Thứ Tư, 16 tháng 8, 2017

Ý Trinh ghi chép Phật Học Cơ Bản (quyển 10)




Ban Hoằng pháp Trung ương Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam
PHẬT HỌC CƠ BẢN
Chương trình Phật học Hàm thụ (1998-2002)
Nhà xuất bản Thành Phố Hồ Chí Minh

TẬP HAI




Phần II - Bài 2
Đại cương lịch sử Phật giáo Trung quốc
Thích Tâm KhanhA- Dẫn nhập

Nếu xem Phật giáo (PG) như một thực thể văn hóa - tôn giáo sống động góp phần tạo ra văn hiến - văn minh nhân loại thì chính vì lý do này đã khiến PG có nhiều khuôn mẫu, hình thái rất khác nhau trong mỗi thời đại lịch sử và ở mỗi quốc gia khác nhau. Từ nguồn cội Ấn Độ, PG đã theo dòng thời gian truyền đi khắp nơi. Cách đây hơn 2000 năm, PG đã có mặt tại Trung Quốc. Trên phương diện tổng quát, quá trình du nhập - phát triển của Phật giáo Trung Quốc (PGTQ) có liên hệ mật thiết với lịch sử phát triển PG của các nước trong khu vực, mà đặc biệt là PG Việt Nam. Do vậy, tìm hiểu về lịch sử PGTQ giúp chúng ta rất nhiều trong việc nghiên cứu lịch sử PG Việt Nam.
B- Nội dung
I- Phật giáo du nhập vào Trung Quốc
1)- Con đường du nhập của PG vào Trung Quốc:
Về mặt địa lý, PG đã theo chân các nhà sư truyền giáo Phạm Tăng được truyền đến Trung Quốc theo hai ngả đường là đường bộ và đường thủy. Về đường bộ, chủ yếu là hai con đường giao thông lớn: phía Bắc và phía Nam của các nước Tây vực. Về sau, giữa hai con đường trên, còn có con đường «Nhập Trúc cầu pháp« của ngài Pháp Hiển. Về đường thủy thì chủ yếu là từ các hải cảng ở tỉnh Quảng Đông (1).
2)- Niên đại du nhập:
Hiện nay, có rất nhiều thuyết khác nhau đề cập đến niên đại du nhập của PG vào Trung Quốc. Có hai thuyết đáng tin tưởng hơn cả là thuyết Khẩu truyền PG của Y Tồn được chép trong sách Ngụy thư Thích Lão Chí và thuyết Niên hiệu Vĩnh Bình năm thứ 10 (67 TL) chép trong sách Hậu Hán Kỷ và sách Phật Tổ Thống Kỷ.

- Theo thuyết thứ nhất thì PG được biết đến ở Trung Quốc sớm nhất cũng từ năm thứ 2 trước Tây lịch (niên hiệu Nguyên Thọ năm đầu - đời vua Ai Đế nhà Tiền Hán).

- Theo thuyết thứ hai thì PG có mặt ở Trung Quốc từ năm 67 Tây lịch (niên hiệu Vĩnh Bình năm thứ 10 - đời vua Minh Đế nhà Hậu Hán).
Từ hai thuyết trên, có thể nói PG được truyền vào Trung Quốc rất sớm, chủ yếu là theo hai con đường thủy - bộ từ phía Bắc và phía Nam của các nước Tây vực vào thế kỷ đầu Tây lịch.
II- Đại cương lịch sử phát triển của PGTQ
1)- Năm thời đại phát triển của PGTQ:
Trên đại cương, một số nhà nghiên cứu sử học PG hiện nay (2) đã theo những nét đặc trưng của quá trình hoạt động PG mà phân lịch sử phát triển của PGTQ thành 5 thời đạilà:

a/- Thời đại phiên dịch: từ khi PG bắt đầu truyền tới cho đến đầu đời Đông Tấn.

b/- Thời đại nghiên cứu: từ đầu đời Đông Tấn cho đến thời đại Nam - Bắc triều.

c/- Thời đại kiến thiết: từ đời Tùy đến đời Đường.

d/- Thời đại kế thừa: kể từ đời Ngũ đại đến đời nhà Minh.

e/- Thời đại suy vi: từ đời Thanh trở về sau.
Đến thời đại Trung Hoa Dân quốc thì nhiều phong trào chấn hưng PG nổi lên tạo cho PG Trung Hoa cận đại có nhiều bước phát triển.
2)- Các danh tăng và các sự kiện Phật giáo nổi bật của PGTQ qua 5 thời đại:

a/- Thời đại phiên dịch:
PGTQ thời kỳ này bao gồm PG ở các đời Hậu Hán (25-220 TL); Tam quốc (220-280 TL) gồm hai nhà Ngụy (220-265 TL), Ngô (222-280 TL) và Tây Tấn (265-317 TL).
PGTQ giai đoạn này chủ yếu lấy việc phiên dịch làm công tác Phật sự chính. Tuy ở mỗi triều đại, mức độ phát triển của PG có khác nhau, nhưng nhìn chung sự thành tựu của các công trình phiên dịch đã dần định hình, tạo tiền đề cho các công trình nghiên cứu ở thời đại sau. Trong thời đại này có các danh tăng kiệt xuất xuất hiện với các công trìnhphiên dịch giá trị như sau:
* Đời Hậu Hán (25-220 TL): Ca Diếp Ma Đằng (Kàsyapamátanga) và Trúc Pháp Lan(Dharmaraksa) là hai vị Tăng Ấn Độ đầu tiên đến Trung Quốc vào niên hiệu Vĩnh Bình năm thứ 10 (67 TL) thời vua Minh Đế Hậu Hán. Trong khi truyền đạo tại miền Bắc Ấn, hai Ngài đã sang Trung Quốc theo lời thỉnh cầu của phái đoàn 18 người do vua cử đến Tây Trúc tìm đạo. Khi hai Ngài tới Trung Quốc, vua Minh Đế rất tôn kính, vua cho dựng chùa Bạch Mã, là ngôi chùa đầu tiên ở Trung Quốc, để hai Ngài phiên dịch kinh điển. Tứ ThậpNhị Chương là bộ kinh đầu tiên được hai Ngài dịch tại chùa Bạch Mã.
Sau hai ngài Ca Diếp Ma Đằng và Trúc Pháp Lan, được sự ủng hộ của Sở Vương Anh - người em khác mẹ của Hán Minh Đế, nhiều vị Tăng và cư sĩ người Ấn khác cũng tới Trung Quốc và tiếp tục các công trình phiên dịch kinh điển từ tiếng Phạn (chủ yếu là Bắc Phạn, Sanskrit) sang Hán ngữ như ngài Trúc Phật Sóc (Sangha Buddha), cư sĩ An Huyền - người nước An Tức (Parthia), ngài Đàm Quả (Dharmaphàla) - người Tây vực... Nổi bật trong số đó là các ngài An Thế Cao (Arsakes) và Chi Lâu Ca Sấm (Lokaraksa), đến Trung Quốc vào đời vua Hoàn Đế cuối đời Hậu Hán. Đặc biệt, có ngài Nghiêm Phật Điều là vị tu sĩ người Trung Quốc đầu tiên tham gia vào công trình phiên dịch kinh điển. PG đã dần dần được phổ cập trong dân gian.
* Đời Tam quốc (220-280 TL): Sau đời Hậu Hán, Trung Quốc chia thành ba nước là Ngụy, Thục, Ngô. PG trong thời kỳ này phổ cập chủ yếu ở hai nước Ngụy và Ngô. Cũng như thời kỳ mới du nhập, các hoạt động PG ở thời kỳ này chủ yếu vẫn là các công trìnhphiên dịch kinh điển.
Ở nước Ngụy, có các bậc cao tăng có công phiên dịch và quảng bá giới luật đầu tiên là các ngài Đàm Ma Ca La (Dharmakàla) và ngài Đàm Đế. Bộ Tăng kỳ giới bản của ngài Đàm Ma Ca La và bộ Đàm vô đức Yết ma là hai bản giới pháp căn bản đầu tiên của người xuất gia. Tuy vào thời Hậu Hán đã có tu sĩ người Hán, nhưng người Trung Quốcđược thọ giới luật theo các pháp Yết ma đầu tiên lại là ngài Chu Sĩ Hành, người nước Ngụy. Cũng chính Ngài là Tăng sĩ Trung Quốc đầu tiên sang Tây vực để cầu pháp, là người mở đường cho các chuyến «nhập Trúc cầu pháp« của các thời đại sau này.
Các bậc cao tăng thạc học của PG nhà Ngô nổi bật là ngài Khương Tăng Hội và cư sĩChi Khiêm. Trước khi sang Ngô, ngài Khương Tăng Hội (Kang Seng-Hui) là một trong những vị Tăng sĩ Ấn Độ đã có công đưa PG vào Việt Nam (thời đó gọi là Giao Chỉ). Tác phẩm kinh điển của Ngài phiên dịch nổi bật còn lại đến ngày nay là Lục độ tập kinh, cũng là nguồn sử liệu giá trị cho việc xác định niên đại du nhập của PG Việt Nam (3).
* Đời Tây Tấn (265-317 TL): Theo bộ sách Khai nguyên Thích giáo lục, PG đời Tây Tấn có nhiều vị Tăng sĩ rất có công trong việc phiên dịch Tam tạng, nhưng nổi bật hơn cả là ngài Đàm Ma La Sát (Dharmaraksa - Hán dịch âm là Trúc Pháp Hộ).
Sau hơn 3 thế kỷ, PG đã phổ cập trong nhân dân. Các cơ sở vật chất của PG như chùa, tháp được xây dựng, số lượng Tăng Ni và tín đồ Phật tử tuy chưa nhiều nhưng đã đặt nền móng vững chắc cho các thời đại PG sau này. Nét đặc trưng chủ yếu của PGTQ thời đại này là các công trình phiên dịch kinh điển của các vị Tăng sĩ Ấn Độ cũng như Trung Quốc.

b/- Thời đại nghiên cứu:
Về phương diện lịch sử, thời đại PG này bao gồm trong hai thời đại lịch sử Đông Tấn và Nam - Bắc triều. Trong cả hai thời đại lịch sử này, PGTQ ngoài công tác phiên dịch, đã dần bước vào nghiên cứu những giáo nghĩa trong kho tàng kinh luận PG. Xu hướngnghiên cứu này được bắt đầu từ thời Đông Tấn. HT Thích Thanh Kiểm đã nhận định: «Trong thời đại Đông Tấn, PG đều được phát triển trên cả hai phương diện hình thức tín ngưỡng và tư tưởng giáo học. Vì trong thời đại này có nhiều bậc Phạm tăng từ Tây phương tới, lại có nhiều bậc cao tăng của Trung Quốc xuất hiện« (4).
Các bậc cao tăng của thời Đông Tấn có rất nhiều. Nổi bật là các ngài Phật Đồ Trừng(Buddhasimha), Đạo An, Cưu Ma La Thập (Kumarajiva), Đạo Sinh, Tăng Triệu, Tăng Duệ, Đạo Dong... của các nước Ngũ hồ ở phía Bắc Trung Quốc. PG nhà Đông Tấn ở phương Nam có các ngài Tuệ Viễn, Giới Hiền, Phật Đà Ba La (Buddhabhadra)... Về tổng quan, PGTQ thời đại này có các sự kiện nổi bật là:
* Phong trào «nhập Trúc cầu pháp«: Theo bước chân của ngài Chu Sĩ Hành của thời Tam quốc sang Tây vực học đạo, phong trào du học trong thời đại này đã phát triển khá mạnh với các vị nổi tiếng như ngài Pháp Hiển, ngài Trí Nghiêm, ngài Bảo Vân. Nhưng đáng kể nhất vẫn là ngài Pháp Hiển. Ngoài những kinh sách phiên dịch, tác phẩm Phật quốc ký (còn gọi là Cao tăng Pháp Hiển truyện) là bộ sách tư liệu PG sử đầu tiên của PGTQ.
* Giáo đoàn của PGTQ hình thành: Kể từ ngài Chu Sĩ Hành, vị Tăng sĩ thọ giới đầu tiên của PGTQ, đến thời Đông Tấn, số lượng Tăng sĩ đã phát triển rất nhanh và theo sau đó là sự gia tăng số lượng chùa cảnh. Đã có 1.768 ngôi chùa lớn với 23.000 Tăng Ni trong thời kỳ này. Các tổ chức Tăng đoàn do vậy cũng nhanh chóng được thành lập. Giáo đoàn PGTQ được hình thành đầu tiên là tổ chức giáo đoàn của ngài Phật Đồ Trừng và sau đó là của các ngài Thích Đạo An, ngài La Thập ở phía Bắc Trung Quốc. Về phương Nam có tổ chức giáo đoàn «Bạch Liên xã« của ngài Tuệ Viễn. Các chức vụ Tăng như Tăng chính, Tăng lục... cũng bắt đầu có trong thời kỳ này.
* Phiên dịch bốn bộ kinh điển trọng yếu và sự phát huy của giáo lý Đại thừa - nền tảng cho sự thành lập các tông phái: Có thể nói PGTQ là nơi triển khai mạnh mẽ tư tưởng Đại thừa PG. Các kinh luận thuộc hệ thống Đại thừa PG được phiên dịch và trở thành những bộ sách căn bản cho giới học Phật nghiên cứu. Trong thời PG Đông Tấn (kể cả 16 nước thuộc Ngũ hồ ở phương Bắc Trung Quốc), có 4 bộ kinh quan trọng được phiên dịch là kinh Bát Nhã (bao gồm đại phẩm Bát Nhã và tiểu phẩm Bát Nhã) và kinh Pháp Hoa do ngài La Thập dịch, kinh Đại Bát Niết Bàn do ngài Đàm Vô Sấm dịch, kinh Hoa Nghiêm do ngài Giác Hiền dịch. Các bộ luận liên quan đến Bát Nhã được dịch trong thời kỳ này là Đại Trí Độ luận, Trung luận, Thập Nhị Môn luận đều do ngài La Thập dịch. Các kinh luậnnêu trên cùng với một số kinh luận Đại thừa khác, sau khi phiên dịch đã là các tác phẩmy cứ cho tư tưởng Đại thừa và ảnh hưởng mạnh mẽ đến giáo nghĩa của các tông pháiPGTQ các thời kỳ sau.
PGTQ trong thời kỳ Nam - Bắc triều (420-588 TL) (5) tuy chịu nhiều thăng trầm do hai lần bị «phế Phật« vào đời vua Võ Đế - Bắc Ngụy và vua Võ Đế - Bắc Chu, cũng như các nghịch duyên về chiến tranh, nhưng nhìn chung PG vẫn phát triển về mọi phương diện từ tư tưởng - tín ngưỡng, tổ chức giáo đoàn và các mặt văn hóa vật chất như kiến trúc, điêu khắc, hội họa...
Các bậc danh tăng của Nam triều có các ngài Phật Đà Thập (Buddhajìva), Cương Lương Da Xá (Kàlayàsas), Câu Na Bạt Ma (Gunavarman), Cầu Na Bạt Đà La (Gunabhadra)... của nhà Tống. Ở nước Tề có các ngài Tăng Tuệ, Huyền Xướng, Tăng Già Bạt Đa La(Sanghabhadra)... Đến đời Lương, vua Lương Võ Đế rất thâm tín PG. Do vậy, PG ở Nam triều thịnh phát nhất trong giai đoạn này. Các bậc danh tăng trong và ngoài nước có rất nhiều như Trí Tạng, Pháp Vân và Tăng Mân đều là những bậc cao tăng người Trung Quốc .; Bồ Đề Đạt Ma (Bodhidharma), Tăng Già Bà La (Sanghapàla), Ba La Mật Đa(Paramàntha) tức ngài Chân Đế. Điểm đặc biệt là trong thời nhà Lương, nhiều bộ luận PG quan trọng cũng được dịch, giảng, và không khí nghiên cứu học thuật ấy còn được kéo dài cho đến PG đời Trần.
PG ở Bắc triều khá phát triển trong quảng đại quần chúng. Do ảnh hưởng của hai pháp nạn dưới thời vua Thái Võ Đế nước Bắc Ngụy (466 TL) và sau đó hơn 100 năm là của vua Võ Đế nước Bắc Chu (560 TL), nên sự phát triển của PG không có tính ổn định như PG Nam triều. Tuy vậy, không khí sinh hoạt của PG không vì thế mà bị tắc trệ. Hàng ngàn bậc danh tăng từ Tây vực và Ấn Độ vẫn đến Trung Quốc. Nhiều bộ kinh, luận được phiên dịch từ thời Đông Tấn hoặc trong đương đại đã trở thành kim chỉ nam lập tông cho các tông phái PG như Niết Bàn tông lấy giáo nghĩa kinh Niết Bàn làm chỗ y cứ, Thành Thật tông theo bộ luận Thành Thật để lập tông. Các tông phái PG khác cũng theo khuynh hướng trên mà thành lập như Tỳ Đàm tông, Tam Luận tông, Tịnh Độ tông, Địa Luận tông, Thiền tông...



Như vậy, có thể nói không khí nghiên cứu học thuật của PG dưới thời Nam - Bắc triều đã được nâng lên ở mức độ cao hơn và cũng phức tạp hơn. Đặc biệt là sự xuất hiện của Thiền tông do Sơ tổ Bồ Đề Đạt Ma với tuyên ngôn «bất lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền« (không dựa vào văn tự, chỉ truyền riêng ngoài giáo) thành lập. Điều này dường như phản ánh thái độ cách mạng tư tưởng của PG giai đoạn này. Bởi lẽ, khi nghiên cứuhọc thuật trong PG một khi đã trở thành lối mòn trí thức, gây nhiều tranh cãi luận lý, thiếu hẳn hơi thở của sự chứng nghiệm thì sự ra đời của tinh thần chú trọng vào thực nghiệm tâm linh của Thiền tông hẳn là hết sức cần thiết.
PGTQ thời Đông Tấn và Nam - Bắc triều đã phát triển khá mạnh về mặt nghiên cứu học thuật, thành lập tông phái và đặt nền tảng cho sự thăng hoa của PG trong các thời đạisau. Đến thời Tùy - Đường, sự ổn định trong cơ cấu kinh tế - văn hóa xã hội đã tạo điều kiện cho PG thực hiện những công trình Phật sự quan trọng.

c/- Thời đại kiến thiết:
Cuối thời Nam - Bắc triều, PG do ảnh hưởng của nạn «phế Phật« nên suy yếu trầm trọng. Bước sang đời nhà Tùy, được sự ủng hộ của các vị minh quân Tùy Văn Đế và Tùy Dạng Đế nên được phục hưng nhanh chóng. Sách Lịch sử Phật giáo Trung Quốc viết: «Ngay sau khi tức vị, vua (Văn Đế) hạ chiếu dựng chùa ở các danh sơn thuộc Ngũ Nhạc, và dựng một chùa công cộng lớn ở mỗi châu, gồm có 45 châu, đều lấy tên là «Đại Hưng Quốc«, công hứa cho dân gian được tự do đi xuất gia, nên số Tăng Ni đã có tới 100.000 người« (sđd, tr.135-136). Sau khi Văn Đế băng hà, tiếp nối truyền thống của vua cha, Tùy Dạng Đế cũng tận lực hưng long PG. Năm Khai Hoàng thứ 11 (năm 591 TL), vua thọ giới Bồ tát với ngài Trí Khải, tổ chức hội «Thiên Tăng trai« cúng dường cho 1.000 vị Tăng và sau đó đặt tên hiệu «Trí Giả Đại sư« cho ngài Trí Khải. Tông Thiên Thai (Pháp Hoa tông) do vậy cũng được hoằng truyền mạnh mẽ kể từ đời vua Tùy Dạng Đế. Các học phái, tông phái có từ trước như Tam Luận tông có từ thời Đông Tấn giờ đây được cách tân thành Tân Tam Luận tông do công của ngài Cát Tạng.
Các danh tăng của các học phái nổi bật là các ngài Đàm Thiên của Nhiếp Luận tông, ngài Đàm Diên, ngài Tuệ Viễn của Niết Bàn tông... Các công trình phiên dịch kinh tạngvẫn tiếp tục với các ngài Na Liên Đề Xá (Nàrendrayasas), Xà La Quật Đa (Jnanagupta) và Đạt Ma Cấp Đa (Dharmagupta). Đặc biệt PGTQ đời Tùy có các công trình biên soạnđể chỉnh lý những kinh điển đã phiên dịch từ trước như Chúng kinh mục lục, Lịch đại Tam bảo ký của các ngài Pháp Kinh, Phi Trưởng Phòng, Ngạn Tôn đều là các tư liệu rất giá trịcho việc nghiên cứu lịch sử PGTQ.
Từ nền tảng của PG nhà Tùy, PGTQ đời Đường đã phát triển vượt bậc. Có thể nói đây là thời kỳ PG phát triển mạnh mẽ nhất trong lịch sử PGTQ. Gần 300 năm (618-907 TL), PG được các đế vương bảo hộ nên nhiều bậc cao tăng thạc đức cũng xuất hiện tổ chức các tông phái PG mang tính quy củ ảnh hưởng không những trong đương đại mà còn đến tận các thời kỳ sau; không những trong phạm vi Trung Quốc mà còn quảng bá đến các nước khác như Nhật Bản, Triều Tiên, Việt Nam... Đó là Tịnh Độ tông của ngài Đạo Xước, Thiện Đạo; Nam Sơn Luật tông của ngài Đạo Tuyên; Pháp Tướng tông của ngài Huyền Trang và Từ Ân; Hoa Nghiêm tông của ngài Pháp Tạng; Thiền tông của ngài Thần Tú và Huệ Năng; Mật giáo của ngài Thiện Vô Úy, Kim Cương Trí và Bất Không. Sự nghiệpphiên dịch kinh điển và các tác phẩm trước tác của ngài Huyền Trang đã vượt quá khuôn khổ PG trở thành một công trình văn hóa - lịch sử của toàn nhân loại. Tác phẩm Đại Đường Tây vực ký (Tây du ký) của Ngài là nguồn tư liệu vô giá cho khoa văn bản học, văn hiến học... và các ngành khoa học lịch sử hiện nay. Có thể nói PGTQ kể từ đời Đường đã thoát ra khỏi các tư tưởng PG từ thời đại Đông Tấn và Nam - Bắc triều và phát triển thành một hệ tư tưởng mới mà về sau các ngài Nghĩa Tịnh, Bát Nhã, Thiện Vô Úy... kế thừa. Tuy nhiên, cuối đời Đường, do chịu pháp nạn Võ Tôn phế Phật (năm 842 TL) nên PG đã kém phát triển, không còn rực rỡ như các giai đoạn lịch sử PG sơ Đường và thịnh Đường trước đó.

d/- Thời đại kế thừa:
Sau thời kỳ PG toàn thịnh của đời Đường, PG ở các thời Ngũ đại (gồm Hậu Lương, Hậu Đường, Hậu Tấn, Hậu Hán, Hậu Chu), Tống, Liêu - Kim, Nguyên, Minh vẫn phát triển nhưng không được rực rỡ như trước. Chủ yếu tư tưởng của PG các thời đại lịch sử nêu trên là kế thừa các thành tựu của PG đời Đường. Lần thứ tư trong lịch sử PGTQ, PG lại gặp pháp nạn «phế Phật« vào đời Hậu Chu theo lệnh của vua Thế Tôn Anh Mại (năm 955 TL). Ngoài ra, xu hướng thoái hóa trong tổ chức giáo đoàn phần nào cũng tác độngkhiến PG thời đại này hầu như không tạo ra các giai đoạn thăng hoa tư tưởng nào như PG đời Đường. Tuy nhiên, có thể nói PG từ Ngũ đại đến đời Minh vẫn kế thừa được tư tưởng cơ bản của PG thịnh Đường. PG trong thời đại này có các sự kiện nổi bật như sau:
- Sau suốt 200 năm gián đoạn, kể từ đời vua Đức Tôn cuối nhà Đường, công tác phiên dịch kinh điển đến đời Tống lại được phục hưng. Dưới các triều đại Bắc Tống và sau đó là Nam Tống, PG đã tiến hành công trình khắc in Đại tạng kinh PG. Trong suốt đời Tống, tổng cộng có 5 lần khắc ván ấn hành Đại tạng kinh. Bản Đại tạng kinh (thục bản) khắc vào năm Thái Bình Hưng Quốc thứ 8 (năm 983 TL) là bộ Đại tạng kinh lịch sử đầu tiên của PGTQ.
Về sinh hoạt của các tông phái PG thì trong các tông phái PG có từ trước, chỉ Thiền tôngvẫn duy trì và phát triển qua các thời kỳ lịch sử. Các tông phái còn lại vẫn hiện diệnnhưng không đạt đến tầm vóc quốc tế như Thiền tông. Đến đời Nguyên - Minh, Lạt Ma giáo của Mật tông Tây Tạng trở thành tông phái chính và có ảnh hưởng khá mạnh trong xã hội. Vào đời nhà Minh, Đại tạng kinh Tây Tạng cũng truyền vào và được chuyển ngữsang chữ Hán. Tuy nhiên, chính do khuynh hướng quá chú trọng các hình thức lễ nghi và biểu tượng hư ảo cộng thêm sự thoái hóa trong tổ chức giáo đoàn đã khiến PG thời đạiNguyên - Minh dần dần thu hẹp sự phát triển và khởi đầu cho thời đại suy vi của PG trong các giai đoạn sau.

e/- Thời đại suy vi và công cuộc chấn hưng Phật giáo của Thái Hư Đại sư:
Trong 12 đời vua nhà Thanh từ Thế Tổ Hoàng đến đời vua cuối cùng là vua Tuyên Thống, suốt gần 250 năm (1622-1911 TL), PG vẫn được xem như tôn giáo chính thống. Trong các đời vua Thế Tổ Thuận Trị, Thánh Tổ Khang Hy, Thế Tôn Ung Chính và Cao Tôn Càn Long, tông phái PG được chú trọng đặc biệt là Lạt Ma giáo (Mật tông). Thiền tông và Tịnh Độ tông là hai tông phái còn có ảnh hưởng trong quần chúng. PG dưới thời bốn vị vua trên đã có một số công trình Phật sự quan trọng mà nổi bật nhất là công tác ấn hành và xuất bản Đại tạng kinh. Vào đời Thanh có ba bản Đại tạng kinh được khắc in là Tục tạng kinh vào đời vua Khang Hy, Long tạng bản khắc in kéo dài trong hai đời vua Thế Tôn Ung Chính và Cao Tôn Càn Long; Mãn Châu văn Đại tạng kinh là bản Đại tạng kinh Hán được chuyển ngữ sang chữ Mãn Châu, cũng hoàn thành trong thời vua Càn Long. Trong ba bản Đại tạng kinh trên, hai bộ đầu được xem là có nhiều giá trị nghiên cứu.
Tình hình giáo đoàn PG dưới thời nhà Thanh tuy đông đảo về số lượng tự viện và Tăng Ni, nhưng về thực chất, tổ chức giáo đoàn khá lỏng lẻo, việc độ người xuất gia tùy tiện khiến cho PG rơi vào tình hình «có lượng mà không chất«. Sách Lịch sử Phật giáo Trung Quốc viết: «Riêng về giáo học của PG thì không có gì phát triển mới lạ, chỉ là duy trì các học thuyết của tiền nhân. Trong giới PG lại không có nhân tài xuất hiện, Tăng Ni không có chí hoằng pháp. Hơn nữa, PG lại bị tai nạn phá hủy của loạn «Thái Bình thiên quốc« nên PG ở đời nhà Thanh đã bước xuống dốc suy vi« (6).
Sau loạn Thái Bình thiên quốc, ngày 25-12-1911, Cách mạng Tân Hợi thành công đã mở ra một thời đại mới cho nhân dân Trung Quốc, PG cũng theo đó mà có cơ hội phục hưng. Ngay từ năm 1912, Hiệp hội Trung Quốc PG Tổng hội được thành lập tại Thượng Hải; năm 1913, Trung ương PG Công hội cũng ra đời tại Bắc Kinh. Tuy nhiên, mãi đến năm 1924, sự nghiệp vận động hộ pháp mới bắt đầu phát triển mạnh mẽ do công lao của các ngài Thái Hư, Ấn Quang, Đế Nhàn, Đạo Giai, Viên Anh, Nhân Sơn, Vương Nhất Đình, Đại Bi... Đến tháng 8-1931, PG mới chính thức được sự bảo hộ của Chính phủ. Kể từ đó, PGTQ nhanh chóng được phục hưng về mọi phương diện, từ tổ chức giáo đoàn, tông phái đến các công trình Phật sự kiến thiết, trùng tu danh lam, văn hóa học thuật, xuất bản Đại tạng kinh... Công cuộc vận động phục hưng PGTQ không những thành côngtrong nước mà còn ảnh hưởng sâu rộng đến PG trên thế giới. PG Việt Nam cũng do đó mà thành lập nhiều tổ chức hội đoàn PG - Phật học trên cả ba miền Bắc, Trung, Nam.


C- Kết luận
Lịch sử PGTQ trên phương diện lịch đại đã trải qua nhiều thăng trầm biến đổi. Như lớp sóng sau phủ lên lớp sóng trước, các giai đoạn PG đi sau luôn kế thừa, phát huy những thành tựu của các giai đoạn PG trước đó tuy mức độ đậm nhạt có khác nhau. Có thể nói PGTQ từ thời đại phiên dịch đến thời đại kiến thiết đã từng bước đạt đến đỉnh cao mà thời kỳ rực rỡ nhất là triều đại nhà Đườâng. Từ thời đại kế thừa trở về sau, PGTQ cũng đã duy trì được các thành tựu PG trong các thời kỳ trước đó. Tuy nhiên, đến đời Thanh, ngoài công trình Phật sự đáng chú ý nhất là công tác in ấn xuất bản Đại tạng kinh, sự vắng mặt của các bậc cao tăng khiến cho công tác quản lý và công tác tổ chức Tăng đoàn lỏng lẻo. PGTQ thời kỳ này dường như đánh mất vị trí trong lòng người dân. Sự suy vi của PG do vậy là điều không tránh khỏi. Các phong trào chấn hưng trong những thập niên đầu thế kỷ XX của Thái Hư Đại sư đã đem lại cho PGTQ luồng sinh khí mới. Từ đó đến nay, theo khuynh hướng ấy, PGTQ đã được phát triển nhanh chóng và trở thành một tôn giáo có tầm ảnh hưởng rất quan trọng trong đời sống tinh thần của nhân dân Trung Quốc./.
-oOo-
* Chú thích:
(1) Theo ý kiến của các học giả nghiên cứu sử PGVN hiện nay, PG đã du nhập vào trung tâm Luy Lâu - Giao Chỉ (Việt Nam hiện nay) rất lâu trước khi truyền sang trung tâm Bành Thành và sau đó là trung tâm Lạc Dương của nhà Hán.
(2) Thích Thanh Kiểm, Lịch sử Phật giáo Trung Quốc, TP HCM, 1991, tr.6-7.
(3) Xem Lục độ tập kinh và Lịch sử khởi nguyên dân tộc ta, Lê Mạnh Thát, 1972.
(4) Lịch sử Phật..., sđd, tr.47.
(5) Nam triều gồm các nước Tống (420), Tề (479), Lương (502), Trần - Tùy (589). Bắc triều có các nước Bắc Ngụy (439), sau chia thành Đông Ngụy (534) và Tây Ngụy (535). Kế tiếp triều Đông Ngụy là Bắc Tề (550), kế tiếp triều Tây Ngụy là Bắc chu (536). Về sau, Bắc Chu thôn tính Bắc Tề nhưng cuối cùng bị nhà Tùy diệt vong.
(6) Lịch sử Phật..., sđd, tr.271.
* Giới thiệu sách đọc thêm:
1- Lịch sử Phật giáo Trung Quốc, tác giả Thích Thanh Kiểm, Thành hội PG TP HCM xuất bản, 1991.
2- Lịch sử Phật giáo thế giới, tập I (nguyên tác: Thế giới Phật giáo thông sử, tác giảThích Thánh Nghiêm, Việt dịch: Trung tâm Tư liệu Phật học - Phân viện Nghiên cứu Phật học Hà Nội), Nxb Hà Nội, 1995 (xem Chương VII, từ tr.450 đến tr.461).




Câu hỏi hướng dẫn ôn tập
1- Trình bày khái quát các thời đại phát triển của PGTQ.
2- Trình bày và nhận định ngắn gọn các nguyên nhân chính đưa Phật giáo đời Đường phát triển đến mức toàn thịnh (học viên có thể tham khảo các sách, tư liệu khác để trả lời).





Source: Nguyệt san Giác Ngộ, Sài Gòn, 1999-2000



Phần II - Bài 3
Sơ lược lịch sử hình thành và phát triển
các tông phái Phật giáo Trung Quốc
Thích Tâm KhanhA- Dẫn nhập

Từ Ấn Độ du nhập vào Trung Quốc, Phật giáo đã nhanh chóng hòa nhập vào các hệ tư tưởng văn hóa - tôn giáo bản địa. Trong quá trình du nhập, hình thành và phát triển có thể nói Phật giáo Trung Quốc đã tạo ra bản sắc riêng so với nguồn cội Ấn, đồng thời đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến hệ thống tư tưởng - văn hóa Trung Quốc. Công lao ấy thuộc về các bậc cao tăng của nhiều thế hệ Phật giáo Trung Quốc.Đây là ý kiến nhận định chung của các nhà nghiên cứu văn hóa - tư tưởng Trung Quốc: Giáo sư Zenryu Tsukamoto trong tác phẩm The Path of the Buddha đã nhận định: «Chính nhiều các thế hệ thiền sưtrong nỗ lực truyền giáo đã đưa tư tưởng và nghệ thuật Phật giáo vào trong nền văn hóaTrung Quốc và đem lại sự thay đổi vĩ đại trong văn hóa, triết học, văn học, nghệ thuật và ngay cả trong các tập tục truyền thống của dân tộc Trung Quốc« (1).
B- Nội dung
I. Phật giáo và Nho gia: sự tiếp xúc của hai nền văn hóa Á Đông
Văn hóa Trung Quốc và Ấn Độ là hai nguồn tư tưởng văn hóa tối cổ của Á Đông. Trước khi Phật giáo, đại diện cho luồng tư tưởng văn hóa Ấn Độ có mặt tại Trung Quốc thì ngay tại bản địa đã hình thành nền văn hóa khá cao.Trong hệ tư tưởng lúc bấy giờ, Nho giatheo tư tưởng hiện thực «lễ nghi chủ nghĩa« được xem là hệ tư tưởng chủ đạo. Tư tưởngNho gia được khởi đầu từ thời Xuân Thu -Chiến Quốc (kéo dài từ 722 - 221 TTL) với các học thuyết của Bách gia chư tử và hoàn thiện trong khoảng 400 năm thời kỳ nhà Hán. Từ khi Phật giáo Ấn Độ và Tây Vực được truyền tới Trung Quốc vào cuối đời Hậu Hán, có thể nói đây là thời điểm tiếp xúc đầu tiên của hai nền văn hóa Á Đông. Dân tộc Trung Quốc theo tinh thần hiện thực của tư tưởng Nho gia tiếp nhận Phật giáo, và do vậy ngay từ đầu Phật giáo ở Trung Quốc đã có những nét đổi thay so với cội nguồn Ấn Độ mà biểu hiện rõ là sự hình thành và phát triển của các tông phái Phật giáo.
II. Sơ lược lịch sử hình thành và phát triển của các tông phái Phật giáo Trung Quốc
Khác với Phật giáo Ấn Độ, quá trình hình thành và phát triển các tông phái Phật giáo Trung Quốc luôn đi liền với công tác phiên dịch thánh điển. Theo quá trình phiên dịch, các tông phái Phật giáo Trung Quốc thường y cứ và cổ xướng theo tư tưởng của kinh luận để lập tông.Tuy quá trình phân phái và lập tông đã manh nha từ thời Đông Tấn nhưng hoàn chỉnh việc lập tông thì rõ nét nhất là ở thời đại Nam - Bắc triều. Theo nhận định của các nhà Phật học như Thích Thanh Kiểm trong «Lịch sử Phật giáo Trung Quốc« và J. Takakusu trong «The Essentials of the Buddhism Philosophy« (Các tông phái Phật giáo, bản Việt dịch của Tuệ Sỹ), chúng ta có thể phác thảo sơ lược lịch sử hình thành và phát triển của các tông phái Phật giáo Trung Quốc như sau:
1. Tỳ Đàm tông (Câu Xá tông):
Tỳ Đàm (nói đủ là A Tỳ Đàm) là tên gọi tắt của Trung Hoa về Abhidharma. Trước khi luận Câu Xá (Abhidharma Kosa) được dịch sang Hán ngữ thì đã có một học phái mệnh danh là Tỳ Đàm tông. Người đầu tiên nghiên cứu về A Tỳ Đàm là Ngài An Thế Cao ở đời Hậu Hán. Các tác phẩm của A Tỳ Đàm được dịch sang Hán ngữ rất sớm trong giai đoạn từ 383 đến 434 TL như «A Tỳ Đàm Cửu Thập Bát Kết Kinh« của Ngài An Thế Cao, «A Tỳ Đàm Tâm Luận«, «A Tỳ Đàm Bát Kiền Độ Luận«...của Ngài Tăng Già Đề Bà đời Tiền Tần. Các học giả thuộc Tỳ Đàm tông nổi bật có thể kể đến là các Ngài Huệ Tập, Tăng Mân, Pháp Vân,Tăng Tung... Tuy nhiên, khi Luận Câu Xá của Ngài Thế Thân được Ngài Chân Đế (Paramartha) dịch sang Hán ngữ từ năm 563-567 TL, sau đó là Ngài Huyền Trang dịch từ 651-654 TL và được truyền bá rộng rãi thì Tỳ Đàm tông được thay thế bằng Câu Xá tông.
2. Thành Thật tông:
Tông này được lập và cổ xướng từ thời Ngài La Thập theo tư tưởng của Luận Thành Thật (Satyasiddhi), một bộ luận thuộc Tiểu thừa Phật giáo.Bộ luận này do Ngài Ha Lê Bạt Ma (Harivarman) viết và được Ngài Cưu Ma La Thập (Kumàrajìva) chuyển sang Hán ngữ thật sớm,vào 411-412 TL.Kể từ thời Ngài La Thập về sau, không khí nghiên cứu học thuật của Thành Thật tông được phát triển nhanh chóng.Trong khoảng từ 411 đến 498 TL đã có hơn 12 bộ sớ giải của các môn đồ Ngài La Thập viết về Luận Thành Thật và đã có: «Hàng trăm buổi giảng thuyết về bản văn này được truyền bá khắp Trung Hoa« (2). Đến đời Lương (502-507) thì Thành Thật tông phát triển cực thịnh và được phổ biến rộng rãivới công lao của ba ngài Pháp Vân, Trí Tạng và Tăng Mẫn. Trong giai đoạn này, Thành Thật tông được xem là khuynh hướng Đại thừa. Thế nhưng, vào đời Tùy, kể từ khi Ngài Gia Tường Đại Sư Cát Tạng nhận định Thành Thật luận là bộ luận thuộc Tiểu thừa Phật giáo thì Thành Thật tông bắt đầu kém phát triển. Đến đời Đường, Ngài Đạo Tuyên tuyên bố luận Thành Thật thuộc kinh Lượng bộ,một tông phái Ấn Độ được xem là tiểu thừa, thì Thành Thật tông bước vào thời kỳ suy vi và không còn phát triển ở các thời kỳ sau đó.
3. Nhiếp luận tông (Pháp tướng tông):
Nhiếp luận tông (Samparigraha) là tiền thân của Pháp tướng tông (Dharmalaksana). Nhiếp luận tông được thành lập từ khi Ngài Chân Đế (499-569) dịch và giảng về bộ Nhiếp Đại Thừa luận (Mahàyànasamparihraha) Nhiếp Đại Thừa Luận do Ngài Vô Trướcviết vào thế kỷ V (được Ngài Thế Thân chú giải) là bộ luận đầu tiên phát biểu học thuyếtDuy thức. Ngài Phật Thủ (Buddhasanta) dịch bộ luận này sang Hán văn lần đầu vào năm 531 TL, nhưng kể từ khi bản dịch của ngài Chân Đế vào năm 563 hoàn thành và do nỗ lực truyền bá của Ngài thì Nhiếp Luận tông mới chính thức phát triển tại phía Nam Trung Quốc.Sau khi Ngài Chân Đế viên tịch, do công lao của ngài Đàm Thiên nên tông pháinày cũng dần dần phát triển ở phía Bắc Trung Quốc. Đến đời Đường, Ngài Huyền Trangđã dịch lại hai bản «Nhiếp Đại thừa luận« và «Nhiếp Đại thừa luận thích«, đồng thời theo học thuyết «Thành Duy Thức luận « của Ngài Hộ Pháp mà thành lập và truyền giảng tư tưởng Duy Thức.Đệ tử Ngài Huyền Trang là Ngài Khuy Cơ là người có công hệ thốnghóa và chính thức thành lập nên Pháp tướng tông. Hai sáng tác quan trọng của Ngài: «đại thừa Pháp Uyển Nghĩa Lâm Chương« và «Thành Duy Thức luận thuật ký« là căn bản của tông phái này. Nhiếp luận tông kể từ đời Đường đã được hòa nhập vào Pháp tướng tông.
4. Tam Luận tông:
Tam luận là ba bộ Trung luận, Bách luận và Thập nhị môn luận. Lịch sử của tam luận bắt đầu ở Trung Quốc với sự xuất hiện của Ngài Cưu Ma La Thập. Ngài là người có công phiên dịch cả ba bộ luận trên sang Hán ngữ. Quá trình truyền thừa của Tam luận tôngbắt đầu từ thời Ngài Cưu Ma La Thập và được phân thành hai giai đoạn:
- Giai đoạn 1: Giai đoạn này được sử Phật giáo Trung Quốc gọi là «Cổ Tam luận tông« gồm các Ngài Cưu Ma La Thập, Đạo Sinh, Đàm Tế, Đạo Lãng (Tăng Lãng), Tăng Thuyên, Pháp Lãng.Trong đó, Ngài Tăng Lãng là người có công tách hẳn Tam luận tôngkhỏi ảnh hưởng của Thành Thật tông, và Tam luận tông kể từ Ngài Tăng Lãng đã có một nền móng thật sự.
- Giai đoạn 2: là giai đoạn truyền thừa của Ngài Cát Tạng. Ngài ngụ ở chùa Gia Tường nên thường được gọi Gia Tường Đại Ar Cát Tạng. Ngài đã trước tác và biên soạn nhiều khá nhiều tác phẩm. Trong đó có 3 tác phẩm Tam Luận sớ, Tam Luận Huyền Nghĩa và Đại thừa Huyền Luận đã đem lại một cái nhìn mới cho tông Tam luận. Do vậy, Tam Luận tông trong thời kỳ của Ngài Cát Tạng được gọi là «Tân Tam Luận tông«.
Cả hai giai đoạn trên kéo dài trong hai thế kỷ thứ V và VI TL.Tuy nhiên, khi Pháp Tướng tông hưng khởi do công của các Ngài Huyền Trang và Khuy Cơ thì Tam Luận tông tại Trung Quốc đã không còn phát triển như trước mà được truyền sang và quảng bá tại Nhật Bản do công Ngài Tuệ Quán (người Cao Ly) và sau đó là Phúc Lượng (người Nhật Bản).Tam Luận tông bắt đầu có mặt tại Phật giáo Nhật Bản từ thế kỷ thứ XII.
5. Hoa Nghiêm tông:
Khai tổ chính thức của Hoa Nghiêm tông là ngài Đỗ Thuận (551-640).Pháp danh của Ngài là Pháp Thuận nhưng vì Ngài họ Đỗ nên thường được gọi là Đỗ Thuận. Tuy nhiên, trước khi Hoa Nghiêm tông chính thức được thành lập ở đời Đường thì tại Trung Quốc đã có hai học phái là Niết Bàn tông và Địa Luận tông.
Niết Bàn tông là học phái y cứ trên nội dung của kinh Niết Bàn. Địa Luận tông là học pháichuyên nghiên cứu và truyền giảng trên tinh thần và nội dung của tác phẩm «Thập Địa Kinh Luận«, bản luận giải của Ngài Thế Thân về kinh Thập Địa (Dasabhumi sutra) vốn là một bộ phận của Kinh Hoa Nghiêm.Về sau do có nhận thức, giải thích khác nhau về các chủ đề tư tưởng trong hai bộ kinh luận trên nên cả Niết Bàn tông và Địa Luận tông đều được phân thành hai dòng phía Bắc và phía Nam. Các nhóm học giả của «Bắc phái Niết Bàn« cũng như «Nam phái Thập địa« về sau đều hòa nhập vào tông Hoa Nghiêm. Các bậc cao tăng trong phổ hệ truyền thừa của Hoa Nghiêm tông của Phật giáo Trung Quốctiếp theo Ngài Đỗ Thuận là các Ngài Trí Nghiễm (602-668), Nghĩa Tương (625-702), Pháp Tạng (643-712), Trừng Quán (738-839), Tôn Mật (780- 841). Trong các vị trên, Pháp Tạng là người có công rất lớn trong việc hệ thống hóa toàn vẹn nền triết học Hoa Nghiêm. Có thể nói Hoa Nghiêm tông trở thành một tông phái đích thực là do công laocủa Ngài.
6. Thiên Thai tông (Pháp Hoa tông):
Thiên Thai là tên một hòn núi ở tỉnh Thai Châu miền Nam Trung Quốc. Suốt trong hai thời đại Trần và Tùy, Ngài Trí Khải (531-597) trú ở núi này và xiển dương kinh Pháp Hoa. Tông phái do Ngài thành lập do vậy có tên Thiên Thai tông hoặc Pháp Hoa tông. Trước Ngài Trí Khải, kinh Pháp Hoa vốn đã là bộ kinh được nghiên cứu rất kỹ ngay sau khi Ngài La Thập phiên dịch xong bộ kinh này, gồm 7 quyển - 27 phẩm, vào năm 406 TL. Về sau, Ngài Pháp Hiển từ Ấn trở về đã phiên dịch và bổ sung thêm phẩm Đề Bà Đạt Đa vào nên mới có 28 phẩm. Trong giai đoạn đầu, quá trình hình thành giáo nghĩa của Pháp Hoa tông có liên hệ tới việc nghiên cứu của Ngài Huệ Văn (505-577) về tư tưởng: «Không - Giả - Trung trong Đại Trí Độ luận. Ngài đã dựa theo đó mà lập tư tưởng: «Nhất tâm tam quán« (3). Phương pháp quán niệm này được truyền bá mạnh do công của đồ đệ Ngài là Ngài Huệ Tư (514-577). Đồng thời Huệ Tư còn đề ra pháp tu thiền quán theo tư tưởng«chỉ quán nhất như«, tức chủ trương việc kiêm tu định và huệ. Tuy nhiên, chỉ khi truyền đến Ngài Trí Khải thì giáo nghĩa Thiên Thai tông mới chính thức được kiện toàn. Kể từ đấy tông này mới được gọi là Thiên Thai tông. Từ pháp tu quán «Nhất tâm tam quán«, Ngài Trí Khải đề ra một pháp tu quán mới là «Nhất niệm tam thiên« (4). Sự nghiệp trước tác, chú sở của Ngài Trí Khải là một công trình đồ sộ, nhưng nổi bật là ba bộ sách Pháp Hoa Văn Cú, Pháp Hoa Huyền Nghĩa và Ma Ha Chỉ Quán; giải thích rõ ràng về yếu nghĩa kinh Pháp Hoa.Về sau ba bộ này được Ngài Quán Đảnh (561-632), đệ tử truyền thừacủa Ngài Trí Khải soạn tập và thường được gọi là «Pháp Hoa Tam Đại Bộ«.Sau khi Ngài Quán Đảnh viên tịch, do sự ảnh hưởng mạnh mẽ của các tông phái khác như PhápTướng, Hoa Nghiêm,Thiền và Chân Ngôn nên Thiên Thai tông đã suy yếu dần. Đến thế kỷ thứ VIII, Thiên Thai tông được phục hưng do công của Ngài Trạm Nhiên (717-782) và sau đó được Ngài Đạo Toại, đồ đệ của Ngài Trạm Nhiên dạy cho Ngài Tối Trừng (người Nhật).Thiên Thai tông chính thức được truyền sang Nhật Bản kể từ Ngài Tối Trừng.
7- Mật tông (Chân Ngôn tông):



Chân Ngôn dịch nghĩa Phạn ngữ «Mantra«, nghĩa là «Bí mật giáo«, giáo pháp không thể phát hiểu bằng những ngôn ngữ thông thường. Chân Ngôn tông hay Mật tông phát xuất từ Ấn Độ và được truyền tới Trung Quốc khá muộn. Vào thời Đông Tấn, tuy đã có một vài bản kinh tiếng Phạn được các vị Tăng Ấn Độ như Ngài Cát Hữu (Srimitra), Ngài Bạch Thi Lê Mật Đa La dịch sang Hán ngữ như Đại Quán Đính kinh, Khổng Tước Vương Kinh...và rải ráác các bài thần chú trong các kinh điển, nhưng đó không phải là thuần túy Mật giáo.Phải đến đời Đường (618-907) thì Mật tông mới chính thức du nhập vào Phật giáo Trung Quốc, khởi đầu với sự hiện diện của ba đại học giả Ấn Độ là Ngài Thiện Vô Úy(Subhakarasimha, 637-735), Ngài Kim Cương Trí (Vajrabodhi, 671-741), Ngài Bất Không(Anoghavajra,705-774). Bộ kinh căn bản của Mật tông là bộ Đại Nhật kinh được Ngài Thiện Vô úy dịch sang Hánngữ với sự trợ giúp của đệ tử là Ngài Nhất Hành (cũng là đệ tử của Ngài Kim Cương Trí, 638-727).
Sự truyền thừa của Mật tông tại Trung Quốc tương đối giản đơn hơn các tông phái khác. Tuy vậy, tông này lại rất được các triều vua Đường: Huyền Tông, Túc Tôn, và Đại Tôn ủng hộ.Đặc biệt là Ngài Bất Không đều được ba đời vua trên trọng đãi. Các công trìnhphiên dịch kinh điển Mật tông được tiến hành với qui mô đồ sộ.Theo sử Phật giáo Trung Quốc, Ngài Bất Không cùng với các ngài La Thập, Chân Đế và Huyền Trang được gọi là «bốn nhà đại phiên dịch« của Phật giáo Trung quốc. Không những trong Phật giáo mà Mật tông còn ảnh hưởng đến nhiều lĩnh vực trong nền văn hóa Trung Quốc như điêu khắc, kiến trúc, hội họa...Tuy nhiên, do chịu ảnh hưởng của nạn Võ Tôn phế Phật vào cuối đời Đường (5) nên Mật tông của Phật giáo Trung Quốc bị suy yếu trầm trọng nhưng lại được truyền sang Nhật Bản do thầy trò hai ngài Huệ Quả (người Trung Quốc, đệ tửNgài Bất Không) và Không Hải (người Nhật Bản theo học với Ngài Huệ Quả). Ngài Không Hải là người sáng lập ra «Chân Ngôn tông« của Phật giáo Nhật Bản.
8. Thiền tông:
Trong các tông phái Phật giáo Trung Quốc, Thiền tông là tông phái có tầm ảnh hưởngquan trọng nhất đối với toàn bộ hệ thống tư tưởng Phật giáo Trung Quốc từ đời Đường trở về sau.Đây là nhận định chung của hầu hết các nhà nghiên cứu Phật học hiện nay. Nếu xét từ cội nguồn thì hai phái chính trong hệ thống Thiền tông là Như Lai Thiền và Tổ Sư Thiền. Như Lai Thiền được xem là phương pháp tu thiền có cội nguồn từ Phật giáoẤn Độ, trong khi Tổ Sư Thiền lại có khuynh hướng được xem là sáng tạo riêng của Phật giáo Trung Quốc và khởi nguyên với sự hiện diện của Ngài Bồ Đề Đạt Ma. HT Thích Thanh Kiểm viết: «Ở Trung Quốc, đời Hậu Hán, Ngài An Thế Cao đã thông đạt thiền kinh và đã thực hành về Tiểu thừa Thiền.Nhưng tới khi Ngài La Thập dịch kinh «Tọa Thiền tam muội« và sau đó Ngài Phật Đà Bạt Đà La (Giác Hiền) dịch «Đạt Ma Đa La Thiền kinh« thì thời đại cơ vận Đại thừa Thiền được nhanh chóng lưu hành. Trong tình thế ấy, lại xuất hiện một hệ thống Thiền của Tổ Bồ Đề Đạt ma và trở thành nền tảng cho Thiền tông các đời sau« (6).
Bồ Đề Đạt Ma (Bodhidharma) là thái tử thứ 3, con vua Kancipura xứ Nam Ấn. Theo lời dạy của thầy là Ngài Bát Nhã Đa La (Prajnàtara), Ngài sang Trung Quốc vào đời Lương ,khoảng năm 470-520 TL (7). Theo phổ hệ truyền thừa của Thiền tông Ấn Độ, từ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đến đời Ngài là thứ 28, nhưng Ngài được xem là người khai sáng của phổ hệ truyền thừa Thiền tông Trung Quốc gồm; 1/Bồ Đề Đạt Ma. 2/Huệ Khả (? - 593) 3/ Tăng Xán (?-606) 4/ Đạo Tín (580-651) 5/ Hoằng Nhẫn (602-675). Bắt đầu từ Ngài Hoằng Nhẫn, Thiền tông Trung Quốc đã bắt đầu phát triển cực mạnh với sự truyền giảng của hai ngài Thần Tú (605-706) và Huệ Năng (được xem là Tổ thứ 6 của Thiền tông Trung Quốc, 638-713). Ngài Thần Tú truyền giáo ở phương Bắc nên dòng thiền này gọi là dòng thiền Bắc tông.Tương tự dòng thiền của Huệ Năng được gọi là dòng thiền Nam tông.Thiền Bắc tông chủ trương giáo pháp tiệm ngộ (sự bừng sáng của trí tuệ giải thoát có được theo quá trình tu tập thứ lớp) nên được gọi là «Bắc tiệm«.Trong khi đó, Thiền Nam tông lại có mục tiêu đốn ngộ (giác ngộ ngay, không theo thứ lớp) nên được gọi là «Nam đốn«.Trong các thời đại sau đó,thiền phái của Ngài Huệ Năng phát triển rất mạnh và phân thành 5 tôn là Lâm Tế, Quy Ngưỡng, Tào Động, Vân Môn và Pháp Nhãn. Lâm Tế tôn sau lại chia thành hai phái là Hoàng Long và Dương Kỳ. Năm tôn trên, thêm vào hai phái sau thường được sử viết là «Ngũ gia thất tôn«.
Vào các thời đại Nguyên, Minh, Thanh, trong khi một số tôn phái khác bị suy thoái dần do sự du nhập và phát triển mạnh mẽ của Lạt ma giáo Tây Tạng thì Thiền tông lại trở thànhtông phái phổ biến nhất. Từ Trung Hoa Dân Quốc đến nay, Thiền tông vẫn là một tông phái chủ đạo của Phật giáo Trung Quốc.
9. Tịnh Độ tông:
Tịnh Độ tông là tông phái cùng với Thiền và Mật tông có ảnh hưởng trong Phật giáo Trung Quốc hiện nay.Tịnh Độ tông là tông phái chủ trương pháp môn «Vãng sanh Tịnh Độ«. Pháp môn tu Tịnh Độ ở Trung Quốc khởi thủy từ khi Ngài Tuệ Viễn lập ra hội «Bạch Liên xã« ở Lư Sơn vào đời Đông Tấn, chủ trương quán tưởng niệm Phật, tức quán niệmtướng tốt của Đức Phật A Di Đà. Đến thời Nam - Bắc triều, Ngài Bồ Đề Lưu Chi dịch bộ «Vãng sanh Tịnh Độ luận« do Ngài Thế Thân trước tác và trở thành bộ luận căn bản cho tông Tịnh Độ. Pháp tu Tịnh Độ của Ngài Bồ Đề Lưu Chi được Ngài Đàm Loan kế thừa và truyền cho cao đệ là Ngài Thiện Đạo (613-681). Ngài Thiện Đạo là vị có công hoàn thànhgiáo nghĩa của tông Tịnh Độ.Các tác phẩm của Ngài viết như «Quán Kinh Sớ«, «Vãng Sinh Lễ Tán«, «Ban Chu tán«, «Quán Niệm Phật Môn«, «Pháp Sự tán« bao hàm giáo lýtinh yếu của Tịnh Độ tông, giải thích kinh Quán Vô Lượng Thọ, bộ kinh trọng yếu của tông phái này.
Sau Ngài Thiện Đạo còn có pháp môn niệm Phật của Ngài Từ Mẫn (Tuệ Nhật, 680-740) nhưng đã chịu ảnh hưởng của Thiền tông.Từ Ngài Từ Mẫn trở về sau, giáo nghĩa Tịnh Độ có khuynh hướng «Thiền Tịnh song tu«. Tịnh Độ tông vẫn âm thầm phát triển theo khuynh hướng trên và được hưng khởi mạnh mẽ vào thời nhà Minh do công của các Ngài Vân Thê Châu Hoằng (1535-1615), Ngẫu Ích Trí Húc (1599-1655) và Đại sư Ấn Quang ở cuối đời nhà Thanh tới thời Trung Hoa Dân Quốc.
10- Luật tông:
Luật tông là tông phái nương theo giới luật mà thành lập nên có những điểm khác với tông phái khác.Giới luật là những qui giới phải tuân thủ của giáo đoàn Phật giáo. Trước khi truyền vào Trung Quốc, mỗi bộ phái Ấn Độ đều có giới luật của bộ phái mình. Thế nhưng, khi truyền đến Trung Quốc chỉ có 4 bộ «Ma Ha Tăng Kỳ luật« do Ngài Pháp Hiểnvà Phật Đà Bật Đà La dịch; «Thập Tụng luật« do hai Ngài Phất Nhã Đa la và Đàm Ma Lưu Chi dịch; «Tứ phần luật« do Ngài Phật Đà Da Xá đời Diêu Tần dịch; «Ngũ Phần luật« do Ngài Phật Đà Thập dịch là được lưu hành. Dưới thời đại Nam - Bắc triều, việc nghiên cứu Thập Tụng Luật rất được thịnh hành ở phương Nam; nhưng kể từ khi Ngài Huệ Quang ở Bắc Ngụy bắt đầu nghiên cứu và truyền giảng Tứ Phần luật thì xu hướngtheo Tứ Phần luật được hưng thịnh. Trong suốt đời Tùy đầu đời Đường, qua sự nghiên cứu và giảng giải của các Ngài Pháp Thông đời Bắc Ngụy, Ngài Đạo Phú, Ngài Tuệ Quang (468-537), Đạo Vân, Đạo Huy,Trí Thủ (môn đệ của Ngài Đạo Vân), Hồng Tuân(đệ tử Ngài Đạo Huy) thì Tứ Phần luật trở thành bản luật phổ biến của Phật giáo Trung Quốc. Đến đời Đường, Tứ Phần luật tôn hoàn toàn được thành lập và chia thành ba phái: Nam Sơ tôn của Ngài Đạo Tuyên, (môn đồ Ngài Huyền Trang, 596-667), Tướng Bộ tôn của Ngài Pháp Lệ (569-635) và Đông Tháp tôn của Ngài Hoài Tố (624-697).Tuy nhiên, chỉ có Nam Sơn tôn của Ngài Đạo Tuyên còn được duy trì và phát triển cho tới ngày nay.


C- Kết luận
Quá trình hình thành và phát triển của các tông phái Phật giáo Trung Quốc luôn gắn liền với lịch sử văn hóa - tư tưởng Trung Quốc. Trong mỗi giai đoạn lịch sử, ở từng thời đại và mỗi triều đại, sự phát triển của các tông phái Phật giáo Trung Quốc như nước ở trong đại dương, đôi khi lặng lẽ êm đềm nhưng cũng có lúc hưng khởi mãnh liệt. Sự hưng khởi của tông phái này dường như là để bổ túc cho sự suy vi của một tông phái khác. Điều này phản ánh trọn vẹn tinh thần Duyên khởi rất hiện thực của đạo Phật. Tuy nhiên, một đặc điểm quan trọng cần lưu ý là không bao giờ có sự đối kháng đến trở thành mâu thuẫntrong quá trình phát triển các tông phái của Phật giáo Trung Quốc nói riêng và Phật giáonói chung. Bởi lẽ toàn bộ quá trình ấy luôn nằm trong tinh thần xây dựng những tư tưởnghướng nghiệm cho con người trong quá trình sống - tu tập - đạt đến giải thoát. HT Thích Thanh Kiểm trong sách Lịch sử Phật giáo Trung Quốc đã viết: «Giáo học của Phật giáođược cấu thành bởi ba môn học là «Giới học«, «Định học« và «Tuệ học«. Phật giáo Trung Quốc vì nghiên cứu về Tuệ học nên Tam Luận tông, Thiên Thai tông, Hoa Nghiêm tông được thành lập; vì tu tập về «Định học« nên có Thiền tông ra đời; và nương theo «Giới học« để tu trì nên có Luật tông xuất hiện (8). Đây có lẽ không phải là một đặc tínhriêng Phật giáo Trung Quốc mà còn là đặc điểm chung của toàn bộ lịch sử phát triển Phật giáo từ Ấn Độ cho đến các quốc gia có Phật giáo trên thế giới và cả ở Phật giáo Việt Nam chúng ta hiện nay./.
-oOo-
* Chú thích:
(1) Kenneth W. Morgan, The Path of the Buddha, Chapter V: Buddhism in China and Korea (Zenryu Tsukamoto, translated by Leon Hurvitz).The Ronard Press Company. NewYork 1956, p 183-184.
(2) J. Takakusu, The Essentials of the Buddhism Philosophy (Xem «Các tông phái Phật giáo« bản dịch Tuệ Sỹ, Tu thư Đại học Vạn Hạnh , 1973, tr.147).
(3) Tam quán là «Không quán«, «Trung quán« và «Giả quán«. Nhất tâm tam quán nghĩa là trong một tích tắc của ý niệm đều có đầy đủ ba tính chất không , giả và trung.
(4) Nhất niệm tam thiên: Theo Ngài Trí Khải, mỗi ý niệm mê vọng của con người đều bao hàm toàn thể thế giới , nói hẹp là 10 giới (Tứ thánh và lục phàm), nói rộng là 3000 pháp, có nghĩa là toàn thể thế giới. Ba tính Không, Giả, Trung trong mỗi ý tưởng đều có quan hệ mật thiết với nhau, chúng thật ra chỉ là một. Ở đây, Ngài Trí Khải chủ yếu muốn nêu lên phương pháp quán niệm trên để người tu tập có nhận thức đúng về bản chất của tâm mình.
(5) Xem lại bài PHHT, Đại cương lịch sử Phật giáo Trung Quốc, phần 2b.
(6) Thích Thanh Kiểm, Giáo trình lịch sử Phật giáo Trung Quốc (Tài liệu giảng dạy của Học viện Phật giáo Việt Nam tại TP.HCM) tr.14 (bản ronéo).
(7) Tài liệu của Thích Thanh Kiểm ghi «khoảng năm 470« (Giáo trình lịch sử ...Sđd,t.14) trong khi J. Takakusu trong Essentials of Buddhism Philosophy lại viết «đến Trung Hoa năm 520« (Xem «Các tông phái Phật giáo« , bản Việt dịch của Tuệ Sỹ, Tu thư Đại họcVạn Hạnh, 1973, tr. 304). Do vậy, chúng tôi ghi khoảng thời gian ước định để học viên tiện việc tham khảo (tg).
(8) Thích Thanh Kiểm, Lịch sử Phật giáo Trung Quốc, Thành hội PG TP.HCM ấn hành,1991. tr 157.
(*) Sđd: Sách đã dẫn.
(*) TL: Tây lịch . TTL: trước Tây lịch
* Sách tham khảo:
1. Kenneth W. Morgan, «The Path of the Buddha«, Chapter V: Buddhism in China and Korea (Zenryu Tsukamoto, translated by Leon Hurvitz). The Ronard Press Company. NewYork 1956.
2. J. Takakusu, The Essentials of the Buddhism Philosophy (Các tông phái Phật giáo; bản Việt dịch của Tuệ Sỹ, Tu thư Đại học Vạn Hạnh ấn hành 1991).
Câu hỏi hướng dẫn ôn tập
Trình bày và nêu nhận định về quá trình hình thành và phát triển của một tông phái Phật giáo Trung Quốc
(Học viên nên tham khảo thêm các tài liệu khác để trả lời).




Source: Nguyệt san Giác Ngộ, Sài Gòn, 1999-2000




Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét