THẬP ĐẠI ĐỆ TỬ PHẬT
Trong thế giới ngày nay, khoa học vô
cùng phát triển đủ mọi mặt. Trong cuộc sống, những gì không khoa học hiện
đại, nhất định phải tàn lụi theo thời gian hoặc
theo thời gian mà bị biến thể. Với đạo Phật qua thời
gian và không gian giáo thuyết của Phật vẫn không mai một mà
còn được truyền bá ngày càng sâu rộng. Bởi lời Phật dạy là
một chân lý muôn đời, khi con người chưa thánh thiện,
khoa học chưa đưa con người đến an lạchoàn toàn, chưa được sự trở
về diệt tận nguồn gốc tham ái, si mê, chấp ngã..., thì thuyết Tứ
Đếvẫn được con người tín nhận. Đó là về mặt nhân sinh, còn về vũ
trụ khoa học chưa khám phá, chinh phục được thiên
nhiên, đối tượng khách quan, thì thuyết duyên sinh trùng
trùng phát khởicủa đạo Phật vẫn cần thiết cho tri
thức con người. Đó là lý do mà không ai có thể ngăn chận con dường
tìm về đạo Phật ngày một sâu rộng của con người. Tuy
nhiên có một vấn đề đáng được nêu ra là ngày nay người
theo đạo Phật, nghiên cứu tìm hiểu lời Phật dạy thật
đông đảo, nhưng người tu hành chứng ngộ lại rất hiếm.
Ngày xưa thuở Phật còn tại thế, đa phần các đệ
tử xuất gia của Ngài đều chứng A La Hán, như 1.250 vị tỳ
kheo mà kinh thường nhắc đến. Trong số đó bậc ưu tú về mặt đạo
hạnh, sở trường và sở chứng, có mười vị được gọi là mười đại đệ
tử, gọi chung là Thánh Chúng. Lịch sử Phật giáo liệt
kê như sau:
1. Tôn giả Đại Ca Diếp, Đầu đà đệ nhất
2. Tôn giả Xá Lợi Phất, Trí tuệ đệ nhất
3. Tôn giả Mục Kiền Liên, Thần thông đệ nhất
4. Tôn giả Ca Chiên Diên, Luận nghị đệ
nhất
5. Tôn giả A Nan Đà, Đa văn đệ nhất
6. Tôn giả A Na Luật, Thiên nhãn đệ nhất
7. Tôn giả La Hầu La, Mật hạnh đệ nhất
8. Tôn giả Tu Bồ Đề, Giải không đệ nhất
9. Tôn giả Phú Lâu Na, Thuyết pháp đệ nhất
10. Tôn giả Ưu Ba Ly , Trì giới đệ
nhất
Sau đây chúng ta lần lượt tìm hiểu cuộc
đời và đạo nghiệp của các Ngài để noi theo hầu trở nên con
người tốt trên bước đường phụng sự đạo pháp và xây dựng quốc
gia xã hộingày thêm tịnh lạc...
1. Trưởng Lão Đại Ca Diếp
Maha Kasyapa - Đầu Đà Đệ Nhất
Khi còn tại thế, trong 45 năm thuyết pháp với
hơn 300 hội, Đức Phật để lại 8 vạn 4 ngàn pháp môn. Tùy căn
cơ, trình độ hoàn cảnh, người hành giảcó thể chọn tu theo một
trong những pháp mônđó, có người chuyên tu thiền định, có người niệm
Phật, tụng kinh, có người trì luật, có người tu phước bố thí,
có người trì bình khất thực... Với tất cả hành trì, theo Phật hạnh
nào cũng đáng kínhnể, quý trọng. Trong số các Thánh
chúng, Ma Ha Ca Diếp là người dốc lòng giữ gìn phạm hạnh,
nên được Phật và Thánh chúng tôn xưng là bậc Đầu Đà Đệ Nhất.
Quê Quán Dòng Họ và Danh Hiệu của
Ngài Ma Ha Ca Diếp
Ở Ấn Độ, không xa thành Vương Xá, nước Ma Kiệt
Đà, tại thôn Sa La Đà, có một gia đình thuộc dòng họ Bà
La Môn rất giàu có, đó là Ni Câu Lự Đà Kiệt Ba có tài sản có
thể so sánh với Vua Tần Bà Sa La lúc bấy giờ. Đại Ca Diếp sinh
trong gia đình phú hào này. Tên đầu tiên của Ngài là Tất
Bát La Da Na, vì thân mẫu Tôn giả đi chơi quanh gốc cây Tất
Bát La thì hạ sanh Tôn giả, vì thế lấy tên cây đặt cho đứa bé. Vì là
con một trong gia đình, Đại Ca Diếp rất được cha mẹ thương
yêu, nuôi dưỡng, nhũ mẫu có đến 4 bà, còn bồng bế cho ăn, tắm rửa, trò
chơi có rất nhiều người. Đại Ca Diếpphước tướng đầy đủ, tư chất thông
minh, lúc lên 8 đã được học văn học, toán thật, thi họa, âm nhạc, thiên
văn, tướng số... Các Đạo sĩ Bà La Môn còn dạy cho Ngài
phép tế đàn 4 mùa, Thánh điển Vệ Đà, Nhân minh học v.v...
Với các môn học, Đại Ca Diếp đều thấu hiểu rất nhanh.
Lúc khôn lớn, Đại Ca Diếp khác hẳn những người
cùng lứa tuổi. Với các lạc thú ở đời Ngài không ham thích, kể cả vấn
đề âu yếm. Đại Ca Diếp thường tỏ chán ghét, bất tịnh,
thích xa đám đông, riêng ở một mình. Ngay cả Cha mẹ, Đại Ca Diếp cũng không
tưởngnhớ, trong những lúc xa nhà. Bởi thế khi phải vâng lời cha mẹ lập
gia đình, Đại Ca Diếpcũng không chung giường với Người vợ mới cưới tên là Diệu
Hiền, một cô gái sắc nước hương trời không ai sánh kịp. Mỗi người mang một tâm
trạng riêng, từ ngày cưới Diệu Hiền cho đến hơn cả chục năm về
sau khong ai nói với ai một lời nào. Im lặng lâu quá không thể nín
thinh mãi được, Đại Ca Diếp hỏi Diệu Hiền lý do tại
sao mặt lúc nào cũng buồn. Diệu Hiền trả lời:
Chàng đã phá hoại chí nguyện của tôi, sự giàu
sang của chàng đã mê hoặc cha mẹ tôi, từ trước tôi vẫn thích
phạm hạnh, ghét ngũ dục, nên hiện làm dâu gi đình nầy tôi rất lấy làm
buồn!
Nghe ước vọng của Diệu Hiền không trái
với ước vọng của chính mình, Đại Ca Diếp nói:
Thế là hai ta đã có cùng chung một ước nguyện,
cùng nhìn chung về một hướng, tôi vẫn không thiết tha với việc lập gia
đình, nhưng vì là con một tạm để cho cha mẹ khỏi buồn, tôi phải tạm
theo ý của gia đình mà thôi. Giờ đây chúng ta hãy tiếp
tục sống theo phạm hạnh và dù là vợ chồng chúng
ta cũng giữ sự thanh tịnh.
Mãi 12 năm sau, khi cha mẹ đều từ giã cõi đời, Đại
Ca Diếp rời gia đình đi tìm thầy học đạo, trước khi tạm biệt Đại
Ca Diếp có hứa sẽ trở về hướng dẫn Diệu Hiền khi tìm
được minh sư.
Đạo Nghiệp của Đại Ca Diếp
Đại Ca Diếp xuất gia trì hạnh Đầu Đà
Năm 30 tuồi, Đại Ca Diếp từ giã thân thuộc vào
rừng tìm đạo, chính là lúc Đức PhậtThích Ca thành đạo dưới cội Bồ
Đề. Mãi đến hai năm sau Đại Ca Diếp vẫn chưa có đạo sĩ nào
giúp thỏa mãn nguyện vọng, nhân cuộc khởi xướng dâng y rầm rộ của
ngự y Kỳ Bà. Đại Ca Diếp biết Phật và tìm đến thành Vương
xá, ngày ngày Ngài theo Thánh chúng đến nghe pháp mà
chưa chính thức ra mắt với Phật, vì lòng còn muốn dò xét. Từ trên tòa
giảng, Đức Phật nhìn xuống thấy và biết Đại Ca Diếp là người
có thể kế thừađạo nghiệp của Như Lai.
Tại hội Linh Sơn, khi đức Phật đưa lên một
cành hoa, Đại Ca Diếp mỉm cười, Phật biết chánh pháp đã có
người tâm đắc kế thừa sau này. Một hôm sau khi mãn buổi thuyết
pháp Phật đi đường tắt đón Đại Ca Diếp ở một ngã đường.
Trên đường về gặp Phật Đại Ca Diếp chính thức bái yết Phật,
xin được xuất gia tiếp tục học đạo. Qua cuộc gặp gỡ, Tôn giả theo
Phật trở lại Tinh Xá Trúc Lâm, ở đây Đức Phật đem
pháp Tứ Đế, Thập nhị nhân duyên, khai thị cho Tôn giả. Vốn thích
tu hạnh Đầu Đà sau khi gặp Phật, Tôn giảvẫn tiếp tục thực
hành pháp tu phạm hạnh. Hạnh đầu đà có năng lực tịnh hóa
tâm hồn, khi tu theo hạnh này cần giữ đủ 10 điều.
1. Chọn ở nơi hoang vắng.
2. Sinh hoạt bằng phép trì bình.
3. Thường ở tại một nơi.
4. Ngày ăn một bữa.
5. Khất thực không phân biệt giàu
nghèo.
6. Tài sản gồm có 3 y, một bình
bát.
7. Tư duy dưới gốc cây.
8. Thường ngồi giữa đồng trống.
9. Mặc áo phấn tảo.
10. Sống tại các bãi tha ma.
Với 10 điều kiện trên, Tôn giả tuân giữ trọn
vẹn chỉ có 9 điều, riêng điều khất thực số 5 Tôn giả không
theo giáo đoàn, Tôn giả chỉ đến khất thực trước nhà
người nghèo. Theo Ngài người giàu đã thừa phước đức, ta không cần phải mang
phước đến cho họ, còn người nghèo vì thiếu phước đức ta cần
đem phước điền cho họ gieo trồng. Trong hàng đệ tử Phật người
đi khất thực ngược với Đại Ca Diếp là Ngài Tu Bồ Đề,
chỉ đi khất thựcnhà giàu. Nghe Tôn giả chỉ khất thực nhà
nghèo, Đức Phật khiển trách và khuyên nên đem tâm bình đẳng khất
thực, từ bỏ tâm phân biệt.
Với Tôn giả Phật còn khuyên không nên quá khổ
hạnh, vì khổ hạnh là một cực đoan Đức Phật đã bỏ sau
khi bị kiệt sức ở xứ Ba La Nại, tu với 5 anh em Kiều Trần
Như. Ngài đã tìm ra con đường trung đạo, và đạt được địa vị giác
ngộ giải thoát. Với pháp khất thựcbình đẳng có lúc Tôn giả tuân
hành, riêng hạnh đầu đà Ngài vẫn giữ cho đến hơi thởcuối
cùng, không ai lay chuyển được, cho nên Ngài được tôn xưng là bậc Đầu Đà Đệ
Nhất. Tầm vóc ảnh hưởng của Tôn giả rất lớn, lấn lướt hết ảnh
hưởng người khác, như ánh sáng chói chang của mặt trời khỏa hết
các ánh sáng khác, vì thế Ngài còn được dịch là Ẩm Quang.
Tiếp độ Diệu Hiền
Khi Đức Phật trở về Ca Tỳ La Vệ giáo
hóa cho các vương tôn công tử. Tôn giả có đi theo. Để hợp với giáo
pháp bình đẳng, và cũng theo lời thỉnh cầu của A
Nan, Đức Phậtcho Di Mẫu Ma Ha Ba Xà Ba Đề xuất gia hiệu
là Kiều Đàm Di, vị nữ đầu tiên trong giáo đoàn của Phật. Thấy Di
mẫu của Phật được xuất gia, tôn giả có ý mừng vì đã mở lối
để Ngài thực hiện lời ước hẹn với Diệu Hiền lúc từ
tạ gia đình để đi xuất gia.
Chờ đợi 3, 4 năm không thấy Đại Ca Diếp trở về, Diệu
Hiền cho phân tán tài sản, bố thígiúp đỡ cho bà con và
những người nghèo rồi đi xuất gia theo phái ngoại đạo lõa
hình ở bên bờ sông Hằng. Được tin Diệu Hiền đi tu nhưng vì sắc đẹp
mà phải chịu nhiều sĩ nhục, Tôn giả nhờ một Tỳ kheo ni đi
đón nàng. Khi về đến ni viện cũng vì sắc đẹp kiều diễm nàng
vẫn không tránh khỏi sự xì xầm nơi chốn đông người. Tự thấy thân nữ
trở ngại đạo nghiệp rất nhiều, Diệu Hiền không ra
ngoài khất thực nữa, không tiếp xúc với đại
chúng tránh chỗ đông đảo.
Cảm kích tình cảnh của Diệu Hiền, hàng
ngày Tôn giả chia nữa phần cơm và nhờ người mang đến cho Diệu
Hiền. Đời lại lắm chuyện, những người tò mò có tánh thị phi sinh tâm
tật đố và cho là giữa hai người chắc còn tình ý. Để tránh tiếng đàm
tiếu, Tôn giả không chia phần cơm cho Diệu Hiền như bấy lâu
nữa. Tỳ kheo ni Diệu Hiền cũng muốn chóng được nhẹ nghiệp nữ
lưu, ngày đêm không ăn ngủ, tịnh tọa sám hối tấn tu đạo nghiệp,
chứng được Túc mạng thông, được Đức Phật khen ngợi. Tôn giả Đại
Ca Diếp rất hoan hỷ, với hai mặt đạo và đời Ngài đều thực
hiện viên mãn, hết mối bận tâm.
Độ Bà Lão Nghèo
Với chí nguyện, đem phước điền đến cho người
nghèo thiếu khi đi khất thực, Tôn giảthường tránh những ngôi
nhà giàu có, và dừng bưóc trước những ngôi nhà nghèo nànlụp xụp. Một
hôm vào thành Vương Xá khất thực Tôn giả thấy một bà
lão ăn mày đau ốm nằm rên rỉ bên vệ đường, Tôn giả đến gần và ân
cần thăm hỏi:
· Này bà lão! tại sao trong lúc đau ốm bà lại nằm giữa
đất và chỉ lấy lá che thân? Nơi đất hơi gió mưa sẽ làm cho bệnh của bà nặng
thêm, bà không có nhà cửa con cháu gì cả sao?
· Nếu đã có các thứ như Ngài vừa hỏi thì tôi đâu có nằm
rên rỉ ở đây. Ngài có gì cho tôi không? Sao tôi thấy Ngài cũng có vẻ nghèo và
mang bát đi xin ăn, tôi chẳng có gì cho Ngài cả. Thế Ngài có phép gì giúp
tôi hết bệnh và hết nghèo đói chăng?
· Tôi là một Tỳ kheo đang theo học đạo lý
với Phật Thích Ca và đang tu khổ hạnh nên cũng đi xin như
bà, nhưng lại đi bán giàu mua nghèo, bà hãy bán nghèo cho tôi để tạo nhiều phước
báu giàu sang phú quý.
· Nghèo thì lấy gì để bán? đã ba ngày qua tôi không có
chút gì để bỏ vào bụng, sáng sớm hôm nay có người đi đổ nước cơm, tôi hứng được
một tý đỉnh, nhưng nước đã có mùi chưa dám uống sợ tháo dạ.
· Thế bà đem nước đó bố thí cho tôi chút đỉnh,
gọi là gieo trồng phước đức, hy vọngtương lai gặp may mắn,
trở nên giàu có.
Nghe Tôn giả giảng giải, tâm bà đầy hỷ lạc quên
cả sự ô uế của thân mình, bà đem mẻ nước cơm dâng cúng cho Tôn giả.
Ngài hoan hỷ tiếp nhận, và uống gần cạn mẻ nước cơm. Thấy thế bà
lão vô cùng vui mừng, Tôn giả ngỏ lời chúc
phúc cho bà rồi lên đườnghành hóa.
A Nan Tặng Bát
Trong giáo đoàn của Phật, Tôn giả Đại Ca
Diếp giữ phạm hạnh bao nhiêu thì nhóm lục quần Tỳ
kheo lại thường sai trái mất phạm hạnh bấy nhiêu. Có một
thời Phật ở Kỳ Viên Tinh Xá, nhóm lục quần tỳ kheo thi nhau sưu
tầm bình bát. Phật chế bát có hai loại, bát bằng sắt thép và bát bằng sành
sứ. Nhưng khi sản xuất hình dáng bát mỗ thứ không giống nhau, chất liệu
cũng có thứ tốt thứ xấu, màu sắc cũng có nhiều. Nước Tô Ma sản
xuất bát thiếc, nước Ưu Già sản xuất bát màu đỏ, nước Ô Già sản xuất bát màu
đen... Nhóm lục quần chẳng lo hành thiền, tu tập, ngày này qua ngày khác
lo đi tìm kiếm bát tốt, đem về trưng bày để ngắm nhìn, phòng xá
của các vị giống như nhà hàng bán đồ gốm, sành sứ. Biết được tình trạng tích
trữ nhiều bát, Phật ban hành luật: Tỳ kheo chứa bát dư phạm
Ni bát kỳ ba dật đề.
Trong lúc đó Ngài A Nan được đàn việt cúng
dường 4 cái bát của nước Tô Ma rất quý, Ngài định đem bát đó
dâng cúng cho Tôn giả Đại Ca Diếp. Lúc bấy giờ Tôn giả không
có mặt ở Xá Vệ, đang du hóa ở phương xa, giữ bát thừa tất phạm
giới, không biết xử lý bằng cách nào, A Nan đành đem sự việc trình
lên Đức Phật. Phật hỏi:
· Bao giờ Đại Ca Diếp mới trở về?
· Bạch Thế Tôn! Khoảng sau 10 ngày.
Trong giờ giảng pháp trước đại chúng, Phật hết lời
khen ngợi phạm hạnh của Đại Ca Diếp và khuyên đại
chúng nên noi gương, đặc biệt là lục quần tỳ kheo. Sau cùng
thể theo sự tình của A Nan đã trình bày với phép cất bát
dư, Đức Phật sửa lại điều luật và công bố:
· Các Tỳ kheo được phép cất bát dư
trong thời gian 10 ngày.
Qua sự kiện, Phật chế giới luật Tỳ
kheo giữ bát dư, chúng ta biết được địa vị và ảnh
hưởng của Tôn giả Đại Ca Diếp đối với giáo đoàn rất
cao.
Thừa Kế Đức Phật
Thấy Đại Ca Diếp đạo cao đức trọng, Phật
và giáo đoàn đều vị nể, Xá Lợi Phất và Mục Kiền
Liên yêu cầu Tôn giả tham gia việc hoằng pháp,
nhưng Tôn giả từ chối vì việc đi bố giáo đã có các vị thông
minh tài trí như Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên, Phú Lâu
Na, Ca Chiên Diên. Tôn giả chỉ chú trọng đến cuộc sống phạm
hạnh, thiểu dục tri túc, vì đó cũng là cách gián tiếp truyền
bá giáo lý của Đức Phật. Tôn giả trọn giữ hạnh đầu
đà, lúc nào Tôn giả cũng ở trong rừng già, kinh hành hoặc tọa
thiền dưới gốc cây, quán xương trắngở bãi tha ma chẳng quản nắng mưa,
sương gió... Mãi đến lúc tuổi già râu tóc bạc phơ, thân
thể gầy guộc Tôn giả vẫn không bao giờ chểnh mảng.
Thấy thế không đành lòng Phật yêu cầu Tôn giả về sinh
hoạt tại Tinh Xá Kỳ Viên. Dù biết rằng cung kính không
bằng phụng mạng, nhưng Tôn giả thấy sống với tập thể thì phải theo
khuôn khổ chung và đành phải ngưng thực hành hạnh Đầu Đà, hơn nữa ở
chốn rừng sâu không phiền hà gì đến ai, khi cần gieo phước điền cho
người thì đi vào thành khất thực, khi mệt mỏi không đi
được thì kiếm hoa quả rau trái ở rừng, thọ dụng qua
ngày. Thực hành phạm hạnh đầu đà đã là trực tiếp củng
cố giáo đoàn, gián tiếp lợi lạcchúng sanh, củng cố tăng
đoàn là điều kiện thừa kế Đức Phật. Tôn giả xin
Phật được tiếp tục con đường đã chọn. Biết không thể lay chuyển
được ý hướng của Ngài, Phật hướng về đại chúng dạy rằng:
· Này các Tỳ kheo! Đại Ca Diếp luôn luôn lo
ngại cho tiền đồ chánh pháp, thiên ma ngoại đạo hay thế
lực cường quyền không thể phá hoại chánh pháp, nội
tình lộn xộn, Tăng đoàn hủ hóa thiếu phạm hạnh, là điều
kiện chính làm cho chánh pháp tiêu diệt "Trùng
trong sư tử ăn thịt sư tử." Vì thế nếu Tăng
đoàn được củng cố, giới đức trang nghiêm, nội
tình ổn định hòa hợp tất yếu chánh pháp được trường
tồn. Để củng cố Tăng đoàn, sinh hoạt phải nghiêm
túc, giới luật phải được tôn trọng giữ gìn, giới luật còn
thì đạo ta còn. Người có thể chủ trì thừa kế chánh pháp nhãn tạng của
ta phải là Ma Ha Ca Diếp, điều đó ta đã thấy rõ ngay ở hội
Linh Sơn, khi ta đưa lên cành hoa sen, Ma Ha Ca Diếpliền mỉm
cười.
Kiết Tập Kinh Điển
Đúng là người thừa kế mang mạng mạch của Như
Lai, sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn7 ngày, Tôn giả Đại Ca
Diếp liền triệu tập hội nghị kiết tập kinh điển, trong
suốt 3 tháng. Tinh Xá của giáo đoàn rộng rãi có rất
nhiều, nhưng đa phần chưa phải là nơi hoàn toànthanh tịnh, các Tỳ
kheo lân cận chưa phải thật sự ly dục chứng Thánh quả. Suy
xét kỹ lưỡng Tôn giả thấy chỉ có động Kỳ Xà Quật mới xứng
đáng là nơi kiết tập kinh điển. Đó là nơi u tịch, rộng
rãi, cảnh trí thoát trần. Tôn giả triệu tập 500 vị đã
chứng A La Hán quả, riêng Ngài A Nan luôn luôn gần Phật lại đa
văn, thuộc tất cả các lời Phật dạy, nhưng lại chưa chứng Thánh quả lại
còn có 6 tội. Để có thể và duy trì chánh pháp lâu dài, sự sinh
hoạt của giáo đoàn phải oai nghiêm, không thể có người
còn lỗi lầm, Tôn giả Đại Ca Diếp buộc A Nan phải sám
hối 6 tội trước đại chúng, còn vấn đề chưa chứng Thánh
quả, Đại Ca Diếp buộc A Nan phải ra ngoài động, kiếm
nơi an tĩnh tu tập lúc nào chứng Thánh quả A La
Hán hãy trở vào. Nhờ nhất tâm, chỉ tĩnh tu trong thời
gian ngắn, Ngài A Nan liền chứng quả A La Hán.
Khi Tôn giả A Nan trở vào thạch động, cuộc kiết
tập kinh điển chính thức bắt đầu. Đại chúng nhất
trí đề cử Tôn Giả Đại Ca Diếp làm chủ tọa.
· Ngài Ưu Ba Ly tuyên trì tạng Luật.
· Ngài A Nan tuyên trì tạng Kinh.
· Ngài Phú Lâu Na tuyên trì tạng Luận.
Ngoại hộ đắc lực cho cuộc kiết tập kinh
điển là vua A Xà Thế.
Đại Ca Diếp Nhập Niết Bàn
Trong hàng đệ tử của Đức Phật, Ngài Xá Lợi
Phất và Ngài Mục Kiền Liên Niết Bàn trước Phật, Niết
Bàn sau Phật có Ngài Đại Ca Diếp. Sau cuộc kiết tập kinh điển tại
động Kỳ Xà Quật, khoảng hai hoặc ba mươi năm sau, cảm thấy cơ thể
đã già yếu, mệt mỏi vì đã trên trăm tuổi, Đại Ca Diếp quyết
định Niết Bàn. Tôn giả tìm đến nơi Ngài A
Nan đang du hóađể phú chúc pháp tạng, yêu cầu A
Nan tiếp nối sứ mạng thừa kế truyền bá chánh pháp, rồi
không nề mệt mỏi, Tôn giả đến 8 tháp thờ Xá Lợi phật để lễ
lạy cúng dường.
Sau đó Ngài trở về thành Vương Xá để tạ
từ Vua A Xà Thế, nhưng gặp lúc nhà vua đang ngủ nghĩ, quân hầu không
cho Tôn giả vào cung. Rời thành Vương Xá Tôn giả mang
theo y bát của Phật đến núi Kê Túc, ngồi nhập định và Niết
Bàn, nơi đây cách thành Vương Xá khoảng 8 dặm về phía Tây
Nam. Nghe tin Tôn Giả Đại Ca Diếp đã Niết
Bàn, vua A Xà Thế rất bi thương! Nhà vua lập tức đến thông
báo cho A Nan và yêu cầu cùng nhà vua đến núi Kê
Túc đảnh lễ cúng dường. Mặc dù Tôn giả Đại Ca Diếp đã nhập
Niết Bàn, nhưng ảnh hưởng nếp sống đạo đức, phạm hạnh của Tôn
giả vẫn còn tồn tại mãi với thời gian...
Nhận Thức và Kết Luận
Với những phép khất thực, Đức Phật dạy phải bình
đẳng không thiên chấp, phân biệt, nhưng Tôn giả Ca Diếp chỉ
đi khất thực nhà nghèo, trong khi Ngài Phú Lâu
Na thì khất thực nhà giàu, vì thế nên cả hai Ngài đều bị Phật
khiển trách. Tuy thế, theo Tôn giả Ca Diếp người nghèo là kẻ
đáng thương, đáng lân mẫn để an ủi họ, từ quan niệm đó,
bất luận một hành vi một cử chỉ nhỏ nào của Tôn giả đều biểu
thị đức từ bi bao la vô tận. Bởi thế, tăng hay tục, mọi
người đều kính nể Tôn giả, hào quang hiền dịu của Tôn
giả đã lấn lướt ảnh hưởng của người khác. Do đó tên của Ngài còn
được dịch là Ẩm Quang (uống ánh sáng).
Theo Phật giáo Bắc Tông sau khi Phật nhập
Niết Bàn, Đại Ca Diếp được tôn vinh là tổ sư thứ nhất,
trong khi Phật giáo Nam Tông lại tôn vinh Ngài Ưu Ba Ly.
Vì quan điểm của hai phái có thiên trọng khác nhau, nên dự
suy tôn sư tổ đương nhiên có khác. Đó cũng chính là một trong những
điểm mà Phật giáo có hai tông phái. Phật giáo Bắc
Tông thiên về thiền, về giáo ngoại biệt truyền, không lập văn tự chỉ
dùng tâm ấn tâm, cho nên qua biểu thị Đức Phật đưa hoa
sen, Đại Ca Diếp liền mỉm cười (Chính ngộ yếu chỉ niêm
hoa vi tiếu), vì thế Ngài được suy tôn là Sư tổ. Trong khoa chúc tán có
bài tán đã nói lên ý nghĩa đó như sau:
· Niêm hoa ngộ chỉ, tổ đạo sơ hưng, miên diên tứ
thất diễn chơn thừa, lục đại viễn truyền đăng, dịch diệp tương
thừa chánh pháp vĩnh xương minh.
Thấy hoa liền ngộ, vị tổ đầu tiên, liên tục bốn bảy
giảng chơn thừa, đèn soi suốt sáu đời, cây lá nối nhau, chánh
pháp mãi thịnh hành).
Phật giáo Nam Tông chủ yếu vẫn tọa thiền, loại trừ
phiền não triều cái, nhưng lại nhắm hướng giải thoát cá
nhân làm trọng điểm... Muốn giải thoát tất yếu phải giữ giới luật,
chính chữ giới luật có nghĩa là biệt giải thoát, Phật tìm đạo vì
muốn để giải thoát sinh tử luân hồi cho chúng sanh.
Lúc Đức Phật sắp nhập Niết Bàn, Ngài A Nan hỏi Phật:
· Sau khi Thế Tôn nhập Niết Bàn chúng
con biết lấy ai làm thầy. Phật bảo: "Lấy giới luậtlàm thầy, giới
luật còn thì đạo còn". Ưu Ba Ly là vị trì luật đệ
nhất, với mục đích duy trìmạng mạch của Đức Phật lâu
dài, đồng thời cũng tiến đến chân trời giải thoát, nên Phật
giáo Nam Tông suy tôn Ngài Ưu Ba Ly làm sư tổ.
Nhìn chung suốt cả cuộc đời Tôn giả Đại Ca Diếp luôn
luôn hướng dẫn phẩm hạnh đạo đức thiểu dục tri túc là chính, cuộc
sống nội tâm, hành vi cử chỉ, lời ăn tiếng nói vào một
khuôn khổ lề lối. Bởi thế người khác nhìn vào có vẻ thấy tiêu cực, thụ
động, yếu đuối... nhưng ở đời có mấy ai ép mình được trong khuôn khổ
đạo đức, lo trau dồi phẩm hạnh. Cái lăng xăng, tích cực tham
dự và sự thu hút của xã hội, của cuộc đời có thể dễ
dàng thực hiện. Cái tích cực diệt trừ thói hư tật xấu trong
mỗi tự thân của con người thật khó thực hiện. Thắng người thì dễ,
thắng mìn rất khó.
Tôn giả Đại Ca Diếp luôn luôn hướng về tự thắng,
nhờ đó Tôn giả trở thành một con người gương mẫu trong giáo
đoàn. Phẩm hạnh của Tôn giả đã có một tầm mức ảnh hưởng rất
rộng. Đức Phật cũng đã vị nể xem Tôn giả như bạn,
có lần Phật đã nhường nửa tòa ngồi giảng pháp cho Tôn giả. Nhờ
phẩm hạnh đầu đà sau khi Phật Niết Bàn Tôn giả đã được giáo
đoàn suy tôn lên ngôi thủ lãng trong cuộc kiết tập kinh
lần thứ nhất tại Kỳ Xà Quật. Ngày nay để duy trì đạo pháp lợi
lạc chúng sanh, hàng tăng sĩ chúng ta hãy noi gương Tôn giả Đại
Ca Diếp, để nâng cao phẩm hạnh đạo đức ở đời. Người
có tư cách đạo đức bao giờ cũng được kính nể, ngược lại
không tư cách đạo đức dù giàu mạnh đến đâu, cuối
cùng cũng bị cuộc đời đào thải.
2. Ngài Xá Lợi Phất
Từ xưa đến nay, từ đông sang tây, đa phần các tôn
giáo đều thiên về đức tin, riêng Phật giáo thì ngược lại,
chỉ tin là khi đã dùng lý trí xét đoán, nói khác hơn Phật
giáo thiên về trí tuệ. Bởi thế thông thường, Đạo Phật được
gọi là đạo Trí Tuệ, đạo Giác Ngộ, đạo Bồ Đề. Đức Phật là
một con ngườiđã đạt đến đỉnh cao của trí tuệ, giác ngộ hoàn
toàn. Người theo đạo Phật cần cầu trí giác cao tột của Phật
Đà. Thời Phật còn tại thế, những đệ tửcủa Phật đều chứng Thánh
quả. Trong số 1.250 vị, có mười vị đạt đến địa vị ưu tú bậc
nhất, goị là mười vị đại đệ tử, gọi chung là Thánh Chúng. Đứng đầu là
Ngài Xá Lợi Phất, Trí Tuệ Đệ Nhất.
Xá Lợi Phất Trước Khi Theo Phật
Gia thế Xá Lợi Phất:
Ở Nam Ấn Độ tại nước Ma Kiệt Đà, cách
thành Vương Xá khoảng hai dặm, có một thôn trang tên là Ca
La Tý, nơi đây có non xanh nước biếc, cảnh trí u tịch, Ngài đã
ra đời trong bối cảnh địa dư này.
Xá Lợi Phất thuộc dòng dõi Bà La
Môn, thân phụ là Ưu Ba Đề Xá hay Ưu Ba Thất
Sa(Upatisya), một luận sư nổi danh trong hàng Bà La
Môn. Thân Mẫu là bà Xá Lợi (Sàri) cũng là một người phụ
nữ thông minh có tài biện luận. Bà là chị ruột của Câu Hy
La(Kausthila), tức là Phạm Chí Trường Trảo. Những lúc luận
bàn giáo lý với chị Trường Trảo luôn luôn bí lối. Không chịu
thua chị, nhất là còn ngại về sau có thể thua đứa cháu ở trong bào
thai của chị; với truyền thống của gia đình Trường Trảo
tin con của Ưu Ba Thất sau sẽ thông minh tuấn tú. Vì tự ái, Trường
trảo đến Nam Thiên Trúc quyết học 18 bộ kinh (xem chú thích
ở cuối bài). Với lời thề, nếu chưa thông suốt thì không cắt móng
tay, vì có móng tay dàI người đời tặng cho Phạm Chí, biệt hiệu là
Trường Trảo. Xưa theo phong tục Ấn Độ, ngoài dùng tên cha để gọi
con, phổ biến hơn người đời còn có thói quen gọi con bằng
tên mẹ. Tiếng Phạn là Sàriputa, phiên âm là Xá Lợi Phất Đa La gọi
tắt là Xá Lợi Phất, có nghĩa là con trai của bà Xá Lợi. Trung Quốc còn
gọi là Xá Lợi Tử.
Tài biện luận và đạo giáo của
Ngài Xá Lợi Phất:
Xá Lợi Phất là một thần đồng, lúc mới lên tám tuổi Ngài
đã thuộc hết 18 bộ Kinh, biện tài vô ngại. Vào tháng hai, tại nước Ma
Kiệt Đà, hai anh em trưởng giả Cát Lợi và A Già Lahợp cùng
dân chúng tổ chức lễ tế đà. Đàn tràng tiếp
đón khách quý có 4 bậc:
Vua - Thái Sư - Đại Thần - Luận Sư .
Khi đến dự lễ Xá Lợi Phất ngồi vào đàn thứ tư
và dõng dạc tuyên bố: - Ai muốn hỏi gì thì hỏi. Các Luận
sư cho Ngài là một thiếu niên ngỗ ngáo. Để hạ bệ Xá
Lợi Phất các Luận sư cho các đệ tử nhỏ tuổi đến chất vấn,
nhưng với tài biện luận khúc chiết, Ngài đã làm cho mọi người phải kinh
ngạc, các Luận sư đều thán phục. Quốc Vương vui mừng vì
thấy đất nước có nhân tài lỗi lạc, nên đã đem một trang trại ban
cho Ngài.
Để quán thông triết lý của các đạo
giáo đương thời, năm 20 tuổi Ngài rời thôn trang, thân thuộc, đến học
đạo lý với San Xa Da Tỳ La Lê Tử, một trong sáu phái Lục sư ngoại đạo.
Đây là phái hoài nghi cho chân lý có thể biến đổi, tu
đạo là vô ích chỉ cần tu thiền định là được
giải thoát. Trong một thời gian ngắn Ngài đã am tường hết đạo
lý của phái này, nhưng tư tưởng vẫn chưa thỏa mãn. Xá
Lợi Phất đem tâm sự thố lộ với bạn đồng họclúc bấy giờ là Mục Kiền
Liên, cả hai cùng đồng chung một tâm trạng nên đều tính từ giã từ giả
phái hoài nghi để làm một học đoàn riêng. Tuổi trẻ tài cao,
hai thanh niên cho là ở đời không có người trí thức nào sánh kịp, và
cũng chẳng có ai có tư cách để làm thầy mình. Chẳng bao lâu mỗi vị đều
có 100 đệ tử, cả hai còn ước hẹn hễ ai đắc đạo trước
thì thông báo lại đễ dẫn dắt nhau tiến theo một con đường.
Đạo Nghiệp Của Xá Lợi Phất Sau Khi
Theo Đức Phật
Xá Lợi Phất Ngộ Lý Duyên Sinh:
Một hôm tại thành Vương Xá, Xá Lợi Phất gặp
Ngài Mã Thắng tức A Xã Bệ Thệ đang đi khất thực. Đây là một tỳ
kheo đã trải qua một thời gian dài tu khổ hạnh,
khi gặp Phật Ngài đã nghe Pháp Tứ Đế mà ngộ đạo, trở
thành một trong năm đệ tử đầu tiên của Đức Phật. Thấy phong độ uy
nghi của Mã Thắng, Xá Lợi Phất tỏ lòng kính phục và thân đến hỏi
đạo, Mã Thắng cho Xá Lợi Phất biết ông là đệ tử của Đức
Phật Thích Ca. Xá Lợi Phất hỏi Ngài về đạo lý của Phật Thích
ca, Ngài đem giáo lý duyên sinh để giảng giải. Theo Phật, tất
cả các pháp trong thế gian đều do nhân duyên mà có sinh, rồi
cũng hoại diệt khi nhân duyên đã hết. Giáo
pháp đó được diễn tả qua bài kệ:
Chư Pháp tùng duyên sinh
Diệt tùng nhân duyên diệt
Ngã Phật Đại Sa môn
Thường tác như thị thuyết.
Nghĩa là:
Các Pháp do duyên sinh
Lại cũng do duyên diệt
Thầy tôi là Đức Phật
Thường giảng dạy như vậy.
Nghe thuyết duyên sinh, Xá Lợi Phất thấu suốt
được sự thành hoại của vũ trụ duyên sinhvà rất thán phục Đức
Phật, nên theo Mã Thắng đến Trúc Lâm Tinh Xá bái yết Đức
Phật. Để khai thị thêm cho Xá Lợi Phất, Phật thuyết đạo
lý Vô Ngã Niết Bàn... Theo Phật "Các hành vô thường là
pháp sanh diệt, sinh diệt diệt rồi tịch diệt là
vui."
Trước Đức Phật Xá Lợi Phất xin được quy
y và xin được đưa Mục Kiền Liên đến Tinh XáTrúc Lâm.
Hôm sau, cả Xá Lợi Phất và Mục Kiền
Liên dẫn 200 đệ tử đến thọ giáo với Phật. Giáo
đoàn của Phật không những chỉ tăng thêm số lượng mà còn tăng thêm về mặt
chất lượng. Phật rất hài lòng vì thấy giáo pháp sâu
xa nhiệm mầu, từ nay đã có Xá Lợi Phấttiếp thu. Xá Lợi Phất và Mục
Kiền Liên là hai thủ lãnh tư tưởng tôn giáo cao thâm
trong giới học đạo bấy giờ.
Xá Lợi Phất chỉ đạo xây dựng Tinh Xá Kỳ
Viên:
Khi Phật đang ở Phương Nam Ấn Độ, có trưởng giả Tu
Đạt, hiệu là Cấp Cô Độc, người thành Xá Vệ, nước Kiều Tát
La ở Tây Bắc Ma Kiệt Đà, đến Tinh Xá Trúc
Lâm nghe Phật thuyết giảng pháp Bố thí, bái phục Đức
Phật, trưởng giả muốn xây dựng một tinh xá ở
phương Bắc nước Ma Kiệt Đà, để thỉnh Phật về hoằng hóa. Sau khi
trải vàng mua đất của Thái Tử Kỳ Đà, cạnh thành Vương Xá. Trưởng
giả xin Phật đề cử một vị thiết kế và trông coi công
trình xây cất tinh xá. Phật biết ở phương Bắc có nhiều triết
nhân ngoại đạo, chỉ có Xá Lợi Phất mới có đủ sức thuyết
phục, để có thể vừa trông coi công trình, vừa đối phó với ngoại
đạo, Phật cử Xá Lợi Phất theo Tu Đạt về phương Bắc.
Tinh xá bắt đầu khởi công, hàng ngoại đạo tìm
phương cản trở, nhằm ngăn chận đà phát triển của Phật giáo. Họ yêu
cầu Tu Đạt bỏ ý định xây dựng tinh xá và
cũng yêu cầu ông không nên theo Phật. Vì đã thâm tín Phật Tu
Đạt vẫn xúc tiến công trình; các nhà ngoại đạo tính hạ uy
tín Xá Lợi Phất, để giúp Tu Đạt bỏ Phật. Tu Đạt rất lo
ngại cho Xá Lợi Phất có thể không tranh biện nổi với ngoại
đạo, ông trình bày nổi ưu tư với Ngài. Nhưng! Xá Lợi Phất cho
đây là một cơ hội tốt để đạo Phật tuyên dương chánh pháp. Ngài
nhờ Tu Đạt đến hàng ngoại đạo ước hẹn ngày tranh
luận.
Vốn xuất phát từ Bà La Môn và đã am
tường các triết thuyết đương thời, ngay trong ngày tranh luận đầu
tiên Ngài đã thắng 10 Luận sư danh tiếng của ngoại đạo. Xá
Lợi Phất đã tạo nhiều thanh thế cho Phật ở phương Bắc.
Vì Xá Lợi Phất đã chuyển hầu hết các tư tưởng gia ngoại
đạo về với Phật, khi Phật chưa đến giáo hóa. Từ đó sau khi Tinh
xá Kỳ Viên hoàn thành, giáo đoàn của Phật về nước Xá Vệ được
đón tiếp vô cùng nồng hậu linh đình. Công
trình xây dựng Tinh xá, Xá Lợi Phất thiết kế 16 tiểu đường, gồm
có: phòng ngủ, nhà khám bệnh, nhà tắm, nhà kho, nhà nhóm họp, giảng đường...
Đây là một trung tâm văn hóa thứ hai của Ấn Độ, gọi
là trung tâm Kiều Tát La, còn trung tâm văn hóa thứ nhất
được thành lập tại nước Ma Kiệt Đà.
Thọ thức ăn bất tịnh:
Khi về thành Ca Tỳ La Vệ, giáo hóa cho các bậc
vương tôn, công tử, Phật cho La Hầu Laxuất gia và ủy
thác cho Xá Lợi Phất lo việc dạy dỗ, Xá Lợi Phất đã
truyền thọ giới Sa Dicho La Hầu La. Một hôm Ngài dẫn La Hốu La
đI khất thực, hàng đàn na tín thí dâng cúng các thức
ăn ngon cho Ngài và các vị Tỳ kheo Trưởng lão, còn hàng Sa
di chỉ thọ nhận các vật có ít dinh dưỡng như xác mè ép, rau đồng luộc...
trộn với cơm hẩm. Lòng của La Hầu La rất bất mãn và
có ý nghĩ rằng tuổi trẻ sức đang phát triển, ăn uống như
thế cơ thể sẽ bị suy nhược, không có sức khỏe để tiến
tu đạo nghiệp. Khi về đến Tinh Xá, lòng La Hầu La vẫn buồn
rầu và lên trình với Phật sự cố. Phật khuyên La Hầu
La không nên có niềm đố kyï, người xuất gia chỉ cầu Phật đạo chứ
đâu cần sự ăn uống, người tu hànhkhi thọ nhận của cúng dường một
hạt mè, một hạt cơm cũng nên tự thấy là đủ rồi. Có tam thường bất
túc, mới xứng đáng là bậc có chí xuất trần thượng sĩ, đừng
quá quan tâm đến việc ăn uống.
Tuy dạy La Hầu La như thế, nhưng Phật cũng cho mời Xá
Lợi Phất đến và dạy rằng:
· Xá Lợi Phất! Hôm nay ông thọ thức ăn bất
tịnh, ông có biết không?
· Nghe Đức Phật nói, Xá Lợi Phất kinh
hãi liền cho thức ăn ói ra hết, rồi bạch Phật:
· Bạch Đức Thế Tôn! Từ khi xuất gia, con luôn
luôn y pháp khất thực, chưa bao giờ con trái nguyên tắc và
thọ thức ăn bất tịnh.
· Tuy biết rõ tâm của Xá Lợi Phất, nhưng Phật giải
thích:
· Xá Lợi Phất tuy ông khất thực không trái
phép nhưng không quên săn sóc các Tỳ kheonhỏ tuổi
và Sa di. Khi khất thực phải lưu tâm đến họ, để họ khỏi
sinh tâm đố kyï và phát tâm tôn kính bậc Trưởng thượng.
Nhân cơ hội này, Phật chế phép Lục Hòa để làm nguyên tắc sinh hoạt cho Tăng
đoàn:
1. Thân hòa đồng trú Cùng chung với
nhau một chỗ.
2. Khẩu hòa vô tranh Không nên tranh
cãi với nhau
3. Ý hòa đồng duyệt Thông cảm và cởi mở với
nhau
4. Lợi hòa đồng quân Lợi lộc nên đem chia đều
cho nhau
5. Giới hòa đồng tu Giới luật cùng
nhau giữ gìn
6. Kiến hòa đồng giải San sẻ hiểu biết cho
nhau
Nghe xong, Xá Lợi Phất hoan hỷ tín thọ và tuân
hành áp dụng.
Kẻ phản nghịch kính sợ:
Trong số đệ tử của Phật, Đề Bà Đạt
Đa luôn luôn muốn hạ Đức Phật để làm thầy, ông vốn là con nhà
thúc bá với Đức Phật. Dù đã xuất gia, ông xúi thanh niên hại Phật, dụ
dỗA Xà Thế thả voi say chà Phật, ngay cả ông cũng đả xô đá làm cho Phật bị
thương ở chân, và ông cũng đã tách rời giáo đoàn để
làm giáo chủ.
Một hôm Đức Phật và Thánh
chúng đi khất thực về và đang nghỉ ngơi, Đề Bà cầm đầu
một nhóm Tỳ kheo la lối om sòm, yêu cầu Phật nhường
quyền lãnh đạo cho ông, Đức Phật vẫn im lặng mặc
cho Đề Bà làm náo động. Không thể chịu đựng được,
Ngài A Nanlà một bào đệ của ông lên tiếng chỉ trích Đề
Bà.
A Nan dõng dạc nói:
· Xin Đề Bà hãy im lặng, Đức Phật là
bậc chí tôn anh không thể thay thế Phật được. Anh phỉ
báng Phật, anh làm mất sự hòa hợp của Tăng đoàn anh sẽ
mang tội rất nặng. Giờ này, Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên ở
đây anh không sợ sao? Chắc chắn hai vị sẽ không để anh tung
hoành như thế được?
· Thấy không lay chuyển được Phật, Đề Bà chuyển
hướng, đem lợi lộc của vua A Xà Thếcúng dường để dụ dỗ các Tỳ
kheo ham lợi, tách khỏi đại chúng và thành lập một giáo
đoàn riêng do ông thủ lãnh. Sau một buổi đI khất thực về, bè
nhóm của Đề Bà Đạt Đa tụ tập phân chia phẩm vật của đàn
việt một cách ồn ào. Thấy trái đạo lý Xá Lợi Phất lên
tiếng:
· Này chư vị! Chúng ta đi xuất
gia với mục đích giác ngộ, giải thoát hay vì lợi
lộc cúng dường?
Cả nhóm đồng đáp:
· Thưa Xá Lợi Phất! Vì mục đích tu
đạo, cầu giác ngộ và giải thoát khỏi sinh tử luân hồi.
· Thế! Các ông hãy loại bỏ tâm tham thực, ăn
năn sám hối trở về giáo đoàn tu theo pháp lục
hòa.
Nghe Ngài khuyến hóa, cả nhóm đều bỏ rơi Đề
Bà, trở về với Đức Phật. Từ đó uy tín của Ngài được
tăng thêm, Đề Bà Đạt Đa cũng kính sợ Xá Lợi Phất hơn cả Phật.
Rộng lượng khoan dung:
Tại Tinh Xá Kỳ Viên, sau ba tháng hạ Xá Lợi
Phất tạm biệt Đức Phật để lên đường đi hóa đạo.
Khi Ngài ra khỏi cổng Tinh xá, một Tỳ kheo thưa với Đức Phật rằng:
- Xá Lợi Phất vô cớ nhục mạ ông, rồi bỏ đi với lý
do đi giáo hóa, thực sự Xá Lợi Phất không đi truyền
bá Phật pháp. Phật cho gọi Xá Lợi Phất trở lại và yêu
cầu cho biết dữ kiện. Xá Lợi Phất trình Phật:
· Bạch Đức Thế Tôn! Sau khi theo Đức Thế
Tôn học đạo đến nay tuổi gần 80, con chưa bao giờ làm tổn
hại sinh mạng kẻ khác, chẳng biết dối trá chăm lo thăng tiến
đạo nghiệp, kể cả 40 năm qua, đưoợc vinh dự làm môn đệ của Đức
Thế Tôn, dù nhiều lần được Đức Thế Tôn khen ngợi, nhưng con chưa
bao giờ tỏ ý kiêu mạn coi thường người khác, từ đó đâu dám
nhục mạ người trong giáo đoàn.
· Con thiết nghĩ: Đất luôn luôn nhận lãnh hết tất
cả những sự dơ uế của thế gian, con tự nguyện làm đất luôn luôn nhẫn nhịn
tất cả những điều tráI ý, không hạ nhục bất cứ ai. Dòng nước cuốn trôi, rửa sạch
tất cả những vết dơ bẩn của trần gian, con tự nguyện rửa sạch trần
cấu cho mọi người. CáI chổi quét sạch hết tất cả rác rưởi
không hề phân biệtcon tự nguyện làm cáI chổi quét sạch bụi trần của chúng
sanh. Bấy lâu con chưa hề khinh khi ai, chưa hề có ý niệm phân biệt, cố
gắng không để tâm vọng đọng thường an
trú trong chánh niệm. Bởi thế nếu con còn có lỗi lầm nào,
xin các tỳ kheo từ mẫn chỉ bảocon xin thành khẩn y
pháp sám hối.
Để thỏa mãn cho tất cả các môn đệ, Phật cho gọi
các tỳ kheo đương cáo ra đối chứng. Trước giáo đoàn, vị tỳ
kheo đã nói dối rất hổ thẹn, xin Phật và Xá Lợi Phất rộng
lượngkhoan dung. Phật bảo trong đời có hai hạng người mạnh nhất
đó là người không có tội, người có tội mà biết ăn năn sám hối.
Riêng Xá Lợi Phất không những không oán giận mà còn hoan hỷ khoan
dung.
Phẩm hạnh nhường nhịn:
Một hôm Xá Lợi Phất đi truyền giáo ở
phương xa, đến trời tối mới trở về, các phòng xá đều bị các tỳ
kheo lục quần chiếm hết. Ngại lục quần làm ồn ào, Ngài lẳng lặng ra
ngoài sân ngủ dưới gốc cây. Sáng ngày biết được sự ngủ nghỉ mất trật
tự, Đức Phật gọi nhóm lục quần đến hỏi lý do. Nhóm lục quần bạch
với Phật rằng:
· Xá Lợi Phất không xuất thân từ
hàng Bà La Môn, cũng không phải dòng dõi Sát Đế Lợi, do
đó Xá Lợi Phất không có quyền có chỗ ngủ riêng, sàng tòa tốt đẹp...
Để ngăn chặn sự sai trái của nhóm lục quần, Đức
Phật dạy:
· Ngày xưa trong núi tuyết có chim chóc, khỉ, voi
đồng chung ở. Tuy là bằng hữu nhưng cả ba loài không nhường nhịn nhau, con nào
cũng tự cao tự đại định hại nhau. May có một vị tiên giải
thích sự phải trái, cả ba loài mới biết kính nhường loài lớn tuổi.
Các Tỳ kheo! Giáo pháp của ta xương minh phép bình đẳng, nhưng
không vì thế mà mất trật tự. Những ai có đạo hạnh cao, pháp
lạp nhiều, tuổi lớn phải được cung kính cúng dường, ưu
tiên nơi ăn chốn ở được tốt nhất, thực phẩm ngon tươi nhất.
Nghe Đức Phật nói đại chúng đều y
giáo phụng hành. Xá Lợi Phất không vì thế mà ngã mạn, lại cảm
ơn sự ưu ái của Phật và sự trọng nể của giáo đoàn.
Phép ăn của Tỳ kheo:
Một ngày nọ, sau khi khất thực về Xá Lợi Phất quay
mặt vào vách mà ăn, thấy vậy nữ Phạm Chí Tịnh mục chất vấn:
· Ông đang ăn?
· Không, Xá Lợi Phất đáp.
· Ông cúi miệng mà ăn?
· Không.
· Ông ngữa miệng mà ăn?
· Không.
· Vuông miệng mà ăn?
· Không.
· Quay miệng bốn phương mà ăn?
· Không.
· Không phải 4 phép ăn như trên, thế thì ông ăn bằng
cách nào?
Xá Lợi Phất giải thích:
+ Người xuất gia đem thảo mộc đổi thức
ăn mà ăn, gọi là cúi miệng mà ăn.
+ Dùng phép xem tinh tú để có ăn, gọi là ngửa miệng
mà ăn.
+ Nịnh bợ nhà giàu để được ăn, gọi là vuông miệng mà
ăn.
+ Bói toán bùa chú để có ăn, gọi là quay miệng bốn
phương mà ăn.
Ta không ăn theo 4 phép đó. Người tu hành chỉ
đI khất thực mà ăn một cách thanh tịnh.
Nghe Ngài giảng giải, nữ Phạm chí sinh
tâm hoan hỷ, chứng quả Tu Đà Hoàn.
Khen một cái chết đẹp:
Thấm nhuần tư tưởng bình đẳng dù đã chứng Thánh
quả, đối với nữ giới, Ngài vẫn kính trọng. Gần thành Vương
Xá trong một khu rừng khi đang ngồi thiền định, bỗng nghe tiếng Tỳ
kheo ni Ưu Ba Tiên Na kêu cứu ở một khu rừng đối diện, Xá
Lợi Phất liền xả thiền, vội vàng đi tiếp cứu. Khi Ngài đến,
Ưu Ba Tiên Na lấy lại được sự bình thản và trình bày:
· Thưa Tôn Giả! Vừa rồi trong lúc đang tọa thiền,
con nghe một vật gì láng trơn chạm vào cơ thể, con liền nghĩ có thể đó là một
con rắn, tức thì con liền bị rắn cắn, nọc đọc của rắn đã ngấm vào người con và
con sẽ lìa đời. Xin Tôn Giả thông báo cho chư ni quy tụ về đây để
con tỏ lời cáo biệt.
Bấy giờ sắc diện của Ưu Ba Tiên Na vẫn bình thản như
không có chuyện gì xảy ra. Thấy thế Xá Lợi Phất nói với Ưu Ba
Tiên Na rằng:
· Chắc không hề gì vì sắc diện của Tỳ
kheo không biến đổi.
Ưu Ba Tiên Na thưa rằng:
· Bạch Tôn giả! Với đạo lý của Đức Phật,
thân do 4 đại, 5 uẩn, hư vọng hợp thành, không có chủ tể là vô
thường, là không, rắn làm sao cắn được cái "Không". Con thầm hiểu như
thế nên con không cảm thấy đau đớn. Nhờ đó mà nét mặt con không biến
sắc.
Xá Lợi Phất hết lời khen ngợi Ưu Ba Tiên Na
và thông báo cho Tỳ kheo, Tỳ kheo ni ở trong khu rừng
tập họp và đưa Ưu Ba Tiên Na ra khỏi hang động. Khi nọc độc của rắn đã ngấm khắp
cơ thể, Ưu Ba Tiên Na xã bỏ báo thân vào cõi tịch diệt Niết
Bàn. trước các Tỳ kheo và Tỳ kheo ni, Xá Lợi Phất ca
ngợi Ưu Ba Tiên Na, do đạt được giới thân tuệ mạng nên có một
cái chết thật đẹp, sắp chết mà sắc diện vẫn không bị biến đổi, tâm hồn lại
rất bình thản, đáng cho người tu hành phải noi gương.
Xá Lợi Phất Viên Tịch
Lại một hôm, khi nghe tin người lão hữu Mục
Kiền Liên bị bọn lõa hình ngoại đạo ám hạitại thành Thất La Phiệt
(tức Xá Vệ), lúc đang đi thuyết giáo. Xá Lợi Phất vô
cùng buồn rầu, suốt mấy ngày liền. Bấy giờ Đức Phật, Xá Lợi Phất và
một số Tỳ kheo ở tại thành Vương Xa¸, thấy Xá Lợi Phất vì
thương bạn mà ủ rủ, Phật phải khuyên răn. Sau đó Phật tập họp tất cả tăng
chúng báo cho tất cả biết tin Mục Kiền Liên đã vào Niết
Bàn và nhân đó Phật cũng báo cho chúng Tăng hay sau ba tháng nữa
là Phật sẽ vào Niết Bàn. Cùng lúc nhận được hai tin buồn, Mục
Kiền Liên đã chết một cách bi thảm và Phật cũng sắp ra đi,
lòng Xá Lợi Phất vô cùng chua xót. Bởi thế liền ngày hôm
đó, Xá Lợi Phất xin được về quê thăm mẹ và nhập Niết
Bàn trước Phật. Vì theo Xá Lợi Phất trong quá khứ các đệ
tửhàng đầu đều nhập Niết Bàn trước vị giáo chủ đương thời.
Hơn nữa, Ngài không muốn chứng kiến cảnh đau buồn khi Phật nhập
Niết Bàn.
Sau khi tạ từ Đức Phật và giáo
đoàn, Xá Lợi Phất lên đường về quê nhà tại
thôn Ca LaTỳ Ma Ca với một Sa di tên là Quân Đầu, lúc nầy
Ngài đã 80 tuổi, mẹ của Ngài cũng đã ngoài 100 tuổi. Vì đã 40 mươi năm xa
cách, mẹ con gặp nhau trong cảnh mừng mừng tủi tủi ... dù
đã già bà vẫn xem Tôn Giả như hồi còn thơ ấu, bà sai
cháu gái là Ưu Ba Ly Bà Đa thu dọn cho Tôn Giả một căn
phòng thật khang trang. Ngay trong đêm gặp mẹ già ngoài vấn đề giảng
giải đạo lý của Đức Phật, Xá Lợi Phất bày tỏ tâm sự:
trước là về quê thăm mẹ, sau cũng xin phép mẹ được từ giả cõi đời tại quê
nhà. Tuy có đau buồn nhưng bà Xá Lợi cũng thấy vinh dự có
được một người con đạo cao đức trọng, biết trước ngày giờ rời bỏ xác
thân để sửa soạn giờ biệt ly vô cùng chu đáo. Sau đêm tâm sự với
mẹ già, Ngài cho gọi dân làng đến để bố giáo và tỏ lời từ biệt. Trước
dân làng, trước môn đồ tứ chúng và có cả vua A Xà Thế, Ngài
bày tỏ tâm tình thiết tha yêu quê hương xứ sở và đem giáo pháp của Phật
khuyên bảo mọi người.
Xá Lợi Phất bày tỏ mục đích ra đời của Phật
là: Vì một đại sự nhân duyên chỉ rõ tri kiến Phật cho chúng
sinh. Con nguời cần tiến tu Giới, Định, Tuệ để giải
thoát sinh tử luân hồi. Nhưng trước hết phải xây dựng con người,
tạo lập một quốc gia xã hội an bình tốt đẹp là chính
yếu, con người nên noi gương từ bi nhẫn nhịn của Phật để sinh
hoạt. Vào đến nữa đêm, mọi vật hoàn toàn yên lặng, Ngài lạy chào
mẹ già, vua A Xà Thế và tất cả những người hiện diện rồi nhập đại
định Niết Bàn. Sau khi làm lễ Trà Tỳ, Sa di Quân đầu
mang hàI cốt Ngài trở về trình với Đức Phật. Để giáo
đoàn được chiêm bái và nhân thể tán dương Xá Lợi
Phất, Đức Phật tập họp đại chúng Tỳ kheo lại và dạy rằng:
· Đây là hài cốt của Xá Lợi Phất, một bậc trí
tuệ hàng đầu. Xá Lợi Phất là người đã tiếp thu trọn vẹn giáo
pháp cao huyền của ta được truyền bá đầu tiên ở phương Bắc, đó
là công lao của Xá Lợi Phất. Trí tuệ của Xá Lợi
Phất thật là trí tuệ cao tuyệt, trừ Đức Phậtra không
ai bì kịp. Qua trí tuệ đó, Xá Lợi Phất đã thành tựu đạo
nghiệp. Bậc đại trí nầy đã chứng pháp tính, ít muốn biết đủ,
siêng năng dũng mãnh, tiến tu thiền định, không cố chấp trước,
đối với ngoại đạo luận bàn vô ngại, hoằng truyền chính
pháp lợi lạc mọi người, thoát ly sanh tử khổ
đau, chứng nhập Niết Bàn.
Trong hàng Thánh chúng nay trong mười đại đệ tử của Phật, Xá Lợi Phất đứng hàng đầu, vì đạo Phật là đạo của trí tuệ. Mục đích của Phật là khai thị cho chúng sanh cáI tri kiến của chư Phật (Kinh Pháp Hoa-Phẩm Tựa). Mặt khác với triết lý của đạo Phật, thuyết duyên sinh là một thuyết thâm áo nhất. Đạo Phật giải thích sự hiện hữu của mọi hiện tượng, sự vật khách quan, thế giới hữu hình qua thuyết duyên sinh, sự vật sinh sinh hóa hóa, liên hệ chằng chịt với nhau, Kinh Hoa Nghiêm gọi là trùng trùng duyên khởi. Cái nầy có thì cái kia có, cái nầy diệt thì cái kia diệt. Có lần Tỳ kheo Mang Đồng Tử hỏi Đức Phậtvề thế giới thường hay vô thường, hữu biên hay vô biên, Phật cho là không nên hý luậnnhưng không vì thế mà Phật không giải thích thế giới hiện tượng. Chính thuyết duyên sinh nầy đã giải thích sự sinh tồn của vũ trụ vạn vật. Xá Lợi Phất đã thấu rõ thuyết duyên sinh. Bởi thế Xá Lợi Phất là bậc Trí Tuệ Đệ Nhất đứng đầu trong hàng Thánh chúng.
Nhờ có trí tuệ số một biện tài vô ngại, Ngài
đã chinh phục được các Luận sư của Bà La Môn ở
phương Bắc Ấn Độ, khi Ngài đến Ma Kiệt Đà để xây dựng Tinh
Xá Kỳ Viên. NgoàI trí tuệ, Ngài còn là nhà kiến trúc đại
tài. Tôn giả đã thiết kế và trực tiếp chỉ đạo xây dựngTinh
Xá Kỳ Viên. Đây là trung tâm sinh hoạt văn hóa ngang
hàng với trung tâm văn hoá Kiều Tát La, thời Phật còn ở Ấn
Độ có hai trung tâm văn hóa lớn nhất là Ma Kiệt
Đà và Kiều Tát La. Khi Đức Phật còn tại thế, Xá Lợi
Phất được tín nhiệm và được cử đi bố giáo đầu
tiên.
Vì ngoài trí tuệ biện tài, Ngài còn am tường mọi
tập tục, truyền thống của dân tộc Ấn Độ, hơn nữa là ngôn ngữ đương
thời của Ấn Độ, thời cổ đại tư tưởng tôn giáo đã nhiều
mà ngôn ngữ các địa phương không phải là một. Bởi thế Ngài mới đại
diện Phật tuyên dương giáo pháp khi Phật còn hiện diện.
Mặt khác, Xá Lợi Phất còn là vị có phẩm hạnh cao, khi bị chỉ
trích là đã thọ thức ăn bất tịnh, con người khinh mạn,
bị Lục quần chiếm chỗ ngủ nghỉ ... Ngài vẫn từ áI khoan
dung không tranh chấp thù oán. Trí tuệ đã cao
mà từ ái lại bao la, Xá Lợi Phất được giáo
đoàn kính nể. Đề Bà Đạt Đa là một con người có nhiều
tác oai tác quái, đòi thay Phật lãnh đạo giáo đoàn, nhưng đối với Xá
Lợi Phất vẫn kính sợ hơn cả Phật. Sau hết Ngài là con người tha
thiết với quê hương với thôn xóm, với mẹ già, với mọi người dân quê.
Khi 80 tuổi, Ngài quay về với quê hương để ban bố giáo pháp
cho tất cả mọi người rồi mới vào Niết Bàn.
Nhìn chung, với những người xuất gia theo Phật để
được gọi là toàn bích phải được đầy đủ 3 đức: An Đức, Trí Đức và Đoạn
Đức. Xá Lợi Phất đã thể hiện trọn vẹn, cho nên xứng đáng là
vị đứng đầu trong giáo đoàn của Phật. Nhưng không vì đạo
nghiệp giải thoát mà quên mất mẹ già, quê hương thôn xóm, dù đã 80 tuổi
Ngài vẫn về quê nhà truyền bá nếp sinh hoạt vị
tha vô ngã... Xá lợi Phất xứng đáng là một biểu tượng cho
tất cả mọi người noi theo.
3. Đức Mục Kiền Liên
Manda Galỳayana - Thần Thông Đệ Nhất
Trong thời gian 45 năm Phật giáo hóa, Ngài A Nan làm thị giả, Đức Phật luôn luôn có Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên trợ lý, Hai Tôn giả nhiều lần thay Phật đi truyền giáo đó đây. Hai vị là bạn tâm giao, lúc đầu theo phái San Xa Dạ sau ngộ lý duyên sinh trở về với Đức Phật. Xá Lợi Phất là bậc trí tuệ đệ nhất đứng đầu hàng Thánh chúngnhưng nghị lực dứt kiết sử không nhanh bằng Ngài Mục Kiền Liên. Với các lậu hoặc trong thời gian 7 ngày, Mục Kiền Liên đã dứt sạch và có thần thông số một, đứng hàng thứ hai trong Thánh chúng.
Dòng Họ Và Chí Khí Ngài Mục Kiền Liên
Trong kinh điển và trong sách vở không ghi rõ
nguyên quán của Ngài, nhưng qua sự kiện Mục Kiền Liên là bạn tâm
giao của Xá Lợi Phất hồi còn thanh niên. Từ đó có thể Mục Kiền
Liên sinh trưởng ở phía Bắc Ấn Độ nước Ma Kiệt
Đà, thân phụ của Tôn giả tên là Câu Hy La, thân mẫuthuộc dòng
họ Mục Kiền Liên, Tôn giả theo họ mẹ nên gọi là Mục Kiền
Liên (Manda Galyàyana). Trong kinh có chỗ gọi Tôn giả là Câu Ly
Ca hay Câu Luật Đà nhưng hai tên sau không thông dụng bằng tên Mục
Kiền Liên. Ngài có hình dáng cao lớn, mặt vuông tai dài, tính cứng rắn lạc
quan, khí tiết hùng dũng ít khuất phục việc trái chính nghĩa.
Vì thế dù đã theo San Xa Dạ, một trong sáu phái lục sư
ngoại đạo, Ngài đã cùng với Ngài Xá Lợi Phất lập một học
phái riêng. Sau một thời gian mỗi vị đã có 100 đệ tử. Khi
thấy thuyết duyên sinh của Phật là siêu tuyệt, cả hai đã tìm về với
Phật. Xá Lợi Phất luôn luôn ở bên tay phải còn Mục Kiền
Liên luôn luôn ở bên tay trái của Đức Phật. Trong khi các đệ tử của
Phật còn đang tu học Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên đã
thay Đức Phật đi truyền bá chánh pháp. Với dũng chí Đại Đức
không hề ngại khó khăn, không chịu thỏa hiệp, với sức thần
thông sẵn có Ngài không bao giờ chịu khuất phục ngoại đạo.
Đạo Nghiệp Của Mục Kiền Liên
Mục Kiền Liên với phép thần thông
Trong hàng Thánh chúng hay 10 đại đệ tử của
Phật, Mục Kiền Liên là vị Thần Thông Đệ Nhất đứng đầu trong
hàng Thánh chúng. Trong mọi tình huống Mục Kiền Liên thường
hay sử dụng phép thần thông; khi đi truyền giáo Ngài dễ
dàng chinh phục được người, nhưng pháp căn bản của đạo giải
thoát không phải là thần thông, với nghiệp lực của con
người thần thông không thể giải cứu. Với phép thần
thông có thể khuất phục được người dễ dàng, nhưng chưa hẳn lòng người đã
không oán giận. Dù bị Phật quở Ngài vẫn sử dụng phép thần
thông để làm phương tiện. Ngày Tỳ Lưu Ly đến vây
hãm thành Ca Tỳ La Vệ Mục Kiền Liên đã dùng thần
thông đến cứu dòng họ Thích Ca bị bách hại, thành Ca Tỳ
La Vệ vẫn bị hỏa thiêu.
Ngài vẫn không cứu được mẹ bằng phép thần thông. Ngay
chính bản thân Ngài cũng đã không thắng được nghiệp báo để thoát
chết bởi bọn ngoại đạo, khi Ngài đến truyền đạotại thành Thất La
Phiệt. Đó là chưa kể đến trường hợp người có thần thông sẽ lợi
dụngphép đó để làm việc bất chánh. Đề Bà luôn luôn có dự
mưu thay Phật lãnh đạo giáo đoàn, vì thấy được lòng dạ đen
tối của Đề Bà, Phật đã không dạy cho Đề Bà tu luyệnphép thần
thông. Giá trị của thần thông là để giúp người tu chứng thấy
xuyên suốt thời gian vô cùng và không gian vô tận, để
biết được mọi vấn đề, mọi sự kiện, kể cả những gì sâu kín nhất trong
lòng nguời. Nhưng Đức Phật đã không đặt nặng vấn đề tu luyện thần
thông.
Trong kinh đIển của Phật giáo có kể một
mẫu chuyện Phật đánh giá thần thông rằng:
· Một hôm có một vị đạo sĩ Bà La
Môn đang trổ tài phép thần thông bên một bờ sông
cho quần chúng hiếu kỳ xem, khi thấy Phật từ xa đến đạo
sĩ còn biễu diễn nhiều trò hấp dẫnvới mục đích khoe khoang.
Phật hỏi đạo sĩ phải tu luyện bao lâu mới có được
phép thần thông và chứng quả gì, đạo sĩ cho biết là
đã tu luyện trên 30 năm, khi đạt được thần thông có thể
bay đi tự tại không cần đò. Phật nói: Nếu phải mất một nữa đời
người, phải tu luyện để bay qua dòng sông thì giá quá đắt.
Mục Kiền Liên độ bà lão bán bánh
Một hôm trên đường đi khất thực, Ngài dừng chân trước
nhà một bà lão bán bánh, thấy bà không đem vật thực ra cúng dường,
đoán biết là bà này có tâm keo kiết Ngài cố tìnhđứng lại chờ đợi, để bà
gieo công đức phước điền. Không những không cúng dường bà
còn xua đuổi Tôn giả, bà nói:
· Làm gì mà sáng sớm ông đứng án nhà tôi thế? Ông có biết
rằng tôi đang hông bánh chưa có buôn bán gì được cả chăng? Xin mời ông di mau
cho với để sáng sớm tôi khỏi mất hên.
· Xin bà cho tôi một nắm cơm, nếu
không bà cho tôi một cái bánh cũng được, Ngài năn nỉ.
· Tôi nghèo lắm ông ơi! Ông không thấy nhà tôi
đang xiêu vẹo, sau trận cuồng phong chưa sửa được đấy à! Còn xin bánh, tôi
đã bảo bánh chưa chín mà, ông này lẩn thẩn thật.
· Nếu bà không cho tôi hóa phép làm gió thổi sập nhà bà
luôn.
· À! thế ông có biết làm phép ư? Nếu có phép ông thử chết
xem nào? Nếu thực sự ông có thể biến hóa chết được, tôi sẽ cho.
Với thần thông đã chứng, Mục Kiền
Liên rùng mình ba lần rồi lăn ra chết. Thấy thây chết khiếp quá nhưng
vì tâm keo kiệt, bà nói:
· Đã là xác chết còn ăn uống được
gì mà cho, giờ thì ông còn báo đời tôi phải chôn cất thây ma, thật là khổ!
Mục Kiền Liên đứng dậy và nói:
· Giờ nầy tôi là người bình thường, ăn uống được,
xin bà hãy đem vật thực cho tôi.
· Tôi đã bảo là tôi nghèo rớt mồng tơi mà! xin ông hãy
dời gót gấp cho để tôi còn lo sinh kế nữa.
· Bà đã biết tôi có phép sẵn có tảng đá bên đường, nếu
bà không cho vật thực tôi sẽ mang tảng đá thả đè bẹp nhà bà ngay tức khắc.
Giận quá nhưng lại sợ sập nhà, nhân đang hông bánh bà mở
vung chọn một cái bánh nào nhỏ nhất để cho hầu khỏi rắc rối. Lúc nầy bà thấy
cái bánh nào cũng to lớn, cho thiệt hại cả vốn và lời. Dù bánh đã được xoa
dầu để khỏi dính nhau nhưng bà càng xáo tìm cái bánh nhỏ nhất thì bánh
càng dính chùm với nhau. Giận quá bà khuân cả nồi để trước mặt Ngài
và nói:
· Ông hại tôi quá, làm bánh tôi dính chùm với
nhau hết. Hỏng hết rồi, ông mang luôn cả nồi nầy về mà ăn cho thỏa.
Thấy ý cho bánh trong sự tức giận, nhưng thiện
tâm đã bắt đầu được nhen nhúm, Ngài gắp một cái bánh để vào bình bát,
rồi tạ từ bà già và tiếp tục lên đường.
Mục Kiền Liên trước nữ sắc
Một lần khác, nhân đI khất thực ngang qua một
khu vườn rất là nên thơ, Mục Kiền Liêngặp một người nữ tuổi trung niên rất
là kiều diễm, bà nầy đón Ngài lại và mời vào rừng nói chuyện. Biết có chuyện
chẳng lành, Ngài liền từ chối và nói:
· Bà không nên đem sắc đẹp mê hoặc tôi, con
người của bà bên ngoài vui tươi ngọt ngào nhan sắc,
nhưng chắc chắn lòng bà không khác nào một cuộn chỉ rối, bà đang có một
tâm sự uất nghẹn nên mượn sắc đẹp sẳn có để giết thời
gian, xin lỗi bà chớ phiền, tôi thẳng thắn khuyên bà không
nên chơi với lửa, nguy hiểm lắm! Càng lao vào con đường trụy lạc, tâm
hồn càng thêm dơ bẩn. Trong vũng bùn bà càng cố vẫy
vùng thì bà càng lún sâu, khó thoát khỏi tội lỗi, thiện
tâm của bà chưa hẳn đã mất bà nên quay hướng chưa muộn lắm đâu.
Nghe nói đúng quá, bà ta giật mình khóc sụt sùi và
thưa:
· Thưa Tôn giả tôi vẫn biết thế nhưng không
có con đường nào hơn, tôi mượn lạc thú để quên hết uẩn khúc
của cuộc đời, quên quá khứ đau thương.
Mục Kiền Liên bình thản khuyên:
· Thông thường với những điều càng cố quên thì càng nhớ,
càng nhớ lại càng thấy đau, càng đau thì lòng càng căm tức, càng oán tức lại có
thể phát khùng điên. Ở đời có hai hạng người mạnh nhất là: Người không
có tội lỗi. Người có tội lỗi mà biết ăn năn sám hối. Thân
thể quần áo dơ bẩn dùng nước giặt rửa, tâm hồn nhiễm đầy trần
cấu, Phật pháp có năng lực làm cho trong sạch thánh
thiện. Nếu biết sám hối bà sẽ hết tội, tăng phước trở nên con
người gương mẫu.
· Nhưng tội lỗi quá nhiều, sám hối bao
giờ mới hết tội... tôi đã mượn tiền tài và sắc đẹp làm lung lạc không biết bao
nhiêu người đàn ông nhẹ dạ. Tôi đã phá tan hạnh phúc của nhiều gia
đình, rồi tôi cũng bị người cùng phái nguyền rủa, có lần tôi suýt thiệt mạng.
Nếu tôi phơi bày hết tâm sự Tôn giả càng khinh ghét tôi bội phần.
· Với giáo pháp của Phật khi nghe bà bộc
lộ tâm hồn, tôi sẽ tăng thêm từ ái, không có khi dễ gì đâu.
· Tôi là con của Trưởng giả ở thành Đức Xoa Tỳ
La, tên là Liên Hoa Sắc, lúc lên 16 tuổi tôi lấy chồng, chẳng
may cha chồng chết sớm mẹ chồng tôi còn xinh đẹp và sinh
lý còn cường thịnh, do đó bà ta đã khuynh đảo chồng tôi, phạm tội loạn
luân. Quá buồn tôi xin ly dị để lại cho chồng tôi một bé gái, rồi tôi
đi lang thang như kẻ mất hồn. Sau đó tôi kết bạn với một
chàng thương gia trẻ tuổi, tôi ở nhà lo việc quản gia chồng tôi lại
đi đó đi đây để buôn bán. Làm ăn phát đạt lắm tiền của lại sinh tật,
một chuyến đi buôn xa trở về, chồng tôi đem về một hầu thiếp son trẻ, gởi ở
nhà một người bạn thân. Thường muợn cớ đến nhà bạn hàn huyên chồng tôi ít
ngủ ở nhà, nghe bà con xì xầm tôi nổi cơn ghen, quyết tìm cho bằng được
và ăn thua đủ với kẻ đã phá hại hạnh phúc gia
đình tôi; không ngờ khi chạm mặt nhau, hầu thiếp của chồng tôi lại
chính là con gái đời chồng trước của tôi. Oan trái gì mà ghê thế! Mẹ chồng tôi
lại đi cướp chồng của tôi, rồi con tôi và tôi lại cùng chung một chồng. Xưng
hô như thế nào cho phải đạo lý? Uẩn khúc như thế hỏi ai có còn chịu đựng nổi?
· Khi tỉnh lại, không giữ được thăng bằng của tâm
hồn tôi lại bỏ nhà ra đi, mượn những cuộc truy hoan đó
đây đùa cợt cho vơi sầu. Chuyện của đời tôi thật quá bi thảm, Tôn
giảcó đủ năng lực để cứu vớt tôi chăng?
Nghe tâm sự não nùng của Liên Hoa Sắc, Ngài
đem thuyết duyên sinh, thiện ác nghiệp báo, nhân quả luân
hồi giảng giải cho Liên Hoa Sắc nghe. Khi thấy Liên
Hoa Sắc có thể hồi tâm, Ngài hướng dẫn Liên Hoa Sắc về bái
yết Đức Phật. Liên Hoa Sắc hết lòng sám hối, tinh tấn tu
hành, chẳng bao lâu chứng quả A La Hán và có thần
thông số một bên phái nữ.
Mục Kiền Liên với Lễ Vu Lan Bồn
Trong hàng Thánh chúng, Mục Kiền Liên không
những là vị thần thông đệ nhất, bản tínhrất năng động mà
còn là một vị hiếu đạo hơn hết. Một hôm nhớ mẹ, Ngài vận dụng thần
thông đi khắp mọi nơi để tìm mẹ. Ngài thấy mẹ đang ở chốn địa
ngục, ốm yếu gầy còm và vô cùng đói khát. Ngài đem một bát cơm đến
dâng lên mẹ là bà Thanh Đề, mừng quá bà dùng tay trái che bát và tay phải bốc
cơm đưa vào miệng. Nhưng than ôi! Cơm thành than đỏ, bà không thể nào
ăn được. Mục Kiền Liên rơi nước mắt lòng buồn vô hạn, Ngài vận dụng đủ
mọi phương tiện để cứu mẹ nhưng không có kết quả.
Trở về bạch sự tình và hỏi lý do, Đức
Phật nói:
· Mục Kiền Liên! Lúc sanh tiền mẹ ông đã hủy báng
Phật pháp, chửi mắng chư Tăng, bà không tin nhân quả luân hồi. Đặc
biệt bà rất bỏn xẻn, chẳng bao giờ bà bố thí cho ai, kể cả bố
thí cho con kiến một hạt gạo. Từ đó sau khi chết bà phải chịu
các quả báo như thế. Ông tuy là người con hiếu đạo, muốn đền đáp thâm
ân nhưng sức của cá nhân có hạn, dù có thần thông một
mình ông cũng không thể giải cứu nghiệp lực của bà Thanh Đề.
Ông hãy đợi đến ngày rằm tháng bảy, ngày chư Tăng mãn hạ thiết lễ
Vu Lan nhờ chư Tăng chú nguyện, mẹ ông mới thoát khỏi cảnh
địa ngục.
Theo như lời Phật dạy, ngày rằm tháng bảy Ngài sắm sửa trai
diên, dâng cúng mười phương Tăng và nhờ thần lực của chư
Tăng chú nguyện. Quả như vậy, với đạo nghiệptấn tu ba tháng, chư
Tăng không những giúp cho bà Thanh Đề, mà nhiều người khác trong ngày đó
cũng thoát khỏi địa ngục. Kinh Vu Lan và ngày Lễ Vu Lan còn
gọi là ngày rằm xá tội vong nhân có từ đó. Vu Lan Bồn có
nghĩa là mở sợi dây treo ngược cho nguời có tội, Trung Quốc còn
gọi là Giải đảo huyền.
Mục Kiền Liên Nạn Vong
Vào thời Đức Phật, Xá Lợi Phất và Mục Kiền
Liên là hai cánh tay đắc lực của Phật, cả hai đã làm
cho ngoại đạo phải kính sợ. Xá Lợi Phất đã dùng trí huệ biện
tài chinh phụcngoại đạo, với dũng khí kiên cường năng động, Mục
Kiền Liên dùng thần thông lấn lướt hàng ngoại đạo. Bởi thế ngoại
đạo rất oán ghét NgàI và luôn tìm cơ hội bức hại.
Một hôm trên đường đi khất thực tại thành Thất La
Phiệt cùng với hai môn đệ là Mã Túc và Mãn Túc, Ngài đã bị bọn lõa
hình ngoại đạo vây đánh. Vì bất ngờ và quá đông, Tôn giả bị trận
đòn hội đồng mà vong mạng. Về cái chết của Mục Kiền
Liên có sách lại chép: Tại núi Y Tư Xa Lê, bọn lõa hình mai phục chờ Mục
Kiền Liên đi ngang qua rồi ném đá xuống như mưa. Dù có thần
thông nhưng vì bất ngờ quá không kịp đối phó, Ngài đã tử
thương.
Một sách khác lại chép: Một hôm trên đường đi du hoá trở
về, Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên bị đồ đệ của
phái Ni Kiền Tử thường gọi là phái lõa hình, đem gậy gộc ra chặn đường
gây sự. Bọn chúng hỏi Xá Lợi Phất: "Trong chúng chánh mạng (lời
tự xưng của phái lõa hình) có sa môn không?" Vốn bậc trí tuệ,
đoán biết được ý đồ của bọn chúng Ngài trả lời: "Chúng chánh mạng sa
môn không. Chúng thích ca sa môn có, nếu A La
Hán còn tham ái là không có kẻ ngu si." Không hiểu
ý, tưởng đó là lời khen mình, họ để cho Xá Lợi Phất đi.
Bọn lõa hình quay qua hỏi Mục Kiền Liên, giọng đanh
thép Mục Kiền Liên đáp: "Trong chúng của các ông làm gì có quả sa
môn." Cho là giọng trịch thượng, bọn lõa hình tức giận vác gậy gộc
đánh Mục Kiền Liên, không chịu nổi trận đòn, Mục Kiền Liên bất tỉnh,
tuởng là địch thủ đã chết bọn chúng bỏ đi. Xá Lợi Phất trở lại tìm
xem bạn như thế nào, thấy Mục Kiền Liên bất tỉnh thân thể tím
bầm, máu ra lai láng, Xá Lợi Phất lấy cà sa làm võng
đưa Mục Kiền Liên về Tinh Xá. Đại chúng hỏi Ngài:
"Tôn giả là bậc có thần thông, sao lại chịu thua thiệt đến
thế?" Mục Kiền Liên liền đáp: "Vì bất ngờ hơn nữa
khi nghiệp lực đến, chỉ một chữ Thần còn chưa thể được, huống là phát
Thông." Nói xong Tôn giảvào Niết Bàn.
Dù các sách chép có phần hơi khác nhau, nhưng các sách đều
có ghi là, bọn lõa hình ngoại đạo đã bức hại Mục Kiền Liên.
Khi nghe tin Ngài bị ám hại Vua A Xà Thế đã phẩn
nộ và hạ lệnh truy nã bọn lõa hình và xử giảo.
Sau khi hỏa táng Mục Kiền Liên, Ngài Xá Lợi
Phất Mã Túc và Mãn Túc đã đem hàI cốtcủa Mục Kiền
Liên về trình Phật. Đức Phật tập họp chúng Tỳ kheo lại
và dạy:
· Này các vị Tỳ kheo! Hãy chiêm ngưỡng hài cốt của Mục
Kiền Liên. Đã mang sắc thânchắc chắn còn nghiệp phải trả, nhục thể phải
chịu luật vô thường, do đó sinh tử trả nghiệp là chuyện thường
tình, không có gì phải hoang mang lo sợ, khi xả báo thân con người cần
giữ tâm hồn không nên mê muội, oán thù, sân giận, trong
các nghiệp cận tửnghiệp là nghiệp nặng nhất. Mục Kiền
Liên vì tuyên dương giáo pháp mà phải tử nạn đó là một vinh
dự, đáng cho tất cả noi gương. Người chiến sĩ phải da ngựa bọc thây, mới xứng
đáng là chiến sĩ anh hùng. Chúng ta hãy xây tháp tôn thờ hà cốt
của Mục Kiền Liên. Hài cốt của Ngài và hài cốt của
Ngài Xá Lợi Phất đều được tôn thờ và giữ gìnnguyên vẹn. Khi đến
chiếm Ấn Độ, người Anh đã thỉnh hai hài cốt nầy về trưng bày tại
viện bảo tàng Luân Đôn. Năm 1947, sau khi Ấn Độ dược độc
lập, chính phủ Anh đã hoàn trả hài cốt của hai Ngài lại cho chính phủ
Ấn.
Nhận Thức và Kết Luận
Đúng là sinh nghề tử nghiệp! Suốt cả cuộc đời hành
đạo Mục Kiền Liên đã dùng thần thông làm phương tiện.
Bởi thế trong hàng tứ chúng Ngài được suy tôn là bậc thần thôngđệ
nhất, nhưng vì có thần thông mà Ngài bị hàng ngoại đạo oán
thù, và bọn lõa hình đánh Ngài đến tử thương, đó là nghiệp lực còn tồn
tại Ngài phải trả để vào vô dư Niết Bàn. Sức thần thông của
Ngài vẫn không cưỡng lại được nghiệp lực hữu dư, còn
thân ngũ ấm là còn nghiệp lực phải trả. Người đạo
sĩ hơn kẻ thường tình là mỉm cười trước cái chết không oán hờn,
than khóc, tiếc nuối, mê mờ. Trước mọi biến thiên của cuộc đời,
tâm an tịnh là đạt Niết Bàn. Thần thông không phải là
một phép huyền bí, đó là một năng lực vô biên sẳn có trong
mỗi con người. Khi sáu giác quan của con người được tập
luyện phát triển đến chỗ ưu việt, tức là có lục thông.
Xưa có một người khách bộ hành đi qua một khu rừng có nhiều
cọp dữ, chiều hôm đó dù trời chưa tối hẳn nhưng cọp đã ra đường mòn. Thấy cọp,
khiếp quá người lữ hành nhảy lên cành của một cây cổ thụ cao. Khi cọp
đi rồi, người lữ khách không sao xuống được, vì thân cây quá lớn lại
cao, cành cây cách mặt đất hơn cả chục thước. Mãi đến sáng hôm sau có người đi
qua, người lữ khách mới nhờ khách bộ hành bắt sào cho anh ta tụt xuống.
Khách bộ hành hỏi lý do tại sao cành cây cao thế mà anh lại nhảy lên
được, người lữ khách bảo là không hiểu được, khi thấy cọp tôi nhảy
lên, không ngờ lại lên được cành cây cao. Khi cọp đi rồi tôi hết sợ lại không
nhảy xuống được.
Đó là một điều lạ không thể giải thích được, nếu với thời
xưa người ta cho là thần linhphù hộ. Thât ra không phải thế,
theo đạo Phật đó là khả năng vô biên tiềm ẩn trong mỗi con
người, có điều với người tu luyện thì khả năng đó phát triển và luôn
luôn sử dụngđược. Còn người bình thường khả nămg đó chỉ bộc
phát một lần thôi. Người có luyện tập võ nghệ họ nhảy từ mái nhà này
sang mái nhà khác được, đó cũng là do họ có triển khai được một phần
nào các khả năng tiềm ẩn vô biên đó. Còn người mộng
du nhảy hoặc leo tường không cần thang, họ chỉ làm được trong lúc mộng
du mà thôi. Từ thực tếđó cho thấy thần thông không có gì là
huyền bí, nhưng Phật không cho các Tỳ kheo tu luyện, vì ngại Tỳ
kheo chọn phương tiện làm cứu cánh. Hơn nữa người không có
phẩm hạnh cao, sẽ sử dụng thần thông vào việc bất chính trở ngại
cho con đường giải thoátsinh tử luân hồi.
Qua đạo nghiệp của Mục Kiền Liên, còn
có vấn đề tại sao bà Thanh Đề phải nhờ sức chú nguyện của chư
Tăng mới siêu thoát? Đây cũng không phải là vấn đề huyền
bí, thần quyền trái luật nhân quả. Theo Phật giáo cốt
lõi là trí tuệ giải thoát chứ không phải là đức
tin thần bí, thần quyền. Tất cả mọi vấn đề đều tùy thuộc vào
thuyết duyên sinh, luật nhân quả. Bàn về vấn đề này Hòa
thượng Thích Thiện Siêu có viết:
· Luật nhân quả nằm trong luật nhân duyên, đã
là nhân duyên thì dù nhân dù quả đều luôn luôn thay đồi. Nếu một người
đã tạo nhân xấu, nhưng may gặp được duyên tốt của Phật lực, pháp lực,
tăng lực, thời các nhân xấu của họ cũng thay đổi, hoặc được siêu
thoát hoặc bớt chịu khổ hơn, như cái cây đã héo gặp khí mát thổi tới mà được
tươi trở lại. Trong Phật giáo sự tạo nghiệp và chuyển nghiệp
luôn luôn đi liền với nhau.
Nhìn chung con người và đạo nghiệp của Mục
Kiền Liên có hai điểm ưu việt, đó là dũng khí và hiếu hạnh. Chúng
ta nên noi theo gương Ngài để trở thành con người biết đền
đáp bốn ân, noi theo chí khí của Ngài để giữ vững niềm tin. Tin phật, tin
Pháp, tin Tăng và tự tin để vượt khó khăn trên con đường thực hiện giới,
định, huệ và phụng sự đạo pháp, làm lợi cho gia đình, xã hội và nhân
loại.
4. Tôn Giả Ca Chiên Diên
Katyayana - luận Nghị Đệ Nhất
Ngày xưa để được gọi là một nhà nho đúng nghĩa,
ngoài thông hiểu tứ thư, ngũ kinh, biết làm thơ phú, nhà nho còn
phải biết thêm bốc, y, lý và số. Về Phật giáo để được toàn bích
ngoài thông hiểu nội điển, một tăng sĩ cần phải biết
thêm Thanh minh, Nhân minh, Công xảo minh và Y phương
minh gọi chung là Ngũ Minh. Nếu khôngđược như thế, tối đa cũng
phải biết 4 hoặc 3, tối thiểu phải biết hai minh. Vì trong
khi truyền đạo, dù thuộc kinh điển nhưng trình bày không mạch lạc,
khúc chiết, lý luận không biện chứng, logic, thì khó
mà thuyết phục được người nghe.
Mặt khác, nếu thuộc kinh điển có lý luận,
nhưng giữa diễn giả và thính chúng ngôn ngữ không đồng,
phải nhờ đến thông dịch, diễn giả cũng không thể truyền đạt hết tư
tưởng, quan điểm cho thính chúng. Bởi thế để trở
thành một người thuyết pháp nhà nghề, ngoài am tường nội
đIển, tối thiểu các tăng sĩ cần rèn luyện, biết thêm ngôn
ngữ và có kiến thức phổ thông. Thời Phật còn tại thế, trong
số 10 đại đệ tử, Ca Chiên Diên (Katyayana) không những chỉ thông
hiểu những tư tưởng triết học đương thời, am tường giáo
pháp của ức Phật, mà còn có tài luận nghị khiến ai vấn nạn cũng
đều thán phục. Phật và Thánh chúng phong tặng cho Ngài là bậc Luận
Nghị Đệ Nhất.
Dòng Họ và Biện Tài của Ca Chiên Diên
Ở miền Nam Ấn Độ nước A Bà¹n Đồ thôn Di Hầu thuộc
dòng Bà La Môn, có một gia đìnhrất giàu sang và danh
giá, được nhiều người kính nể, Ngài Ca Chiên Diên được sinh ra
trong gia đình này. Ca Chiên Diên là con thứ, thân phụ là
một quốc sư đương thời, Ca Chiên Diên là họ, tên Ngài
là Na Da Là, về sau Ngài rất nổi tiếng nên mọi người dùng
họ để gọi thay. Ca Chiên Diên cũng có một người anh cũng thông
minh tài trí theo cha học đạo Bà La Môn. Để uyên
bác hơn, Ca Ca đi nhiều nơi tham học đạo lý với
các Bà La Môn danh tiếng. Sau khi đã học hết kinh điển của Bà
La Môn, Ca Ca trở về cố hương với ý định lập đàn
tràng thuyết giảng Kinh Vệ Đà. Trong khi anh du học ở phương xa,
ở nhà Ca Chiên Diên cũng theo cha dồi mài kinh sử, cùng
lúc với anh Ca Chiên Diên cũng lập đàn tràng, đối diện với
đàn của anh để thuyết giáo, xem đã đủ sức lý luận trước mặt mọi
người chưa?
Trước hai đàn tràng, mọi người cho là Ca
Chiên Diên hùng biện hơn Ca Ca, do đó hầu hết thính chúng đều
hướng về Ca Chiên Diên. Thấy em làm mất mặt trước đám
đông Ca Ca đến trước thân phụ thưa kiện và đòi trừng
trị tội trịch thượng của Ca Chiên Diên một cách thích
đáng. Ca Chiên Diên được triệu đến để tiện bề phân xử. Trước cha và
anh Ca Chiên Diên quỳ lạy và bày tỏ:
· Thưa cha! Xin cha hãy rộng lượng soi xét,
trong lúc anh con đi phương xa học hỏi, ở nhà con cũng theo cha cố
công dồi mài kinh sử. Con thiết lập đàn tràng để biết công
laohọc hỏi trong bao năm qua kết quả như thế nào? Chỉ có thế thôi con cũng
không có ý đồ cạnh tranh hơn thua, trước thính chúng con
không rắp tâm dụ dỗ ai, hai anh em của con sẽ phân trần với
nhau, xin cha chớ bận tâm. Hướng về Ca Ca, Ca Chiên Diên cũng tỏ
lời xin anh cảm thông và sẽ cùng nhau hòa giải, vì đây chẳng qua
chỉ là sự hiểu lầm mà thôi.
Trước hai người con Quốc sư đều quý mến,
không biết nên phân xử thế nào cho phải, chỉ hứa sẽ cho biết ý kiến sau.
Sau khi bàn với phu nhân, ông quyết định để làm an
lòngcho Ca Ca, vì ông này có nhiều háo thắng vả lại cũng để bảo tồn danh
dự cho Ca Ca, Ca Chiên Diên được gởi qua núi Tần Đà ở
phương Nam để học đạo với Tiên A Tư Đà. Tiên A Tư
Đà là trưởng huynh của thân mẫu Ca Chiên Diên, ông là vị tiên
nhân bác học, chứng tứ thiền, ngũ thông được nhân
dân Ấn Độ trọng nể lúc bấy giờ. Ca Chiên Diên rất được A
Tư Đà thương mến, vì tư chất thông thái chóng lãnh hội những
điều được truyền đạt. Một hôm A Tư Đà cho Ca Chiên
Diên hay rằng:
· Tuy ta thông hiểu thánh điển Vệ Đà,
nhưng sẽ không bằng Thái Tử Tất Đạt Đa con Vua Tịnh Phạn,
vì Thái tử sẽ xuất gia thành đạo vô thuợng và sẽ chuyển
bánh xe chánh pháptại vườn Lộc Uyển, xứ Ba La Nại. Sau này con
hãy đến đó thọ giáo để triển khai tài năngluận nghị của
con, riêng ta chẳng bao lâu nữa sẽ từ giã cuộc đời, không có vinh dự gặp
Phật.
Rồi để chuẩn bị cho cháu, A Tư Đà dẫn Ca
Chiên Diên xuống núi đến lập tịnh thất tại Ba La Nại; đúng
như lời dự đoán, ít lâu sau A Tư Đà từ giã cõi đời. Nhớ lời
khuyên, nên sau khi Đức Phật đến Lộc Uyển chuyển pháp
luân, Ca Chiên Diên đI tìm Phật cầu sư học đạo, chứng Thánh
quả và trở thành bậc Luận Nghị Đệ Nhất.
Đạo Nghiệp Của Ca Chiên Diên
Biện Luận Pháp Bình Đẳng
Trong hàng đệ tử của Phật, có hai nhân vật biện
luận tài tình đó là Ngài Phú Lâu Na và Ngài Ca Chiên
Diên, nhưng khi thuyết pháp Phú Lâu Na thiên về số đông
còn Ca Chiên Diên lại thích lý luận với từng người một. Một
hôm, Ngài đến phía Tây Ấn Độ, nước Ma Thâu (Mathian) truyền
đạo, sau khi xem xét dân tình phong tục địa phương, lề lối sinh
hoạt xã hội, Ngài đến yết kiến vua nước Ma Thâu. Thấy Ca
Chiên Diên bỏ dòng Bà La Môn theo dòng Sát Đế Lợi là một
chuyện lạ, vua Ma Thâu hỏi Ca Chiên Diên:
· Ở đời ta chưa thấy ai bỏ dòng họ cao quý
sinh từ đầu Phạm Thiên, để đi theo dòng họthấp hơn như Tôn
giả. Tai sao lại như thế? Có ai ép buộc chăng?
· Đại vương! Tôi cảm nhận Đức Phật là bậc đại
Thánh, trước đây cậu tôi là Tiên A Tư Đàkhuyên tôi, tôi rất nghi ngờ,
có thể là không xác thực, vì tôi cũng nghĩ như Đại vương, trong đời ai
có thể hơn dòng dõi Bà La Môn được. Nhưng khi gặp Phật, nghe Phật
khai thị, tôi tự nghĩ trước đây mình vô cùng lầm lẫn. Với luật Ma
nu xã hội được chia thành 4 đẵng cấp: - Bà La Môn, Sát Đế Lợi, Phệ
Xá và Thủ Đà La. Luật này có ra, chẳng qua là do dòng Bà La
Môn muốn củng cố uy thế mà đặt ra. Giữa con người với con
người, ai cũng dòng máu đỏ, nước mắt mặn, ai cũng chào đời với tiếng
khóc, chưa hề có dấu tinka ở trán, hay các vòng vàng ở cổ tay, cổ chân. Lớn lên
nếu được học, ai cũng có thể thuộc Kinh Vệ Đà, vào thương trường ai cũng
có thể có thể biết buôn bán.
Sống ở rẫy bái rộng đồng ai cũng có thể biết cày cấy, được
chỉ nghề nghiệp ai cũng có thể sản xuất ra vật tiêu dùng, người không chịu học
hỏi tất sẽ ngu dốt. Do đó, có dòng này dòng khác là do luật Manu
và xã hội gán ép cho con người. Hơn nữa thiện ác hay
cao quý, thấp hèn người dòng nào lại không có. Thế nhưng, trong nhà
tù, kẻ làm tôi tớ đều là người thuộc dòng thứ dân. Còn trong dòng Bà
La Môn, Sát Đế Lợi không hiếm người phạm pháp, làm điều độc
ác nhưng nhờ được che chở bởi dòng họ, người bất
lương tội lỗi vẫn ăn trên ngồi trước, thật là bất công! Thái tử Tất
Đạt Đa, người đã thấy rõ thực trạng của tư tưởng tôn giáo, xã hội Ấn
Độ, nên đã từ bỏ cuộc sống vương giả để đi tìm đạo và thành đạo.
ở đời từ xưa đến nay, có mấy ai dám từ chối địa vị cao
sang quyền quý và lắm lạc thú như Phật Thích Ca? Hiện nay
Phật đang chủ xướng thuyết bình đẳng để xã hội không
có cảnh người bóc lột người, người hà hiếp người, người quá
dư thừa kẻ làm đầu tắt mặt tối mà vẫn đói khổ. Trong giáo đoàn của
người mọi ngườiđều bình đẳng, ai có phẩm hạnh cao tất được tôn
trọng, dù đó là người thuộc dòng hạ tiện.
Với tài luận nghị Ngài đã thao thao thuyết phục vua Ma
thâu, một cách biện chứng, lôgic, bởi thế nhà vua đã thể hội giáo
pháp bình đẳng của Phật, qua lần gặp Ca Chiên Diênnhà vua
cũng thừa nhận Ngài là bậc biện luận đại tài, và yêu cầu được giới
thiệu để quy y Phật. Khi trở thành một phật tử,
vua Ma Thâu áp dụng phép bình đẳng của Phật để điều
hành việc nước. Tất cả tù nhân ở các trại giam đều được phóng thích,
ai phạm pháp, có tội đều được đưa đi giáo dục, dù đó là người thuộc
dòng Bà La Môn hay Sát Đế Lợi. Nhờ thế cả nước mọi người đều vui
mừng, dân tình an cư lạc nghiệp, nhân dânnước Ma
Thâu cũng rất cảm kích giáo pháp từ bi, trí tuệ, bình
đẳng của Phật Thích Ca.
Ca Chiên Diên đem giáo pháp bình đẳng của
Phật truyền bá khắp nơi, khiến mức độ tôn kính Bà La
Môn trong nhân dân ngày một giảm sút, bởi thế các Bà La
Môn rất oán hậnCa Chiên Diên và luôn luôn tìm cơ hội để đả
kích. Một hôm có một Bà La Môn khá giỏi biện luận, từ xứ Câu
Thi Na xa xôi, tìm đén Ba La Nại kêu đích danh Ca Chiên
Diên để hạch hỏi:
· Này Ca chiên Diên! Ta nghe ngươi bỏ Bà La Môn
giáo để theo ông Cù Đàm phải không? người phản bội tín ngưỡng
lỗi nhiều hay ít? Ông lại đem giáo pháp của Phật thuyết dụ
các Bà La Môn, thật là vô lễ.
Nghe Bà La Môn kết đủ thứ tội một cách ầm ĩ, với đức
tính điềm tĩnh nhưng lý luận sắc bén, Ca Chiên
Diên chậm rãi trả lời:
· Ông xem tấm áo cà sa trên thân tôi là biết
tôi đã cải tôn giáo rồi, cần gì phải đặt vấn đề. Với tín
ngưỡng có nhiều thần quyền, có luật lệ mất bình đẳng,
người theo tín ngưỡng đó có đáng để tuân hành không? Người
đã biết con đường chánh đạo có cần hướng dẫn cho gia
đình bạn hữu, người theo tà giáo trở về nẻo chính hay
không?
Chưa chịu thua vì mục đích đến để hạ bệ Ca
Chiên Diên, lão Bà La Môn hỏi:
· Này Ca Chiên Diên! Ngươi là Tỳ kheo, sao không
biết giữ oai nghi tế hạnh, trước đây đã không cung kính một lão
Bà La Môn trưởng thượng?
Ca Chiên Diên điềm tĩnh trả lời:
· Giá trị con người không ở tuổi tác mà là ở
phẩm hạnh, tôi đã quy y Phật, quy y phápcủa Phật, cho nên đương nhiên
tôi không thể chấp nhận tà thuyết vái lạy thầy tà bạn ác.
Nghe Ngài đối đáp sắc bén, lão Bà La
môn khâm phục và xin được giới thiệu để ra mắt Đức Phật.
Nguyên nhân tranh cãi
Một buổi sáng sớm trên đường đi khất thực, một Bà
La Môn chận Ca Chiên Diên lại và hỏi:
· Tôi nghe tiếng Tôn giả đã lâu nay mới
gặp, thật là may mắn. Hiện giờ trong tư tưởng tôi có một
thắc mắc mà không giải đáp được, xin Tôn giả chỉ
giúp.
Âng cứ tự nhiên nói, Ngài đáp.
· Thưa Tôn giả trên thế gian này
tôi thấy Sát Đế Lợi tranh cãi với Sát Đế Lợi, Bà La
Môntranh cãi với Bà La Môn. Nguyên nhân gì mà họ lại tranh cãi
như thế?
· Ca Chiên Diên đáp: - Vì tham dục mê hoặc.
· Thưa Tôn giả! còn Sa Môn với Sa
môn tranh cãi vì lý do gì?
· Vì ngã kiến và pháp chấp.
· Thế trên cõi đời này ai là người không bị tham dục, mê
hoặc và ngã kiến pháp chấp để nương theo?
Chẳng do dự Ngài đáp: - Đức Phật!
Đạo sĩ Bà La Môn yêu cầu Tôn giả cho được
gặp Phật và quy y theo Ngài.
Bán nghèo
Taị nước A Bàn Đề, trên đường đi du hóa, Ca Chiên
Diên gặp một người đàn bà ôm một vò nước ngồi khóc nỉ non bên bờ sông. Thấy
cảnh đáng thương Ngài dừng bước hỏi:
· Tại sao lại khóc lóc thê thảm như thế?
Hãy cho biết lý do thử xem tôi có giúp ích gì được cho bà
chăng?
· Chắc ông không giúp được gì đâu? Bà lão nói.
· Nếu không giúp được vật chất tôi có thể
giúp cho bà phương pháp giải quyết, Ngài đáp.
· Đời thật là bất công! Bà lão nói, người giàu thì càng
giàu thêm, dư ăn dư xài, kho lẫm tràn đầy, ngược lại người nghèo ngày càng xơ
xác, đổ mồ hôi mà vẫn không đủ ăn. Cái khó lại bó cái khôn! không có
cách xoay xở. Tôi sinh ra trong một gia đình nô lệ khốn
cùng, từ khi chào đời đến nay không lúc nào mà cái khổ
không đeo đẳng. Vì thế đến naytôi không còn sức chịu đựng, chỉ
muốn đi tìm cái chết may ra mới hết khổ.
· Thôi đừng khóc lóc nữa, trong cuộc đời này
đâu phải chỉ có bà nghèo. Thiên hạ phần đông là người nghèo, bà thử
xem tại nước này có bao nhiêu là nhà giàu. Với những thứ tiền của tràn
đầy kho lẫm, chắc gì những người giàu đã là không khổ? Vì lòng tham
ô không đáy có một họ lại muốn mười. Lòng tham dục hành hạ con
người ghê gớm lắm! Bởi thế tuy nghèo, nhưng lòng không dơ bợn, biết vừa
đủ là thấy thoải mái hơn. Đức Phật đã nói: "Người
giàu tuy ở thiên đường cũng không vừa ý, người nghèo biết vừa
đủtuy nằm dưới đất vẫn thấy an lạc."
· Đó là lý thuyết thôi Ngài ơi! Thực tế khác
hẳn. Người giàu khác với kẻ nghèo, vì muốn ăn là có ăn, muốn mặc là có mặc. Họ
bỏ tiền ra là muốn gì cũng được. Còn nghèo như tôi suốt đời làm nô
lệ, làm việc quần quật cả ngày mà đôi lúc còn bị roi vọt, chửi rủa,
thức từ 4,5 giờ sáng đến quá 12 giờ đêm mà cơm không đủ no, quần áo rách tả
tơi, cái nghèo đeo đẳng suốt đời, vì thế tôi muốn chết may ra mới hết thống
khổ
· Vậy bà hãy bán cái nghèo đi.
· Cái nghèo đâu có bán được, ai lại dại dột mà
đi mua cái nghèo.
· Nếu bà chịu bán tôi sẵn sàng mua.
· Thôi đừng đùa, tội quá Ngài ơi!
· Tôi tu hành nên không có nói đùa đâu, tôi
mua thật. Cái nghèo có thể bán lắm chứ? Có điều là người ta không biết cách
bán, phương pháp bán nghèo là bố thí. Mọi sự kiện trên
đời đều có nguyên nhân. Giàu là kết quả của sự tu phước bố thí,
còn nghèo là vì đã quá keo kiệt. Vì thế thực hành bố
thí là phương pháp bán nghèo.
· Nhưng tôi nghèo quá biết lấy gì mà bố thí, cái
vò trong tay tôi là của chủ Bà La Môn tôi đâu có đem bố
thí được. Lỡ tay làm bể là đã bị ăn đòn, huống gì là đem bố
thí cho người khác.
· Tôi đang khát nước vậy bà hãy đem vò nước xuống sông
múc nước bố thí cho tôi.
Nghe xong bà liền đi múc nước bố thí và tỉnh
ngộ. Nhờ Ca Chiên Diên chỉ dẫn, bà thường làm việc bố thí, lòng
được thoải mái và cuộc đời trở nên an lạc hơn trước.
Nhờ tài luận nghị, suốt cuộc đời đi giáo hóa Ngài
đã cảm hóa được nhiều người, dẫn dắt người nghèo về với Đức Phật,
khiến ai cũng cảm thấy an lạc ngay trên cõi đời này.
Nhận Thức và Kết Luận
Đức Phật ra đời với mục đích chính yếu là khai
hóa cho nhân loại chúng sinh biết con đường giác
ngộ và giải thoát khỏi sinh tử luân hồi. Tuy
nhiên không phải vì thế mà Phật bỏ quên vấn đề xây dựng con
người, xây dựng xã hội, đó là mầm mống cho giải thoátsinh, già,
bệnh, chết. Nếu mầm mống không xây thì lâu đài không có chỗ dựa vững chắc.
Trong kinh Bách Dụ có câu chuyện:
· Người mướn thợ xây nhà mà chỉ đòi xây lầu không cần
xây nền móng, người đời gọi đó là xây nhà trên nền cát, việc
làm đó chẳng bao giờ thực hiện được.
· Trong kinh Phật dạy: Phật pháp bất
ly thế gian giác, ly thế mích bồ đề do như cầu thế giác.
Nghĩa là: Phật pháp không ngoài thế gian mà giác ngộ, xa
lìa cuộc đời mà tin bồ đề, giống như tìm lông rùa sừng thỏ.
Một trong những nguyên nhân thúc đẩy Thái Tử Tất
Đạt Đa xuất gia chính là xã hộikhông bình đẳng,
không an lạc của Ấn Độ lúc bấy giờ. Noi guơng Đức Phật trên
đường đi bố giáo Ca Chiên Diên đến gặp vua nước Ma Thâu,
nhân cơ hội nhà vua kích bác vấn đề bỏ đẳng cấp cao theo đẳng cấp
thấp của mình, Ngài đã đem thuyết bình đẳng diễn giảng. Sau cuộc hội
kiến với Ca Chiên Diên, vua Ma Thâu áp dụng giáo
pháp bình đẳngvào xã hội, nhờ đó nước Ma Thâu được an
lạc, không còn cảnh người bóc lột người, kẻ nô lệ luôn
luôn chịu cảnh nô lệ, người Bà La Môn cứ tiếp tục ăn
trê ngồi trước dù phạm pháp, ác độc. Qua câu chuyện vua nước Ma
Thâu, thực hành pháp bình đẳng trong công tác xây dựng xã
hội cho thấy đạo Phật không tiêu cực, xa thực tế để
đi tìm một thế giới trên chín tầng mây.
Ngoài truyền bá giáo lý bình đẳng Ngài
còn đề cao giá trị con người qua phẩm giá đạo đức, để từ đó
có tinh thần vị tha, bố thí giúp cho con người hết
đói nghèo và đặc biệt là loại trừ tính tham dục, mê hoặc, ngã
kiến, ngã chấp, để sống hòa hợp không tranh cãi. Với những tinh
thần đạo lý, qua các cuộc hùng biện của Ca Chiên Diên, ngày
nay con người cần được phổ biến học hỏi. Bởi vì cuộc sống của con
người quá chênh lệch, giữa kẻ giàu và người nghèo, kẻ sang người hèn,
cần có một nhịp cầu thông cảm để nương tựa và giúp đỡ lẫn nhau hầu xây
dựng cho nhân loại một cuộc sống thanh bình và an
lạc
5. Tôn Giả A Nan Đà
Anada - Đa Văn Đệ Nhất
Trong hàng Thánh chúng hay thập đại đệ tử của Đức Phật, A Na Đà (Ananda) là vị trẻ nhất. Tôn giả là vị luôn luôn túc trực bên cạnh Phật, Tôn giảlà vị có nhiều đặc điểm nhưng điểm đặc biệt nhất của Ngài là trí nhớ. Tôn giả nhớ hết tất cả kinh điển do Phật tuyên giảng. Bởi thế Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi có kệ khen tặng A Nan rằng:
Tướng như thu mãn nguyện
Nhãn tợ thanh liên hoa
Phật pháp như đại hải
Lưu nhập A Nan tâm.
Dịch là: Tướng giống trăng thu đầy
Mắt giống hoa sen xanh
phật Pháp như biển rộng
Rót vào tâm A Nan.
Tôn giả được Đức Phật và thánh
chúng suy tôn là vị Đa Văn Đệ Nhất.
Dòng Họ và Danh Hiệu A Nan Đà
A Nan Đà gọi ngắn gọn là A Nan, em ruột của Đề
Bà Đạt Đa, con thứ của Bạch Phạn Vương, tức là em con chú của Đức Phật
Thích Ca Mâu Ni. A Nan sinh ra trong đêm Đức Phật thành đạo dưới
cội bồ đề, cho nên tên của Ngài còn có nghĩa là Khánh Hỷ (vui mừng). A
Nan rất khôi ngô tuấn tú, thông minh, hòa
nhã và vui vẻ. Khi trở về thành Ca Tỳ La Vệ, thấy A
Nan Đức Phật biết A Nan sẽ là vị kế thừa mạng mạch Phật
pháp sau này. Cho nên khi dọn chỗ ở, Đức Phật đến ngay cung điện
của Bạch Phạn Vương, ngự tại căn phòng kế cận phòng A Nan. Mỗi buổi
sáng mở cửa nhìn qua, A Nan thấy Phật và cung kính bái
chào. Ngày ngày chú bé A Nan lân la bên Phật và quạt cho Phật
khi nóng nực.
Thấy con mến Phật, ngại chú bé có thể chịu ảnh hưởng của
Phật và nhất là sợ con sẽ xuất gia theo Phật, nên Bạch Phạn
Vương gởi A Nan sang nước Tỳ Xá Ly. Vì nhớ nhà, nhớ cha
mẹ và nhớ Phật chú bé A Nan khóc đòi về. Rồi cũng không thể xa
chú bé ngây thơ, mủm mỉm duyên dáng, đẹp đẽ lại thông
minh, Bạch Phạn Vương lại đưa chú bé A Nan về thành Ca
Tỳ La Vệ.Với luật tương duyên việc gì đến sẽ đến, có cản ngăn cũng không được.
Khi đã thấm nhuần mưa pháp, một số vương tôn công tử xin Phật xuất
gia, dù còn bé, A Nan cũng xin các Vương tôn được đi
theo Phật.
Đạo Nghiệp của A Nan Đà
Làm Thị giả Phật
Sau khi được theo Đề Bà Đạt Đa, A Na Luật, Ưu
Ba Ly, La Hầu La... về Trúc Lâm Tinh Xá, dù còn nhỏ tuổi, A
Nan rất siêng năng tham dự các buổi thuyết pháp của Phật.
Với tính thông minh sẳn có, A Nan nhớ hết những lời Phật
nói, ngược hẳn với Châu Lợi Bàn Đà Già, học một câu kệ 3 tháng mà không
thuộc, A Nan nghe một biết mười. Thế nhưng Châu Lợi Bàn Đà
Già chứng thánh quả khi Phật còn tại thế, A Nan phải
đến sau Phật Niết Bàn 3 tháng mới chứng quả A La Hán, trước
ngày khai mạc đại hội kiết tập kinh điểnmột hôm.
Dù A Nan thông minh có thể nối thạnh Phật
pháp theo sự nhận xét của Đức Phật, nhưng tuổi còn nhỏ cần
có thời gian tập sự, mãi đến hai mươi năm sau, A Nan mới được tăng
đoàn đề nghị làm thị giả hầu cận Phật. Từ sau khi Đức Phật thành
đạo cho đến lúc Ngài A Nan được cử làm thị giả, Phật
không có một thị giả nào nhất định. Thân cận Phật lúc đầu có
Ngài Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên, tiếp đến có Tỳ
kheo Na Ca Ba La, rồi nhiều tỳ kheo khác thay nhau hầu Phật.
Năm Đức Phật 50 tuổi, tăng đoàn thấy Phật cần có một thị
giả thường trực bên cạnh, để giúp đỡ Phật mọi sự cần thiết. Vì
thế, Tăng đoàn mở một đại hội để chọn thị giả, trong hội
có nhiều vị tỳ kheo xung phong nhưng Phật đều không thuận. Tôn
giả Mục Kiền Liên thấy trong số đệ tử không ai hơn Ngài A
Nan, nên Ngài liền đến khuyên A Nan rằng:
· Này A Nan! Ý Đức Thế Tôn muốn ông làm
thị giả, ông hội đủ nhiều yếu tố, đặc biệt là dựa
vào trí nhớ, về sau ông có thể thay đức Thế Tôn tuyên
dương diệu pháp. Ông giống như một tòa lâu đài to lớn, mở cửa sổ ở phía
đông là có thể giúp cho ánh sáng rót thẳng vào vách phía tây.
Nghe nói, thấy trách nhiệm lớn lao quá sợ không
kham nổi A Nan từ chối, nhưng Xá Lợi Phất và Mục Kiền
Liên khuyên mãi cuối cùng A Nan nhận. Nhưng e ngại tyï hiềm
có thể xảy ra, A Nan yêu cầu Tôn Giả Mục Kiền Liên trình
lên Đức Phật 5 thỉnh nguyện:
1. Không mặc áo Phật cho dù cũ hay mới.
2. Không đi trước khi có Phật tử thỉnh
về nhà cúng dường.
3. Được ngoài hay đi chỗ khác, khi Phật tiếp tín chúng
đến hỏi đạo, nếu sự hiện diện của thị giả không cần
thiết.
4. Không ăn thức ăn thừa của Phật
5. Được tùy tiện sắp xếp hoặc cho hay không
cho mỗi khi có khác muốn đến yết kiếnPhật.
Khi 5 thỉnh nguyện trình lên, Phật hoan hỷ chấp
thuận ngay vì Phật thấu hiểu tâm tư A Nan và hết
lòng khen ngợi A Nan là người thông minh, tế nhị, thuần
hậu, vui vẻ.
Giúp cho nữ giới xuất gia
Khi vua Tịnh Phạn băng hà, Phật về thành Ca Tỳ
La Vệ lo việc lễ táng và sau khi đã đề cử Ma Ha Nam lên làm
vua, Đức Phật đến tạm trú tại rừng Ni Câu Đà. Thấy nhà vua
đã mãn phần, việc triều chính cũng đã có nguời lo, bà Ma Ha Ba Xà Ba
Đề rất hài lòng qua sự sắp xếp của Phật. Một hôm bà dẫn 500 thể
nữ thuộc dòng họ Thích đến rừng Ni Câu Đà bái yết Phật,
xin được xuất gia và dâng lên Phật hai tấm y do bà tự tay cắt
may. Đức Phật không chấp thuận cho nữ giới xuất gia,
dù bà nhiều lần khẩn khoản cầu xin. Theo Phật, giới nữ nặng về tình cảm,
nhẹ ý chí, có thể gây phiền hà rắc rối cho giáo đoàn.
Bởi thế, giáo đoàn có sự tham dự của phụ nữ chánh
pháp sẽ giảm mất 500 năm.
Di Mẫu vô cùng buồn bã khi Phật nhiều lần từ chối.
Để làm cho Di Mẫu vui lòng, Đức Phật nhận một tấm y, tấm
còn lại Phật khuyên nên đem cúng dường cho một vị tăng khác. Sau khi
thấy nước Ca Tỳ La Vệ ổn định về mọi mặt, Đức Phật cùng tăng
chúng rời Ni Câu Đà đi du hóa vùng lưu vực sông Hằng. Di
Mẫu Ma Ha Ba Xà Ba Đề không bỏ ý hướng quyết tâm xin
Phật xuất gia. Một hôm bà cùng 500 thể nữ xuống tóc, mặc cà sa,
và vượt qua hai ngàn dặm đường để đến Tinh Xá Na Ma Đề
Kiền Ni, nơi Phật đang giáo hóa để bái yết khẩn cầu. Vượt
qua bao dặm đường dài hiểm trở lại gặp trời mưa gió nên cả
đoàn mệt lả.
Khi đến Tinh Xá thì trời cũng vừa tối nên đoàn người
đành dừng chân ở cổng, đợi đến sáng mai sẽ vào thỉnh Phật cho xuất
gia nếu không được thì cũng chết ở đây chứ không trở về thành
Ca Tỳ La Vệ. Lúc sáng sớm vì có việc cần phải ra ngoài Tinh
Xá, Tôn giả A Nan bất chợt gặp Di Mẫu và 500 thể nữ dòng
họ Thích, mình khoác cà sa và đã thế phátđang đứng trước cổng Tinh
Xá trông thật vô cùng thiểu não. Tôn giả vô
cùng thương cảm nên hứa với Di Mẫu sẽ khẩn khoản xin Phật cho
phái nữ được xuất gia. Để đáp lạinhiệt tình và ý chí cao độ
của Di Mẫu, Đức Phật chấp thuận lời thỉnh cầu của A
Nan, nhưng buộc ni giới phải giữ thêm một số giới
pháp và triệt để tuân hành Bát kỉnh pháp. Bà Ma Ha Ba
Xà Ba Đề vô cùng hân hoan và xin triệt để tuân
hành lời Phật dạy. Ni giớirất nhớ ơn Tôn giả nên mỗi khi có
dịp gặp Ngài họ rất vui mừng và tiếp rước Ngài một cách niềm
nở cung kính.
Ác Mộng
Khi thấy Đức Thế Tôn ngày càng già yếu,
lòng A Nan vô cùng lo lắng, nếu Phật vào Niết Bàn A
Nan biết dựa vào đâu để tu học và chứng quả thánh.
Trong một đêm nằm mộngthấy 7 diềm quái lạ, A Nan cảm thấy lo
sợ hoang mang. Sáng sớm thức dậy A Nan đến đảnh lễ Đức
Thế Tôn và kể lại 7 điềm mộng xin Đức Phật giải thích:
1. Khắp nơi các ao ngòi sông hồ biển cả dều bị lửa dữ rực
cháy, khô cạn tất cả.
2. Mặt trời rơi rụng, thế giới tối đen,
không có một ánh sao, đầu con vượn lao lên chín tầng mây.
3. Các Tỳ kheo không tuân giữ giới luật
treo áo cà sa.
4. Trong cảnh chông gai lao lý Tỳ
kheo khốn khổ, pháp y tơi bời.
5. Cây chiên đàn xanh tươi bị các đàn heo rừng
đến bới gốc, trốc rễ.
6. Không nghe lời voi mẹ, vo con tung
tăng chạy khắp nơi, lạc vào chốn đồng khô cỏ cháy, chết đói chết,
khát ngổn ngang.
7. Sư tử chết, các loài điểu thú côn trùng
không dám đến gần, dòi từ trong ruột sư tử bò ra lúc nhúc,
rúc tỉa thịt xuơng sư tử.
Khi nghe A Nan kể, biết đó là điềm chẳng lành Phật giải
thích:
· Này A Nan! Đã là mộng nên làm gì có thực, tất cả đều
do tâm thức biến hiện, chắc lòng ông có gì khắc khoải lo âu! Tuy
nhiên giữa cái có và cái không vốn không tách biệt, bởi thế giấc mộng của
ông là điềm báo trước giáo pháp của ta trong tương lai.
· Này A Nan! Điềm thứ nhất: Lửa cháy thiêu đốt, sông biển
khô cạn, biểu hiện tương lai các vị Tỳ kheo được hưởng đầy đủ mọi sự cúng
dường nhưng lại không giữ giới pháp thanh tịnh, khởi xướng nhiều
việc đấu tranh gây gỗ.
· Điềm thứ hai: Sau khi ta Niết Bàn giống như
trời đất mù tối, để chánh pháp không bị lu mờ, Tăng
đoàn sẽ yêu cầu ông tuyên dương giáo Pháp.
· Điềm thứ ba: Trong tương lai có hạng Tỳ
kheo chỉ chuyên nói lý thuyết suông không lo tu hành.
· Điềm thứ tư: Trong tương lai có hạng Tỳ kheo không
lo tu giới, định, tuệ, xuôi theo thế tục có vợ con đùm đề.
· Điềm thứ năm: Trong tương lai có hạng Tỳ
kheo chỉ chuyên buôn Phật, bán thánh, đem chánh
pháp làm phương tiện đổi chác, mong cầu lợi dưỡng.
· Điềm thứ sáu: Trong tương lai có hạng Tỳ kheo trẻ
tuổi không chịu học tập theo lời dạy dỗ của sư trưởng, không tin nhân
quả tội phước, chết đọa vào địa ngục.
· Diều thứ bảy: Trong tương lai chính đệ tử Phật phá
hoại giáo pháp của Phật, chứ không phải ngoại đạo đủ sức phá
hoại chánh pháp.
Trong 7 điềm mộng, ngay sau khi Phật Niết
Bàn 3 tháng, điềm thứ hai đã xảy ra tại núi Kỳ Xà Quật. Tôn giả
Ca Diếp mở cuộc Kiết tập kinh điển, Ton giả A Nan được yêu
cầutuyên đọc tạng kinh.
Yêu cầu Đức Phật Di Giáo
Tại rừng Ta La Song Thọ, thành Câu Thi Na,
khi Đức Thế Tôn sắp nhập Niết Bàn, người khóc than thê thảm nhất
là Ngài A Nan, Đức Phật khuyên A Nan không nên khóc vì
ở đời có sinh tất có diệt. Con người có hợp thì có tan, đó là một định
luật không ai có thể cưỡng lại được, Phật tuy đã giác ngộ và giải
thoát nhưng dư báo vẫn còn cho nên phải xả để vào vô dư Niết Bàn. Tất
cả giáo pháp tự lợi, lợi tha, Đức Phật đã tuyên giảng
đầy đủ, con đường tiến đến chân trời giác ngộ, giải
thoát Phật đã chỉ rõ. Do đó Phật còn ở lại thế gian cũng bằng thừa,
hơn nữa có Phật mọi người sẽ ỷ lại, không chịu khắc phục thân
tâm tiến tu đạo nghiệp. Trước giờ phút Niết Bàn Phật hỏi đại
chúng còn gì nghi ngờ hãy nêu rõ.
Tôn Giả A Nan đến trước Đức Phật đảnh lễ và
thưa:
· Bạch Đức Thế Tôn! Con có 4 điều thắc mắc xin Đức
Thế Tôn chỉ giáo:
· Thứ nhất: Sau khi Đức Thế Tôn Niết
Bàn chúng con biết nhận ai làm thầy?
· Thứ hai: Sau khi Thế Tôn Niết
Bàn chúng con biết nương tựa vào đâu?
· Thứ ba: Sau khi Thế Tôn Niết Bàn chúng
con làm sao hàng phục kẻ dữ?
· Thứ tư: Sau khi kiết tập kinh điển, nên để
lời gì ở đầu mỗi kinh?
Đức Phật trả lời:
· Này A Nan sau khi ta nhập Niết
Bàn thứ nhất các ông hãy lấy Ba La Đề Mộc Xoa (Giới) làm thầy.
· Thứ hai: Hãy an trú vào Tứ niệm xứ (Quán
thân bất tịnh, quán tâm vô thường, quán pháp vô ngã, quán thọ thị
khổ).
· Thứ ba: Hãy dùng phép mặc tẩn (làm lơ,
không giao thiệp luận bàn) để hàng phục kẻ dữ.
· Thứ tư: Đầu mỗi kinh nên để câu Như thị ngã
văn (Tôi nghe như vầy), mà kiết tập kinh điển.
trả lời xong Phật khuyên A Nan và đại
chúng hãy tự mình thắp đuốc mà đi, giáo pháp của Như
Lai chỉ là phương tiện chỉ đường. Đức Phật cũng khuyên
các Tỳ kheo nên siêng năng tinh tấn thực hành giáo
pháp tự lợi, lợi tha.
Tham dự kiết tập kinh điển
Sau khi Đức Phật nhập diệt Tôn giả Đại
Ca Diếp tổ chức đại hội kiết tập kinh điển suốt ba
tháng, Ngài A Nan đuợc đại hội đề cử tụng lại tất cả các
kinh do Phật đã dạy. Tuy nhiên đại hội yêu cầu A
Nan phải sám hối sáu sai lầm đã vấp phải khi Phật
còn tại thế, và hãy ra ngoài dốc lòng tu tập cho đến khi
nào chứng quả A La Hán mới trở vào tham dựđại hội. Sáu tội Đột
Cát La mà A Nan phải sám hối là:
1. Do A Nan thỉnh cầu Phật nhận nữ
giới vào giáo hội.
2. Mượn cớ nước không sạch, A
Nan không cung cấp nước cho Phật uống, lúc ở gần thành Duy Ra Yết.
3. Đã biết Đức Phật có đại thần lực, có
thể khiến nước đục trở thành trong, A Nan vẫn không lấy nước
dâng Phật.
4. Phật nhắc ba lần về điều người tu học dược tứ
thần túc, có thể kéo dài thêm mạng sống, A Nan im lặng chẳng
thưa thỉnh Phật mới vào Niết Bàn.
5. Là thị giả cần cẩn thận, A
Nan đã dẫm chân lên y Tăng già lê của Phật.
6. Sau khi Phật Niết Bàn, A Nan đã
cho nữ giới xem tướng mã âm tàng của Phật.
Với tâm hoan hỷ nhu thuận sẳn có, Tôn giả đã thành
tâm sám hối sáu điều mà đại hộiyêu cầu. Sau đó Tôn giả ra
ngoài động kiếm chỗ vắng vẻ ngồi kiết già nỗ lực tu tập, vào nữa
đêm Ngài chứng được A La Hán quả. Khi trời vừa sáng Tôn giả trở
vào động cũng vừa đúng lúc đại hội bắt đầu. Trước thánh
chúng Tôn giả trùng tuyên 4 bộ kinh A Hàm: Trường A
Hàm, Trung A Hàm, Tạp A Hàm và Tăng Nhất A Hà. Ngoài
ra còn có một số kinh khác như: Kinh Thí dụ, Kinh Bổn
Sanh, Kinh Pháp Cú...Trong cuộc kiết tập kinh điểnlần thứ nhất A
Nan đã thực hiện trọn vẹn di chúc của Phật là, đại diện Phật tuyên
dươngchánh pháp.
A Nan Niết Bàn
Sau Khi Đức Phật Niết Bàn Tôn giả Đại Ca
Diếp thống lãnh giáo đoàn cho đến lúc hơn 100 tuổi thì
vào Niết Bàn. Người thừa kế là Tôn giả A Nan, vị tổ thứ hai
theo Bắc Tông Phật giáo. Đến khoảng 120 tuổi, tự thấy cơ thể già yếu Tôn
giả quyết định nhập Niết Bàn. Ngài đem chánh phá và giáo
đoàn giao lại cho Thương Na Hòa Tu lãnh đạo. Chánh
pháp đã có người tiếp nhận kế thừa, Tôn giả A Nan lại
phân vân không biết nên Niết Bànở Ma Kiệt Đà hay Tỳ Xá
Ly. Đức Phật truyền dạy giáo pháp bình dẳng cho nên phải loại
trừ tâm thiên vị, gây oán thù, tranh chấp, hơn nữa lúc bấy
giờ hai nước đang giao chiến đối đầu nhau. Cuối cùng để hai
nước khỏi so bì, Tôn giả chọn sông Hằng làm
nơi nhập diệt, vì sông Hằng là biên giới của hai nước.
Nghe tin Tôn giả A Nan sắp Niết Bàn ở sông
Hằng, Vua A Xà Thế tức tốc đến mé sông thì A Nan đã lên
thuyền ra giữa sông, Vua mời A Nan trở lại. Bên kia bờ dân
chúng Tỳ Xá Ly cũng dến bờ sông xướng lời thỉnh cầu Tôn giả qua Tỳ
Xá Ly Ra đến giữa sông Tôn giả A Nan nói lớn:
· Vì hai nước bất hòa, hai bên còn oán hận nhau
ta không biết nên Niết Bàn ở nước nào cho hợp lẽ. Do đó ta xét thấy
ra giữa sông nhập diệt là giải pháp công bằng nhất, ta
cầu mong hai nước chấm dứt chinh chiến lập lại hòa bình thân hữu.
Sau khi chỉ dạy dân chúng hai bên và vua A Xà Thế, Tôn
giả nhập định tam muội vào Niết Bàn. Xá Lợi của Tôn
giả được chia cho hai nước xây tháp tôn thờ, một tháp xây ở giảng đường Đại
Long phía Bắc Tỳ Xá Ly, một tháp xây cạnh Tinh Xá Trúc Lâm,
thành Vương Xá nước Ma Kiệt Đà. Nhờ cách nhập diệt và
lời kêu gọi của Tôn giả, hai nước hòa giải được hận
thù, chấm dứt chinh chiến sống trong hòa bình. Sự nhập diệt của Tôn
giả đã giúp cho tài sản hai nước khỏi thiệt hại, sinh mạng
của nhân dân được cứu vãn, vì thế nhân dân hai nước vô
cùng nhớ ơn Tôn Giả.
Qua cuộc đời và đạo nghiệp của Tôn
giả A Nan, có một vài vấn đề cho chúng ta cần đề cập đến.
Trước hết là Tôn giả đã giúp cho phái nữ xuất gia, vấn đề mà
nhiều lần chính Đức Phật đã khước từ. Dù Đức Phật chủ
trương bình đẳng, nhưng trong thực tế nam nữchung đụng hay nảy
sinh nhiều chuyện phức tạp, làm tổn hại đến thanh
danh của tăng đoàn khiến sự trường tồn của chính
pháp cũng bị suy giảm, đó là lý do Phật không nhận phái nữ xuất
gia. Không phải A Nan không rõ lý do nhưng với bản
tính dịu hiền, hay ưu áiphái nữ, A Nan đã mạnh dạn xin Phật
cho bà Ma Ha Ba Xà Ba Đề và 500 thể nữ xuất gia. Chính cũng
vì lý do xin cho phái nữ xuất gia trong kỳ kiết tập kinh
điển lần thứ nhất, A Nan đã bị đại hội kết tội và buộc
phải sám hối. Dù bị buộc tội làm cho chính pháp suy giảm,
nhưng Tôn giả đã góp phần cho giáo đoàn của Phật có được trọn
vẹn tinh thần bình đẳng của Phật.
Thứ đến là vấn đề bùa chú, trên đường đi khất
thực một mình, A Nan đã bị Ma Đăng Giàbỏ bùa suýt mất giới
hạnh, nhờ thần chú Lăng Nghiêm mà thoát nạn. Người ta thường cho
bùa là thứ phù phép siêu hình, riêng chúng tôi thấy vấn đề đó
chẳng có bùa phép siêu hình gì hết. Chẳng qua người ta rút từ động vật hay thực
vật ra một số hóa chất nào đó làm mê mẩn con người mà thôi, khi
hóa chất tan hết, con người trở lại bình thường, còn chữ và hình
vẽ chỉ là một thứ trang trí làm mà mắt thiên hạ.
Cụ thể như tỏi nén là chất làm cho rắn bị mê, sả có
mùi làm cho rắn sợ không dám đến gần, dầu mè dầu phụng có tác dụng đẩy
tử khí ra ngoài, ngược lại dầu thơm làm xúc tác cho tử khí tăng mùi, thuốc
Imenocotan làm cho người ta hôn mê... Còn thần chú, muốn có hiệu
quả, người trì chú phải có nhiều dụng công, tỉnh tâm, định
lực, thông thường gọi là phải tu luyện, cùng một bài chú có người đọc linh
nghiệm, có người đọc không linh nghiệm là do có công phu tu
luyện hay không.
Thần chú là một phương tiện khi chú
tâm trì tụng giúp cho định lực cao cường, cõi lòng vắng lặng chi
phối được tâm tư người khác. Thôi miên hoặc thần giao cách
cảm cũg thuộc dạng này, nhưng thấp hơn tu luyện bằng thần
chú, sự thật chỉ có thế chứ chẳng phải siêu hình gì hết. A
Nan vì chưa chứng thánh nên phải bị thần chú của Ma Đăng
Giàmê hoặc, Ngài Xá Lợi Phất đã chứng A La Hán, Thánh định
lực cao nên khi đọc chú Lăng Nghiêm đã chuyển được tâm tánh Ma
Đăng Già.
Một vấn đề khác là giấc mộng của A
Nan trở thành biểu hiện trong thực tại. Mộng có thể thực
có thể không thực. Chẳng hạn ban ngày chúng ta tiếp
xúc với vấn đề gây khủng hoảng tâm lý, đêm có ác mộng,
đó là mộng không thực. Khi nằm ngủ vì một động tác nào đó làm động mạch
tắc nghẻn, mộng sinh ra đó là mộng không thực. Còn ngày hoặc đêm chúng
ta quan tâm đến một vấn đề nào đó, trong giấc ngủ từ tiềm
thức trồi lên các hình ảnh mộng, những điềm đó có thể
thành hiện thực. Khi có điều kiện Phật gọi là nhân
duyên. Tôn giả A Nan có 7 điều mộng là do Tôn giả đã có sẳn tư
duy về vấn đề tuổi giàcủa Phật và sau khi Phật vào Niết
Bàn có những gì sẽ xảy ra, từ tư duy đó tiềm thức làm
việc và cho hình ảnh kết quả.
Đức Phật đã dựa vào 7 điều mộng để dự
đoán. Từ sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn đến nay, những điều Phật dựa
vào mộng để dự đoán đều đúng, vì Phật là bậc giác ngộ,
có trí tuệ ưu việt siêu đẳng cho nên tìm được hệ luận của mộng.
Với ba vấn đề qua tư duy và trình bày của chúng
tôi ở trên chỉ là ý kiến gợi ý cá nhân, do đó vấn đề cần
có thời gianđể tư duy và thực nghiệm thêm, mới có thể xác thực
hơn. Sau cùng với thời hiện đại, với giáo pháp của Phật, chúng
ta đa phần thiên về nghiên cứu, lý thuyết nhiều hơn là thực
nghiệm tu chứng. Bởi thế chúng ta cần noi gương Tôn giả A
Nan trong vấn đề tuyên dương chánh pháp để tự lợi và
giúp ích cho mọi người nhiều hơn. Lấy chính pháp trang
nghiêm bản thân, trang nghiêm Phật giáo cũng chính là để
góp phần trang nghiêm xây dựng quốc độ, an bình, phúc
lạc.
6. Tôn Gỉả A Na Luật
ANIRUDHA Thiên Nhãn Đệ Nhất
Sau khi thành đạo Đức Phật xuống núi,
đi giáo hóa khắp nơi, Đức Phật cũng không quên trở vềthành
Ca Tỳ La Vệ thuyết pháp cho hàng vương tôn công tử, và đã khuyến
hóa được nhiều thân thuộc xuất gia. Trong số 7 vương tử
đi xuất gia có A Na Luật là bậc Thiên Nhãn Đệ Nhất.
Dòng Họ A Na Luật.
A Na Luật (Anirudha), là em ruột của Ma Ha Nam(Ma
Ha Bạt Đề), con thứ của Cam Lộ Phạn Vương dòng Sát Đế Lợi. Ma
Ha Nam đã được Phật Thích Ca đưa lên ngôi vua nước Ca
Tỳ La Vệ, sau ngày vua Tịnh Phạn băng hà. Cam Lộ Vương là
em thứ hai của Tịnh Phạn Vương, do đó A Na Luật là đường đệ của
Phật Thích Ca. Lúc tuổi thơ, A Na Luật là một cậu bé được
nhiều người thương mến. Ngài rất thông minh, hoạt bát, có
tài âm nhạc hay ca hát, làm điệu bộ trước đám đông khiến ai cũng yêu
quý. A Na Luật dược nuông chiều nuôi dưỡng trong hoàng
cung, và bạn cùng chơi với Bạt Đề và Kiếp Tân Namột cách ngây
thơ, hồn nhiên.
Khi đến tuổi trưởng thành A Na Luật có vóc
dáng anh dũng, diện mạo khôi ngô tuấn tú, nên được nhiều thiếu nữ mơ
tưởng đeo đuổi, nhưng với bản tính đoan chính, A Na Luậtchẳng hề
bị sắc dục làm xao động. Lúc Đức Phật về Ca Tỳ La
Vệ thuyết pháp, thấm nhuần mưa pháp xem nhẹ lạc thú trần
gian, A Na Luật cùng với anh là Ma Ha Bạt Đề và A
Nan, Đề Bà, Kiếp Tân Na, Bà Sa Nam Đề và La Hầu
La quyết tâm theo Phật xuất giahọc đạo. Cả 7 vương tử kéo
theo Ưu Ba Ly, một thợ cạo râu tóc thuộc giai cấp Thủ Đà
La đi theo. Được Phật chấp nhận, Ưu Ba Ly cạo bỏ râu tóc
cho 7 vương tử. Khi về đến Tinh Xá, để thử xem các vương tử đã thật sự loại
được tâm đắm say lạc thú hay chưa, Đức Phật bảo cả 7 vị
vào tịnh thất tĩnh tọa 1 tuần lễ rồi mới cho nhập giáo
đoàn.
Đạo Nghiệp của A Na Luật
Cự tuyệt thiếu nữ cầu hôn
Sau khi xuất gia và đã thông hiểu đạo
lý giải thoát, A Na Luật được Phật phân công du hóa phương
xa. Một hôm trên đường đến núi Kiều Tát La thuyết pháp, giữa đường gặp
trời mưa, đêm tối, nhưng không có một cảnh già lam nào dành cho
các Tỳ kheo tạm trú, A Na Luật đành đến nhà thường
dân gõ cửa xin tạm tá túc một đêm. Ra mở cửa, thấy A Na Luật có hình
tướng khôi ngô tuấn tú, trẻ đẹp, thiếu nữ rất vui mừng niềm
nở mời vào. Trong nhà không có ai cả chỉ một mình thiếu nữ giữ
nhà. Tấn thối lưỡng nan, cửa ngoài đã đóng kỹ, thế chẳng đặng đừng A
Na Luật đành ở lại. Nhưng để giữ phẩm hạnh A Na Luật không nằm
nghỉ mà ngồi kiết già nhất tâm tĩnh tọa.
Đến nửa đêm, dưới ánh sáng mông lung của ngọn
đèn, thiếu nữ đến gạ gẫm chuyện với lời lẽ cợt nhã. A Na Luật một
mực nín lặng không dám hé môi, mở mắt. Thiếu nữ kể lễ có
nhiều trưởng giả đến cầu hôn nhưng nàng từ chối.
Theo thiếu nữ, chuyện duyên nợ ba sinh nay mới đến thời điểm,
nàng hết lời ca ngợi A Na Luật, nào là diện mạo khôi ngô tuấn
tú, nào là da dẻ hồng hào, thân hình cân đối... So với nàng thật
là xứng đôi vừa lứa mong được kết tóc xe tơ. Thiếu nữ yêu cầu A
Na Luật ở luôn tại nhà này, cha mẹ nàng sẽ mừng rỡ vô
cùng, thiếu nữ càng van xin khẩn khoản, A Na Luật càng
nhắm kỹ đôi mắt, cố giữ tâm bất động. Thấy A Na Luật một mực kiên
trì không lay động, thiếu nữchoàng tay qua thân Ngài.
Thấy tình thế nguy ngập đến nơi A Na Luật mở
mắt nhìn thẳng vào thiếu nữ và nói lời phản đối dữ dội. Thiếu
nữ vô cùng thẹn thùng, xấu hổ và thất vọng, nằm vật xuống
đất khóc than, gần như một người mắc bệnh tâm thần. Biết thiếu nữ có
thể đã rối loạn thần kinh, A Na Luật đổi giọng ngọt
ngào khuyên bảo và giảng giải cho thiếu nữ biết tham
ái là gốc của sanh tử, người tu hành cần đem lưỡi gươm
trí tuệ chặt đứt ái dục, thoát khỏivòng luẩn quẩn sinh tử
luân hồi. Nghe Ngài giảng giải thiếu nữ từ từ tỉnh ngộ,
và vô cùngcảm mến đạo hạnh của Ngài. Trước khi trời sáng A
Na Luật sửa soạn hành trình, thiếu nữ quỳ lạy sám hối và
xin được quy y làm đệ tử.
Chứng Thiên Nhãn
Nhờ nghiêm trì phạm hạnh không bị nữ sắc cám
dỗ, A Na Luật rất được mọi giới kính ngưỡng, nhưng A Na Luật chưa
loại trừ được ma mê ngủ. Mỗi khi vào giảng đườngnghe Phật
thuyết pháp dù đã hết sức cố gắng, A Na Luật vẫn thường
ngủ gục. Vài ba lần A Na Luật đã bị Phật quở trách. Một hôm Phật
gọi A Na Luật đến bảo rằng:
· Này A Na Luật! Ông xuất gia học đạo vì
sợ phép nước hay sợ trộm cướp.
· Bạch Thế Tôn! Không phải như vậy.
· Thế vì lý do gì mà ông xuất gia?
· Bạch Thế Tôn vì con chán cảnh sinh, lão, bệnh,
tử và muốn giác ngộ, giải thoát hết các khổ não.
· Này A Na Luật! Ông là con người đoan
chính, phạm hạnh không sa ngã bở nữ sắc, cho nên được giáo
đoàn kính trọng. Tính háo sắc, người đời khó trừ được còn ông là người
không mù quáng, thế tại sao tính ham ngủ ông lại không dẹp bỏ được?
Trong lúc nghe pháp mà ngủ thì bao giờ mới chứng đạo giải
thoát?
Nghe Phật quở, A Na Luật quỳ lạy sám hối và
phát lời thề rằng:
· Bạch Thế Tôn con xin sám hối tội
hay ngủ gục trong lúc nghe phá, cúi xin Đức Thế Tônlượng thứ. Từ nay về
sau con sẵn sàng chịu mọi cực hình miễn sao diệt trừ được tật
xấu ngủ gục.
Từ đó Tôn giả quyết tâm không ngủ. Lúc nào
cũng mở to đôi mắt nhìn vào khoảngkhông, từ đầu hôm đến sáng, từ sáng đến
chiều không chớp mắt. Sức người có hạn, sau những giờ làm việc mệt nhọc, con
người cần có giấc ngủ để lấy lại sức lực. Sự vận hànhcủa thiên
nhiên giữ cho con người đuợc thăng bằng. Mặt trời xuất
hiện soi sáng mọi vật, giúp con người hoạt động. Mặt
trời đi ngủ khiến không khí mát mẻ, bóng đêm tràn ngập, giúp con
người ngủ nghĩ để tâm hồn bình thản, trái với thiên
nhiên, con người mất hết sức lực. Mất ngủ là một
bệnh, cơ thể dã dượi, hai mắt sưng húp. A Na Luật đã cải thiên
nhiên, ngồi chong mắt hết ngày nọ đến ngày kia, khiến hai mắt sưng vù.
Từ trên pháp tòa, nhìn thấy A Na Luật đã sưng
vù hai mắt, Phật rất lo lắng gọi đến và dạy rằng:
· Này A Na Luật! Người tu hành hãy
tránh hai thái cực: Bất cập hoặc thái quá đều chẳng đạt đạo. Dây
đàn căng quá hoặc chùng quá khiến đàn không kêu, dây đàn vừa phải, tiếng
đàn mới thánh thót. Sự tu hành phải đi theo con đường trung
đạo. Ông không nên hành đạo theo con đường thề độc của ông,
nguy hiểm lắm đạo chưa đạt mà mắt đã mù, sẽ chịu thiệt hại nhiều thứ.
· Bạch Thế Tôn! Con không thể trái nguyện, xin Thế
Tôn cho con được giữ tròn.
· Này A Na Luật! Sống trong đời con
mắt rất cần yếu, mắt bị mù sẽ không thấy biết gì hết. Con người sống
được nhờ ăn, có ngủ nghĩ con mắt mới tinh sáng. Giấc ngủ là thức ăn của
con mắt, ông không ngủ tức là bắt mắt nhịn đói, đói ngủ nó sẽ mù sức khỏe của
ông cũng sẽ kiệt, sức kiệt thì làm thế nào tiến đến Niết Bàn, ông nên biết Niết
Bàn cũng cần thức ăn.
· Bạch Thế Tôn! Thế thức ăn của Niết
Bàn là gì?
· Thức ăn của Niết Bàn là
không buông lung (bất phóng dật), người không buông lungmới đạt Niết
Bàn.
Mặc dù Phật từ mẫn khuyên bảo, Tôn giả vẫn không
nghe cứ tiếp tục cố mở mắt, một thời gian ngắn, đôi mắt
bị mù. Một hôm Tôn giả mặc một tấm áo, biết có chỗ rách bèn ngồi vá
áo, nhưng không biết mượn ai xâu chỉ vào kim, Phật đến trước A Na Luật và
nói:
· Để ta xâu giúp cho.
Tình thương của Phật thật bao la, A Na Luật rất cảm
động. Xâu chỉ xong, Phật trao kim lại nhưng A Na Luật cũng chẳng thấy
để may, tay cứ mân mê cái áo. Thấy thế Đức Phậtlại bảo:
· Để ta giúp cho.
Suốt ngày Phật nắm tay A Na Luật hướng dẫn để mũi
kim lên xuống đều đặn, mãi đến chiều ba y đã vá xong. Để giúp cho A
Na Luật không cần mắt thịt vẫn thấy xuyên suốt ba ngàn thế
giới, Phật dạy A Na Luật phương pháp nhập định, luyện
phép thiên nhiên. Bản chất vốn hay cương quyết, lại tuyệt
đối tin Phật, A Na Luật chứng được Thiên Nhãn Thông. Được giáo
đoàn suy tôn là bậc Thiên Nhãn Đệ Nhất trong hàng Thánh
chúng.
Tám Điều Giác Ngộ Của Bậc Đại Nhân
Sau khi chứng Thiên nhãn thông Tôn giả đến
trước Phật tỏ lòng biết ơn rồi thưa rằng:
· Bạch Thế Tôn! Bước đầu của người xuất
gia là loại trừ tham sân, ngã mạn, tật đố, để bản thân có
phẩm hạnh vô ngã, vị tha, và đem lại cho mọi người được nhiều
phước lạc. Nhưng để tiến xa hơn đến chân trời giác ngộ, giải
thoát và niết bàn, người xuất gia còn phải thực
hành những gì xin Thế Tôn chỉ giáo.
· Đức Phật hoan hỷ dạy rằng:
· Hay thay! Hay thay! Người xuất gia cần phải hạ
hóa thượng cầu. Ngoài việc làm lợi íchcho con người,
cho xã hội, để giải thoát hàng Tỳ kheo cần phải thực
hành "Tám điều giác ngộ của bậc đại nhân". Đó
là:
· Thứ nhất: Giác ngộ thế gian vô thường,
đất nước nguy khốn, bốn đại khổ không, năm ấm không ngã, thảy
đều sinh diệt, hư dối không thật, tâm là gốc tội, thân thể biến
hoại. Quán sát như vậy dần lìa sinh tử.
· Thứ hai: Giác ngộ tham dục gốc khổ dẫn
vào sanh tử, thiểu dục vô vi thân tâm tự tại.
· Thứ ba: Giác ngộ lòng tham không đáy,
càng có càng cầu, càng thêm tội ác. Bồ tátngược lại, ít muốn biết đủ,
vui đạo quên nghèo, bồi đắp trí tuệ.
· Thứ tư: Giác ngộ, lười biếng trụy lạc điều
đáng tủi hổ, luôn luôn tinh tấn phá trừ phiền não, hàng phục tứ
ma chống khỏi địa ngục giam hãm.
· Thứ năm: Giác ngộ, ngu si là đầu mối của sanh
tử, Bồ tát chăm lo học rộng nghe nhiều, tăng trưởng trí
huệ sớm đuợc biện tài, giáo hóa chúng sinh là niềm vui
lớn.
· Thứ sáu: Giác ngộ, nghèo khổ sinh hận tạo
thêm duyên dữ, Bồ tát không oán không ghét người ác, oán thân
bình đẳng.
· Thứ bảy: Giác ngộ, dục là nguồn họa, còn ở thế
gian, tâm không đắm dục, tâm chíhướng về chí hạnh xuất
gia giữ hạnh thanh bạch, cầu hạnh thanh tịnh thương khắp mọi
loài.
· Thứ tám: Giác ngộ, lửa sinh lửa tử, ngày đêm
thiêu đốt, biển khổ không bờ, phát tâmđộ sinh, thay hết chúng
sinh, chịu vô lượng khổ khiến đều an vui.
Này A Na Luật! Chư Phật thường khai thị tám điều
trên đây. Muốn được giác ngộ cần vận dụng tâm từ bi rộng
lớn làm nền tảng cho vấn đề tu phướcvà huệ. Người đuợc như thế tất sẽ thành
đạt cứu cánh Niết Bàn, thường lạc ngã tịnh.
Nhận Thức và Kết Luận
Trong nhân loại, giữa nam và nữ, nam mang tính lý
trí và năng động, còn nữ thiên về tình cảm nên nặng
tính thụ động và đặc biệt là tôn giáo tính. Bởi
thế trong các cuộc lễ tôn giáo phái nữ chiếm nhiều hơn, ngưòi đi tu
cũng chiếm đa số. Còn nếu xét về giai cấp thì từ xưa đến
nay chỉ có Phật Thích Ca là vị xuất thân từ dòng
dõi vua chúa, trong số đệ tửcủa Phật đa phần là giai cấp thấp
hoặc từ đạo sĩ Bà La Môn chuyển hướng. Còn giai cấpSát Đế Lợi ngoài Đức
Phật chỉ có 8 vương tôn công tử,trong đó có A Na Luật người dám
bỏ lạc thú trần gian để theo Phật xuất gia. Việt
Nam có vua Trần Nhân Tông.
A Na Luật là con người đoan chính lại rất ý
chí, nên đã không bị nữ sắc lung lạc, lại giữ ý chí đến
như cực đoan, trong vấn đề ma ngủ đến mù cả hai mắt. Lại cũng nhờ quyết
chí A Na Luật đã chứng thánh, đạt được thiên nhãn thông. Được
thế nhưng không dừng lại ở đó, Tôn giả lại thỉnh vấn Phật phương
pháp giác ngộ và giải thoát cao hơn. Do đó Đức Phật đã
vì A Na Luật mà nói kinh Tám Điều Giác Ngộ của Bậc Đại
Nhân. Với kinh nàykhông chỉ là phương pháp giúp sự tu
hành cho A Na Luật xưa kia mà ngày nay chúng
ta cũng cần học để tiến tu. Sinh vào thời điểm mạt pháp, đạo
nghiệp chúng ta rất yếu, trong lòng còn nhiềư tham ái, tật đố, ngu
si, lười biếng, ích kỷ... Chúng ta nên noi gương Tôn giả A
Na Luật, tâm niệm tư tưởng 8 điều giác ngộ, giữ
tâm đoan chính, lập chí vững chắc để đừng bị tình đời lôi
cuốn, hầu nâng cao phẩm hạnh đạo đức giúp ích cho đạo, lợi
lạc cho đời và làm tư lương cho con đường tiến lên
chân trời giác ngộ và giải thoát.
7. Tôn Giả La Hầu La
Rahula - Mật Hạnh Đệ Nhất
Tục ngữ Việt Nam có câu: "Con vua thì được
làm vua, con sãi giữ chùa thì quét lá đa". Câu tục ngữcon vua quan
bao giờ cũng được che chở và tiếp tục chức tước, còn dân
thì cha truyền con nối cày sâu cuốc bẩm, còn mang ý
nghĩa nói lên tính huyết thống, di truyền mà ít ai nghĩ đến từ
ý nghĩa đó, tục ngữ Việt Nam còn có thêm một câu tương
tự: "Con nhà tông không giống lông cũng giống cánh". Tục ngữ Pháp
gọi là: "Cha như thế nào con như thế ấy" (Tel père, tel fils). Bởi thế
với xã hội chúng ta có thể thiết lập công bằng trên
bình diện quyền lợi vật chất, còn huyết thống di truyềnthì chúng
ta khó có thể san bằng được, nếu con người không chịu
cấy giống, tạo được khí hậu đồng đều giữa các miền.
Dù không có pháp chế chính thức, người Nhật đã âm
thầm lai giống cho nên ngày nay dân Nhật có tầm vóc cao, hết gọi là Nhật lùn,
ngoài vấn đềNhật có một đời sống vật chất cao, đầy đủ
chất dinh dưỡng. Từ đó thực tế cho thấy vấn đề huyết thống di
truyền rất là quan trọng đối với con người. Ngày xưa ở Ấn
Độ Thái TửTất Đạt Đa vốn sanh từ dòng Sát Đế Lợi, được thừa
hưởng huyết thống thông minh tài trí, lại nhờ bối cảnh xã hội thúc
đẩy, Thái Tử Tất Đạt Đa vượt trội lên để trở
thành Phật Thích Ca đấng Pháp Vương Vô Thượng. Về sau La Hầu
La dù có nghịch ngợm hay đùa cợt, nhưng đã nhờ sức tiếp huyết
thống của Phật Thích Ca nên đã thẳng bước tiến trên đường đạo
nghiệp, trở thành một đại đệ tử Đệ Nhất Mật Hạnh.
La Hầu La Thời Niên Thiếu
Là cháu đích tôn của vua Tịnh Phạn và là cháu ngoại
của vua Thiện Giác, La Hầu La(Rahula)rất được cưng chiều sống hạnh
phúc trong thời thơ ấu. Thái Tử Tất Đạt Đakhông những chỉ bỏ lạc
thú mà còn khước từ luôn cả ngôi báu, bởi thế trong tương lai người kế
vị vua Tịnh Phạn chắc chắn là La Hầu La. Đó cũng
là lý do La Hầu La được trìu mến trong hoàng
cung. Vả lại La Hầu La là niềm vui duy nhất của Da Du
Đà La, nên bà rất mực yêu thương và nuông chiều.
Sau ba năm thành đạo, Đức Phật mới trở về thành
Ca Tỳ La Vệ thăm Phụ vương, Di mẫu, Da Du Đà La và La
Hầu La. Toàn dân nô nức đón chào ngày trở về của Thái TửTất Đạt
Đa nay đã trở thành Phật Thích Ca, Vua Tịnh phạn cũng
đích thân đi đón. Da Du Đà La và La Hầu La không đi, chỉ
lên lầu ngó trông. La Hầu La lúc nào cũng bên mẹ, nên mãi chưa được
thấy phụ thân. Khi Đức Phật cùng Xá Lợi Phất và Mục
Kiền Liên đến cung của Da Du Đà La, La Hầu La mới biết phụ
thân. Nhưng với trí thông minh sẳn có dù chỉ 10 tuổi, La Hầu
La liền nghĩ Phật chẳng còn là phụ thân riêng của La Hầu
La mà là một bậc đại từ phụ của tất cả chúng sanh, với
tính thơ ngây La Hầu La thường đòi được ở chung với Phật.
Mỗi khi gặp Phật, La Hầu La lại đòi Phật cho gia tài. Một hôm
sau khi từ rừng Ni Câu Đà vào đến hoàng cung , Đức Phật nói
với Xá Lợi Phất:
· Chú bé La Hầu La cứ đòi xin ta gia
tài, ta không cho thứ tài sản mong manh của cuộc đời, ta
không muốn La Hầu La thừa kế ngôi báu, chỉ muốn cậu bé xuất
gia cầu đạo giải thoát. Do đó ta muốn Xá Lợi Phất hướng dẫn La
Hầu La xuất gia. Với huyết thống Phật chủng sẳn có, vâng lời Tôn
giả Xá Lợi Phất, La Hầu La xuất gia làm vị Sa di đầu
tiên trong giáo đoàn, tháp tùng các vương tôn theo Phật về Tinh
Xá Trúc Lâm, tiến tu đạo nghiệp nối tiếp dòng
thánh, trở thành vị Mật Hạnh Đệ Nhất.
Đạo Nghiệp La Hầu La
Sa Di nghịch ngợm
Dù đã thọ giới Sa di nhưng còn trẻ tuổi, La
Hầu La chưa ý thức rõ hết tầm quan trọng của con đường mới
và cũng chưa đủ kiến thức để lãnh hội chánh pháp.
Trong tăng đoànLa Hầu La giống như một cái máy, các bậc trưởng
thượng bảo sao nghe vậy, chẳng biết trách nhiệm của một sa
di phải làm những gì? Khi Xá Lợi Phất nhận thêm chú bé Quân Đầu
vào làm Sa di, La Hầu La bắt đầu có bạn và thường bày các trò
chơi nghịch ngợm, dối gạt người khác. Lúc ở rừng Ôn Tuyền, ngoài
thành Vương Xá, có nhiều quan quyền, trưởng giả, cư sĩ đến
hỏi nơi Đức Phật đang thuyết giáo để viếng thăm, La Hầu Lathường
trêu chọc bằng cách chỉ không trúng chỗ.
Nếu Phật ở Tinh Xá Trúc Lâm, La Hầu La bảo
ở Kỳ Xà Quật, ngược lại nếu Phật ở Kỳ Xà Quật, La Hầu La chỉ
ở Trúc Lâm, hai nơi này cách nhau đến những 5 dặm. Nhiều người
không bằng lòng cách trêu chọc của La Hầu La, nhưng La Hầu La vừa
là Sa di, vừa là con Phật lại thuộc dòng họ quyền quý, nên không
ai dám chỉ trích hoặc trách cứ. Chuyện nghịch ngợm dối gạt
để mua vui lâu ngày cũng đến tai Phật. Phật không vui chút nào, vì đã
là một Sa di mà tập khí vương giả, tính ý lại chưa tẩy trừ
được, Đức Phật đích thân đến vườn Ôn tuyền khiển trách La Hầu
La.
Phật Răn Dạy La Hầu La
Khi nghe tin Phật đến, La Hầu La vội
vàng ra nghinh đón. Thấy Đức Phật rất oai nghiêm từ xa
mới đến, La Hầu La đem nước đến để Phật rửa chân. Rửa xong, Phật chỉ
nước trong chậu hỏi La Hầu La:
· Này La Hầu La! Nước này có thể uống được
không?
· Bạch Thế Tôn! Không thể uống.
· Tại sao?
· Vì nước đã ô uế.
· Này La Hầu La! Ông cũng giống như thứ nước
đó. Thời gian xuất gia làm Sa di khá dài, gần 10 năm
nhưng với lề thói xấu xa, ông chưa dứt được.Nước ô uế không uống được, thân
tâm những người còn ô uế các tập khí có khác gì đâu? Hình
thức xuất gia mà thân, khẩu, ý còn trần tục tất không thể
thăng hoa. Người rời bỏ thế tục phải giữ lòng thanh tịnh, hành
vi cử chỉ nhẹ nhàng, nói năng ngọt ngào, lựa lời mà nói. Xuất
gia mà không trừ bỏ ba độc uế, chẳng khác gì nước dơ, nước không
sạch người ta sẽ đem đổ, con ngườimang nhiều tật xấu ắt sẽ sa đọa tương
lai đen tối.
Nói xong, Đức Phật bảo La Hầu La mang chậu
đi đổ nước dơ rồi mang chậu về, khi trở lại Phật hỏi:
· Này La Hầu La! Chậu này có đựng thức
ăn được không?
· Thưa không.
· Tại sao?
· Vì vết dơ bám đầy chậu.
· Này La Hầu La! Chậu dơ không đựng thức
ăn được, thân dơ cũng thế thôi. Ông chỉ là một hình đồng Sa
di mà thân, khẩu, ý không đồng, không tu tập giới, định, huệ, tâm
không trong sạch, lời nói bông đùa nghịch ngợm, thân dính đầy cấu
uế, mất hết oai nghi, như thế khác gì nước uế, chậu dơ. Chậu dùng không được
thì giữ lại làm gì?
· Nói vừa dứt lời, Phật lấy chân đá nhẹ vào chậu khiến
chậu vỡ đôi, Người lại hỏi tiếp:
· Này La Hầu La! Ngươi có tiếc cái chậu
không?
· Thưa không.
· Tại sao?
· Vì chậu dơ, có gì phải tiếc!
· Này La Hầu La! Vì chậu dơ ngươi không tiếc
khi nó vỡ. Giống như mọi người không thương kính ngươi, vì ngươi còn
nhiều lầm lỗi, kể cả việc nói để mà chơi. Mang danh xuất gia, ăn nói không
được thật thà, oai nghi thiếu chững chạc, phỉnh gạt người khác,
ai mà thương mến ngươi được?
Nói xong Phật còn đem chuyện xưa để răn dạy thêm. Xưa
kia có một ông vua chuẩn bị đầy đủ cho con voi lâm trận, mình mặc áo giáp,
ngà nối tên nhọn,túi giắt kiếm báu... Khi lâm trận voi sử dụng đủ các
bộ phận của cơ thể, như hai chân trước, hai chân sau, đầu, tai, ngà, đuôi,
nhưng không dùng cái vòi, luôn luôn co lại dấu kín. Nếu không bảo vệ cái
vòi thì bị tên bắn, liền bị toi mạng. Đức Phật khuyên La Hầu
La cần cẩn thận lời nói, giống như con voi bảo vệ cái
vòi, mở miệng nói dối dù nói chơi huệ mạng của người sẽ mất.
Con voi ra trận mà không biết bảo vệ cái vòi thì chẳng còn biết sợ gì
hết. Con ngườikhông cẩn thận, cân nhắc lời nói để cứ
nói lừa, nói dối sẽ không có tàm quý và không có một việc xấu
xa nào mà không làm. Bởi thế con người hãy ráng giữ miệng giữ
mồm. Nghe Đức Phật răn dạy, La Hầu La tỉnh ngộ phát
nguyện sửa đổi oai nghi, bỏ lời dối gạt, âm thầm vắng vẻ tu luyện mật
hạnh.
Tu hạnh nhẫn nhục
Tuy La Hầu La đã phát nguyện giữ
gìn giới luật, cẩn thận lời nói tiến tu mật hạnh, Đức
Phật vẫn bảo Tôn giả Xá Lợi Phất luôn luôn kềm chế La
Hầu La bằng những công tác hằng ngày. Theo lời Phật, Xá Lợi Phất giao
việc quét dọn sân vườn cho La Hầu La. Một hôm sau khi thực hiện xong
công tác hằng ngày, La Hầu La vào giảng đường nghe Phật
thuyết pháp mãi đến tối mới trở về phòng. La Hầu La thấy
một khách tăng đã dọn y bátcủa La Hầu La ra ngoài để lấy
phòng nằm ngủ, theo sự hướng dẫn của vị quản lý. Vì đã nguyện kín tiếng
lặng hơi theo pháp mật hạnh, La Hầu La đành ôm y
bát ra sân ngồi. Thình lình trời đổ mưa xối xả, La Hầu
La lại ôm y bát vào nhà xí.
Cũng vì trời mưa nước ngập hang, một con rắn tìm
nơi lánh nạn, bò vào nhà xí. Vì trời tối La Hầu La ngồi bất
động không thấy rắn, trong cơn nước ngập rắn bò kiếm chỗ khôn ráo nên cũng
không biết có người trong nhà xí. Ngay tối hôm đó có người báo cho Phật
hay La Hầu La bị một khách tăng chiếm phòng và có thể La Hầu
La ẩn mưa trong nhà xí, Phật liền đi tìm La Hầu La. Khi rọi đèn vào
nhà xí, Phật thấy La Hầu La ngồi bó gối ở một góc, con rắn
khoanh tròn ở một góc. Vì có ánh sáng rắn nằm bất động, còn La Hầu
Lađược Phật gọi ra và dẫn vào Tinh Xá. Sáng hôm sau, Phật tập họp tăng
đoàn ban hànhquy chế, Sa di có thể ở chung phòng với Tỳ
kheo.
Từ đó La Hầu La được ở chung phòng với Xá
Lợi Phất, hai thầy trò sát cánh nhau. Một hôm hai thầy trò đi khất
thực, vì kính Tỳ kheo hơn Sa di, các đàn việt đem vật
ngon cúng cho Tỳ kheo, còn Sa di La Hầu La nhận những vật
thực ít chất dinh dưỡng như xác mè, rau đậu... Tuy đã phát nguyện nhẫn
nhịn, tịnh hóa thân tâm, các tập khí bị dồn nén lâu ngày,
giờ có thời cơ trỗi dậy. Với ý nghĩ tuổi đang lớn, cần được
dinh dưỡng khi khất thực về vẻ mặt La Hầu La lộ nét u
buồn, Phật hỏi lý do La Hầu La trình lại sự cố. Phật dạy La
Hầu La nên kính lão, vả lại đi tu đâu có cần miếng ăn, ăn để sống chứ đâu
phải sống để ăn.
Đức Phật khuyên La Hầu La nên chú trọng đến hạnh
tu, không nên quá quan tam đến ăn uống, thức ăn chỉ là thuốc trị
bệnh đói.Tuy nhiên, Phật cũng bảo Ngài Xá Lợi Phất nên chăm sóc đến sức
khỏe của tuổi trẻ bằng cách lưu tâm đến sự ăn uống cho
đủ chất dinh dưỡng. Một hôm khác hai thầy trò vào thành Vương Xá khất
thực, trên đường đi chẳng may hai thầy trò gặp một chàng du đãng. Hắn
ta chận đường, chửi bới lấy cát bỏ vào bình bát của Xá Lợi
Phất, rồi vác gậy đánh La Hầu la túi bụi rồi bỏ đi. Vì sức yếu không
chống trả nổi, đầu bị chảy máu. Lại cũng do tập khí bị dồn nén chưa dứt
sạch, mặt La Hầu La tức giận bừng bừng và ôm dầu khóc thê thảm. Xá
Lợi Phất từ tốn khuyến giáo:
· Này La Hầu La! Tuổi đã 18,19 sắp được thọ
cụ túc giới, ngươi hãy quyết tâm nhổ sạch tập khí 3 độc,
bằng mật hạnh nhẫn nhục, kẻ hành giả không nên oán cừu thù
hận, hãy đem đức tính từ bi thương yêu tất cả chúng sanh, ở
đời khen, chê, vinh, nhục là điều không đáng cho người tu hành lưu
tâm. Điều đáng cho hành giả ghi nhớ là ở thế gian, sức mạnh nhẫn
nhục có thể thắng tất cả sức mạnh khác, dù lớn lao đến
đâu.
Vừa khuyên giải, Tôn giả vừa băng bó vết thương
cho La Hầu La. Khi về đến Tinh Xá, Tôn giả trình lên Đức
Phật sự tình vừa mới xảy ra trên đường hai thầy trò đi khất thực.
Phật dạy La Hầu La:
· Này La Hầu La! Nhẫn nhục là hạnh vô
cùng cao quý, muốn thấy Phật, thuận pháp, gần tăng ông hãy tu hạnh nhẫn
nhục. Người biết nhẫn nhục tâm hồn sẽ thư thái, an ổn, diệt
trừ được các tai họa, trí tuệ phát sinh, trí tuệ là
kiếm báu chặt đứt gốc rễ vô minh, tham ái, ngã chấp. Người
có trí tuệ dù có chung đụng với thế lực vẫn không bị ô
nhiễm. Nhẫn nhục là điều kiện làm tăng thượng
duyên, tuyên dương chánh pháp, là tư lương để giải
thoát khỏi sinh tử luân hồi. Để khai thị thêm, giúp La Hầu
La có đủ điều kiện tiến tu và chứng thánh, Phật lại khuyến
hóa tiếp:
· Này La Hầu La! Để nối tiếp dòng thánh không
phụ các ân ngươi hãy nhìn thẳng vào thực tại của muôn vật, ngươi có
thấy vật nào đứng yên không? Tất cả năng động trong sinh
diệt, diệt sinh, ngươi cần đem trí tuệ soi suốt tính vô thường, vô
ngã của vạn vật kể cả thân tâm của ông, có suốt rõ như
thế tâm mới không dính mắc vào bất cứ một thứ gì để tu niệm, giữ 8 vạn oai
nghi và ba ngàn tế hạnh, hầu sớm được giải thoát. Ngươi không thể
trì trệ trên con đường triển khai Phật chủng. Nghe Đức Phật cảnh
tỉnh, La Hầu La liền tỉnh ngộ, dành mọi thời
gian, chuyên tâm tu luyện oai nghi tế hạnh. Cuối
cùng La Hầu La trở thành bậc đệ nhất về mật hạnh, được Phật
khen ngợi và khuyên trang trải tâm tư đồng thể khắp mọi loài
đưa chúng sanh qua bờ giải thoát.
Tiếp nhận Tinh Xá
Tuổi còn trẻ ít tham gia sinh hoạt của tăng
đoàn, chỉ vâng lời Phật chuyên tu oai nghi tế hạnh,
lúc 20 tuổi La Hầu La chứng Thánh và được nhiều người kính trọng,
vì thế La Hầu La được tín chúng cúng dường nhiều nhất. Một
hôm Đức Phật ở Ca Tỳ La Vệ thuyết pháp, có một trưởng
giả đến xin quy y Phật nhưng lại rất hưũ duyên với La Hầu
La. Sau ngày quy y vì cùng một quê hương Ca Tỳ La Vệ, Ông truởng
giả cúng dường cho La Hầu La đủ các thứ cần
dùng. Sẳn có tài sản trưởng giả xây cất một tinh xá,
dâng cúng cho La Hầu La. Tinh Xá khang trang rộng
rãi nên La Hầu La dọn về thường trú ở đó.
Trên đường đi thuyết pháp các Tỳ
kheo cũng thường ghé lại Tinh xá của La Hầu La. Vì thế Tinh
Xá lúc nào cũng đông khách ra vào. Vì nghĩ Tinh xá do mình cúng
nên mình có trách nhiệm quản lý, Trưởng giả rất siêng
năng lui tới Tinh xá bàn bạc với La Hầu La việc này,
việc nọ, đôi lúc ông còn lấn cả quyền hạn của trụ trì La Hầu
La. Là một người tu hạnh nhẫn nhục luôn im lặng truớc mọi
hành động của vị trưởng giả, và cũng vì chưa nghe Phật chế giới tiếp
nhận và quản lý Tinh xá như thế nào nên trong dịp trở
về Trúc Lâm, La Hầu La thỉnh Phật ý kiến. Đức Phật dạy
rằng:
· Trong giáo pháp của ta việc của tăng
đoàn, hàng tín chúng không được can dự vào, phòng ốc, tinh
xá của tăng đoàn cư sĩ Phật tử không có quyền quản
lý. Dù bất cứ vật gì kể cả Tinh xá, sau khi đã dâng cúng quyền sở hữu thuộc
về chư tăng.
Nghe Phật giải thích rõ ràng, La Hầu
La về trình bày với ông trưởng giả. Đã không thông hiểu Phật
pháp lại ỷ đã bỏ tài sản ra xây dựng, đương nhiên ông có
quyền quản lý. Do đó trước kính trọng cúng dường cho La
Hầu La bao nhiêu, bây giờ trưởng giả lại oán thù La Hầu
La bấy nhiêu, xem La Hầu La là người chiếm đoạt tài sản. Một
hôm La Hầu La có việc phải vào thành Xá Vệ, đúng
lúc trưởng giả viếng thăm Tinh xá, vì tâm bất bằng có sẵn lại thấy Tinh
xá vắng vẻ, trưởng giả vội vàng đem Tinh xá cúng dường cho
một vị Tỳ kheo khác. Khi xong việc trở về, thấy tinh
xá có người đến ở, với tâm không vụ lợi tranh chấp, xả bỏ tất
cả, La Hầu La ôm y bát trở về Tinh xá Kỳ Hoàn. Thấy
lạ Đức Phật hỏi lý do, La Hầu La trình bày với Phật, Tinh
xá đã bị trưởng giả thu hồi và đem cúng dườngcho một vị Tỳ
kheo khác. Đức Phật nghĩ, người không hiểu Phật
pháp mà đi làm phật sựthật là một điều khó, sau đó Phật triệu tập tăng
đoàn và dạy:
· Những vật đã đem bố thí cho người, tín
thí đem tặng lại cho các ông, các ông không được tiếp nhận. Nói thế
không phải ta thiên vị, bênh vực quyền lợi cho La Hầu La,
phép tắc trong giáo đoàn phải được quy định rõ để tránh
các rắc rối về sau.
La Hầu La Nhập Niết Bàn
Về sự đản sinh và niết bàn của La Hầu
La có hai truyền thuyết: Một thuyết cho rằng La Hầu La ra đời
năm Thái tử Tất Đạt Đa 19 tuổi, thuyết khác cho rằng La Hầu
La chào đờinăm Thái Tử Tất Đạt Đa 25 tuổi. Về năm Niết
Bàn của La Hầu La cũng có hai truyền thuyết. Một thuyết
nói La Hầu La Niết bàn trước Phật vài năm, thuyết khác ghi khi
Phật Niết Bàn La Hầu La còn quỳ bên Phật. Theo truyền ký Da
Du Đà La cùng tuổi với Phật, nhưng niết bàn năm 78 tuổi như thế
là trước Phật 2 năm. Còn La Hầu La niết bàn không quá 50 tuổi
trước cả Phật và Da Du Đà La.
Nhận Thức và Kết Luận
Trong hàng Thánh chúng, La Hầu La là vị tu
chứng trẻ nhất, lúc mới 20 tuổi. Đúng là mê nhất kiếp ngộ nhất thời,
vừa vâng lời Phật bỏ tính ham chơi của tuổi trẻ, tu chẳng bao
lâu La Hầu La liền chứng thánh vị. Lúc còn là chú tiểu và
cả lúc đã thọ sa di, La Hầu La biểu thị tính hồn
nhiên, thơ ngây, nghịch ngợm của tuổi trẻ ngày xưa. Nếu
đem so với thế hệtuổi trẻ ngày nay, chúng không còn ngây thơ hồn
nhiên như thế hệ tuổi trẻ của cha anh. Chúng
ta không nên méo mó, phải thẳng thắn thừa nhận rằng,
trong hiện tại con em chúng ta đang thiếu hướng dẫn, nạn
phá phách, xì ke, ma túy nghiện ngập đang lan tràn trong giới trẻ. Gia
đình, học đường cần tìm biện pháp chấn chỉnh, đưa tuổi trẻ vào
nề nếp. Chúng ta không thể ham lo đời sống kinh tế rồi bỏ
quên tuổi trẻ, thế hệ mai sau của tổ quốc. Do đó chúng
ta hãy noi gương Đức Phật và Tôn giả Xá Lợi Phất đi
sâu sát rèn luyện tuổi trẻ sớm nên người tốt trong xã hội.
Trên đây là nói về mặt chung của xã hội, còn mặt riêng trong giới tăng ni trẻ, chúng taphải noi gương La Hầu La về mặt giới đức tu trì. Trong tuổi trẻ La Hầu La có đùa nghịch nhưng là đứa trẻ nghịch hồn nhiên, trong trắng, không bê tha ô nhiễm... Bởi thế sau khi nghe giáo huấn của Phật và Tôn Giả Xá Lợi Phất, La Hầu La đã dễ dàng loại trừ những trò chơi trêu chọc nghịch ngợm và gia công trau dồi oai nghi tế hạnh, để chứng thánh quả. Các tăng ni trẻ nên khép mình trong khuôn khổ nhà chùa, tam thường bất túc, tu trìgiới, định, tuệ để trở thành một tăng sĩ thật tài, có đức hữu ích cho giáo hội, cho dân tộc.
Có học có tu, có thực tài, có đức hạnh, vị thể của chúng
ta trong giáo đoàn và ngoài xã hội mới vững, mới lâu
dài. Người xưa có nói: "Hữu hoạn bất tài, hà hoạn vô vị" (chỉ sợ
không tài, lo gì không có địa vị). Đối với cuộc đời, người
có tài đức nếu vì một lý do nào đó không thành
công thì cũng thành nhân". Riêng tu sĩ vấn đề tiến
tu đạo nghiệp là chính. Tôn giả La Hầu La nhờ âm thầm bỏ
công rèn luyện oai nghi tế hạnh nên đã trở
thành vị Mật Hạnh Đệ Nhất ngay lúc tuổi còn trẻ. Trong công tác
của giáo đoàn, dù không có những hoạt động sôi nổi như Xá Lợi
Phất, Mục Kiền Liên, Phú Lâu Na, Ca Chiên Diên... nhưng đã chứng Thánh
quả A La Hán, Mật Hạnh đệ nhất, La Hầu La đã có vị thế lâu
dài trong hàng Thánh chúng Thập đại đệ tử của Đức Phật.
8. Tôn Giả Tu Bồ Đề
Subhuti - Giải Không Đệ Nhất
Qua 45 năm thuyết pháp, tùy theo căn cơ trình độcủa chúng sinh Đức Phật đã nói rất nhiều vấn đề. Từ những vấn đề đó sau khi Phật vào Niết Bàn, giáo đoàn chia thành nhiều bộ phái và có nhiều quan đIểm khác nhau, nhưng không ngoài hai phái chính yếu là Nam Tông và Bắc Tông. Nam tông theo hệ kinh Pali, Bắc Tông theo hệ kinh Sanskrit. Trung tâm và cơ bản của Bắc tông là Bát Nhã (Praijrà). Trung Quốc dịch là Tuệ, Trí tuệ, Không trí. Trí tuệ của Bát Nhã không phải là thế trí biện thông, mà là loại trí tuệ siêu thiện ác vô phân biệt.
Trong bản chất trí tuệ nầy thanh tịnh và vắng
lặng, trong suốt như hư không, cho nên gọi là không trí có nghĩa
là trí tuệ hiểu về tánh không của các pháp, vì các
pháp hiện tượng vốn là duyên sinhcho nên tự thể nó là không, thảy
đều giả hữu, hết thảy đều vô ngã, sâu xa. Tánh này không thật sâu
xa huyền diệu, ngôn thuyết không diễn tả hết, tâm tư
cũng khó hiểu thấu, vì không mà có, có mà không, nói theo lý Bát
Nhã là chân không diệu hữu. Khi Phật nói kinh Bát Nhã trong
số 1.250 vị đại A La Hán nói chung, 10 đại đệ tử nói riêng,
người thấu hiểu không trí hơn hết là Tu Bồ Đề, bậc Giải Không Đệ
Nhất.
Danh Hiệu Tu Bồ Đề
Trong các sách sử, các đệ tử Phật đều có ghi
chép lịch sử hoặc nhiều hoặc ít, riêng Tu Bồ Đề không có
ghi chép về gia thế dòng họ. Tuy nhiên trong kinh đIển Bắc
Tông có chép về truyền thuyết sự tích của Tu Bồ Đề qua
một vài chi tiết. Tôn giả chào đời ngay trong lúc gia
đình như thiếu may mắn, tất cả tài sản vơi cạn, kho lẫm trống
trơn một cách ngẫu nhiên. Cả nhà đều lo sợ, nhiều người cho là điềm lạ kéo
đến quan sát luận bàn và cuối cùng đều quyết đoán đó
là một điềm lành, ngày sau đứa bé sẽ trở thành một nhân vật phi
thường.
Dựa theo sự quyết đoán của số đông, bà mẹ đặt tên cho đứa bé
là Tu Bồ Đề (Subhuti), có nghĩa là không sanh hay Thiện
Cát (tốt lành), hay Thiện hiện (hiện điềm tốt). Quả thậtvề
sau gia đình gặp nhiều điều may mắn, trở lại giàu
có, tiền của tràn đầy kho lẫm. Tuy tuổi còn nhỏ Tu Bồ Đề không
mấy thiết tha với tài lợi, cha mẹ cho bất cứ một vật gì Tu
Bồ Đề đem bố thí hết cho người thiếu thốn. Với trí
thông minh xét thấy muôn vật đều hư giả, trống không, tự thể cũng mất
khả năng chủ động, bởi thế khi gặp Đức Phật Tu Bồ Đềliền xin xuất
gia.
Đạo nghiệp của Tu Bồ Đề
Khất thực nhà giàu
Vì sẵn có từ tâm hay thương người nghèo khó,
từ hồi còn nhỏ ở với cha mẹ Tu Bồ Đềthường đem của cải ban
bố cho người. Nhiều lần bị cha mẹ rầy la, Ngài vẫn không từ bỏhạnh bố
thí. Bởi thế sau khi theo Phật mỗi sáng đi khất thực, Tôn giả không
nỡ dừng buớc trước cửa những ngôi nhà lụp xụp xơ xác, có vẻ nghèo nàn, dù
xa đến đâu Ngài cũng đến khất thực những gia đình giàu có.
Với phong cách khất thực của Tôn giả, các đệ tử của Phật
cho là khác thường và chẳng rõ vì sao? Bởi theo pháp hành hóa của Phật, Tỳ
kheo phải tuần tự khất thực trước mỗi nhà dù nghèo hay là
giàu đều phải dừng bước để cho người gieo giống phước điền. Đằng này mỗi
sáng ra khỏi Tinh Xá Tôn giảtách đoàn đi riêng và tránh xa nhà nghèo,
dù đôi lúc phải mang bát không về, chịu đói. Có người hỏi lý do,
Ngài giải thích:
· Khất phú hay khất bần cũng đều vì lợi
ích chúng sanh cả, nhưng khất người nghèo là tước đoạt phần ăn của họ,
vả lại nếu không có vật thực để cúng dường người nghèo có
thể sinh buồn tủi, thế là vô tình đã gieo ưu sầu cho người.
Trong chúng đệ tử Phật ngược với Tu Bồ Đề, có
Ngài Ma Ha Ca Diếp lại chỉ khất thựcnhà nghèo, tránh xa nhà
giàu. Vì theo Ca Diếp người giàu đã có thừa phước báu khỏi cần đem
phước báu lại cho họ, người nghèo mới cần đem gieo trồng phước báu, để mai
sau khỏi bị nghèo túng. Bởi thế người xuất gia cần đem ruộng
phước đến cho người gieo giống phước đức.
Thái độ của hai Ngài đã trở
thành hai thái cực, nên đã bị Đức Phật quở trách. Theo Phật con
người cần giữ tâm quân bình, không được phân biệt, thiên kiến.
Người đứng lằn ranh này tất phải đối đầu với lằn ranh kia, cuộc
đời vì có đối kháng mà tương tranh, mất bình đẳng gây
nên nhiều thảm họa. Đức Phật đi xuất gia vì muốn san bằng cuộc
sống bất công, từ đó giáo pháp của Phật hàm chứa tinh thần hòa
đồng, không phân chia ranh giới, kể cả giàu và nghèo. Phép khất
thực chân chính là không phân chia giàu nghèo, sang
hèn, Tỳ kheo cần giữ oai nghi nghiêm túc, thứ lớp khất
thực. Với đức tính trống rỗng sẵn có, Tu Bồ Đề dễ dàng thuận
theo lời Phật dạy, khi đi khất thực không còn phân
chia giàu nghèo, đem phước điền đến cho tất cả mọi người.
Tu Bồ Đề Đón Phật
Trong hàng Thánh chúng, Tu Bồ Đề dùng trí
quán chiếu soi thấy tánh không của các pháp, thể chứng lý
không, từ đó Tôn giả thưòng nói lý không và các oai
nghi tế hạnh đều biểu thị lý không. Tương truyền một hôm, tại
động Kỳ Xà Quật trên núi Linh Thứu, trong lúc đang vá áo, Tôn giả dùng trí
quán chiếu biết Đức Phật du hóa phương xa sắp trở về. Tôn
giả ngưng việc vá áo định đi đón Phật nhưng liền nghĩ rằng: Phật là bậc vô
ngã, pháp thân không tịch vắng lặng, ngã và ngã sở đều
không, tuyệt dứt đối đãi. Phật đã từng nói không ngã, không nhơn,
không chúng sanh, không thọ giả, các pháp rỗng lặng pháp
tánh biến khắp không gian và thời gian. Pháp thân Phật ở
đâu mà chẳng có, vì thế ta đi đón Phật có thể bị Phật quở trách là
người hành tà đạo. Trong hội Bát Nhã Đức Phật đã nói:
· Nếu lấy sắc thấy ta, lấy âm thanh cầu ta,
đó là người tà đạo, không thể thấy Như Lai.
Sau khi suy nghĩ, Tôn giả ngồi vá áo một cách
bình thản như không có chuyện gì xảy ra. Lúc bấy giờ trên đường trở
về Phật được Tăng đoàn và đông đảo quần chúng chuẩn bị
đón tiếp vô cùng trang trọng. Trong số đó có Tỳ kheo
ni Liên Hoa Sắc, vị chứng thần thông đệ nhất bên nữ, vận dụng thần
thông để đón Phật trước nhất. Khi gặp Phật Liên Hoa Sắc đảnh lễ và bạch
Phật:
· Bạch Đức Thế Tôn! Nhờ có phép thần
thông con hay tin Thế Tôn về và đến đây chờ đảnh lễ Thế
Tôn trước hơn ai hết.
Trước nét hân hoan của Liên Hoa Sắc, Phật mỉm
cười từ tốn nói rằng:
· Liên Hoa Sắc! Người nghinh đón ta trước
tiên chẳng phải là ngươi.
Nhìn bốn phía chẳng thấy ai, tất cả đều còn ở sau xa, với vẻ hoài
nghi bàng hoàng, Liên Hoa Sắc quỳ thưa:
· Bạch Đức Thế Tôn! Con vận dụng sức thần
thông khi đến đây chẳng thấy có ai cả. Thế ai là người đón Đức Thế
Tôn trước con?
Trong lúc Liên Hoa Sắc vừa chấm dứt câu
hỏi, Ca Diếp và Tăng đoàn từ từ tiến đến. Đợi chúng
Tăng quy tụ đông đảo, Phật mỉm cười nói với tất cả mà cũng để trả
lời cho Liên Hoa Sắc, Phật nói:
· Này các Tỳ kheo! Ta cám ơn tất cả, các ông đã không
quản xa xôi để đến đây đón ta, nhưng người gặp ta trước tiên chính
là Tu Bồ Đề. HIện giờ tại núi Kỳ Xà Quật, Tu Bồ Đềđang
chiếu quán tánh không của các pháp. Người thấy thể tánh rỗng
lặng như như bất động, chính là người trực tiếp nghinh đón ta trước nhất.
Chúng đệ tử kể cả Liên Hoa Sắc, nghe Phật nói mới thấu rõ tướng
của các pháp là hư vọng như chiêm bao, ảo thuật, bóng nước, ảnh
tượng, sương mai, điện chớp. Thể tính các pháp là pháp
không tịnh, ly ngã, nhơn, chúng sinh, thọ giả, Tu Bồ Đề đã
thấu rõ chân lý đó nên Tôn giả là người đón Đức Thế
Tôn trước hơn ai hết. Tôn giả xứng đáng là vị Giải
Không Đệ Nhất trong hàng Thánh chúng.
Tu Bồ Đề Xương Minh Lý Không
Một hôm tại hội Bát Nhã, trước 1.250 vị Tỳ kheo,
hướng về Tu Bồ Đề, Phật nói:
· Tu Bồ Đề! Ông có biện tài thể hội sâu
xa đạo lý chân không, giờ này trước đại chúngông hãy thuyết về
không lý Bát Nhã cho tất cả cùng nghe. Nghe Phật dạy Tu Bồ Đề, đại
chúng đều không rõ Tu Bồ Đề sẽ dựa vào biện tài của
tự thân hay nhờ oai lực của Phật để nói lý chơn không của Bát Nhã? Rõ biết tâm
lý đại chúng Tu Bồ Đề rào đón nói rằng:
· Thưa đại chúng! Muốn tỏ lòng cung kính Phật
là phải vâng mệnh lệnh của Phật, tôi vốn biết sức mình có hạn, trí
tuệ biện tài còn non, nếu không nương sức oai lực của Phật tôi
phải thúc thủ. Chân lý của Phật nói thật là sâu
xa huyền diệu, như chúng ta đã biết muôn sự, muôn vật, nói khác
hơn là các pháp đều do nhân duyên mà sanh khởi, cho nên các pháp
là không thực thể, không tự chủ, thực tướng các pháp
là chân không diệu hữu. Trong hội Bát Nhã Đức Phật nói: - Sắc
tức là không, không tức là sắc, sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc, thọ
tưởng hành thức cũng giống như vậy.
Cái có của các pháp là giả danh, không có thật, bởi thế
các pháp chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng thường, chẳng đoạn, chẳng dị, chẳng lai,
chẳng xuất. Các pháp vốn không tướng cho nên đâu còn tướng sanh, diệt,
sạch, dơ, thêm, bớt. Rồi từ đó lục căn, lục trần, lục thức, lục
nhập, thập nhị xứ, thập bát giới, không vô minh diệt,
cũng không vô minh tận. Đã là giả danh cho nên không những
sinh, lão, bệnh, tử, khổ, tập, diệt, đạo đã không mà không luôn cả trí và cái sở
đắc, kể luôn cả cái tâm.
· Phật nói: Các tâm đều là phi tâm, thế mới gọi là
tâm, tâm quá khứ, hiện tại và vị lai
đều không nhận được. Các pháp vốn không nên không có chủ thể,
gọi là vô ngã, vì ngã cũng là giả danh. Có ly tất cả mới đạt trung
đạo, mới thật đạt tướng Niết Bàn tịch diệtvắng lặng.
Trong giáo đoàn của Phật, chỉ có Tôn Giả Tu Bồ
Đề nhận thức sâu sắc về không tánhcủa các pháp, hiểu thấu đáo
không lý và thật chứng không trí, bởi thế Ngài được tôn xưng là bậc Giải
Không đệ nhất.
Nhận Thức và Kết Luận
Khi còn tại thế lúc nói Kinh Bát Nhã, Đức
Phật xương minh lý tính chân không diệu hữucủa các pháp
duyên sinh, Tôn giả được thừa nhận là bậc đã chứng
đắc về không trí và không lý. Mãi đến hơn 600 năm sau, với luận lý
Bát Nhã Bồ Tát Long Thọ mới triển khaithành giáo
nghĩa Bát Nhã, xây dựng thế giới quan chân không diệu
hữu của giáo hệ Bắc Tông qua con đường trung đạo. Hiện nay
trong Đại Tạng chữ Hán có đến 720 quyển kinh thuộc về hệ Bát
Nhã. Từ xưa đầu mối của giáo hệ Bắc Tông, kinh Bát Nhã là nguồn
mạch, nếu không có kinh Bát Nhã thuyết lý chân không
diệu hữu thì các trào lưu tư tưởng thuộc hệ Bắc
Tông không thể hình thành và tồn tại đến ngày nay. Bởi thế chúng
tacó thể nói: Tôn Giả Tu Bồ Đề là vị Tổ đầu tiên của phái Bắc
Tông và cả Bát Nhã Tông. Ngài là bậc đã tu quán bằng
không trí Bát Nhã.
Với lý duyên sinh, các pháp trùng trùng duyên
khởi liên hệ với nhau chằng chịt. Tương truyền khi Tôn giả mới
sinh chính là lúc tài sản gia đình hết sạch, kho lẫm trống trơn,
không phải là vấn đề hoang đường, duy lý hay duy tâm. Phật
giáo không duy gì hết, Đức Phật chỉ thuyết
minh cái thực tại của các pháp để giúp con người hiểu, tu
chứng giải thoát. Thực tại là như vậy, ta không nên rơi vào bất
cứ cái duy nào, với lý duyên sinh cái này có thì cái kia có, cái này
không thì cái kia không... cái này tạo thuận duyên cho cái kia sinh
cái này tạo nghịch duyên cho cái kia hoại diệt. Đó là Tăng
thượng duyên (thuận và nghịch), một trong 4 duyên (nhân duyên, sở nhân
duyên, đẳng vô gián duyên và tăng thượng duyên). Con người có
nhiều ảnh hưởng chi phối sự vật chung quanh và ngược lại. Bởi thế tài
sản trong kho lẫm của gia đình Tu Bồ Đề có thể liên hệ hữu
cơ với tính giải không của Tu Bồ Đề.
Trong gia đình hay ngoài xã hội cũng thế, cụ
thể dễ nhận hơn như trong một gia đình, phòng ốc nhà cửa vườn tược,
tươm tất sạch sẽ xanh tươi biểu thị cho người trong gia
đình mang tính sạch sẽ tươm tất, cần cù siêng năng... là một gia
đình đang thịnh, nguợc lại là biểu thị một gia
đình đang suy. Để nói lên sự thịnh suy của một gia đình,
phong dao Việt Nam có câu: "Ngày xem tre, đêm nghe chó sủa"
có nghĩa là: nếu thấy tre vườn xanh tươi, chó sủa hùng mạnh thì biết
là gia đình hiện hữu trong đó đang thịnh, ngược lại
là biểu thị cho sự suy tàn. Trong một quốc gia, xã hội,
nếu mọi người mang tính thiện: "cần kiệm, liêm
chính, chí công, vô tư", quốc gia đó nhất định đang
trên đà giàu mạnh, mọi sự kiện trong đời đều liên hệ hữu
cơ với nhau thật chặt chẽ. Nhìn chung qua cuộc đời và đạo
nghiệp của Tôn Giả Tu Bồ Đề, có hai điểm đáng cho chúng
ta noi gương:
· Hạnh bố thí.
· Trí giải không.
Hai điểm đó lại tương quan với nhau. Nhờ thấu
rõ tánh không của các pháp duyên sinh là không, là giả
danh, là vô ngã, Tu Bồ Đề mới không ích kỷ, tham
lam, chấp ngã, luôn đem của cải bố thí cho người nghèo thiếu.
Lại nhờ xả ly, bố thí, Ngài mới thực sự biểu thịcho sự tu chứng tánh
không của các pháp, để trở thành bậc Giải Không Đệ Nhất
trong hàng Thánh chúng.
9. Tôn Giả Phú Lâu Na
Purana - Thuyết Pháp Đệ Nhất
Thế gian có câu: Muốn bắt cọp hãy vào hang cọp. Muốn
vào hang cọp phải cần có can đảm, không can đảm không thể nào bắt
được cọp; người chiến sĩ muốn thắng kẻ thù cần phải can đảmxông
pha ở chiến trường. Cũng thế, người hành đạo phải can đảm chịu
mọi thử thách. Có can đảm thắng lướt mọi gian lao mới thành
tựu được sự nghiệp đời hoặc đạo. Trong số 10 vị đại đệ tửcủa
Phật, Phú Lâu Na trở thành một vị thuyết pháp đệ nhất
nhờ đức can đảm, đi bất cứ nơi đâu kể cả xứ bạo ngược nhất. Còn kể vào thứ
bậc trong giáo đoàn, Phú Lâu Na được xếp vào hàng thứ ba
trong Thánh chúng, sau Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên.
Dòng Họ và Danh Hiệu của Phú Lâu Na
Ở Ấn Độ, dòng họ Phú Lâu Na có danh
tiếng và giàu có, Phú Lâu Na rất được cha mẹ thương
yêu. Tôn giả có khuôn mặt tròn đầy, mắt chan chứa vẻ từ
hòa, người độ lượng khoan dung, nhưng rất can đảm. Như bao nhiêu
người khác ở Ấn Độ, người con được gọi bằng tên mẹ. Theo tiếng Phạn gọi
cho đủ là Phú Lâu Na Di Đa La Ni Tử, gọi tắt là Phú Lâu Na(Puràna),
Trung Hoa dịch là Mãn Từ Tử tức là con của bà Mãn Từ. Danh hiệu của Tôn
giả biểu hiện một con người có hoài bão vô tận,
có lòng từ vô tận như non cao, núi rộng, sông dài. Về sau khi
đã xuất gia đi du hóa, giáo pháp mà Tôn giả tuyên
thuyết cũng trường mãn vô cùng.
Đạo Nghiệp của Phú Lâu Na
Phú Lâu Na được Đức Phật thọ ký
Ngoài đức tính từ hòa do truyền thống dòng họ hun
đúc, NgàI còn có tàI hùng biện. Với tàI năng sẳn có Ngài đã giúp
Phật truyền bá chánh pháp khắp nơi và được mọi tầng lớp dân
chúng hoan nghênh nhiệt liệt. Tại nước Kiều Tát Di, Tôn giả đã thuyết
phục chúng Tỳ kheo ẩn cư đi bố giáo. Trong chúng
hội có Tỳ kheo làm việc tà, Tôn giả đã sử dụngngôn
ngữ xảo diệu để cản ngăn. Tại núi Kỳ Xà Quật trong cuộc kiết
tập kinh điển về phần Luật tạng Ngài Ma Ha Ca Diếp đem
8 pháp ẩm thực ra yêu cầu các Tỳ kheo phải giữ.
Theo Phật trong hoàn cảnh đặc biệt tỳ kheo có thể có 8 điều tùy
nghi không bị ngăn cấm:
· Chứa thức ăn trong phòng, nấu nước
trong tự viện, tự nấu, tự lấy thức ăn, từ chỗ khác đem thức
ăn về, ăn các thứ tráI cây, ăn những thực vật sản xuất từ hồ ao
và không ăn cá thịt.
Phú Lâu Na đã đứng về phe tự do, nên đã chống 8 việc
mà Ca Diếp cấm các Tỳ kheo. Điểm đặc biệt mà Ngài đã
trội hơn các đệ tử khác là tinh thần bố giáo cao độ, Tôn
giảkhông những thường xuyên đi bố giáo mà cả những nơi
xa xôi hẻo lánh, dân tình bạo ngược, Tôn giả đều can đảm xung
phong. Bởi thế Tôn giả được tôn xưng là vị Thuyết pháp Đệ
Nhất.
Thấy Tôn giả có đức từ ái, tín
tâm thâm hậu, hùng biện xảo diệu và bố giáo cao độ, Đức Phật đã
hết lời tán dương và thọ ký cho Ngài trong tương lai sẽ thành
Phật hiệu là Pháp Minh Như Lai, tại thế giới ta
bà nầy.
Phú Lâu Na bố giáo ở Du Na
Trong sự nghiệp thuyết pháp độ sinh, Tôn
giả không cần khen ngợi, cung kính, không ngại khó khăn, gian khổ. Dù
những nơi hẻo lánh xa xôi, đầy ác độc, Ngài cũng nhiệt
tình tìm cách đến đó truyền bá chính pháp.
Theo thông lệ hàng năm sau mùa an cư, Phật lại
phân bố các đệ tử đến các địa phương truyền đạo. Trong danh sách
các giáo khu Tôn giả thấy không có tên nước Duna. Phú Lâu
Na hỏi Phật lý do, Phật cho hay nơi đó quá xa xôi hẻo lánh,
đường đi hiểm trở, dân tình lại rất dã man bạo ngược.
Vì ngại nguy hiểm đến tính mạng Tăng sĩ, nên Phật không ghi tên nước
Duna vào danh sách và phân bố chúng đệ tử đi đến đó thuyết
giáo. Phú Lâu Na xin Phật được đến đó bố giáo.
Phật hỏi: Ông không sợ nguy hiểm sao?
Phú Lâu Na bạch Phật:
· Bạch Đức Thế Tôn! Người xuất gia phải có
chí thượng cầu hạ hóa, muốn thành tựu sự nghiệp dù ở lãnh
vực nào, con người cần phải vượt qua khó khăn gian khổ, chông
gai là điều kiện thử thách con người. Ánh sáng Phật
pháp cần bình đẳng soi rọi khắp nơi. Có ánh sáng Phật
pháp con người mới được cải thiện, bóng tối mê muội được
đánh tan, nên con nguyện đến đó để thuyết pháp dù có thịt nát xương
tan.
· Đức Phật hỏi: Nầy Phú Lâu Na! Giả sử đến
Du Na người ta chửi rủa nhục mạ ông, thì ông nghĩ sao và xử lý bằng
cách nào?
· Bạch Đức Thế Tôn! Họ vẫn còn tốt đối với con vì họ chỉ
chửi mắng mà chưa đem gậy gộc để đánh con.
· Nếu họ dùng roi gậy đánh ông thì ông nghĩ sao?
· Con thấy họ vẫn còn tốt, vì họ chỉ mới rượt đuổi mà
chưa gây thương tích cho con.
· Nếu họ dùng dao búa gây thương tích cho ông?
· Con vẫn còn cảm ơn họ vì họ còn lương
tri chưa nở giết chết con.
· Nếu họ giết ông?
· Con lại cảm ơn họ bội phần, vì họ đã giúp
con từ bỏ xác thân hư ảo, ô trược, sớm nhập Niết Bàn.
Đó là một dịp may hiếm có, chết vì truyền bá chánh pháp,
con sẵn sàng đón nhận mà không có gì ân hận.
Với những lời dũng cảm chưa từng nghe, Phật cảm
động khen rằng:
· Nầy Phú Lâu Na! Ông là một con người can đảm xứng
đáng là đệ tử của ta, hạnh tu đạo bố giáo nhẫn nhục của
ông thật là siêu tuyệt hiếm có.
Hướng về chúng đệ tử, Đức Phật nói:
· Nầy các Tỳ kheo! Phú Lâu Na là một con
người can đảm trong sự nghiệp thuyết phápđộ sinh đáng
được tán dương. Trong công tác đi thuyết pháp, một giảng
sư cần có những đức tính sau đây:
1. Thông hiểu giáo nghĩa
2. Nói năng lưu loát
3. Không lo sợ trước đám đông
4. Biện tài vô ngại
5. Vận dụng phương tiện khôn khéo
6. Tùy theo cảnh cơ mà bố giáo
7. Đầy đủ oai nghi
8. Tinh tấn dũng mãnh
9. Thân tâm tráng kiện
10. Có đầy đủ uy lực.
Nầy các Tỳ kheo Phú Lâu Na là một con
người có đầy đủ các đức tính đó, ta không còn e ngại gì nữa mà
không ủy thác cho Phú Lâu Na đến Du Na để bố
giáo.
Đúng như Phật đánh giá, tại xứ Du Na Tôn giả không
những không bị hề hấn gì mà sự nghiệp bố giáo lại đạt được kết
quả rực rỡ. Ở Du Na chưa đầy một năm, Ngài đã thu vào giáo
đoàn hơn 500 đệ tử và kiến lập khoảng 50 cảnh già
lam. Phú Lâu Na xứng danh là thuyết pháp đệ nhất, được như
thế là nhờ NgàI đã thành tựu được 4 phép Bồ tát:
1. Đối với giáo pháp chưa từng nghe, Tôn
giả luôn luôn tỏ thái độ trầm tỉnh để tư duynghĩa
lý không vội phê phán.
2. Không cần đa văn vì đa văn, dục
tâm dễ khởi; không cần nhàn hạ vì nhàn hạ lạc tâm dễ
sinh. Ngược lại lo tu từ quán để đoạn tham dục, tu nhân
duyên quán để đoạn ngu si.
3. Thấu rõ triệt để 5 ấm, 12 nhập, 18 giới,
12 nhân duyên để thành tựu trí vô sở đắc, trí vô
sư, có thành tựu trí đó mới hết niệm phân biệt và nhờ đó mới đủ
sức tuyên dươngđạo pháp
4. Rộng thực hành bố thí, sau nghiêm trì giới luật,
thường dũng mãnh, nhẫn nhục, tịnh tinh tấn bồ đề.
Cuối Cuộc Đời Của Phú Lâu Na
Sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn 3 tháng, tại núi
Kỳ Xà Quật Ngài Ma Ha Ca Diếp tổ chức kiết tập kinh luật.
Vì đi thuyết pháp xa về muộn, Tôn giả được Ca Diếp trình
bày lại diễn tiến của cuộc kiết tập và nói:
· Kinh luật kiết tập gần xong, Tôn giả có ý
kiến gì cần phát biểu xin cho biết?
Phú Lâu Na đồng ý tất cả, riêng 8 phép ăn uống Ngài
không đồng ý với Ca Diếp, Tôn giảnói:
· Với 8 phép ăn uống tôi không đồng
ý với quan đIểm của Ngài, tôi nhất quyết theo ý chỉ của Đức
Thế Tôn.
Sau đó, Tôn giả lại lên đường tiếp tục cuộc hành
trình hoằng pháp. Về sau chúng takhông rõ Ngài nhập Niết
Bàn lúc nào và ở đâu, vì chưa thấy tài liệu khảo cứu ghi
chép.
Nhận Thức và Kết Luận
Là đệ tử của Phật, cần phải đem giáo
pháp của Phật truyền bá sâu rộng để khai thị cho mọi
người. Trong những thời kỳ mà cuộc đời đang đen tối bởi si
mê tham ái, ngã chấp, ác độc... Ánh sáng trí tuệ của đạo
Phật lại cần thiết hơn bao giờ hết, như xứ Du Na thời Phật
còn tại thế chẳng hạn. Bởi thế, Tôn Giả đã can đảm lên
đường đi bố giáo, Ngài được tôn xưng là bậc thuyết pháp đệ
nhất trong hàng Thánh chúng. Tuy nhiên lòng can đảm không
chưa đủ, nếu không có tài hùng biện, lòng từ ái, oai
nghi, đĩnh đạc, sự can đảm trở thành liều lĩnh. Tôn giả Phú
Lâu Na thành công nhờ có đầy đủ các đức tính đó.
Lịch sử truyền bá Phật pháp đã không
làm tổn hại cho bất cứ một người nào, một quốc gia xã hội nào,
sự truyền bá của đạo Phật luôn luôn mang tính nhân bản, tôn
trọng mọi truyền thống tốt đẹp của các dân tộc. Phật
giáo là một bông hoa tô điểm cho các dân tộc thêm tươi thắm, Phật
giáo cũng là một bông hoa rất mềm mại nhưng không vì thế mà dễ dàng bị bẻ
gãy. Tại Ấn Độ, sau thời gian ức Phật qua đời, vua A Dục, Ca
Ni Sắc Ca, Phật giáo bị càn quét bởi Bà La Môn
giáo nhưng tư tưởng Phật giáo không vì thế mà bị mai một.
Tại Trung Quốc qua nạn tam Võ, đặc biệt là Võ Tôn nhà Đường,
tại Việt Nam vào cuối nhà Trần Phật giáo vẫn không bị tiêu
diệt.
Ngày nay với đà tiến hóa của khoa học, con đường bành
trướng của các tôn giáo có phần chùn lại, ngược hẳn với Phật
giáo, đặc biệt là ở Tây phương nơi mà khoa học không ngừng tiến
triển, cũng là nơi mà có nhiều người đang hướng về Đông phương tìm hiểu đạo
Phật. Do đó chúng ta tin rằng Phật giáo không thể bị tiêu
diệt, khi con ngườichưa trở thành Thánh nhân, cuộc đời còn
lắm thăng trầm chưa trở thành tịnh lạc. Chúng
ta hãy noi gương Phú Lâu Na Tôn giả, đem giáo pháp của Đức
Phật soi rọi cho những ai còn nghiệp chướng tham sân chấp
ngã, để góp phần kiến tạo một thế giới an bình tịnh lạc.
10. Tôn Giả Ưu Ba Ly
Upali Trì Giới Đệ Nhất
Trong cuộc sống, từ quốc gia xã hội, đến đoàn thể, luật
pháp, nội quy, điều lệ là những điều kiệngiúp cho tổ chức được
kiện toàn, vững mạnh, trường tồn. Ngược lại trong một tổ chức có nhiều người
không giữ nội quy, điều luật sẽ trở thành ô hợp dễ tan
rã, cụ thể như trong quân đội nếu không có kỷ luật sắt, khi
ra trận sẽ bị thất bại. Với tôn giáo cũng thế, tín đồ không
tuân giữ điều răn cấm, đạo giáo sẽ bị suy tàn. Khi Đức Phật sắp Niết
Bàn, Ngài A Nan hỏi Phật nhiều vấn đề trong đó có câu hỏi:
· Sau khi Thế Tôn Niết Bàn chúng con nhận
ai làm thầy?
Đức Phật trả lời:
· Hãy lấy giới luật làm thầy, giới luật còn
đạo ta còn.
Như vậy người Phật tử không luận tăng hay tục đều
phải tuân giữ giới luật. Trong số các vị đại đệ tử của Phật
có Ưu Ba Ly là người tu hành, hành trì giới luật rất
đầy đủ. Do đó Ngài được suy tôn là bậc Trì Giới Đệ Nhất.
Dòng Họ và Nghề nghiệp của Tôn Giả Ưu Ba
Ly
Ngày xưa ở Ấn Độ luật Ma Nu chia thành
phần xã hội ra làm 4 giai cấp:
· Bà La Môn, Sát Đế Lợi, Phệ Xá, Thủ Đà
La.
Người sinh vào giai cấp nào phải giữ truyền
thống của giai cấp đó. Người sinh vào dòng Bà La
Môn được làm đạo sĩ học thánh điển Vệ Đà, lo việc tế tự.
Người sanh vào dòng Sát Đế Lợi được làm vua chúa quan quyền, cai trị Ấn
Độ. Người sinh vào dòng Phệ Xámãi mãi là công thương. Người sinh vào
dòng Thủ Đà La suốt đời làm nô lệ, bị bạc đãinhất
trong xã hội, khi ra đường Thủ Đà La gặp đạo sĩ hoặc
vua quan, phải tìm bờ bụi ẩn nấp, nếu lén nhìn sẽ bị móc mắt. Nếu nói
tên Bà La Môn bị cắt lưỡi, không tuân pháp luậtvua quan bị đổ dầu
sôi vào lỗ tai. Ưu Ba Ly sanh vào dòng Thủ Đà La, bởi thế ngay từ
thuở nhỏ đã không được hưởng quyền lợi về học vấn. Lúc lớn
khôn cha mẹ định chọn cho Ưu Ba Ly một nghề sinh nhai,
nhưng trong các nghề mà người nô lệ được phép làm như lao động tay
chân, cày cuốc, đánh xe, giữ ngựa, gánh phân, Ưu Ba Ly không đủ
sứcvì ốm yếu mảnh mai. Cuối cùng Ưu Ba Ly được chọn
đi học nghề thợ cạo râu tóc, nghề nhẹ nhàng nhất, học chẳng bao
lâu Ưu Ba Ly thành thạo nghề nghiệp một cách tài tình.
Nhờ có người giới thiệu, Ưu Ba Ly được nhận
vào vương cung Ca Tỳ La Vệ để hớt cạo râu tóc cho các vương tôn công
tử. Nhờ đức tính thuần lương nhu mì, trung hậu, Ưu Ba Ly được các
vương tôn công tử tín nhiệm và cho ở lại trong cung đình. Ma
Ha Bạt Đề, A Na Luật, Kiếp Tân Na rất thích Ưu Ba Ly,
qua sự khéo léo tay nghề. Khi Đức Phật trở vào thành Ca Tỳ La Vệ, Ưu
Ba Ly được đưa đến cạo tóc cho Phật. Tương truyền, vì lo ngại thất
lễ, lúc cạo tóc Ưu Ba Ly khom lưng, cúi đầu. Mẹ của Ưu Ba
Ly hỏi Phật về kỹ thuật của con, Phật bảo: "Thân thể rất
cong".
Nghe thế Ưu Ba Ly ngẩng đầu lên và tập trung
tâm ý trong việc hớt tóc, tâm Ưu Ba Lythể nhập sơ thiền. Mẹ Ưu
Ba Ly lại thưa Phật về kỹ thuật, Phật bảo: "Lúc này thân thểngay
thẳng". Nghe Phật phát biểu ý kiến, Ưu Ba
Ly càng nhất tâm hơn, không dám suy nghĩ vọng tưởng gì
ngoài việc cạo tóc, tâm Ưu Ba Ly thể nhập nhị thiền. Vì
quá chú tâmhơi thở dồn dập nên khi bà mẹ lại hỏi Phật về cách cạo có
nhẹ nhàng không? Phật nói:"Hơi thở vào quá thô". Nghe
nói Ưu Ba Ly lại tập trung tâm ý vào hơi thở, thể
nhậptam thiền.
Lúc cạo gần xong râu tóc, bà mẹ lại hỏi Phật xem Ưu Ba
Ly đã thiện nghệ hay chưa, Phật nói: "Hơi thở quá
thô". Vì quá chú tâm đến công tác, Ưu Ba Ly không còn
tưởng niệm gì cả, Đức Phật biết Ưu Ba Ly đang ở
trong trạng thái tứ thiền. Hớt cạo râu tóc cho Phật xong Ưu Ba
Ly thấy lòng thơ thới, sung sướng vô cùng, vì đã có dịp tiếp cận
với Phật. Qua sự chú tâm lưu ý đến việc hớt tóc, nhất là mỗi khi
nghe Phật phê phán, Ưu Ba Ly cố sức sửa đổi tâm tư động
tác, những cử chỉ đó đã mở đầu cho thấy Ưu Ba Ly sẽ là một con
người rất nghiêm túc trong từng tác phong cử chỉ. Bởi thế, sau
khi xuất gia Ưu Ba Ly trở thành vị trì giới đệ nhất.
Đạo Nghiệp của Ưu Ba Ly
Ưu Ba Ly Được Vào Giáo Đoàn
Trong thời gian lưu lại thành Ca Tỳ La Vệ Đức
Phật đem giáo pháp đã chứng ngộ truyền giảng, tất cả
các vị hoàng thân, vương tôn, công tử và bá quan đều vô
cùng hoan hỷ và tán thán Đức Phật. Nhờ thấm nhuần mưa
pháp một số vương tôn từ bỏ cuộc sống giàu sang nơi cung
vàng để xin theo Phật xuất gia. Ngoài các vị đã xuất gia từ trước
như Ma Ha Nam, Ma Ha Bạt Đề, kỳ này có các vị như Đề Bà Đạt
Đa và A Nan con vua Bạch Phạn. A Na Luật con Cam
Lộ Vương. Ma Ha Bà Sa con Hộc Phạn Vương và La Hầu
Lacháu nội vua Tịnh Phạn. Khi được Phật nhận A Na Luật hăng
hái gọi Ưu Ba Ly đến nhờ cạo tóc. Ưu Ba Ly vốn là
người đã hầu hạ Bạt Đề ngày trước. Rồi tuần tự Ưu Ba
Ly cạo tóc cho các vương tôn công tử khác. Vốn đã được gặp Phật trong
khi cạo tóc cho Phật từ trước, nay thấy cảnh xuất gia nồng
nhiệt, vui vẻ của các vương tôn tại hoàng cung, Ưu Ba
Ly thấy tủi hổ cho thân phận kẻ nô lệ, khôn có cách nào để xuất
gia thoát tục. Ngài Xá Lợi Phất thấy vậy an ủi:
· Này Ưu Ba ly! Vì chưa thấu hiểu được giáo thuyết bình
đẳng của Phật ông mới buồn tủi và khóc than. Ông nên biết rằng trên đường giáo
hóa, Đức Phật không có tâm phân biệt, người này giàu sang,
kẻ kia ngu si nghèo đói, ai muốn xuất gia cầu giải
thoát sinh tử luân hồi Phật đều nhận tất cả. Vì từ tâm của
Phật là hơi thở của vạn vật, là mạng mạch của nhân sinh, là
trái tim của chánh pháp, lòng từ bi đó không khác biển cả
hay hư không. Biển cả dung chứa mọi sinh vật, làm sạch tất cả dơ bẩn do
sông rạch chảy vào, hư không trùm khắp cả muôn loài, không loại
trừ bất cứ một vật nào, có bao nhiêu loài hữu tình hay vô tình đều được
dung chứa. Còn chúng sanh muốn được giải thoát, muốn được Đức
Phật cho gia nhập giáo đoàn, cần yếu phải
nghiêm trì giới luật. Với bản tínhthật thà, khiêm cung, cần
mẫn, chu đáo... sẳn có, được xuất gia ông sẽ giữ tròn giới
pháp của Phật, ông hãy tin tưởng chớ chán nản, tôi sẽ hướng dẫn
đến bái yết Phật, chắc chắn Phật sẽ hoan hỷ đón
nhận.
Đúng như ý của Xá Lợi Phất, khi gặp Ưu
Ba Ly Phật rất niềm nở đón nhận và dạy rằng:
· Này Ưu Ba Ly! trước đây khi cạo tóc cho ta,
ông đã biểu thị đức tánh của người xuất gia, rất khiêm
cung lễ độ, chăm chú vào việc làm, tâm không dấy động. Thâm
tâm của ông lúc đó đã chuyển từ trạng thái sơ thiền sang trạng
thái tứ thiền, giờ này ông xin xuất gia rất là hợp thời điểm.
Trước đây ta đi xuất gia một phần là vì muốn công bằng xã hội,
do đó giáo pháp của ta mang tính bình đẳng trước mọi
người oán cũng như thân, giai cấp cao cũng như giai cấp thấp.
Bất cứ ai nếu tinh tấn giữ gìn giới luật tất sẽ được giải
thoát, ta sẽ thế phát cho ông bây giờ. Còn lễ thế phát cho
các vương tôn công tử sẽ cử hành sau bảy ngày nữa, vì đó là tuần huấn
nhục, giúp họ tập quen khó nhọc, lãng quên tâm lý hưởng thụ giàu
sang.
Trong các vương tôn đều xuất gia cùng một ngày,
nhưng Phật cho Ưu Ba Ly thế pháttrước, các vương tôn thế
phát sau, với dụng ý như nêu trên. Ngày Bạt Đề xuất
gia, Đức Phật bảo Bạt Đề hãy đảnh lễ Ưu Ba Ly, lý
do là vì Ưu Ba Ly lớn tuổi hơn. Những việc làm này,
ngoài một phần như lý do đã nêu trên, còn có mục đích để
phá tan tâm kiêu mạn của các vương tôn và cho thấy tinh thần
bình đẳng của giáo pháp, nhằm xóa bỏ mọi giai cấp trong xã
hội. trên đường giáo hóa, Ưu Ba Ly là người đầu tiên thuộc dòng
họ nô lệ Thủ Đà La được Phật thu nhận vào hàng đệ
tử. Đó cũng là một bước tiến bộ đầu tiên đã ghi vào lịch sử văn
minh Ấn Độ.
Ưu Ba Ly Hỏi giới
Trong giáo đoàn, Tôn giả Ưu Ba Ly rất được
trọng nể nhờ nghiêm trì giới luật. Với tính thận trọng sợ lỗi
lầm, Tôn giả thường hỏi Phật về giới luật, những giới mà Ưu
Ba Ly thưa hỏi Phật rất nhiều tất cả có ghi trong luật tạng. Tuy
nhiên để thấy sự chú ý của Ưu Ba Lyvề giới luật, cần nêu ra một
vài trường hợp.
· Theo luật của Sát Đế Lợi, người dòng họ Thích
không được kết hôn với người ngoài dòng họ Thích. Có một cô gái thuộc dòng
họ Thích tên là Hắc Ly Xa, lúc đang độ thanh xuân chẳng
may chồng cô chết sớm, sau một thời gian cô muốn kết
nghĩa với người ngoài dòng họ Thích, nhưng người em chồng
không ưng thuận lại muốn Hắc Ly Xa làm vợ mình. Để trả
thù vì bị Hắc Ly Xa cự tuyệt, trong một bữa ăn tên em
chồng bỏ thuốc mê vào thực phẩm. Khi ăn xong Hắc Ly Xa bất tỉnh,
tên này dùng roi đánh đập nàng tàn nhẫn và dẫn đến trình quan với lời mạo
nhận rằng:
· Cô này là vợ của tôi, cô thường tư thông với
người ngoài dòng họ, xin quan xét xử và nghiêm trị đích
đáng.
Vua xử Hắc Ly Xa phải chịu tử hình, khi bị
giam giữ thừa dịp người gác tù lơ đễnh, Hắc Ly Xa bỏ trốn và đến
một ni viện ở Xá Vệ xin xuất gia. Tại Ca Tỳ La Vệ sau
khi truy nã tù nhân không có kết quả, nhà vua nghe Hắc Ly
Xa đã trốn sang Xá Vệ, nhà vua viết biểu yêu cầu vua Xá
Vệ truy nã Hắc Ly Xa và bắt giải về Ca Tỳ La Vệ gấp.
Truy nã không ra nhà vua mới biết nữ tù nhân đã vào tu trong ni viện, nơi
bất khả xâm phạm. Vua Ba Tư Nặc lại viết biểu trả lời vua Ca
Tỳ La Vệ và cho biết sự cố. Tin nữ tù nhân vượt ngục vào
trong ni viện được lan truyền khắp nơi, khiến dư luận xôn
xao và hai nước trở nên hiềm khích. Nghe sự tình khó giải
quyết, Ưu Ba Ly đến trình Phật:
· Bạch Thế Tôn! Người đã phạm quốc pháp, chúng
ta có thể thu nhận cho xuất giakhông?
· Này Ưu Ba Ly! Quốc pháp hợp lý hay
không hợp lý đó là việc của chính phủ và dân chúng, còn đối với người phạm
tội khi chưa được tuyên bố ân xá, tăng đoàn không được
làm phép cho xuất gia.
Sau khi trả lời cho Ưu Ba Ly, Phật gọi Ni
chúng cho Hắc Ly Xa xuất gia đến quở trách, lúc bấy giờ
có nhiều người phàn nàn cho Phật là thiếu từ
bi không che chở cho tội nhân. Biết tin đó Phật họp đại
chúng lại cho hay:
· Tăng đoàn cần thanh tịnh, phạm giới luật
còn bị tẩn xuất thì phạm pháp nước phải chịu luật nước xử
trị. Phật pháp không thể che chở cho tội
nhân vì tăng đoàn cần phải được mọi người trọng nể.
Một lần khác có người nhờ Tỳ kheo mai mối giữa
nam và nữ, không biết xử lý cách nào Ưu Ba Ly đến hỏi Phật.
· Bạch Thế Tôn! Tỳ kheo và Tỳ kheo
ni có thể làm mai mối cho nam nữ được không?
Phật trả lời:
· Nếu Tỳ kheo, Tỳ kheo ni đem tâm tình
người nam ngõ với người nữ, đem ý người nữ nói với người nam cho đến giới
thiệu giáo hội một lần, sẽ phạm Tăng già bà thi
sa, cần phải hối quá vì căn bản sinh tử dục là tội
thứ nhất.
· Bạch Thế Tôn! Đối với việc hôn lễ của
các tín đồ tại gia, các Tỳ kheo, Tỳ kheo ni nên
có thái độ lưu tâm như thế nào?
· Không nên lưu tâm lắm, nếu việc hợp
pháp có thể đối trước tam bảo làm lễ chứng minhcho họ.
Phép Thăm Nuôi Bệnh Nhân
Một hôm, Ưu Ba Ly đi sau Phật thấy một bịnh nhân nằm
rên la ở chỗ dơ uế. Một hôm khác trên đường hóa đạo, các Tỳ
kheo gặp một bệnh nhân nằm bên vệ đường. Vì chưa nghe Phật giảng về phép
thăm nuôi bệnh nhân, các Tỳ Kheo đi nhiễu một vòng rồi tiếp tục lên
đường. Lại một lần khác, trong đại chúng có một Tỳ
kheo bệnh mà không ai chăm sóc. Vì buồn tình Tỳ kheo bệnh
nghĩ đang lúc bệnh hoạn có thể không cần giữ giới,
tự ý buông lung. Động lòng trắc ẩn, Ưu Ba Ly đến thưa
hỏi Phật:
· Bạch Thế Tôn! Nếu có đại đức, tỳ
kheo bệnh, chúng con nên chăm sóc như thế nào?
· Này Ưu Ba Ly! Khi có tỳ kheo bệnh, chúng
tăng nên đem bệnh nhân đến ở phòng chính nơi thoáng khí, cắt cử người thay
phiên chăm sóc, ăn uống thuốc thang. Các đệ tử cũng thay
phiên nhau túc trực hầu hạ, quét dọn sạch sẽ, cắm
hoa, đốt hương, theo dõi bệnh tình, hơi thở... Khi có người
đến thăm cần tiếp đón nồng hậu, khách hỏi bệnh nhân điều gì hãy thay
bệnh nhân trả lời đầy đủ. Nếu có Phật tử đến thăm, hãy mời
họ ngồi đằng sau, hoặc phía từ nửa mình bệnh nhân trở xuống. Nếu họ phát
tâm cúng dường những gì, hãy niệm Phật chú nguyện, rồi tiếp
thọ nói pháp cho họ nghe. Khi người bệnh cần đại tiểu tiện, hãy mời khách
ra ngoài rồi lo cho bệnh nhân.
Ở ngoài cửa cũng cần có người trực để hướng dẫn khách thăm bệnh.
Đó là đối với các Tỳ kheo đại đức, còn các tỳ kheo nhỏ cũng
hãy chăm sóc như thế, có điều là không nên đem bệnh nhân đến ở phòng chính. Nếu
bệnh nhân không có sư trưởng hoặc đệ tử, các Tỳ
kheo đồng trú xứ nên phân công chăm sóc bệnh nhân. Nếu trong chúng không đủ điều
kiện thuốc thang cho bệnh nhân, có thể lấy vật dụng của họ đem
bán lấy tiền lo thuốc cho bệnh nhân. Nếu bệnh nhân không ưng thuận,
hãy mời vị trưởng thượng đến thuyết phục, nếu không có
vật đổi chác, khi đi khất thực, tỳ kheo mang hai bát, một cho
mình và một cho bệnh nhân. Khất thực về hãy chọn các thức
ăn bổ dưỡng dành cho người bệnh. Nếu họ viên tịch hãy xử
lý vật dụng còn lại một cách hợp lý, như cúng dường tam
bảo hoặc quan phân cho đại chúng.
Với tâm từ bi, Tôn giả Ưu Ba Ly rất quan
tâm đến người bệnh, nhất là người xuất gia vì họ đã cắt ái từ
thân, cho nên lúc lâm bệnh họ rất cô độc và cần có người
chăm sóc. Đức Phật dạy, trong các phước điền, chăm sóc bệnh nhân
là phước điền đệ nhất.
Phá Tăng và Hòa Tăng
Là vị giữ giới đệ nhất, Tôn giả luôn
luôn quan tâm đến các vấn đề pháp chế, nhưng quan trọng nhất
vẫn là vấn đề phá tăng và hòa tăng. Chư Tăng sống theo
hạnh lục hòa, cho nên nếu bất hòa là mối tai họa lớn
lao. Với tập thể, có hòa hợp mới dễ dàng thành tựucác hoạt vụ,
nhỏ như một gia đình có thuận vợ thuận chồng mới tát cạn bể đông. Bởi
thế khi họp tăng làm phép yết ma, vị thủ tọa hỏi tăng đã họp
xong chưa rồi lại hỏi: Tăng có hòa hợp không? Nếu Tăng không hòa
hợp là Yết ma không thành. Một hôm tại thành Xá Vệ, Ưu
Ba Ly hỏi Phật rằng:
· Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Phá hòa hợp Tăng?
· Này Ưu Ba Ly! Nếu trong Tăng đoàn, có người
hay chỉ trích, chê bai, đâm thọc để các Tỳ kheo phải tyï hiềm
nhau, hoặc gây sự bất ổn, đó là phá sự hòa hợp Tăng. Nếu đối với chư
Tăng, có Phật tử tại gia tạo sự bất hòa phân
chia nhân ngã, khiêu khích làm chia rẽ tăng đoàn, làm rối loạn mất hòa
khí, gọi đó là phá hòa hợp tăng. Ngoài đời, nếu chính quyền chen vào nội bộ tăng
đoàn, tự viện, chỉ trích này nọ, hoặc yêu cầu trục xuất tăng
nira khỏi tự viện, tăng đoàn gọi đó là phá hòa hợp tăng.
Người phá hòa hợp tăng mang tội rất nặng, chết đọa vào địa ngục chịu
các cực hình trong thời gian một kiếp.
· Bạch Thế Tôn! Còn thế nào gọi là hòa hợp tăng?
· Này Ưu Ba Ly! Người lễ bái cúng dường, hỗ
trợ tùy thuận ngợi khen các tỳ kheo đúng phép, đúng luật
gọi đó là hòa hợp tăng.
· Người đem lại hòa hợp tăng được những công
đức gì?
· Công đức người tạo hòa hợp tăng được
sinh vào thế giới có nhiều phước báu, hưởng các lạc thú trọn
kiếp.
Vốn là một con người có tác phong khiêm tốn, hiểu
rõ nghĩa lý của giới luật, giữ giớinghiêm minh, Tôn giả không
phải không biết thế nào là Phá Tăng và Hòa tăng, nhưng vì muốn tăng
đoàn lưu tâm đến sự ổn định nội bộ tránh các tranh chấp,
nên Tôn giả đem vấn đề ra hỏi Phật để nhắc nhở.
Kiết Tập Luật Tạng
Ở trong tăng đoàn không những lo giữ giới luật,
bàn với Phật nhiều điều về giới luật, Tôn giả còn xử lý
các Tỳ kheo phạm tội, làm phép Yết ma sám hối, giảng
giải giới luật cho các Tỳ kheo, Về phía nữ với tính rụt rè,
các tỳ kheo ni không dám đem vấn đề ra hỏi Phật, các vị thường
đem những gì không biết hoặc còn nghi ngờ về luật học thưa hỏi Tôn
giả. Ngoài Đức Phật ra Tôn giả gần như là người có đủ thẩm
quyền quyết định về mọi vấn đề liên quan đến giới luật.
Sau khi Phật Niết Bàn trong cuộc kiết tập Kinh,
Luật, Luận tại động Kỳ Xà Quật gồm 1.250 vị A La
Hán do Đại Ca Diếp làm chủ tọa, Ngài A Nan tuyên
trì tạng kinh, Ngài Ca Chiên Diên tuyên trì tạng luận,
Ngài Ưu Ba Ly tuyên đọc 80 lần các giới luật do Phật chế. Từ
cuộc kiết tập nầy bộ Bát Thập Tụng Luật được hình thành và
đó là bộ luật căn bảnđầu tiên của văn học Phật giáo. Theo Nam
truyền sử, Tôn giả Ưu Ba Ly không những là vị kiết tập Luật
tạng, mà còn là vị kế thừa Đức Phật lãnh đạo giáo
đoàn và trở thành Sơ tổ. Đây cũng là điểm mà Phật
giáo Bắc tông khác với Phật giáo Nam tông.
Theo truyền thống Bắc tông: Đại Ca Diếp là vị Sơ tổ thừa kế Phật lãnh đạo giáo đoàn, nguyên nhânsự khác biệt này xét ra cũng dễ thấy.
Theo truyền thống Bắc tông: Đại Ca Diếp là vị Sơ tổ thừa kế Phật lãnh đạo giáo đoàn, nguyên nhânsự khác biệt này xét ra cũng dễ thấy.
· Nam tông thiên về tư tưởng giải thoát,
muốn giải thoát phải trì luật. Tôn giả Ưu Ba
Ly là vị trì luật đệ nhất nên được suy ton là Sơ tổ.
Còn Bắc tông thiên về tư tưởng giác ngộ, lấy tâm ấn tâm
không cần văn tự, ấn truyền ngoài kinh điển. Tôn giả Đại
Ca Diếp là vị đã lãnh hội được ý chí đó nơi Đức
Phật trước nhất, qua cành hoa sen của Phật đưa ra tại hội
Linh Sơn. Sau khi Đức Phật Niết Bàn Tôn giả là vị chủ
tọa, lãnh đạo cuộc kiết tậpkinh điển, nên Phật giáo Bắc
tông suy tôn Ngài là Sơ tổ.
Nhận Thức và Kết Luận
Trong các sử truyện không ghi rõ giai đoạn cuối của cuộc
đời Tôn giả, do đó chúng takhông rõ Ngài nhập Niết Bàn vào
lúc nào. Nhưng sau cuộc kiết tập kinh điển lần thứ nhất, sử truyện
không ghi chép một sự xuất hiện nào của Ngài. Bởi thế chúng
ta có thể suy đoán sự nhập Niến Bàn của Tôn giả trong
khoảng trước hoặc sau Tôn giả Đại Ca Diếp mà thôi. Về sự
tương truyền Ưu Ba Ly trong lúc cạo tóc cho Phật đã thể
nhập từ sơ thiền đến tứ thiền nghe qua có viễn vông,
nhưng xét kỹ đó không phải là một vấn đềkhông tưởng, vì đó chỉ là một vấn
đề hiện tượng tâm lý thông thường, mọi người có thể trải
qua. trên lý thuyết thiền chia có 4 bậc là để định mức trạng
thái tâm lý của một hành giả qua 4 bậc, từ thấp đến
cao.
Khi chưa tọa thiền tâm lý con người rất loạn
động, hết nghĩ đến vấn đề này liền dấy động đến vấn đề khác.
Phật cho tâm lý con người như một con ngựa không cương, như vượn
khỉ chuyền cây. Khi tọa thiền, hành giả khởi đầu loại trừ
các triền cái, nhiếp tâm vào một vấn đề nào đó,
càng nhất tâm nhiếp niệm thì định lực càng cao, đi từ
bâc sơ thiền đến tứ thiền. Lúc cạo tóc cho Phật, Tôn
giả đã chú tâm vào động tác nghề nghiệp, quên hết những vấn
đề khác, tâm chuyển từ trạng thái sơ thiền đến tứ thiền.
Noi gương Tôn giả, dùng giới chế ngự hết các phóng dật, chúng
ta sẽ trở nên con người tốt có phẩm hạnh cao, có tư
cách để từ đó không làm gì hại đến gia đình, đoàn thể, quốc
gia, xã hội. Chỉ trong phạm vi giữ giới như thế chúng
ta đã là người có ích cho đời rồi, còn nói gì khi chúng ta bước
vào guồng máy của hoạt động tích cực của xã hội. Sự cường
thịnh của quốc gia và xã hội căn bản là con
người hoạt động với tinh thần đạo đức, cần kiệm liêm
chính. mạng mạch của chính pháp được nuôi dưỡng từ các tăng
sĩ có giới hạnh.
- Hết -
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét