Thứ Ba, 8 tháng 8, 2017

Ý Trinh trình bày Hiển Tông và Mật Tông



Mật Tông Tây Tạng là một biến thể của Phật Giáo khi đã hội nhập đã chuyển hóa theo tôn giáo bản địa. Theo những tài liệu sử sách tại đây thì trước khi Phật Giáo Đại Thừa du nhập và đất Tây Tạng thì trên đất nầy vốn đã có một tôn giáo riêng, mang dấu ấn của Thần Giáo. Tôn giáo nầy chứa đầy những huyền phép đặc biệt, mang tính chất bí ảo, mà ít người có thể hiểu biết, chuyên thờ cúng và hành trì những hiện tượng siêu hình như thuật khinh thân, bói toán, tàng hình; đứng đầu là những vị pháp sư.
Đại cương

Mật Tông Tây Tạng là một biến thể của Phật Giáo khi đã hội nhập đã chuyển hóa theo tôn giáo bản địa. Theo những tài liệu sử sách tại đây thì trước khi Phật Giáo Đại Thừa du nhập và đất Tây Tạng thì trên đất nầy vốn đã có một tôn giáo riêng, mang dấu ấn của Thần Giáo. Tôn giáo nầy chứa đầy những huyền phép đặc biệt, mang tính chất bí ảo, mà ít người có thể hiểu biết, chuyên thờ cúng và hành trì những hiện tượng siêu hình như thuật khinh thân, bói toán, tàng hình; đứng đầu là những vị pháp sư.

Theo họ thì những mãnh lực huyền bí vẫn tồn tại trong vũ trụ và những nhà tu hành phải vận dụng đủ cách để chế ngự và điều động cho được những mãnh lực siêu nhiên nầy. Khả năng chế ngự đến mức độ nào là tùy theo trình độ tu luyện của họ. Huyền học bao trùm tôn giáo bản địa.

Về sau, vì những khó khăn trong việc ứng xử và hành trì, cho nên đã có những tranh chấp và phân ly thành hai khuynh hướng tăng sĩ Huyền Môn lẫn tín đồ. Họ đưa ra những lý giải riêng có khi mâu thuẫn nhau trên nhiều địa hạt. Những cuộc tranh luận giữa hai nhóm thường được tổ chức công khai hay trong hành trì. Cả hai đều tìm cách để bành trướng trong việc lôi cuốn tín đồ cũng như ảnh hưởng đến chính quyền. Điều nầy đã gây ra những đổ vỡ trầm trọng trong tôn giáo nguyên thủy của Tây Tạng.

Từ đó nẩy sinh ra Chân Giáo và Huyền Giáo. Chân Giáo muốn đi vào cuộc sống thiết thực để hướng dẫn cuộc sống; trái lại Huyền Giáo thì đi sâu vào việc nghiên cứu các hiện tượng siêu hình mà họ cho là đã điều khiển linh hồn mọi người. Nhiều giai thoại về sự tranh chấp nầy vẫn được truyền tụng cho đếnnay, mà họ cho là chính danh và tà thuyết.

Chính quyền đã tìm cách để hoà giải hay đúng ra là lợi dụng những rạn nứt nầy để dễ bề thao túng.Cuối cùng thì những nhà tu hành theo Chân Giáo đã bỏ nước đến Ấn Độ để nghiên cứu thêm. Tại đây, họ đã gặp các tăng sĩ Phật Giáo và tiếp thu những tinh hoa của tôn giáo nầy. Với họ, đây là điều may mắn. Có nhiều vấn đề trước kia không thông suốt, quán triệt được, thì nay giáo lý nhà Phật đã giúp cho họ giải toả. Khả năng tiếp thu tôn giáo của họ vươn cao lên, để thoát khỏi những lẩn quẩn trong hiểu biết siêu hình.

Nhiều vị còn lưu lại để nghiên cứu và hành trì; trong khi đó nhiều vị đã trở về Tây Tạng để truyền bá tư tưởng mới. Họ vận dụng Phật Giáo hoà nhập tinh thần dân tộc để truyền đạo. Từ cách tu hành cho đến việc giảng dạy cho tín đồ, họ đã dùng những phương thức mới lạ, mà trước đây chưa phát triển tại Tây Tạng.

Chẳng bao lâu, ảnh hưởng của tôn giáo nầy bành trướng mau lẹ. Lạt Ma Giáo (Lamaism) ra đời từ đó. Tôn giáo nầy cũng đã trải qua nhiều giai đoạn biến đổi. Trong giai đoạn đầu, họ tìm cách hoà hợp Phật Giáo với những nguồn tín ngưỡng bản địa.

Nhưng về sau, thông qua kinh điển, họ đã cải cách dần dà từ nền tảng Phật Giáo. Kinh sách ngày càng nhiều, tăng sĩ đào tạo ngày càng đông, cho nên tín đồ gia tăng nhanh chóng. Đã có những thay đổi lớn lao so với tôn giáo cổ truyền ở Tây Tạng.

Theo nghiên cứu của Lạt Ma Lobsang Rampa thì: Nếu tôn giáo cổ của Tây Tạng chuyên về những phép thuật Thần Thông, Ma Thuật, Huyền Học, xem đó là nền tảng chính yếu, thì đằng nầy Phật Giáo chỉ coi đó là những phương tiện trong việc tu hành nếu có, chứ không là cứu cánh giải thoát con người. Mà đã là phương tiện thì chỉ ứng xử trong một mức độ nào đó, sẽ bỏ đi. Còn nếu cứ xem phương tiện là cứu cánh, thì điều nầy chỉ là trở ngại lớn lại trói buộc mức độ tu hành mà thôi.

Những danh tăng của Lạt Ma Giáo có công trong việc canh tân tôn giáo nầy để trở nên vững chắc như hiện nay thì phải kể đến công trình của đức Milarepa và Tsong Khapa. Nếu đức Milarepa đi sâu vào việc nghiên cứu những vấn đề thuộc luận lý học Phật Giáo thì đức Tsong Khapa lại nghiên cứu về lãnh vực tâm lý học, luân lý học và siêu hình học. Sự hoà hợp nầy đã khiến cho Mật Tông Tây Tạng trở nên uyên áo hơn.
Hiển Tông và Mật Tông

Pháp môn tu học trong đạo Phật rất nhiều vô lượng. Sở dĩ có nhiều vô lượng như thế là vì căn tánh của chúng sanh bất đồng. Người ta liên tưởng đến hình ảnh về thân thể của con người mang nhiều chứng bệnh khác nhau, cho nên y sĩ dùng các loại thuốc khác nhau để chẩn trị mới hiệu nghiệm được. Đức Phật đã thấu rõ nguồn cội căn tánh của mỗi chúng sanh cho nên Ngài giảng dạy vô lượng pháp môn tu để có thể thích hợp từng căn tánh của mỗi một chúng sanh,ngõ hầu ai nấy đều thích ứng được, có thể tiến triển trên con đường tu hành của mình để Giác ngộ, Giải thoát.

Pháp môn tu học lưu hành rộng rãi phải nói đến pháp môn Thiền Tông, Tịnh Độ Tông và Mật Tông. Về Mật Tông tại Việt Nam cũng đã có một thời phát triển và lưu lại nhiều huyền thoại: tăng sĩ Khâu Đà La tu tại chùa Dâu đã độ cho nàng Man Nương, thiền sư Nguyễn Minh Không thuộc dòng thiền Vô Ngôn Không đã trị bệnh kỳ diệu cho vua Lý Thần Tông...

Trong sách sử hành đạo của các cao tăng thiền đức thường nói đến "Thiền, Tịnh song tu" tức là ngoại hiện thiền tướng, nội hành tịnh độ; hay là "Thiền, Mật kiêm trì" nghĩa là ngoại hiển mật hạnh, nội tâm hành thiền; hoặc "Thiền hiển, Mật tàng" tức là ngoại hiện thiền tướng, nội tâm tu Mật chú. Trong lúc Thiền Tông và Tịnh Độ Tông được lưu hành khắp các nước Trung Hoa, Nhật Bản, Đại Hàn, Việt Nam thì Mật Tông đã trở thành pháp môn tu hành truyền thống của các nước Tây Tạng, Mông Cổ và trong thời gian gần đây đã được phổ biến đến các nước Âu Mỹ qua các nhà sư Tây Tạng. Pháp môn tuy nhiều, tùy lúc mà nói, nhưng mục đích vẫn chỉ là làm thế nào để đi vào biển viên mãn, cho nên trở về chỉ là Nhất thừa. Hiển Tông và Mật Tông đều gồm thâu cả tánh và tướng.

Nghĩa lý Hiển Tông chia ra làm năm thời, tóm lại là Tô Đạt Lãm (tức là Kinh). Mật Tông gồm ba bộ tạng, riêng gọi là Đà Ra Ni (Thần chú). Người học Hiển Tông cho rằng: Không, Hữu, Thiền, Luật có những khác biệt, nhưng cứu cánh, viên lý cũng chỉ là một. Còn người học Mật Tông thì lấy: Đàn, Ấn, Chữ, Tiếng làm phép tắc, nhưng phương thức đều nhắm vào Thần Tông, bí áo.

Hiển Giáo (Sutra Path) thường được gọi là Tịnh Độ Tông là phương pháp tu hành gồm có: đọc kinh, tụng điển, lễ Phật, cúng dường.Tịnh Độ Tông chú trọng đến việc tụng kinh, niệm Phật, đễ cho nhất tâm bất loạn, để lúc lâm chung cầu cho trở về cõi Tây Phương Cực Lạc của đức Phật A Di Đà. Ngoài việc niệm Phật, Tịnh Độ Tông còn khuyên dạy chúng sanh quan tâm đến việc thanh lọc những hành động thuộc Thân, Khẩu, Ý, sống theo hạnh nguyện chân chính, thường xuyên phát triển đức Từ Bi, Hỷ Xã, thường hoạch cát tường, viễn ly khổ ách.Tịnh Độ Tông được phân chia làm hai thừa là Đại Thừa (Mahayana) và Tiểu Thừa (Hinayana).

Các nhà tu hành nhấn mạnh đến hai phép tu nầy chỉ là hai giai đoạn cần thiết trong việc tu hành, tự lợi, lợi tha, chứ không hề có chuyện mâu thuẫn nhau, nghịch lý nhau. Mật Thừa (Tantra Path) còn gọi là Mật Tông, cũng chỉ là một phương pháp tu hành mà đức Phật muốn dắt dẫn chúng sanh đến con đường Giác ngộ và Giải thoát.

Một khi đã được Giác Ngộ và Giải thoát thì có thể tiếp tục tu hành, để hoàn thành con đường Bồ Tát Đạo trở lại cõi Ta Bà để độ chúng sanh như hạnh nguyện của đức Quan Thế Âm Bồ Tát đã từng làm.Tuy có sự phân chia như thế, nhưng thật ra, tất cả chỉ là phương tiện, từng giai đoạn, để tiến hành trên con đường duy nhất: giải thoát. theo những kinh điển của Mật Tông, nếu đi theo con đường Hiển Tông thì phải trải qua vô lượng kiếp tu hành thì mới có thể đạt đến quả vị Phật, nhưng nếu theo con đường của Mật Tông thì có thể đạt đến quả vị Phật ngay trong một kiếp.

Cũng vì lý do nầy cho nên nhiều người cho rằng con đường tu hành theo Mật Tông là con đường ngắn nhất. Tuy vậy, những không phải bất cứ người nào cũng có thể tu hành theo Mật Tông vì phải trải qua muôn ngàn khó khăn, chỉ giành cho chư vị Bồ Tát, chư vị Tổ sư có công phu tu hành vô cùng tinh tấn thì mới tu tập để chứng quả được. Ở những nước phương Đông, do phong tục, văn hoá và tín ngưỡng, hầu hết mọi người đều xem cái chết chẳng qua chỉ là một sự chuyển tiếp trong muôn ngàn kiếp của con người.

Tùy theo nghiệp quả mà con người đã gieo trong kiếp nầy và trong vô vàng kiếp trước, mà sau khi chết con người sẽ đầu thai vào một kiếp tốt hơn hay xấu hơn. Có thể lên Niết Bàn, hoặc xuống ngục A Tỳ, chịu những trừng phạt của Diêm Vương. Bánh xe luân hồi không chỉ xoay vần trong vài ba kiếp, mà cứ mãi vần xoay miên viễn, cho đến khi linh hồn tu luyện đạt đến độ đạt đến mức giải thoát ngũ uẩn, lục căn, được xem là thoát khỏi vòng luân hồi, không còn trong vòng sinh tử, chuyển kiếp nữa.

Với nhận thức nầy, mọi người phải ra sức tu luyện, học hỏi giáo pháp, làm điều thiện, để được chứng quả. Theo hạnh nguyện của một số người, sau khi đắc quả, vẫn quay trở lại trần gian theo Bồ Tát Hạnh để dẫn độ chúng sanh. Có nhiều vị Phật vì xót thương chúng sanh ngụp lặn trong mê mờ, đã chấp nhận hoá thân. Mật Tông là con đường tu chứng hết sức linh thiêng và huyền diệu trong các pháp môn tu học Phật Giáo, với những năng lực huyền diệu mang tính bí hiểm.

Những vị Tổ sư của Mật Tông như Marpa và Milarepa đều nhấn mạnh đến ý nghĩa của công năng trì tụng Thần Chú, như là phương tiện cần thiết nhất để đi đến giác ngộ toàn chân. Từ trước đến nay, theo truyền thống Mật Tông Tây Tạng được kiến tạo trên nền tảng truyền thụ khẩu quyết giữa chân sư và đệ tử, cho nên sự truyền bá cũng hạn chế. Hầu hết những khẩu quyết nầy được giữ gìn bí mật, như một yếu quyết, không muốn phổ biến sâu rộng. Vì trước khi bước vào ngưỡng cửa nầy phải đi qua phần căn bản giáo lý Tiểu Thừa và Đại Thừa với ấn chứng vững chắc.

Khẩu quyết nầy tương tự như công án (Koan) của Thiền tông, là cánh cửa mở vào Mật Tông; hành giả phải trì tụng thuờng xuyên, quán chiếu nội tâm, để dần dà phá vỡ màn vô minh bao trùm các giới. Với những trở ngại như thế, cũng như trong Thiền Tông, hành giả cần có vị chân sư hướng dẫn, chỉ điểm và giải thích khó khăn trong việc hành trì.

Mật Tông không thể tiến hành tu tập sau khi hiểu qua một ít kinh sách, đọc vài câu Thần chú, biết vài ấn quyết là đủ. Sự kinh diệu là ở hành trì. Hơn thế nữa con đường tu hành khắc kỷ nầy đòi hỏi sức chịu đựng lâu dài, thân thể khoẻ mạnh, tập trung tư tưởng cao độ thì mới khai mở Phật nhãn được. Thiếu những yếu tố nầy, khó lòng đạt được mức ứng ngộ cao, đi thẳng vào thực tướng các pháp. Thành thử một khi đã bước vào tu hành Mật Tông, các vị chân sư thường khuyến khích hành giả nên tuân thủ pháp tắc thật nghiêm minh, tôn trọng giới luật, hiểu biết sâu rộng để hành trì. Mỗi khi thiện niệm được khai mở, quán chiếu vào mọi pháp, thì ngõ vào Mật Tông được khai thông.
Những lãnh vực của Mật Tông

Thực ra Mật Tông không vận dụng triệt để những tư tưởng Phật Giáo trong cách tu hành và liễu ngộ. Điều học được của Phật Giáo là quan tâm đến việc tìm đường giải thoát ra khỏi vòng sinh tử luân hồi; tuy nhiên, vốn ứng dụng những phương pháp cổ truyền, cho nên những danh tăng Mật Tông vẫn dùng phương tiện để đạt đến sự giải thoát trên căn bản huyền học, đầy chuyện bí mật.

Qua những công trình phát huy tôn giáo nầy của đức Milarepa, những tín đồ Mật Tông được phân chia là làm 2 loại: tu sĩ và Lạt Ma. Tu sĩ là những tín đồ chỉ hành trì theo một số giới luật nhất định. Họ có thể lập gia đình và tu hành trong khả năng hữu hạn. Còn Lạt Ma phải tuân thủ nhiều giới luật ràng buộc hơn, sống theo nếp đạo hạnh thuần nhất để đi đến giải thoát.

Về sau, do sự thay đổi lớn trong pháp môn tu tập. Mật Tông lại được phân chia ra làm nhiều Giáo phái khác, thậm chí có Giáo phái được liệt vào "ngoại đạo" nhưng lại ảnh hưởng rất lớn; nổi tiếng hơn hết là 3 Giáo phái: Giáo phái Số Luận (Samkyas), Giáo phái Thắng Luận (Vaisheshikas) và Giáo phái Huyền Học (Charvaka). Mật Tông có nhiều phương thuật tu luyện đặc biệt do những vị ẩn tu phát kiến; điều nầy đã khiến cho người Tây Phương xem là huyền thuật, khó tin, thậm chí là siêu phàm nữa. Chẳng hạn như khinh thân, tàng hình, dùng Thần Nhãn, khắc kỷ, cùng các phương thuật phát triển Thần Nhãn.

Theo Mật Tông, khi con người tu luyện đạt đến cảnh giới nào đó trong lối tu trì, họ sẽ có nhãn quan siêu phàm gọi là Thần Nhãn. Trong danh từ "Thần nhãn" thì từ "Thần" có nghĩa là phi thường, khác thường, liễu ngộ. Thông thường những tu sĩ nầy thường vận dụng Thần Nhãn của mình để soi sáng được cảnh giới vô hình. Nếu cả hai đều dùng Thần nhãn để liên hệ với nhau thì gọi là "Thần giao cách cảm".

Đạt được Thần Nhãn, có nhiều mức độ khác nhau và đạt được kết quả khác nhau. Chẳng hạn như có người dùng Thần Nhãn để xem tiền kiếp của mình hay của người khác. Lại có người dùng công năng Thần Nhãn trong việc trị bệnh. Với họ, bệnh tật là do vướng mắc của linh hồn. Cởi bỏ vướng mắc tức là lành bệnh.

Tuy nhiên với những đạo sĩ Mật Tông, việc khai mở Thần Nhãn phải được tiến hành thận trọng, nếu sai lầm hay với dụng tâm bất chánh nào đấy, thì hậu quả không biết đâu lường nổi, thậm chí bị tẩu hỏa nhập ma. Đa số đạo sĩ dùng Thần Nhãn để quán kiến nội tâm trong phép tu hành mà thôi. Với họ đây là phương tiện tốt nhất trong việc chiếu kiến của Thần Nhãn.

Những kinh điển chính của tôn giáo cổ cũng như Huyền Môn sau nầy ở Tây Tạng thường đề cập sâu rộng những vấn đề siêu hình, tâm linh, những bí cấp và pháp thuật Thần Thông, Thần Nhãn, soi hồn, những cõi vô hình một cách tự nhiên với nhiều huyền thoại mà người đời thật khó tin. Tuy nhiên, với họ vẫn là những phép mầu, linh thiêng, không thể coi thường được. Khi đề cập đến, họ thường tỏ vẻ trang nghiêm, tôn kính. Những vị chân tu Tây Tạng tin rằng: "Những sự kiện nầy xẩy ra trong mọi nơi, trong mọi cõi đều là những hiện tượng siêu nhiên, huyền bí, tuy nhiên không phải là chuyện khác thường".

Nhưng những nhà nghiên cứu Tây Phương thì lại giải thích bằng cung cách khác, dựa vào yếu tố Cảnh quan học và Thần linh học. Họ cho rằng: Vùng đất Tây Tạng nằm trên vị trí cao nhất thế giới, quanh năm tuyết phủ, cây cối khó mọc được là nơi thuận lợi nhất để kết tụ những hiện tượng siêu hình. Nhiều quốc gia khác không hội đủ điều kiện nầy cho nên các nhà nghiên cứu tại đó đã nhìn về Huyền Học Tây Tạng bằng nhãn quan khác lạ. Khoa học thực nghiệm thì lại càng xa xăm, ngờ vực hơn. Đây là vấn đề thuộc tâm linh, mà xứ sở Tây Tạng thì dễ tiếp cận hơn vùng đất nào khác trên thế giới.

Huyền Học Tây Tạng giải thích các vấn đề bằng con mắt siêu thần linh khác lạ. Chẳng hạn: họ giải thích rằng: Con người thực tạilà một phức thể bao gồm nhiều thể chất khác nhau. Qua cảnh giới siêu hình thì mỗi thể loại tương ứng với một cõi khác. Xác và Vía là hai thể đối lập, cho nên thể xác thì tương ứng với cõi Trần Gian, thể Vía thì tương ứng với Thân Trung Ấm (Bardo). Điều nầy được trình bày khúc chiết trong Tử Thư.

Trong Mật Giáo có nhiều phương pháp hành trì và tu luyện khác nhau, tuy nhiên đa số đều sử dụng những loại Thần chú, ấn quyết, Mạn Đà La... để có thể nhiếp phục được thân tâm của mình trong những nghịch cảnh của đường tu tập. Họ cũng thường dùng đến sức mạnh của nội tâm và ý lực tự cường để trấn áp tà ma, quỷ mị, nghiệp chướng, cho đến khi nào có thể đắc Định Tuệ, khai Pháp Nhãn. Khi đó sẽ hoàn toàn làm chủ Thân và Tâm; đó là bước khởi đầu trên con đường tinh tấn tu hành của Mật Tông.

Một khi đã khai mở Định Tuệ của mình rồi, nhưng nếu người tu hành đã không phát triển những hạnh nguyện rộng lớn và cao cả hơn, thì cũng khó để có thể tiến xa hơn.Xác lập được hạnh nguyện rộng lớn của mình rất quan trọng, vì nhờ đó, có thể thoát khỏi vòng vô minh, mê muội, phá trừ được ngã chấp, khai thông Trí Tuệ. Bắt đầu bước vào con đường tu tập, đòi hỏi một khả năng tu hành, trì giới thật nghiêm nhặt. Sau đó, tìm một không gian tĩnh mịch để thiền định.

Trong những tu viện Tây Tạng ngày trước thường xây những mật thất bằng đá khép kín, để giới tử có thể thực hành việc thể nghiệm trong giai đoạn đầu nầy. Một khi vị Tu sĩ (Trappa) đã phát nguyện là sẽ nhập thất trong một thời gian nào đó, thì vị sư trưởng sẽ trắc nghiệm khả năng, đồng thời bố trí để giới tử có thể tiến hành việc tu tĩnh. Hàng ngày sẽ có vị Giám sự theo dõi và trình lại cho sư trưởng biết được những chuyển biến. Có người nhập thất trong ba tháng, sáu tháng, có khi đến ba bốn năm. Sau khi hết thời gian chứng nghiệm nầy, giới tử có thể rời mật thất. Nhưng nhiều vị khi hoàn tất tu thiền nầy, lại xin trở lại tiếp tục, vì họ thấy hoàn cảnh ở đó thuận lợi cho việc thoát ly những vướng bận của hoàn cảnh chung quanh. Tuy ở trong mật thất để Thiền định, nhưng các tăng sĩ nầy có thể phóng ra bên ngoài những tư tưởng tốt lành để hộ trì cho kẻ khác.

Cũng có vị sau khi hoàn tất thiền định trong mật thất, lại tiến xa hơn bằng cách tìm đến những hang cốc lạnh lẽo trong rừng núi, hay ngồi thiền trên tuyết lạnh, hết năm nầy sang năm khác. Ngoài ra cũng có nhiều vị sau khi kết thúc thời gian Thiền định lại trở về cuộc sống bình thường để nhập thế độ sanh.

Trong việc tu luyện nầy, vai trò của những vị sư trưởng rất quan trọng. Sư trưởng của Mật Giáo không phải là một chức vị được đề cử sau khi tốt nghiệp kỳ thi Lạt Ma. Chức vụ nầy đòi hỏi một công phu tu hành lâu ngày, kiên định vững chắc và qua một thời kỳ Điểm Đạo (Initiation). Điểm đạo ở đây theo đúng lễ nghi và pháp tắc, khác với những hình thức Điểm Đạo hàng chục ngàn Phật tử tham gia tùy tiện như thường thấy tổ chức đại trà tại Hoa Kỳ trong những năm gần lại đây.

Giới tử trong khi tu tập, ngày đêm kiên trì giữ vững tư tưởng của mình. Trong những sách vở bí truyền của Giáo phái Bon Pa Tây Tạng, con người có 3 nguồn năng lực là tư tưởng, dục vọng và hành động thì tư tưởng quan trọng hơn hết.

Tư tưởng chế ngự dục vọng và hướng dẫn hành động theo con đường chính đáng theo Phật dạy. Tu tập nghiêm trì chẳng những tạo được công hạnh trong kiếp nầy mà ảnh hưởng về những kiếp sau nữa. Sự tái sanh của các Lạt Ma thường được giải thích theo chiều hướng nầy.



Bàn Về Hiển Giáo và Mật Giáo
Con người khổ hay vui là bởi suy nghĩ của chính mình. Và nếu chúng ta cứ nghĩ như vậy hoài là đi tới chỗ như vậy luôn. Vì thế trong bất cứ hoàn cảnh nào, thì ý nghĩ của chúng ta là không ai có thể ràng buộc được. Cho nên chúng ta cần phải thay đổi ý nghĩ của mình, để nhận thấy hư thực rõ ràng đi.


Vì thực tế bao giờ cũng có con đường của nó hết, chỉ khác là con đường đó ẩn hiện như thế nào thôi. Chứ hoàn toàn không thể có một cái gì xảy ra như một phép màu kỳ lạ được. Vì bên trong một phép màu, bao giờ cũng là một quá trình tích tụ xây dựng cho nó rất lâu rồi.

Thông thường người ta vẫn nói rằng kinh là hiển giáo, còn chú là mật giáo. Và chú là thường gắn liền với pháp môn Mật Tông, là mật giáo. Nhưng thật ra cái gì ở chiều sâu vô hình thì mới là mật giáo, còn cái gì hiển lộ ra ngoài là hiển giáo, chứ không phải là kinh hay chú gì cả.

Chúng ta nên biết, Thiền Tông chính là pháp môn gần với chân lý nhất. Vì Thiền Tông lấy kinh Kim Cang làm căn bản, mà kinh Kim Cang là phá tướng, đề thấy tánh chân thật của vạn pháp. Do đó Thiền Tông chính là một pháp môn lớn nhất, có chứa tất cả các pháp môn khác vậy.

Vì vậy vấn đề vô tướng hay mật giáo là nằm ở Thiền Tông thôi. Vì Thiền Tông còn gọi là Tâm Tông, là Vô Tướng Tông, là Chân Tông. Hay nói khác hơn bản thân Thiền Tông là có hai phần. Phần thiền hiển giáo và thiền mật giáo. Chứ nói mật giáo là một pháp môn gì đó thì không đúng rồi. Vì cái gì phải có tướng thì mới gọi là pháp môn được.

Vì rằng mật giáo không có phương tiện để giáo hóa chúng sanh, cho nên mật giáo là hư lộ chỉ có trên lý thuyết nhiều hơn trong thực tế, để diễn bày trạch giảng rộng ra cho người khác nghe. Tuy nhiên việc truyền giáo bằng “tâm truyền tâm” là có thật. Nhưng điều này không thể nói rằng đó chính là tôn giáo. Vì nó vô tướng nên không thể xác lập tăng đoàn được, thì làm sao làm nên hình thức của tôn giáo được.

Cái gọi là “tâm truyền tâm” nó chẳng khác nào câu: “Hữu duyên thiên lý năng tương ngộ, vô duyên đối diện bất tương phùng” vậy. Vì đây là sự đồng cảm sâu sắc về cái “bản môn tâm” của nhau, cho nên hai người xa lạ gặp nhau là thấy hợp nhau liền. Và đó chính là “tri kỷ tri âm” hiếm có trên đời. Và cái sự “tâm truyền tâm” cũng vậy thôi.

Vì nó không cần một quá trình tu tập như chúng ta ngày nay, hay là người trong đạo hay ngoài đạo. Vì hai người này có cùng “tần số giao cảm” của tâm lý với nhau rồi, như Đức Phật Thích Ca và tôn giả Đại Ca Diếp vậy. Nhưng đó là điều hy hữu thuộc mật giáo chân truyền. Và nó sẽ rất khó xảy ra ở số đông thuộc tăng đoàn, là hình thức tôn giáo ngày hôm nay.

Vì nếu nói: “Bất lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền, trực chỉ nân tâm, kiến thánh thành Phật”, là chỉ nói về trường hợp có một thầy một trò thôi. Và như thế làm sao có tăng đoàn được. Vì tăng đoàn ít nhất là phải có bốn người trở lên. Và một thầy một trò đó là Phật thì còn chắc ăn. Chứ ngày nay kiến tánh thành ma quỷ cũng không biết chừng.

Do đó Thiền Tông Trung Hoa mới lấy tích "Niêm Hoa Vi Tiếu" làm ra bài kệ này cho oai thôi. Và nó cũng giống như là “Sơn Đông Mãi Võ” vậy mà. Chứ sách thiền là nhiều nhất thiên hạ! Còn thiền sư là nói nhiều nhất thiên hạ! Chứ nói chi là mật giáo, mật ngôn, mật nghĩa âm thầm không có gì hết.

Vậy “bất lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền” là lìa kinh điển, ngoài giáo pháp, là không có văn tự theo “tam tạng kinh điển” nhà Phật gì hết, là tu mật giáo rồi. Là tu đạo gì chứ không phải đạo Phật. Đó là cái sai thứ nhất. Vì bốn câu thơ này chính là sản phẩm của những kẻ “chấp không” mà ra. Vì khi “chấp không” thì người ta mà nói tới cái gì lìa tướng, là lìa sạch trơn không còn dính líu gì cả. Và như thế rõ ràng là sai với chân lý rồi.

Vì “bất lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền”, là không có đi theo con đường hiển giáo bình thường. Nhưng hãy nhớ cho rằng: Con đường mật giáo là con đường của những người đã đắc pháp, thành Bồ Tát rồi thì mới đi được. Còn đa số chúng ta đi tu, thì phải đi theo con đường hiển giáo hết. Và nếu theo nhận thức như vậy, thì Mật Tông cũng thuộc hiển giáo luôn.

Và xưa nay có mấy ai đã “trực chỉ chơn tâm thấy tánh” như đức Phật Thích Ca và tôn giả Đại Ca Diếp đâu? Vì chỉ có một trường hợp đó thôi. Ngoài ra đều tu theo tăng đoàn của số đông cả. Có nghĩa là tu theo “tích môn của đại chúng”. Chứ không phải trường hợp trực chỉ một cái là vô “bản môn tâm” luôn. Và có trực chỉ được đi nữa, thì cái con người kia cũng đã tu học trong tăng đoàn mà ra thôi. Và như thế sao nói ngoài giáo pháp được.

Vì Huệ Năng tự ngộ trước rồi mới đi tu sau, chứ không có ai chỉ gì hết. Nhưng cũng phải nghe lén kinh Kim Cang mà sáng ra. Còn tôi đây cũng biết từ kinh Kim Cang mà ngộ ra cái lý tối thượng của đạo, trước khi đi tu 5 năm. Vậy cái bài thơ đó có cách nhìn là không phải vô lý hoàn toàn. Nhưng nó chỉ xảy ra hi hữu theo thượng duyên, ngoài sự tu tập bình thường của chúng ta thôi. Chứ nó không thể xảy ra như trong đạo Phật ngày nay, theo kiểu hiển giáo được. Cho nên bài thơ đó chỉ đọc nghe cho vui thôi, chứ không thể lấy nó mà tu tập được đâu.

Con người khổ hay vui là bởi suy nghĩ của chính mình. Và nếu chúng ta cứ nghĩ như vậy hoài là đi tới chỗ như vậy luôn. Vì thế trong bất cứ hoàn cảnh nào, thì ý nghĩ của chúng ta là không ai có thể ràng buộc được. Cho nên chúng ta cần phải thay đổi ý nghĩ của mình, để nhận thấy hư thực rõ ràng đi. Vì thực tế bao giờ cũng có con đường của nó hết, chỉ khác là con đường đó ẩn hiện như thế nào thôi. Chứ hoàn toàn không thể có một cái gì xảy ra như một phép màu kỳ lạ được. Vì bên trong một phép màu, bao giờ cũng là một quá trình tích tụ xây dựng cho nó rất lâu rồi.

Do đó khi hiểu vấn đề hiển giáo và mật giáo, là nó giống như cái gì không thể với tới được, thì người ta thường nói quá nó lên. Ví dụ như anh bắt xảy một con cá, thế là về nhà anh bảo anh đã để vuột mất một con cá lớn lắm. Và vấn đề mật nghĩa mật giáo cũng vậy. Vì người ta nghĩ rằng, có những cái mật nghĩa thuộc mật giáo thì không thể nói ra được, và nó vẫn có thể như một pháp tu thiền rất kì diệu vậy. Nhưng thật ra đa số những trường hợp chứng ngộ, không qua kinh điển hay đạo sư chỉ dẫn, thì đều là những trường hợp tự lực mà thôi. Chứ đó không hề là việc phải đi tu như đa số chúng ta đã làm.

Vì nói cho cùng thì người giác ngộ đốn giáo, thì công phu tu tập của họ trước kia cũng rất nhiều rồi. Và đến một ngày nào đó họ được “khai thị” bởi một câu kinh, hay một tiếng động gì đó, thì tất cả tri kiến xưa cũ đều sụp đổ tan tành hết. Và ngay đó liền hiển lộ một chân trời mới của “bản môn tâm”. Là sự thấy biết không còn bị che khuất bởi vô minh nữa. Là bạn đã hình thành tư tưởng lớn rồi.

Và dù đốn giáo hay tiệm giáo gì, thì sự tu tập của chúng ta cũng do từ bên ngoài vào hết. Vì cấu trúc tinh thần của con người đã như vậy rồi mà. Và đó cũng chính là con đường hiển giáo, chứ không hề là con đường mật giáo như chúng ta vẫn tưởng. Vì trên đời này bất cứ cái gì là vô tướng, thì cũng rất khó xác định nó như thế nào, huống chi là việc tu hành sơ cơ khi mới đến với đạo.

Vì thế tu theo bài kệ của Thần Tú thì mới đúng là tu. Còn bài kệ của Huệ Năng thì chỉ đọc lên cho vui thôi, chứ thật ra đó không hề là một con đường để mà chúng ta tu hành được.

Người ta hay nói bản tâm của mình, xưa nay vốn vắng lặng, xưa nay vốn tròn đầy. Là cách nói của người đã giác ngộ thấy tánh thanh tịnh của tâm rồi. Chứ cách nói này là hàm ý khoe khoang rằng, con đường đi về cái bản tâm thanh tịnh của mình, là rất dễ dàng. Nhưng sự thật điều này là lầm to. Vì đó chính là con đường khó khăn nhất trong trời đất này.

Vì cái tánh tâm thanh tịnh tròn đầy đó là nằm ở tận vô thức, và nó luôn bị tiềm thức và ý thức che lấp. Mà hai cái này là có chứa tất cả những cái mà ngũ căn tiếp xúc cảnh trần tạo ra, nên con người rất khó thấy được bản tâm mình là như thế nào. Và nếu bạn có thấy được bản tâm mình đi nữa, thì cảnh trần ngoại vật kia vẫn còn tràn vào tâm bạn như thường, chứ có hết đâu.

Do đó tâm có thanh tịnh hay không, là do bạn đã không ngừng quét sạch rác rưởi ở trong đó đi mỗi ngày hay không. Chứ không thể tự nhiên mà tâm có thể thanh tịnh được. Vì thế con người dù có thành Phật rồi, thì cũng phải tiếp tục tu nữa, chứ không thể nói đã thấy tâm thanh tịnh rồi, là thanh tịnh mãi mãi đâu. Nếu như bạn không còn tu tập tiếp nữa, thì nó vẫn mệt mõi như thường thôi.

Vì thiền có hai mức độ cạn và sâu là: Thiền có ý thức, và thiền không có ý thức. Và cái sự thiền sâu không có ý thức, có nghĩa là bạn đã thiền tới vô thức rồi. Và đó chính là con đường mật giáo không có ai thấy hết. Do đó khi bạn tu bất cứ pháp môn gì, lên cao để thâm nhập vào vô thức, thì đều phải đi tới chỗ này hết. Và tu chỗ này mới đúng là tu tập chân chính nhất. Vì nó chỉ mình nó biết với mình mà thôi, và không thể đem ra so sánh với cái gì được hết.

Vậy chúng ta thấy bên trong bất cứ pháp môn hiển giáo nào, thì cũng có phần mật giáo của nó cả. Đó chính là thiền trong vô thức. Và điều này chính là phần tự lực của mỗi chúng ta, mà ai tu náy biết thôi, chứ không thể nói rõ ra được. Và do đó tinh thần mật giáo sẽ không là một pháp môn được đâu. Vì khi bạn đã đi qua phần hữu tướng của các pháp môn rồi, thì phần suy nghĩ trong vô thức của bạn, đã trở nên mạnh mẽ và rõ ràng hơn, thì gọi là mật giáo vậy.

Điều này có nghĩa là bạn đã biết cách “xử lý” những vấn đề bên trong vô thức của mình rồi. Và nếu bạn đã thiền tới đây rồi, thì chắc chắn bạn sẽ thấy tất cả những cái gì có tướng trên đời này, đều là giả tạo hết. Và đó chính là cái “được” của thiền vậy. Nhưng cái “được” này, cũng chỉ là “chấp không” mà thôi.

Vì nếu thấy đúng chánh pháp, thì chúng ta phải thấy tất cả các pháp hữu vi đều là giả tạo và luôn thay đổi. Nhưng chúng ta cũng phải biết rằng, không thể nào phủ định hết được hình tướng của nó. Vì nếu không có nó thì chúng ta nói về nó làm sao được đây. Cho nên các pháp hữu vi là có đó, nhưng nó có nghĩa như thế nào là bởi quyết định của chúng ta, chứ không phải là nó áp đặt lên chúng ta mà có được.

Cho nên vấn đề đốn ngộ hay đốn giáo, là không thể truyền lại cho người khác như những kinh nghiệm để tu tập được. Vì nói cho cùng bản chất của đốn giáo, cũng chỉ là tiệm giáo mà thôi. Và sự mài dũa cái bản tâm đó, thì cũng rất công phu chẳng khác gì tu tiệm giáo cả. Nhưng là vì nó không hiển lộ ra ngoài cho chúng ta thấy rõ ràng được. Và do nó không hiện tướng ra, thì chúng ta cũng không thể nói về nó được, như những phương pháp để tu chứng như thế nào cả.

Nhưng đối với người đã từng đốn ngộ rồi, thì họ sẽ biết rõ cái bản tâm của mình, đã chuyễn biến như thế nào. Vì khi bạn bỏ cái này đi, thì bạn phải có cái khác để thế vào đó chứ. Và lúc đó tình trạng “đốn ngộ” mới xảy ra. Và đó là quá trình chuyễn hóa bên trong cái bản tâm của bạn, mà chỉ mình bạn biết thôi. Tuy nhiên dẫu bạn đã biết nó chuyễn hóa như thế nào rồi đó, nhưng bạn muốn nói rõ ra điều đó thì vẫn không được. Vì tất cả những điều đó đã xảy ra trong vô thức của bạn mà.

Vậy nếu xét theo tinh thần “chánh pháp bất nhị” thì rất nhiều lý thuyết kinh kệ được giảng bày trước nay đều sai hết. Và điều đó y như bài kệ: “Bất lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền, trực chỉ nhân tâm, kiến thánh thành Phật” vậy. Vì bạn đi tu học cái gì mà nằm ngoài nó, thì bạn cần gì đi tới đó đề cầu học cho mất công.

Vì thiền là giải quyết cái phi lý trên đời, cho nên con đường của thiền là không thể nói rõ được. Vì có thể chúng ta đều có tư tưởng và cũng đều không có thầy dạy, nhưng chúng ta luôn có sự đồng cảm với nhau, thông qua sự ngầm hiểu nhau mà học tập lẫn nhau. Và điều đó tất nhiên sẽ xảy ra với những người, có đồng tư tưởng sâu sắc như nhau thì mới được. Do đó trong việc “ẩn giáo biệt truyền” này, cũng là một cách học khác của hiển giáo mà thôi.

Và từ đây mà xét, thì trong vấn đề tinh thần, chúng ta xưa nay luôn lẫn lộn nhiều thứ quá, nên việc đi tu mất quá nhiều thời gian, mà cũng không được gì cả. Vì thật ra tôn chỉ đạt đến của thiền định là rất thực tế, chứ nó không có bùa phép thần thông biến hóa gì ráo. Vì nó chỉ cần biết lúc nào chúng ta cũng đang an trụ trong hiện tại mà thôi. Điều đó có nghĩa là lúc nào bạn cũng đang “lên đường” hết. Là bạn đang “theo dõi tâm” từ sâu bên trong. Và khi tâm bạn chuyễn biến đến đâu, thì bạn cũng đều biết tới đó hết. Do đó nó không có quá khứ vị lai, hay kiếp trước kiếp sau ở đây. Mà chính là ngay lúc này, bạn đang sống cùng với cái bản tâm của mình trong hiện tại là được rồi.

Vì thế việc nói về mật giáo, là nói tới một thế giới có thật trong tinh thần con người, chứ không phải là một pháp môn kì diệu gì đó, mà chúng ta có thể hay không có thể tu tập theo nó được. Và đến khi nào bạn đi hết con đường hiển giáo, thì lúc đó bạn sẽ tiếp xúc được với con đường mật giáo này thôi. Vì khi đó với con mắt của pháp nhãn, thì bạn có thể “đọc” được hết “cuốn sách thiên nhiên” vĩ đại kia rồi. Và đó chính là ông thầy lớn nhất trên đời của bạn đó.

Vì mật giáo hay không là nằm ở chỗ này đây. Vì bạn nhìn cái gì cũng thấy được ý nghĩa gì đó ẩn tàng trong nó hết. Chứ không khơi khơi nó mang một hình thức gì đó như vậy thôi đâu. Và mật giáo chính là khả năng “đọc” được những cái vô hình, và “dịch” nó lại thành những cái hữu hình, để cho chúng ta hiểu được. Vì nói cho cùng trời đất này được cấu tạo thành, cũng bởi hai cái đó mà thôi. Do đó việc tự học chính là mật giáo rồi.

Tuy nhiên khi vấn đề còn nằm ở trạng thái mật nghĩa, thì ý nghĩa của nó được trãi ra nhiều phía, nên gọi là vô lượng nghĩa. Nhưng khi nó đã được chúng ta “dịch” nó trở thành có ý nghĩa gì đó rồi, thì ý nghĩa của nó sẽ bị khu biệt lại có giới hạn. Vậy vấn đề ở đây là sự học tập thuộc mật giáo, là khó khăn hơn hiển giáo rất nhiều. Vì đây là vấn đề cá nhân của mỗi người, chứ không như một lớp học cho đại chúng nữa. Và vấn đề cá nhân là việc tự lực của mỗi người.

Vì trong cái kho tàng vô hình này, nếu ai đào bới được nhiều nhất, thì đó là người đã học tập giỏi nhất. Và chính ta là ông thầy của ta. Vì chúng ta học làm sao không để cho mình rơi vào hoang tưởng và ngộ nhận thì mới được. Vì vấn đề vô hình ở đây, là rất khó phân biệt thật giả chỗ nào cho rõ ràng. Do đó con đường mật giáo là con đường tự lực khó khăn nhất trên đời. Vì con đường này không có ai viết thành sách để chỉ dạy cho chúng ta cả.

Do đó nếu nói các loại thần chú của Mật Tông, là mật giáo thì cũng không đúng. Vì nó vẫn có tướng nhưng không có nghĩa mà thôi. Và điều đó cũng như chúng ta xem tranh trừu tượng vậy. Vì căn bản mật giáo là luôn có sẳn trong các pháp môn hiển giáo, nếu như bạn tu tập đi tới gần chân lý rồi, thì tất nhiên bạn sẽ gặp nó thôi.

Vì khi bạn đụng tới kinh Kim Cang, thì bạn sẽ thấy tất cả các pháp hữu vi đều không thật. Mà chỉ thấy sự tĩnh lặng của một pháp vô vi là có thật mà thôi. Cho nên chúng ta thấy rằng, mật giáo là một sự học tập từ tâm, trong âm thầm tĩnh lặng một mình. Chứ nó không hề chuyễn động liên tục, như các pháp hữu vi mà chúng ta đã biết.

Vậy thì chúng ta có thể nói rằng, cái gốc vô hình là mật giáo mật nghĩa, sinh ra cái hữu hình là hiển giáo có nghĩa, để gọi tên như những pháp môn. Vậy mật giáo chính là thiền mật hạnh, hay thiền mật định không cần ai biết hết. Và điều này chính là cái gốc rễ cho tất cả các pháp môn khác, được thành tựu niết bàn thanh tịnh. Vì chính sự học tập từ mật giáo trong cái “bản môn tâm” của mình, thì bạn mới học được nhiều nhất. Vì nó là vô hạn mà.

Còn những cái gì có tướng thì cũng đều có giới hạn cả. Tuy nhiên cái vô hạn là rất nguy hiểm, vì nó là “tự động”. Và chúng ta sẽ chẳng có thể nào biết trước cái gì sẽ xảy ra, trong cái chuỗi chuyễn động tự nhiên của nó đâu. Cho nên tu mật giáo là rất khó. Vì bạn giống như phải cầm chắc tay lái, trên con đường hiểm trở một mình trong đêm tối. Vì nếu bạn có một chút sơ hở là tiêu đời ngay. Và vấn đề “tẩu hỏa nhập ma” là do người ta đi vào con đường mật giáo này, mà không thông vậy.

Vậy nếu bạn học được các pháp từ mật giáo, thì bạn bổng nhiên sẽ thông thấu hết tất cả các pháp hiển giáo. Vì hiển giáo là tạo ra phước đức, còn mật giáo là tạo ra công đức.
………………………………………………
Con đường tự học là con đường mật giáo.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét