡的。今日婆羅門種姓當中,殺生、邪淫、邪見,行這些惡業的人很多,這就是尊貴的人種的說明嗎?人的貴賤與否,不在人種的勝劣,能夠修道學善,覺悟證果,不論什麼種族都是尊貴的、第一的、清白的!」

  這樣的說法,摩偷羅王終於覺悟了,他有點自言自語的說道:「啊!那我錯了,在我的國家,牢獄之中都關的一些首陀羅族,婆羅門犯罪也是不要緊的。難怪社會上秩序混亂,人民中怨聲不平。」

  迦旃延看出摩偷羅國王知錯悔改的心,進一步的說道:

  「所以,大王!你要信奉正法,大覺大悟的佛陀是人中最尊最貴,我們皈依他作弟子,尋求生命的自由解脫,這是最光榮最幸福的!」

  摩偷羅國王接受了平等的佛法,請迦旃延介紹,他也皈依佛陀作了弟子。

  他大赦天下,放出獄中那些苦難的首陀羅族,決心整頓政治,不欺弱怕強,廢除不平等的國法,人是沒有階級的分別,國法上的待遇應一律平等。從此全國歡欣,人民康樂,大家都感激迦旃延尊者,感激慈悲平等的佛法!

6.- TUYÊN DƯƠNG GIÁO PHÁP BÌNH ĐẲNG:

Cũng như các vị đệ tử lớn khác của đức Phật, tôn giả Ca Chiên Diên có khi thì ở bên cạnh Phật để tu học, có khi thì đi vân du các nơi để giáo hóa độ sinh. Phương pháp giáo hóa giữa tôn giả và tôn giả Phú Lâu Na (Purna - Punna) có chỗ không giống nhau.

 Trong lúc Phú Lâu Na thường hay thuyết pháp trước một cử tọa đông đảo có hàng ngàn người thì tôn giả chỉ thích giáo hoá cho từng người một; vì theo tôn giả, khi một người đối mặt với một người thì không khí nói chuyện có vẻ thân mật hơn, do đó mà lời nói dễ được người đối diện chú ý và ghi nhớ sâu đậm hơn. 

Điều đó quả thật không sai, vì bất luận là ai, hễ được nghe lời chỉ dạy của tôn giả thì đều hết lòng tin tưởng và có ấn tượng tốt đối với tôn giả.


Một lần nọ, khi đức Phật ngự tại tu viện Kì Viên (Jetavana), Ca Chiên Diên đã một mình vượt rừng rậm đi về hướng Tây, đến du hóa ở vương quốc Ma Du La. Khi đến nơi, trước hết tôn giả tìm hiểu dân tình và học hỏi phong tục, tập quán cùng cách thức sinh hoạt của dân địa phương. Sau đó tôn giả mới tìm vào kinh thành để yết kiến quốc vương. Trông thấy tôn giả, quốc vương hỏi:

- Đại đức! Trẫm nghe nói đại đức vốn thuộc dòng giống Bà la môn cao quí, nhưng lại đi qui y làm đồ đệ của sa môn Cồ Đàm vốn thuộc dòng giống Sát Đế Lị; như vậy chẳng hóa ra là đại đức đã tự hạ thấp mình quá sao?

- Thưa đại vương! Làm đệ tử Phật, chẳng những tôi không cảm thấy tự hạ thấp mình, trái lại đó là điều vinh quang cùng tột của đời tôi.

- Lạ lùng thật! Bỏ đi cái chủng tộc thanh tịnh sinh ra từ miệng Phạm Thiên của mình để làm đệ tử của ông Phật dòng Sát Đế Lị thì có ai mà hiểu nổi!

Dù vị quốc vương tỏ rõ thái độ kinh rẻ như vậy, nhưng tôn giả không lấy thế làm khó chịu, vẫn từ hòa đáp lại:

- Thưa đại vương! Trước đây, khi còn là một đạo sĩ Bà la môn, tôi cũng đã từng có cái nhìn giống hệt như đại vương vậy, nhưng từ khi nghe được những lời chỉ dạy của đức Phật, tôi mới biết là mình đã có những nhận thức đầy sai lầm. Xã hội phân ra có bốn giai cấp khác nhau chẳng qua là vì có các chứng nghiệp khác nhau, đại khái như tôn giáo, chính trị, thương nghiệp, công nông v.v... 

Đó chỉ là vấn đề phân công làm việc, tự chúng không có cao thấp, sang hèn. Nếu y cứ vào đó để lập thành các giai cấp cao thấp, phân chia chủng tộc sang hèn thì hoàn toàn là những lợi dụng vô lí và phi pháp. Bất cứ ở giới nào cũng có người tốt kẻ xấu. 

Ngày nay, ngay trong dòng Bà la môn cũng đầy dẫy những phần tử làm nhiều việc xấu xa như tà dâm, giết người, và hầu hết đều là những người bảo thủ, tà kiến. Vậy có thể bảo đó là những người tôn quí bậc nhất hay sao. 

Bởi thế, sự tôn quí hay thấp hèn của con người không phải do chủng tộc hay giai cấp cao thấp sinh ra. Bất luận là ở chủng tộc nào, hễ ai biết làm việc tốt, có công phu tu học, có giác ngộ và chứng quả thì đều là người trong sạch, cao thượng, đáng tôn quí.

Quốc vương nghe xong mấy lời này thì bừng tỉnh ngộ, tự nói với mình: “

Đúng rồi, ta thật quá sai lầm! Bao nhiêu nhà tù trong nước từ trước đến giờ chỉ dành để giam cầm hạng Thủ đà la, còn hạng Bà la môn phạm tội thì không hề hấn gì cả. Thật chẳng lấy làm lạ, tiếng oán than dẫy đầy trong dân chúng!”

Lòng hối cải đã lộ rõ trên nét mặt quốc vương. Thấy thế, tôn giả thuyết phục thêm:

- Thưa đại vương! Vì vậy mà đại vương nên tin phụng và thực hành chánh pháp. Phật là bậc đại giác ngộ, là bậc chí tôn trong đời. Chúng ta qui y làm đệ tử của Người để tìm thấy con đường tự do giải thoát. Đó là hạnh phúc và vinh quang tột của đời chúng ta. 

Quốc vương nước Ma Du La đã tin tưởng và tiếp nhận giáo pháp bình đẳng của Phật. 

Ông nhờ tôn giả Ca Chiên Diên giới thiệu ông đến xin qui y làm đệ tử Phật. Sau đó ông hạ lệnh đại xá thiên hạ, trả tự do cho tất cả tù nhân oan ức, quyết tâm chỉnh đốn lại nền chính trị, không hùa theo kẻ mạnh để chèn ép người yếu, hủy bỏ những luật lệ bất bình đẳng đã có từ trước, quốc pháp được áp dụng đồng đều cho tất cả người dân, không phân biệt và kì thị giai cấp. 

Từ đó toàn dân trong vương quốc được sống trong hân hoan, an bình và thịnh vượng.

 Mọi người đều cảm ơn đức giáo hóa của tôn giả Ca Chiên Diên và đều thấm nhuần đức từ bi, bình đẳng của Phật pháp.


論長者的資格

  迦旃延依照佛陀的教示,宣揚四姓平等的主張,很多的婆羅門知道了都不服氣,有機會,他們就來找迦旃延問難,他們想,不把迦旃延難倒,婆羅門從此就不要再想抬頭。

  可是,善於巧辯的尊者迦旃延,不管你是什麼權威的婆羅門,只要遇到他,很簡短的言辭,不用幾句話,總會把問難的人說得心悅誠服。

  有一次,尊者在波羅奈國烏泥池旁和同學比丘們在齋堂裡進餐的時候,有一個上了年紀的老婆羅門知道了以後,就來向他挑戰。老婆羅門倚著拐杖,默默的站在迦旃延的身旁。他心想,迦旃延看到他時,一定要起立讓座。可是,很意外的,迦旃延瞧也不瞧他一眼,他等得不耐煩的時候,就大聲的責問道:

  「你們算什麼?你們對我這樣老的長者,為什麼不起立讓座?」

  諸比丘一聽大驚,很多人都站起來讓位給老婆羅門坐。可是迦旃延卻不慌不忙的對老婆羅門說道:

  「你是什麼人?這樣大聲的嚷叫?我們是在奉行著恭敬的教法,可是在這裡並沒有我們的長者和前輩呀!」

  老婆羅門很不服氣,他舉起手中的拐杖,指指面上的鬍鬚,怒氣沖沖的說道:

  「像我這麼大的年紀,可不可以稱做長者?你們應該對我恭敬?」

  「你?你是不可以自稱長者的,你也不應該受我們的恭敬!」迦旃延輕言慢語的但很有力的說。

  「為什麼你目中無人?」老婆羅門氣得暴跳如雷,用手中的拐杖指著迦旃延的臉責問。

  迦旃延面對著老婆羅門,仍然很悠然的說道:

  「我從你講話的聲音,以及你這樣粗氣的舉動,我才說你不配稱做長者,不值得人恭敬。因為就算是婆羅門,到了八九十歲的老年,髮白齒落,而他並沒有真正的修道,耽於色香味觸,既不能離開貪瞋嫉妒的煩惱,就仍應該稱他做青年;假若就算是個二十歲左右的青年,皮膚潤澤,頭髮烏黑,而他已經解脫了愛欲的束縛,對世間沒有貪求,沒有一點不平的觀念,像這樣我們可以稱他長者,稱他老宿士,應該受我們全體的恭敬!」

  老婆羅門聽了迦旃延的話,無話可說,就默默的走開。

7.- LUẬN VỀ TƯ CÁCH TRƯỞNG GIẢ:

Từ khi biết được tôn giả Ca Chiên Diên tuyên dương giáo pháp bình đẳng của đức Phật thì hầu hết giới Bà la môn đều phẫn nộ. Họ quyết tìm cơ hội đánh bại tôn giả, nếu không thì họ sẽ không thể nào ngóc đầu lên được, nhưng rồi họ đã không làm gì được. Các đạo sĩ Bà la môn, dù ở cấp bậc nào, chỉ cần nghe vài câu đối đáp giản dị của tôn giả là liền bị khuất phục.

Một hôm, tại thành Ba La Nại, khi tôn giả đang cùng với mấy vị tì kheo khác thọ trai trên một bờ hồ thì một cụ già dòng Bà la môn tìm đến gây hấn. Thoạt tiên cụ chống gậy đứng im lặng bên cạnh tôn giả. Cụ nghĩ rằng, nếu tôn giả trông thấy cụ thì nhất định phải đứng dậy nhường chỗ cho cụ. Nhưng, thật là ngoài ý muốn của cụ, tôn giả vẫn an nhiên, làm như không hề biết có cụ đang đứng bên cạnh. Tức giận đến không thể nào chịu được nữa. cụ bèn lớn tiếng quát tháo:

- Các ông làm gì vậy? Thấy một vị trưởng giả già cả như ta đây mà không đứng dậy nhường chỗ hay sao?

Quí vị tì kheo nghe thế hoảng kinh, tức khắc đứng dậy mời cụ ngồi, nhưng riêng Ca Chiên Diên thì vẫn ngồi thản nhiên, nhìn cụ nói:

- Cụ là ai, Có gì mà cụ nóng giận quá vậy? Chúng tôi đang thực hành giáo pháp cung kính, nhưng hiện chỗ này đâu có vị nào là bậc trưởng giả tiền bối của chúng tôi!

Cụ lại nộ khí xung thiên, liền đưa cây gậy lên, chỉ vào chòm râu bạc của mình, nói như thét:

- Ta tuổi lớn chừng này, râu đã bạc mà không đáng là trưởng giả hay sao? Các ngươi có chịu kính trọng ta không?

Vẫn với giọng rắn rỏi, tôn giả nói:

- Cụ ư? Không! Cụ không đáng xưng là trưởng giả, và cũng không đáng nhận được sự kính trọng của chúng tôi.

Cụ già nhảy dựng người lên, dùng gậy chỉ ngay vào mặt tôn giả, la lớn:

- Ngươi coi ta không ra gì phải không?

Ca Chiên Diên vẫn bình tĩnh:

- Chính cái giọng nói và cử chỉ thô lỗ, dữ dằn của cụ đã chứng tỏ cụ không xứng đáng là bậc trưởng giả, không xứng đáng để chúng tôi kính trọng. 

Dù cho là người trong dòng Bà la môn, tuổi tác có cao đến tám chín mươi, tóc bạc răng long, mà người ấy không có đức độ và tác phong đứng đắn, đam mê ngũ dục, không chế ngự được các tính xấu tham, sân, ganh, tị, thì cũng không khác gì một đứa trẻ không được dạy dỗ. 

Trong khi đó, nếu một thanh niên trẻ tuổi mà có cuộc sống giải thoát, không bị trói buộc bởi ái dục, không có tâm mong cầu gì đối với thế gian, một niệm bất bình cũng không nảy sinh, thì thật xứng đáng là bậc trưởng giả, và sẽ được chúng tôi hết lòng kính trọng.

Ông cụ nghe Ca Chiên Diên giảng giải, không còn biết phải trả lời ra làm sao, bèn im lặng bỏ đi một mạch.


有道不在年高

  說服一個婆羅門,並不是從此就相安無事。迦旃延的名聲越大,婆羅門的教徒越是和他過不去。

  又是一個婆羅門,很善於辯論,聽說迦旃延對年老的婆羅門非但不恭敬,而且批駁得老婆羅門啞口無言,因此心中非常不服,特地從很遠的北方俱尸尼迦羅,訪問到迦旃延暫住的波羅奈國來,他一見面就呼名問道:

  「迦旃延!我聽人說,本是婆羅門的迦旃延,現在改宗作了沙門是不是事實?」

  「你說得不錯,你看我身上披搭的袈裟!」

  「背叛本有的信仰,算不算過失?」

  「從邪執的信仰,走上光明正信之道,不算過失!」迦旃延斬釘截鐵的回答。

  「你不是一個默默無名的人,你對婆羅門的摩奴法典有精深的研究,你改宗信仰佛陀,已經不可原諒,但聽說你還常常向婆羅門教徒講說佛法,要他們和你一起改宗,你這種行為簡直是無禮之極!」

  「過來人,指點過去同行者的迷津,這是佛陀慈悲的教示!」

  就算是會說話的婆羅門,遇到義正詞嚴的迦旃延,也是沒有辦法。

  婆羅門還是不肯服輸,想到他此來的目的,又再問道:

  「迦旃延!我再問你,我聽說,作了沙門比丘的迦旃延,已不再恭敬耆宿的婆羅門,不起座相迎,也不與座,假若這是事實,就算是比丘也不應該!」

  迦旃延像是胸有成竹,沈著的回答道:

  「你所問的,事實是如此,皈依正遍知佛陀以後的迦旃延,的確是沒有恭敬侍奉耆宿的婆羅門,這是很合乎法理的。因為已經證得聖果的我,你不可以用年齡的老少來衡量,禮和法是不可亂的。」

  婆羅門聽了善辯的迦旃延的回答,終於深感羞愧,無法再說,最後只得捨棄邪見,請尊者介紹,也作了佛陀的弟子。

  和這個故事一樣,很多當時的外道,在迦旃延巧妙的議論下而改邪歸正,接受了佛法的信仰。

8.- ĐẠO ĐỨC KHÔNG PHẢI CHỈ CÓ Ở NGƯỜI TUỔI CAO:

Khuất phục được ông lão dòng Bà la môn, nhưng đâu phải như thế là được yên! Thanh danh của tôn giả càng lớn thì sự căm ghét của tín đồ Bà la môn đối với tôn giả lại càng dâng cao.

 Một người Bà la môn khác, rất giỏi biện luận, nghe nói Ca Chiên Diên đã không tỏ ra cung kính đối với bậc trưởng bối của mình, lại còn chê bai biện bác đến nỗi vị ấy phải cứng miệng, không đối đáp được lời nào thì tức giận vô cùng. Dù đang ở một nơi rất xa, ông ta cũng cố tìm đến Ba La Nại để cật vấn Ca Chiên Diên. Khi vừa thấy mặt nhau, không cần chào hỏi lôi thôi, ông đã tra vấn ngay:

- Này Ca Chiên Diên! Ta nghe nói ngươi vốn thuộc dòng giống Bà la môn nhưng lại đổi đạo để làm đệ tử Cồ Đàm, có đúng như thế không?

Tôn giả trả lời thật đanh thép:

- Bỏ đi một thứ tà kiến để đi theo con đường sáng suốt, chân chính thì không có gì là lầm lỗi cả.

- Nhưng ngươi đâu phải là một tên vô danh tiểu tốt! Ngươi đã từng là một con người tinh thông uyên bác, tài danh tột bực trong hàng ngũ Bà la môn chúng ta, nay lại đổi đạo để theo Cồ Đàm, chỉ một điều đó cũng không thể tha thứ được. Đã thế, ngươi còn ráo riết tuyên dương Phật pháp để khuyến dụ bao nhiêu tín đồ Bà la môn khác theo gương ngươi đổi đạo, hành vi đó của ngươi hết sức vô lễ!

- Người sáng suốt có bổn phận vạch rõ cho bạn bè mình biết con đường sai lầm thuở trước, đó là lời chỉ dạy phát xuất tâm từ bi rộng lớn của đức Phật.

Muốn gì thì muốn, ông ta vẫn không bẻ gãy được cái ý chí sắt đá của tôn giả. Tuy vậy, ông vẫn không chịu thua. 

Sực nhớ lại mục đích ban đầu khi đi đến đây, ông đổi giọng:

- Ca Chiên Diên! Tôi lại xin hỏi ông điều này. Tôi nghe nói, sau khi theo Phật làm tì kheo, ông đã không còn kính trọng các vị trưởng lão Bà la môn. Thấy họ, ông đã không đứng dậy nghinh tiếp, cũng không ngồi chung, có quả như vậy không? Nếu đó là sự thật thì tôi nghĩ rằng, dù có là tì kheo đi nữa thì ông cũng không nên cư xử như vậy.

Giọng tôn giả cũng trầm hẳn xuống, nhưng vẫn thẳng thắn:

- Câu hỏi của ông vừa rồi là hoàn toàn đúng sự thật. Sau khi tôi quay về nương tựa nơi đức Phật để tu học thì không còn cung kính và phụng sự các trưởng lão Bà la môn nữa, và việc đó cũng rất đúng với chánh pháp. Tôi hiện thời đã chứng được quả thánh. Cho nên việc tu chứng không thể đem tuổi tác cao thấp mà so sánh được, nghi thức và chánh pháp cũng không thể làm cho xáo trộn được ...

Như bị thu hút, người đó cứ im lặng lắng nghe Ca Chiên Diên giảng giải, càng suy nghĩ càng thấy hổ thẹn cho mình, nghẹn lời không nói gì thêm được. Cuối cùng thì ông ta tỉnh ngộ, cởi bỏ tà kiến, xin theo tôn giả làm đệ tử Phật.

Cứ như thế, tôn giả đã dùng lời lẽ sắc bén của mình để giáo hóa cho không biết bao nhiêu người ngoại đạo “cải tà qui chánh”, quay về và nương tựa nơi Tam Bảo.

解答諍的原因

  真理不辯不明,僧團中有一位佛弟子像迦旃延,使很多想要問難的人,總有幾分畏懼。

  有一次,迦旃延走在街上托缽乞食的時候,被一位迎面走來的婆羅門修道者見到,他向迦旃延招呼以後就問道:

  「尊者!今天遇到你,真是難得的緣分,我有一個問題想請教你,希望你以客觀的態度破除我的疑惑!」

  「請不必客氣,你對什麼問題生起了疑惑?」

  「尊者!我看世上,剎帝利相爭,婆羅門與婆羅門相爭,他們爭來爭去,究竟是什麼原因呢?」

  「是貪欲在蠱惑!」迦旃延回答。

  「婆羅門和婆羅門相爭,剎帝利和剎帝利相爭,是為了貪欲。尊者!我再問你,你們比丘和比丘相爭,又是為了什麼原因呢?」
  「是我見和法執!」

  婆羅門的修道者,閉起眼睛用手摸著頭,好像是在用力的思考尊者的話。

  婆羅門閉起眼睛摸著頭的奇怪樣子,引起街道兩旁的民眾注意。本來,比丘和婆羅門在街道中問道,就已經令人注目,何況這位婆羅門的修道者,又做出古怪的樣子。

  一位是披著黃色袈裟的比丘,端嚴莊重的站著,一位是編著頭髮身上穿了婆羅門表示苦行的蠱衣,還在閉目,摸著頭,四周圍著注目觀看的群眾,這情景像人生舞台上演著最精彩的戲劇一樣。

  婆羅門的修道者想了一會,睜開眼,又問道:

  「尊者!你的回答很公正合理,不過,我想知道世上什麼人才能離開貪欲、我見和法執呢?」

  迦旃延毫不猶豫的回答道:

  「現時在舍衛城說法的我的老師佛陀,他是應供、正遍知、無上正等正覺者,他沒有貪欲的煩惱,沒有我法的執著,他是三界的導師,是人天的師範!」

  婆羅門的修道者,很感激迦旃延的說法,他當即要求尊者介紹他皈依佛陀,作在家學佛的居士。

  說服了婆羅門的修道者,圍觀的群眾向迦旃延一陣歡呼,還有很多人跪在地上向尊者頂禮,像是在祝賀尊者的勝利!

  可是,尊者沒有一點驕傲自得的表情,他謙虛的向大家答禮,再和那本是婆羅門而今要作居士的修道者告別,仍然過著他托缽乞食的生活。

9.- NGUYÊN NHÂN TRANH GIÀNH:

Một hôm, Ca Chiên Diên đang đi khất thực trên đường phố, một đạo sĩ Bà la môn đến đứng trước mặt khẩn khoản:

- Đại đức! Thật tôi có duyên lành cho nên hôm nay mới gặp được đại đức. Tôi có điều thắc mắc muốn thỉnh giáo, xin đại được giải đáp cho!

- Xin đừng khách sáo làm gì! Ông có gì thắc mắc xin cứ trình bày.

- Tôi thấy trên đời này, Sát đế lị thì tranh giành với Sát đế lị, Bà la môn thì tranh giành với Bà la môn. Họ cứ tranh giành như vậy là tại vì nguyên nhân gì?

- Tại vì họ bị tham dục mê hoặc.


- Bà la môn tranh giành nhau, Sát đế lị tranh giành nhau đều là vị bị tham dục mê hoặc, vậy thì trong tăng đoàn của đại đức, tì kheo tranh giành vớí tì kheo là tại vì nguyên nhân gì?

- Tại vì họ còn chấp ngã và chấp pháp.


Đạo sĩ Bà la môn bèn nhắm mắt, vò đầu, tỏ vẻ như đang suy nghĩ về những điều Ca Chiên Diên vừa nói. Cái cử chỉ nhắm mắt, vò đầu ấy, ông cố tình làm thật hết sức quái dị để cho mọi người hai bên đường phải chú ý. Sự việc một đạo sĩ và một tì kheo chất vấn nhau ở giữa phố đã làm cho người ta ngạc nhiên rồi, huống chi vị đạo sĩ kia lại còn cố ý làm ra bộ tịch hết sức quái dị! Cho nên kẻ hiếu kì cứ ùn ùn kéo đến vây kín chung quanh hai vị như thể đi xem một vở hài kịch.

Đạo sĩ Bà la môn “diễn xuất” như thế một hồi lâu, bỗng ông mở mắt ra, đắc chí nói:

- Lời của tôn giả thật là công minh, chính trực và hợp lí, và như thế, theo tôi nghĩ, trên đời này không có một người nào là không có tham dục, chấp ngã và chấp pháp!

Tôn giả đáp không chút do dự:

- Có chứ! Thầy tôi là đức Phật, hiện thời đang giáo hoá tại thành Xá Vệ, là bậc đại giác ngộ, không còn bị tham dục mê hoặc, không còn chấp ngã và chấp pháp. Người là bậc đạo sư của ba cõi, là bậc mô phạm cho cả loài trời và loài người.


Đến đây, bỗng nhiên người ta thấy thái độ của đạo sĩ Bà la môn đã hoàn toàn thay đổi, cử chỉ cao ngạo đã biến mất, nét mặt tự mãn đã đổi ra thành khẩn, có vẻ như trong lòng đang trải qua một cơn chuyển biến cực mạnh .. 

Thế rồi ông ta xin tôn giả Ca Chiên Diên giới thiệu để được qui y làm đệ tử Phật.

訓誡無禮的少年

  由婆羅門出家的迦旃延,和婆羅門往來辯論的公案很多。總是因為尊者在婆羅門教中,有很崇高的地位和名望,一旦改宗信仰佛教,實在震動了那神權的宗教。

  婆羅門的教徒,向迦旃延攻擊問難的固然很多,但和迦旃延維持友情,覺得信仰應該自由的婆羅門也不少。

  有一個時期,迦旃延行化到阿槃提國的獼猴室村的時候,在這村裡有一位名叫魯醯遮的婆羅門,他對已經出家做比丘的迦旃延,仍然非常恭敬尊重。

  有一天,這位魯醯遮婆羅門的年少弟子們到山上砍柴,走到一個石窟前,看到迦旃延在窟內修行,他們就胡鬧的向迦旃延取笑說:「在呀!在呀!你看那光頭的沙門在呀!」「看呀!看呀!那光頭的沙門有什麼了不起呀!」魯醯遮的弟子,你一句我一句,在窟外大聲的笑鬧,其中有一個曾制止說:「喂!你們不要這麼罵人,他是我們師父最尊敬的人哩!」雖然有人這樣制止,但頑皮的少年婆羅門,仍然大聲笑鬧,甚至還有的拿石子往窟內擲。

  靜坐的迦旃延只得站起來,走到窟外,訓誡那些少年的婆羅門道:

  「少年們!從前的婆羅門還認真修行,禁止五欲,現在的婆羅門娶妻生子,和俗人沒有分別。你看你們的行為,和不學無術的野蠻少年們一樣,這就是你們師父的教育嗎?」

  迦旃延威嚴的像獅子的吼聲,將婆羅門的少年們懾服得不敢回口,但滿懷著瞋恨的心,回去馬上就告訴他們的師父魯醯遮婆羅門,說迦旃延如何的大罵婆羅門不好。

  魯醯遮聽了以後,非常氣忿的說:「我對迦旃延那麼尊敬,他反而大罵我們,我一定要找他講理!」

  魯醯遮殺氣騰騰的奔向迦旃延的石窟來,心想這一次非要給迦旃延難堪不可。可是見到莊嚴的迦旃延以後,迦旃延把剛才說過的話再重說一遍,魯醯遮竟慚愧得低頭不語。

  迦旃延趁機說法道:

  「我的好友魯醯遮!你聽我說,我們的信仰和修道,是為了生死的解脫,生命的自由,千萬不可把信仰和修道形成職業化起來。現在婆羅門中的修道者,為人祭祀作法,好像當做生意在經營,離開家庭做婆羅門,有幾個是真正為了修道的?很多都是為了名聞利養,自己還虛偽的裝出信得很虔誠的樣子,大家並不是真正為了得救,掛著宗教的招牌,遂其私欲,這是很大的悲哀!

  「今日的婆羅門,都是心外求法,不是求人天福報,就是在宇宙的現象上解來解去,有幾個能認識自己?我的老師佛陀,他是宗教歧途上徘徊者的救星,你是我的好友,望你一捨妄執,不要好為人師,用虛懷若谷的心情,共同來跟佛陀學習!」

  魯醯遮羞愧的說道:

  「尊者!你說得不錯,現在我一切依著你的教示來行!」

  好比是迎面刺來的大刀,非但不能刺中迦旃延,而且被尊者義理的辭鋒折斷,魯醯遮只得解除迷妄執著的武裝,向論議第一的迦旃延尊者投降!

10. RĂN DẠY THIẾU NIÊN VÔ LỄ:

Sở dĩ các giáo sĩ Bà la môn đã gây nhiều cuộc tranh chấp với tôn giả Ca Chiên Diên là vì tôn giả chẳng những đã xuất thân từ chủng tộc Bà la môn, mà vốn còn là một vị chức sắc cao cấp, có danh vọng lớn, rất được kính trọng trong đạo Bà la môn; và lẽ đương nhiên, sự đổi đạo của tôn giả phải là một biến chuyển vô cùng trọng đại, đã gây chấn động mãnh liệt trong giới tôn giáo thần quyền đó. Những kẻ luôn luôn tìm cách gây hấn với tôn giả dĩ nhiên là rất nhiều, nhưng dù sao cũng có một số người vẫn giữ được tình bạn tốt đẹp với tôn giả.

Một dạo nọ, tôn giả về cố hương là thôn Nhĩ Hầu (thuộc vương quốc A Bàn Đề) để hành hóa. Trong thôn có một đạo sĩ Bà la môn tên Lỗ Ê Giá, dù biết Ca Chiên Diên đã qui y theo Phật, ông vẫn giữ lòng cung kính đối với tôn giả như xưa.

Một hôm, một số đệ tử trẻ tuổi của Lỗ Ê Giá lên núi đốn củi. Đám thiếu niêu này, khi đi đến trước một hang đá thì trông thấy Ca Chiên Diên đang thiền tọa trong đó. Chúng chỉ trỏ cười cợt:

- Tụi bây ơi! Có ông sa môn đầu trọc đây nè!

- Coi nè, tụi bay ơi! Ông sa môn đầu trọc có cái gì ngộ lắm!

Mỗi đứa một câu, đám trẻ cứ thế làm huyên náo cả lên. Nhưng trong bọn cũng có đứa biết điều, cố ngăn mấy đứa kia lại:

- Này, tụi bây! Không nên vô lễ đối với vị sa môn này. Ông ấy là người vẫn được thầy chúng ta hết sức kính trọng đó!

Mặc dù đã có người khuyên bảo, nhưng bọn trẻ lì lợm kia vẫn lớn tiếng trêu ghẹo; thậm chí có đứa còn ném đá vào hang nữa! Ca Chiên Diên bây giờ bèn đứng dậy, bước ra khỏi hang, bèn lớn tiếng bảo bọn trẻ:

- Này các cháu! Từ trước người Bà la môn vẫn tu hành chân chính, không hề phạm đến ngũ dục; và bây giờ thì họ lại cưới vợ, sinh con, không khác gì người thế tục. Còn những hành vi của các cháu ngày hôm nay thì cũng không khác giới bọn trẻ con lêu lỏng vô học. Sao các cháu có thầy mà không nghe lời thầy dạy?

Tiếng nói của tôn giả uy nghiêm như tiếng gầm của sư tử, khiến cho bọn trẻ khiếp vía không dám mở miệng trả lời, nhưng trong lòng thì tức lắm. Chúng bèn chạy vội trở về mách hơn mách kém với thầy là Lỗ Ê Giá. Nghe vậy, ông tức giận vô cùng, bảo bọn trẻ:

- Ta xưa nay đối với hắn vẫn một lòng kính trọng, sao hôm nay hắn lại vô cớ mắng nhiếc thầy trò chúng ta! Ta nhất định phải đến gặp hắn để biết phải quấy một phen.

Nói xong, với vẻ mặt hầm hầm, Lỗ Ê Giá nhắm hướng hang đá đi thẳng, lòng những tưởng phen này không thể nào để cho Ca Chiên Diên “phách lối” được nữa. 

Nhưng ông đâu có ngờ, khi đến nơi và thấy được tướng mạo trang nghiêm của Ca Chiên Diên, rồi nghe rõ được lời trình bày thẳng thắn của tôn giả về sự việc của bọn trẻ vừa xảy ra, cơn tức giận của ông bỗng tan đi, và lòng khởi lên một niềm hối hận vô bờ. Không biết nói gì hơn, ông chỉ cúi đầu im lặng .. Biết là cơ hội hóa độ đã đến, tôn giả bèn khai thị:

- Này người bạn hiền, xin hãy nghe lời tôi nói! Tín ngưỡng và sự tu hành của chúng ta là nhằm mục đích giải thoát khỏi vòng sinh tử, để cho cuộc sống đạt được an lạc, tự tại. Chúng ta đừng xem đó là một thứ nghề nghiệp để sinh sống. 

Hiện nay, những tu sĩ Bà la môn lìa bỏ gia đình để sống theo nếp sống phạm hạnh của người tu hành chân chính phỏng có là bao! Mà phần đông họ đều chỉ có cái hình tướng trá ngụy ở bề ngoài, cúng lễ tế tự cho người giống như việc kinh doanh để sinh nhai, lấy tôn giáo làm cái chiêu bài để tranh dành đoạt lợi, cốt thỏa mãn cái tư dục của mình; thật là đáng buồn! 

Tu sĩ Bà la môn ngày nay đều lo tìm những thứ gì ở ngoài tâm, cũng chẳng phải mong cầu phước báo ở cõi Trời hay cõi Người, mà chỉ toàn nói hươu nói vượn về những hiện tượng này nọ của vũ trụ, nào có mấy người biết chính mình là ai! 

Thầy của tôi là đức Phật. Người chính là đấng cứu tinh của nền tôn giáo lẩn quẩn, bế tắc hiện nay. 

Nếu ông vẫn còn coi tôi là bạn tốt thì xin ông hãy dứt bỏ những tà kiến cũ, dứt bỏ hết vọng chấp, đem cái tâm hồn trong sạch theo tôi về qui y với đức Thế Tôn để tu học.

Lỗ Ê Giá thành khẩn:

- Đại đức nói rất phải. Bây giờ mọi việc tôi đều xin nhờ đại đức chỉ bảo cho ...

暢說無常之理

  迦旃延的辯才無礙,長於議論,沒有人能和他相比,在僧團中以及社會上,鼎鼎大名,沒有人不知道的。

  佛陀歡喜弟子們有辦法,只要稍有可取,總是加以提拔讚揚。現在迦旃延是這麼一位不平凡的聖弟子,佛陀看在眼中,聽在耳裡,自是歡喜異常。所以,有一次在阿槃提教化的時候,佛陀就曾以迦旃延代座為比丘、比丘尼、優婆塞、優婆夷說無常的道理。

  迦旃延先向佛陀頂禮,然後說道:

  「諸位大善知識!一切聚者都有離的時候,有生就有死,有成就有壞,世上有為諸法,山河大地,森羅萬象,一切都脫離不了無常的法則!」

  「見到春天的百花開放,秋風一起,又是黃葉飄零的時候;本是青春美貌的紅顏,經過寒往暑來,就是雞皮鶴髮、老態龍鐘。

  「做人如果沒有從無常中解脫出來,那短暫的生命實在是孤獨和悲哀的,看那花朵上的朝露,它只不過能挨到日出的時候;就算是發出無量光明普照天下的太陽,它仍然消失在黑暗的夜裡。

  「恩愛的眷屬,老死來的時候,他們也替代不了;孝順的子孫,在你撒手逝世時,雖然圍繞在你身旁哭泣,可是哭泣並不能唬倒無常,把你再哭活過來。

  「金銀財寶也是靠不住的,天災人禍會把它毀得精光;名位權勢也是不實在的,可曾看到世間上有不倒翁的王族?

  「不明白無常道理,就會被五色繽紛的世間欺騙。那自然界,青山綠水;那人生,健康力壯;那社會,燈紅酒綠;這一切,看去像是有無限的情趣,實在是害人的陷阱,因為這裡面埋伏了無常的隱憂!

  「仔細想想,世間為了無常作祟,處處都是虛偽的、欺騙的;不虛偽、不欺騙的唯有因果的真理和個人造作的業力,如影隨形,無論生也好,死也好,它們都亦步亦趨的跟著我們。

  「所以,諸位大善知識!我們修道者要有向無常之魔挑戰的精神,在佛陀慈悲的指導下,我們要加緊修道,認識自己,粉碎無常的世間,證得永恆的生命。我們不要生,也不要死!」

  迦旃延這番痛切的教誡,義理分明,感動了所有在座聽講的比丘、比丘尼、優婆塞、優婆夷。

  為佛陀代座說法,唯有像迦旃延的辯才論議,才有這種資格,才能有這種榮譽!

11.- LÍ VÔ THƯỜNG:

Có một lúc đức Phật hành hóa tại vương quốc A Bàn Đề. Một hôm, trước đông đảo thính chúng gồm chư vị tì kheo, tì kheo ni, cận sự nam và cận sự nữ, đức Phật bảo tôn giả Ca Chiên Diên thay thế Ngài đối trước đại chúng giảng nói về giáo lí “Vô thường”. Tôn giả vâng mạng đảnh lễ Phật, rồi nói với đại chúng:

- Kính thưa toàn thể chư vị thiện tri thức! Tất cả mọi người mọi vật, đã có hợp thì sẽ phải có tan, có sinh thì ắt có tử, có thành thì có hoại. 

Tất cả các pháp hữu vì trên thế gian như núi sông đất đá cỏ cây, mọi hiện tượng thiên hình vạn trạng trong vũ trụ, đều không thể thoát ra ngoài nguyên lí vô thường này. Khi mùa Xuân đến thì trăm hoa đua nở, nhưng lúc gió Thu thổi về thì lá vàng lả tả lìa cành. 

Con người ta lúc tuổi trẻ thì má hồng xinh đẹp nhưng vừa trải qua mấy mùa nóng lạnh thì liền trở thành tóc hạc da gà. Làm người, nếu không giải thoát ra khỏi cái kiếp vô thường thì cái sinh mạng ngắn ngủi và tạm bợ kia, thật quả là đau buồn và cô độc. 

Xem như hạt sương mai đọng trên cánh hoa kia, bất quá là nó chỉ tồn tại cho đến khi mặt trời mọc là cùng. Rồi chính mặt trời đó nữa, nó đem vô lượng tia sáng chiếu soi cùng khắp thiên hạ là thế, nhưng rồi nó cũng phải chìm mất trong đêm đen tăm tối. 

Vợ chồng ái ân nồng thắm là thế, nhưng khi cái già rồi cái chết đến với một người thì người kia dù muốn cũng không thay già thế chết cho nhau được. Con cháu dù có hiếu thuận đến mức nào đi nữa, khi ta chết, bất quá thì chúng nó cũng chỉ biết ngồi vây quanh mà khóc than thương tiếc, chứ làm sao mà đảo ngược cơn vô thường để kéo ta sống lại!

 Chúng ta cũng không thể nào trông cậy vào vàng bạc, của cải, danh vị và quyền thế, vì tất cả những thứ đó đều không chắc thật. Nếu không thấy rõ đạo lí vô thường thì chúng ta sẽ bị những màu sắc rực rỡ của thế gian mê hoặc. 

Non xanh nước biếc của thiên nhiên là thế, con người kiện khang mạnh khỏe là thế, xã hội đèn sáng rượu nồng là thế ..., tất cả, mới nhìn cứ tưởng toàn là những thú vui cùng cực, nhưng sự thật thì chỉ là những nơi hầm hố hại người, bởi vì ở những nơi đó đều luôn luôn sẵn có cơn vô thường mai phục! 

Nếu chúng ta quán chiếu kĩ càng thì sẽ thấy những gì trên thế gian cũng đều là hư ngụy lọc lừa, chỗ nào cũng có quỉ quái hại người; chỉ có nhân quả và nghiệp lực là không bao giờ lừa lọc.

 Nghiệp lực theo ta như bóng theo hình; dù sống, dù chết, lúc noà nó cũng theo ta bén gót. Cho nên, thưa chư vị thiện tri thức, những người đang theo con đường tu học như chúng ta, cần phải tinh tấn phấn đấu với con ma vô thường, bằng cách tuân theo giáo huấn của đức Đạo Sư, cần mẫn tu tập, đạp nát cõi vô thường, phá tung lưới sinh tử, và đạt được cái kiếp sống vĩnh cữu, không sinh không diệt ...

為窮人說發財之道

  迦旃延在阿槃提國宣化後,想回到舍衛國聽聞佛陀說法的途中,見到一位婦人手持水瓶,坐在河邊大聲的啼哭,尊者一見,不覺油然的生起同情的憐憫心,他怕這個婦人因失意的事想不開,而投水自殺。

  因此,他就向前問道:
  「婦人!什麼事情使妳傷心,為什麼在這裡啼哭呢?」

  「不要你管,告訴你有什麼用?」婦人哭的聲音更大了。

  「婦人!告訴我,我是佛陀的弟子,我可以幫助妳解決苦難的問題。」

  「你是沒有辦法的,你看世間這麼不公平,貧富如此懸殊,我是一個苦命的窮人,一生都受苦,我被貧窮的苦折磨得實在不想活了!」

  婦人說後,像要往水中跳的樣子,迦旃延趕快上前一把拉住她,非常慈悲和同情的開導她道:

  「婦人!妳不要傷心,世間上的窮人很多,不僅是妳一人。同時,窮人並不一定是苦或不幸,富人不一定就是快樂。妳看那些擁有奴婢和田宅的富人,他們仍然天天為貪欲瞋恚的煩惱所苦。為人只要平安的生活就好,貧窮值得這麼悲傷嗎?」

  婦人不耐煩的掙扎著說道:
  「你是一位出家的沙門,你能看得開世情而我們不能。你要知道,我是這裡大富豪的奴隸,我窮年累日的做著奴隸,衣食不周,沒有自由,而我那黑心的主人,慳貪暴惡,沒有絲毫慈心。我們做事,稍有差池,便打罵交加,叫我們求生不能,求死不得,想到這些痛苦都是由於我的貧窮所致,怎麼不叫人為窮苦悲傷呢?」

  「婦人!既然如此,妳不要悲傷,我告訴妳一個解脫貧窮和發財的方法。」

  「是什麼方法?」婦人把眼淚揩拭一下,望著迦旃延。

  「方法很簡單,妳既然為貧窮而受苦,那妳可以把貧窮賣給別人!」

  「貧窮可以賣給別人?」婦人驚叫起來:「你不要亂說,如果貧窮可以賣給人,那世間上就沒有窮人了。有什麼人肯買貧窮呢?」
  「賣給我,我肯買!」迦旃延回答。
  「貧窮可以賣,而且也有你買,不過世人不懂出賣貧窮的方法。」
  「要布施!」尊者開示道:「妳要知道人生的貧富各有因緣,貧窮的人所以貧窮,是前生沒有布施和修福;富貴的人所以富貴,是前生肯布施和修福。因此布施和修福是賣窮買富的最好方法。」

  婦人聽後,智慧開朗,她到今天才明白了致富之道。但她隨後就又苦著臉問道:
  「尊者!你說得不錯,我確實明白了發財的方法。不過我極其貧困,我是一無所有的人,就是我手中的水瓶,還是我那愛財如命的主人所有,你叫我怎麼好布施呢?」

  迦旃延把自己的缽交給女人,說道:
  「布施不一定要用錢,對別人布施歡喜也可以。現在妳持此缽盛水給我,作為妳對我的布施!」

  婦人此刻才真正明白布施的意義,當即依教奉行,後來她以供水功德,得生忉利天享樂。

  迦旃延具有說法的方便,所謂論議第一,在比丘中的確是名不虛傳!

12.- LÀM CÁCH NÀO ĐỂ BÁN NGHÈO MUA GIÀU?

Một hôm, sau khi hành hóa ở A Bàn Đề, Ca Chiên Diên lên đường trở về tu viện Kì Viên ở thành Xá Vệ. 

Giữa đường, tôn giả trông thấy một thiếu phụ ôm một vò nước, ngồi khóc lóc thảm thiết bên bờ sông, tình cảnh có vẻ rất thương tâm. 

Sợ người thiếu phụ vì quá thất ý mà có thể nhảy xuống sông tự tử, tôn giả vội vàng đến hỏi thăm:

- Thưa bà! Có chuyện gì làm bà đau khổ đến nổi khóc lóc thảm não như vậy?

Nghe có người hỏi, thiếu phụ càng khóc to thêm:

- Thôi ông hỏi han làm gì, dù có nói cũng vô ích thôi!

- Thưa bà! Xin bà cứ nói! Tôi là đệ tử của đức Phật. Tôi có thể giúp bà giải quyết được bất cứ vấn đề khó khăn nào.

- Ông không có cách nào giúp tôi đâu! Ông thấy không? Trên thế gian đầy dẫy những hoàn cảnh không bình đẳng, người giàu kẻ nghèo cách biệt một trời một vực! Tôi là một kẻ nghèo mạt rệp, suốt đời chịu khổ, và cũng vì cái nghèo đã đem đến cho tôi quá nhiều đau khổ nên hiện giờ tôi không còn muốn sống làm gì trên cõi đời này nữa!

Nói xong mấy lời ấy thì thiếu phụ vật vã lăn lộn như có ý muốn liều mình. Tôn giả hoảng hốt, vội nhanh chân đứng chận trước mặt thiếu phụ, rồi thương xót an ủi:

- Thưa bà! Xin bà đừng quá thất vọng như vậy! Bà hãy bình tâm nhìn lại thử xem, trên đời này người nghèo nhiều lắm chứ đâu phải chỉ có một mình bà! Lại nữa, người nghèo không hẳn là bất hạnh, mà người giàu cũng không hẳn là có hạnh phúc. 

Bà thấy không! Có những người giàu có, nhà cao cửa rộng, ruộng đất thênh thang, kẻ ăn người ở đầy nhà, nhưng họ hàng ngày cứ bị các tính xấu như tham lam, sân hận, ganh ghét giày vò, đó mới là đau khổ, đó mới là bất hạnh. Cho nên làm người, chỉ cần có được cuộc sống bình an là tốt nhất, còn cái nghèo đâu đáng để cho ta đau buồn!

- Bởi vì ông là một vị sa môn nên  dửng dưng với sự thế, chứ kẻ tục như tôi thì đâu được như vậy. Ông biết không? Tôi nguyên là kẻ nô lệ của một nhà đại phú hào ở vùng này. Quanh năm suốt tháng tôi chỉ biết làm nô dịch cho người, không có một chút thì giờ rảnh rỗi nào, thế mà cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, lại còn bị người chủ tham tàn bạo ác, hở một chút là mắng chửi đánh đập, khiến cho bọn tôi tớ chúng tôi, muốn sống cũng không được mà muốn chết cũng không xong! Tôi nghĩ, sở dĩ tôi bị hành hạ như vậy là chỉ vì cái nghèo mà ra, sao ông lại bảo cái nghèo không đáng để làm cho người ta đau khổ?

- Thôi thì cứ cho là bà có lí, nhưng dù sao thì tôi cũng khuyên bà đừng đau buồn nữa. Tôi sẽ chỉ cho bà cách thức chẳng những thoát được cái nghèo mà còn phát tài nữa.

Thiếu phụ lật đật lau nước mắt, hỏi dồn:

- Cách gì, thưa đại đức?

- Giản dị lắm! Bà đã bị cái nghèo làm cho đau khổ, sao bà không đem cái nghèo ấy bán cho người khác đi?

- Đại đức nói đùa sao chứ! Cái nghèo mà bán được thì hóa ra trên đời này chẳng còn ai nghèo cả? Vả lại, có ai mà lại chịu mua cái nghèo!

- Tôi chịu mua, bà hãy bán cho tôi đi!

- Cái nghèo lại có thể bán được, và cũng có người như đại đức chịu mua, nhưng rất tiếc là tôi không biết bán nghèo bằng cách nào!

- Bằng cách bố thí, thưa bà! Bà nên biết rằng, sự giàu nghèo của mọi người đều có nguyên nhân. Sở dĩ người ta nghèo là vì kiếp trước người ta tham lam keo kiệt, không biết bố thí và tu phước. Sở dĩ người ta giàu có là vì kiếp trước người ta biết bố thí và tu phước. Cho nên, bố thí và tu phước là cách tốt nhất để bán nghèo mua giàu.


Nghe mấy lời khai thị của tôn giả, thiếu phụ bỗng cảm thấy như tâm trí mình vừa được khai sáng, dù vậy, bà vẫn còn có điều thắc mắc:

- Thưa đại đức! Bây giờ thì con thấy tâm trí con đã được sáng tỏ. Con hiểu được lời dạy của đại đức rồi, nhưng con vốn dĩ rất nghèo, không có bất cứ vật gì gọi là của riêng; ngay cả cái vò nước này cũng là của người chủ tham lam độc ác ấy, con đâu biết lấy gì để cúng dường cho đại đức!

Ca Chiên Diên đưa cái bình bát của mình ra trước mặt thiếu phụ:

- Không nhất thiết phải có tiền bạc hay của cải mới bố thí được. Mỗi khi thấy người khác bố thí mà mình khởi niệm hoan hỷ, đó cũng là bố thí rồi. Hiện giờ bà có thể trút nước trong cái vò bà đang có sang bình bát này cho tôi. Thế tức là bà bố thí cho tôi đó!

Tới đây thì thiếu phụ hoàn toàn tỉnh ngộ. Từ đó bà nguyện luôn luôn y theo lời dạy của tôn giả mà thực hành, và không còn thấy bị đau khổ vì cảnh nghèo nữa.

化愛情為慈悲

  有一次,迦旃延離開佛陀,前往很遙遠的邊國波羅梨園的一位長者的竹林中教化。當時這裡的國王文荼王發生了不幸的事故,就是他最心愛的王妃死了。文荼王萬分悲傷,不吃飯、不喝水,連政治也無心再管,每天只是流淚啜泣。

  死了的人,就是有權有勢貴為王者,也不能叫死者再活過來。文荼王不能忘懷舊日的恩愛,命令大臣將夫人的死屍浸在麻油裡,不能讓她腐壞,他每天就對死屍說:「這張嘴怎麼不向我說話呢?這雙手怎麼不來抱我呢?親愛的!妳怎麼看我也不看一下?」

  文荼王的悲哀像沒有終了的時候,大臣們急得也無法可想。想要勸諫國王不要過度悲傷,但勸諫的話,國王一句也聽不進去,國王說,要他不悲傷,最好的辦法就是能讓夫人活過來,但是這事誰能做得到呢?

  諸大臣在焦急得沒有辦法的時候,想起了在波羅梨園的迦旃延,想到以他的威德和善辯的議論,說不定能使王制止傷心,重新鼓起勇氣再來處理國政。

  大臣們向文荼王建議道:

  「大王!在我國中,現在有一位佛陀的弟子遊化在此,他是迦旃延尊者,他有大神通、大威德,淵博的知識,無所不曉,連石碑上的梵天文字,都認識!而且辯才無礙,在說話的時候,面上常帶著笑容。大王!您去見他,說不定對你有所幫助!」

  文荼王一聽,忙問道:

  「他的神通能不能叫夫人活過來?」

  大臣們很為難,都不敢說,當中有一位聽過迦旃延說法的大臣,機警的回答道:

  「大王!能不能叫夫人活過來,這話我們不敢回答,關於這個問題,唯有去請教迦旃延尊者才知道!」

  文荼王採納了大臣們的建議,即刻就起程,乘著寶羽的王車,帶了隆重的禮物,到林中一見面就要求迦旃延把他的夫人救活過來。
  迦旃延在身旁攀折了一根樹枝,對文荼王說道:

  「大王!把這樹枝帶回供在宮中,要它永久常青,不要枯萎,能嗎?」

  「這是不可能的,它已離根了,是不能再活的。」文荼王回答。

  「夫人業報已盡,壽命終了,要她再活過來,這怎麼能夠?」

  迦旃延以反問代替回答,文荼王頓時覺悟到死而不能再活的無常之理。

  迦旃延知道文荼王的心,進一步的說法道:

  「大王!你是國王,是全國人民所有,不是你夫人一人的,你應該把愛你夫人的一念,擴大開來,愛你全國的人民,以慈悲代替私愛,你的國家才能興隆,人民也才會永久擁戴你為王!」

  文荼王一聽,智慧開解,不再悲傷,向尊者頂禮告別,回宮安葬夫人,整頓國政,愛民如愛夫人,全國歡欣,沒有一人不感激善說法要的尊者迦旃延!

  今日,邪說的烽煙瀰漫了全世界,我希望論議第一的迦旃延尊者的精神,在佛教的教團中能夠復活起來!

13.- BIẾN ÁI TÌNH THÀNH TÌNH THƯƠNG RỘNG LỚN:

Một lần khác tôn giả đến giáo hóa ở một tiểu quốc thật xa xôi, và cư trú trong khu rừng tre của một vị trưởng giả nọ. 

Bấy giờ, quốc vương của nước ấy đang gặp chuyện đau buồn. Đó là, bà hoàng hậu rất được nhà vua sủng ái vừa mới qua đời. 

Nhà vua vô cùng đau xót nhớ thương, suốt ngày chỉ ngồi than thở khóc lóc, đến nỗi không thiết gì ăn uống, luôn cả việc triều chính cũng không màng tới! Nhà vua không làm sao quên được cái thời gian ái ân mặn nồng xưa, cho nên đã truyền lệnh cho các vị đại thần phải đem thi thể của hoàng hậu ngâm trong dầu mè để khỏi bị rửa nát, rồi hàng ngày ông cứ đến đứng trước thi thể ấy nói:

 “Cái miệng này sao bây giờ không nói với ta một lời nào! Sao hai cánh tay này bây giờ không còn ôm ta nữa! Ái khanh ơi! Sao không nhìn ta một cái đi? ...”

Nhà vua bi ai quá độ, và không biết tình trạng này đến bao giờ mới dứt được! Các vị đại thần lo lắng lắm. Họ nhiều lần khuyên nhà vua đừng quá đau buồn như thế nhưng ông không tự chủ được. Ông nói, nếu muốn ông hết đau buồn, cách tốt nhất là hãy làm cho hoàng hậu sống lại! Nhưng trên đời này có ai đủ khả năng làm được việc đó? Quyền thế và cao sang tột phẩm như nhà vua mà vẫn phải bó tay!

Trong cơn bối rối ấy, các vị đại thần bỗng nhớ ra là hiện ở trong nước mình có đại đức Ca Chiên Diên đang hành hóa. Họ nghĩ, một người có oai đức lớn, có cách nói năng khéo léo như thế thì nhất định sẽ có cách làm cho nhà vua dứt được đau khổ, chẳng những thế, có khi còn làm cho thần trí nhà vua sáng suốt, dõng mãnh hơn lên để lo việc triều chính cũng chưa biết chừng! Họ bèn dâng kiến nghị:

- Tâu đại vương! Hiện giờ có đại đức Ca Chiên Diên là một vị đệ tử lớn của đức Phật, đang du hóa tại nước ta. Vị đại đức ấy có thần thông lớn, có oai đức lớn, trí thức uyên bác, không có gì là không biết, luôn cả văn bia xưa khắc bằng chữ Phạm Thiên mà ông ta cũng đọc thông suốt! Tâu đại vương! Chúng thần xin đại vương đi tìm để yết kiến vị đại đức ấy, may ra ông ta có thể giúp ích được cho đại vương.

Nghe vậy, nhà vua hỏi dồn dập:

- Ông ấy có thần thông ư? Ổng có thể làm cho hoàng hậu sống lại được không?

Câu hỏi của nhà vua làm cho các vị đại thần lúng túng. Họ không biết trả lời làm sao cho phải. May thay, trong số các vị đại thần này, có một vị đã từng được nghe tôn giả Ca Chiên Diên thuyết pháp. Ông ta nhanh trí tâu:

- Tâu đại vương! Vị đại đức ấy có thể làm cho hoàng hậu sống lại được hay không thì chúng thần không dám nói chắc. Theo ý thần, trong trường hợp này, chỉ có việc đi thỉnh đại đức tới đây thì mới có thể biết chắc được.

Nhà vua chấp thuận lời đề nghị ấy, và lập tức mang lễ vật lên đường. Đến khu rừng tre, vừa trông thấy tôn giả là nhà vua đề cập ngay đến chuyện làm sao cho hoàng hậu sống lại. Tôn giả bèn bẽ ngay một nhánh cây gần đấy trao cho nhà vua, nói:

- Xin đại vương mang cây này về để ngay trong nội cung và bảo nó phải xanh tươi mãi mãi, không được héo úa. Đại vương làm được chăng?

- Việc này không thể được! Nó đã bị tách ra khỏi thân cây rồi thì làm sao sống mãi được?

- Thưa đại vương! Nay hoàng hậu của đại vương cũng vậy, nghiệp báo đã dứt, mạng sống đã hết, bây giờ bảo bà sống lại thì làm sao được!

Đến đó thì nhà vua sực tỉnh ngộ, và biết rõ rằng, đã chết thì không thể nào sống lại được. Thấy rõ được sự chuyển biến trong tâm trí nhà vua, tôn giả khai thị thêm:

- Thưa đại vương! Đại vương đang là vua của một nước, và như thế, đại vương là của chung toàn thể nhân dân trong nước chứ không phải chỉ là của riêng hoàng hậu. 

Xin đại vương hãy đem cái tình yêu dành cho hoàng hậu mà trải rộng nó ra thành tình yêu bao la ban phát đến toàn thể nhân dân. Nếu được như vậy thì chắc chắn là vương quốc của đại vương sẽ phú cường và nhân dân sẽ hạnh phúc, an lạc. Nhân dân đã được an cư lạc nghiệp thì họ sẽ kính trọng đại vương chính thực là vua của họ. Họ sẽ trung thành với đại vương và ra sức xây dựng đất nước.

Nhà vua nghe mấy lời khích lệ của tôn giả thì tâm trí bừng sáng, bỏ ngay sự đau buồn, cung kính đảnh lễ tôn giả, trở về hoàng cung làm lễ an táng hoàng hậu. 

Xong rồi, nhà vua đích thân chỉnh đốn mọi viẹc triều chính, thương dân như trước đây đã thương hoàng hậu, khiến cho nhân dân ai cũng thấm nhuần ơn vua, người người hân hoan trong đòi sống thanh bình, hạnh phúc, an lạc, và dần dần mọi người đều biết rằng, sở dĩ quốc vương của họ trở thành hiền minh như vậy là đã nhờ công đức giáo hóa của tôn giả Ca Chiên Diên.

 Điều đó đã làm cho họ càng vững tin vào Phật pháp.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét