Động vật trong Phật giáo
Động vật trong Phật giáo chỉ về quan niệm của Phật giáo về các loài động vật, trong đó có lý luyết về bảo vệ quyền của động vật thông qua quan niệm "Chúng sinh bình đẳng", kêu gọi không sát sinh, ăn chay và khuyến khích phóng sinh. Có nhiều loài động vật được đề cập đến trong Kinh Phật, chúng là biểu trưng của Thuyết vật linh và thuyết hình người (động vật là hiện thân của thần thánh). Theo giáo lý Phật giáo, sự tồn tại của bất kỳ hiện tượng nào đều tùy thuộc vào ý nghĩa bên trong của nó.
Các lý thuyết
Cội gốc :
Thuyết vật linh và thuyết hình người là phổ biến trong những người Ấn Độ cổ đại. Động vật được xem như là một hiện thân của thần linh, hay những vị thần của chính tổ tiên, một số bản kinh Phật giáo sơ kỳ cho thấy rằng động vật chia sẻ bản chất tôn giáo của con người, mà những hiện tượng được quán sát như vậy là rõ ràng về sự liên kết giữa con người, muông thú và thần linh. Quan điểm của Phật giáo về luân hồi ngang qua các loài sống làm giảm khoảng cách tinh thần giữa con người và động vật. Phật giáo đã chế định những giới luật quan trọng mà chúng khẳng định rằng giết hại những chúng sanh khác là một sự vi phạm những quy tắc đạo đức cơ bản nhất của vũ trụ. Giới đầu tiên là cam kết tránh hủy hoại đời sống. Những Phật tử thời kỳ đầu chấp nhận quan điểm rằng tất cả muông thú thuộc về một lãnh vực mà nó thấp hơn lãnh vực của con người.
Trong lịch sử Ấn Độ, những vị thần muông thú có trước những vị thần hình nhân (thần dạng người lai thú). Trong suốt thời kỳ Mauryan, những bức tượng hoàn toàn thuộc về thế giới muông thú. Trong thời kỳ theo sau, hình ảnh tập trung nhiều vào muông thú hơn là con người. Muông thú chiếm ưu thế như là đặc điểm trong các câu chuyện Jātaka và những vị anh hùng không phải con người mà là muông thú. Nhân loại nhận nước từ một con rắn, lửa từ một con ếch và giấc ngủ từ một con thằn lằn. Những muông thú mà chúng được khắc họa trong văn học và nghệ thuật Phật giáo luôn là những động vật có tốc độ và sức mạnh ấn tượng như ngựa, trâu, hươu, cọp, sư tử, gấu, tê giác. Nhưng động vật cũng có thể được đề cập như Bồ-tát chỉ bởi vì chúng đầy những bí ẩn.
Bản sinh kinh
Những câu chuyện tiền thân Bản sinh kinh (còn có tên gốc là Jātaka) của Phật giáo trình bày một quan điểm thuyết hình người về động vật, cho thấy những phẩm chất người thật sự của chúng, vừa tốt vừa xấu, vừa anh hùng vừa độc ác. Những câu chuyện tiền thân bao gồm nhiều loại truyện, từ những truyện ngụ ngôn muông thú đơn giản, đến những câu chuyện muông thú từ bi. Tất cả chúng sanh được cho thấy là những vị Phật và Bồ-tát sẽ thành từ Vi trùng, chim sẻ, chó, khỉ, ngựa, cá heo, con người. Trong tài liệu này, ghi nhận các trường hợp hóa thân cứu thế của Bồ Tát như:
• Khi là một hươu chúa, Bồ-tát đã hy sinh mạng sống của mình để giải cứu tất cả sinh vật ra khỏi hiểm nạn. Trong Jātaka Nandimagga là một câu chuyện về một con hươu đã không sợ hãi đối mặt với một vị vua đang săn bắn, bằng cái nhìn bất động của mình, nó đã thay đổi tâm của vị vua và cứu những con thú khác.
• Khi làm một con khỉ thì đã cứu một kẻ thợ săn vô ơn. Trong Jātaka Mahakapi, một con khỉ cứu sống bộ tộc của nó bằng việc sử dụng thân thể của mình như một phần của một chiếc cầu cho bầy khỉ vượt qua sông Hằng.
• Khi làm một con sư tử thì đã cứu tất cả những con thú hoảng sợ khỏi nỗi sợ hãi
• Khi làm một con vẹt thì đã bất chấp tính mạng bay qua ngọn lửa để cứu tất cả những kẻ bị mắc kẹt trong một khu rừng đang cháy.
• Khi làm một con voi thì đã hy sinh đời mình để những kẻ sắp chết đói có thể sống. Trong kinh Pháp cú, câu chuyện về Dhanapalaka, một con voi chịu nỗi nhớ nhà sau khi bị tách ra khỏi mẹ của nó. Con voi bị bắt giữ đã từ chối thức ăn. Trong Abhaya-dana (vô úy thí) theo một truyền thống Phật giáo, Abhaya-mudra được nói là đã bắt nguồn từ cử chỉ mà Phật thể hiện khi bị con voi say Nalagiri do Đề Bà Đạt Đa chủ mưu thả ở trên đường đe dọa.
• Khi là một vị vua thì đã dâng thịt của chính mình để cứu một con chim bồ câu. Một vị vua lý tưởng ở trong kinh Cakkavattisihanada, nên bảo vệ không chỉ con người, mà cũng cả thú rừng và chim chóc.
• Khi làm một vị thái tử đã hy sinh mạng sống của mình để một con cọp mẹ và bầy cọp con sắp chết đói có thể sống. Phật là tấm gương về việc xả thân cứu độ loài vật, Phật đã hy sinh thân mạng của mình để cứu sống một con cọp cái và hai con cọp con đang đói, bị mắc kẹt trong tuyết.
Ăn chay :
Trong Phật giáo luôn giữ ăn chay hoàn toàn là một điều tự nhiên và hợp lý về giới luật không giết hại. Giới Bồ Tát cũng nói rõ cấm ăn những thức ăn không phải thực vật. Ma Ha Ca Diếp hỏi Phật “tai Sao Như Lai không cho phép ăn thịt?” Đức Phật trả lời: "Bởi vì ăn thịt làm cắt đứt hạt giống từ bi.” Theo Phật giáo thì trên cơ thể một con vật có hàng trăm ngàn, thật ra là nhiều triệu sinh vật nhỏ nhít. Những sinh vật này là những phần nhỏ của con vật trước đây. Linh hồn của con người lúc chết có thể chia chẻ ra thành nhiều con thú vật.
Một người có thể trở thành mười con thú vật. Bởi vậy thú vật rất ngu si. Linh hồn của thú vật có thể chia chẻ và khi phân chia đến mức nhỏ nhất có thể trở thành một vi sinh thể hay cây cỏ. Những cảm thọ cây cỏ có lúc đó là những gì tách ra từ linh hồn của con vật lúc chết. Mặc dầu sanh mạng của một số lượng lớn cây cỏ có vẻ rất lớn, nhưng không lớn bằng một con vật hay một miếng thịt ăn trong miệng, còn muỗi thì hàng triệu còn muỗi trên núi này có thể đơn giản là linh hồn của một người bị chuyển hoá thành những con muỗi này. Một người có thể chuyển thành vô số con muỗi.
Trong Vaṇijjāsuttaṃ của Tăng Chi Bộ Kinh (V, 177), có ghi loằng ngoằng như sau: "Bhikkhave Pañcimā, vaṇijjā upāsakena akaraṇīyā/Katamā Panca: Satthavaṇijjā, sattavaṇijjā, maṃsavaṇijjā, majjavaṇijjā, visavaṇijjā/IMA kho bhikkhave, Panca vaṇijjā upāsakena akaraṇīyāti". Tạm dịch: “Này, các nhà sư, một cư sĩ không nên chạy theo vào năm thứ bán buôn. Thế nào là năm thứ? Bán buôn võ khí, bán buôn con người, bán buôn thịt thà, bán buôn thuốc nghiện, và bán buôn chất độc. Đây là năm loại bán buôn mà cư sĩ không nên can dự”
Trong Kinh Jivaka Sutta nổi tiếng Đức Phật chỉ rõ ra những điều kiện mà tăng sĩ có thể hoặc không nên chấp nhận thịt: “Jivaka, Ta nói rằng thịt có ba trường hợp không nên dùng, khi nhìn thấy, nghe thấy hoặc khi nghi ngờ (có một con vật đã bị giết cho một tăng sĩ). Ta nói trong ba trường hợp này thịt không nên ăn. Ta nói, thịt có thể được ăn trong ba trường hợp, khi không nhìn thấy, không nghe và không có nghi ngờ gì cả.” Do đó, Phật giáo Nguyên Thủy chủ trương rằng Tỳ kheo có thể chấp nhận thịt “tikotiparisuddha”, có nghĩa là tinh khiết trong ba khía cạnh. Tỳ- kheo không tự mình giết con vật, không phải mình ra lệnh giết nó, và cũng không phải giết nó, đặc biệt là cho mình.
Tuy nhiên, những người xuất gia (tì kheo) nếu nghe tiếng con vật bị giết, thấy con vật bị giết hoặc nghi con vật đó bị giết để thết đãi mình thì không được ăn, nếu ăn thì sẽ phạm vào giới luật. Ngoài ra đức Phật cũng cấm không được ăn 10 loại thịt: thịt người, voi, ngựa, chó, rắn, sư tử, cọp, báo, gấu và linh cẩu. Ngoài ra, có 10 loại thịt đặc biệt khác mà các vị Tỷ kheo không được sử dụng. Đó là thịt người, voi, ngựa, chó, rắn, sư tử, cọp, báo, gấu và linh cẩu. Đây không phải là sự kiêng kỵ riêng cho một số loài nào (như Hồi giáo kiêng thịt heo, Ấn giáo kiêng thịt bò) mà vì những lý do sau: Thịt người thì không thể ăn vì quá dã man; thịt voi và thịt ngựa vì trong thời kỳ đó, hai con vật này được coi là thú vật của nhà vua; thịt chó vì dân chúng thường coi chó là con vật ghê tởm; thịt rắn, sư tử, cọp, báo, gấu và linh cẩu vì người ta tin rằng ai ăn thịt những loài thú rừng nguy hiểm này sẽ toát ra một mùi đặc biệt có thể khiến cho các con vật đồng loại tấn công người đó để trả thù. Trong một số kinh sách tiếng Phạn (kinh Lăng Già và kinh Ðại Bát Niết Bàn) của Phật giáo Đại thừa thì đức Phật dạy các đệ tử của mình không được ăn thịt cá.
Phóng sinh
Nghi Lễ Phóng Sanh (Tsethar) là một cách thực hành của Phật giáo để cứu súc vật, chim chóc, cá khỏi bị giết hại hay giam nhốt vĩnh viễn. Chúng được thả vào một cuộc sống mới mẻ về thể chất và tâm linh. Nghi thức này là ví dụ điển hình về giáo pháp căn bản của Phật giáo là từ bi đối với tất cả chúng sanh. Một đệ tử của Phật phải duy trì tâm từ bi và tu hành hạnh giải thoát chúng sanh. Tất cả chúng sanh nam đã từng là cha của tôi và tất cả chúng sanh nữ đã từng là mẹ của tôi. Không có một chúng sanh nào mà không sanh ra tôi trong những kiếp trước, vì vậy tất cả chúng sanh trong sáu nẻo đều là cha mẹ của tôi. Vì vậy, khi một người giết và ăn thịt bất cứ chúng sanh nào, người đó đã giết hại cha mẹ tôi. Bất cứ khi nào vị Bồ tát thấy kẻ khác chuẩn bị giết một con vật, vị Bồ tát nên tìm một phương tiện khéo léo để cứu vớt và bảo vệ con vật đó, giải thoát nó khỏi sự đau khổ và khó khăn.
Cấm sát sinh
Theo thuyết của Phật giáo thì theo tinh thần bình đẳng nên súc sinh cũng cần được tôn trọng do đó Phật giáo đề ra ngũ giới trong đó có quy định không sát sinh tức là không giết người và giết các loài súc sinh nói chung. Đồng thời cũng có khi vì tế độ chúng sinh, Bồ Tát đôi khi cũng chuyển hóa vào hạng súc sanh. Như đức Phật Thích Ca từng sinh ra làm cá để cứu bịnh thời khí, làm công để thuyết diễn đạo lý, làm nai để tỏ cái đức từ bi cứu thế một số loài súc sinh biết giác ngộ sẽ trở thành cao quý như như những loài chim quý, lạ ở Cực Lạc thế giới, do sức thần thông của đức Phật A Di Đà mà hóa sinh để thuyết pháp cho các nhà tu học ở đó nghe.
Một số văn bản về sau có những bước đi dài hơn khi ghép những người hủy hoại những loại đời sống muông thú khác nhau dưới những tình huống khác nhau với những địa ngục tương xứng, thậm chí không được làm bị thương một con thú, một Tăng sĩ đào một cái hố và một con thú rơi vào trong đó, nếu con thú chết, tội buộc phải sám hối. Kinh Saddharmasm-tyupasthana, một bản kinh Sanskrit có niên đại thế kỷ IV-V TL. Theo văn bản này, thì:
• Những người giết hại chim hay hươu mà không hối hận thì bị đọa vào một địa ngục thấp được gọi là địa ngục Phân dơ.
• Những người nấu sống lạc đà, heo, cừu, thỏ, gấu, và những loài như vậy thì bị trừng phạt trong địa ngục Vạc nấu.
• Những người mà đánh đập rùa hay bóp chết cừu thì bị đày vào địa ngục Tối tăm.
Nghiệp chướng
Nghiệp của một chúng sanh trải từ sự hiện hữu này đến sự hiện hữu khác tùy thuộc nó thiện hay bất thiện. Sau khi chết, thân xác tan rã và một cá nhân tái sanh trong một trạng thái hiện hữu thỏa đáng (sugati) chẳng hạn là một con người nếu hành vi của nó là tương đối tốt hay một trạng thái hiện hữu đau khổ (duggati) chẳng hạn như một con thú hay thậm chí tệ hơn nếu hành vi của nó là xấu, những cá nhân mà họ đi cùng với đời sống này, thì nếu họ là những thợ săn tay đẫm máu, hay những tên trộm thì có khả năng tái sanh vào trong hình thức của một sinh vật vụng trộm hay bò trườn như một con rắn, một con bò cạp, một con rết, một con cầy mangut, một con mèo, một con chuột, một con cú. Theo cách khác một con thú có thể sanh làm một con người.
Muông thú cũng được Phật giáo xem như là chủ đề đối với nghiệp của họ. Một số lớn Jātaka coi nghiệp tốt và xấu được thực hiện trong quá khứ bởi những loại thú khác nhau. Những nghiệp này sau đó nối kết với hiện tại, những sinh vật tốt được nhận biết thông qua tiến trình tái sanh với Phật và những đệ tử của ông, còn những kẻ xấu với Đề Bà Đạt Đa và những người như vậy. Do đó, một người có thể sanh làm thú và ngược lại tùy thuộc vào nghiệp. Một câu chuyện về người là thánh nhập lưu (sơ quả A La Hán hay srota-aapanna) sanh vào một gia đình đồ tể. Người đó ở ngưỡng cửa tuổi trưởng thành. Mặc dầu người ta mong đợi anh sẽ tiếp tục theo nghề nghiệp của gia đình, nhưng anh không thể giết thú vật.
Cha mẹ anh đưa anh một con dao và một con cừu, nhốt anh vào trong một căn phòng và nói với anh: "Nếu con không giết con cừu, chúng ta sẽ không cho con ra ngoài để thấy mặt trời, mặt trăng hay cho con thức ăn, nước uống để được sống.” Anh tự nghĩ: "Nếu tôi giết con cừu này, thì tôi sẽ [bị bắc buộc] theo nghề nghiệp này suốt đời. Làm sao tôi có thể làm tội ác đại ác này [chỉ ] vì cái thân này?” Sau đó anh cầm dao lên và tự sát. Cha mẹ của anh mở cửa để xem, thấy con cừu đang đứng cạnh anh [đang nằm] đã chết. Vào lúc đó, khi tự sát, anh được sanh lên cõi trời. Nếu người nào giống như vậy, thì đây là không màng sanh mạng [của chính mình] để giữ gìn [sự nguyên vẹn] của tịnh giới.
Các loài vật :
Bò :
Do ảnh hưởng của Ấn Giáo trong đạo Phật, bò cũng được coi là con vật linh thiêng nói chung và có một bài kinh về chúng. Đây là bài kinh thứ 33 trích trong Kinh Trung Bộ từ tiếng Pali. Kinh này Phật dạy người chăn bò phải có đầy đủ 11 đức tính mới có thể chăn giữ được đàn bò của mình tốt đẹp. Mười một đức tính đó bao gồm: Không biết rõ các sắc. Không khéo phân biệt các tướng. Không từ bỏ trứng của con bò chét. Không biết băng bó vết thương cho bò. Không biết xông khói cho bò tránh muỗi, đàn bò sẽ không tốt. Không biết chỗ nước có thể lội qua, Người chăn bò không biết chỗ nước để cho bò lội qua, không biết chỗ nào sông cạn sông sâu.
Không biết chỗ uống nước, người chăn bò không biết rõ chỗ nước uống. Không biết con đường. Không khéo đối với các đàn bò. Nếu không biết chỗ nào có nước tốt, ăn ngon mà cho bò uống nước đục thì bò không lớn nổi. Người chăn bò phải biết khéo léo với các chỗ đàn bò có thể ăn cỏ. Vắt sữa bò đến khô kiệt. Không chú ý săn sóc đặc biệt con bò đầu đàn, con bò lớn tuổi. Đối với người chăn bò phải biết quan tâm, chăm sóc bò cao tuổi, tức là những con bò già, chậm chạp. Người chăn bò có 11 đức tính kể trên thì đàn bò mới được hưng thịnh, giúp cho đàn bò phát triển tốt đẹp, hữu dụng.
Tại Việt Nam, một ngôi chùa ở Bình Chánh đã cho một con bò quy y. Trong một lần được người thương lái đưa ra lò mổ, khi đi ngang qua cổng chùa Pháp Hải (huyện Bình Chánh), con bò bỗng dừng lại không chịu đi. Chứng kiến cảnh tượng ấy, nên các sư trong chùa đã mua lại con bò về nuôi vì cho rằng, cái duyên với Phật chưa dứt, vì thế các sư tại chùa Pháp Hải ngay lập tức làm lễ quy y cho chú bò. Tuy nhiên, dư luận cho rằng việc “quy y” cho bò chỉ là điều mê tín. Theo truyền thống Phật giáo Trung Quốc, người ta nghĩ rằng, quy y cho các loài động vật, gieo duyên cho chúng để tái sinh hết kiếp này để ra kiếp sau trở thành người.
Tuy nhiên ngay trong Phật giáo cho rằng con bò ý thức hoạt động rất là kém cho nên người Việt Nam thường dùng hình ảnh con bò để chỉ những người "có đầu mà không có óc", không phát triển ý thức, không phát triển trí tuệ. Bản thân loài bò thì nó dừng bất kỳ nơi đâu mà nó thích. Đây là trường hợp ngẫu nhiên, con bò dừng lại ngay vị trí của ngôi chùa làm cho người ta liên tưởng đến có lẽ do nhân duyên kiếp trước con bò là người hay là Phật tử. Nay đến chỗ này, con bò không chịu đi nữa, nó muốn dừng lại và các thầy ở đây làm lễ quy y và nên xem đây là chuyện bình thường.
Ngựa :
Hình tượng con Ngựa trong văn hóa
Trong Phật giáo, ngựa là biểu tượng của sức mạnh và sự nỗ lực trong việc thực hành pháp. Nó cũng tượng trưng cho khí (prana) mà nó chạy xuyên khắp cơ thể và là phương tiện di chuyển của tâm. Cái được gọi là “ngựa gió” là biểu tượng của tâm. Tâm có phương tiện đi lại của nó là gió, và nó có thể được cưỡi đi. Điều đó muốn nói rằng chúng ta có khả năng kiểm soát tâm và gió và hướng dẫn chúng theo bất kỳ chiều hướng nào và ở bất kỳ tốc độ nào mà chúng ta muốn. Trong Phật giáo có con ngựa Kiền Trắc, con ngựa của thái tử Siddhartha Gautama. Khi thái tử rời hoàng cung xuất gia làm ẩn sĩ, con ngựa của ông ta nhận thấy rằng nó sẽ không bao giờ còn gặp lại chủ nhân của mình nữa nên đã vỡ tim mà chết. Nó sau đó đã sanh về một trong các cõi trời.
Tiếng hí của một con ngựa cũng là biểu tượng sức mạnh của Đức Phật để đánh thức tâm ngái ngủ trong việc thực hành pháp. Có một vài câu chuyện về Bồ-tát Lokesvara hóa thành hình thù một con ngựa để cứu giúp chúng sanh. Trong nghệ thuật tranh tượng Phật giáo, ngựa nâng đỡ tòa ngồi của Bảo Sinh Phật (Ratnasambhava). Ngựa cũng là phương tiện của nhiều vị thần khác và những vị hộ pháp, chẳng hạn như Mahali; và có những vị thần mặt ngựa chẳng hạn như Hayagriva.
Voi :
Hình tượng con Voi trong văn hóa
Trong Phật giáo, voi là một biểu tượng của sức mạnh tâm thức. Vào khởi đầu của việc tu tập, tâm thức chưa được kiểm soát được tượng trưng bằng một con voi xám có thể chạy hoang bất cứ lúc nào và phá huỷ mọi thứ trên đường. Sau khi thực hành pháp và tu tập, tâm bây giờ đã được kiểm soát, lại được tượng trưng bằng một con voi trắng mạnh mẽ và hùng dũng, có thể đi đến bất cứ nơi đâu nó muốn và huỷ diệt tất cả những chướng ngại ở trên đường. Voi trắng sáu ngà còn là vật cưỡi của Phổ Hiền bồ tát (Samantabhadra) tượng trưng cho trí tuệ chiến thắng sáu giác quan. Vì voi là con vật khôn nhất trong các loài thú nên theo truyền thuyết, Phật Thích Ca khi nhập vào trong bụng mẫu hậu Sirimahamaya qua hình dáng một con bạch tượng, ám chỉ ngài là một bậc hiền giả giáng sinh.
Thích Ca Mâu Ni trong những tiền kiếp của mình đã sinh làm voi, vào kiếp sau cùng của mình, từ cõi trời Đâu Suất, đã nhập vào thai tạng của mẹ mình trong hình thức một con voi trắng. Trong nghi lễ cúng mandala (Mạn Đà La), người ta dâng lên Đức Phật con voi quý, với sức mạnh của một ngàn con voi và nó có thể đi vòng quanh vũ trụ ba lần một ngày. Ngà của voi cũng là một trong bảy biểu tượng của vua chúa. Voi là phương tiện đi lại của A Súc Bệ Phật (Aksobhya) và nữ thần Balabadra. Voi cũng xuất hiện như một kẻ canh gác các ngôi đền và cả bảo vệ Đức Phật.
Nai :
Hình tượng Hươu nai trong văn hóa
Jātaka Ruru viết: Con trai của một thương nhân giàu có, người sống một đời sống phóng đãng đã cố tự sát bằng việc gieo mình vào sông Hằng. Một con nai có tên là Ruru đã cứu người thanh niên bằng việc gây nguy hiểm cho tính mạng của nó. Sau đó, người thanh niên phản bội con nai bằng việc đưa thông tin về chỗ ở của con nai. Nhưng từ việc ấy, con nai bị bắt, nhà vua đến và biết về mối liên hệ giữa hai vị. Nhà vua để cho con nai đi nhưng muốn giết người thanh niên. Con nai, tuy nhiên, cầu xin nhà vua để cho người thanh niên đi.
Thỏ :
Hình tượng con Thỏ trong văn hóa
Chuyện tiền thân Sata, kể về con thỏ sống trong rừng với một con khỉ, một con chó rừng và một con rái cá. Câu chuyện liên quan đến sự quyết định của chúng để tiến hành những thánh nhật và giới luật bằng việc bố thí. Quan sát ngày trăng tròn, chúng quyết định xem ngày kế tiếp như một ngày trai giới và bố thí cho bất kỳ kẻ ăn xin nào. Trong khi con khỉ, chó rừng và rái cá thu gom thức ăn để cho những ai cần nó, con thỏ không thể thu gom thức ăn nên đã dâng thịt của chính mình. Thỏ đã được tưởng thưởng là hình ảnh của nó được in lên mặt trăng. Con thú anh hùng ở đây được xem như là một vị Bồ-tát ở trong một tiền kiếp.
Sư tử :
Chúa sơn lâm
Trong Ấn Độ giáo, Sư tử là vua của loài thú, chúng kiêu hãnh và oai vệ. Do những đặc tính này, ở mọi thời và mọi xứ, sư tử được xem như là biểu tượng của sự quý phái và bảo vệ, cũng như biểu tượng của trí tuệ và kiêu hãnh. Sự miêu tả bằng tranh về sư tử có nguồn gốc ở Ba Tư (Persia). Trong Phật giáo, sư tử (Simha) biểu tượng cho sức mạnh, oai linh nhưng tuân phục, trợ giúp cho Phật pháp, nó là một linh vật biểu trưng cho sức mạnh Phật giáo. Nó tượng trưng cho sức mạnh của giáo lý chánh pháp, nên trong kinh phật có rất nhiều câu chuyện về sư tử chúa. Nó cũng là biểu tượng của chư Bồ-tát, “những người con trai của Đức Phật”. Một người hùng dũng đôi khi được ví giống như sư tử, giống như một con sư tử là đứng đầu tất cả muông thú. Đây cũng là một diễn tả khác dành cho Đức Phật.
Trong Phật giáo, Phật Thích Ca Mâu Ni được tôn là Pháp vương, giống như sư tử là vua của loài thú lời thuyết pháp của Phật được gọi là Sư tử hống (Simhanada) tức là tiếng rống của sư tử, biểu thị uy lực và diệu dụng của Phật pháp thu nhiếp được tất thảy chúng sinh. Cũng có dữ liệu cho rằng Phật là sư tử của dòng họ Sakya, và kinh, luận Phật giáo thường lấy sư tử dụ cho đức vô úy và sự vĩ đại của Đức Phật, tòa ngồi của Đức Phật gọi là Tòa sư tử (Simha-sana) ngoài ra còn có hình ảnh tượng Bồ-tát Văn Thù cưỡi sư tử thuộc quy phạm đồ tượng học truyền thống Phật giáo hay xa xưa hơn là biểu tượng Nara-simha (người sư tử), kẻ có sức mạnh và lòng dũng cảm diệt trừ cái ác và sự ngu muội và vô minh.
Sách Gita cho hay Krishna là sư tử giữa các loài thú, Đức Phật là sư tử của dòng tộc Sakya, huy hiệu của Aśoka mang hình ba con sư tử tựa lưng trên một cái bệ hình bánh xe, với tiêu ngữ: Chân lý sẽ thắng. Do lòng sùng đạo của Aśoka, ba con sư tử có thể biểu trưng cho Tripitaka (Tạm tạng chân kinh của Phật giáo) và cũng có thể biểu trưng cho Tam bảo Phật-Pháp-Tăng. Những điển tích đó giải thích việc khắc chạm một cặp sư tử trên tọa cụ của Phật Thích Ca xuất hiện ngay thời Vô tượng kỳ khoảng 500 năm sau khi Phật Thích Ca nhập Niết-bàn.
Đây là nguồn cội của việc thể hiện vô số sư tử, cả điêu khắc lẫn hội họa trong mỹ thuật các quốc gia Viễn Đông. Sư tử thường được coi là vật bảo hộ cho đền chùa hay các ảnh tượng (có khắc vẽ sư tử trên đó). Với các nội dung biểu trưng nêu trên, sư tử từ Ấn Độ đã thâm nhập vào văn hóa của các cộng đồng, quốc gia Đông Nam Á. Một cách tổng quát, ở khu vực này, khá giống với Ấn Độ, đều tồn tại đồng thời hai loại sư tử một là, sư tử tự nhiên (simha) với sức mạnh thù thắng của chính nó, và hai là, loại sư tử thiêng, kết hợp sư tử với một số bộ phận của các con vật khác để tạo thành những loại linh vật - giống sư tử có tính chất siêu nhiên.
Trong nghệ thuật tranh tượng Phật giáo, những con sư tử trong vai trò là những kẻ bảo hộ Pháp đang nâng tòa ngồi của chư Phật và chư Bồ-tát. Chúng cũng được nhìn thấy ở nơi lối vào của các chùa chiền. Ở những khu vực miền Bắc Nepal, do ảnh hưởng nghệ thuật và Phật giáo Tây Tạng, những con sư tử đã trở thành những “sư tử tuyết”. Trên thực tế, không có con sư tử nào sống ở những núi tuyết, mà chỉ có những con báo. Sư tử tuyết được mô tả bằng màu trắng hay xanh dương với cái bờm màu cam hay màu ngọc lam đang đi nổi trên gió và rất hung dữ, với đôi mắt mở to và miệng hả rộng. Chúng tự do đi lại trên những ngọn núi tuyết cao mà không có bất kỳ nỗi sợ hãi nào, biểu trưng cho những hành giả thực hành pháp.
Hổ :
Hình tượng con Hổ trong văn hóa và Chùa Hổ
Trong Phật giáo Ấn Độ, hổ cùng với khỉ và hươu cũng là một trong ba linh vật thiêng liêng. Cũng trong Phật giáo, con hổ biểu tượng cho sức mạnh của niềm tin, sự chiến thắng mọi trở ngại trên con đường tu chứng do đó hình ảnh thường thấy là hình tượng Bồ Tát Văn Thù cưỡi trên lưng hổ và đó là sự tượng trưng cho sự diệt trừ được tham, sân, si và ác nghiệp, tu thành quả Phật.
Trong câu chuyện Phật giáo có nói về Khi làm một vị thái tử đã hy sinh mạng sống của mình để một con cọp mẹ và bầy cọp con sắp chết đói có thể sống. Phật là tấm gương về việc xả thân cứu độ loài vật, Phật đã hy sinh thân mạng của mình để cứu sống một con cọp cái và hai con cọp con đang đói, bị mắc kẹt trong tuyết.
Công :
Trong ý nghĩa chung, công là biểu tượng của sự cởi mở và chấp nhận. Trong Ấn giáo, những hoa văn của lông công tượng trưng cho những con mắt, hay tượng trưng các ngôi sao. Trong Phật giáo, công hay công lam Ấm Độ tượng trưng cho trí tuệ. Công được cho có khả năng ăn những cây có độc dược mà không hề bị ảnh hưởng gì. Bởi điều đó, chúng được ví với những vị Đại Bồ-tát. Một vị Đại Bồ-tát có thể xem những thứ nhiễm ô như là phương cách đưa đến giải thoát và chuyển đổi tâm độc hại tham-sân-si (moha, raga, dvesa) thành tâm giác ngộ hay bồ-đề.Những vị Bồ-tát với tâm dũng mãnh, giống như những con công không bị những cây thuốc hấp dẫn. Bằng việc ăn độc dược, cơ thể của công trở nên đẹp đẽ và mạnh khoẻ. Chúng được tô điểm với năm lông vũ trên đầu, mà nó biểu trưng cho năm con đường của Bồ-tát và ngũ phương Phật.
Tương tự, bất kỳ những ai nhìn thấy một vị Bồ-tát đều nhận được sự hoan hỷ ở trong tâm. Thói quen ăn những cây độc của công không gây hại cho những sinh vật khác. Tương tự, Bồ-tát không đem lại sự tổn hại nhỏ nhất cho bất kỳ chúng sanh nào. Bằng việc ăn những độc dược, lông của công trở nên sáng tươi và thân thể khoẻ mạnh. Tương tự, bằng việc nhận tất cả những khó khăn và rắc rối cho mình, chư Bồ-tát nhanh chóng gột sách những chướng ngại tâm thức và phát triển tâm thức nhanh chóng, đạt được trí tuệ càng lúc càng cao. Đặc biệt, công tượng trưng cho sự chuyển hóa tham dục thành giải thoát. Do đó chúng là phương tiện đi lại của Phật A Di Đà, người thể hiện chuyển đổi tham muốn và chấp thủ thành trí tuệ.
Ưng :
Đại bàng trong biểu tượng văn hóa
Trong Phật giáo, chim ưng liên quan đến bố thí ba-la-mật (dana paramita), giống như những tia nắng mặt trời ban tặng sự sống cho trái đất. Chim ưng (raguda) là vua của loài chim. Tên của nó xuất phát từ gốc “gri”, có nghĩa là nuốt: chim ưng nuốt lấy những con rắn. Nó được trình bày với một thân hình phía trên là hình người, mắt và mỏ to, mào ngắn màu xanh, lông vàng trên đầu, trên chân và trên cánh. Tuy nhiên, đôi khi, chính yếu trong nghệ thuật tranh họa Hindu, nó được trình bày bằng hình dáng người với đôi cánh. Chim ưng cũng tượng trưng cho sự phóng khoáng. Nó tượng trưng cho sự tư do tự tại của tâm, có thể mở rộng ra và không bị trói buộc bởi những xung đột cảm xúc.
Tâm thức sáng suốt thì có thể đến mọi nơi, giống như những tia nắng mặt trời, và tạo nên sự sinh trưởng của đời sống và trí tuệ. Trong Phật giáo, nó là vật cưỡi của Bất Không Thành Tựu Như Lai (Amoghasiddhi), Đức Phật biểu trưng cho trí tuệ viên mãn. Chim ưng cũng là một vị thần của người chữa trị rắn cắn, chứng động kinh và những bệnh do rắn gây ra. Ngọc lục bảo, cũng được gọi là đá chim ưng, được xem như một vật chống lại độc dược và những hình ảnh chim ưng ở trên đồ nữ trang như là một vật bảo vệ chống lại rắn.
Nói đến rắn, trong dân gian thường người ta nghĩ đến sự độc hại, còn chuyện cắn mổ chỉ là bản tánh tự nhiên của nó, chớ nào có ác ý gì đâu !
Kinh điển Phật thì cho rằng những con rắn độc hại ấy luôn hiện hữu trong mỗi con người chúng ta. Vậy mà từ bấy lâu nay, ít ai hay biết. Tết năm con rắn sắp đến, nhân thấy trong " Phật Quang Đại Từ điển", " Tự điển Thiền tông" của Viên Tân và " Phật giáo Văn hóa" có một vài chỗ đề cập đến con rắn, nên chúng tôi xin mạn phép lược dẫn ra để bạn đọc đặc san Xuân " Lắng Nghe " coi chơi trong ba ngày Tết.
1. Tứ độc xà :
Còn gọi là " Tứ ngoan xà" và " Tứ xà", tức lấy rắn độc để dụ cho tứ đại trong thân con người là đất, nước, lửa và gió. Theo quyển 5, kinh " Kim Quang Minh Tối Thắng Vương" chép : " Bốn đại trong thân con người như bốn con rắn độc ở chung trong một cái lồng. Tánh của bốn con rắn độc này đều khác nhau. Hai độc đất và nước phần nhiều ngấm xuống, còn gió và lửa thì bốc lên. Nếu bốn đại kình chống thì các thứ bệnh bắt đầu sanh ra. Lại nữa, theo quyển 22, Đại Trí Độ Luận chép : " Hai phe của bốn đại trong thân người luôn hại nhau. Thân người giống như kẻ cầm lồng rắn độc vậy".
2. Xà nhập trúc đồng (Rắn bò vào ống trúc) :
Nguyên vì thân con rắn cong queo, nhưng khi bò vào ống trúc thì tự nhiên biến thành ngay, được ví như cảnh hành giả nhập thiền định thì tâm tự nhiên ngay thẳng, cùng nghĩa với thành ngữ " xà nhập đồng cải khúc" trong Lăng Già Sư Tư Ký. Theo quyển 23, Đại Trí Độ Luận chép : " Tâm ấy từ vô thỉ kiếp cho đến nay thường cong queo, không ngay thẳng. Nếu xử sự đúng đắn thì tâm liền được ngay thẳng, ví như rắn bò thường uốn khúc, nhưng khi chui vào ống trúc thì liền được ngay thẳng". Nghĩa thứ hai là dụng ngữ của Thiền lâm: Trong Thiền lâm, phần nhiều chỉ cho người không biết viên dung, linh hoạt cơ pháp nên đến nổi phải rơi vào cảnh giới tiến thoái đều bị vướng kẹt trong hang hố, không được thư thả giống như con rắn chui vào ống trúc. Theo quyển 2, sách " Hư Đường Hòa thượng Ngữ lục" chép : Tăng hỏi : Ngưỡng Sơn bảo Hương Nghiêm rằng : " Như Lai Thiền thì cứ cho như sư huynh biết đó, còn tổ sư Thiền thì đừng có hòng. Ý này như thế nào ?". Sư đáp : " Rắn bò vào ống trúc".
3. Xà hành pháp :
Là chỉ cho người làm mười điều bất thiện như sát sanh, trộm cướp, ác khẩu, nóng giận ... Phàm thân - khẩu - ý là các động cơ để tạo ra mười điều chẳng lành. Trong quyển 37, kinh " Tạp A Hàm" chép : " Phật dạy các thầy tỳ kheo, có lời nói về xà hành pháp. Văn ấy chép rằng : Xà hành pháp là những gì ? Nghĩa là làm việc ác sát sanh thì tay thường tanh hôi, cho đến mười điều bất thiện như Thuần Đà Tu Đa La. Nói chung, các điều ấy là thân xà hành, khẩu xà hành và ý xà hành. Thân, khẩu và ý của người kia làm việc như thế rồi, đọa ở trong hai đường ác : Địa ngục hoặc súc sanh.
4. Xà thằng ma :
Tức là do lấy ba loại: rắn, dây và gai bố để dụ cho ý nghĩa của ba tánh là biến kế sở chấp tánh, y tha khởi tánh và viên thành thật tánh. Biến kế sở chấp tánh dụ cho chấp trược có thật ngã , thật pháp rồi lầm hiểu thấy sợi dây cho là rắn. Quán ý tha khởi tánh để trừ bỏ cái chấp của ngã pháp, giống như biết là dây nên loại bỏ vọng kiến tưởng là rắn. Kiến viên thành thật tánh là tỏ được sự giả có của tánh y tha khởi, giống như biết sợi dây do gai mà làm thành, rốt lại trừ được sự hiểu lầm thấy dây cho là rắn.
5. Mộc xà :
Là lấy cây chạm trổ thành cái " trúc bề" có hình con rắn. Quyển 17, Cảnh Đức Truyền Đăng Lục chép : Thiền sư Sơ Sơn Quang Nhân tay đang nắm cái trúc bề có hình rắn (mộc xà) thì có vị tăng hỏi : "Trong tay là vật gì ?" Sư đưa lên nói rằng : "Tào Gia Nữ ". Tào Gia Nữ là tiếng gọi hàm dụ xứ Tào Khê, tức là chỉ cho Thiền tông cũng có thuyết cho rằng "Tào Gia Nữ "là thần thổ địa có thân hình như con rắn vậy !
6. Vô cấm tróc xà (không biết cách khống chế mà dám bắt rắn) :
Chữ " cấm" có nghĩa là ngăn chặn, tức muốn bắt rắn độc phải có phương pháp chế phục nó, tất dùng gậy sắt có nạng đè đầu trước, kế đến dùng tay nắm cổ nó. Nếu không làm theo phương pháp này, tùy tiện nắn lưng mà bắt thì sẽ bị rắn cắn chết. Lấy đây để dụ cho tỳ kheo nếu không có pháp để quán trí mà mạn đàm tán gẫu lý lẽ bông lông, buông lòng theo ngũ dục rốt cùng sẽ chịu khổ cùng cực, tự làm lao nhọc mình vậy ! Thế nên đừng hiểu lầm câu "vô cấm tróc xà" là " không cấm bắt rắn", làm mất đi ý nghĩa "cấm sát sanh" của Phật Đà dù đó là loài rắn độc.
7. Quy Tông trảm xà nhân duyên :
Là tên gọi của một công án Thiền tông, kể lại việc nhân duyên chém rắn của Thiền sư Qui Tông Trí Thường, hiển bày thiền cơ tự tại vô ngại. Trí Thường là pháp tự của Mã Tổ Đạo Nhất. Nguyên quán, năm sanh và năm mất của sư đều chưa rõ. Sư ở chùa Qui Tông (núi Lô), hoằng dương tông phong, sau khi thị tịch có thụy hiệu là " Trí Chân thiền sư ". Quyển 3, chương " Qui Tông Trí Thường" ở sách " Ngũ Đăng Hội Nguyên" chép : Sư đang dọn cỏ thì có ông tăng đến tham hỏi. Chợt có con rắn bò qua, sư lấy cái bừa chặt đứt con rắn. Tăng nói : "Từ lâu nghe danh Quy Tông, té ra chỉ là sa môn thô hạnh." Sư nói : "Ngươi thô hay ta thô ?" Tăng hỏi :" Thế nào là thô ?" Sư dựng bừa lên mà bảo rằng "Thế nào là tế ?" Rồi sư làm ra điệu bộ chém rắn, nói : "Cứ y theo việc này mà làm !" .Tăng hỏi "Thế nào là y theo đó mà làm ?" Sư đáp "Chuyện y theo đó mà làm, thôi hãy dẹp qua một bên, ngươi thấy ta chém rắn hồi nào ?" Tăng đớ lưỡi.
Xét trong công án này, ông tăng đến tham học chính là kẻ học nhân non kém, chỉ biết tập tành theo văn nghĩa của kinh điển, lâu dần rơi vào tệ nghiên cứu học lý, rồi nương theo sự trói buộc của lý giải văn nghĩa mà vẫn không tự biết, nên mới còn phân biệt thô , tế , thị phi , kiến giải đối lập mà hỏi sư Trí Thường. Còn phần sư Trí Thường chém rắn, giơ cao cái bừa, làm bộ thế chém rắn cho đến phủ nhận hành động trước đó qua câu: " Ngươi thấy ta chém rắn hồi nào ? " là biểu hiện cái hành của đạo Phật, chính là vượt qua cả chuyện thị phi, thiện ác, thô tế ... bặt dứt đối cảnh và kiến giải tương đối (theo quyển 5 "Tổ Đường Tập" và quyển 7 "Cảnh Đức Truyền Đăng Lục").
8. Nhất khiếp tứ xà :
Là chỉ cho một cái lồng mà đựng cả bốn con rắn độc, ví như trong thân thể con người do bốn đại (đất, nước, lửa và gió) hòa hợp mà thành. Quyển 3, kinh Đại Bát Niết Bàn chép : " Quán thân như lồng, đất , nước , lửa, gió như bốn con rắn độc : Nhìn độc, xúc chạm độc, phun hơi độc và cắn truyền nọc độc. Tất cả chúng sanh hễ gặp bốn thứ độc ấy là bị tán thân mất mạng. Bốn đại trong thân thể của chúng sanh cũng giống như thế : Nhìn ác, xúc chạm ác, hà hơi độc và cắn truyền độc. Đó là nhân duyên xa lìa các điều thiện, và cũng chính là lấy bốn đại để dụ chỉ cho bốn con rắn nhả ra chất độc vậy !
Bốn đại này xui làm ác hay khiến cho chúng sanh xa lìa các điều thiện, hại đến huệ mạng của mình. Thế nên quyển 22 Đại Trí Độ Luận chép : " Bốn đại trong thân thể con người, mỗi thứ đều hại nhau như người cầm lồng rắn độc. Là người trí, sao cho việc ấy an ổn được chứ ?" (quyển 43 kinh " Tạp A Hàm" và quyển 2 kinh " Đạt Ma Đa La Thiền").
9. Đầu rắn và đuôi rắn :
Một hôm, đuôi rắn bỗng chợt nói với đầu rắn rằng : " Mày nên đi sau, ta đi trước mới phải". Đầu rắn bèn nói: " Ta quen đi đằng trước, còn ngươi quen đi đằng sau thì làm thế nào bỗng dưng phải thay đổi vị trí chớ ?". Do đầu rắn cố chấp cho là mình ở đằng trước, đuôi rắn không chịu, bèn quấn vào một gốc cây. Cuối cùng, đầu rắn đi đâu cũng không xong. Nó không có cách chi khác, đành phải nhường đuôi rắn đi trước. Do đuôi rắn vì không có mắt để nhìn đường, nên vừa đi vừa mò, bèn lọt xuống hầm lửa. Kết cuộc, thân thể lập tức bị cháy thành than, thế là con rắn này cũng bị chết đi.
- Nghĩ cho cùng, rắn hay cắn mổ người hoặc các loài vật khác, chẳng qua là vì " tùy thuộc thể loại" chúng là thế, chứ thật ra con rắn nào có biết thiện ác là gì, vì chúng chỉ hành động theo bản năng. Vậy người tu học chúng ta nên có sự nhận thức về con rắn khác biệt hơn người thường, tức là vẫn không loại bỏ " Từ nhãn thị"(cái nhìn thương cảm) đối với chúng. Hơn thế nữa, thân này là vô thường, là ổ rắn độc, không biết nó mổ chúng ta ngày nào. Vì thế, ta phải nỗ lực tu tập để nếu lỡ một mai chúng có cắn ta chết đi thì cũng không bất ngờ. Cái nhìn của người tu Phật đối với rắn độc ở tự thân là thế đấy !
Công :
Trong ý nghĩa chung, công là biểu tượng của sự cởi mở và chấp nhận. Trong Ấn giáo, những hoa văn của lông công tượng trưng cho những con mắt, hay tượng trưng các ngôi sao. Trong Phật giáo, công hay công lam Ấm Độ tượng trưng cho trí tuệ. Công được cho có khả năng ăn những cây có độc dược mà không hề bị ảnh hưởng gì. Bởi điều đó, chúng được ví với những vị Đại Bồ-tát. Một vị Đại Bồ-tát có thể xem những thứ nhiễm ô như là phương cách đưa đến giải thoát và chuyển đổi tâm độc hại tham-sân-si (moha, raga, dvesa) thành tâm giác ngộ hay bồ-đề.Những vị Bồ-tát với tâm dũng mãnh, giống như những con công không bị những cây thuốc hấp dẫn. Bằng việc ăn độc dược, cơ thể của công trở nên đẹp đẽ và mạnh khoẻ. Chúng được tô điểm với năm lông vũ trên đầu, mà nó biểu trưng cho năm con đường của Bồ-tát và ngũ phương Phật.
Tương tự, bất kỳ những ai nhìn thấy một vị Bồ-tát đều nhận được sự hoan hỷ ở trong tâm. Thói quen ăn những cây độc của công không gây hại cho những sinh vật khác. Tương tự, Bồ-tát không đem lại sự tổn hại nhỏ nhất cho bất kỳ chúng sanh nào. Bằng việc ăn những độc dược, lông của công trở nên sáng tươi và thân thể khoẻ mạnh. Tương tự, bằng việc nhận tất cả những khó khăn và rắc rối cho mình, chư Bồ-tát nhanh chóng gột sách những chướng ngại tâm thức và phát triển tâm thức nhanh chóng, đạt được trí tuệ càng lúc càng cao. Đặc biệt, công tượng trưng cho sự chuyển hóa tham dục thành giải thoát. Do đó chúng là phương tiện đi lại của Phật A Di Đà, người thể hiện chuyển đổi tham muốn và chấp thủ thành trí tuệ.
Ưng :
Đại bàng trong biểu tượng văn hóa
Trong Phật giáo, chim ưng liên quan đến bố thí ba-la-mật (dana paramita), giống như những tia nắng mặt trời ban tặng sự sống cho trái đất. Chim ưng (raguda) là vua của loài chim. Tên của nó xuất phát từ gốc “gri”, có nghĩa là nuốt: chim ưng nuốt lấy những con rắn. Nó được trình bày với một thân hình phía trên là hình người, mắt và mỏ to, mào ngắn màu xanh, lông vàng trên đầu, trên chân và trên cánh. Tuy nhiên, đôi khi, chính yếu trong nghệ thuật tranh họa Hindu, nó được trình bày bằng hình dáng người với đôi cánh. Chim ưng cũng tượng trưng cho sự phóng khoáng. Nó tượng trưng cho sự tư do tự tại của tâm, có thể mở rộng ra và không bị trói buộc bởi những xung đột cảm xúc.
Tâm thức sáng suốt thì có thể đến mọi nơi, giống như những tia nắng mặt trời, và tạo nên sự sinh trưởng của đời sống và trí tuệ. Trong Phật giáo, nó là vật cưỡi của Bất Không Thành Tựu Như Lai (Amoghasiddhi), Đức Phật biểu trưng cho trí tuệ viên mãn. Chim ưng cũng là một vị thần của người chữa trị rắn cắn, chứng động kinh và những bệnh do rắn gây ra. Ngọc lục bảo, cũng được gọi là đá chim ưng, được xem như một vật chống lại độc dược và những hình ảnh chim ưng ở trên đồ nữ trang như là một vật bảo vệ chống lại rắn.
Rắn :
Kinh điển Phật thì cho rằng những con rắn độc hại ấy luôn hiện hữu trong mỗi con người chúng ta. Vậy mà từ bấy lâu nay, ít ai hay biết. Tết năm con rắn sắp đến, nhân thấy trong " Phật Quang Đại Từ điển", " Tự điển Thiền tông" của Viên Tân và " Phật giáo Văn hóa" có một vài chỗ đề cập đến con rắn, nên chúng tôi xin mạn phép lược dẫn ra để bạn đọc đặc san Xuân " Lắng Nghe " coi chơi trong ba ngày Tết.
1. Tứ độc xà :
Còn gọi là " Tứ ngoan xà" và " Tứ xà", tức lấy rắn độc để dụ cho tứ đại trong thân con người là đất, nước, lửa và gió. Theo quyển 5, kinh " Kim Quang Minh Tối Thắng Vương" chép : " Bốn đại trong thân con người như bốn con rắn độc ở chung trong một cái lồng. Tánh của bốn con rắn độc này đều khác nhau. Hai độc đất và nước phần nhiều ngấm xuống, còn gió và lửa thì bốc lên. Nếu bốn đại kình chống thì các thứ bệnh bắt đầu sanh ra. Lại nữa, theo quyển 22, Đại Trí Độ Luận chép : " Hai phe của bốn đại trong thân người luôn hại nhau. Thân người giống như kẻ cầm lồng rắn độc vậy".
2. Xà nhập trúc đồng (Rắn bò vào ống trúc) :
Nguyên vì thân con rắn cong queo, nhưng khi bò vào ống trúc thì tự nhiên biến thành ngay, được ví như cảnh hành giả nhập thiền định thì tâm tự nhiên ngay thẳng, cùng nghĩa với thành ngữ " xà nhập đồng cải khúc" trong Lăng Già Sư Tư Ký. Theo quyển 23, Đại Trí Độ Luận chép : " Tâm ấy từ vô thỉ kiếp cho đến nay thường cong queo, không ngay thẳng. Nếu xử sự đúng đắn thì tâm liền được ngay thẳng, ví như rắn bò thường uốn khúc, nhưng khi chui vào ống trúc thì liền được ngay thẳng". Nghĩa thứ hai là dụng ngữ của Thiền lâm: Trong Thiền lâm, phần nhiều chỉ cho người không biết viên dung, linh hoạt cơ pháp nên đến nổi phải rơi vào cảnh giới tiến thoái đều bị vướng kẹt trong hang hố, không được thư thả giống như con rắn chui vào ống trúc. Theo quyển 2, sách " Hư Đường Hòa thượng Ngữ lục" chép : Tăng hỏi : Ngưỡng Sơn bảo Hương Nghiêm rằng : " Như Lai Thiền thì cứ cho như sư huynh biết đó, còn tổ sư Thiền thì đừng có hòng. Ý này như thế nào ?". Sư đáp : " Rắn bò vào ống trúc".
3. Xà hành pháp :
Là chỉ cho người làm mười điều bất thiện như sát sanh, trộm cướp, ác khẩu, nóng giận ... Phàm thân - khẩu - ý là các động cơ để tạo ra mười điều chẳng lành. Trong quyển 37, kinh " Tạp A Hàm" chép : " Phật dạy các thầy tỳ kheo, có lời nói về xà hành pháp. Văn ấy chép rằng : Xà hành pháp là những gì ? Nghĩa là làm việc ác sát sanh thì tay thường tanh hôi, cho đến mười điều bất thiện như Thuần Đà Tu Đa La. Nói chung, các điều ấy là thân xà hành, khẩu xà hành và ý xà hành. Thân, khẩu và ý của người kia làm việc như thế rồi, đọa ở trong hai đường ác : Địa ngục hoặc súc sanh.
4. Xà thằng ma :
Tức là do lấy ba loại: rắn, dây và gai bố để dụ cho ý nghĩa của ba tánh là biến kế sở chấp tánh, y tha khởi tánh và viên thành thật tánh. Biến kế sở chấp tánh dụ cho chấp trược có thật ngã , thật pháp rồi lầm hiểu thấy sợi dây cho là rắn. Quán ý tha khởi tánh để trừ bỏ cái chấp của ngã pháp, giống như biết là dây nên loại bỏ vọng kiến tưởng là rắn. Kiến viên thành thật tánh là tỏ được sự giả có của tánh y tha khởi, giống như biết sợi dây do gai mà làm thành, rốt lại trừ được sự hiểu lầm thấy dây cho là rắn.
5. Mộc xà :
Là lấy cây chạm trổ thành cái " trúc bề" có hình con rắn. Quyển 17, Cảnh Đức Truyền Đăng Lục chép : Thiền sư Sơ Sơn Quang Nhân tay đang nắm cái trúc bề có hình rắn (mộc xà) thì có vị tăng hỏi : "Trong tay là vật gì ?" Sư đưa lên nói rằng : "Tào Gia Nữ ". Tào Gia Nữ là tiếng gọi hàm dụ xứ Tào Khê, tức là chỉ cho Thiền tông cũng có thuyết cho rằng "Tào Gia Nữ "là thần thổ địa có thân hình như con rắn vậy !
6. Vô cấm tróc xà (không biết cách khống chế mà dám bắt rắn) :
Chữ " cấm" có nghĩa là ngăn chặn, tức muốn bắt rắn độc phải có phương pháp chế phục nó, tất dùng gậy sắt có nạng đè đầu trước, kế đến dùng tay nắm cổ nó. Nếu không làm theo phương pháp này, tùy tiện nắn lưng mà bắt thì sẽ bị rắn cắn chết. Lấy đây để dụ cho tỳ kheo nếu không có pháp để quán trí mà mạn đàm tán gẫu lý lẽ bông lông, buông lòng theo ngũ dục rốt cùng sẽ chịu khổ cùng cực, tự làm lao nhọc mình vậy ! Thế nên đừng hiểu lầm câu "vô cấm tróc xà" là " không cấm bắt rắn", làm mất đi ý nghĩa "cấm sát sanh" của Phật Đà dù đó là loài rắn độc.
7. Quy Tông trảm xà nhân duyên :
Là tên gọi của một công án Thiền tông, kể lại việc nhân duyên chém rắn của Thiền sư Qui Tông Trí Thường, hiển bày thiền cơ tự tại vô ngại. Trí Thường là pháp tự của Mã Tổ Đạo Nhất. Nguyên quán, năm sanh và năm mất của sư đều chưa rõ. Sư ở chùa Qui Tông (núi Lô), hoằng dương tông phong, sau khi thị tịch có thụy hiệu là " Trí Chân thiền sư ". Quyển 3, chương " Qui Tông Trí Thường" ở sách " Ngũ Đăng Hội Nguyên" chép : Sư đang dọn cỏ thì có ông tăng đến tham hỏi. Chợt có con rắn bò qua, sư lấy cái bừa chặt đứt con rắn. Tăng nói : "Từ lâu nghe danh Quy Tông, té ra chỉ là sa môn thô hạnh." Sư nói : "Ngươi thô hay ta thô ?" Tăng hỏi :" Thế nào là thô ?" Sư dựng bừa lên mà bảo rằng "Thế nào là tế ?" Rồi sư làm ra điệu bộ chém rắn, nói : "Cứ y theo việc này mà làm !" .Tăng hỏi "Thế nào là y theo đó mà làm ?" Sư đáp "Chuyện y theo đó mà làm, thôi hãy dẹp qua một bên, ngươi thấy ta chém rắn hồi nào ?" Tăng đớ lưỡi.
Xét trong công án này, ông tăng đến tham học chính là kẻ học nhân non kém, chỉ biết tập tành theo văn nghĩa của kinh điển, lâu dần rơi vào tệ nghiên cứu học lý, rồi nương theo sự trói buộc của lý giải văn nghĩa mà vẫn không tự biết, nên mới còn phân biệt thô , tế , thị phi , kiến giải đối lập mà hỏi sư Trí Thường. Còn phần sư Trí Thường chém rắn, giơ cao cái bừa, làm bộ thế chém rắn cho đến phủ nhận hành động trước đó qua câu: " Ngươi thấy ta chém rắn hồi nào ? " là biểu hiện cái hành của đạo Phật, chính là vượt qua cả chuyện thị phi, thiện ác, thô tế ... bặt dứt đối cảnh và kiến giải tương đối (theo quyển 5 "Tổ Đường Tập" và quyển 7 "Cảnh Đức Truyền Đăng Lục").
8. Nhất khiếp tứ xà :
Là chỉ cho một cái lồng mà đựng cả bốn con rắn độc, ví như trong thân thể con người do bốn đại (đất, nước, lửa và gió) hòa hợp mà thành. Quyển 3, kinh Đại Bát Niết Bàn chép : " Quán thân như lồng, đất , nước , lửa, gió như bốn con rắn độc : Nhìn độc, xúc chạm độc, phun hơi độc và cắn truyền nọc độc. Tất cả chúng sanh hễ gặp bốn thứ độc ấy là bị tán thân mất mạng. Bốn đại trong thân thể của chúng sanh cũng giống như thế : Nhìn ác, xúc chạm ác, hà hơi độc và cắn truyền độc. Đó là nhân duyên xa lìa các điều thiện, và cũng chính là lấy bốn đại để dụ chỉ cho bốn con rắn nhả ra chất độc vậy !
Bốn đại này xui làm ác hay khiến cho chúng sanh xa lìa các điều thiện, hại đến huệ mạng của mình. Thế nên quyển 22 Đại Trí Độ Luận chép : " Bốn đại trong thân thể con người, mỗi thứ đều hại nhau như người cầm lồng rắn độc. Là người trí, sao cho việc ấy an ổn được chứ ?" (quyển 43 kinh " Tạp A Hàm" và quyển 2 kinh " Đạt Ma Đa La Thiền").
9. Đầu rắn và đuôi rắn :
Một hôm, đuôi rắn bỗng chợt nói với đầu rắn rằng : " Mày nên đi sau, ta đi trước mới phải". Đầu rắn bèn nói: " Ta quen đi đằng trước, còn ngươi quen đi đằng sau thì làm thế nào bỗng dưng phải thay đổi vị trí chớ ?". Do đầu rắn cố chấp cho là mình ở đằng trước, đuôi rắn không chịu, bèn quấn vào một gốc cây. Cuối cùng, đầu rắn đi đâu cũng không xong. Nó không có cách chi khác, đành phải nhường đuôi rắn đi trước. Do đuôi rắn vì không có mắt để nhìn đường, nên vừa đi vừa mò, bèn lọt xuống hầm lửa. Kết cuộc, thân thể lập tức bị cháy thành than, thế là con rắn này cũng bị chết đi.
- Nghĩ cho cùng, rắn hay cắn mổ người hoặc các loài vật khác, chẳng qua là vì " tùy thuộc thể loại" chúng là thế, chứ thật ra con rắn nào có biết thiện ác là gì, vì chúng chỉ hành động theo bản năng. Vậy người tu học chúng ta nên có sự nhận thức về con rắn khác biệt hơn người thường, tức là vẫn không loại bỏ " Từ nhãn thị"(cái nhìn thương cảm) đối với chúng. Hơn thế nữa, thân này là vô thường, là ổ rắn độc, không biết nó mổ chúng ta ngày nào. Vì thế, ta phải nỗ lực tu tập để nếu lỡ một mai chúng có cắn ta chết đi thì cũng không bất ngờ. Cái nhìn của người tu Phật đối với rắn độc ở tự thân là thế đấy !
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét