Chủ Nhật, 20 tháng 8, 2017

Ý trinh nói về hình tượng linh thú trong phật giáo


Giải mật: Ngụ ý thần bí của 21 loài động vật trong kinh Phật

Nhà Phật lấy Từ Bi làm trung tâm, coi hết thảy chúng sinh là bình đẳng, bao gồm cả động vật. Voi tượng trưng cho cao quý; Sư tử là ẩn dụ của dũng mãnh và vĩ đại; Rùa vàng thể hiện tính sinh tử niết bàn…

Giáo lý nhà Phật cho rằng tất cả chúng sinh đều bình đẳng như nhau. Nhưng vì quan hệ nhân quả nên hình thái sinh mệnh mới khác nhau mà thôi. Chư Phật căn cứ vào đặc tính khác nhau của chúng sinh mà thuyết Pháp với giáo lý khác nhau để độ chúng sinh thoát khỏi biển khổ luân hồi.

Trong các thuyết Pháp của Phật, ví dụ về động vật rất sinh động và hình tượng, trong đó, các câu chuyện ngụ ngôn về động vật khá thú vị và mang nội hàm sâu sắc. Đây cũng là một phương thức hữu hiệu để Đức Phật giáo hóa chúng sinh.

Dưới đây là giải thích sơ lược về 21 động vật thường được nhắc đến trong kinh Phật.

1. Rồng

Trong kinh Phật, rồng là một trong bát bộ bảo vệ Phật Pháp. Kinh Phật viết rằng, họ nhà rồng có các loại khác nhau. Thủ lĩnh họ nhà rồng gọi là Long vương, có uy lực lớn mạnh nên được bảo vệ Phật.

Ngoài ra có một loại là “Phi Pháp hành long vương”, do không thuận theo Pháp, chuyên làm điều bất thiện, không kính Sa Môn và Bà La Môn, nên phải chịu quả khổ cát nóng đốt thân và chịu cái khổ bị chim Gia-lâu-la (Garuda) bắt ăn thịt. Trong các vua rồng, Ngũ đại long vương và Bát đại long vương là nổi tiếng nhất.

Rồng là một trong bát bộ hộ Pháp .

2. Voi

Trong Phật giáo, voi tượng trưng cho sự cao quý. Phật giáo thường lấy vua voi để ngụ ý cử chỉ của Phật. Theo “Đại Bát nhã ba la mật đa kinh”, Phật có 80 tướng tốt, tiến dừng như vua voi, bước đi như vua ngỗng, dung nghi như vua sư tử. 
Phổ Hiền Bồ Tát cưỡi voi trắng.

Voi trắng

Voi trắng ngụ ý không nhiễm chút phiền não, là tượng trưng cho chủng tính cao quý trong Phật giáo. Trong “Ma ha chỉ quán”, voi trắng sáu ngà đại diện cho sáu thần thông vô lậu của Bồ Tát. Voi có sức mạnh, biểu thị cho Pháp thân có năng lực lớn. Voi trắng sáu ngà biểu thị cho Lục độ (Bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí huệ).

Trong các loài động vật, rồng và voi là loài có sức mạnh nhất ở dưới nước và trên mặt đất, do đó trong kinh điển thường gộp chung hai loài lại, lấy “Long Tượng” (rồng voi) để ví dụ rằng Bồ Tát có năng lực dũng mãnh hoặc uy nghi. Người đời sau còn mở rộng “Long Tượng” thành sức mạnh thiền định đặt biệt, hoặc ca ngợi các cao tăng đại đức, uy nghi, và trang nghiêm là “Pháp môn long tượng”.

3. Sư tử

Sư tử là vua các loài thú, do đó rất nhiều kinh luận trong Phật giáo đều dùng sư tử để tỷ dụ Phật vô úy và vĩ đại. Như “Đại trí độ luận” có ghi, sư tử là vua loài bốn chân, độc bộ vô úy, có thể hàng phục tất cả. Phật cũng như vậy, ở giữa 96 ngoại đạo, Ngài hàng phục tất cả, do đó gọi là nhân sư tử.

Trong “Lược xuất kinh” viết: “Dưới gốc cây bồ đề, có được tất cả trí huệ vô tướng tối cao, dũng mãnh Thích Sư Tử (Sư Tử Thích Ca Mâu Ni dũng mãnh)”.

Phật thuyết Pháp bằng âm thanh vô úy, như tiếng gầm của sư tử, do đó cũng gọi Phật thuyết Pháp là “Sư tử gầm” (Sư tử hống). Ngoài ra, Pháp môn mà chư Phật Bồ Tát nhiếp hóa chúng sinh cũng gọi là “Sư tử Pháp môn”, tức là lấy vua sư tử để hiển thị công đức của chư Phật Bồ Tát.

Trong “Niết bàn kinh” lấy tiếng gầm của sư tử để liệt kê 21 việc, tương xứng với Pháp môn của Bồ Tát. “Bảo vũ kinh” liệt kê 10 thiện Pháp của Bồ Tát, so sánh với vua sư tử.
Văn Thù Bồ Tát cưỡi sư tử

4. Trâu

Trong Phật giáo, trâu cũng là động vật tượng trưng cho sự cao quý, có đủ uy nghi và đức hạnh. Trong 80 tướng tốt trên thân Như Lai, thì có một tướng là “bước đi an bình, như vua trâu (Ngưu vương)”.

Trong đức hiệu của Phật cũng dùng “nhân trung ngưu” để ca ngợi đức hạnh của Phật quảng đại vô biên. Trong “Pháp hoa kinh” dùng xe trâu để tỷ dụ Bồ Tát thừa, dùng xe trâu trắng lớn để tỷ dụ Phật thừa – Đại thừa diệp Pháp. Thiền tông dùng trâu để ví với tâm chúng sinh, như bức tranh “Thập ngưu đồ” (10 con trâu) nổi tiếng, tức là lấy chăn trâu làm chủ đề để đại diện cho 10 cảnh giới của người tu hành.

5. Ngựa

Trong 32 tướng của Phật, có một tướng là “Mã âm tàng tướng”, cũng gọi là “Âm mã tàng tướng”, “Mã vương ẩn tàng tướng”, có ý nghĩa là Phật đã siêu thoát khỏi dục vọng nam nữ, mà hiển thị ra Mã âm tàng tướng.

Các kinh điển Phật giáo thường dùng ngựa tỷ dụ tâm niệm của chúng sinh, như “Tâm viên ý mã” (Tâm vượn, ý ngựa), tức là tâm ý bất định, như con ngựa hoang điên cuồng chạy. Trong kinh điển cũng dùng ngựa ngụ ý phân biệt bốn loại căn cơ của chúng sinh. Trong “Tạp A hàm kinh” có liệt kê 4 loại ngựa, ví với 4 tầng thứ ngộ đạo của con người.

6. Lừa

Trong kinh điển, sữa lừa và sữa trâu là tỷ dụ cho người có vẻ đúng mà thực ra là sai. Cũng giống như sữa trâu và sữa lừa, tuy giống nhau ở màu sắc, nhưng sữa trâu tích lại có thể thành bơ, sữa lừa tích lại thì thành phân.

Trong Thiền tông, lừa thường được ví với những người căn khí thấp kém. Ngoài dùng trong câu “Lư tiền mã hậu” (trước lừa sau ngựa) để chỉ trích việc học người khác chỉ biết rập khuôn lời nói hành vi của người ta, mà không có bản sắc độc đáo riêng của mình. Thiền tông còn dùng “Cầu (hoặc Kiệu) yên lừa” để tỷ dụ sự ngu muội, không biết phân biệt thật giả.
Trương Quả Lão trong bát tiên cưỡi lừa ngược.

7. Lạc đà
Trong kinh điển, lạc đà tượng trưng cho tâm tính khó điều phục được, hoặc đại diện cho tâm tư rối loạn, chỉ tâm niệm tùy theo lục căn chạy theo ngoại cảnh, không thể nào ở yên một chỗ được. Trong “Ma ha chỉ quán” viết: “Người tâm rối loạn, là cái ác trong những cái ác, như voi say không khóa, giẫm nát hồ hoa, như lạc đà chọc mũi, lật đổ gùi hàng”.

8. Dê

Các kinh điển Phật giáo thường dùng dê để so sánh kẻ phàm phu không phân biệt được thế gian pháp với tu hành, lúc nào cũng buông thả tam độc “tham, sân, si”, tham ngũ dục “sắc, thanh, hương, vị, xúc”.

Trong “Đại trí độ luận”, dùng “Mắt trâu dê” để nói mắt phàm tục. Thiền tông dùng “dê chạm mũi” để tỷ dụ người học mê muội không biết Pháp. Vì mắt dê không phân biệt được thức ăn, cái gì chạm vào mũi là ăn, nên mới dùng nó để tỷ dụ.

9. Lợn

Trong Phật Pháp, Lợn tiêu biểu cho tính ngu si của sinh mệnh.

10. Chó

Trong Phật Pháp, chó đại diện cho nhị độc “Tham, sân”.

11. Mèo

Trong Thiền tông, mèo được ví với người hoàn toàn vô tri mù tịt về giáo lý nhà Phật. Như “Mèo đen bò trắng” chỉ động vật không biết gì, dùng để tỷ dụ người không hiểu Phật Pháp.

12. Chuột

Trong kinh Phật thường có 2 loại chuột màu đen và trắng để tỷ dụ thời gian, ý nói sinh mệnh vô thường.

13. Khỉ

Do tâm tính hiếu động, nông nổi, khó bắt, khó điều phục, thường bỏ một lấy một, cho nên trong kinh điển thường dùng khỉ để tỷ dụ tâm xằng bậy của kẻ phàm phu.

Khỉ để tỷ dụ tâm xằng bậy của kẻ phàm phu.

14. Hươu

Theo “Tỳ nại da tạp sự”(Các câu chuyện ở Vinaya) ghi chép, Phật trong đời quá khứ đã từng là vua hươu, vì cứu bầy hươu nên đã mất đi tính mạng, và khi lâm chung đã phát nguyện rằng, sau này trở thành Vô Thượng Chính Đẳng Giác sẽ độ hươu thoát khỏi lưới sinh mệnh.

15. Thỏ

Thỏ trong “Nhất thiết trí quang minh tiên nhân từ tâm nhân duyên bất thực nhục kinh” (Kinh tất cả các tiên nhân trí sáng suốt, các nhân duyên từ tâm không được ăn thịt) chép: Trong các đời của Phật, Ngài đã từng là vua thỏ, vì để Phật Pháp có thể ở lâu dài với thế gian, vua thỏ tự nguyện nhảy vào trong lửa, cúng dường tiên nhân, tiên nhân do đó mà đau buồn, phát nguyện sẽ không ăn thịt nữa

Kinh Phật cũng dùng lông thỏ biểu thị hiện tượng vật chất cực kì vi tế, như “Bụi lại có bụi nhỏ, bụi nước, bụi lông thỏ, bụi lông dê…”. Kinh Phật còn dùng “Lông rùa sừng thỏ” để tỷ dụ những cái không thể có được.

16. Rùa

Kinh Phật thường dùng rùa vàng (Kim quy) để ví với Phật tính thấu hiểu sinh tử, nghĩa là có thể đến bờ biên kia của cõi niết bàn. Thuyết rằng con người nếu hiểu Phật tính sẽ có thể bơi qua biển sinh tử, tới cõi niết bàn, giống như rùa có thể bơi dưới nước và lên trên cạn vậy. Ngoài ra trong kinh Phật còn dùng “Quy tàng lục” (Rùa thu giấu 6 bộ phận thân thể) để ví với việc Phật tử nên giữ gìn lục cănthanh tịnh, giống như rùa giữ gìn đầu, đuôi và tứ chi của mình. Quy tàng lục gồm:

1. Rùa thu giấu đầu ví với chúng sinh giữ cho mắt mình luôn thanh tịnh.

2. Rùa thu giấu chân trái trước, ví với chúng sinh giữ gìn đôi tai của mình, không nghe những âm thanh tạp loạn, mê hoặc bên ngoài thì tất cả những điều trần tục không thể làm rối loạn tâm can.

3. Rùa thu giấu chân phải trước ví với chúng sinh giữ gìn chiếc mũi của mình, không ngửi những hương vị nơi phàm trần, thì tất cả mùi hương nơi phàm trần cũng không thể nhiễu loạn tâm trí.

4. Rùa thu giấu chân trái sau ví với chúng sinh giữ gìn chiếc lưỡi, vị giác của mình, không nếm bất kể mùi vị gì, thì tất cả các mùi vị trên cõi thế gian cũng không thể xâm phạm.

5. Rùa thu giấu chân phải sau, ví với chúng sinh giữ gìn thân thể, không động chạm thì tất cả xúc giác phàm tục cũng không thể làm hại mình.

6. Rùa giấu đuôi, ví với chúng sinh giữ gìn ý niệm, không biết tới pháp nơi trần tục thì tất cả các pháp ấy cũng không thể nhiễu loạn tâm ý chúng sinh.

17. Sài (chó rừng), lang (chó sói)

Phật giáo thường dùng hai loại động vật này để tỷ dụ địa ngục ghê sợ. Như trong 16 tiểu địa ngục thì có “Sài lang địa ngục”. Trong đó, chó rừng và chó sói tranh nhau cắn xé tội nhân, làm thịt nát xương tan, máu chảy như nước, vô cùng đau khổ. Trong kinh Phật cũng dùng “sói tham” để hình dung mức độ tham dục quá mức như đặc tính của sói vậy.

18. Công

Do công có thể ăn tất cả các loài trùng độc nên trong kinh điển Phật giáo, công thường tượng trưng cho Bản Tôn (Phật, Bồ Tát) có thể nhận hết ngũ độc, phiền não của chúng sinh.

Trong “Bạch bảo khẩu sao” có ghi, đuôi công biểu thị trừ tai họa, đuôi công 3 cọng biểu thị giũ bỏ tam độc tham, sân, si, để đắc chứng Tam bộ Như Lai. Đuôi công 5 cọng biểu thị giũ bỏ phiền não ngũ thức nhãn, nhĩ, tị, thiệt, ý (Mắt, tai, mũi, lưỡi, ý), để đắc chứng quả vị Ngũ trí viên giác.


Công thường tượng trưng cho Bản Tôn (Phật, Bồ Tát) có thể nhận hết ngũ độc, phiền não của chúng sinh

19. Ngỗng

Trong kinh điển nhà Phật thường dùng vua ngỗng để tỷ dụ lúc Phật bước đi, dáng vẻ an tường, chậm rãi. Như “Ương quật ma la kinh” (Kinh Angulimala) có ghi, “Lúc đó, Thế Tôn như vua ngỗng an tường bước đi 7 bước”. Trong “Đại phương quảng Phật hoa nghiêm kinh” (Kinh Kinh Hoa Nghiêm Phật Đại Phương Quảng) thì đưa ra vua ngỗng trên trời có 5 chủng công đức:
Cảm hóa, hòa hợp tùy thời
Tiếng kêu vô úy
Ăn vừa đủ thích hợp
Tâm không phóng túng an dật
Không nghe lời xiểm nịnh của các loài chim.

20. Gà

Trong kinh điển Phật giáo, gà là một trong 12 con giáp. Theo “Đại phương đẳng đại tập kinh – tịnh mục phẩm” (Tập kinh Đại Phương Đẳng – phần đôi mắt thanh tịnh) có ghi: 12 con giáp cứ 12 ngày ngày lại đổi phiên canh gác một lần, thường là 12 con giáp đi khắp nơi giáo hóa chúng sinh tại Diêm Phù Đề.

12 con vật giáp là do Bồ Tát hiển hiện nhằm giáo hóa độ chúng sinh. Trong suốt một ngày một đêm sẽ có một con vật đi khắp nhân gian cảm hóa chúng sinh; những con vật còn lại thì cư ngụ một cách yên ổn, cứ quay vòng luân phiên như vậy. Trong kinh điển Phật giáo cũng từng dùng hình ảnh chú gà vàng để ví với bản thân chúng sinh vốn đã có tâm thanh tịnh. Trong “Tạo tượng độ lượng kinh” (Kinh độ lượng tạo hình) thì lấy hình ảnh “khuôn mặt tròn như trứng gà” để hình dung gương mặt của Bồ Tát.

21. Bồ câu

Bồ câu cũng là động vật thường thấy trong các kinh điển Phật giáo. Như khi hiển thị đồ hình luân hồi “Ngũ thú sinh tử luân” của chúng sinh nơi ngũ thú, địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, người, trời, sinh tử lưu chuyển không ngừng, bồ câu biểu thị cho phiền não của lòng tham.


Biểu tượng của các con vật trong Phật giáo
Theo giáo lý Phật giáo, sự tồn tại của bất kỳ hiện tượng nào đều tùy thuộc vào ý nghĩa bên trong của nó


Trong văn hóa Á châu, không có khoảng cách lớn giữa những thứ thuộc vật chất và những điều thuộc tinh thần, điều dường như tồn tại ở văn minh phương Tây ngày này. Vì vậy, những biểu tượng tôn giáo là một phần sinh động của tổng thể văn hóa Á châu.

Chúng ta sẽ miêu tả những biểu tượng khác nhau cả ở ý nghĩa bên ngoài và ý nghĩa bên trong hay ý nghĩa ẩn sâu của chúng, theo những giáo thuyết khác nhau của Đức Phật. Tuy nhiên, theo giáo lý Phật giáo, sự tồn tại của bất kỳ hiện tượng nào đều tùy thuộc vào ý nghĩa bên trong của nó, điều có mặt do sự tạo tác của tâm thức hay hành nghiệp của chúng sanh. Điều này muốn nói rằng những biểu tượng tồn tại là do sự tạo tác của tâm hay hành nghiệp của những chúng sanh đó và không thể tồn tại mà không có nó. Giống như một cái cây cần một hạt giống để hiện hữu, theo đó cái cây như là một biểu tượng tồn tại chỉ bởi vì có một nghiệp chủng tạo nên nó.

Thực tế, sự hiện hữu của một cái cây vật lý cũng tùy thuộc vào sự hiện hữu của một chủng nghiệp ở nơi tâm thức của các sinh vật trong thế giới tổng thể mà cái cây đó sinh trưởng. Do đó, những gì chúng ta gọi là những biểu tượng không phải là những sáng tạo văn hóa của con người, mà chúng tương ứng với một hành nghiệp thực sự biểu hiện ở bề mặt bên ngoài như là một đối tượng vật chất-một cái cây hay một con thú ở trong trường hợp đó-và ở bề mặt tâm thức hay bên trong tương ứng với một kinh nghiệm tâm thức. Thực tại chân thực của những biểu tượng này được những bậc thánh giả nhận chân trực tiếp ở trong thiền định. Bằng cách này hay cách khác họ đã khám phá ra bản chất thật của các biểu tượng thông qua cái nhìn và sự hiểu biết sáng rõ của mình. Ngay cả những người bình thường cũng có thể lĩnh hội được chừng mực nào đó bản chất thật của các biểu tượng, nhưng để có được sự hiểu biết rõ ràng thì phải cần đến một vài giảng giải mang tính trí thức.

Thông thường, những biểu tượng của Phật giáo hay những biểu tượng của những tôn giáo khác được xem như là một vấn đề văn hóa, và ta hoàn toàn không hiểu hết được ý nghĩa thật của chúng. Chúng được sử dụng hay tôn kính chỉ bởi vì nó là truyền thống, hay bởi vì người ta tin rằng những biểu tượng hay đối tượng này mang đến những điều tốt lành và thịnh vượng... Trong bài viết này, tôi chỉ trình bày vắn tắt về năm loài thú.

SƯ TỬ

Sư tử là vua của loài thú: chúng kiêu hãnh và oai vệ. Chúng sống ở những khu vực bằng phẳng hay những đồi cỏ, không bao giờ ở trên núi và chắc chắn không ở trên những ngọn núi cao tuyết phủ. Sư tử tập hợp thành từng bầy, nhóm và không bao giờ sống đơn lẻ ngoại trừ trường hợp những con sư tử già hay những con sư tử bị bầy đàn của nó xua đuổi. Chúng kiếm thức ăn bằng việc săn mồi, điều luôn được những con sư tử cái thực hiện; những con đực thì không bao giờ làm việc đó. Công việc chính của sư tử đực là bảo vệ bầy đàn của nó tránh khỏi sự tấn công của kẻ thù. Tuy nhiên, sư tử thì không có kẻ thù tự nhiên nào hết. Do những đặc tính này, ở mọi thời và mọi xứ, sư tử được xem như là biểu tượng của sự quý phái và bảo vệ, cũng như biểu tượng của trí tuệ và kiêu hãnh. Sự miêu tả bằng tranh về sư tử có nguồn gốc ở Ba Tư (Persia).

Trong Phật giáo, sư tử là biểu tượng của chư Bồ-tát, “những người con trai của Đức Phật”. Chư Bồ-tát là những người đã đạt được giác ngộ. Họ phát khởi tâm Bồ-đề và thệ nguyện từ bỏ hạnh phúc an trú trong Niết-bàn, chấp nhận ở lại thế gian này hóa độ cho đến khi tất cả chúng sanh thoát khỏi khổ đau. Chư Bồ-tát thực hành sáu ba-la-mật: bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí tuệ (dana, sila, ksanti, verya, dhyana và prajna); và bốn điều mà chúng xuất phát từ sáu ba-la-mật trên: phương tiện thiện xảo, thệ nguyện, sức mạnh và trí tuệ (upaya, pranidhana, bala và jnana).

Trong nghệ thuật tranh tượng Phật giáo, chúng ta thấy những con sư tử trong vai trò là những kẻ bảo hộ Pháp đang nâng tòa ngồi của chư Phật và chư Bồ-tát. Chúng cũng được nhìn thấy ở nơi lối vào của các chùa chiền. Ở những khu vực miền Bắc Nepal, do ảnh hưởng nghệ thuật và Phật giáo Tây Tạng, những con sư tử đã trở thành những “sư tử tuyết”. Trên thực tế, không có con sư tử nào sống ở những núi tuyết, mà chỉ có những con báo. Sư tử tuyết được mô tả bằng màu trắng hay xanh dương với cái bờm màu cam hay màu ngọc lam đang đi nổi trên gió và rất hung dữ, với đôi mắt mở to và miệng hả rộng. Chúng tự do đi lại trên những ngọn núi tuyết cao mà không có bất kỳ nỗi sợ hãi nào, biểu trưng cho trí tuệ, vô uý và siêu phàm của những hành giả thực hành pháp mà họ có thể sống tự do tự tại nơi ngọn núi tuyết cao của tâm thức thuần tịnh, không bị ô nhiễm bởi vô minh ảo giác. Họ là những vị vua của Pháp (dhamma) bởi vì họ đạt được sức mạnh chinh phục chúng sanh với đại bi và đại trí của họ.

VOI

Đặc tính chính của voi là sức mạnh và tính kiên định của nó. Vì vậy nó trở thành biểu tượng của sức mạnh vật lý và tâm thức, cũng như trách nhiệm và tính chân chất.

Trong thần thoại Ấn Độ, chúng ta nghe nói về những con voi bay và voi Airavata - con voi trắng mà nó trở thành vật cỡi của Thần Indra và xuất hiện từ nơi khuấy biển sửa. Do đó voi trắng được xem là có sức mạnh đặc biệt có thể tạo nên mưa. Trong xã hội Ấn Độ, voi được xem như vật mang đến điều tốt lành và thịnh vượng. Các vị vua sở hữu chúng và sử dụng chúng trong chiến tranh.

Trong Phật giáo, voi là một biểu tượng của sức mạnh tâm thức. Vào khởi đầu của việc tu tập, tâm thức chưa được kiểm soát được tượng trưng bằng một con voi xám có thể chạy hoang bất cứ lúc nào và phá huỷ mọi thứ trên đường. Sau khi thực hành pháp và tu tập, tâm bây giờ đã được kiểm soát, lại được tượng trưng bằng một con voi trắng mạnh mẽ và hùng dũng, có thể đi đến bất cứ nơi đâu nó muốn và huỷ diệt tất cả những chướng ngại ở trên đường.

Đức Phật Thích Ca Mâu Ni trong những tiền kiếp của mình đã sinh làm voi. Và vào kiếp sau cùng của mình, từ cõi trời Đâu Suất, đã nhập vào thai tạng của mẹ mình trong hình thức một con voi trắng.

Trong nghệ thuật tranh tượng Ấn giáo, ta thấy vị thần đầu voi Gangpati hay Ganesh. Ở khía cạnh khác, tượng trưng cho phương diện thế tục của sức mạnh ấy, voi bị những vị thần khác như Mahakala, Vajra Bhairava dẫm lên trên.

Trong nghi lễ cúng mandala, người ta dâng lên Đức Phật con voi quý, với sức mạnh của một ngàn con voi và nó có thể đi vòng quanh vũ trụ ba lần một ngày. Ngà của voi cũng là một trong bảy biểu tượng của vua chúa.

Voi là phương tiện đi lại của A Súc Bệ Phật (Aksobhya) và nữ thần Balabadra. Voi cũng xuất hiện như một kẻ canh gác các ngôi đền và cả bảo vệ Đức Phật.

NGỰA

Ngựa là phương tiện của vận chuyển. Chúng có thể chạy rất nhanh và chính vì vậy mà trước đây chúng được chắp thêm cánh và có thể bay. Ngay ở trong thần thoại Hy Lạp chúng ta có Pegasus, con ngựa bay. Những đặc tính chính của chúng là lòng trung thành, cần cù và nhanh nhẹn. Một ví dụ điển hình về những phẩm tính này là Kantaka, con ngựa của thái tử Siddhartha Gautama. Khi thái tử rời hoàng cung xuất gia làm ẩn sĩ, con ngựa của ngài nhận thấy rằng nó sẽ không bao giờ còn gặp lại chủ nhân của mình nữa nên đã vỡ tim mà chết. Nó sau đó đã sanh về một trong các cõi trời.

Trong Phật giáo, ngựa là biểu tượng của sức mạnh và sự nỗ lực trong việc thực hành pháp. Nó cũng tượng trưng cho khí (prana) mà nó chạy xuyên khắp cơ thể và là phương tiện di chuyển của tâm.

Cái được gọi là “ngựa gió” là biểu tượng của tâm. Tâm có phương tiện đi lại của nó là gió, và nó có thể được cưỡi đi. Điều đó muốn nói rằng chúng ta có khả năng kiểm soát tâm và gió và hướng dẫn chúng theo bất kỳ chiều hướng nào và ở bất kỳ tốc độ nào mà chúng ta muốn.

Tiếng hí của một con ngựa cũng là biểu tượng sức mạnh của Đức Phật để đánh thức tâm ngái ngủ trong việc thực hành pháp.

Có một vài câu chuyện về Bồ-tát Lokesvara hóa thành hình thù một con ngựa để cứu giúp chúng sanh.

Trong nghệ thuật tranh tượng Phật giáo, ngựa nâng đỡ tòa ngồi của Bảo Sinh Phật (Ratnasambhava). Ngựa cũng là phương tiện của nhiều vị thần khác và những vị hộ pháp, chẳng hạn như Mahali; và có những vị thần mặt ngựa chẳng hạn như Hayagriva.

CÔNG

Trong ý nghĩa chung, công là biểu tượng của sự cởi mở và chấp nhận. Trong Thiên Chúa giáo, công là biểu tượng của sự bất tử. Ở vùng Lưỡng Hà (Mesopotamia), có việc diễn đạt mang tính biểu tượng về một cái cây có hai con công đứng hai bên, mà nó được nói là biểu tượng cho tâm nhị nguyên và sự hợp nhất tuyệt đối. Trong Ấn giáo, những hoa văn của lông công tượng trưng cho những con mắt, hay tượng trưng các ngôi sao. Trong Phật giáo, chúng tượng trưng cho trí tuệ.

Công được cho có khả năng ăn những cây có độc dược mà không hề bị ảnh hưởng gì. Bởi điều đó, chúng được ví với những vị Đại Bồ-tát. Một vị Đại Bồ-tát có thể xem những thứ nhiễm ô như là phương cách đưa đến giải thoát và chuyển đổi tâm độc hại tham-sân-si (moha, raga, dvesa) thành tâm giác ngộ hay bồ-đề.

Tâm của chúng sanh ở thế giới này giống như một khu rừng rậm của tham muốn và sân hận. Những lạc thú và tài sản vật chất thì giống như một khu vườn thuốc xinh đẹp. Những vị Bồ-tát với tâm dũng mãnh, giống như những con công không bị những cây thuốc hấp dẫn. Chư Bồ-tát, với mong muốn làm việc vì lợi ích của chúng sanh và không mong muốn bất kỳ hạnh phúc nào cho riêng họ, có thể sử dụng những tâm độc hại tham-sân-si... để thực hiện những công việc vì lợi ích của chúng sanh.

Bằng việc ăn độc dược, cơ thể của công trở nên đẹp đẽ và mạnh khoẻ. Chúng được tô điểm với năm lông vũ trên đầu, mà nó biểu trưng cho năm con đường của Bồ-tát và ngũ phương Phật. Chúng có màu sắc xinh đẹp, như màu xanh da trời, đỏ, xanh lá cây và làm cho những sinh vật khác thích thú khi nhìn chúng. Tương tự, bất kỳ những ai nhìn thấy một vị Bồ-tát đều nhận được sự hoan hỷ ở trong tâm. Thói quen ăn những cây độc của công không gây hại cho những sinh vật khác. Tương tự, Bồ-tát không đem lại sự tổn hại nhỏ nhất cho bất kỳ chúng sanh nào. Bằng việc ăn những độc dược, lông của công trở nên sáng tươi và thân thể khoẻ mạnh. Tương tự, bằng việc nhận tất cả những khó khăn và rắc rối cho mình, chư Bồ-tát nhanh chóng gột sách những chướng ngại tâm thức và phát triển tâm thức nhanh chóng, đạt được trí tuệ càng lúc càng cao. Đặc biệt, công tượng trưng cho sự chuyển hóa tham dục thành giải thoát. Do đó chúng là phương tiện đi lại của Phật A Di Đà, người thể hiện chuyển đổi tham muốn và chấp thủ thành trí tuệ.

CHIM ƯNG

Chim ưng (raguda) là vua của loài chim. Tên của nó xuất phát từ gốc “gri”, có nghĩa là nuốt: chim ưng nuốt lấy những con rắn. Nó được trình bày với một thân hình phía trên là hình người, mắt và mỏ to, mào ngắn màu xanh, lông vàng trên đầu, trên chân và trên cánh. Tuy nhiên, đôi khi, chính yếu trong nghệ thuật tranh họa Hindu, nó được trình bày bằng hình dáng người với đôi cánh.

Chim ưng là một loài chim lớn. Chim ưng tượng trưng cho yếu tố không gian và năng lượng mặt trời, mà nó có thể làm khô nước. Do đó nó là kẻ thù tự nhiên của rắn và nó ăn nuốt hay kiểm soát rắn. Chúng tượng trưng cho năng lực tâm linh có thể phá huỷ những ảo giác ganh tị; và sân, thứ được tượng trưng bằng rắn. Chim ưng cũng tượng trưng cho sự phóng khoáng: nó có thể sải đôi cánh của mình bay vào không trung. Nó tượng trưng cho sự tư do tự tại của tâm, có thể mở rộng ra và không bị trói buộc bởi những xung đột cảm xúc. Tâm thức sáng suốt thì có thể đến mọi nơi, giống như những tia nắng mặt trời, và tạo nên sự sinh trưởng của đời sống và trí tuệ. Đặc biệt ở trong Phật giáo, chim ưng liên quan đến bố thí ba-la-mật (dana paramita), giống như những tia nắng mặt trời ban tặng sự sống cho trái đất.

Thần thoại về con chim lớn ăn nuốt rắn dường như có nguồn gốc ở vùng Lưỡng Hà (Mesopotamia). Rắn tượng trưng cho tiềm thức hay những khía cạnh bị che khuất của tâm, những cảm xúc và tư tưởng mà chúng nằm ẩn dưới bề mặt. Chim ưng có thể quan sát thấy những con rắn nhỏ và lập tức sà xuống. Tương tự, bằng việc thực hành nhận biết rõ những cảm thọ, tư tưởng và hành động của mình, ta phát triển trí tuệ có thể quan sát đầy đủ những vận hành của tâm và bằng cách đó ta có thể đạt được sự giải thoát hoàn toàn để có thể sử dụng tâm theo một cách có lợi ích nhất.

Trong nghệ thuật tranh tượng Hindu, chim ưng là vật cỡi của thần Vishnu. Trong Phật giáo, nó là vật cỡi của Bất Không Thành Tựu Như Lai (Amoghasiddhi), Đức Phật biểu trưng cho trí tuệ viên mãn. Chim ưng cũng là một vị thần của người chữa trị rắn cắn, chứng động kinh và những bệnh do rắn gây ra.

Ngọc lục bảo, cũng được gọi là đá chim ưng, được xem như một vật chống lại độc dược và những hình ảnh chim ưng ở trên đồ nữ trang như là một vật bảo vệ chống lại rắn.

Nguồn: Symbolism of Animals in Buddhism, in Buddhist Himalaya, Vol. I, No. I.

Tỳ-kheo Jampa Choskyi - Đăng Nguyên dịch




Ý nghĩa hình tượng các con vật trên kiến trúc đền theo tín ngưỡng của người Việt Nam


Ý nghĩa hình tượng các con vật trên kiến trúc đền


Hình tượng Rồng

Đối với các nước phương Đông, con rồng là kiệt tác sáng tạo nghệ thuật có lịch sử lâu đời. Trên thực tế, rồng chỉ là sản phẩm của nghệ thuật, vì nó không tồn tại trong thế giới tự nhiên mà là sự sáng tạo nghệ thuật siêu tự nhiên. Cùng với sự phát triển của lịch sử, từ lâu các nước phương Đông hình thành nên quan niệm phổ biến về con rồng, tổng hợp trong con vật linh thiêng này là trí tuệ, tín ngưỡng, niềm tin, lý tưởng, nguyện vọng, sức mạnh... Trải qua bao đời, các nhà văn, nhà thơ, họa sĩ ở mỗi nước phương Đông đã dần tạo cho con rồng trở thành biểu tượng cao quý và sức sống vĩnh hằng, có ảnh hưởng to lớn, ý nghĩa sâu sắc đối với đời sống xã hội ở mỗi nước.

Đối với dân tộc Việt Nam, ngoài nét chung nói trên, rồng còn có ý nghĩa riêng, đó là nó chỉ dân tộc Việt Nam có xuất xứ từ con rồng cháu tiên. Từ câu chuyện huyền thoại chàng Lạc Long Quân lấy nàng Âu Cơ đẻ ra bọc trăm trứng, sau nở thành một trăm người con, hình ảnh con rồng đã dần dần ǎn sâu vào tâm thức của người Việt. Hà Nội là thủ đô cả nước, với tên gọi đầu tiên: Thăng Long (rồng bay). Vùng Đông Bắc nước ta có Hạ Long (rồng hạ), một trong những thắng cảnh đẹp nhất nước. Đồng bằng Nam Bộ phì nhiêu được làm nên bởi dòng sông mang tên Cửu Long (chín rồng). Không những là biểu tượng cho xuất xứ nòi giống dân tộc Việt Nam, rồng còn là thần linh, chủ của nguồn nước, mang lại sức sống mãnh liệt, làm cho mùa màng tốt tươi. Rồng là biểu tượng của sức mạnh, chính vì vậy mà các vua chúa đã lấy hình tượng rồng đại diện cho uy lực triều đình. Thời Lê, rồng trở thành bản mệnh của nhà vua. Hình tượng rồng được thêu lên tấm áo vua mặc.

Trong thời kỳ đất nước ta bị lệ thuộc vào phong kiến phương Bắc, rồng Việt Nam chịu ảnh hưởng của những con rồng các thời Tần, Hán, Đường, Tống... và được cách điệu hóa dần dần để biến thành rồng hoàn chỉnh, tượng trưng cho uy quyền độc tôn của vua chúa phong kiến và thường được trang trí ở những nơi linh thiêng. Vào thế kỷ XI, dưới triều Lý, chế độ phong kiến Việt Nam bắt đầu được xác lập. Con rồng thật sự của Việt Nam đã được ra đời. Cho đến nay, rồng vẫn được sử dụng trong kiến trúc tôn giáo theo một số nét: mắt quỷ, sừng nai, tai thú, trán lạc đà, miệng lang, cổ rắn, vảy cá chép, chân cá sấu, móng chim ưng. Và con rồng luôn là hình ảnh sâu đậm trong tâm hồn mỗi người Việt Nam.


Hình tượng con Rùa

Về mặt sinh học, rùa là loài bò sát lưỡng cư có tuổi thọ cao và thân hình vững chắc. Nó có thể nhịn ǎn uống mà vẫn sống trong một thời gian dài. Rùa không ăn nhiều, nhịn đói tốt nên được coi là một con vật thanh cao, thoát tục. Trên bàn thờ ở các đền chùa, miếu mạo, chúng ta thường thấy rùa đội hạc, rùa đi với hạc trong bộ đỉnh thơm ngát và thanh tịnh.

Rùa tượng trưng cho sự trường tồn và bất diệt. Hình ảnh rùa đội bia đá, trên bia đá ghi lại sử sách của dân tộc Việt Nam chứng tỏ rùa là loài vật chuyển tải thông tin và văn hóa. Tuy không phải là con vật của Phật giáo, nhưng rùa cũng là biểu trưng cho sự trường tồn của Phật giáo. Trong một số ngôi chùa thời Lý - Trần, rùa được chạm thành tường bằng đá làm bệ đội bia. Dáng rùa đầu to, mập, vươn ra khỏi mai, mõm thuôn nhọn, mắt nhỏ, bốn chân khép sát vào thân mai. 82 tấm bia đã ghi tên tiến sĩ đỗ đạt được đặt trên lưng rùa, một con vật biểu hiện sự trường tồn, hiện còn lưu giữ tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám, Hà Nội là bằng chứng hùng hồn biểu hiện nền văn hiến bất diệt của dân tộc Việt Nam.


Hình tượng chim Phượng

Phượng là linh vật được biểu hiện cho tầng trên. Phượng thường có mỏ vẹt, thân chim, cổ rắn, đuôi công, móng chim cứng đứng trên hồ sen. Với ý nghĩa đầu đội công lý, mắt là mặt trời, mặt trǎng, lưng cõng bầu trời, lông là cây cỏ, cánh là gió, đuôi là tinh tú, chân là đất, vì thế phượng tượng trưng cho cả vũ trụ. Khi phượng ngậm lá đề hoặc ngậm cành hoa đứng trên đài sen, nó biểu hiện là con chim của đất Phật. Tức là có khả nǎng giảng về đạo pháp, làm nhiệm vụ giống như các nữ thần chim: nhảy múa, hát ca chào mừng Phật pháp.

Quan niệm của người Việt Nam cho rằng phượng xuất hiện báo hiệu đất nước được thái bình. Chim phượng là loài chim đẹp nhất trong 360 loài chim. Nó có thân hình quyến rũ, kết tinh được vẻ đẹp, sự mềm mại, thanh lịch, vẻ duyên dáng của tất cả các loài chim. Chim phượng còn tượng trưng cho nữ tính, cho phái đẹp của tầng lớp quý phái.


Hình tượng con Hạc

Ở Việt Nam hạc là con vật của đạo giáo. Hình ảnh hạc chầu trên lưng rùa trong nhiều ngôi chùa, miếu..., hạc đứng trên lưng rùa biểu hiện của sự hài hòa giữa trời và đất, giữa hai thái cực âm - dương. Hạc là con vật tượng trưng cho sự tinh tuý và thanh cao. Theo truyền thuyết rùa và hạc là đôi bạn rất thân nhau. Rùa tượng trưng cho con vật sống dưới nước, biết bò, hạc tượng trưng cho con vật sống trên cạn, biết bay. Khi trời làm mưa lũ, ngập úng cả một vùng rộng lớn, hạc không thể sống dưới nước nên rùa đã giúp hạc vượt vùng nước ngập úng đến nơi khô ráo. Ngược lại, khi trời hạn hán, rùa đã được hạc giúp đưa đến vùng có nước. Điều này nói lên lòng chung thuỷ và sự tương trợ giúp đỡ nhau trong lúc khó khăn, hoạn nạn giữa những người bạn tốt.

Kiến trúc truyền thống

Trong các công trình kiến trúc gỗ truyền thống tại Việt Nam, nhất là đối với các công trình mang yếu tố tôn giáo và tín ngưỡng như đình, đền, chùa, miếu... thì mảng điêu khắc được đánh giá là một trong những yếu tố quan trọng tạo nên vẻ đẹp cho công trình. Sau đây giới thiệu các hình tượng trang trí thường gặp trong kiến trúc cổ từ Bắc tới Nam, mang đậm ảnh hưởng của Phật giáo và một số đạo khác như Đạo Giáo, Nho giáo.

Các hình tượng trang trí đơn lẻ
Con rồng
Các dạng trang trí hình rồng phát triển theo từng thời kỳ, mang những đặc điểm mỹ thuật khác nhau. Trong kiến trúc truyền thống ở Việt Nam, hình tượng con rồng thể hiện cho tâm linh, gắn liền với vua (theo quan niệm phong kiến), biểu hiện ước mong mưa thuận gió hoà (quan niệm dân gian). Từ thời Lý, rồng bắt đầu được trang trí trên bệ tháp, cấu kiện gỗ, đỉnh mái... của các chùa Dạm (Bắc Ninh), chùa Long Ðọi (Hà Nam)...

Rồng chạm đầu dư

Rồng trang trí trên cửa


Con lân

Được gọi đầy đủ là kỳ lân (còn gọi là con ly và dân gian gọi là con sấu). Hình tượng con Lân được định hình từ thời Lý và phát triển cho đến suốt thời Nguyễn.
Kỳ lân là phát triển của long mã, biểu tượng cho sự kết hợp thời gian và không gian, cho sự an bình. Thường được trang trí trên cấu kiện gỗ (gặp ở nhiều chùa), thành bậc (chùa Bà Tấm, Hà Nội), tượng tròn (chùa Phật Tích, Bắc Ninh).

Tượng lân đá tại chùa Phật Tích

Rùa
Biểu trưng cho sự bền vững của xã tắc (trong phạm vi cung đình) và sự sống lâu, trường thọ (dân gian). Tuy ít gặp trongkiến trúc Phật giáo, nhưng hình tượng rùa đã được sử dụng như vật đỡ chân bia tại các chùa.


Rùa đội bia

Chim Phượng

Chim Phượng không gắn nhiều với Phật giáo mà thường tượng trưng cho vẻ đẹp của phụ nữ, hoặc cho điềm lành, mỗi khi Phượng xuất hiện thì báo hiệu đất nước thái bình, phồn thịnh... Thường được chạm khắc trên cốn, thành bậc, đầu dư, đầu đao...

Đầu đao hình chim Phượng
Hoa sen
Biểu hiện cho sự trong sạch thanh cao, cho sự thanh tịnh của Phật giáo. Từ thời Lý đã sử dụng hoa sen trong biểu tượngchùa Một Cột, bệ tượng Phật A Di Ðà chùa Phật Tích. Thường thấy ở đỉnh tháp, chân tảng, bệ Phật, diềm bia.

Trang trí hoa sen trên chân tảng

Hoa cúc
Hoa cúc thời Lý, Trần thường thể hiện với dạng dây lượn hình sin. Lúc đầu hoa cúc phổ biến ở Trung Quốc với biểu trưng Ðạo giáo, về sau ảnh hưởng vào Phật giáo như một biểu tượng bình dị, thanh cao, kín đáo và lâu bền.

Trang trí hoa cúc chùa Phổ Minh, Nam Định
Lá đề
Cây Bồ đề biểu trưng cho sự đại giác của đức Phật. được sử dụng rất nhiều trong trang trí điêu khắc như vòm cửa chùatháp thời Lý.

Trang trí lá đề tháp Bình Sơn, Vĩnh Phúc

Hình cá
Tượng trưng cho sự giàu có, phồn thịnh. Thường hay gặp trong trang trí cấu kiện gỗ cùng sóng nước.

Trang trí cá trên cốn gỗ

Con trâu

Hình trâu cũng xuất hiện từ thời nguyên thuỷ trong văn hoá Hoà Bình. Và hình tượng trâu còn thấy được ở kiến trúc Phật giáo bắt đầu từ thời Lý. Con trâu rất có ý nghĩa trong nhà Phật, thể hiện qua bức tranh thập mục (mười đứa trẻ chăn trâu). Có thể gặp hình trâu trên tượng tròn (chùa Phật Tích), lan can đá (chùa Bút Tháp, Bắc Ninh)...

Hình tượng con trâu trên lan can đá chùa Bút Tháp
Sư tử

Là đề tài trang trí phổ biến ở thời Lý hơn các thời sau này. Sư tử hí cầu có ý nghĩa như vật bảo vệ giáo pháp. Có thể gặp tượng sư tử ở chùa Hương Lãng, bệ có 2 con sư tử đỡ ở chùa Bà Tấm. Các chòm lông và đuôi sư tử thường xoắn lại theo kiểu trôn ốc hoặc xoè ra.

Sư tử đá đỡ bệ tượng chùa Bà Tấm

Con hổ

Nền văn hoá Ðông Sơn cách đây trên dưới 2500 năm đã để lại rất nhiều đồ vật có tượng hổ. Thời Trần bắt đầu xuất hiện tượng hổ trong chùa.
Theo tín ngưỡng của dân ta thì hổ tượng trưng cho vị thần bảo vệ, trấn giữ các phương chống lại mọi tà ma, đảm bảo cho cuộc sống phát triển. Có thể gặp tượng hổ ở bệ đá tam bảo (chùa Ðại Bi, Hà Tây), chạm khắc trên kẻ (chùa Sơn Ðồng, Hà Tây), hai bên tam quan (chùa Long Tiên, Quảng Ninh).

Hình hổ, gốm chùa ông Bổn, tp HCM

Con ngựa
Xuất hiện từ thời Lý dưới dạng tượng tròn (chùa Phật Tích), lan can đá (chùa Bút Tháp). Theo Phật thoại, ngựa trắng (Bạch mã trong Tây du ký) khi không có người cưỡi là biểu tượng của Phật.

Trang trí ngựa tường hồi chùa Hưng Ký
Nhạc công thiên thần (Gandharva)
Từ thời Lý đến thời Mạc, ảnh hưởng Ấn Ðộ giáo của người Chăm đến kiến trúc Việt thường được thấy qua các hình ảnh đoàn nhạc công tấu nhạc mừng Ðức Phật đản sinh.


Trang trí tại chùa Phật Tích

Nữ thần đầu người mình chim (Kinnari)
Nữ thần đầu người mình chim được sử dụng trong thời Lý đến Mạc, do ảnh hưởng Ấn Ðộ giáo của người Chăm. Có thể gặp ở những dạng tượng Kinnari ở chùa Thái Lạc, chùa Phật Tích, chùa Long Đọi...


Nữ thần đầu người mình chim Cồn Chè, Nam Định

Tiên nữ (Apsara)
Từ thời Lý đến thời Mạc, ảnh hưởng Ấn Ðộ giáo của người Chăm còn được thấy trong chùa Việt qua hình tượng Tiên nữ múa hát dâng hoa gắn liền với các sự kiện trong cuộc đời của đức Phật như đản sinh, đắc đạo, nhập Niết Bàn...

Tiên nữ cưỡi Phượng chùa Thái Lạc, Hưng Yên

Chim thần Garuđa
Tiêu biểu cho sức mạnh và chân lý. Cũng từ thời Lý đến thời Mạc, hình tượng Garuđa đã xuất hiện trong chùa Việt do ảnh hưởng Ấn Ðộ giáo của người Chăm. Ta thường gặp Garuđa ở tư thế nâng đỡ góc đền tháp và bệ tượng.


Chim thần đỡ bệ tượng ở chùa Bối Khê

Bánh xe pháp luân
Biểu tượng sự giác ngộ của Ðức Phật và lần thuyết pháp đầu tiên của ngài. Được sử dụng từ thời Nguyễn đến nay trên máicác công trình, ví dụ như đầu đao chùa Quán Sứ, Hà Nội.

Bánh xe Pháp luân trên đầu đao Viện đại học Vạn Hạnh, tp HCM
Hồi văn chữ Vạn, chữ công
Thường thấy trên bờ nóc mái, diềm bia, chạm trổ cửa.

Chữ Vạn cách điệu cửa chùa Nành, Gia Lâm, Hà Nội
Chữ Thọ, chữ Hỉ
Thường sử dụng trang trí ở cửa sổ, cửa đi cách điệu.

Cổng chùa Hưng Ký: Chữ Thọ cách điệu
Con người
Người đỡ toà sen ở chùa Dương Liễu thời Mạc. Vua đỡ bệ tượng Phật ở chùa Hoè Nhai, Hà Nội.


Bức chạm người ở chùa Thái Lạc, Hưng Yên
Các mô típ trang trí thường gặp và đề tài trang trí phức hợp

Lưỡng long triều nhật (hoặc lưỡng long chầu nguyệt) đã được sử dụng và phát triển từ thời Nguyễn về sau.
Rồng chầu hoa cúc, hoa hướng dương đều là các dạng của lưỡng long triều nhật với ý nghĩa cầu trời mưa, hình tròn có ngọn lửa tượng trưng cho sấm sét, nguồn nước, mang đến mùa màng tươi tốt... Hoa cúc và hoa hướng dương cũng được sử dụng tượng trưng cho mặt trời (nhật dương).


Mô típ lưỡng long triều nhật trên bờ nóc

Cá hoá rồng
Hình cá hóa rồng thường gặp thời Nho học thịnh đạt (Hậu Lê, Nguyễn) gợi nhớ đến sự đỗ đạt trong các kỳ thi và được Vua phong chức tước. Ðây là một minh chứng cho việc ảnh hưởng sâu sắc của trang trí đề tài Nho học vào Phật giáo.

Cá hoá long bằng gốm thường gặp ở đình chùa miền Nam
Rồng hoá lá, rồng hoá cây...
Rồng thường thấy trong mô típ trang trí này là rồng hoá lá, rồng hoá cây hoặc cây hoá rồng, dây lá hoá rồng.


Mô típ rồng hoá cây

Ngư long hí thuỷ
Rồng và cá chép vờn nhau trong sóng nước. Mô típ này xuất hiện khá phổ biến trong trang trí đình chùa Bắc Bộ.

Trang trí trên cốn

Phúc khánh, Phúc thọ, Ngũ phúc
Hình con dơi ngậm chiếc khánh có tua có nghĩa là hạnh phúc và sung sướng. Hình con dơi kết hợp với chữ thọ biểu tượng cho sự hạnh phúc và trường thọ. Năm con dơi trên một bức chạm tượng trưng cho sự chúc tụng hạnh phúc đầy đủ nhất (Ngũ phúc).

Trang trí ngũ phúc trên cánh cửa

Bát bảo
Gồm bầu, tháp bút, quạt vả, ống tiêu, giỏ hoa, cây kiếm, khánh, phất trần. Là các trang trí mang tính chất Ðạo giáo, đôi lúc được sử dụng trong trang trí một số công trình chùa chịu ảnh hưởng nhiều từ Trung Quốc như chùa Hoa, chùa do người gốc Hoa xây dựng...

Kiếm và quạt trong trang trí chùa ông Bổn, tp HCM
Bát quả
Bát quả gồm đào, lựu, mận, lê, phật thủ, nho, bầu, bí.

Trang trí trên lan can chùa Vạn Niên, Tây Hồ, Hà Nội
Tứ quý
Tứ quý gồm mai lan cúc trúc. Thường gặp ở dạng kết hợp mai điểu, mai hạc, lan điệp, cúc điệp, trúc tước, trúc yến hoặc trúc hổ.

Trang trí cúc điệp trên cánh cửa

Tứ thời
Tứ thời gồm mai, sen, cúc, tùng. Ðồ án dạng kết hợp là mai điểu, liên áp, cúc điệp, tùng lộc hay tùng hạc. Thường thấytrong trang trí chạm khắc ở các chi tiết kiến trúc như cửa võng, cánh cửa...

Trang trí tùng hạc trên cánh cửa
Hoa sen kết hợp với hoa cúc
Xuất hiện từ thời Lý, tượng trưng cho âm dương giao hoà. Thường gặp ở trang trí diềm bia, chạm khắc trên tháp cổ.

Trang trí hoa văn tháp Phổ Minh
Mây trời, sóng nước
Xuất hiện từ thời Lý, Trần. Thường gặp ở trang trí hoa văn tháp cổ, bệ tượng Phật thời Lý.

Sóng nước trên chân bệ tượng chùa Phật Tích



Động vật trong văn hóa

Con giáp :
  1. Chuột
  2. Trâu/Bò
  3. Hổ
  4. Mèo/Thỏ
  5. Rồng
  6. Rắn
  7. Ngựa
  8. Dê/Cừu
  9. Khỉ
  10. Chó
  11. Lợn

Hoàng Đạo
  1. Cừu
  2. Cua
  3. Sư tử
  4. Bò cạp
  5. Ngựa

Tứ linh
  • Rồng
  • Kỳ lân
  • Rùa
  • Phượng Hoàng


Tứ Thánh
  • Rồng
  • Hổ
  • Rùa
  • Chim sẻ

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét