Thứ Ba, 21 tháng 3, 2017

Ý Trinh và Buddha : Tôn giả Phú Lâu Na

           

富樓那-說法第一

滿慈子的名號


  做大聖釋迦牟尼佛的弟子,修道解脫生死固然要緊,但宣揚真理,說法度生,也很重要。

  一個人能捨去家庭恩愛的束縛,歸投在大覺者佛陀的懷抱,終身從事於宣揚真理的事業,對世間,不失望灰心;對眾生,永遠慈悲熱情,那便是說法第一的富樓那尊者。

  能夠勝任宣說佛陀的教法,實在是一件極艱鉅的工作。因為所要宣說的法,不但要契合佛陀的真理,更要契合眾生的根機,富樓那在千萬的弟子中,被公認為說法第一,當然不是沒有緣由的。

  要了解富樓那,要先從他的名字說起。

  富樓那尊者的名號太多,也太長了,他本來的名字應稱做「富樓那彌多羅尼子」。富樓那,只是他名號的簡稱。他的名號這麼長,正象徵著尊者說法時,長得沒有窮盡。高山流水,無盡的心懷,無盡的慈意,在中國,尊者的名號就是「滿慈子」的意思。

  他的面容,正像他滿慈子的名號一樣,圓圓的臉上,眉目之間,都滿現出慈祥愷悌的長者之風。



III.- Tôn giả PHÚ LÂU NA

(Purna - Punna)

(Vị giảng sư tài giỏi nhất)


1.- NGƯỜI ĐẦY ẮP TÌNH THƯƠNG:

Đối với đệ tử Phật, việc tu học để thoát li sinh tử cố nhiên là quan trọng, nhưng việc hoằng dương chân lí, thuyết pháp độ sinh cũng quan trọng không kém. 

Có một người đã cắt bỏ được sợi dây ràng buộc của gia đình để sống theo tăng đoàn của đức Phật và cống hiến trọn cuộc sống của mình cho công cuộc hoằng dương Phật pháp, luôn luôn đem nhiệt tình và lòng từ bi trải khắp chúng nhân, không bao giờ chán nản hay thất vọng trước những nghịch cảnh của thế gian, đó là tôn giả Phú Lâu Na.

Hoằng pháp là một công tác vô cùng khó khăn, vì nó đòi hỏi người thực hiện công tác phải có đầy đủ cả hai yếu tố quan thiết, là “khế lí” và “khế cơ”. 

Trong hàng ngàn đệ tử của đức Phật, Phú Lâu Na đã chứng tỏ, không những là có đầy đủ hai yếu tố quan thiết đó, mà còn có cả những đức tính đặc biệt khác nữa, cho nên đã được tôn xưng là người có tài thuyết pháp đứng vào bậc nhất! Khả năng đó đã được hàm chứa trong tên gọi của tôn giả.

Thật ra, tên của tôn giả rất dài. “Phú Lâu Na” chỉ là tên gọi vắn tắt của “Phú Lâu Na Di Đa La Ni Tử” (Purnamaitrayaniputra - Punnamantaniputta). 

Cái danh hiệu dài dằng dặc ấy chính là tượng trưng cho tài thuyết pháp của tôn giả, kéo dài vô tận, như núi cao, như nước chảy; nó bộc lộ nhiệt tình vô biên, lòng từ vô cùng. 

Cho nên, nếu được dịch ra thì danh hiệu ấy của tôn giả có nghĩa là “người đầy ắp tình thương "(Mãn Từ Tử).




出家後的果位

  富樓那有一個美滿的家庭,財產雖不能說是富甲天下,但在全印也算得上是有名的富翁,父母很疼愛他,但他覺得世間的恩愛與財寶,終有別離散失的時候,人生第一要緊的是求得永久的真理法財。因此,他割愛辭親,皈依大聖佛陀,發願要從事真理的宣揚。

  富樓那尊者,出家後不久,即已證得阿羅漢果。阿羅漢,是聲聞乘的弟子中最高的果位,破除煩惱,不受生死,運用神通,可以到處自在行化。

佛陀為其授記

  有一次,佛陀在說法的法會中,講說了很多宿世因緣的事,富樓那聽了後非常感動,即從座位上起來,整理披搭在身上的袈裟,端步走到佛陀座前,以頭面接禮佛足後,就虔誠地瞻視著佛陀的慈顏,他感到對佛陀巍巍的功德,用言語是稱讚不盡,他用雙手撫摸著心胸,他想佛陀一定會明白他的深心本願。

  像是以心印心,佛陀了解到富樓那的想法,說道:

  「富樓那!你精進修持,不懈不怠,隨時隨地協助我宣揚宇宙人生的真理,能於我的四眾弟子中,開示教化利益眾生,皆大歡喜,你在說法人的中間,最為第一,過無量阿僧祇劫,你當在這個世界成佛,名號叫做法明如來。」

  佛陀的授記,讓富樓那生起無限的感激之情,他又莊嚴恭敬的頂禮佛陀,右繞三匝,退回到自己的本位,眼眶中含著感激的淚珠!
  富樓那將來會成佛?這引起了比丘們的羨慕與驚奇,富樓那所證的聖果是羅漢,不是菩薩,他怎麼親蒙佛陀為他授記成佛呢?

  比丘們的驚疑,早就在佛陀的意料之中,佛陀向大眾宣告說:

  「諸比丘!你們見到我剛才為富樓那彌多羅尼子授記嗎?因為他善於說法,將來一定在此土成佛,佛號法明如來。

  「你們也應該稱讚富樓那,我常常稱讚他於說法人中,最為第一。他深入佛陀的法海,能饒益一切同修的學道者,除了佛陀,沒有誰再能和他作言論上的辯難。

  「你們不要以為尊者富樓那只是助我宣說正法,實在說,他於過去九十億的佛國,都是護持幫助佛陀宣說正法,都得到說法第一的讚美!你們大家要向說法第一的富樓那看齊!」

  佛陀為富樓那授記,就是以珍珠、瓔珞的寶冠加在他的頭上,也不能與授記的殊榮相比,因為他從此將走上人天導師的尊位!

2.- QUẢ VỊ SAU KHI XUẤT GIA:


Phú Lâu Na ở trong một gia đình đầy đủ hạnh phúc, tuy không phải là giàu sang bao trùm thiên hạ nhưng cũng thuộc vào hạng có tiếng tăm của xứ Ấn Độ thời bấy giờ. 

Tôn giả rất được cha mẹ yêu quí, cưng chiều, nhưng vì sớm ý thức được rằng, tài sản vật chất cũng như tình thương yêu gia đình, đến một ngày nào đó cũng sẽ mất mát, cách chia, và quan yếu nhất cho đời người là phải tìm cho được một thứ tài sản cao quí, vĩnh cửu - đó là chân lí.

 Cho nên tôn giả đã quyết chí cắt bỏ sợi dây trói buộc thế gian, qui y theo Phật, phát nguyện đem đời mình phụng sự cho công cuộc phát huy chân lí. Với quyết tâm ấy, sau khi xuất gia không lâu, tôn giả đã chứng A La Hán - quả vị cao nhất của hàng Thanh Văn, dứt trừ hết mọi phiền não, thoát li sinh tử, có thể vận dụng thần thông để đi hành hoá khắp nơi một cách tự tại.

3.- ĐƯỢC PHẬT THỌ KÍ:


Một lần nọ, trong một buổi pháp thoại, đức Phật đã thuật rất nhiều chuyện về những nhân duyên của nhiều tiền kiếp xa xưa. Những câu chuyện này đã làm cho Phú Lâu Na vô cùng xúc động. 

Tôn giả liền đứng dậy, sửa áo lại cho ngay ngắn, đến trước Phật, đảnh lễ, rồi với tâm lòng đầy thành kính, tôn giả đứng yên lặng chiêm ngưỡng từ nhan của Phật ... 

Trong giây phút thiêng liêng ấy, tôn giả quả thực nhìn thấy rõ ràng công đức cao vòi vọi của đức Thế Tôn mà ngôn từ thế gian không thể nào diễn tả đầy đủ được! Tôn giả chỉ biết dùng hai tay đập vào ngực mình để mong đức Phật soi thấu được tâm nguyện của mình! Thật giống như “dùng tâm ấn tâm”, đức Phật quả nhiên đã thấu rõ tâm trạng thầm kín của Phú Lâu Na. Ngài khai thị:

- Phú Lâu Na! Thầy là người tu học tinh tấn, không khi nào giải đãi; lại luôn luôn tùy lúc, tùy nơi, đã từng giúp Như Lai hoằng dương chánh pháp. Ở trong bốn chúng đệ tử của Như Lai, thầy đã từng giáo hóa, khai thị, làm cho mọi người được nhiều lợi lạc. Biện tài thuyết pháp của thầy đứng vào bậc nhất! Trải qua vô lượng kiếp về sau, thầy sẽ thành Phật ngay tại thế giới này, và đức Phật ấy sẽ có danh hiệu là Pháp Minh Như Lai.

Lời thọ kí của đức Phật đã đem đến cho Phú Lâu Na niềm pháp hỉ vô biên và lòng cảm kích sâu xa không cùng. 

Tôn giả cung kính đảnh lễ Phật, đi nhiễu ba vòng, rồi trở về chỗ ngồi, trong khóe mắt còn long lanh những giọt lệ xúc động.

Nhưng sự kinh nghi của đại chúng đã không ngoài dự liệu của đức Phật, cho nên Ngài liền dạy:

- Này quí thầy! Quí thầy có hiểu được sự việc Như Lai mới vừa thọ kí cho thầy Phú Lâu Na không? Chỉ vì thầy thuyết pháp rất giỏi mà trong tương lai nhất định sẽ thành Phật ngay tại thế giới này, hiệu là Pháp Minh Như Lai. 

Quí thầy cũng nên khen ngợi Phú Lâu Na là người đứng đầu trong số những thầy có biện tài thuyết pháp trong tăng đoàn. Phú Lâu Na đã thâm nhập biển pháp mênh mông của Như Lai, có thể đem lại lợi ích cho tất cả chúng bạn cùng tu học; có thể nói rằng, trong pháp hội, trừ Như Lai ra, không ai có thể so sánh được với Phú Lâu Na về biện tài ngôn luận xảo diệu. Hơn nữa, quí thầy cũng nên biết rằng, Phú Lâu Na không phải chỉ giúp Như Lai tuyên dương chánh pháp, mà sự thật, trải qua chín mươi ức cõi Phật trong quá khứ, thầy cũng đã từng giúp các đức Phật tuyên dương chánh pháp, và cũng đều được khen ngợi là người thuyết pháp số một. Xin quí thầy hãy cùng nhìn về Phú Lâu Na và hãy tự làm cho mình tiến bộ như vậy.

Tôn giả Phú Lâu Na được đức Phật thọ kí đã là một sự kiện vinh diệu tột cùng, dù có đem mũ kết bằng ngọc anh lạc đội lên đầu cũng không thể bằng được; vì kể từ giờ phút đó,tôn giả đã chân vào địa vị tôn kính của một bậc “đạo sư” rồi vậy.


未來的佛國


  富樓那將來成佛,他的佛國不知是怎樣的情形,假若有可能,因緣時遇,富樓那成佛後,大家也可以發願到他的佛國中修行。

  大悲的佛陀,明白眾人的心意,不厭其詳的告訴大眾道:

  「富樓那成佛的佛國,大地沒有山陵溝壑,沒有荊棘沙礫;所有的樓台亭閣,高入雲霄,土地都是金銀眾寶所鋪。

  「富樓那成佛後的佛國,沒有地獄、餓鬼、畜生,也沒有女人,更談不到淫欲,人們皆是化生,飛行自在,無我也無我所,沒有刀兵,大家各得所宜,各取所需。

  「富樓那成佛後的佛國,沒有種族的界限,沒有強弱的分別,沒有怨敵,沒有仇人,更沒有巧取、豪奪、侵占。彼此尊敬,彼此讚揚!
  「那不再稱為娑婆世界,那是一個善淨國土,正像西方極樂世界阿彌陀佛的國土一樣!」

  佛陀的教示,完全是真實的話,佛陀從來沒有講過一句虛妄的語言,富樓那以說法來莊嚴他的淨土,這正是給宣化佛陀真理的人,一個最大的鼓勵!


4.- NƯỚC PHẬT ĐỜI VỊ LAI:

Trong tương lai, tôn giả Phú Lâu Na sẽ thành Phật. Lúc đó, nếu có công năng và đầy đủ duyên lành, mọi người đều có thể phát nguyện vãng sinh về quốc độ của Ngài để tu tập. Hình trạng của quốc độ ấy như thế nào? Đức Phật dạy:

- Quốc độ của đức Pháp Minh Như Lai lúc ấy, địa thế bằng phẳng, không có núi khe lồi lõm, cũng không có gai góc sỏi đá; các thứ châu báu như vàng bạc châu ngọc trải đầy mặt đất; đền đài lầu gác đều cao đến mây xanh. 

Trong thế giới đó không có các cảnh giới khổ đau như địa ngục, ngạ quỉ, súc sinh; người sinh về đó đều là hóa sinh, phi hành tự tại, không có ý niệm về dâm dục; không có ý niệm về ngã và những gì thuộc về ngã; tất cả mọi người đều có được các tiện nghi và nhu cầu một cách tự tại. 

Trong quốc đó cũng không có những ngăn cách hạn hẹp về chủng tộc của con người; không có sự phân biệt mạnh yếu; không có oán ghét, hận thù, lường gạt, cưỡng đoạt và xâm chiếm; không có tranh chấp hơn thua; không có chiến tranh. 

Tất cả mọi người đều sống với nhau trong tinh thần hòa hợp, tôn kính và ngợi khen.

 Bởi vậy, thế giới này lúc đó không còn có tên là “Ta Bà” mà là một thế giới trong sạch, thuần thiện, giống như thế giới Cực Lạc của đức Phật A Di Đà.

Những điều Phật dạy là hoàn toàn chân thật; bởi vì tôn giả Phú Lâu Na đã dùng chính cái công đức thuyết pháp của mình để trang nghiêm cho nước Phật ấy. 

Đó cũng chính là thành quả quí báu đạt được của một người đã trải qua vô số kiếp tận tụy cho công việc tuyên dương chánh pháp.

比丘中的諫言者

  富樓那對於弘法佈教最熱心,他不貪求名利,不希望利養,他知道像水中月、空中花似的人間,正是他辦了生脫死、廣度眾生大事的最好的道場。

  富樓那最不喜歡有人表面上披搭袈裟,皈依佛陀作弟子,實際上所作所為的全不是為了佛法,而是為了自己。

  佛陀的慈悲威德,感動了全印的國王,他們皈依佛陀後,就下令,凡是犯了不赦大罪的人,只要他出家皈依佛陀,進入僧團後就赦免他的罪。雖然佛陀知道這樣將使清淨的僧團,成為龍蛇混雜的場所,但慈悲如同無邊大海能容納眾流的佛陀,不忍見罪不救,佛陀為此還稱讚諸王的仁政。

  就這樣,僧團中出現了無惡不作的人,他們藉著佛陀的聖德,貪求名聞,希圖利養,甚至有的還做起販賣如來的勾當。

  富樓那見到這些名義上的比丘,常會率直的告誡他們說道:

  「諸位!你們不可以做與佛陀教示相違背的事,不可以勸人家布施,而自己卻愛私蓄金錢;告訴人五欲會危害自己的身心,而自己卻歡喜往五欲的漩渦中攢。我們能有救世主佛陀作我們的老師,實在是千生難遇的因緣。凡有所作,皆不可違背佛陀的教制,不可觸犯佛陀規定的戒條。最要緊的,不能令人見了喪失信心。

  「你們出家學道,這是佛陀慈悲給你們一個懺悔滅罪的機會,而你們不肯為教爭光,不熱愛僧團,對於弘法利人的佛化運動不熱心,佛陀雖然慈悲的一時攝受大家,但終究對於你們自己的未來,不會有好處。

  「佛陀常說,人不怕有過,過而能改,才是大丈夫。在佛教的僧團裏,做一個庸庸碌碌的人無多大關係,但最不好的就是做一個自私自利,不顧佛教,不顧大眾而好活動的人。

  「我和你們共師共學,我有話說話,就是你們打我罵我都沒關係,只要佛法能夠興隆,眾生能夠得度。希望大家從今以後,真正的發心修學佛法,依教奉行。」

  富樓那的忠告,讓一些心性不端的比丘都很感動,富樓那與人相處,並不喜歡吹毛求疵,找人麻煩,但他的確是把個人的光榮、個人的利益完全拋棄,為教的光榮、教的利益而努力的人!

  佛陀知道富樓那的為人,常常稱讚他是同學比丘中的開導者、諫言者。

5.- LỜI KHUYÊN CHÂN THÀNH:

Phú Lâu Na hết sức nhiệt thành đối với công việc hoằng pháp là chính vì để giải thoát sinh tử và cứu độ chúng sinh, tuyệt đối không vì tham cầu danh lợi. 

Bởi vậy tôn giả rất lấy làm buồn lòng khi thấy có những vị đệ tử Phật, mình mặc áo pháp, nhưng cách sinh hoạt của họ hoàn toàn không vì Phật pháp, mà chỉ vì lợi lộc bản thân. Nguyên nhân là vì lúc bấy giờ uy tín của Phật và tăng đoàn đang tỏa rộng khắp nơi, cảm hóa được các các vị quốc vương đang trị vì các vương quốc trong bán đảo Ấn Độ. 

Sau khi qui y với đức Phật, nhiều ông vua đã hạ lệnh, phàm những người phạm tội đại hình, không thể tha thứ, nhưng nếu chịu qui y theo Phật gia nhập tăng đoàn sống đời xuất gia, thì tội dù có nặng đến đâu cũng được xá miễn. 

Tuy biết rằng sự việc ấy sẽ khiến cho tăng đoàn thanh tịnh của mình sẽ trở thành một nơi rồng rắn hỗn tạp, nhưng vì lòng từ bi vô biên, như biển cả chứa nước từ trăm sông, thấy tội nhân đau khổ không thể nhẫn tâm không cứu độ, cho nên đức Phật đã chấp nhận cho họ xuất gia. 

Từ đó, trong tăng đoàn mới trộn lẫn những phần tử kém đức hạnh, không có việc xấu gì mà không làm. Họ lợi dụng thánh đức của Phật để mưu cầu danh lợi; thậm chí họ còn dám làm cái hành động tệ hại nhất là đem Phật mà buôn bán. 

Đối với hạng tì kheo này, tôn giả Phú Lâu Na vẫn thường hay dùng lời ngay thẳng để khuyên bảo:

- Thưa chư huynh đệ! Chúng ta không thể nào làm các hành động đi ngược lại với lời dạy của đức Thế Tôn. 
Chúng ta không thể khuyên mọi người bố thí trong khi chính chúng ta lại ham thích và cất giữ tiền bạc cho riêng mình.

 Không thể nào, trong khi bảo cho mọi người biết cái hại của năm dục đối với thân tâm họ thì chính chúng ta lại vui thú và tự trói buộc mình trong ao tù năm dục. 

Chúng ta rất may mắn có được đức Thế Tôn làm thầy, thì phải thấy rằng, đó là duyên lành ngàn đời khó gặp. 

Cho nên bất cứ việc làm nào của chúng ta cũng không được trái nghịch với giáo chế của đức Thế Tôn, không được để phạm vào các giới điều, qui củ của đức Thế Tôn. 

Điều tối kị là chúng ta không bao giờ làm cho mọi người mất lòng tin nơi Phật pháp. Sở dĩ chúng ta được xuất gia học đạo là vì đức Thế Tôn từ bi, muốn cho chúng ta có cơ hội để sám hối diệt tội. 

Vậy, nếu chúng ta không chịu nương theo giáo pháp để lấy lại ánh sáng, không yêu mến tăng đoàn, không nhiệt tâm với việc hoằng pháp lợi sinh, thì dù đức Thế Tôn có vì lòng từ bi mà thu nhận chúng ta trong lúc này, rồi thì trong tương lai chúng ta cũng đem lại cho chính mình được gì tốt đẹp. 

Đức Thế Tôn thường dạy, con người đừng sợ tội lỗi; có lỗi mà biết sửa lỗi thì tức khắc trở thành người trong sạch. Dù là một người thật tầm thuờng trong tăng chúng, điều đó cũng không lấy gì làm quan hệ; nhưng nếu là một kẻ chỉ biết tự tư tự lợi, hành động không cần biết tới đại chúng, không đếm xỉa gì đến lời dạy của đức Thế Tôn thì nguy hiểm vô cùng. Vì đồng với chư huynh đệ cùng thờ một Thầy, cùng học một Thầy, mà tôi xin chân thành thưa những điều trên cùng chư huynh đệ. 

Dù chư huynh đệ có đánh mắng tôi thì cũng không quan hệ gì, chỉ cần làm sao cho Phật pháp được hưng thịnh, cho chúng sinh được lợi lạc. 

Tôi mong mỏi từ nay chư huynh đệ sẽ phát tâm tu học chân thành, luôn luôn y theo giáo huấn của đức Thế Tôn mà thực hành.

Phật biết rõ Phú Lâu Na là người như vậy, cho nên cũng thường khen ngợi, trong tăng đoàn, tôn giả là người biết khuyên bảo và khai hóa.



要將佛法遍人間

  富樓那做事很沈著,很穩重,僧團中的人和事,他都是經過再三的考慮才肯表示意見。唯對於弘法佈教,則永遠是那麼熱情,只要有機會播撒菩提種子,從不計較個人的利害得失,永遠是那麼精進向前。

  佛陀的弟子中,能夠幫助佛陀說法度生的弟子很多,但自己無所求,而又不怕魔難,不怕挫折,始終在社會人群中施教的,卻很少有人能和富樓那相比。有些比丘,雖然跟隨佛陀學得滿腹經綸,但對眾生的悲心熱情不夠,把別人的生死痛苦置之度外,只求做個自了漢。更有些比丘,對弘法利生的事業不熱心,但向社會攀緣,不以道處而以情交。富樓那對他們很不表贊同。

  有一天,富樓那尊者在行化的途中,經過憍薩彌羅國的山林,山林裏有幾位很有道行的比丘在此隱居修行,富樓那見到他們時,很恭敬的問訊道:

  「諸位大德!我早就聽說你們在此隱居修道,我對你們不隨俗沉浮的清高人格,非常敬仰。但各位是奉佛陀的慈命往各方教化的使者,為什麼不到社會人群中去普渡眾生呢?」

  這幾位比丘一見是富樓那,很歡喜的起來讓坐,並且答道:

  「尊者!我們也曾到各處去佈教,但是,眾生太難度化了,佛陀要我們把甘露法水施予他們,他們還以為是臭不可聞的東西。他們愚癡剛強,頑固執著,沉迷在五欲之中,殺生祀神求福,其實是造作惡道之因。就是我們伸出慈悲援救之手,他們也是不肯回首一顧。尊者!真理大道,不是人人能走,淨土的世界,不是人人能去,就由他們去吧,他們的苦受夠了,因緣成熟時,自然會回頭。」

  富樓那聽了這幾位比丘的話,知道他們弘法佈教時,遭到挫折,遇到魔難,所以對眾生心灰意冷,鼓不起佈教的熱情。富樓那就說道:

  「你們修道的認真,我非常佩服,但你們弘法度生的觀念,我卻不以為然。佛法易弘,眾生易度,便不需要我們來從事這項工作;正因為五濁惡世,弘法度生是艱難困苦之事,為了報答佛陀的恩惠,我們應一刻不懈怠的去從事這項神聖的工作。」

  「弘法是家務,利生為事業,我們出家的佛弟子,不可以把僧團看作避難所,或是養老院,以為出家做比丘,只要解決生活的問題,世間的一切就可以不去管了;佛法未弘,眾生未度,以為與自己無關,這是違背佛陀的教示;佛陀的慈心悲願,一定不喜歡大家這樣的作風。

  「眾生不易接受佛法,因為眾生太貧窮了,貧窮得像討錢的乞丐一樣,你把萬貫的佛法家財布施給一無所有的窮漢,他對你的好意怎會不懷疑呢?他對你的財寶怎會敢大膽的接受呢?

  「懷著無限的悲心,帶著飽滿的熱情,要在眾生的身上,莊嚴自己的淨土,把法樂歡喜布滿人間,把佛陀的光明、智慧、慈悲、威德,分給一切眾生共享,這是我們出家弟子的責任,不容我們閃避,不許我們推諉。

  「諸位!跋蹉國的佛法尚未興隆,我和你們大家就到那邊去弘化吧!」

  這幾位比丘聽了以後,深深為富樓那說法的真情感動,他們都願隨著富樓那往跋蹉國弘化。

  對一些懈怠、貪圖安逸的比丘,富樓那常常勸他們要振作起來,要把佛法布滿人間。因此佛陀在大眾中,常常稱讚富樓那是比丘中的鼓舞者、激勵者!

6.- MUỐN CHO PHẬT PHÁP ĐƯỢC TRUYỀN BÁ KHẮP NHÂN GIAN:



Phú Lâu Na là người thâm trầm, thường ngày làm việc gì cũng rất cẩn trọng. Đối với người nào hay việc gì xảy ra trong tăng đoàn, tôn giả đều đắn đo, suy nghĩ chín chắn nhiều lần mới dám bày tỏ ý kiến. Chỉ riêng đối với công việc hoằng pháp thì rất mau mắn, nhiệt tình. Bất cứ có được cơ hội nào để gieo rắc hột giống bồ đề là nhất định tiến tới, không cần biết đến đắc thất hay lợi hại cho cá nhân mình.

Trong tăng đoàn, số người phụ giúp Phật công việc hoàng pháp độ sinh cũng nhiều, nhưng kể số người chịu khó lặn lội trong nhân quần xã hội để bố giáo mà không mong cầu lợi dưỡng, không sợ ma nạn, không sợ khó khăn khổ nhọc, thì ít ai sánh được với Phú Lâu Na. 

Có một số quí vị, tuy theo Phật học kinh luận đầy bụng, nhưng đối với chúng sinh thì không đủ từ tâm và nhiệt tình. Họ không quan tâm đến nỗi khổ sinh tử của người đời, mà cứ tự giam mình trong tháp ngà tự mãn. 

Lại có một số quí vị khác, đã không nhiệt tâm đối với sự nghiệp độ sinh mà lại còn để bị vướng xã hội bằng những giao tình trái đạo. Đối với cả hai hạng người này, tôn giả không bao giờ làm ngơ.

Một hôm trên đường hành hóa, khi đi ngang qua một khu rừng tịch mịch, tôn giả trông thấy một số vị tì kheo đang ẩn cư tu hành ở trong đó. Tôn giả đến trước họ, cung kính chắp tay:

- Thưa chư vị đại đức! Đã lâu tôi được biết chư vị ẩn cư trong chốn núi rừng, không để cho mình bị chìm nổi theo theo thế tục. Nhân cách của chư vị thật thanh cao, tôi rất lấy làm kính ngưỡng, nhưng tôi cũng được biết rằng, chư vị còn là những sứ giả, vâng theo từ mệnh của đức Phật để đi giáo hóa mọi nơi, tại sao chư vị không đến với nhân quần xã hội để cứu độ chúng sinh?

Các vị tì kheo ấy vừa thấy thì biết ngay đó là Phú Lâu Na. Họ rất vui mừng, liền mời ngồi, rồi đáp lại:

- Thưa đại đức! Chúng tôi cũng đã từng đi bố giáo các nơi, nhưng chúng sinh thật là khó hóa độ. Đức Thế Tôn bảo chúng ta đem pháp vị cam lộ ban phát cho người đời, nhưng họ lại cho đó là gì dơ bẩn không thể nếm được.

 Họ ngu si, ương ngạnh, cố chấp, và chỉ lo mê đắm trong biển dục vọng. 

Họ chỉ biết sát sinh để cúng tế quỉ thần cầu phước mà không biết rằng họ đang tạo ra những nghiệp nhân cho ác đạo. 

Chúng ta cố đưa cánh tay từ bi ra để cứu vớt, nhưng họ nhất định không chịu ngoảnh đầu ngó lại. 

Thưa đại đức, không phải ai ai cũng có thể nhất thời đi được trên con đường rộng lớn của chân lí.

 Hãy cứ để họ đi theo con đường của họ. Một khi họ đã gánh chịu các đầy đủ các quả báo đau khổ, và khi nào nhân duyên đã chín mùi thì tự nhiên là họ sẽ biết quay đầu trở về.


Nghe qua các lời ấy, tôn giả hiểu rằng quí vị tì kheo này cũng đã từng gặp rất nhiều trở lực, khó khăn trên bước đường hoằng hóa, khiến cho nhiệt tâm của họ đã trở nên nguội lạnh. Tuy nhiên, tôn giả vẫn cố gắng thuyết phục và cổ lệ họ:

- Thưa chư vị huynh đệ! Sự nhận thức của chư vị về con đường tu tập rất chính đáng, tôi rất cảm phục! Nhưng ý kiến của chư vị về việc hoằng pháp độ sinh thì tôi thấy không được đúng lắm. 

Nếu Phật pháp dễ hoằng dương và chúng sinh dễ hóa độ thì đâu cần có sự góp sức của chúng ta trong công tác ấy. 

Chính vì cuộc đời đầy dẫy những xấu xá dơ bẩn, và việc hoằng pháp độ sinh thì vô vàn khó khăn, vả lại, cũng để báo đáp ân đức sâu dầy của đức Thế Tôn, mà chúng ta phải nên dũng mãnh, tinh tấn để thực hiện công tác to lớn và quan trọng này. 

Là những đệ tử xuất gia của đức Thế Tôn, chúng ta phải lấy việc hoằng pháp làm việc nhà, lấy việc lợi sinh làm sự nghiệp, chứ không nên coi tăng đoàn là nơi lánh nạn hay viện dưỡng lão; lại cũng không nên quan niệm rằng, đã xuất gia làm tì kheo thi chỉ lo giải quyết những sinh hoạt của riêng mình, còn tất cả việc gì của người đời đều bỏ mặc, không cần phải để tâm tới. 

Nếu không hoằng dương Phật pháp, nếu không hóa độ chúng sinh, và cho rằng những công việc ấy không ích lợi gì cho mình, đó là đi ngược lại những giáo huấn của đức Thế Tôn. 

Với tâm nguyện từ bi, đức Thế Tôn sẽ không bằng lòng khi biết được chư vị có quan niệm như vậy. Một người rất nghèo khổ, đến nỗi chỉ dám xin một xu, một cắc để sống qua ngày, mà chư vị bỗng đem đem gia tài cả vạn đồng để cho, thì người ấy có nghi ngờ cái ý tốt của chư vị hay không? 

Cũng như vậy, sở dĩ người đời không tiếp nhận được Phật pháp là vì họ quá nghèo thiếu mà bỗng dưng chư vị đem cho họ một gia tài Phật pháp đồ sộ, thì làm sao họ có khả năng tiếp nhận! 

Thưa chư vị huynh đệ! Chúng ta đang ôm ấp một tình thương vô hạn, một nhiệt tình sung mãn, thì hãy đem niềm vui chánh pháp trải khắp nhân gian; hãy đem ánh sáng trí tuệ, tình thương và oai đức của đức Thế Tôn chia khắp cho người cùng hưởng thọ, khiến cho tự thân họ dần dần trở thành nơi tịnh độ trang nghiêm.

 Đó là trách nhiệm của kẻ xuất gia, không thể trốn tránh, không thể từ chối.

 Vậy giờ đây, Phật pháp ở nước Bạt Sa (Vatsa - Vamsa) vẫn chưa được hưng thịnh, xin chư huynh đệ hãy cùng với tôi đến đó để hoằng hóa.

Chân tình và nhiệt tâm của tôn giả đã làm cho quí vị tì kheo ẩn cư kia vô cùng xúc động.

 Họ đã hoan hỉ và hăng hái cùng tôn giả lên đường về vương quốc Bạt Sa ...


弘化的態度


  富樓那一缽千家飯,各方弘化,千山萬水,萬水千山,像詩一樣的生活,像畫一般的人生,數不盡千千萬萬的人民,因為有富樓那的宣揚,而認識了佛陀,而接觸到佛陀的真理慈愛。

  富樓那的生活,時而摩揭陀國,時而憍薩彌羅國:今天在毘舍離城弘化,明天又到迦尸城說法。被他感動而信仰佛陀、皈依佛陀的人數之多,在僧團中無人能和他相比。再頑固剛強的眾生,聽到他的教化,也都會息下狂馬似的心而接受佛法的淨化。他究竟有什麼力量?大家都不明白。有一天,有幾位比丘和富樓那閒談時,就問道:

  「尊者!你佈教的時候,即使在荒涼的草原之上,只要你一說法,那地方就好像成為莊嚴的聖地;再多的聽眾,你的法音一起,他們就會安靜、平和、誠懇。除佛陀以外,沒有人能像你佈教說法如此成功。你怎麼會有這樣的威德之力?」

  富樓那謙虛誠實的回答道:

  「我不知道我有什麼力量,我唯一知道的就是老師佛陀。我沒有一次不在佈教前,默默的向佛陀祈禱,我祈禱佛陀慈光庇佑我,讓我能為佛陀完成淨化人間的事業。我不要人知道富樓那,我希望人人都知道大覺者的佛陀。區區之我,哪有什麼使人感動的力量?使人感動的是佛陀,是佛陀的真理教示。」
  光榮歸於佛陀,富樓那的真實之言,諸比丘聽了,沒有一個不點頭佩服,他們又都問道:

  「尊者!你佈教弘化的生活太辛苦了,你既不肯休息,又不肯吃好一點的食物來調養身體,你除說法外,還要經行、靜坐,如此辛苦,身體怎麼支持得住?」

  「謝謝你們對我的關懷,」富樓那把頭稍為點了一下,溫和的說道:「我們生活在佛陀的法海中,這一點修行就說辛苦,那佛陀久遠劫來的修行、度生,日食一麻一麥,布施頭目腦髓,不知該如何來形容?」

  「我對眾生說法的日子久了以後,我就回到佛陀的座前,聆聽佛陀的教示,佛陀的甘露法水,是我滋長慧命最好的養分。我在各地行腳雲遊,一草一木,都像是朝我微笑;一山一水,都像是給我安慰。佛陀之光庇佑著我的身體,莊嚴的佛陀活在我的心中,我不知道什麼辛苦。諸位!當我見到千萬的人歸向佛陀,向佛陀合掌,向佛陀跪拜,我往往會感動得流下歡喜的眼淚,我也向佛陀合掌,向佛陀頂禮,我祈禱佛陀攝受他們,給他們信心,給他們力量!」

  諸比丘聽了富樓那的話,對他更由衷的生起敬仰之心,大家都自然的對他合掌問訊,讚歎尊者富樓那。


  佛陀解釋道:
  「富樓那!輸盧那國是一個偏僻的小國,因為交通不便,文化不發達,民性非常暴戾,打罵成為風俗,外國去的人,很容易喪失生命,你現在要去那樣的地方佈教,難道不怕危險嗎?」

  佛陀這麼一說,富樓那反而微笑著,更堅決有力的表明他的志願:

  「佛陀!您的慈悲愛護,我難以用言語來表達感激。不過為了感激佛陀的恩惠,才更歡喜願意把區區個人的一切奉獻給佛陀,奉獻給正法和一切眾生。正因為輸盧那國是一個邊地野蠻國家,沒有人發心前去教化他們,所以才覺得非到那邊傳教不可。到那邊去,危險隨時會加之於我,但為了正法的宣揚,我個人的安危,實在沒有顧慮的必要。懇求佛陀慈悲允許,讓佛陀之光庇護我,准我前去開闢人間的淨土吧!」

  佛陀的容顏放射出慈祥之光,佛陀很高興富樓那為法忘軀的精神。但佛陀看到左右的弟子很多,大家都應該要具備佈教家的精神,所以又親切的問道:

  「富樓那!你說得不錯!做佛陀的比丘弟子,佈教是最重要的修行之一,不過我要問你,你到輸盧那國佈教,假若他們不肯接受你的說教,反而破口大罵,你該怎麼辦呢?」

  「佛陀!他們罵我,我覺得他們很好,因為畢竟他們不完全是野蠻人,只是罵,不曾用棍棒打我!」富樓那沒有考慮,恭敬的回答。
  「假若他們用拳頭、瓦石、棍棒打你呢?」

  「我仍然覺得他們很好,」富樓那回答:「因為他們只是用拳頭、瓦石、棍棒打,還沒有用刀杖刺傷我。」
  「假若他們用刀杖刺傷你呢?」

  「我還是覺得他們很好,因為他們還有人性,並沒有殘酷的把我打死。」

  「假若他們把你打死呢?」

  「那就更要感激他們了,他們殺害我的色身,幫助我的道業,幫助我進入涅槃,幫助我以身體生命報答佛陀的恩惠,這對我雖無大妨礙,遺憾的是對他們並沒有好處。」

  佛陀大喜,稱讚道:
  「富樓那!你不愧是我的真弟子,修道、佈教、學忍辱,你的心境都能平靜不起波瀾,我們歡送你啟程!」

  富樓那得到佛陀的鼓勵,非常感動,加強了他對佈教不退轉的決心,他頂禮佛陀以後,在比丘們歡呼送別聲中前往輸盧那國。

7.- THÁI ĐỘ TRONG KHI HÀNH HÓA:


Với một chiếc bình bát, Phú Lâu Na đã vân du cùng khắp đó đây, vừa xin ăn vừa hành đạo, trải qua thiên sơn vạn thủy, chẳng khác nào cuộc sống của một thi nhân hay một họa sĩ. 

Khi thì ở vương quốc Ma Kiệt Đà (Magadha), lúc thì ở vương quốc Kiều tát La (Kosala); hôm nay thì ở thành Tì Xá Li (Vesali), ngày mai lại đến thành Ca Thi (Kasi),... 

Số người được tôn giả cảm hóa, dẫn dắt về với Phật pháp thật vô cùng đông đảo, không thể nào đếm hết được. Trong tăng đoàn thật khó có ai có thể so sánh được với tôn giả về phương diện này. 

Ngay cả đến những nguyên nhân dù có ương ngạnh, cố chấp đến đâu, mà hễ được tôn giả lân mẫn giáo hóa thì tâm ý cũng trở nên thuần thục và hân hoan tiếp nhận Phật pháp. 

Do những biệt tài mà tôn giả được thành công như vậy? Nhiều vị trong đại chúng rất muốn học hỏi, vì vậy, một hôm nhân lúc nhàn đàm, một vị đã hỏi tôn giả:

- Thưa sư huynh! Trên bước đường hành hóa của sư huynh, dù là nơi thảo nguyên thôn dã, mà khi sư huynh đã đặt chân tới thì nơi đó cũng trở thành thánh địa trang nghiêm; tất cả mọi người, hễ ai nghe được pháp âm của sư huynh thì đều có được sự tĩnh lặng, an lạc. 
Dự thành công này trong công cuộc hoằng pháp, ngoài đức Thế Tôn ra thì trong đại chúng khó ai có thể so sánh bằng sư huynh được. Vậy làm cách nào mà sư huynh có được cái oai đức như thế?

Một cách khiêm cung, tôn giả trả lời:

- Thật ra thì tôi không biết là tôi có được những oai đức gì, chỉ có một điều là lúc nào tôi cũng nghĩ nhớ đến đức Thế Tôn. Lúc nào cũng vậy, trước khi đi hành hóa tôi đều không quên âm thầm cầu xin đức Thế Tôn hộ trì, giúp cho tôi hoàn thành sự nghiệp hóa độ, làm cho mọi người đều được an lạc, giải thoát. 
Tôi không cần người ta biết đến Phú Lâu Na mà chỉ mong mỏi ai ai cũng biết đến bậc Đạo Sư toàn giác của chúng ta. Cho nên, những gì đã cảm hóa được người đời, đó chính là đức Phật của chúng ta cùng với giáo pháp giác ngộ của Người, chứ cá nhân tôi thì đâu có xứng đáng gì mà đề cập tới!

Tất cả vinh quang, Phú Lâu Na đều đem qui về cho đức Phật. Quí vị tì kheo hiện diện đều cúi đầu kính phục. Rồi họ nói tiếp với vẻ lo lắng:

- Chúng tôi thấy sư huynh sống quá kham khổ ! Sư huynh đã làm việc không hề nghỉ ngơi, ngoài việc thuyết pháp độ sinh còn phải kinh hành, thiền tọa; vậy mà sư huynh không chịu dùng những thức ăn uống bổ dưỡng cho thân thể thì làm sao có đủ sức khỏe để hành đạo!


Tuy rất cảm động trước chân tình của các bạn đồng tu, Phú Lâu Na vẫn đáp lại một cách khẳng khái:

- Tôi xin cảm tạ sự quan tâm của chư vị huynh đệ. Chúng ta đang sống trong biển giáo pháp của đức Phật, một chút công hạnh như vậy đâu có đáng gì để gọi là tân khổ. Đức Thế Tôn của chúng ta đã từng trải qua bao kiếp tu hành, độ sinh, có khi một ngày chỉ ăn có một hột mè hoặc một hột lúa, có khi đem bố thí đầu, mắt, hoặc cả thân mạng, thì cái tân khổ ấy còn có thể hình dung được chăng! 

Cứ sau mỗi lần đi hành hoá, tôi lại trở về để được ngồi trước mặt Người, được nghe những lời dạy bảo của Người, và chính cái pháp vị cam lồ ấy là món bổ dưỡng tốt nhất, quí nhất cho huệ mạng của tôi. 
Ở những nơi tôi hành cưóc vân du, tất cả cỏ cây sông núi đều đón chào, mỉm cười và khích lệ tôi; ánh sáng trí tuệ của đức Thế Tôn lúc nào cũng bảo vệ thân thể tôi; tâm của Người luôn luôn sống động trong tâm tôi.
 Vì vậy mà không bao giờ tôi cảm thấy bị khổ cực. 

Thưa chư huynh đệ, cứ mỗi lần tôi trông thấy hành ngàn, hàng vạn người quay về trước đức Thế Tôn chắp tay đảnh lễ, là tôi vô cùng vui mừng, xúc động. 
Tôi cũng hướng về Người, chắp tay đảnh lễ để xin Người thu nhận họ, khơi dậy trong họ niềm tin chánh pháp, và gây cho họ sức mạnh vượt tiến trên đường tu học.

Lòng chân thành của tôn giả Phú Lâu Na lại càng làm cho những người bạn tu vô cùng kính phục. Họ đều chắp tay cúi đầu tán thán công đức của tôn giả.











到處是家鄉

  富樓那弘法行腳的生活,像浮萍似的在人海中飄遊,他沒有一定的住處。白天,在大街、小巷、廣場,隨緣弘化;晚上在山間、林中,或是水邊獨自靜坐。

  像行雲,像流水,富樓那到處為家。有時,為了使佛法常住,他也發動建立精舍講堂,但精舍講堂的建成,他從沒有看作是自己私有的財產。有德者居之,每當精舍完成時,富樓那又行化到他方。

  富樓那不私蓄金銀,他除了三衣、缽、具以外,身邊沒有別的東西,我們不要看表面,不要看物質,除了物質表面以外,富樓那有的是無量的功德智慧法財。不知有多少眾生,因得到他的法財而豐富了人生,成就了生命永恆的事業。

  富樓那對於衣食從未掛心和計較,三衣是染色的;托缽行化,則不分貧富,不擇好壞,只要肚子填飽就好。他沒有想到要吃什麼補品,他認為最好的補品就是佛陀的甘露真言。

  有一天,富樓那在拘利城行腳的時候,路上遇到一位俗家的鄉親,這位鄉親向他問訊作禮後說道:

  「尊者!我聽說您每日雲遊行腳,到處奔波,不知您忙些什麼?自您出家以後,我從來沒有見您回鄉探親,大家都很掛念。您出外這麼多年,田園村莊、家財一樣都沒有,為什麼會這麼貧困?您什麼時候可以回去呢?」

   富樓那很有禮貌的回答道:

  「謝謝你,今天遇到你真高興。你問我每天忙些什麼,我每天都忙著度眾生離苦得樂的事。這個世間到處都是我的故鄉,到處都有我的親人。現在我是大聖佛陀的弟子,變幻的田園村莊,無常的家庭財寶,我不願做它們的奴隸,不願被這些不實的東西束縛。我喜歡到處行腳,到處弘法,做真理的使者,為眾生鋪往正覺的道路。請你回去為我謝謝大家的掛念,富樓那也應該為他們服務的,是回去的時候就會回去。」

  「尊者!一別多年,想不到跟佛陀出家後,您竟有這麼積極的精神和充沛的熱情,您完全忘了自己,只為大眾的利益,我深感佩服!您回鄉的時候,我一定盛大歡迎,歡迎您把佛光帶到我們的家鄉去。」

  「謝謝你,我一定如你們的願望!」

  富樓那說後,又趕忙到各地播撒菩提種子了。


(http://t1.gstatic.com/images?q=tbn:ANd9GcQhirAR57cT1Q5f32_Vmf2-aLN9TLoRXwXDWtbVgjpgzmD59MbjVw)

8.- ĐÂU CŨNG LÀ NHÀ:

Trên đường hành hóa, tôn giả Phú Lâu Na đã chu du khắp chốn nhân gian, sống cuộc đời như cánh bèo trôi nổi, không bao giờ có nơi cư trú nhất định.

 Ban ngày thì hoặc ở trên đại lộ, hoặc nơi ngõ hẻm, hay chốn công viên, tùy duyên hóa độ; đêm đến thì hoặc ở sườn núi, hoặc trong rừng cây, hay bên bờ sông, tĩnh tọa một mình; bước chân vô định như nước chảy mây trôi, dừng lại ở đâu thì ở đó là nhà. 

Cũng có lúc, vì lợi ích của việc tu học, tôn giả cũng vận động xây cất giảng đường, tịnh xá, nhưng khi giảng đường, tịnh xá hoàn thành thì tôn giả mời chư tăng đến cư trú hành đạo, còn mình thì lại ra đi, tiếp tục con đường vô định.

Tôn giả không bao giờ cất giữ tiền bạc cho riêng mình. Ngoại trừ ba chiếc áo, một bình bát và một tọa cụ, tôn giả không còn mang theo mình một thứ gì khác. Tôn giả cũng không bao giờ bận tâm tính toán trong vấn đề áo cơm.

 Mang bình bát đi xin ăn, tôn giả không phân biệt các thí chủ giàu nghèo, tốt xấu; không khen chê thức ăn ngon dở, bổ dưỡng hay không bổ dưỡng, vì đối với tôn giả, chỉ có pháp vị cam lồ của Phật mớí là món bổ dưỡng hạng nhất trên đời.

Một hôm đang hành hóa tại thành Câu Li (Koliya), tôn giả tình cờ gặp lại một người bạn cũ trước ở cùng quê. Sau khi chào mừng thăm hỏi, người bạn nói:

- Thưa đại đức! Tôi nghe nói mỗi ngày đại đức đều bôn ba đó đây để hành hóa. Không biết đại đức bận rộn những gì dữ vậy! Từ ngày đại đức đi xuất gia đến nay, chưa từng lần nào đại đức trở về thăm quê cũ, bà con họ hàng ai cũng mong nhớ, Đại đức ra đi đã lâu năm, ruộng vườn, nhà cửa, gia sản đều không có, sao mà nghèo khổ đến thế này! Bao giờ thì đại đức trở về thăm nhà?

Phú Lâu Na trả lời:

- Thưa thí chủ! Được gặp lại thí chủ hôm nay, tôi thật vui mừng vô hạn. Tôi quả là rất bận rộn, vì luôn luôn phải lo làm sao cho mọi người đều xa lìa được đau khổ và đạt được an vui, hạnh phúc. 

Tôi bây giờ đã là đệ tử của Phật, tới đâu cũng là gia hương, với ai cũng là người thân thuộc.

 Tôi không còn phải tự trói buộc mình trong những ruộng vường và gia sản riêng tư; những thứ đó vốn dĩ là vô thường, huyễn hóa. 

Tôi rất vui được đi khắp đó đây để hoằng pháp. 

Tôi là sứ giả của chân lí, và đang đắp đường cho chúng sinh đi đến nơi giác ngộ. 

Tôi xin cám ơn thí chủ và xin nhờ thí chủ khi nào về quê thì nói hộ rằng, tôi xin cám ơn tất cả mọi người đã hằng mong nhớ đến tôi.

 Rồi tôi cũng phải trở về một lần để thăm nom và giúp ích họ.

Vậy đến lúc nào có thể trở về thì Phú Lâu Na này sẽ tức khắc trở về.

- Thưa đại đức! Mới đó mà cách xa nhau đã nhiều năm! Tôi không ngờ là sau khi theo Phật xuất gia, tinh thần của đại đức lại phấn chấn, tích cực đến thế! Đại đức luôn luôn chỉ vì mọi người mà không nghĩ gì đến bản thân mình. Tôi vô cùng kính phục. Sau này, lúc nào đại đức trở về thăm quê cũ thì nhất định chúng tôi sẽ nghênh đón long trọng, vì lúc đó đại đức sẽ đem ánh sáng Phật pháp về làm lợi ích cho dân làng chúng tôi.

- Một lần nữa xin cám ơn thí chủ. Nhất định tôi sẽ về đúng như nguyện vọng của thí chủ.

Giã biệt người bạn đồng hương, tôn giả lại tiếp tục lên đường hành hóa.


佈教的方法

  說法第一的富樓那,是一位偉大的佈教家,佛陀對眾生施教的方法,他都能善於運用。

  「方便說法」、「應病與藥」、「觀機逗教」、「事理圓融」,可以說,富樓那已得到佛陀說法佈教的三昧了。

  富樓那知道,所謂說法佈教,完全是為了眾生而非為了自己,說法是說給眾生聽的,不是說給自己聽的。高深玄妙的道理,除了少數上根的人,能透徹體悟;大眾之前,富樓那總是說人能接受的道理。

  對不同的人,觀機說法,是富樓那的特長。他見到醫生的時候,就會對醫生說道:

  「醫生可以替人醫治身體上的病痛,但心裏的貪瞋癡大病你們有辦法醫治嗎?」

  「尊者!醫生只能醫頭痛、肚痛、腳痛等身體上的疾病,心裏的大病沒有辦法,您有辦法嗎?」

  「有!」富樓那肯定的答道:「大聖佛陀的教法,如同甘露法水,可洗清眾生心垢,戒定慧三學,如萬靈丹,可以醫好貪瞋癡的心病。」
  見到官吏的時候,富樓那會這樣問:

  「你們做官的人,可以治犯罪的人,但有辦法治人不犯罪嗎?」

  「雖然有國法,但國法也不能使人不犯罪。」官吏們回答。

  「除國法以外,你們和一切人民,都應該奉行佛法。大家若能信受奉行五戒十善的道理,因果輪迴的法則,這個世界就不會犯罪。」
  富樓那因為懂得善巧說法,無論是醫生、官吏,沒有不因此而皈依三寶,信仰佛教。

  有一次,富樓那經過一個村莊,他對田裏工作的農夫說:「你們耕水田、種糧食可以資養色身,我教你們耕福田資養慧命的方法好嗎?」
  「耕福田養慧命是用什麼方法呢?」農人們問。

  「信仰佛教,奉事三寶,對於沙門要恭敬,對於病人要看護,慈善公益的事業要熱心,堂上雙親要孝順,對於鄉鄰要隱惡揚善,不要亂殺生靈,這都是耕種福田最好的方法。」

  眾農人合掌問訊,大家都願意接受富樓那的教示。

  富樓那沒有固定的住處,佈教也沒有固定的方法,有時在露天公開演說,有時到家中個別訪問,有時候唱歌讚美佛陀,有時示現神通啟發人的信仰,就因為如此,佛陀的教法很容易讓眾生接受。

9.- PHƯƠNG PHÁP GIÁO HÓA:


Phú Lâu Na quả thật là một vị có biệt tài nói pháp không ai bằng. Bao nhiêu phương pháp giáo hóa mà đức Phật từng dùng để độ sinh như dùng phương tiện để nói pháp, tùy bệnh cho thuốc, xét rõ căn cơ để dạy bảo v.v... tôn giả đều sử dụng được đến độ tuyệt hảo. 

Tôn giả lúc nào cũng tự bảo, nói pháp là vì chúng sinh và cho chúng sinh, chứ không phải là vì mình và cho chính mình. Những đạo lí cao sâu huyền diệu thì chỉ dành cho một số ít người thượng căn thông tuệ; còn đối với đa số quần chúng thì tôn giả chỉ dùng những giáo pháp dễ học, dễ hành trì, để cho ai ai cũng có thể tiếp nhận và hành trì được. Có thể nói, dùng các giáo pháp khác nhau để giáo hóa cho mỗi hạng người khác nhau, là sở trường của tôn giả Phú Lâu Na.

Có lần, đứng trước một số thính chúng gồm toàn các vị y sĩ, tôn giả hỏi họ:

- Thưa quí vị! Quí vị có thể chữa trị những cơn đau nhức, bệnh tật cho người đời, nhưng đối với những chứng bệnh nan y về tâm lí như bệnh tham lam, bệnh giận dữ, bệnh ngu si v.v... thì quí vị có cách trị liệu nào không?

- Thưa đại đức! Những người thầy thuốc như chúng tôi có thể chữa trị những chứng bệnh của cơ thể như nhức đầu, đau bụng v.v... còn những bệnh về tâm lí như tôn giả vừa nói thì chúng tôi không có cách gì trị được. Vậy đại đức có thể trị được không?

- Được! Giáo pháp của Phật như nước cam lồ, có thể rửa sạch mọi thứ dơ bẩn chứa trong lòng người. Ba phép học là giới, định, và tuệ cũng giống như “vạn linh đơn”, có thể chữa lành các tâm bệnh tham sân si của chúng sinh.

Có khi đối trước các vị quan lại, tôn giả hỏi:

- Với trách nhiệm và quyền hạn của một quan chức, quí vị có thể trị tội những người phạm tội, nhưng quí vị có biện pháp gì để làm cho người ta đừng phạm tội chăng?

- Thưa đại đức! Tuy rằng đã có quốc pháp, nhưng quốc pháp đó cũng không thể làm cho người ta đừng phạm tội.

- Thưa quí vị! Ngoài quốc pháp ra, quí vị và toàn thể nhân dân nên hành trì giáo pháp của Phật. Nếu ai ai cũng tin nhận và hành trì theo Năm điều răn cấm và Mười điều lành thì nhất định sẽ không có ai còn phạm tội.
Một hôm, nhân đi ngang qua một làng nọ, Phú Lâu Na dừng lại bên bờ ruộng để giáo hóa những nông phu đang làm ruộng. Tôn giả khai thị:

- Thưa quí vị! Quí vị cày ruộng, trồng lúa, tạo lương thực để nuôi dưỡng thân thể, đó là công việc vô cùng hữu ích cho mọi người. Nhưng hôm nay tôi xin mách thêm cho quí vị một phương pháp làm ruộng phước để nuôi dưỡng huệ mạng của quí vị. Quí vị có muốn biết không?

- Làm ruộng phước để nuôi dưỡng huệ mạng là cái gì, xin đại đức chỉ dạy cho! Chúng tôi đang muốn nghe.
- Quí vị hãy tin nhận giáo pháp của Phật, hãy phụng sự Tam Bảo. Đối với quí vị sa môn, hãy hết lòng cung kính. Đối với các người bệnh hoạn, nên tận tâm săn sóc. Đối với các việc công ích từ thiện, nên nhiệt tình ủng hộ. Đối với cha mẹ, phải giữ trọn niềm hiếu thuận. Đối với người trong làng xóm, nên nêu cao những điều tốt mà bỏ đi những điều xấu. Không nên giết hại các loài vật một cách bừa bãi. Đó là những cách thức làm ruộng phước tốt nhất để nuôi dưỡng huệ mạng của quí vị.

Nhờ những phương pháp giáo hóa khéo léo như vậy mà rất nhiều hạng người khác nhau trong xã hội đã có được cơ hội để qui y Tam Bảo, hành trì Phật pháp, mà các giới y sĩ, quan lại và nông dân vừa nêu trên là những ví dụ điển hình.

Tôn giả không có trú xứ cố định, cũng không có phương pháp giáo hóa nào nhất định.

Có lúc thì nói pháp ngay ở nơi lộ thiên công cộng; có lúc thì chỉ dạy riêng cho một gia đình. Khi thì dùng lời lẽ tốt đẹp để ca ngợi đức Phật; khi thì thi triển thần lực để khơi dậy lòng tin nơi người đời. Nhờ vậy, giáo pháp của đức Phật đã dễ dàng được người đời tiếp nhận, hành trì.

為頻婆娑羅王說法

  富樓那也會運用神通,在頻婆娑羅王被他兒子囚在獄中的時候,富樓那和目犍連就曾奉佛陀的慈命,從空中飛進獄中,為王說法並授八戒。

  頻婆娑羅王是摩揭陀國的國王,在印度諸王中,是第一個皈依佛陀的,後來提婆達多挑撥他的太子阿闍世,把他囚在獄中,不給他飲食,想把他餓死,阿闍世就可以繼承王位。
  頻婆娑羅王被囚在獄中,阿闍世不准人送飲食給他,他雖然養了如此忤逆的兒子,但他並不怨恨,心中總是安慰自己,這是過去的因緣。

  他越是受到艱危困苦,就越想到佛陀說過的話:天地、日月、須彌、大海,沒有不變易的時候,有成必有壞,有盛必有衰,有合必有離,有生必有死,有樂必有苦,有喜必有憂。

  世間上沒有永久不變的快樂,唯有苦才是綿綿無盡期。
  頻婆娑羅王雖是這麼想,但他並不能完全放下,對於未來的生命,感到憂心。

  富樓那和目犍連從空中飛進層層封鎖的牢獄,陰森森的,黑黝黝的,裏面的空氣,像死寂了一樣。

  富樓那坐近頻婆娑羅王的身旁,低聲說道:

  「大王!我是奉佛陀慈命來的,佛陀叫我告訴你,業力所招感的色身,總要感受苦報。業報要了結了才好。修道最要緊的就是能消滅罪業,獲得解脫。在牢獄裡被囚的人,像是失去自由被束縛了;其實沒有進入監獄的人,同樣的還是被金錢、名位、美色所囚,娑婆世界就等於是一個大監獄一樣。無論在監獄或不在監獄,死亡是不能免,死亡本不必恐怖,當生的時候就注定有死,所要擔心的是死後所往的去處。佛陀說,要稱念阿彌陀佛的聖號,發願往生西方極樂世界,那才是一個自由解脫的安養國土。」

  頻婆娑羅王聽了富樓那的話後,心中很安慰,好像是見到死後的光明。他就這麼安詳的往生了。

  富樓那對於救度苦難中的眾生,總不後人,且很善於說法。


10.- NÓI PHÁP CHO VUA TẦN BÀ SA LA:


Tôn giả Phú Lâu Na cũng biết vận dụng thần thông trong việc hóa độ. Khi vua Tần Bà Sa La (Bimbisara) bị con là A Xà Thế (Ajatasatru - Ajatasattu) giam trong ngục tối, chính tôn giả đã cùng với tôn giả Mục Kiền Liên (Maudgalyayana - Moggallana), vâng giáo chỉ của Phật, từ không trung đi thẳng vào trong nhà ngục để nói pháp và truyền trao Tám điều răn cấm cho vua.

Tần Ba Sa La là vua của nước Ma Kiệt Đà (Magadha). Trong các vị vua chúa của các vương quốc thuộc lãnh thổ Ấn Độ thời bấy giờ, ông là người đầu tiên qui y làm đệ tử Phật. Về sau, chính con của ông, thái tử A Xà Thế, vì nghe lời xúi giục của đại đức Đề Bà Đạt Đa (Devadatta), đã bắt ông giam vào ngục thất, không cho ăn uống, mong cho ông chết sóm để lên ngôi kế vị.

Đối với đứa con ngỗ nghịch như vậy ông vẫn không oán giận, mà chỉ quán chiếu nhân duyên nghiệp quả để lấy đó làm niềm an ủi cho chính mình. Càng chịu đau khổ ông càng nhớ đến lời Phật dạy: Dù cho là trời, đất, mặt trời, mặt trăng, núi Tu Di, biển cả v. v..., không có gì là không thay đổi. Có thành thì có hoại. Có thịnh tất có suy. Có hợp phải có tan. Có sinh tức có tử. Có vui ắt có khổ. Có mừng là có lo. Ở thế gian không có cuộc vui nào là kéo dài vĩnh viễn, nhưng đau khổ thì triền miên bất tận ...

Dù đã quán tưởng như vậy, nhưng ông vẫn còn có điều bứt rứt không yên khi nghĩ đến kiếp lai sinh của mình. Giữa lúc đó thì hai vị tôn giả Phú Lâu Na và Mục Kiền Liên xuất hiện. Phú Lâu Na đến ngồi gần bên ông, nói giọng thật nhỏ chỉ vừa đủ cho nhà vua nghe:

- Thưa đại vương! Bần đạo vâng lãnh từ mệnh của đức Thế Tôn đến đây để hầu chuyện với đại vương. Đức Thế Tôn chỉ dạy, sắc thân này đã chiêu cảm nghiệp lực thì phải nhận chịu quả báo đau khổ. Tốt hơn hết là phải để cho nghiệp báo được kết thúc; vì điều tối quan trọng của người tu hành là tiêu trừ nghiệp báo để đạt được giải thoát. Nhưng đâu phải chỉ có người ở trong lao ngục mới là bị trói buộc, bị mất tự do! Sự thật thì những người không bị giam trong ngục vẫn bị trói buộc, bị mất tự do; mà những thứ đang cầm tù họ chính là tiền bạc, danh vị, sắc đẹp, tham lam, hận thù. 

Nói chung, cõi Ta Bà này chính là một nhà tù vĩ đại vậy. Bất luận là có bị giam cầm hay không thì người đời vẫn không tránh khỏi cái chết; vì trong cái sống nhất định đã có cái chết rồi! Vậy cái chết không phải là cái đáng sợ, mà điều đáng làm cho ta lo sợ là sau khi chết ta không có được một cảnh giới tốt đẹp để đi về. 

Cho nên đức Thế Tôn đã nhắn lời tâu với đại vương, xin đại vương hãy nhất tâm chuyên niệm danh hiệu của đức Phật A Di Đà (Amitabuddha); hãy thành khẩn phát nguyện vãng sinh về thế giới Cực Lạc (Sukhavati), nơi Phật A Di Đà đang giáo hóa. 

Đó là một quốc độ hoàn toàn an lạc và giải thoát.

Nghe mấy lời trên của Phú Lâu Na, vua Tần Bà Sa La cảm thấy rất được an ủi. Vâng lời Phật dạy, ông nhiếp niệm quán tưởng, rồi an tịnh vãng sinh ...


佈教的精神

  富樓那說法度眾生,不求恭敬,不圖容易,越是偏僻,越是難以教化的地方,他越是熱心前往去傳播佛陀的教法。

  有一次是在夏安居後的一天,富樓那又想出外弘化,他對佛陀告假道:

  「佛陀!請您慈悲,准許我到輸盧那國佈教!」

  佛陀聽富樓那說後,很歡喜他的請求。但偉大的佈教家佛陀,知道佈教的不易,尤其是到輸盧那國,就著事實,佛陀說道:
  「富樓那!教化眾生,利己利人,我很嘉許你的志願,對於你往各方佈教,也很放心。但不能不告訴你,佈教不一定要到輸盧那國,最好另外選擇一個教區,馬上就啟程,我們歡送你!」

  「為什麼呢?佛陀!凡是有眾生可度的地方,不是都可以去佈教嗎?」

  佛陀解釋道:
  「富樓那!輸盧那國是一個偏僻的小國,因為交通不便,文化不發達,民性非常暴戾,打罵成為風俗,外國去的人,很容易喪失生命,你現在要去那樣的地方佈教,難道不怕危險嗎?」

  佛陀這麼一說,富樓那反而微笑著,更堅決有力的表明他的志願:
  「佛陀!您的慈悲愛護,我難以用言語來表達感激。不過為了感激佛陀的恩惠,才更歡喜願意把區區個人的一切奉獻給佛陀,奉獻給正法和一切眾生。正因為輸盧那國是一個邊地野蠻國家,沒有人發心前去教化他們,所以才覺得非到那邊傳教不可。到那邊去,危險隨時會加之於我,但為了正法的宣揚,我個人的安危,實在沒有顧慮的必要。懇求佛陀慈悲允許,讓佛陀之光庇護我,准我前去開闢人間的淨土吧!」

  佛陀的容顏放射出慈祥之光,佛陀很高興富樓那為法忘軀的精神。但佛陀看到左右的弟子很多,大家都應該要具備佈教家的精神,所以又親切的問道:
  「富樓那!你說得不錯!做佛陀的比丘弟子,佈教是最重要的修行之一,不過我要問你,你到輸盧那國佈教,假若他們不肯接受你的說教,反而破口大罵,你該怎麼辦呢?」

  「佛陀!他們罵我,我覺得他們很好,因為畢竟他們不完全是野蠻人,只是罵,不曾用棍棒打我!」富樓那沒有考慮,恭敬的回答。
  「假若他們用拳頭、瓦石、棍棒打你呢?」

  「我仍然覺得他們很好,」富樓那回答:「因為他們只是用拳頭、瓦石、棍棒打,還沒有用刀杖刺傷我。」
  「假若他們用刀杖刺傷你呢?」
  「我還是覺得他們很好,因為他們還有人性,並沒有殘酷的把我打死。」

  「假若他們把你打死呢?」
  「那就更要感激他們了,他們殺害我的色身,幫助我的道業,幫助我進入涅槃,幫助我以身體生命報答佛陀的恩惠,這對我雖無大妨礙,遺憾的是對他們並沒有好處。」

  佛陀大喜,稱讚道:

  「富樓那!你不愧是我的真弟子,修道、佈教、學忍辱,你的心境都能平靜不起波瀾,我們歡送你啟程!」

  富樓那得到佛陀的鼓勵,非常感動,加強了他對佈教不退轉的決心,他頂禮佛陀以後,在比丘們歡呼送別聲中前往輸盧那國。

11.- TINH THẦN GIÁO HÓA:

Tôn giả Phú Lâu Na thuyết pháp độ sinh mà không cầu được cung kính, không tránh chỗ khó khăn để tìm nơi dễ dàng; trái lại, gặp những địa phương càng khó khăn hóa độ bao nhiêu thì tôn giả càng phấn chí nhiệt tâm bấy nhiêu, cố làm sao cho Phật pháp phải được truyền bá tại những nơi đó.

Một lần nọ, sau khi mùa an cư kết thúc, Phú Lâu Na lại muốn lên đường hoằng hóa. Tôn giả bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn, xin cho con được đến nước Du Lô Na (Surapatanta) để hoằng pháp!

Dù rất hoan hỉ đối với lời thỉnh cầu này, nhưng vì biết việc giáo hóa ở Du Lô Na thật là vô cùng khó khăn và nguy hiểm, cho nên Phật bảo:

- Phú Lâu Na, Giáo hóa chúng sinh là việc làm lợi mình lợi người. Như Lai rất hoan hỉ để thầy hoàn thành chí nguyện. Có điều, thầy đi bất cứ nơi nào cũng được, nhưng nếu đi Du Lô Na thì Như Lai không yên lòng. Vậy hà tất thầy phải đi Du Lô Na! Thầy nên chọn một địa phương khác, Như Lai sẽ tiễn thầy lên đường.

- Vì sao vậy, bạch Thế Tôn! Không phải là bất cứ nơi nào có chúng sinh thì chúng con đều có thể đến sao?

- Phú Lâu Na! Thầy nên biết, Du Lô Na là một nước nhỏ ở xa xôi hẻo lánh, vì đường giao thông không tiện lợi nên văn hóa không được mở mang. Dân chúng ở đó hầu hết là lỗ mãng, hung dữ và quen tính bạo đông. Người ở các nơi khác, một khi đã đến nơi đó thì khó có ai hi vọng giữ toàn tính mạng trở về. Nay thầy đến đó Như Lai sợ sẽ xảy ra chuyện nguy hiểm chăng!

Nhưng tôn giả cương quyết thưa:

- Bạch Thế Tôn! Thật con không thể dùng lời lẽ gì để diễn đạt được lòng cảm kích của con đối với tình thương yêu bảo bọc của Thế Tôn dành cho chúng con. Càng cảm kích ân đức của Thế Tôn mà con càng hân hoan được xả thân dể phụng sự chánh pháp và phụng sự chúng sinh. Hôm nay, chính vì Du Lô Na là một nơi chưa được khai hóa, mà từ trước đến nay chưa có vị nào phát tâm đến đó giáo hóa, cho nên con càng cảm thấy mình không thể nào không đi đến đó được. Con cũng biết, đi đến xứ này là điều rất nguy hiểm, nhưng vì chí nguyện tuyên dương chánh pháp mà con phải quên đi sự an nguy của bản thân. Vậy xin Thế Tôn từ bi hứa khả cho.
Đức Phật vô cùng hoan hỉ đối với tinh thần “vì pháp quên mình” của Phú Lâu Na, nhưng vì để cổ lệ thêm tinh thần cho đại chúng. Ngài tiếp tục hỏi tôn giả:

- Phú Lâu Na! Thầy nói đúng lắm! Phàm là đệ tử của Như Lai thì phải lấy sự hoằng hóa làm một trong những điều trọng yếu của công phu tu tập, nhưng nay thầy đi đến xứ Du Lô Na giáo hóa, nếu dân chúng ở đó không chịu tiếp nhận sự giáo hóa của thầy, mà còn mắng chửi thầy thì sao?

- Bạch Thế Tôn! Nếu họ chỉ mắng chửi con thì con nghĩ họ vẫn còn người tốt chứ chưa đển nổi dã man lắm đâu, vì họ chưa dùng đến gậy gộc để đánh con.

- Nhưng nếu họ dùng gạch đá ném thầy, hay dùng gậy gộc đánh thầy thì sao?

- Bạch Thế Tôn! Con nghĩ họ vẫn còn là người tốt vì họ chưa dùng đến dao kiếm để đâm cho con bị thương tích nặng.

- Nhưng nếu họ dùng dao kiếm để đâm thầy đến bị thương tích nặng thì sao?

- Bạch Thế Tôn! Nếu chỉ có thế thì con nghĩ họ vẫn là người tốt, vì dù sao thì họ vẫn còn chút ít nhân tính, chưa đến nỗi giết con chết một cách thảm khốc.

- Nhưng nếu họ giết chết thầy thì sao?

- Bạch Thế Tôn! Nếu điều này xảy ra thì con lại càng cám ơn họ, vì giết chết cái sắc thân này của con tức là họ giúp con vào cảnh giới niết bàn, cũng như giúp con dùng thân mạng này để báo đáp thâm ân của Thế Tôn. Sự việc này nếu xảy ra thì đối với con không phải điều chướng ngại, nhưng chỉ có một điều đáng tiếc là con chưa kịp làm gì để giúp ích cho họ mà thôi.


Đức Phật khen ngợi:

- Phú Lâu Na! Thầy quả thật xứng đáng là một vị đệ tử lớn của Như Lai, Bất cứ là tu tập hay hoằng hóa, thầy đều học được đức tính nhẫn nhục của Như Lai. Tâm và cảnh ở trong tự thân thầy lúc nào cũng tĩnh lặng. Bây giờ thì thầy đi được rồi, Như Lai và đại chúng đưa thầy lên đường.

Được đức Phật cổ lệ, tôn giả vô cùng cảm động, quyết tâm càng được tăng cường, tưởng như không thứ gì có thể làm cho lay chuyển. Tôn giả đảnh lễ đức Phật và lên đường đi Du Lô Na ...


在輸盧那國佈教

  富樓那告別佛陀離開僧團,獨自向東北方的輸盧那國走去,行行重行行,終於到達了輸盧那國。

  輸盧那國地瘠民窮,不是高山就是河流,既沒有繁華的都市,也很少有人口稠密的村莊,人民都還過著茹毛飲血的生活。

  富樓那初到輸盧那國的時候,簡直無法展開他的教化,他在未來以前,雖然就已學會輸盧那國的土語方言,但傳教的工作,除了語言以外,還要具備更多的條件。

  輪盧那國的土人,對富樓那雖沒有語言的隔閡,可是大家見到他手持缽盂、身披袈裟的樣子,都用奇異的眼光看他。

  富樓那知道在文化落後的地方,沒有善巧方便,是不容易啟發他們對佛教的信仰。更知道談玄說妙的道理在這裏不會受大眾的歡迎,最要緊的是,要先從他們生活方面的問題改善起。弘法,不能與人民的生活脫節。因此他暫時不說出他是沙門比丘的身分,他像個醫師似的,每日先忙著探視病人和看護病人。

  對病患做簡單的治療,富樓那非常有心,無論是多遠的村莊,甚至要越過幾個山頭,一聽到哪裏有呻吟的病者,富樓那總是不分晨昏、不管夜晚的翻山越嶺趕去,患病的人見到他,如遇救星,再重的病症,也會因此而逐漸霍然而癒。

  富樓那又像教師一樣,教他們識字明理。白天,富樓那教他們耕種的步驟,治家的方法;晚上,集合他們,講說五戒十善、因果報應的道理。很快的,輸盧那國的人民,都皈依了佛教。富樓那在那裏收了五百位弟子,建立了五百座僧伽藍。

12.- CÔNG VIỆC GIÁO HÓA Ở DU LÔ NA:



Sau khi lạy từ giã Phật và đại chúng, tôn giả Phú Lâu Na nhắm hướng Du Lô Na thẳng bước.

Tiều quốc Du Lô Na, đất đai khô cằn, dân cư nghèo khổ. Khắp nơi chỉ toàn là núi cao, sông rạch. Toàn quốc không có một đô thị phồn hoa nào, cũng không có lấy một thôn trang dân cư trù mật. Nếp sinh hoạt của người dân gần giống như thời tiền sử. Bởi vậy, khi mới đặt đến xứ này, với tình huống ấy, Phú Lâu Na cơ hồ như không có cách gì để thực hiện sứ mệnh.

Trước khi đến đây, tôn giả đã chuyẩn bị bọc phương ngôn thổ ngữ của dân Du Lô Na, nhưng trong công việc truyền giáo, ngoài ngôn ngữ ra còn đòi hỏi phải có nhiều điều kiện khác nữa. Giữa tôn giả và dân địa phương, tuy vấn đề ngôn ngữ không trở ngại, nhưng chiếc bình bát và áo cà sa trên người của tôn giả, đối với họ quả là những thứ gì thật quái dị. 

Tôn giả biết rằng đối với một nơi mà nền văn hóa còn quá lạc hậu như vậy, nếu không khéo léo thì không dễ gì khơi dậy trong dân chúng lòng tín ngưỡng đối với Phật pháp. Nói cho họ nghe những giáo lí cao sâu mầu nhiệm chỉ là vô ích. Vậy cách tốt nhất và cấp thiết nhất hiện tại là giúp họ cải thiện nếp sinh hoạt hàng ngày; bởi vì công việc giáo hóa luôn luôn không thể thực hiện tách rời nếp sinh hoạt của quần chúng. Cho nên, tạm thời tôn giả không bộc lộ cái thân phận sa môn của mình, mà chỉ đóng vai một vị y sĩ, suốt ngày chỉ cặm cụi với công việc thăm bịnh và chăm sóc bịnh nhân.


Phú Lâu Na có thể chữa trị được mọi chứng bịnh thông thường, và khi chữa bịnh, tôn giả cũng nhiệt thành như khi hoằng pháp. Bất luận là làng xa xóm gần, bất luận là sáng sớm hay đêm khuya, hễ biết nơi nào có người bị bịnh thì dù có phải trèo non lội suối, tôn giả cũng nhất định phải tới nơi để cứu chữa. Bởi vậy, bịnh nhân một khi trông thấy tôn giả là vui mừng như thấy được cứu tinh; và nhờ đó mà bịnh dù nặng cũng được chóng khỏi.

Ngoài vai trò của một thầy thuốc, tôn giả còn đảm trách cả công việc của một thầy giáo. Tôn giả dạy họ học chữ nghĩa và học những lí lẽ của cuộc sống. Ban ngày tôn giả dạy họ cách thức cày cấy gieo trồng, phương pháp sắp xếp công việc nhà cửa, cùng cách xử sự giữa mọi người trong gia đình; buổi tối, tôn giả tụ tập họ lại để chỉ bày về việc giữ gìn năm điều răn cấm và thực hiện mười điều lành. Bằng phương pháp đó, chẳng bao lâu, tôn giả đã khiến cho rất nhiều người ở Du Lô Na qui y Tam Bảo. Chính tại tiểu quốc này, tôn giả đã thu nhận năm trăm đệ tử giỏi và đã kiến tạo năm mươi ngôi chùa.

(Có sách nói rằng, có hai vị tôn giả cùng có tên là Phú Lâu Na:-

- Một vị là Phú Lâu Na Mãn Từ Tử - Punna Mantaniputta, quê ở gần thành Ca Tì La Vệ, được Phật khen ngợi là có biệt tài thuyết pháp bậc nhất.

 Một vị là Phú Lâu Na Du Lô Na - Punna Sunasarata, một thương gia ở Du Lô Na - một hòn đảo ở ngoài biển Đông của Ấn Độ, đến Xá Vệ nghe Phật thuyết pháp rồi xin xuất gia. Sau khi chứng quả A La Hán, tôn giả đã trở về quê hương Du Lô Na hóa độ - Chú thích của người dịch).

佈教家的條件

  富樓那努力從事弘法利生的事業,他把佛陀對佈教工作者應具有十德的訓示,奉為座右銘,時時記在心頭。佛陀說:佈教師應具有十德:

  
1.善知法義德  2.能為宣說德
  3.處眾無畏德  4.辯才無礙德
  5.方便巧說德  6.隨法行法德
  7.具足威儀德  8.勇猛精進德
  9.身心無倦德  10.成就威力德

  富樓那尊者,人雖在各方行化佈教,但心卻常繫念在佛陀左右。每逢佛陀聖誕,或是佛陀開大會講經,富樓那總是不遠千里回到佛陀的座前,聆聽法益,並向佛陀問好。

  有一次,富樓那擠在大眾中向佛陀頂禮,佛陀見到他,就很歡喜的微笑著讚歎他道:

  「富樓那!你回來啦!大家都很掛念你!輸盧那國的眾生好度嗎?你努力宣揚真理,佈教的精神與自身的素質,都已具備。在精神方面,你對三寶已確立了不動的信仰,慈悲、沈著、才智、健康,都已修養有素;在身體方面,你已鍛鍊成強壯的體魄,品行、風度、聲音、辯才,也已完全具備。富樓那!我很放心你在輸盧那國的佈教。」

  佛陀說後,稍停一下,又對大家說道:

  「諸比丘!富樓那在我的弟子中,足堪稱為說法佈教第一,你們應該向他看齊!」

  諸比丘聽後,都轉臉向富樓那問訊作禮,為他讚美、祝賀。富樓那一方面感到慚愧,一方面又像受到更大的鼓勵。

13.- NHỮNG ĐỨC TÍNH CỦA VỊ GIẢNG SƯ:


Đức Phật từng có huấn thị về mười đức tính của một vị giảng sư. Đối với mười đức tính này, tôn giả Phú Lâu Na lúc nào cũng thuộc nằm lòng và lấy đó làm kim chỉ nam để thực hiện trong suốt suộc đời hoằng pháp lợi sinh. 

Mười đức tính ấy là:

1) Hiểu rõ ý nghĩa của giáo pháp.

2) Có thể diễn nói cho người khác hiểu được.

3) Ở trước hạng thính chúng nào cũng không sợ sệt.

4) Nói năng hoạt bát, lưu loát, ứng đối không bị trở ngại.

5) Biết dùng phương tiện tùy theo căn cơ người nghe.

6) Trình bày theo thứ tự hợp lí để cho ai cũng có thể hành trì dễ dàng.

7) Tác phong nghiêm túc.

8) Cần mẫn và nhiệt thành.

9) Không thối chí nản lòng.

10) Nhẫn nhục nhưng đầy uy lực.

Tuy tha phương giáo hóa nhưng tâm niệm Phú Lâu Na không bao giờ rời xa Phật. Mỗi lần đức Phật có duyên sự đặc biệt hoặc có cuộc pháp thoại quan trọng, tôn giả dù ở xa ngàn dặm cũng cố gắng trở về tu viện để thăm hỏi Phật và tô bồi tri kiến. Lần này, sau khi hoằng hóa ở Du Lô Na, tôn giả cũng đã trở về tu viện đảnh lễ Phật. Đức Phật vừa thấy tôn giả bước ra từ chỗ ngồi của đại chúng thì lòng tràn đầy hoan hỉ, liền mở lời khen ngợi:

- Phú Lâu Na đã về đấy ư! Như Lai và cả đại chúng đều mong nhớ thầy. Việc hóa độ của thầy ở Du Lô Na có được tốt đẹp không? Thầy đã giúp Như Lai rất nhiều trong việc tuyên dương chánh pháp. Cả về phương diện thể xác lẫn tinh thần, thầy đều biết bảo toàn hoàn hảo để cho thân thể luôn luôn khỏe mạnh và lòng tin tưởng nơi Tam Bảo không hề bị lay chuyển. Lòng từ bi, đức điềm đạm và tài trí nơi thầy, phẩm hạnh, phong cách cùng thanh âm của thầy, có thể nói không điều gì là không toàn vẹn. Phú Lâu Na! Thầy đã làm cho Như Lai hoàn toàn yên tâm về công việc giáo hóa tại tiểu quốc Du Lô Na.

Ngưng một chút, Phật dạy tiếp:

- Này quí thầy! Trong giáo đoàn của Như Lai thì Phú Lâu Na xứng đáng được gọi là vị giảng sư số một. Quí thầy cũng nên cố gắng giống như Phú Lâu Na vậy.


對大迦葉的抗議

  時間像流水似的無情,歲月隨著無常的齒輪轉動,春花秋月,夏雨冬雪,一天又一天,一年又一年,佛陀應化在娑婆世界的身體,逐漸的老了,佛陀八十歲的那一年,就在拘尸那迦羅城進入了涅槃。

  諸弟子非常哀傷,在外教化的富樓那,聽到佛陀涅槃的消息,帶領弟子很快地趕到拘尸那迦羅城向佛陀致哀。
  當富樓那領著弟子到達拘尸那迦羅城的時候,佛陀的應身早就荼毘。富樓那除了傷心以外,最掛念的就是佛陀的教法,他知道佛陀的教法才是佛陀的法身。

  他詢問之後,知道上座部比丘由大迦葉領導,正在耆闍崛山主持第一次的經典結集。富樓那連夜趕去參加,這時,結集已快完成,大迦葉見到富樓那非常歡喜,對他道:

  「尊者,你來得正好,我們對佛陀教法的結集已將完成,現在希望你也能同意。」
  富樓那仔細的聽完結集經過以後,回答道:

  「諸位尊者!你們把佛陀的教法結集起來,很令人感佩!關於內容,我大部分都沒有異議,只是對於律中有關食法的八事,都在禁止之例,我很難同意,因為這有背佛陀的本意。

  「你們現在把內宿、內煮、自煮、自取食、早起受食、從彼持食來、雜果、池水所出可食物,都加以禁止。禁止這八事,對於僧團中的修道者是很大的不便。米穀騰貴的時候,饑饉的時候,食物難獲的時候,佛陀允許這八事的。」

  大迦葉是僧團中權威的長老,過去沒有人敢對他表示異議,就算心中有不同意見,但表面上只有緘默而已;富樓那在僧團中也是有崇高地位的人,所以他敢提出不同的意見。大迦葉聽完了以後,很嚴肅的說道:

  「這是不錯的,佛陀曾允許這八事,但是在特殊情形之下才准許的。」

  這樣,雙方引起一番辯論,終沒有解決,最後,還是富樓那讓步說道:

  「那沒有辦法,以後我只有把親自從佛陀那裏聽來的,隨自己的領悟,自己遵守,永遠保持下去。」

  富樓那說後,就又踏上他弘化的行程。

  富樓那在什麼時候,什麼地方入滅的,至今沒有辦法考證,只知道,在佛陀涅槃後的教團裏,富樓那仍然很熱心的在各地弘化。我們從他對大迦葉尊者抗議的內容來看,大迦葉比較為法固執,而富樓那就比較自由方便些了。

  富樓那尊者永遠為佛法著想,永遠為大眾謀取幸福,魔強法弱的今日,像富樓那尊者佈教的熱忱與精神,已不多見。

14.- KHÔNG ĐỒNG Ý VỚI TÔN GIẢ ĐẠI CA DIẾP:


Thời gian trôi vô tình như dòng nước chảy. Năm tháng đến đi vô thường như bánh xe quay. Hoa mùa Xuân, trăng mùa Thu, nóng mùa Hạ, lạnh mùa Đông; một ngày trôi qua rồi một ngày lại đến; năm cũ đi rồi năm mới liền theo; cái ứng thân của Phật nơi thế giới Ta Bà này cũng theo năm tháng đổi thay ấy mà ngày càng già đi. 

Cho đến một ngày kia, khi ở tuổi 80, đức Phật đã nhập niết bàn tại thành Câu Thi Na (Kusinagara - Kusinara). Tất cả đệ tử đều vô cùng bi ai. Tôn giả Phú Lâu Na lúc đó đang hành hóa tại phương xa, nghe tin, tức tốc dẫn đệ tử về thành Câu Thi Na để thọ tang, nhưng khi tôn giả về đến nơi thì lễ trà tì kim thân của Phật đã hoàn tất từ lâu. 

Tôn giả đau xót vô cùng, nhưng rồi cũng tự an ủi rằng, báo thân Phật tuy không còn, nhưng pháp thân Phật vẫn tồn tại; giáo pháp chính là đức Phật.

Được biết tôn giả Đại Ca Diếp (Mahakasyapa - Mahakassapa) đang cùng với năm trăm vị tì kheo tôn túc khác nhóm họp tại núi Kì Xà Quật để kết tập những kinh luật Phật đã dạy, tôn giả liền đến đó xin tham dự. Đại chúng trông thấy Phú Lâu Na đều rất lấy làm hoan hỉ. Tôn giả Đại Ca Diếp nói:

- Thầy về thật đúng lúc. Đại chúng kết tập giáo pháp của đức Thế Tôn đã sắp xong, và tin rằng thầy cũng sẽ đồng ý với đại chúng.

Sau khi lắng nghe cẩn thận những kinh luật đã được đọc tụng, tôn giả phát biểu:

- Thưa đại chúng! Công việc kết tập giáo pháp của đức Thế Tôn do đại chúng chủ xướng, làm cho tôi hết sức kính phục. Hầu hết những điều đã được kết tập tôi rất đồng ý, chỉ riêng ở tạng Giới Luật, phần nói về “Tám điều liên quan đến cách ăn uống” (thức ăn để qua đêm, thức ăn nấu riêng trong phòng ngủ của mình, thức ăn do tự mình nấu lấu, thức ăn không do cúng dường mà do tự mình đi lấy, ăn buổi sáng sau khi thức dậy, theo người ta lấy thức ăn đem về, những thứ trái cây tạp nhạp, các thức ăn sản sinh ra từ trong nước ao tù - chú thích của người dịch), đại chúng cho rằng cả tám điều này đều bị cấm chỉ thì tôi không đồng ý, vì trái bổn ý của đức Thế Tôn. Nếu tám điều ấy bị cấm chỉ thì sẽ rất bất tiện cho tăng đoàn. Vả lại trước đây, gặp những lúc gạo thóc đắt đỏ, vật thực khó kiếm, hoặc xảy ra nạn đói thì đức Thế Tôn cũng đã từng cho phép áp dụng tám điều này.

Tôn giả Đại Ca Diếp nghiêm nghị trả lời:

- Thầy nói rất đúng. Đức Thế Tôn đã có lúc cho phép áp dụng tám điều đó, nhưng chỉ những khi gặp phải tình hình đặc biệt mà thôi.

Thế là cuộc tranh luận xảy ra và chẳng có biện pháp nào giải quyết. Sau cùng thì tôn giả Phú Lâu Na nhượng bộ:

- Thế thì tôi không có cách gì khác. Từ nay tôi chỉ tự minh hành xử theo những điều gì mà chính trước đây tôi đã nghe và lĩnh ngộ được từ nơi đức Thế Tôn, còn thì tùy quí sư huynh.


Nói xong, tôn giả cáo biệt chúng hội, tiếp tục lên đường hành hóa.

Về sau, tôn giả nhập diệt vào lúc nào, tại đâu, không ai biết được, và cũng không có cách gì để khảo chứng. Chúng ta chỉ biết được rằng, sau khi Phật nhập diệt, tôn giả vẫn giữ nhiệt tình hoằng hóa như khi Phật còn tại thế. 

Nội dung cuộc tranh luận với tôn giả Đại Ca Diếp vừa rồi đã cho chúng ta thấy, trong khi tôn giả Đại Diếp rất bảo thủ đối với giáo pháp thì tôn giả Phú Lâu Na lại có tư tưởng tự do, phóng khoáng hơn.




Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét