BỔ KHUYẾT CHÂN KINH
Phật Mẫu hay Diêu Trì Kim Mẫu hay Tây Vương Mẫu (gọi tắt của Tây Thiên Bá Chủ Vương Cung Tây Mẫu), thuở Trời Đất sơ khai hỗn độn, một “Khối Tích Âm Tích Dương” cực phần tinh túy rút ra ở ”Bao la Càn Khôn chi hỗn hiệp” tự nhiên biến hóa trong chính trung tâm “Khối hỗn hiệp chi Càn Khôn”. Sự Biến Hóa nầy gọi là "Vô Cực Biến Hóa di chuyển” và có thể tượng trưng như hình số 1.
“Địa Mẫu bổn thị mồ Kỷ Thổ”
Phật Mẫu trấn ở giữa trung ương Càn Khôn rút khí Tiên Thiên (khí Âm Dương còn tuyệt đối trong sạch như bậc Phật Tiên) biến hóa ra “Tiên Thiên chí khí” hội hợp sanh hóa vạn vật muôn loài. Tiên Thiên Chi Khí hay Nhất Khí sơ khai là Thái Âm và Thái Dương phối hợp để sanh hóa.
“Âm Dương nhị khí cẩn tương liên”
Hai khí khắn khít giao hợp biến hóa vô cùng vô tận.
Bởi nhờ thanh khí nên con người thuở ấy tâm địa tốt tươi. Khí thanh ở Trái Đất vượt lên trên được Tỏa Nguyên Diêu Khí chiếu trở xuống làm thuận thời tiết, nhuần mưa gió, tươi tốt cỏ cây, dân cư bình yên vui sống. Đạo giáo ra đời dạy thêm cang thường luân lý.
“Phu quân bổn thị Huyền Đồng Tử
Thu lung ngã á phối thành song”
Thiên tôn tượng trưng sự khắn khít của hai khí Âm và Dương trong Ngài ”Phu quân” đây khí Dương là một vị Đồng tử tốt tươi xinh đẹp chẳng cần nghe lời khen ngợi nào dầu của chư Phật Tiên. Khí Âm âm thầm biến hóa chẳng thốt ra lời hợp với khí Dương mà sanh sanh hóa hóa chẳng ngừng.
Cũng Thần Khí hay Âm Dương phối hợp mới biến hóa ra Trời Đất rồi đến người, vật, cỏ cây,
Âm Dương đều ở trong thân Phật Mẫu mà sanh hóa, biến muôn vạn trạng ức Hóa Linh hay Chân Thần.
“Tích Âm Tích Dương” hội hợp hóa sanh thường được gọi là “Đấng Tạo Hóa”, Đấng Tạo Hóa ấy thường được xưng tụng là Phật Mẫu (nghĩa là đấng sinh thành hoàn toàn sáng suốt ) hay Phật Địa Mẫu, vì Ngài thủ ngôi Trung ương Trái Đất hay vì Ngài rút tinh túy Ngài ở Ngôi Trung ương.
Chư Phật, chư Bồ Tát, chư Thánh Thần đều ở thân Mẹ mà ra.
Cũng sự biến hóa của Ngài mà sanh ra Thời Tiết, Phương Hướng trong quẻ “Càn Khôn định vị, Biến Hóa Hư Vô” quẻ hào di chuyển (hình số 2).
Sau khi tạo ra đủ nhu cầu cho các con, Địa Mẫu diệt độ về cõi Hư Không lấy danh hiệu là Diêu Trì Kim Mẫu. Ngài cai quản ba ngàn thế giới gồm có Tây Phương Cực Lạc vì thế xưng tụng Ngài: Tây Thiên Bá Chủ Vương Cung Tây Mẫu. Thời Mạt Kiếp, Ngài ra uy vũ sắp yên bốn bề. Phương Tây thường xưng tụng Ngài là “Bà Mẹ Thế Giới”.
Trì tụng danh hiệu Ngài sẽ được điển lực của Ngài với sức mạnh vô biên soi sáng tâm trí được trở nên sáng suốt vô cùng tận.
Tụng kinh Ngài sẽ được Oai Linh Ngài che trở khỏi vòng Thiên tai, Địa ách trong thời Mạt Kiếp.
Quang Tự cửu niên, chánh ngoạt, sơ cửu nhật, Thiểm Tây, Hớn Trung Phủ, Thành Cố Huyện, Địa Mẫu miếu, phi loan truyền kinh.
Đời nhà Thanh, vua Quang Tự, năm thứ 9, nhằm tiết tháng Giêng, ngày mùng 9, tại nơi tỉnh Thiểm Tây, phủ Hớn Trung, huyện Thành Cố, Phật Mẫu ngự chim loan hiện xuống tận miếu, ngài giáng cơ bút truyền ra kinh này.
Bản gốc Hán văn được dịch sang tiếng Việt.
Bát hồn vận chuyển...
Con người cha mẹ sanh ra
Thân xác của mẹ ,của cha linh hồn
Bát hồn vận chuyển học khôn
Đến nay bài học nhân hồn con mang
Nhờ ơn tam giáo minh quang
Nhân đạo ráng học bước sang thiên đàng
Thần hồn bước kế cao sang
Tôn trọng luật lệ xã làng tin yêu
Thần hoàng bổn cảnh sớm chiều
Dân luôn tin tưởng giữ điều thiện lương
Thánh hồn oanh liệt can trường
Sống nên chí thánh,thác thường hiển linh
Nhập thế hành pháp chí minh
Giúp cho nhân đạo luật hình nghiêm trang
Tiên hồn bác ái hành tàng
Xuất thế luyện đạo,mênh mang lý trời
Thần khí tu luyện không lơi
Để mà đắc pháp đến thời lập công
Nguồn gốc cha mẹ rõ thông
Cõi Tiên vui hưởng ,lập công cõi trần
Chúng sanh tiến hóa có phần
Công Quần Tiên Hội giúp trần tiến lên
Từ bi hỉ xả làm nền
Phật hồn thấu hiểu dưới trên thuận hòa
Trên thời thiên thượng,tam tòa
Dưới thời thiên hạ trái hoa cõi trần
Về bên cha mẹ ân cần
Giúp trời lập pháp mười phân vẹn mười
Niết bàn đạt pháp vui tươi
Tiểu hồn đi học điểm mười dâng cha
Phật hồn tham dự tam tòa
Giúp cho cha mẹ để hòa anh em
Chúng sanh mau hãy tìm xem
Phật hồn đại giác làm quen đại hồn
Thầy Trí Tuệ diễn giải về
- Đâu là lý Nhân Quả.
- Đâu là Tâm bồ đề.
- Đâu là Tánh của Tâm
trong Địa Mẫu Chân Kinh
1-Lý nhân quả
Người nào đầy lòng thương tiếp dẫn
Giúp chúng sanh ngộ nhận đạo chơn
Dựng đời thạnh trị thượng ngươn
Hết lòng chỉ giáo linh nhơn tỏ tường...
Kẻ nào tụng niệm chơn thành
Thánh Tiên đắc đạo rạng danh lâu rồi...
Ai chẳng tin bất cầu ác cảm
Chê bai rằng mờ ám không tùng
Ðến khi vào lúc lâm chung
Hồn linh kẻ ấy vô cùng khổ đau
Ngục A-tỳ sa vào miên viễn
Ðọa đày người lắm tiếng dễ khinh
Sanh lòng nhạo báng lý kinh
Tội như biển cả mông minh thảm sầu ...
2-Tâm bồ đề
..."Cho người trần thế dương gian tri tường
Khắp thiên hạ thập phương chung cảnh
Nạn thiên tai phải quạnh hiu sầu
Dập dồn nhiều cảnh khổ đau
Họa tai trước mắt tránh đâu bây giờ
Mẹ thương con đề thơ phân tỏ
Lại chẳng nghe ghi rõ lời châu
Cuộc đời thế sự bể dâu
Mẹ đà tường tận đoán rồi tiên tri
Dầu khó khăn việc chi nguy khốn
Mẹ bình trị chỉnh đốn khắp nơi
Phán truyền bày tỏ bao lời
Hóa sanh hoằng đạo khai đời dưỡng sanh..."
3-Tánh của tâm
Mẹ thương con chẳng đành đoạn dứt
Tình thiêng liêng bút mực ghi rằng
Các con lớn nhỏ nghe chăng
Thọ trì kinh Mẫu khó khăn cũng lành
Khắp nhơn sanh điều hành tâm đạo
Giúp cho đời cải tạo ăn năn...
Mỗi người đều có một cái Tâm ẩn khuất bên trong, vô hình vô ảnh, nhưng rất mầu nhiệm thiêng liêng. Người chỉ biết được Tâm chớ không thể thấy Tâm.
Khi Tâm thể hiện ra ngoài bằng cử chỉ, hành động, lời nói thì gọi là Tánh. Thánh nho nói: Tánh tự Tâm sanh, nghĩa là cái Tánh do từ cái Tâm sanh ra. Do đó, Tâm và Tánh liên hệ chặt chẽ mật thiết với nhau, làm cho đôi khi người ta nghĩ rằng: Tâm cũng là Tánh, mà Tánh cũng là Tâm.
Khi Tâm rung động trước những sự vật biến đổi bên ngoài và Tâm phát tiết ra thì gọi là Tình. Tình ấy do Tâm cảm động mà ra nên gọi là Tình cảm.
So sánh với chơn linh và chơn thần của con người thì:
- Tâm là chơn linh (Thần).
- Tánh là chơn thần (Khí).
Tóm lại:
Nguồn gốc vũ trụ vạn vật đều do âm (mẹ) dương (cha) sanh ra.
Thật diễm phúc ở điểm giao thời này chúng ta được ơn nhuần của cha mẹ đó là những lời kinh mô tả nguồn gốc vũ trụ vạn vật trong đó có con người.
Quí thầy nào còn nói kinh Mẫu không phải chánh pháp thì quả là uổng một đời tu vẫn bám vào mạt pháp thì...không biết sẽ về đâu???.
Trích dẫn thêm từ wikipedia tiếng việt:
Địa Mẫu chân kinh hay Địa Mẫu kinh là một bài kinh do cơ bút mà có Địa Mẫu chơn kinh không có trong danh mục Đại Tạng Kinh, nội dung không tập trung đề cập các giáo lý như bát chánh đạo, tam pháp ấn, tứ diệu đế, thập nhị nhân duyên, do đó nhiều người cho rằng kinh Mẫu không thuộc về Phật giáo. Kinh Địa Mẫu chủ yếu khuyên nhủ chúng sanh sớm lo tu nhân tích đức, làm tròn bổn phận con người để hầu mong được cứu rỗi.
Lời kinh như lời người mẹ hiền thống thiết khuyên nhủ đứa con thơ dại sớm thức tỉnh để quay về.
"Mẹ đưa trẻ vào trường vào lớp
Sắp con ngồi có lớp có lang
Nguyện đi mùi khói hương nhang
Con cầu khắp cả Tây phang Phật Trời
Ráng khẩn nguyện Cha Trời Mẹ Đất
Cùng mười phương chự Phật khắp nơi
Nào là Thần Thánh giáng đời
Để con nguyện sửa bao lời thiết tha"
Nội dung và nguồn gốc
Nguồn gốc có lẽ xuất phát từ tiên đạo và được viết ra qua các buổi hầu bút và chịu ảnh hưởng bởi lưỡng cực âm dương của Đạo giáo.
Theo bản gốc tiếng Hoa thì Địa Mẫu chân kinh được viết vào ngày 9 tháng 1 năm 1829 tại tỉnh Thiểm Tây, phủ Hán Trung, thành Cố Huyện. Miếu Địa Mẫu, người nhập đàn truyền (nói) "kinh" có tên là Phi Loan(飛鸞傳經 tạm dịch "Phi Loan truyền (nói) kinh).
Sự tích
Vua Quang Tụ nhà Thanh lên ngôi trị vì ở nước Trung Hoa, vào năm thứ 9, nhằm tiết tháng giêng, ngày mồng chín, tại nơi tỉnh Thiễm Tây, phủ Hớn Trung, huyện Thành Cổ có Phật địa Mẫu ngự chim loan hiện xuống tận miếu Bà giáng cơ bút truyền ra kinh.
Phật địa Mẫu ngự trên cõi Thượng Tần tối cao đặt quyển Chân Kinh khuyên răn đời, dưỡng dục đời và bảo toàn tính mạng cho tất cả người đời.
Sự hình thành
Tam cửu là 12, thập nhị Địa Chi: Tý, Sửu, Dần, Mẹo,Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi. Còn Nhị bát là 10 thập Thiên Can: Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý, Can Chi là Âm Dương đó. Vì trong bát quái có phân chia làm 8 hướng, mỗi một hướng chia ra 8 quẻ, mỗi một quẻ chia ra 6 hào, cộng chung lại 64 quẻ, tẻ ra làm 384 hào. Đúng giờ mãn nguyện trúc cơ, thì trong thân của Mẫu xuất hiện ra sáu vị Thánh đế Minh quân. Kể dưới đây: Một là vua Thiên Hoàng, hai là vua Địa Hoàng, ba là vua Nhân Hoàng, bốn là vua Phục Hi, năm là vua Thần Nông, sáu là vua Hiên Viên. Qua đến đời vua Phục Hi thì ngài đã hiểu rõ máy biến hóa Trời Đất. Ngài bèn phân định hai khí Âm Dương và họa ra một cái bát quái Tiên Thiên rõ 8 hướng trong Kiền khôn Vũ Trụ. Đến đời vua Thần Nông thì ngài tiên đắc tìm kiếm ra được năm giống lúa và sáu thứ gạo. Đến đời vua Hiên Viên thì ngài kiếm ra đủ cách thế chế tạo ra y phục và các đồ vật dụng cho con người đời cần dùng chẳng sót món nào.
Lão Bà Địa Mẫu nầy tuy là vô hướng, chớ lão cầm quyền sữa trị và khảo sát cả nhân luân đạo lý. Vì bởi hồi mới mở mang ra một bầu khí mù mù mịt mịt thì đã có Lão Mẫu này hóa sinh ra trước. Mẫu là lớn hơn hết. Cái người mà tạo ra Thiên lập ra Địa là đây, thật là người căn gốc đó. Thưở đó có một mình Mẫu đứng ra làm thầy trước hết. Mẫu liền khai hóa mở mang ra có một mối Đạo và tuyên truyền phổ thông cũng có một phong tục cho tất cả nhân loại mà thôi.
NHỚ LỜI MẸ DẶN
Biết phận sự con đừng than thở
Đạo muôn đời nhắc nhở danh thơm
Nhục vinh chẳng nghĩ mất còn
Chỉ cần sứ mạng lo tròn Mẹ ban
Dù dạo pháp gian nan khổ cực
Hay đắng cay nghiệp lực khảo nhồi
Một lời thệ nguyện con ơi
Thần minh chứng giám đất trời rỏ thông
Chớ chán nản thay lòng đổi dạ
Muốn đắc thành đạo quả phải hành
Truân chiên thử thách phù sanh
Là điều tiến hóa luật hành người tu
Chớ nghĩ tới giận thù oán ghét
Chí đại hùng học phép từ bi
Đức ân vạn sự khó bì
dù cho lao khổ sá gì bản thân
Thương nhớ mẹ phải cần lo đạo
Mới xứng danh con thảo rồng tiên
Đáp đền thất tổ cửu huyền
Sanh thành phụ mẫu tại miền trần gian
Dù khanh tướng giàu sang khó sánh
phật thánh tiên dụng tánh thảo hiền
Nghiệp trần dù lắm oan khiên
Thành lòng tu niệm Mẹ hiền giải oan
Cơ tái tạo sảy sàng cận gấp
Chớ chần chớ để lấp tánh linh
Trận đồ bát quái luật hình
Ngũ hành vận chuyển nhơn sanh điêu tàn
Lòng mẹ đã rải ban chỉ dạy
Các con nào còn cải luật trời
Không lo tu niệm chiều mơi
Thì đừng trách Mẹ vậy thời chẳng thương
Màn ma quỷ còn đương trà trộn
Phật thánh tiên lẫn lộn hồng trần
Để túy duyên kiếp độ căn
Dể gì gặp được chánh chơn kỳ nầy
Luật kinh phật tỏ bày nói trước
Đời mạt pháp mực thước khó dò
Tứ sanh thập nhị nhỏ to
đầu thai báo quả khó đo được lòng
Bất kể sự tổ tông đạo đức
Mang lớp người ngũ trược tâm ma
Ham làm những chuyện gian tà
Đâu còn kể đến ông bà tổ tiên
Cứ chỉ biết bạc tiền danh lợi
Rồi tung hoành gây tội chẳng cần
Giết người cướp của muôn dân
Bạo tàn độc ác khó mong chánh tà
Bởi sắc lịnh hoàng thiên ân xá
cũng là kỳ trả quả nghiệp căn
Chuyển xây định luật công bằng
Khảo nhồi thưởng phạt kiếp căn đời cùng
Sự chọn lựa hiếu trung kỳ chót
Con khá lo bòn mót đức ân
Chớ ham mê sự hồng trần
Buộc ràng nghiệp quả kiếp căn đọa đày
"Mẹ đưa trẻ vào trường vào lớp
Sắp con ngồi có lớp có lang
Nguyện đi mùi khói hương nhang
Con cầu khắp cả Tây phang Phật Trời
Ráng khẩn nguyện Cha Trời Mẹ Đất
Cùng mười phương chự Phật khắp nơi
Nào là Thần Thánh giáng đời
Để con nguyện sửa bao lời thiết tha"
Nội dung và nguồn gốc
Nguồn gốc có lẽ xuất phát từ tiên đạo và được viết ra qua các buổi hầu bút và chịu ảnh hưởng bởi lưỡng cực âm dương của Đạo giáo.
Theo bản gốc tiếng Hoa thì Địa Mẫu chân kinh được viết vào ngày 9 tháng 1 năm 1829 tại tỉnh Thiểm Tây, phủ Hán Trung, thành Cố Huyện. Miếu Địa Mẫu, người nhập đàn truyền (nói) "kinh" có tên là Phi Loan(飛鸞傳經 tạm dịch "Phi Loan truyền (nói) kinh).
Sự tích
Vua Quang Tụ nhà Thanh lên ngôi trị vì ở nước Trung Hoa, vào năm thứ 9, nhằm tiết tháng giêng, ngày mồng chín, tại nơi tỉnh Thiễm Tây, phủ Hớn Trung, huyện Thành Cổ có Phật địa Mẫu ngự chim loan hiện xuống tận miếu Bà giáng cơ bút truyền ra kinh.
Phật địa Mẫu ngự trên cõi Thượng Tần tối cao đặt quyển Chân Kinh khuyên răn đời, dưỡng dục đời và bảo toàn tính mạng cho tất cả người đời.
Sự hình thành
Tam cửu là 12, thập nhị Địa Chi: Tý, Sửu, Dần, Mẹo,Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi. Còn Nhị bát là 10 thập Thiên Can: Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý, Can Chi là Âm Dương đó. Vì trong bát quái có phân chia làm 8 hướng, mỗi một hướng chia ra 8 quẻ, mỗi một quẻ chia ra 6 hào, cộng chung lại 64 quẻ, tẻ ra làm 384 hào. Đúng giờ mãn nguyện trúc cơ, thì trong thân của Mẫu xuất hiện ra sáu vị Thánh đế Minh quân. Kể dưới đây: Một là vua Thiên Hoàng, hai là vua Địa Hoàng, ba là vua Nhân Hoàng, bốn là vua Phục Hi, năm là vua Thần Nông, sáu là vua Hiên Viên. Qua đến đời vua Phục Hi thì ngài đã hiểu rõ máy biến hóa Trời Đất. Ngài bèn phân định hai khí Âm Dương và họa ra một cái bát quái Tiên Thiên rõ 8 hướng trong Kiền khôn Vũ Trụ. Đến đời vua Thần Nông thì ngài tiên đắc tìm kiếm ra được năm giống lúa và sáu thứ gạo. Đến đời vua Hiên Viên thì ngài kiếm ra đủ cách thế chế tạo ra y phục và các đồ vật dụng cho con người đời cần dùng chẳng sót món nào.
Lão Bà Địa Mẫu nầy tuy là vô hướng, chớ lão cầm quyền sữa trị và khảo sát cả nhân luân đạo lý. Vì bởi hồi mới mở mang ra một bầu khí mù mù mịt mịt thì đã có Lão Mẫu này hóa sinh ra trước. Mẫu là lớn hơn hết. Cái người mà tạo ra Thiên lập ra Địa là đây, thật là người căn gốc đó. Thưở đó có một mình Mẫu đứng ra làm thầy trước hết. Mẫu liền khai hóa mở mang ra có một mối Đạo và tuyên truyền phổ thông cũng có một phong tục cho tất cả nhân loại mà thôi.
NHỚ LỜI MẸ DẶN
Biết phận sự con đừng than thở
Đạo muôn đời nhắc nhở danh thơm
Nhục vinh chẳng nghĩ mất còn
Chỉ cần sứ mạng lo tròn Mẹ ban
Dù dạo pháp gian nan khổ cực
Hay đắng cay nghiệp lực khảo nhồi
Một lời thệ nguyện con ơi
Thần minh chứng giám đất trời rỏ thông
Chớ chán nản thay lòng đổi dạ
Muốn đắc thành đạo quả phải hành
Truân chiên thử thách phù sanh
Là điều tiến hóa luật hành người tu
Chớ nghĩ tới giận thù oán ghét
Chí đại hùng học phép từ bi
Đức ân vạn sự khó bì
dù cho lao khổ sá gì bản thân
Thương nhớ mẹ phải cần lo đạo
Mới xứng danh con thảo rồng tiên
Đáp đền thất tổ cửu huyền
Sanh thành phụ mẫu tại miền trần gian
Dù khanh tướng giàu sang khó sánh
phật thánh tiên dụng tánh thảo hiền
Nghiệp trần dù lắm oan khiên
Thành lòng tu niệm Mẹ hiền giải oan
Cơ tái tạo sảy sàng cận gấp
Chớ chần chớ để lấp tánh linh
Trận đồ bát quái luật hình
Ngũ hành vận chuyển nhơn sanh điêu tàn
Lòng mẹ đã rải ban chỉ dạy
Các con nào còn cải luật trời
Không lo tu niệm chiều mơi
Thì đừng trách Mẹ vậy thời chẳng thương
Màn ma quỷ còn đương trà trộn
Phật thánh tiên lẫn lộn hồng trần
Để túy duyên kiếp độ căn
Dể gì gặp được chánh chơn kỳ nầy
Luật kinh phật tỏ bày nói trước
Đời mạt pháp mực thước khó dò
Tứ sanh thập nhị nhỏ to
đầu thai báo quả khó đo được lòng
Bất kể sự tổ tông đạo đức
Mang lớp người ngũ trược tâm ma
Ham làm những chuyện gian tà
Đâu còn kể đến ông bà tổ tiên
Cứ chỉ biết bạc tiền danh lợi
Rồi tung hoành gây tội chẳng cần
Giết người cướp của muôn dân
Bạo tàn độc ác khó mong chánh tà
Bởi sắc lịnh hoàng thiên ân xá
cũng là kỳ trả quả nghiệp căn
Chuyển xây định luật công bằng
Khảo nhồi thưởng phạt kiếp căn đời cùng
Sự chọn lựa hiếu trung kỳ chót
Con khá lo bòn mót đức ân
Chớ ham mê sự hồng trần
Buộc ràng nghiệp quả kiếp căn đọa đày
A chị cho hỏi có bảng đầy đủ ko.em đang tìm
Trả lờiXóaEm đang tìm bảng kinh đủ của mẹ.lh Zalo 0899236796 phúc vinh
Trả lờiXóa