Thứ Sáu, 25 tháng 8, 2017

Ý Trinh cảm niệm mùa Vu Lan



Ân đức đấng sanh thành

Hôm nay chúng ta đang ở trong mùa Vu-Lan, mùa lá vàng rụng về cội, mùa khói hương mù sương nghi ngút quyện lấy lời nguyện cầu mang đến thế giới tâm linh, thế giới vô hình u hoài mầu nhiệm của các bậc ân đức sanh thành quá cố. Mỗi lần Vu-Lan đến khiến cho lòng người con thảocháu hiền sống dậy nỗi nhớ niềm thương, mong được gần gũi với cha mẹcùng những người thương thân ân đức của mình. Vu-Lan có nghĩa là giải-đảo-huyền, tức là giải cứu tội nhânbị khốn khổ được giải thoát an vui.

Cây có cội, nước có nguồn, làm con nên nhớ ân đức sanh thành dưỡng dục của mẹ cha ông bà tổ tiên. Người bộ hành trên lộ trình mệt mỏi ngồi nghỉ dưới gốc cây, còn có cảm tình thích mến tàng cây bóng mát. Người lỡ đường khát nước đói cơm được người cho cơm giúp nước, còn biết nói lời cảm ơn. Kẻ gặp lúc túng thiếu khốn cùng trong cơn nguy biến sa cơ thất thế được người giúp đỡ giải cứu, còn biết cúi đầu tỏ lòng tri ân. Khi lạc đường, hay lúc thất thời lỡ vận hoặc bệnh nặng được người chỉ dẫn giúp đỡ, còn biết nhớ ơn trả nghĩa, huống chi là cha mẹ, đấng đã tạo ra mình, đã suốt đời khổ công nhọc trí cho việc sanh thành dưỡng dục con từ thuở còn nằm trong thai, những ngày còn là hài nhi ngo ngoe trong nôi, đêm ngày bồng bế trên tay nhai cơm đút sữa, bên ướt mẹ nằm, bên ráo con lăn, cho đếnngày con khôn lớn lập thành gia thất nên danh nên phận!? 

Người con đã tiếp nhận ân đức nuôi dưỡng chăm sóc nâng niu vỗ về của cha mẹ từng giây từng phút suốt quãng thời gian mang nặng đẻ đau cho đến ngày con bước vào đời chung cùng xã hội có danh vọng sự nghiệp. Ân đức cù lao ấy bút mực nào chép ghi cho hết, lời lẽ nào diễn tả cho cùng, lấy lượng nào đong:

Lên non mới biết non cao
Nuôi con mới biết công lao mẫu từ


Nếu không có cha mẹ thì đâu có ta. Nếu khi tiếng khóc chào đời của ta mà không có cha mẹ thương yêu săn sóc bao bọc nâng niu bú mớm thì ta không thể còn sống. Nếu con thiếu đi tình thương sữa ngọt, không được nâng niu bế bồng thì khó mà sống còn khôn lớn. 
  • Không có cha mẹ thì con khó mà hưởng được hoàn cảnh ngọt dịu nuông chiều, no cơm ấm áo. 
  • Không có cha mẹ, con sẽ khô cằn, cảm thấy thiếu vắng chất liệu dịu ngọt êm ấm. Không có tình thương của cha mẹ thì con khó được lớn khôn, sẽ không chốn nơi nương tựa ấm lòng. 
  • Mất cha mẹ là mất hết tất cả hoa tình thương yêu quý của cuộc đời, mất hết cả bầu trời tình thương mát dịu:
Em thấy em mất mẹ
Là mất cả bầu trời


Cha mẹ là đất trời tình thương. Cha mẹ là trăng sao soi sáng đêm trường mát dịu. Cha mẹ là ánh mặt trời sưởi ấm lòng con, là nguồn sống của con. Cha mẹ là suối nguồn sữa ngọt, là xôi nếp mật, là chuối hương thơm, là liễu rủ hồ trăng, là cành dương chi của mẹ hiền Quán-Âm cứu khổ, là nước cam lồ tưới mát lòng con, là nơi nương tựa vững chắc cuộc đời, là nguồn an ủi vô biên, là nguồn hy vọng tươi đẹp của đời con, là tiếng đàn muôn điệu của con trong mọi hoàn cảnh vui buồn.

Ai bảo em cuộc đời không đẹp
Khi nhơn gian còn phiếm xuân cầm
Ai bảo em cuộc đời không đẹp
Khi em còn có mẹ trong tâm.



Khi con còn nhỏ, cha mẹ nâng niu chiều chuộng an ủi vỗ về ngày đêm không rời con. Kịp đến khi con vừa khôn lớn thì cũng đồng trong thời gian ấy, cha mẹ phải tảo tần một nắng hai sương để lo cho con ăn học thành người. Con vừa trưởng thành thì cha mẹ nghĩ đến công danh sự nghiệp, lập thành gia thấtcho con.

Vì lập thành gia thất, vì công danh sự nghiệp, vì danh phận cho con mà lắm lúc cha mẹ phải thao thức quên ăn mất ngủ, nhịn ăn nhịn mặc cần kiệm dành dụm để lo hạnh phúc cho con. Vì an thân lập mạng tương lai cho con mà mẹ phải ngược xuôi thậm chí phải cúi lòn giao tiếp để cho con mình được tiến thân nở mặt nở mày.

Thương con, mẹ lo xa, hy sinh tất cả, kể cả danh dự và mạng sống của mình đôi lúc cũng chẳng màng.

Mẹ hy sinh tất cả
Hết quãng đời tuổi xanh
Cả thương yêu dịu ngọt
Rộng hơn biển trời thanh…


Chính vì cha mẹ quá thương con, lo lắng bảo toàn cho con hơn là chính con lo lắng cho tự bản thâncon. Vì mẹ quá lo cho con mà đôi lúc làm cho con bực bội hiểu lầm tình thương của mẹ. Chính vì mẹ quá thương con, lo lắng săn sóc cho con, nên nhiều khi người con cảm thấy như bị ràng buộc gò bó. Nhưng con nào có biết nỗi niềm thương mến của mẹ đối với con bao la như không gian vô tận, vũ trụ vô cùng trùm khắp tất cả, như thanh khí trong lành nuôi sống vạn loài, như đại địa chắc dày che chở muôn vật.

Mẹ là cả một trời thương
Mẹ là nguồn sống thiên đường trần gian.


Chính cha mẹ cho con thân nầy. Đích thực cha mẹ dưỡng dục con khôn lớn thành người, chứ không phải trời thần thượng đế nào hết. Suốt trọn đời của cha mẹ đã trải tình thương bao la ân đức sâu dầy cho con như thế, nên bổn phận làm con không thể quên được. Nếu phận làm con không thương nghĩ báo đền ân đức sanh thành dưỡng dục như trời cao biển cả đó, thì cũng chớ nên nhẫn tâm có những hành vi ngôn ngữ thất đức như nói: “Thượng đế sanh tôi; không ăn đồ cúng cha mẹ; tôi cũng như cha mẹ đều do thượng đế tạo thành”, những điều nầy chẳng những làm cho cha mẹ đau buồn tủi phận, mà còn trái với luân thường đạo lý con người có niềm tin truyền thống Đông phương.

Nếu vì đắm mê ái tình, hay vì truy cầu công danh sự nghiệp, hoặc vì nghe theo ác đảng, hay mê tín tà thần ngoại đạo mà con bỏ quên cha mẹ ở một phương trời góc biển nào đó, hoặc chẳng phụng thờ cha mẹ, bỏ bê đấng sanh thành, thì hôm nay, ngày Vu-Lan báo hiếu là dịp tốt nhất, nên hồi tâm đem hết lòngthành, bày tỏ nghĩa cử hiếu kính hướng về cha mẹ. Cha mẹ hy sinh trọn đời trải hết tâm can không màng khổ nhục chỉ vì con, vì muốn lo cho con no cơm ấm áo an lành, vì tương lai hạnh phúc của con, ân đức ấy cao sâu vô tận, mà phận làm con không thương tưởng đến thì con biết thương tưởng ai? Người thân thương ân tình tạo ra đời mình, trọn đời hy sinh đem ân đức cho mình, ruột thịt của mình mà mình chẳng đoái hoài kính thương, đó không phải vong ơn bội nghĩa thì là gì? Và còn biết ơn nghĩa với ai? 
Những kẻ bội bạc vô tình đối với cha mẹ như vậy thì đối với gia đình vợ con chỉ là vấn đề lợi dụng tình cảm, đối với bạn bè chỉ là manh tâm đầu cơ thanh thế lợi dưỡng, đối với quốc gia xã hội chỉ là môi trường rúc rỉa tham ô để được vinh thân phì da mà thôi! Bởi vì hễ đã bất hiếu thì bất nhân bất nghĩa, đưa đến tâm niệm hành vi làm khổ cha mẹ, giết bạn hại thầy. 
Những kẻ vong ơn cha mẹ, bội nghĩa sư trưởng, lương lẹo bằng hữu để được quyền uy danh vọng lợi dưỡng thì những kẻ đó nhất địnhphải là những kẻ vong bản, phản dân tộc, hại quốc gia, đạp lên mạng sống của tha nhân để vinh thân, vui trên cái khổ của người khác để được quyền lực, giàu trên cái nghèo của đồng loại, và mạnh bước đến bờ hố thẳm tội lỗi, không ngại dùng độc tài sắt máu làm khổ dân hại nước, đưa đồng loại và tổ quốc đến chỗ khốn cùng băng hoại lầm than. Tất cả những hậu quả của bất lương ác độc, bất nghĩa bất trung bất tín đều bắt nguồn từ bất hiếu mà ra. Hiếu đạo trọng đại như vậy, nên cổ đức nói: “Hiếu vi vạn hạnhvi tiên”. Nghĩa là, hiếu đứng đầu trong muôn hạnh lành. Người không có tâm hiếu kính thì không phải là con người. Bởi con người thì có nhân tính, trí óc có hiểu biết , có trái tim rung cảm, có tình thương, có luân thường đạo lý, biết tri ân trọng nhân nghĩa.

Thế nên, muốn lập thân, thành công, muốn được đời trọng vọng, muốn sống đời đạo đức thăng hoa tiến bộ, thì trước nhất phải lập tâm hiếu kính với cha mẹ trong gia đình, rồi sau mới ra ngoài đối xử láng giềng quyến thuộc, giữ lấy trách nhiệm xã hội làng nước. Hiếu là đạo tu thân. Người muốn thành nhân, đạt hiền, chí thánh đều lấy hiếu làm gốc. Nên cổ đức nói: “Thiên kinh vạn quyển, hiếu nghĩa vi tiên”. Có nghĩa là ngàn quyển kinh, muôn quyển sách, công danh sự nghiệp, tiếng thơm muôn đời, đều lấy hiếu đạo làm đầu.

Nếu chẳng may cha mẹ đắm say cờ bạc rượu chè, mê tín đồng bóng, lầm vào tà giáo, ngoại đạo, ác đảng, bạn bất lương, hoặc chưa biết tu tâm dưỡng tánh, hoặc ngăn cản làm chướng ngại sự tu tậphành thiện của con cái, thì bổn phận làm con chớ nên vì thế mà nản lòng thối chí, trái lại, phải hết sứckhôn khéo uyển chuyển dùng lời lẽ dịu ngọt, phương tiện quyền xảo để hướng thiện mẹ cha khởi lòng tin nhân quả luân hồi, phát tâm quy y Tam-Bảo, làm việc phước thiện, ấy là một cách báo đền ân nghĩasanh thành dưỡng dục cao quý nhất. Làm được như vậy thì việc báo hiếu cả sự lẫn lý mới là vẹn toàn.

Cha mẹ còn nơi dương thế thì con nên gần gũi sớm hôm thăm viếng chăm sóc áo cơm, dưng nước thuốc thang. Cha mẹ qua đời, con nên noi gương hiếu hạnh Mục-Kiền-Liên tôn-giả, tùy theo khả năng mình mà cố gắng làm việc phước đức, cúng dường Tam-Bảo, trai tăng siêu độ để hồi hướng cho cha mẹ được siêu thoát luân hồi, sanh về cảnh giới an vui.

Nhờ phép Phật siêu sanh tịnh độ
Bóng hào quang cứu khổ độ u
Rắp hòa tứ hải quần chu
Não phiền rửa sạch, oán thù rũ không.


• Nhân quả như bóng theo hình, như vang theo tiếng.
• Quả báo như bánh xe lăn theo chân bò kéo xe.
• Trời cao lồng lộng, nhưng mẩy lông không lọt.


Cảm niệm Vu Lan

Mỗi năm đến ngày rằm tháng bảy, đó đây những người con thảo cháu hiền, tự nhiên cảm thấy lòng bâng khuâng se thắt, man mác nỗi nhớ niềm thương. Lòng thương nhớcha mẹ, thân bằng quyến thuộc hiện còn trên dương thế. Nỗi tiếc thương ông bà cha mẹ anh em đã qua đời. Để cho nỗi lòng thương nhớđược phần nào thâm trầm êm dịu, những người con thảocháu hiền dâng trọn nén tâm hương khấn nguyện trong chiều thu Vu-lan thắng hội. Nguyện gởi tình thương nhớ theo làn khói trầm hương quyện tỏa, cầu mong đức Phật Thích-Ca, Phật A-Di-Đà, mười phương chư Phật, chư vị Bồ-Tát cùng những hồn thiêng chứng giám tấc dạ chí thành.

Vu-Lan nguyên tiếng Phạn là Ullambana, có nghĩa là cứu tội nhân treo ngược. Bồn là cái thau để phẩm vật cúng dường chư Tăng. Lấy tích ngày xưa tôn-giả Mục-Kiền-Liên đã sắm sửa phẩm vật để vào thau cúng dường trai tăng, cầu nguyện cứu độ mẹ thoát khỏi chốn ngạ quỷ. Ngoài ra, còn gọi là Vu-Lan thắng hội, nghĩa là pháp hội thù thắng cứu độ thân nhân quá cố thoát khỏi đọa đày khổ đau trong ba đường địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh.

Rằm tháng bảy là ngày lễ tự tứ của mười phương Tăng. Ngày mà chư Tăng đã trọn đủ ba tháng an cư kiết hạ, được thêm một tuổi đạo của đời sống tu hành. Ngày mà cách đây 2526 năm, tôn-giả Mục-Kiền-Liên, khi tu hành chứng được đạo quả, đã dùng huệ nhãn của mình quán sát tìm xem mẹ cha đang ở phương nào để thăm viếng, thì thấy mẹ là bà Thanh-Đề do vì khi còn ở dương thế lòng quá bỏn xẻn, không tin Tam-Bảo Phật Pháp Tăng, xem thường nhân quả nghiệp báo luân hồi, lại còn có tâm khinh mạn Tăng Ni do vậy mà tạo ra tội lỗi. Nên khi chết đọa vào ngạ quỷ, bụng to như trống, cần cổ như kim, đói khát thiêu đốt bức bách khổ sở muôn trùng không sao kể xiết. Mục-Kiền-Liên thấy mẹ tội khổ cực hình như thế, tâm dạ xót xa thống thiết, mới đem bình bát cơm đến dâng cho mẹ:

Đây bát cơm đầy nặng ước mong
Mẹ ơi! Đây ngọc với đây lòng
Đây còn tình nặng trong tha thiết
Ân nghĩa sanh thành chưa trả xong


Nhưng bà Thanh-Đề tội căn nghiệp ác quá sâu nặng, nên cơm vừa để vào miệng thì hóa thành lửa. Tôn-giả Mục-Kiền-Liên tuy đã chứng được thánh quả, dẫu lòng hiếu kính chí thành chí thiết cảm độngđến thiên địa quỷ thần, nhưng không thể tự một mình cải ác hoàn thiện cứu được ác nghiệp đọa đàycủa mẹ. Không cầm được xúc động thương tâm, tôn-giả đã nức nở trước cảnh đọa đày thống khổ của mẹ, lẹ làng vận dụng thần thông bay về bạch lên đức Phật những sự việc đau lòng chính mắt thấy, cầu xin chỉ dạy phương pháp cứu độ mẹ:

“Đôi mắt long lanh lệ ướt đầm
Khắp tìm từ mẫu cõi xa xăm
Lỗi niềm nuôi dưỡng bao năm tháng
Phụ đức sanh thành biết mấy năm
Tấc dạ báo đền ơn nghĩa nặng
Tấm lòng mong nguyện hiếu tình thâm
Vì chân Phật dạy Vu-Lan hội
Luống để cho ai những khóc thầm”



Đức Phật từ bi khai thị nhân quả nghiệp báo, thuyết giảng về nguyên nhân chiêu cảm ác nghiệp và phương pháp cứu độ. Tôn-giả Mục-Kiền-Liên liền đi khắp đó đây tìm thỉnh những bậc chân Tăng hoặc hành đạo nơi chùa viện, hoặc đang ẩn tu chốn hẻo lánh rừng núi suối đèo, đồng thời thành tâm sắm sửa thức ăn vật dụng trai nghi, đúng vào rằm tháng bảy, ngày chư Tăng tự tứ, ngày chư Phật hoan hỷ, tôn-giả thành kính đảnh lễ dâng phẩm vật cúng dường trai tăng. Nhờ sự thành tâm khẩn thiết của người con hiếu hạnh, cùng với sức mạnh vạn năng của công đức tu hành, khác miệng một lời nhất tâm chú nguyện của chư Tăng, hợp cùng nhịp điệu tâm thức cảm thông với lòng ăn năn hối cải của bà Thanh-Đề, với sức thần lực cảm ứng nhiệm mầu của chư Phật gia hộ, cùng với bao nhiêu tâm đức hiệp lại tạo thành sức mạnh nhiệm mầu, nhờ vậy mà tội căn của bà Thanh-Đề mau lẹ tiêu trừ, phước đức sanh trưởng, bà được siêu thăng về cõi trời hưởng phước lạc:

Mẹ hiền về chốn thiên cung
Toại lòng con thảo, nguyện cùng thánh tăng
Từ bi công đức vạn năng
Mấy nghìn năm vẫn chưa từng đổi thay
Chư Tăng trọn chín mươi ngày
Cát tường bảo tọa trải bày tâm con
Bao nhiêu nghiệp hải chướng san
Đây ngày tự tứ sạch ngàn ác duyên


Sau khi bà Thanh-Đề sanh về thiên giới hưởng phước báo an vui, đức Phật liền dạy chúng đệ tử: “Mỗi năm đến ngày rằm tháng bảy, ngày chư Tăng tự tứ, ngày chư Phật mười phương hoan hỷ, những người con thảo cháu hiền có thể nhân ngày nầy mà thiết lễ cúng dường, để hồi hướng công đức cho cha mẹ, tổ tiên, thân bằng quyến thuộc. Làm việc cúng dường trai tăng như vậy, thì khắp cả người mất cũng như kẻ còn đều được hưởng lợi lạc, công đức trọn vẹn”.

Tôn-giả Mục-Kiền-Liên đã thể hiện trọn vẹn tâm đức của người con hiếu hạnh muôn thuở. Và cũng chính tôn-giả là người khai mở kỷ nguyên hiếu hạnh cho muôn đời nhân thế nương theo.

Nhưng tại sao cầu siêu độ cho hương linh phải nhờ đến sức chú nguyện của chư Tăng? Sức chú nguyện của chư Tăng là tha lực vạn năng nhiệm mầu. Nhờ uy đức tu hành trì giai giới hạnh thanh tịnhcủa các Ngài, nhờ nhứt tâm thành thiết cầu nguyện mà cảm hóa hoán cải được tâm thần của các vong linh. Một hạt cát, một viên sỏi dù nhỏ đến đâu, nếu để trên nước đều phải chìm xuống đáy biển. Tảng đá dù to nặng đến đâu, nếu để trên thuyền, chẳng những không chìm đáy nước mà còn có thể dễ dàng di chuyển từ nơi này đến nơi khác, từ bờ nầy đến bến kia. Cũng vậy, tội nhỏ mà không biết ăn năn sám hối, không có sự cứu giúp nguyện cầu của tâm đức tha lực chư Tăng và sự gia hộ của chư Bồ-Tát thì nhất định phải bị đọa. Tâm đức chú nguyện của chư Tăng cùng với thần lực gia hộ của chư Phật Bồ-Tát chính là chiếc thuyền vạn năng cứu độ. Do đó, đã lỡ lầm tạo tội lỗi to lớn mà biết ăn năn sám hối, lại cần đến tha lực cứu giúp của chư Phật, sức chú nguyện của chư Tăng thì vẫn được siêu thoát. Như một tử tội, nếu được những danh nhân khắp nơi đồng thời ký đơn để xin ân xá, thì tử tội kia có thể được cải án tử hình khỏi chết, hoặc tội nặng thành nhẹ hay có thể được tha bổng.

Muốn báo hiếu những bậc mà ta đã thọ ân sâu nghĩa nặng nay đã qua đời, tốt nhất là nên thỉnh các bậc chân tăng để lo cầu nguyện siêu độ. Bởi sức cầu nguyện là tha lực tinh thần vạn năng không thể nghĩ bàn. Cứ xem Mục-Kiền-Liên cúng dường trai tăng siêu độ mẹ thì rõ. Người chết cũng sống trong trạng thái tinh thần đó. Cả hai tầng độ năng lục tinh thần kẻ sống và người chết giao cảm linh thiêng mầu nhiệm tạo thành thần giao cách cảm, mà người trần mắt thịt xác phàm không thể thấy được. Tiếc thương, báo đền ân nghĩa bằng cách cúng dường trai tăng, ăn chay cầu nguyện, làm điều phước thiệnđể hồi hướng công đức đến các bậc ân nhân là phương cách lợi ích thiết thực. Còn thương mà khóc lóc kể lể thảm thiết là vô tình tạo thêm quyến luyến rối loạn tâm thần người chết. Bày biện rượu thịt cúng quẩy đãi đằng chỉ làm tăng thêm nghiệp ác vô cùng, chỉ ràng buộc thêm tội lỗi nặng nề cho người chết chớ chẳng có ích lợi gì. Người thông minh đạo đức không ai lại dại dột làm theo tục lệ khi người thương thân qua đời mà nỡ lòng bày tiệc rượu thịt để ăn nhậu trước cảnh tử biệt đau lòng! Việc làm nầy thật là thất đức không thương người khuất bóng chút nào!

Hiếu chủ cúng dường trai tăng, tụng kinh cầu nguyện, chính bản thân mình phải thành tâm chay tịnh và đồng thời nên đem tiền của người quá cố ra làm việc bố thí cúng dường để hồi hướng công đức cho hương linh, ấy chính là chân lý siêu độ muôn đời. Tốt hơn nữa mời bạn bè thân quyến cùng dự lễ trai tăng để mọi người khác miệng một lời nhất tâm hộ niệm hồi hướng công đức cho hương linh. Được như thế công đức vô cùng. Hương linh tất sẽ được hưởng phần siêu thoát.

Đạo Phật rất xem trọng sự cầu nguyện cho người quá cố. Những người con thảo cháu hiền, tuy không phải là đệ tử Phật, nhưng đến ngày rằm tháng bảy cũng cảm thấy lòng thương nhớ mông lung, nhớ hình bóng cha mẹ, người thân, ân nghĩa sanh thành cùng những ân tình thâm trầm kín đáo nao nao nơi lòng! Rồi người con thảo cháu hiền tự nhiên trào dâng lòng thương nhớ cha mẹ và người thân mà thành tâm hướng vọng Phật đài, khẩn cầu ơn Phật thánh hiền gia hộ tiếp độ:

Nhờ phép Phật siêu sanh tịnh độ
Bóng hào quang cứu khổ độ u
Rắp hòa tứ hải quần châu
Não phiền rửa sạch oán thù rũ không.


Cây có cội, nước có nguồn. Kẻ làm con muốn trọn nghĩa hiếu đạo con hiền cháu thảo, ai mà không nhớ đến ân sanh thành dưỡng dục của mẹ cha ông bà. Cho nên mỗi lần nhắc đến mẹ cha, dù là cha mẹ còn ở đời hay là khuất bóng, ở xa hay sống gần, người con chưa làm tròn bổn phận hiếu đạo thì lòng cảm thấy chưa an. Cổ nhân có câu: “Thiên tải tử tâm du bảo hám. Mỗi tùng thuyết hiếu thuyết ngoan ngân”. Nghĩa là, ngàn năm lòng con còn ân hận. Mỗi lần nhắc hiếu nhớ mẹ hiền.

Ngày xưa, thầy Tử-Lộ thuở còn nghèo khó, ngày ngày đội gạo ra chợ bán để kiếm tiền độ nhật nuôi mẹ. Tuy là hàn vi bận rộn vì cái sống, nhưng sách không lúc nào rời tay. Ban ngày đội gạo ra chợ bán, tối về chăm học thâu đêm. Không bao lâu, sau khi cha mẹ qua đời, Tử-Lộ lại càng nỗ lực gắng công đèn sách thi đỗ làm quan. Lòng nhớ thương cha mẹ khi sanh tiền sống trong cảnh hàn vi thiếu thốn. Nay thi đậu làm quan thì cha mẹ đã khuất bóng! Tử-Lộ tự nghĩ bổn phận làm con đối với cha mẹ, đạo hiếu chưa tròn. Nhớ thương tiếc nuối hai đấng sanh thành mà lòng trắc ẩn bất an rồi tự thương than:

Mộc dục tịnh nhi phong bất đình
Tử dục dưỡng nhi thân bất tại

Nghĩa là, cây muốn lặng mà gió chẳng ngừng. Con muốn đền ơn cha mẹ, nhưng cha mẹ không còn nữa!
Cách nay hơn hai ngàn năm trăm năm về trước, đệ tử của đức Thích-Ca là tôn-giả Mục-Kiền-Liên vâng lời Phật dạy thực hành đạo hiếu cứu mẹ một cách viên mãn. Sau đó năm trăm năm, đệ tử của đức Khổng-Tử là thầy Tử-Lộ, tự nghĩ chưa làm tròn hiếu đạo đối với mẹ cha lúc sanh thời, ông đã ôm linh vị cha mẹ ra mộ đập mình xuống đất mà khóc than, quên đi mình đang mặc cân đai áo mũ của triều đình vua ban cử làm quan. Lời trắc ẩn thương thân thật là thống thiết: “Cây muốn lặng mà gió chẳng chịu ngừng. Nay con muốn phụng dưỡng cha mẹ để đền ơn đáp nghĩa sanh thành dưỡng dục trong muôn một. Nhưng than ôi! Cha mẹ không còn nữa”.

Đến như đức Phật Thích-Ca Mâu-Ni, bậc đại giác ngộ, trí đức viên mãn, là bậc thầy của cả trời người là đấng đạo sư của ba cõi nhân thiên mà Ngài còn ân cần thành thiết khuyên vua cha gắng tu để dứt trừ phiền não, và sau đó đã đích thân nghiêng vai khiêng quan tài vua cha ra đến tận nơi trà tỳ. Trước khi về tinh-xá, đức Phật còn cúi đầu cầu nguyện hương linh vua cha lần cuối cùng.

Nhưng tại sao bổn phận làm con phải hiếu thảo? Nào, chúng ta hãy thử suy nghĩ xem, không có cha mẹta thì không có ta. Gá mượn tinh cha huyết mẹ mà thành thân ta. Từ khi gá thân trong bụng mẹ cho đếnlúc ra chào đời trải theo thời gian mà khôn lớn ăn học nên người, mẹ cha đã bao lần rơi lệ, trăm bề khổ cực lo cho con, chất chồng muôn nỗi buồn phiền, cay đắng, mừng giận, hy vọng rồi thất vọng đều do con tạo ra! Lắm nỗi cực nhọc của cha, muôn phần khổ nhục của mẹ, thảy đều vì con. Khi con lớn khôn lập thành gia thất, cha mẹ cũng đã phải lo lắng tinh thần và công của, phập phồng hy vọng, sắm sửa cho con. Tất cả tâm trí sức lực tình thương của mẹ đều dồn cho con, hy sinh vì con:

Mẹ cho con tất cả
Hết quãng đời tuổi xanh
Cả thương yêu dịu ngọt
Rộng hơn biển trời thanh
Mẹ là gió mát tinh anh
Là cây tiên dịu, là cành thùy dương
Mẹ là hoa, mẹ là hương
Mẹ là nguồn cội tình thương nhiệm mầu
Bây giờ bóng mẹ còn đâu
Chỉ còn non nước một mầu xanh xanh


Cha mẹ vì muốn cho con no ấm, nên danh được phận mà quên mình. Vì thương con mà mẹ phải có lúc cam tâm làm điều tội lỗi. Vì con mà dám hy sinh, mà mẹ cha phải cam lòng buộc bụng hạ mình. Không bút nào tả cho hết tình thương của cha mẹ hy sinh đối với con. Ân cha mẹ như trời cao biển rộng. Nghĩa cha mẹ khó khổ đắng cay như ghềnh thác nước lũ tuôn chảy bất tận! Bổn phận con hiếu cháu hiền làm người nhân nghĩa ở đời lại có thể vì lý do nào đó mà lờ quên đi việc phụng dưỡng đền đáp ân nghĩa cha mẹ khi còn sống và phụng thờ khi song thân qua đời được ư?

Công cha như núi Thái-Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Một lòng thờ mẹ kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con.


Ơn cha cao như núi Thái. Nghĩa mẹ rộng dài như nước nguồn biển cả. Bổn phận làm con không phải chỉ phụng dưỡng cha mẹ bằng cơm áo tiền bạc là đủ. Bởi cơm tiền bạc chỉ là phần vật chất cho thể xác mà thôi. Thân xác nầy là giả tạm tầm thường, tồn tại trong thời gian nào đó rồi cũng tan về với cát bụi. Người làm con thảo cháu hiền, ngoài vấn đề phụng dưỡng cha mẹ bằng vật chất ra, còn phải biết khuyến khích cha mẹ quy y Tam-Bảo, tin Phật pháp, tin luân hồi, nhân quả, nghiệp báo. Khuyên cha mẹphát tâm hành thiện vun trồng phước đức, để tinh thần cha mẹ có nơi nương tựa, vui trong niềm tinPhật pháp, gắng siêng bồi đức khi tuổi già. Đó mới là người con khôn ngoan hành thiện báo hiếu trọn vẹn.



Những người con chỉ biết ỷ vào tiền bạc quyền thế, hoặc say mê vật chất dục lạc ái tình danh lợi, không những không khuyến khích giúp đỡ cha mẹ tu tâm sửa tánh, làm điều phước thiện, kính tin Tam-Bảo, mà còn ngăn cản cha mẹ trong việc tu hành, phát triển niềm tin đạo đức, thì đó là những người con đại bất hiếu, là giặc cướp phần công đức của đấng sanh thành. Kinh sách thánh hiền gọi là tặc tử, tức là những kẻ đạo tặc oan trái của mẹ cha, làm cho cha mẹ phiền muộn, tinh thần không được an vui. Cha mẹ không được thoải mái với niềm tin, xa dần chánh đạo, dẫn dụ cha mẹ đi vào dục lạc tình đời, để rồi rơi vào con đường lầm mê tội lỗi của địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, triền miên trôi lăn trong sáu nẻo luân hồi không dứt. Tội ác của những đứa con làm trở ngại sự tu tâm dưỡng tánh hành thiện của cha mẹkhông lời lẽ nào nói cho cùng. Những đứa con như vậy nghìn đời muôn kiếp sẽ phải khổ đau trong ba đường ác!

Cha mẹ chẳng may vô phước gặp phải những đứa con vô đạo đức, không tin Tam-Bảo như thế, kinh Phật gọi là: “nhận giặc làm con”. Nghĩa là cha mẹ vì con mà phải bôn ba tranh đua chụp giựt, chân lấm tay bùn, một nắng hai sương để nuôi cho con khôn lớn ăn học nên người. Bây giờ phải khổ tâm, vì con đã thành người, con trở lại cản ngăn làm khó dễ, cấm đoán cha mẹ tìm thú vui trong niềm tin Phật pháp, tu tâm sửa tánh làm việc phước đức. Nói ra sợ người chê cười con mình bất hiếu, gia đình vô phước, nên cha mẹ đành phải ôm lòng chịu đựng đau khổ. Những đứa con làm cha mẹ buồn khổ như vậy, kinh Phật gọi những đứa con như thế là cọp beo, là giặc cướp, là ma quỷ, là oan gia nghiệp báo. Ma đưa lối, quỷ đưa đường hướng những đứa con không tin nhân quả luân hồi nghiệp báo, không phụng thờ cúng kính cha mẹ, khinh chê phẩm vật cúng, mù quáng sùng bái thần linh, thượng đế, vong bản bội bạc ân nghĩa sanh thành dưỡng dục của cha mẹ! Vì nó phá rối bao công đức lành của cha mẹ muốn làm. Những đứa con như thế chỉ biết lôi kéo cha mẹ vào con đường đọa lạc ác thú, đúng là oan gia trái chủ, không gì bất hạnh cho bằng.

Thánh hiền dạy: “Phụ mẫu đắc ly trần, tu đạo phương thành tựu – Cha mẹ được siêu thoát phàm trần, an vui nơi cảnh thánh hiền tiên Phật, lúc đó bổn phận làm con mới tròn đạo hiếu. Đạo hiếu có tròn, người con mới hoàn thành nhân cách. Đạo hiếu dạy người con thảo cháu hiền đối với cha mẹ ông bà tùy theo hoàn cảnh của mình mà phụng dưỡng. Miễn sao cha mẹ được no ấm an vui, nhất là an vui về tinh thần, an vui với niềm tin đạo đức, để cho tinh thần được nhẹ nhàng thoải mái khi trăm tuổi già, như thế mới là làm tròn đạo hiếu. Kinh dạy: “Hiếu vi vạn hạnh vi tiên”. 
- Hiếu là đầu trong muôn hạnh lành. Người không làm được hiếu đạo, là người mất hết nhân cách đạo đức. Cho dù người đó có tài giỏi, giàu sang địa vị danh vọng đến đâu thì cũng là kẻ vong ân bội nghĩa, kẻ vô nhân đạo, nguy hiểm cho đời. Vì sao? Bởi vì cha mẹ mang nặng đẻ đau, nuôi dưỡng lớn khôn, cho con ăn học nên người, lo giúp cho con lập thành gia thất, trải suốt bao tháng năm nuôi nấng vất vả chăm sóc dạy dỗ, mà người con không đoái hoài nghĩ tưởng, thương nhớ để giúp đỡ cha mẹ, thì hỏi còn có thể thương tưởng giúp đỡ ai? Kinh dạy: “Thiên kinh vạn điển, hiếu nghĩa vi tiên”. Nghĩa là dù cho có đọc thông ngàn quyển kinh, vạn quyển sách, trăm mảnh bằng, giàu sang tài giỏi đến đâu, địa vị quyền uy cao đến mấy, mà chẳng biết lấy đạo hiếu ở đời, chẳng có lòng hiếu thảo mẹ cha, người con như thế là kẻ vô luân đáng vất bỏ đi. Ngược lại, nếu có lòng hiếu thảo phụng dưỡng cha mẹ thì đó mới là người con đáng tin cậy, là người con quý của gia đình hạnh phúc, là người hữu ích cho xã hội nhân quần, là người mà bậc cha mẹ hãnh diện ước mong. Người con hiếu thảo, dù ở đâu, trong hoàn cảnh nào cũng nhớ tưởng cha mẹ:

Đi đâu bỏ mẹ ở nhà
Gối nghiêng ai sửa chén trà ai bưng
Đói lòng ăn bát cháo môn
Nhịn cơm nuôi mẹ cho tròn hiếu trung

***
Cầu cho cha mẹ đa sanh
Cửu huyền thất tổ tâm tình thảnh thơi.


Gương hiếu hạnh của tôn-giả Mục-Kiền-Liên, của thầy Tử-Lộ đã là hào quang hiếu hạnh rạng chiếu muôn đời. Các Ngài cũng sanh ra trong hoàn cảnh khó khăn, nhưng các Ngài còn có được phước duyên nuôi dưỡng cha mẹ trong tình thương của nơi chôn nhau cắt rún, của quê hương mang tiếngkhóc ban đầu, để còn được nhìn lại ngôi nhà của cha mẹ, mà than mà khóc, có dịp bộc lộ được hết tất cả tâm tình thương tiếc của mình dâng lên cha mẹ.




Cho Trọn Lòng Con

Hằng năm đến rằm tháng bảy, không ai bảo ai, mọi ngườiđều cảm thấy nơi lòng sống dậy nỗi nhớ niềm thương, tưởng nhớ đến ông bà cha mẹ, làng nước quê hương, nhớ thương đến những ân nhânthương thân xa cách.

Cách đây gần ba ngàn năm, cũng nhân ngày rằm tháng bảy, vua Ba-Tư-Nặc đã thỉnh Phật và đại chúng vào hoàng cungđể cúng dường cầu siêu độ cho tiên vương và thất thế phụ mẫu. Còn tôn-giả A-Nan trước đó đã thọ nhận người tín chủ riêng thỉnh cúng dường, nên không cùng Phật và đại chúng dự lễ trai tăng của vua Ba-Tư-Nặc dâng cúng.

Trên đường về tinh-xá Kỳ-Viên, tôn-giả A-Nan bị trúng kế tà chú Ta-tỳ-ca-la Phạm-Thiên, mắc nạn nữ sắc Ma-Đăng-Già, may thay được Phật và Bồ-Tát Văn-Thù tức khắc cứu thoát. Liền đó, Phật vì A-Nan chỉ bày phương pháp tu hành, khai thị chân tâm. Qua bảy lần Phật gạn hỏi về tâm, A-Nan đã lãnh hội lời Phật, thể nhập được chân tâm của mình. Nội dung câu chuyện Phật khai tâm cho A-Nan trên pháp hộiLăng-Nghiêm, được gói trọn trong bộ kinh Thủ-Lăng-Nghiêm. Qua bộ kinh nầy, ta thấy tôn-giả A-Nan bàng hoàng xúc động nửa mừng nửa tủi, nhưng tôn-giả được cái may mắn trực tiếp tắm trong dòng suối tình thương bao la của Phật. Nhờ Phật hết lòng từ bi chỉ dạy, A-Nan đã tỉnh ngộ không phải trải quaba kiếp a tăng kỳ mà trực nhận chân tâm, thể nhập Phật tánh, chứng đắc pháp thân. Đây cũng là tâm nguyện thầm kín khẩn thiết chung của tất cả mọi người tu học Phật, ngày đêm hằng tâm miệt mài trên đường giác ngộ được thổ lộ qua tâm tư của tôn-giả A-Nan: “Bất lịch tăng kỳ hoạch pháp thân, nguyện kim đắc quả thành bảo vương, hoàn độ như thị hằng sa chúng”. Người hành đạo mang đại nguyện giác ngộ lợi tha, cho dù gặp phải ma quân chướng nạn, vẫn quyết tâm dõng mãnh tinh tiến với tâm nguyệnbền chắc: “Thuấn nhã đa tánh khả tiêu vong, thước ca-ra tâm vô động chuyển”. Hư không dù có tiêu vong, tâm Bồ-đề con vẫn không thay đổi.

Ngày nay, mỗi độ Vu-Lan về, hằng vạn triệu con tim của người con Phật, những người con thảo cháu hiền trên quả địa cầu đồng điệu rung động, nhưng không còn mấy ai nhớ đến sự việc nầy để cùng cảm thông nỗi vui mừng xúc động của tôn-giả A-Nan sau khi được Phật khai thị, trực ngộ chân tâm chứng đặng pháp thân, chẳng phải trải qua ba kiếp a tăng kỳ. Mà điểm đặc biệt kỳ diệu là người ta chỉ còn cảm động hình bóng thâm thiết cứu độ mẹ của tôn-giả Mục-Kiền-Liên, người con hiếu hạnh muôn thuở, khai mở kỷ nguyên hiếu hạnh cho muôn đời.

Mục-Kiền-Liên tôn-giả sau khi tu chứng thánh quả, đã dùng huệ nhãn quán sát thấy mẹ là bà Thanh-Đề đọa đày trong kiếp ngạ quỷ, đói khát khổ sở vô ngần. Mục-Liên rất đỗi xót xa, tự thấy công đức thần lựccủa mình không đủ khả năng cứu mẹ, phải cầu đến Phật chỉ dạy phương pháp siêu độ.

Đức Phật nói với tôn-giả Mục-Kiền-Liên rằng: “Mẹ ông lúc còn sanh tiền không biết làm việc phước thiện, không tin nhân quả, không kính tin Tam-Bảo, chê bai Tăng Ni, khinh khi người nghèo khó, keo kiết bỏn xẻn, chèn ép hiếp đáp người, nói không giữ lời, nên tội nặng như núi to, mà công đức tu hành của ông chỉ như chiếc thuyền nhỏ, không đủ sức di chuyển đá núi quá to nặng đó. Mà cần phải nhiều chiếc thuyền kết bè hợp lực mới đủ sức đưa tảng đá núi to kia qua biển khổ được.

Vậy, nhân ngày rằm tháng bảy, ngày chư Tăng tự tứ sau ba tháng an cư tròn đầy tịnh tâm chuyên ròng tu niệm, giới đức thanh tịnh trang nghiêm, được nhận lãnh thêm tuổi đạo. Ngày ấy cũng là ngày chư Phật mười phương hoan hỷ, khi thấy hàng trưởng tử Như-Lai tam nghiệp thanh tịnh, giới đức châu viên tinh chuyên tịnh hạnh. Ông nên nhân ngày rằm tháng bảy, ngày chư Tăng tự tứ, ngày chư Tăng thọ đạo tuế, ngày mười phương chư Phật hoan hỷ, mà đem hết tâm thành và khả năng sẵn có khẩn thiết sắm sửa trai diên vật dụng, thiết lễ trai tăng cung thỉnh chư tôn thiền đức thành tâm đem hết tâm thành dâng lên cúng dường, cầu mong quý Ngài chứng trai nạp thọ. Mẹ ông sẽ nhờ giới đức tu hành thanh tịnh của chư Tăng, đức chúng như hải, nhất tâm chú nguyện cùng sự thành tâm khẩn thiết của ông tạo thành sức mạnh tinh thần vạn năng, hiệp cùng thần lực của chư Phật mười phương gia hộ, sẽ chuyển hóađược nghiệp căn của mẹ ông. Như thế mẹ ông mới mong giải nghiệp thoát khổ”.
Tôn-giả Mục-Kiền-Liên đem hết lòng thành, thực hành lời Phật dạy, quả nhiên cảm hóa bà Thanh-Đề hồi tâm hướng thiện, liền đó thoát kiếp ngạ quỷ, được sanh về cảnh giới thiên cung. Câu chuyện này được gói trọn trong bộ kinh Vu-Lan. Từ đấy, ngày rằm tháng bảy còn được gọi là ngày Vu-Lan, tức là ngày giải cứu tội nhân bị đọa đày trong ba đường ác địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Từ đấy trở đi, ngày rằm tháng bảy trở thành ngày báo đáp thâm ân cha mẹ ông bà của những người con thảo cháu hiền. Ngày Vu-Lan thắng hội của những người còn tìm về nguồn gốc ông cha tiên tổ. Ngày cho những người uống nước nhớ nguồn.

Để mở đường hiếu hạnh cho hậu thế, đức Phật nhìn Mục-Kiền-Liên rồi hướng về đại chúng dạy rằng: “Đời sau, hàng đệ tử của ta hoặc là những người con thảo cháu hiền nào muốn báo đền ân sâu nghĩa nặng của cha mẹ hay người thương thân, nên nhân ngày rằm tháng bảy Vu-Lan, noi gương hiếu hạnh của Mục-Kiền-Liên, phát tâm thành kính cúng dường Tam-Bảo, thiết lễ trai tăng, hành thiện bố thí hồi hướng tất cả công đức lành đã làm được cho ân nhân của mình, thì cũng sẽ được phước đức hiệu quảnhư Mục-Kiền-Liên siêu độ mẹ ngày hôm nay vậy.

Công đức tu hành của các bậc chân Tăng tạo thành sức nặng vạn năng cho sự cầu nguyện cứu khổ độ linh. Do vậy, từ đấy đến nay, ngày rằm tháng bảy mỗi năm đã trở thành ngày Vu-Lan thắng hội, ngày lễ thiêng liêng bất diệt, ngày sưởi ấm lòng người con thảo cháu hiền đã thực hiện hiếu hạnh, ngày mặc nhiên thầm nhắn nhủ người đời: Uống nước nhớ nguồn, làm con phải hiếu, báo đáp thâm ân.
Lễ Vu-Lan là dịp tốt để con cháu hiện còn trên dương thế sống lại trong tình thương ấm cúng ngọt ngào của mẹ cha qua lời kinh cầu nguyện, qua chiếc bông hồng cài trên áo, và thể hiện tâm thành hiếu kính bằng sự làm phước, cúng dường, cầu nguyện trong đại lễ Vu-Lan. Do đó, lễ Vu-Lan còn gọi là lễ giải-đảo-huyền, mang ý nghĩa pháp hội giải cứu tội đọa đày của các vong linh. Bởi mang ý nghĩa thâm sâumầu nhiệm như vậy, nên lễ rằm tháng bảy thường được gọi là lễ Vu-Lan thắng hội, nghĩa là Pháp hộithù thắng vạn năng, giải thoát đau khổ của những ân nhân quá cố bị đọa đày.



Hiếu Trong Đạo Phật

Cha mẹ là nguồn sống của con. Người sống trên đời ai mà không do từ cha mẹ sanh thành, ai mà không được cha mẹ nuôi nấng lớn khôn? Cha mẹ đã trải dài năm tháng tốn hao biết bao là tâm huyết tiền của để lo cho con ăn ngon mặc đẹp mạnh khỏe nên người. Cha mẹ đã ngày đêm nhọc nhằn cưu mangquên ăn bỏ ngủ để vỗ về săn sóc con. Con khóc, lòng mẹ đau xót, tâm cha lo âu. Con cười là nguồn vui của cha mẹ. Con đau ốm là cha mẹ thấp thỏm bỏ ăn mất ngủ lo chạy tìm thầy đủ thuốc cho con. Khi trái gió trở mùa thì cha mẹ quên chính mình mà lo cho con trước. Trọn đời cha mẹ hy sinh cho con. Hy sinh cả tinh thần lẫn vật chất, hy sinh cả tâm huyết lẫn thân hình. Những gì ngon tốt nhất trên đời, yêu quý nhất trên đời, nồng hậu ngọt bùi nhất trên đời, cha mẹ đều dành để cho con:

Mẹ cho con tất cả
Hết quãng đời tuổi xanh
Cả thương yêu dịu ngọt
Rộng hơn biển trời thanh…

Thử hỏi trên đời nầy có ai hy sinh cho mình bằng cha mẹ? Cha mẹ đã đem trọn cuộc đời trao hết cho con. Từ lúc con còn trong thai mẹ cho đến khi tiếng khóc chào đời, từ lúc con còn là hài nhi cho đến khi khôn lớn nên người lập thành gia nghiệp, không lúc nào mẹ ngừng nghỉ chiếu cố vỗ về săn sóc con. Tình thương của mẹ xuyên suốt liên tục trải dài như suối nguồn trong mát tuôn chảy bất tận đến cho con:

Một đời vốn liếng mẹ trao
Mẹ cho tất cả mẹ nào giữ riêng
Mẹ hiền như một bà tiên
Mẹ theo con suốt hành trình con đi.


Vì vậy mà tiền nhân cổ đức đã ví ân đức của cha mẹ như núi cao suối nguồn:

Công cha như núi Thái-sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra

Theo tinh thần luân thường đạo lý, ý nghĩa đạo đức nhân sanh, chân lý của hạnh phúc vững bền, hễ đã thọ ơn thì nên biết ơn để báo đền. Cứ lẽ tự nhiên, hễ đã vay thì phải trả, không trả là ngấm ngầm chiếm đoạt. Đã thọ ơn thì nên biết báo đáp ơn, không báo đáp tức là vong ơn bội nghĩa. Mượn mà không hoàn trả, thọ ân mà không nghĩ đến việc báo đáp là mặc nhiên chà đạp đạo lý luân thường, phá hoại kỷ cương đạo đức của lẽ sống nhân sanh, hậu quả đưa đến gia đình mất tôn ty hạnh phúc, làng nước mất thanh bình tự chủ.

Các bậc thánh hiền đã nhận rõ sự trọng yếu của hiếu đạo có năng lực xây dựng con người đôn hậu, xã hội an hòa, nhân dân lợi lạc, nên đã nói: “Hiếu vi vạn hạnh vi tiên”. Có nghĩa là hiếu đứng đầu trong muôn hạnh lành thiện. Người sống biết hiếu đạo là biết hòa thuận với mọi người, tạo cho cuộc đời vui tươi tiến bộ. Cho nên xưa nay các bậc tiên triết hiền thánh, khác miệng một lời đều khuyến giáo người đời: “Thiên kinh vạn điển, hiếu nghĩa vi tiên”. Nghĩa là ngàn kinh muôn sách, hiếu nghĩa làm đầu. Thế nên, hạnh phúc gia đình thì cha hiền con hiếu làm gốc. Hạnh phúc quốc gia thì vua đức tôi trung làm gốc. Có hiếu thì mới có trung, tín, nghĩa, nhân. Hạnh phúc xã hội nhân quần thì tín làm gốc. Hạnh phúcthân bằng quyến thuộc thì nghĩa làm gốc. Thế nên hiếu là nền tảng xây dựng hạnh phúc an lành cho nhân quần xã hội. Do vậy, con người dù có thông bác tài cán đến đâu mà không biết đạo hiếu, không xem trọng đạo hiếu, không có tâm hiếu kính cha mẹ, thuận thảo anh em, hòa cùng láng giềng làng nước thì con người đó tự nhiên thành là kẻ bất hiếu bất nghĩa với gia đình quyến thuộc, là kẻ bất nhân, bất trung, bất tín với quốc gia dân tộc, và hậu quả tất nhiên nhất định đưa đến vô đạo với bà con, phi nhânvong bản với làng nước. Lịch sử dân tộc, lịch sử nhân loại đã chứng minh điều đó.

Nghĩa là kẻ bất hiếu không phụng thờ cha mẹ tổ tiên nhất định đưa đến bất nhân, bất nghĩa, bất tín, bất trung để rồi tác hại khổ đau đến đại chúng. Bằng chứng cho ta thấy xưa nay những lý thuyết, chủ nghĩa, giáo điều, tín ngưỡng nào mà phủ nhận tinh thần hiếu đạo, xem nhẹ việc phụng thờ tổ tiên cha mẹ thì nhất định sẽ tạo ra cảnh gia đình bất hạnh, cha mẹ già nhà vắng lạnh không con cái thân gần phụng dưỡng, xã hội bất ổn tranh chấp chèn ép thiếu tình người, quốc gia thường sanh sản ra cảnh tang thương đau lòng, người dân sống trong lo âu hồi hộp áp bức nặng nề.
Người không hiếu kính phụng thờ cha mẹ thì không cách nào thật tình thương dân thương nước. Người xem nhẹ đạo hiếu thường là người không phụng thờ cha mẹ tổ tiên, sống ngoài kỷ cương truyền thốngsinh hoạt của giống nòi dân tộc, và sẵn sàng bội phản truyền thống của ông cha để làm ma nô lệ người ngoài, vọng ngoại cầu vinh tạm bợ, mặc cho ai than thở khổ đau, riêng mình được vinh thân phì da thỏa thích tham vọng là được. Đất nước Việt-Nam đã bao lần bị ngoại nhân xâm lăng dày xéo, triền miênchinh chiến khói lửa rách nát, dân sinh đói khổ lầm than đều do hậu quả của những kẻ vong bản vọng ngoại, học đòi những tà thuyết giáo điều phi nhân mất gốc vong nô để rồi hậu quả mang lại không biết bao là đau khổ cho dân tộc, làm xụp đổ sự an lành của đất nước phải rơi vào cảnh lạc hậu đói nghèo. Nguồn gốc sâu xa của hậu quả tang thương đau lòng trên đây đều khởi đi từ tâm lý xem nhẹ đạo hiếu, bỏ đạo truyền thống của ông cha tổ tiên dân tộc.

Loài súc sanh cũng được sự nuôi dưỡng của mẹ và đôi lúc cũng có loài được sự hợp lực của cha. Nhưng khi lớn lên chúng chẳng còn biết ân nghĩa, nên thường vì miếng ăn và ái dục mà chúng tranh giành cấu xé gây thương đau cho nhau. Tuy nhiên, quạ già nhờ quạ con kiếm mồi về nuôi. Dương già nhờ dương con ngậm cỏ cho vú bú sữa để sống. Loài súc sanh mà còn như thế, còn loài người sao nỡ quên hiếu đạo phụng dưỡng kính thờ mẹ cha? Bởi do lòng ích kỷ với ý đồ tham vọng thống trị, nên sản sanh ra những giáo điều, lý thuyết phủ nhận đạo hiếu. Những thứ giáo điều lý thuyết nầy cho rằng con người do cha mẹ ái dục sanh ra; hoặc phán rằng con người do thần linh thượng đế tạo ra, nên không có đạo hiếu. Những học thuyết giáo điều chủ trương như vậy là ý đồ đẩy nhân loại sống mất gốc quên nguồn, sống phi nhân phi nghĩa như cầm thú, để rồi mặc tình mê hoặc thống trị nô lệ hóa con người.


Con người đạo đức, con người có dòng máu truyền thống luân thường đạo lý, là con người không cuồng tín vọng ngoại, là con người sống biết ân nghĩa thành tín. Người biết ân nghĩa thành tín tất nhiên biết hiếu đạo, thì chẳng những không bao giờ làm khổ người khác mà còn nghĩ đến cách phải làm sao lợi lạc nhân quần xã hội. Người hiếu đạo nhân đức là người khi thấy tha nhân bất hạnh khổ đau thì lòng xót xa ra tay mở lượng cứu giúp; khi thấy người an vui thì vui mừng; khi thấy người làm việc lành thiện thì tùy hỷ công đức; khi thấy người có hành vi tâm niệm bất thiện thì khuyến hóa cải tà quy chánh, ấy là tâm hạnh của kẻ hiếu đạo theo tinh thần Phật giáo. Đặc biệt tinh thần đạo Phật, ban ân không cầu báo đáp. Nhưng thọ ân phải có bổn phận báo đền. Cây kia cho người bóng mát, sông kia cho người nước ngọt, người kia cho bát nước chén cơm lúc lỡ đường mạt vận không cần cầu báo đáp, nhưng bổn phận người uống nước phải nhớ nguồn, ăn trái phải nhớ kẻ trồng cây. Người tín chủ ủng hộ sư tăng, cha mẹtận tình cho con nguồn sống không mong báo đền, nhưng sư tăng có bổn phận tu hành thành tâm hồi hướng phước đức cho người thí chủ, con có bổn phận dâng lòng hiếu kính mẹ cha.

Người đời cũng như các đạo giáo khác có đề xướng việc báo hiếu bằng cách lo cung cấp vật chất cho cha mẹ hiện đời hoặc cầu hồn cha mẹ về cõi trời cõi tiên khi cha mẹ qua đời. Báo hiếu của đạo Phật đặt nặng cả hai phương diện. Ấy là khi cha mẹ còn sanh tiền và khi cha mẹ quá vãng. Khi cha mẹ còn hiện tiền trên đời thì người con ngoài việc đem tâm thương kính cha mẹ, phụng dưỡng săn sóc cha mẹ về các thứ ăn mặc thuốc thang đỡ đần an ủi ra, còn đặc biệt cố gắng khuyên cha mẹ quy y Tam-Bảo, thọ trìgiới pháp, tin nhân quả luân hồi, tu tâm sửa tánh hành thiện. Nếu gặp phải chướng duyên, cha mẹkhông chịu tu tâm hành thiện, tin Tam-Bảo, thì người con vẫn nên ẩn nhẫn thành tâm nguyện cầu Phật lực gia hộ, tiếp tục uyển chuyển khéo léo tìm cơ hội thuận duyên khuyến hóa cha mẹ cải tà quy chánh, phát tâm quy y Tam-Bảo, tin sâu nhân quả luân hồi. Bởi người không tin nhân quả luân hồi thì người đó có thể làm bất cứ tội ác gì, theo đó, nghiệp quả kéo lôi đọa đày vào chốn khổ đau trọn kiếp. Kinh nói: “Giả sử trăm ngàn kiếp đã làm những ác nghiệp thì những nghiệp đó không mất, một khi nhân duyênđến thì phải tự lãnh thọ”.

Thế nên một khi cha mẹ qua đời, thì con cháu đem hết khả năng sẵn có của mình và những của cải cha mẹ còn để lại dồn hết năng lực để lo việc cúng dường Tam-Bảo, trai tăng, làm phước, cúng phát nguyệnđoạn kỳ trai giới, tụng kinh niệm Phật v.v… tất cả công đức lành nầy đều hồi hướng cho hương linh cha mẹ. Có được như vậy họa hoằn mới hy vọng làm tròn đạo hiếu, mới báo đáp thâm ân cha mẹ. Nếu không làm như thế thì cha mẹ sẽ bị đọa lạc chốn khổ đau, con cháu thiếu bổn phận lớn lao, và từ đó gia đạo khó có cơ phát đạt. Có những bậc cha mẹ bất hạnh gặp phải con cháu vô đạo không có niềm tinPhật pháp, nên chi khi cha mẹ qua đời, liền bày tiệc thết rượu đãi đằng bạn bè chè chén say sưa, điều nầy chỉ tạo thêm tội lỗi cho cả người chết lẫn kẻ sống.

Đảng phái không trọng hiếu đạo, không tin nhân quả luân hồi là đảng phái tàn ác, sẽ tự đưa đến chỗ băng hoại. Tôn giáo không trọng hiếu đạo, không kính thờ cha mẹ, không tin nhân quả luân hồi là tôn giáo không thích hợp chân lý, không phù hợp nhân bản đạo đức, là phản khoa học, là sức cản trở sự tiến bộ của nhân loại, tạo vô vàn tang tóc cho loài người, khiến cho người nhân trí hoài nghi và tôn giáo đó khó tránh khỏi bị đào thải suy thoái. Với giáo lý sáng chói của đạo Phật, qua lăng kính thực nghiệm của khoa học, dưới hào quang rạng rỡ của chân lý chứng đắc, nếu văn minh nhân loại được hướng dẫn trong tinh thần trí huệ từ bi hỷ xả bình đẳng của đạo Phật thì nhân loại tất sẽ được hưởng thanh bình an lạc của thiên đàng cực lạc ngay cõi trần gian nầy. Nhưng thực tế trần gian vẫn dẫy đầy nghiệt ngã khổ đau, chính do cá nhân, cộng đồng, đảng phái, tôn giáo không tin sâu nhân quả luân hồi nghiệp báo, không tôn trọng hiếu đạo báo đáp ân nghĩa. Do vậy mà tạo ra lắm điều phiền khổ cho nhau.

Đạo hiếu là đạo nhân bản, là đạo thánh hiền. Thế nên hiếu với cha mẹ thì thuận với anh em và hòa với làng nước. Người chân chính thực hành hiếu đạo có thể chịu cái khổ trước người, hưởng cái vui sau người. Đem hiếu hòa xây dựng cuộc đời để người và mình cùng chung hưởng hạnh phúc tiến bộ thanh bình an lạc. Nên Bồ-Tát-Giới Kinh nói: “Hiếu là giới, cũng gọi là đạo, là chuỗi anh lạc, là hương trang nghiêm vi diệu” có công năng đưa người trở về sống với đặc tánh nhân bản, và xây dựng cuộc đời an lạc hướng đến chân thiện mỹ. Thế nên, hiếu là chất liệu phát triển tình yêu quê hương, yêu đồng bào nhân loại, yêu đạo lý làm người, yêu cuộc đời, yêu lời thơ tiếng hát nhân tình.

Mẹ ơi! Nhớ nước nhớ nguồn
Thương quê, yêu đạo, con còn làm thơ.


Dù niệm Phật ăn chay hay đến cả cạo tóc làm tăng mà tâm lăng xăng theo danh lợi hơn thua, thì chẳng những không lợi ích gì cho nhân quần xã hội mà ngay cả bản thân cũng chẳng được thăng tiến lương thiện, nói chi đến chuyện đền đáp bốn ân, cứu giúp ba đường.



Vu-Lan phiên âm từ tiếng Phạn Ullambana, người Trung-Hoa dịch là giải-đảo-huyền. Có nghĩa là cởi mở giải thoát cho tội nhân bị hành hạ treo ngược. Lễ Vu-Lan hay nói cho đúng ý nghĩa của nó là Pháp hội Vu-Lan hay Vu-Lan thắng hội, tức là tăng tục câu hội y như Phật Pháp mà cử hành lễ để cầu nguyệncho những chúng sanh đang bị tội khổ trong ba đường ác được giải thoát. Chúng sanh trong địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh thống khổ vô cùng như người bị treo ngược hành hạ thì lễ Vu-Lan chính là cứu khổgiải thoát cho những vong hồn thoát ly khỏi chốn đọa đày trong ba đường ác địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh.

Đức Phật nói, chư Tăng mỗi năm tịnh tâm chuyên ròng tinh tấn tu niệm suốt ba tháng an cư. Thời gianan cư kiết hạ bắt đầu từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy. Trong suốt thời gian ba tháng này, chư Tăngcấm túc an trụ một nơi, kiết giới ngày đêm chuyên ròng tu tập, thân tâm thanh tịnh. Do chuyên ròng tu tập mà giới đức tăng trưởng tròn đầy. Đến ngày rằm tháng bảy là ngày chư Tăng tự tứ, ngày thêm được hạ lạp, nghĩa là thọ lãnh thêm một tuổi đạo. Ngày ấy là ngày chư Phật mười phương hoan hỷ, vì thấy hàng đệ tử nghiêm trì giới luật, giới thể châu viên, thân tâm thanh tịnh, bước đến gần thêm đạo quả giác ngộ giải thoát.

Tuân theo lời đức Phật chỉ dạy, Mục-Kiền-Liên tôn-giả cũng trong dịp Vu-Lan thắng hội này, đã thiết lễ trai tăng cúng dường, chư Tăng hoan hỷ thọ dùng, thành tâm chú nguyện cho mẹ tôn-giả. Nhờ lòng hiếu thảo, nhờ công đức cúng dường trai tăng, nhờ sức thành tâm chú nguyện của chư đại-đức Tăng tạo thành năng lực thù thắng đã khiến bà Thanh-Đề, mẹ của Ngài Mục-Kiền-Liên tôn-giả nhờ đó mà tâm được chuyển hoá thoát khỏi kiếp ngạ quỷ đói khổ. Đây là mở đầu kỷ nguyên Vu-Lan hiếu hạnh cho ngàn đời về sau:

Rồi cứ năm năm rằm tháng bảy
Hồn con nương tựa bóng từ bi


***
Chư Tăng trọn chín mươi ngày
Cát tường bảo tọa trải bày tâm can
Bao nhiêu nghiệp hải chướng san
Đây ngày tự tứ sạch ngàn ác duyên


Từ đấy trở đi, mỗi độ thu sang rằm tháng Bảy, đó đây những người con thảo cháu hiền đều thành tâmnghiêng mình trước đấng từ bi Phật-Đà, nguyện noi theo hiếu hạnh của tôn-giả Mục-Kiền-Liên, sắm sửa trai diên cúng dường Tam-Bảo, cúng dường trai tăng, đem công đức hồi hướng cầu nguyện cho ông bà cha mẹ thân nhân quá cố sớm thoát khỏi cảnh u đồ đày đọa khổ đau đen tối nơi địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh.

Dù cho ai đó có dong ruổi theo công danh sự nghiệp, mưu kế sanh nhai, hay mê dại đắm đuối trong ái tình danh lợi đến đâu đi nữa, thì mỗi độ thu sang rằm tháng bảy, tiết thu mát lạnh khắp người, gió thu hiu hắt lá vàng nhẹ rơi, chắc cũng phải chạnh lòng trong giây phút nào đó, hồi tâm tưởng nhớ đến đấng sanh thành, nhớ lại thân bằng quyến thuộc, nhớ nơi chôn nhau cắt rún của mình.

Lòng hiếu kính là nền tảng vững chắc của tình gia tộc, là nguồn sống an lành hạnh phúc thiêng liêngcủa gia đình, là nguồn sống tinh thần của cả một dân tộc. Nên những đứa con học Tây học Mỹ có bằng cấp nọ kia, nếu không thấm nhuần tư tưởng hiếu hạnh Đông phương, truyền thống của tổ tiên ngàn đời, thì những đứa con đó sẽ là những đứa con mất gốc, sẽ bỏ cha mẹ sống trong cô đơn hiu quạnh lạnh lẽo không người săn sóc, không biết thân gần an ủi cha mẹ khi tuổi già. Với những kẻ bất hiếu bất nhân vong bản tất nhiên mang lại cho cha mẹ cảnh sống bơ vơ, thiếu sự đầm ấm của gia đình khi cha mẹ còn sanh tiền, và một khi cha mẹ trăm tuổi già qua đời thì tất phải rơi vào cảnh nhang tàn khói lạnh. Đối với quốc gia xã hội, những đứa con bất hiếu bất nghĩa này trở thành những người con mất gốc, những người dân vong bản, quên hẳn truyền thống của ông cha tiên tổ, chỉ biết ích kỷ hưởng thụ, cúi đầu vọng ngoại, tôn sùng những tín điều chủ nghĩa lý thuyết ngoại lai, mang lại không biết bao là tai hại cho gia đình, dân tộc xứ sở. Bằng chứng hiển nhiên cho ta thấy, tiếng khóc của đồng loại kéo dài suốt cả trăm năm chưa dứt, cũng do những con người vong bản vọng ngoại thiếu tinh thần hiếu hạnh tạo ra.



Đồng bào đã và đang mang tâm trạng hoài nghi đố kỵ hận thù hãm hại nhau, gây đau thương tang tóc cho nhau, đầu giây mối nhợ, cũng bắt nguồn từ những kẻ thiếu lòng hiếu hạnh, quên đạo truyền thống của ông cha thời đại Lý, Trần, thiếu mất tâm đạo đức, thiếu ý thức trách nhiệm lương tâm với tiền đồdân tộc, chỉ biết cúi đầu rập theo danh lợi cặn bã của tà giáo ngoại lai, giáo điều chủ nghĩa, lập bè lập đảng phản dân hại nước, chỉ biết làm bồi bút viết lên những điều vô luân vô đạo, tạo nên sự đầu độc tâm trí người nhẹ dạ, hoặc lớp trẻ thơ, gây ra hoang mang nghi ngờ đối với tư tưởng niềm tin chánh tông truyền thống của dân tộc giống nòi, để được thỏa mãn tham vọng của ngoại bang và hả dạ ích kỷhận thù riêng tư. 
Thảm trạng tan nhà, mất nước, đồng bào triền miên trong cảnh chết chóc đọa đày dày xéo lên nhau, đạo Phật, đạo ông bà bị áp bức nghiệt ngã, dân tình nghi nhau hại nhau, nguyên nhân từ những kẻ thiếu lòng hiếu thảo, thiếu ý thức đạo đức truyền thống của ông cha, vô minh chạy theo tà thuyết tà đạo, mù quáng tin theo chủ nghĩa phi nhân, để được chút quyền lợi cặn bã, mặc tình phá nước hại dân.

Nhà Nho dạy rằng: “Muốn cho gia đình hạnh phúc, quốc gia hưng thạnh, dân tộc thái bình, trước hết phải tu thân”. Kinh sách của Khổng-Mạnh còn dạy: “Thiên kinh vạn điển hiếu nghĩa vi tiên”. Lời dạy này bao hàm ý nghĩa: “Dù cho thông thái đến đâu, chức tước đến bậc công hầu khanh tướng đi nữa, thì vẫn phải lấy hiếu đạo làm đầu”. Cổ đức tiên hiền nói: “Hiếu vi vạn hạnh vi tiên”. Nghĩa là, hiếu là đầu trong muôn hạnh. Cha mẹ sinh ta ra, nuôi ta lớn, cho ta ăn học nên người, giúp ta lập thành gia thất, tạo nên công danh sự nghiệp. Công lao sanh dưỡng suốt đời tận tụy khổ cực nuôi con, ân đức của cha mẹ to lớn sâu dày như trời cao bể rộng sông dài vậy đó, thế mà ta không nghĩ nhớ thương kính tỏ lòng biết ơn, thì thử hỏi còn tôn kính biết ơn ai!?

Những hạng người không có lòng hiếu thảo cha mẹ thì đối với vợ không có thành thật, đối với con không có thâm tình, đối với bạn bè xã hội không có thành tín, đối với vua với nước không có trung nghĩa. Người không có đức tánh thành, tín, trung, nghĩa, chân tình, nếu là thường dân thì gian xảo đạo tặc, còn làm vua quan thì tham nhũng, phản tặc, nuôi dưỡng ý đồ vong nô thừa dịp rước ngoại nhân về dày xéo mã tổ, hãm hại đồng bào. Còn nếu làm văn hoá thì bồi bút, đầu độc tư tưởng, chụp mũ vu khống, nhằm hướng dẫn dư luận quần chúng đến chỗ hoài nghi, phá sản niềm tin đạo đức truyền thốngcủa dân tộc, không có tâm kính trọng đạo đức, khiêm nhường bậc tiền bối, tôn trưởng. Nếu bất hiếu thì sẽ đưa đến bất nhân, bất nghĩa, bất trung, bất tín. Bởi vì ông bà cha mẹ mà còn không kính trọng phụng thờ thì thử hỏi còn biết kính trọng ơn nghĩa ai!

Dân tộc Việt-Nam nói riêng, dân tộc Á-Đông nói chung, nhờ tinh thần hiếu kính, mà duy trì tình dân tộc, nghĩa đồng bào, lòng yêu tổ quốc, mồ mả núi sông, hồn thiêng tiên tổ đất nước vững vàng trải suốt bao ngàn năm. Có hiếu thảo, dù cho cuộc sống kém về phần vật chất, nhưng đời sống tinh thần thật là phong phú êm đềm. Trọng đạo hiếu thì ít xảy ra cảnh loạn luân bội tín, phụ bạc thay trắng đổi đen, quê hương dân tộc giống nòi không nghẹt thở bởi thứ văn hoá đạo giáo chủ thuyết sắt máu phi nhân, ép ngặt bức bách mê hoặc vô luân phi lý, tạo sự mất chủ quyền xứ sở, xáo trộn luân thường đạo lý.

Đạo truyền thống của dân tộc là đạo từ bi trí tuệ, bình đẳng lợi tha, nhân bản hiếu nghĩa trung tín tình người, nên đã tạo thành người dân Việt cái tinh thần trọng đạo nghĩa, tuy sống trong nghèo bạc nghèo tiền, chớ không nghèo tình thương, không nghèo lòng nhân đạo, không nghèo lòng hiều thảo. Vợ chồng tuy sống vất vả, nhưng tình nghĩa vợ chồng nương nhau, thương nhau, trinh thuận sống không có cảnh tan rã, đầu năm cưới ở, cuối năm ly dị ly hôn. Quê hương Việt-Nam tuy nghèo, cuộc sống vẫn bình thản, không có dập dồn xô bồ ích kỷ, hấp tấp tranh đua, hại người để mình được lợi. Những đứa con Việt-Nam vì vô minh tham vọng bắt bóng lợi danh mà vong bản vọng ngoại đã mang lại cho mẹ Việt-Nam lắm nỗi điêu đứng, văn hoá đồi trụy, tôn giáo vô luân vô đạo, chủ nghĩa lý thuyết phi nhân phi dân tộc, dồn dập đao binh khói lửa làm cho mẹ Việt-Nam rách nát, con mẹ Việt-Nam điêu linh, tinh thần lúc nào cũng căng thẳng tạo thành tâm trí mát điên lừng khừng.

Tất cả những hậu quả tốt xấu, thành bại của con người hầu hết bắt đầu từ nền tảng hiếu. Có hiếu thì có lòng nhân. Bất hiếu thì bất thành nhân. Nên Thái tử Tất-Đạt-Đa sau khi tu hành thành đạo giác ngộ hiệu là Phật Thích-Ca Mâu-Ni, Ngài trở lại hoàng thành thăm viếng hoàng tộc, và an ủi thuyết pháp cho phụ vương nghe, nhờ đó mà vua Tịnh-Phạn giác ngộ đạo lý vô thường, trước khi nhắm mắt lìa đời. Không những thế, Ngài đã nghiêng vai khiêng quan tài vua cha đến nơi an nghỉ cuối cùng. Tôn-giả Mục-Kiền-Liên vô cùng xúc động, khi thấy mẹ sa đọa làm loài ngạ quỷ, đã đích thân bưng cơm dâng mẹ, đã bán hết tài sản để lo cúng dường trai tăng siêu độ mẹ:

Đây bát cơm đầy nặng ước mong
Mẹ ơi! Đây ngọc với đây lòng
Đây còn tình nặng trong tha thiết
Ơn nghĩa sanh thành chưa trả xong


***
Đôi mắt long lanh lệ ướt đầm
Khắp tìm từ mẫu cõi xa xăm
Lỗi niềm nuôi dưỡng bao năm tháng
Phụ đức sanh thành biết mấy năm
Tác dạ báo đền ơn nghĩa nặng
Tấm lòng mong nguyện hiếu tình thâm
Vì chân Phật dạy Vu Lan hội
Luống để cho ai những khóc thầm.


Như lời học giả Nghiêm-Xuất-Hồng đã tỏ bày với bút giả trong một dịp đàm đạo ở Phật-Học-Viện: “Tất cả sự thành công danh vọng ở đời chỉ là huyễn mộng, không ích lợi gì cho mình. Sự thành công đó không thể nào báo đền được công ơn cha mẹ. Chỉ có con đường xuất gia. Tôi đem tuổi đời còn lại, hy vọng thuận duyên sẽ xuống tóc xuất giatrong một tương lai gần. Làm như thế mới hầu mong báo đáp được ân đức sâu dầy của cha mẹ.”



Dù cho ai đó có nói yêu nước, yêu dân, trương cờ, to miệng huênh hoang la làng làm văn hóa, khôi phục cơ đồ, đưa dân tộc nhân loại đến vinh quang tiến bộ gì đi nữa, nếu không có lòng hiếu kính mẹ cha, thì những cách nói hay, những lời hứa đẹp đó chẳng qua là kẻ rao bán thuốc cao đơn hoàn tán, có khác nào tiếng lá vàng rơi xào xạc cuối thu, tiếng thân cây khô nứt nẻ giữa mùa đông giá buốt, tiếng quạ cú kêu trong buổi hoàng hôn! Không có lòng hiếu thảo là kẻ có xác không hồn, chẳng khác nào loài trùng dòi trong đống phân:

Những người bất hiếu tử
Nhung nhúc sống bằng thừa
Không nghĩ ơn cha mẹ
Khác nào thân cây khô…


Từ ngày nằm trong bụng mẹ cho đến ngày lập thành gia thất, không lúc nào cha mẹ ngơi nghỉ chăm sóc lo lắng cho con. Có những lúc vì muốn con nên người mà cha mẹ tha thiết khuyên dạy con, khuyên dạy từng lời ăn tiếng nói, cung cách làm người. Lắm lúc cha mẹ dạy con trong nước mắt bằng lời tha thiếtnhư van nài, với lòng hy vọng con vâng lời! Nhưng con nào có biết lúc đó lòng mẹ quặn đau vì thương con! Vậy mà con trở lại trách hờn cha mẹ. Cha mẹ âm thầm nước mắt trào dâng, chẳng dám có lời than, chỉ sợ làm phật lòng con, con sẽ buồn trách. Tâm hồn mẹ không rời săn sóc con trong mọi hoàn cảnh:

Ngày xưa mẹ dắt con chơi
Mẹ ru con ngủ, mẹ ngồi nhìn con.
Bây giờ con đã lớn khôn
Mẹ mua sách vở dẫn con đến trường
Ngày kia con sẽ thành nhơn
Mẹ lo gia thất cho con vui đời.
Mẹ thương dặn con một lời:
“Giàu sang bất chánh, con đừng có ham
Lợi đời, lợi đạo con làm
Vong ơn, vong bản chớ tham dự vào”
Mấy lời tâm huyết mẹ trao
Mong con ghi nhớ truyền nhau cho đời.


Suốt trọn đời mẹ lo cho con. Tất cả những gì quý giá của cõi đời, cha mẹ không tiếc, đều trọn trao cho con:

Nâng niu con lúc dỗi hờn
Dịu dàng mắt mẹ khuyên lơn ngọt ngào
Một đời vốn liếng mẹ trao
Cho con tất cả mẹ nào giữ riêng
Mẹ hiền như một bà tiên
Mẹ theo con suốt hành trình con đi.


Mẹ hy sinh tất cả cho con. Mẹ nhường nhịn cho con tất cả. Mẹ lo lắng cho con tất cả. Hy sinh, nhịn nhục, lo lắng suốt cả cuộc đời của mẹ đều vì con và cho con. Cha mẹ là đóa hoa trời tươi đẹp muôn thuở. Đóa hoa tô điểm vẻ đẹp suốt trọn đời con. Mẹ là bóng cây, là nguồn suối, là nải chuối buồng cau, là tiếng hát nhiệm màu. Mẹ là nguồn an vui bất tận, nguồn an vui không tìm được ở trần gian:

Ai bảo em cuộc đời không đẹp
Khi nhân gian còn phiếm xuân cầm
Ai bảo em cuộc đời không đẹp
Khi em còn có mẹ trong tâm


Mẹ cha là hương hoa đất trời thơm đẹp, là nguồn an ủi vô biên của con. Con dù có khôn lớn đến đâu, hễ ngày nào cha mẹ còn trên cõi trần gian này là còn săn sóc con, còn lo lắng cho con. Nên hương sắc hoa hồng là tượng trưng cho tình mẹ. Tình mẹ thắm tươi thơm đẹp mềm dịu mát lành như đóa hoa hồng, đóa hoa hồng tươi thơm trong ngày rằm tháng bảy:

Ôi! Những cánh hoa hồng của mẹ
Của ngày rằm tháng bảy Vu-Lan
Ngày mẹ đấy nhớ về em nhé!
Và nhớ cài hoa nhé, nghe em.


Hoa hồng thắm là tượng trưng cho lòng mẹ thơm tươi mát dịu yêu mến ngọt ngào. Dù cho ngày nào đó mẹ có ra người thiên cổ thì tình mẹ vẫn trinh nguyên như đóa hoa hồng trắng. Nghĩ nhớ đến mẹ thắp nén hương tưởng niệm, ngồi thật yên tĩnh nhìn theo làn khói hương quyện tỏa, chiêm nghiệm suy tư về mẹ cũng đủ thấy lòng sưởi ấm trong tình thương của mẹ:

Mẹ là cả một trời thương
Mẹ là cả một thiên đường trần gian…


***
Ai bảo em cuộc đời không đẹp
Khi em còn có mẹ trong tâm..



Tuy nhiên đôi khi có vài trường hợp gặp phải những bậc cha mẹ quá nghiêm khắc, khó tánh, cố chấp, thiếu sáng suốt mà trở nên hẹp hòi làm trở ngại tương lai, bước tiến hóa đạo đức của con, làm cho con cháu giảm thiếu niềm vui hạnh phúc, thì bổn phận làm con phải sáng suốt khéo léo chớ nên chiều thuận theo lòng ích kỷ cố chấp của cha mẹ. Trong trường hợp này, người con cũng chớ nên phiền trách, trái lại phải cố gắng tìm cơ hội dùng lời dịu ngọt khuyên cha mẹ thức thời, tin Tam-Bảo, tin nhân quả luân hồi, nghiệp báo, làm lành, tránh xa ác tri thức. Đem chuyện nhân quả luân hồi, đem chuyện Mục-Liên Thanh-Để mà hết lòng khéo léo khuyên nhắc mẹ cha. Nếu cha mẹ nghiệp chướng quá nặng, thiếu thiện duyên với Phật Pháp, thì bổn phận làm con cố gắng học Phật, tu tâm, âm thầm cầu nguyện cho cha mẹsớm hồi tâm giác ngộ.
Báo hiếu cha mẹ là làm cho cha mẹ hiểu biết Phật pháp, quy y Tam-Bảo, tin sâu nhân quả luân hồi, tu tâm tạo phước, đó mới đích thật là báo hiếu cao thượng cứu cánh nhất.

Báo đáp ân đức cha mẹ bằng cung phụng đầy đủ vật chất đã là khó, nhưng vẫn chưa đầy đủ. Muốn hiếu kính trọn vẹn, ngoài phần vật chất ra, còn phải khuyên cha mẹ hồi tâm hướng thiện, mà phần này mới là quan trọng và đầy đủ ý nghĩa hiếu kính.

Bổn phận làm con phải làm sao sống đời sống có ý thức chánh tà, hướng tâm vun bồi phước đức, sống có ý nghĩa lợi mình lợi người, để cho tiếng thơm, lời khen tặng của người đời đồn đến tai cha mẹ. Được như thế là cha mẹ an ủi vui lòng đẹp dạ. Ngày nào người con đạt được công thành danh thơm là ngày ấy cha mẹ cảm thấy hãnh diện với làng nước. Bao nhiêu công lao cực nhọc của cha mẹ dành cho con cũng chỉ kỳ vọng thế thôi. Và lúc đó là cơ hội tốt để khuyên cha mẹ hồi tâm giác tỉnh tu tâm dưỡng tánh hành thiện.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét