Thứ Sáu, 15 tháng 1, 2021

DI LẶC CHƠN KINH







Phật Thuyết Kinh Di Lặc Hạ Sanh

Hán dịch: Nguyệt Thị Tam Tạng Trúc Pháp Hộ đời Tây Tấn
Việt dịch: Tại gia Bồ-Tát giới Ưu-bà-tắc Nguyên Thuận





Tôi nghe như vầy:


Một thuở nọ, Đức Phật ở tại nước Xá-vệ, trong vườn Kỳ Thụ Cấp Cô Độc, cùng với 500 vị đại Tỳ-kheo Tăng.


Lúc bấy giờ ngài A-Nan trịch áo lộ vai phải, gối phải quỳ sát đất và bạch Phật rằng:


"Như Lai huyền giám! Đức Như Lai thấu rõ mọi việc trong ba đời--quá khứ, hiện tại, vị lai--không việc gì là chẳng rõ thông. Tên họ cùng danh hiệu, chúng đệ tử và các vị Bồ-Tát của chư Phật thuở quá khứ, hoặc ít hay nhiều, Như Lai đều tất biết. Cho đến một kiếp, trăm kiếp, hay vô số kiếp, Như Lai thảy đều quán sát và biết rõ cũng lại như vậy. Như Lai đều có thể phân biệt tên họ của quốc vương, đại thần cùng dân chúng nơi đó. Như hiện tại ở quốc độ này có bao nhiêu chúng sanh, Như Lai cũng lại biết rõ như thế. Trong tương lai lâu xa về sau khi Đức Di-lặc xuất hiện ở thế gian để thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, Ngài có bao nhiêu chúng đệ tử, cõi nước Phật an vui như thế nào và sẽ dài bao lâu? Nay chúng con muốn nghe việc ấy."


Phật bảo ngài A-Nan:


"Ông hãy ngồi xuống và nghe Ta nói về sự xuất hiện của Đức Di-lặc cùng quốc độ an vui của Ngài và chúng đệ tử nhiều hay ít. Ông hãy khéo tư duy và luôn nhớ nghĩ."


Khi đó ngài A-Nan vâng lời Phật dạy và liền trở về chỗ ngồi. Lúc bấy giờ Thế Tôn bảo ngài A-Nan rằng:


"Trong tương lai lâu xa về sau, ở thế giới này sẽ có một thành quách tên là Diệu Tràng Tướng, đông tây 12 do tuần, nam bắc 7 do tuần, đất đai màu mỡ, cuộc sống của dân chúng thịnh vượng, và có các đường lộ thẳng tắp.



Lúc bấy giờ trong thành có một long vương tên là Thủy Quang. Ban đêm vua rồng mưa hương thơm thấm ướt đất, còn ban ngày thì làm cho không khí ôn hòa mát mẻ.



Khi đó trong thành Diệu Tràng Tướng có một quỷ la-sát tên là Diệp Hoa, việc làm luôn thuận theo giáo Pháp và không vi phạm chánh giáo. Sau khi mọi người đã an giấc, nó đi đến những nơi bất tịnh để tẩy trừ đồ ô uế, rồi lấy nước hương mà rưới lên chỗ đất đó và làm cho sạch sẽ và thơm ngát vô cùng.




Này A-Nan, ông nên biết đất đai ở châu Diêm-phù vào lúc đó, đông tây nam bắc là ngàn vạn do-tuần. Các núi non, sông hồ và vách đá thảy đều tự diệt mất. Nước của bốn biển lớn, trong mỗi biển sẽ giảm bớt đi một vạn. Khi ấy, mặt đất ở châu Diêm-phù sẽ bằng phẳng cực kỳ như tấm gương sáng. Khắp đất đai ở trong châu Diêm-phù đều có ngũ cốc tươi tốt, cuộc sống của dân chúng thịnh vượng, có rất nhiều đồ trân bảo, các thôn xóm kề cận và chỉ cách xa bằng tiếng gà gáy. Lúc đó, những loại hoa quả cùng cây cối khô héo và hôi xấu đều cũng sẽ tự biến mất. Duy chỉ còn lại cây đẹp quả ngọt. Những giống cây thơm ngát và tuyệt đẹp sanh nở khắp trên mặt đất.


Lúc bấy giờ, khí hậu sẽ ôn hòa mát mẻ, thời tiết của bốn mùa sẽ thuận hòa. Dân chúng trong cõi nước kia đều không có 108 loại hoạn nạn. Họ không có tham dục, sân khuể, ngu si và buồn lo. Lòng của họ bình an và đều đồng một ý. Khi thấy nhau, họ đều vui mừng và nói với nhau những điều tốt lành. Họ có đồng một ngôn ngữ, giống như người ở châu Uất-đơn-việt, không một chút dị biệt.



Khi ấy ở trong châu Diêm-phù, dân chúng lớn nhỏ đều đồng có tâm tánh giống nhau và không có sự sai biệt. Khi ý của họ muốn đi đại tiểu tiện, thời đất sẽ tự nhiên hé ra và khi xong đất liền khép lại.



Lúc bấy giờ, đất đai ở trong châu Diêm-phù sẽ tự nhiên mọc ra lúa gạo không có vỏ trấu. Chúng thơm ngon vô cùng và khi ăn vào thời sẽ không có bệnh khổ. Các châu báu như là vàng, bạc, trân bảo, xa cừ, mã não, trân châu và hổ phách, chúng nằm rải khắp nơi trên đất mà chẳng có ai trông coi. Dân chúng lúc ấy cầm những châu bảo này và đều tự nói lời như vầy:



'Người xưa vì những châu báu này mà tàn hại lẫn nhau, khiến cho phải bị nhốt giam vào lao ngục để thọ lấy vô số khổ não. Ngày hôm nay, các châu báu này ví như ngói đá và chẳng có ai thèm bảo quản.'



Lúc bấy giờ sẽ xuất hiện vua Chuyển Luân tên là Nhương-khư. Ngài dùng Chánh Pháp trị vì và thành tựu đầy đủ thất bảo. Các thất bảo đó là:



- kim luân báu,
- voi báu,
- ngựa báu,
- châu báu,
- ngọc nữ báu,
- chủ tàng báu,
- và chủ binh báu.

Tuy các thất bảo này trấn giữ trong châu Diêm-phù, nhưng không cần dùng đến dao gậy mà hết thảy đều tự nhiên thần phục.


Này A-Nan! Lúc đó sẽ có bốn bảo tàng lớn:



1. Đại bảo tàng Y-bát-đa ở tại nước Càn-đà-la, có vô số kỳ trân dị bảo, nhiều không thể kể xiết.


2. Đại bảo tàng Bàn-trục-ca ở tại nước Di-đề-la, cũng có rất nhiều trân bảo.


3. Đại bảo tàng [Tân-già-la] ở tại nước Tu-la-tra, cũng có rất nhiều trân bảo.


4. Đại bảo tàng Nhương-khư ở tại nước Ba-la-nại, có vô số kỳ trân dị bảo, nhiều không thể kể xiết.


Bốn đại bảo tàng này sẽ tự nhiên ứng hiện và khi đó các người canh giữ đều đến tâu với nhà vua rằng:


'Kính mong đại vương hãy lấy các vật báu của những bảo tàng này mà bố thí cho các kẻ bần cùng.'


Lúc bấy giờ, khi đại vương Nhương-khư đã được những bảo tàng này, ngài không có ý tưởng gì về tài bảo và cũng chẳng màng nhòm ngó đến chúng.


Khi đó trên cây ở trong châu Diêm-phù tự nhiên sanh ra y phục mềm mại vô cùng và dân chúng sẽ lấy mặc vào. Đây giống như người ở châu Uất-đơn-việt hiện nay, trên cây tự nhiên sanh ra y phục, không một chút sai khác.


Vào thời ấy, vua Nhương-khư có một vị đại thần tên là Thiện Tịnh, từ lúc trẻ ông đã được nhà vua hết mực kính trọng. Ngài lại có tướng mạo đoan chánh, không cao không thấp, không mập không ốm, không trắng không đen, không già không trẻ. Vị hiền thê của đại thần Thiện Tịnh thuở đó tên là Tịnh Diệu. Trong các cô con gái của nhà vua, nàng là vị công chúa tài sắc vẹn toàn nhất và có dung nhan như phi hậu của thiên đế. Trong miệng tỏa ra mùi hương của hoa sen xanh, trên thân toát ra mùi hương chiên đàn. Lại chẳng hề có 84 điều xấu của các phụ nữ, cũng không có tật bệnh cùng mọi ý tưởng sai quấy.


Lúc bấy giờ ở cõi trời Đâu-suất, Di-lặc Bồ-Tát quán thấy cha mẹ mình không già và cũng không trẻ, rồi ngài giáng thần vào thai mẹ và từ hông bên phải hạ sanh. Đây cũng giống như Ta ngày nay đã sanh ra từ hông bên phải, không một chút sai khác. Di-lặc Bồ-Tát cũng lại như thế. Khi đó mỗi chư thiên ở cõi trời Đâu-suất đều xướng rằng:


'Di-lặc Bồ-Tát đã giáng thần hạ sanh.'


Lúc ấy đại thần Thiện Tịnh liền đặt tên cho con là Di-lặc. Di-lặc Bồ-Tát có thân màu hoàng kim với 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp dùng để trang nghiêm nơi thân.


Vào thời ấy, tuổi thọ của loài người rất dài, không có các hoạn nạn và đều sống đến 84.000 năm. Khi người nữ được 500 tuổi thì họ mới đi xuất giá.



Lúc bấy giờ, Đức Di-lặc sống tại gia khoảng một thời gian không lâu thì sẽ xuất gia học Đạo. Khi ấy, ngài rời khỏi thành Diệu Tràng Tướng và cách đó không xa có một Đạo thụ tên là Long Hoa, cao một do-tuần, rộng 500 bộ. Di-lặc Bồ-Tát sẽ ngồi ở dưới cây kia mà thành Đạo quả Vô Thượng. Ngay trong hôm Đức Di-lặc đi xuất gia thì liền giữa đêm đó ngài sẽ thành Vô Thượng Đạo. Khi ấy Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới chấn động sáu cách, mỗi một vị địa thần đều bảo với nhau rằng:




'Bây giờ Đức Di-lặc đã thành Phật.'


Sau đó tiếng vang chuyển đến cung trời của Tứ Thiên Vương:


'Đức Di-lặc đã thành Phật Đạo.'



Tiếp đó tiếng vang lan đến khắp cõi trời Đao-lợi, trời Tu-diệm-ma, trời Đâu-suất-đà, trời Hóa Lạc, trời Tha Hóa Tự Tại, và âm thanh đó triển chuyển vang đến tận cõi Phạm Thiên:


'Đức Di-lặc đã thành Phật Đạo.'



Lúc bấy giờ có ma vương dùng Pháp trị vì, tên là Đại Tướng. Khi nghe được danh hiệu của Như Lai, ngài vui mừng hớn hở đến nỗi suốt bảy ngày bảy đêm không ngủ nghỉ. Khi đó ma vương dẫn theo vô số thiên nhân từ cõi trời dục giới đến chỗ của Đức Phật Di-lặc để cung kính lễ bái. Thánh Tôn Di-lặc vì chư thiên và hàng người mà lần lượt giảng nói về các bộ luận vi diệu. Các bộ luận để đạt đến cảnh giới vi diệu và xa lìa các ý tưởng ái dục bất tịnh, như là: luận về bố thí, luận về trì giới và luận về sanh thiên.



Lúc bấy giờ, khi Đức Di-lặc đã thấy các đại chúng, Ngài sanh tâm hoan hỷ và vì chư thiên mà rộng phân biệt nghĩa lý về Pháp Tứ Đế: Khổ, Tập, Diệt, Đạo của chư Phật Thế Tôn thường giảng nói. Khi ấy có 84.000 thiên tử dứt sạch các trần cấu và đắc Pháp nhãn thanh tịnh. Lúc ấy Ma Vương Đại Tướng bảo các dân chúng của thế giới kia rằng:


'Các người hãy mau xuất gia. Vì sao? Bởi vì hôm nay Đức Di-lặc đã qua bờ kia, thế nên Ngài cũng sẽ độ thoát các ông và khiến các ông sẽ đến được bờ kia.'


Lúc bấy giờ ở trong thành Diệu Tràng Tướng có một trưởng giả tên là Thiện Tài. Khi nghe ma vương khuyên bảo và lại nghe thanh âm của Phật nên ngài đã dẫn theo 84.000 người đến Đạo Tràng của Đức Phật Di-lặc, đầu đảnh lễ dưới chân Phật và họ ngồi qua một bên. Khi ấy Đức Di-lặc lần lượt giảng nói về các bộ luận vi diệu. Các bộ luận để đạt đến cảnh giới vi diệu và xa lìa các ý tưởng ái dục bất tịnh, như là: luận về bố thí, luận về trì giới và luận về sanh thiên.


Lúc bấy giờ, khi Đức Di-lặc thấy hàng dân chúng được tâm khai ý giải, Ngài vì họ mà rộng phân biệt nghĩa lý về Pháp Tứ Đế: Khổ, Tập, Diệt, Đạo của chư Phật Thế Tôn thường giảng nói. Khi ấy có 84.000 người dứt sạch các trần cấu và đắc Pháp nhãn thanh tịnh. Khi đó Trưởng giả Thiện Tài và 84.000 người liền đến trước Phật để thỉnh cầu xuất gia. Sau đó, họ khéo tu Phạm hạnh và đều chứng Đạo A-la-hán.


Ở Pháp hội lúc ban sơ của Đức Di-lặc có 84.000 người đắc Đạo A-la-hán. Khi Nhương-khư Vương nghe Đức Di-lặc đã thành Phật Đạo, ngài liền muốn đến chỗ của Phật để nghe Pháp. Lúc đó, Đức Phật Di-lặc thuyết Pháp cho nhà vua về sơ thiện, trung thiện, cánh thiện và các nghĩa lý thâm thúy.



Một thời gian sau, Nhương-khư Vương lập thái tử lên ngôi. Ngài ban cho người thợ hớt tóc các đồ trân bảo và lại dùng những châu báu khác nhau để thí cho hàng Bà-la-môn. Rồi ngài dẫn 84.000 người đến chỗ của Phật và muốn được làm Sa-môn. Sau đó họ đều thành tựu Đạo quả và chứng đắc A-la-hán.



Khi đại trưởng giả Thiện Tịnh nghe Đức Di-lặc đã thành Phật Đạo, ngài dẫn theo 84.000 chúng Phạm-chí đến chỗ của Phật và cầu xin làm Sa-môn. Sau đó họ đều đắc Đạo A-la-hán--duy riêng một mình Tỳ-kheo Thiện Tịnh chỉ đoạn trừ ba kết sử và đắc quả Tu-đà-hoàn.



Khi đó, Phật mẫu Tịnh Diệu dẫn theo 84.000 thể nữ đến chỗ của Phật và cầu xin làm Tỳ-kheo-ni. Sau đó họ đều đắc Đạo A-la-hán--duy riêng một mình Tỳ-kheo-ni Tịnh Diệu chỉ đoạn trừ ba kết sử và đắc quả Tu-đà-hoàn.



Lúc bấy giờ, khi các phu nhân của hàng sát-đế-lợi nghe Đức Di-lặc Như Lai xuất hiện ở thế gian và thành Đẳng Chánh Giác, hàng ngàn vạn người họ đến chỗ của Phật, đầu đảnh lễ dưới chân Phật và ngồi qua một bên. Trong lòng họ ai nấy đều muốn làm Tỳ-kheo-ni để xuất gia học Đạo. Trong số họ, có người chứng quả, còn có người thì không.



Này A-Nan! Những người không chứng quả vào thời đó, họ sẽ phụng sự Phật Pháp đến suốt trọn đời. Họ nhàm chán mọi việc thế tục và tu hành để đoạn trừ các ý tưởng dục lạc.


Lúc bấy giờ Đức Di-lặc cũng sẽ nói các giáo Pháp của tam thừa như là Ta hôm nay vậy. Trong chúng đệ tử, Đại Ca-diếp là vị tu hành theo 12 hạnh đầu-đà. Đại Ca-diếp đã khéo tu Phạm hạnh ở chư Phật thuở quá khứ. Vị này sẽ phụ giúp Đức Di-lặc khuyến tấn và giáo hóa dân chúng vào thời ấy."



Lúc bấy giờ, Đại Ca-diếp đi đến gần chỗ của Như Lai, rồi ngài ngồi kiết già, chánh thân chánh ý và nhất tâm chánh niệm. Khi đó Đức Thế Tôn bảo Đại Ca-diếp rằng:



"Ta nay đã già yếu và đã ngoài 80 tuổi. Hiện tại Như Lai có bốn đại Thanh Văn với trí tuệ vô tận, có đầy đủ phước đức và có thể đảm đang việc hoằng hóa. Bốn vị này là những ai? Đó là:



- Tỳ-kheo Đại Ca-diếp,
- Tỳ-kheo Đồ-bát-thán,
- Tỳ-kheo Tân-đầu-lô,
- và Tỳ-kheo La-vân.



Tứ đại Thanh Văn các ông đây đừng vội nhập Bát-niết-bàn. Chờ khi nào Pháp của Ta đã diệt tận, rồi sau đó mới nhập Bát-niết-bàn. Đại Ca-diếp cũng khoan nhập Bát-niết-bàn, ông hãy đợi đến khi Đức Di-lặc xuất hiện ở thế gian. Vì sao thế? Đệ tử do Đức Di-lặc giáo hóa cũng chính là đệ tử của Thích-ca-văn, do Ta phó chúc để giáo hóa và khiến họ dứt trừ sạch hữu lậu.



Sau khi Ta nhập Niết-bàn, Đại Ca-diếp sẽ ở trên một ngọn núi thuộc thôn Tỳ-đề của nước Ma-kiệt-đà mà nhập định. Khi Đức Di-lặc Như Lai thành Đạo, Ngài sẽ dẫn theo vô số ngàn người đi đến núi kia. Nhờ hồng ân của Phật, các quỷ thần mở cửa và sẽ thấy Đại Ca-diếp đang nhập thiền định trong hang động. Khi đó Đức Di-lặc dùng ngón tay bên phải chỉ vào Đại Ca-diếp và bảo các đại chúng rằng:



'Vào thuở quá khứ lâu xa về trước, Thích-ca-văn Phật có một đệ tử tên là Đại Ca-diếp, là vị đầu-đà khổ hạnh đệ nhất. Nay hiện tại chính là người này.'



Khi đại chúng thấy việc ấy xong, họ tán dương là việc chưa từng có. Vô số trăm ngàn chúng sanh sẽ dứt sạch các trần cấu và đắc Pháp nhãn thanh tịnh. Hoặc lại có chúng sanh sẽ thấy được thân tướng của Đại Ca-diếp. Đây gọi là hội đầu tiên và sẽ có 96 ức người đắc Đạo A-la-hán. Những người này đều là các đệ tử của Ta. Vì Sao? Là bởi vì họ đều do Ta giáo huấn và làm theo bốn sự nhân duyên: huệ, thí, nhân, ái, và những việc làm lợi ích người.

Này A-Nan! Khi đó Đức Di-lặc Như Lai sẽ lấy Tăng-già-lê đắp lên thân của Đại Ca-diếp và bỗng nhiên thân của Đại Ca-diếp sẽ sáng như các vì sao. Lúc ấy Đức Di-lặc lại dùng mọi thứ hương hoa để cúng dường Đại Ca-diếp. Vì sao thế? Đó là vì chư Phật Thế Tôn đều có lòng cung kính đối với Chánh Pháp. Di-lặc cũng đã thọ Chánh Pháp từ nơi Ta mà đắc thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.



Này A-Nan! Ông nên biết ở hội thứ hai của Đức Phật Di-lặc có 94 ức người đắc Đạo A-la-hán. Họ cũng đều là đệ tử di giáo của Ta và thực hành bốn sự cúng dường.



Ở hội thứ ba của Đức Phật Di-lặc có 92 ức người đắc Đạo A-la-hán. Họ cũng đều là đệ tử di giáo của Ta. Khi đó, danh hiệu của Tỳ-kheo đều gọi là Từ Thị đệ tử, như là Ta hôm nay, hàng Thanh Văn đều xưng là đệ tử của Thích-ca.



Lúc bấy giờ Đức Di-lặc sẽ thuyết Pháp cho các đệ tử như vầy:



'Các Tỳ-kheo hãy tư duy:


[1] nghĩ tưởng vô thường;
[2] nghĩ tưởng trong vui có khổ;
[3] nghĩ tưởng hết thảy đều không có ngã;
[4] nghĩ tưởng tất cả đều chẳng thật có;
[5] nghĩ tưởng sự biến đổi của sắc thân;
[6] nghĩ tưởng máu bầm ứ đọng;
[7] nghĩ tưởng thân bị phù thũng;
[8] nghĩ tưởng ăn không tiêu hóa;
[9] nghĩ tưởng máu mủ mụt nhọt;
[10] nghĩ tưởng hết thảy mọi sự trên thế gian đều chẳng thể mãi an vui.



Tại vì sao? Các Tỳ-kheo nên biết, 10 điều nghĩ tưởng này đều là do Đức Phật Thích-ca-văn đã giảng nói cho các ông, khiến các ông dứt trừ hữu lậu và tâm được giải thoát.



Nếu có ai trong chúng đệ tử của Đức Phật Thích-ca-văn thuở quá khứ mà tu Phạm hạnh thì sẽ đến chỗ của Ta.



Hoặc đã ở tại Đức Phật Thích-ca-văn cúng dường Tam Bảo thì sẽ đến chỗ của Ta.


Hoặc đã ở tại Đức Phật Thích-ca-văn tu căn lành chừng thời gian khảy móng tay thì sẽ đến chỗ của Ta.


Hoặc đã ở tại Đức Phật Thích-ca-văn thực hành Tứ Vô Lượng Tâm thì sẽ đến chỗ của Ta.



Hoặc đã ở tại Đức Phật Thích-ca-văn thọ trì Ngũ Giới và Tam Quy Y thì sẽ đến chỗ của Ta.


Hoặc đã ở tại Đức Phật Thích-ca-văn dựng xây tháp miếu thì sẽ đến chỗ của Ta.


Hoặc đã ở tại Đức Phật Thích-ca-văn tu bổ chùa tháp thì sẽ đến chỗ của Ta.


Hoặc đã ở tại Đức Phật Thích-ca-văn thọ giới Bát Quan Trai thì sẽ đến chỗ của Ta.


Hoặc đã ở tại Đức Phật Thích-ca-văn cúng dường hương hoa thì sẽ đến chỗ của Ta.


Hoặc đã ở tại Đức Phật Thích-ca-văn rơi lệ thương khóc khi nghe Chánh Pháp thì sẽ đến chỗ của Ta.


Hoặc đã ở tại Đức Phật Thích-ca-văn nhất tâm thọ trì Kinh Pháp thì sẽ đến chỗ của Ta.


Hoặc đã ở tại Đức Phật Thích-ca-văn khéo tu Phạm hạnh thì sẽ đến chỗ của Ta.


Hoặc đã ở tại Đức Phật Thích-ca-văn biên chép hoặc đọc tụng Kinh điển thì sẽ đến chỗ của Ta.



Hoặc đã ở tại Đức Phật Thích-ca-văn phụng sự cúng dường thì sẽ đến chỗ của Ta.'


Khi ấy Đức Di-lặc sẽ nói bài kệ này:



'Siêng năng trì giới tu công đức
Thiền định tư duy làm việc lành
Ai mà khéo tu các Phạm hạnh
Người đó sẽ đến chỗ của Ta

Khuyến tấn bố thí lòng hoan hỷ
Phản bổn hoàn nguyên tu tâm tánh
Ý niệm không có điều sai quấy
Họ đều sẽ đến chỗ của Ta

Từ Bi Hỷ Xả phát tâm thành
Phụng sự cúng dường chư Như Lai
Cúng dường thức ăn cho Thánh chúng
Họ đều sẽ đến chỗ của Ta

Hoặc tụng Khế Kinh thọ trì giới
Tu tập việc lành dạy bảo người
Thắp sáng ngọn đèn của Chánh Pháp
Nay họ sẽ đến chỗ của Ta

Khéo trồng thiện căn nơi Thích-ca
Cúng dường lễ bái xá-lợi Phật
Phụng sự Phật Pháp cúng dường Tăng
Nay họ sẽ đến chỗ của Ta

Nếu như có người biên chép Kinh
Rộng tuyên giảng nói nghĩa cao thâm
Cúng dường thọ trì Kinh Pháp Phật
Họ đều sẽ đến chỗ của Ta

Tràng phan lọng lụa cùng mọi vật
Cúng dường tự viện Phật tháp miếu
Trong lòng nhớ niệm Nam-mô Phật
Họ đều sẽ đến chỗ của Ta

Phụng sự cúng dường chư Như Lai
Quá khứ hiện tại cùng vị lai
Thiền định chánh niệm tâm bình đẳng
Như như bất động bất giảm tăng

Tận lực hộ trì Phật Pháp Tăng
Phụng sự cúng dường chư Thánh chúng
Phụng sự Tam Bảo gắng luôn khi
Tất sẽ mau đến nơi vô vi'



Này A-Nan! Ông nên biết Đức Di-lặc Như Lai sẽ ở trong đại chúng kia mà nói bài kệ đó. Khi ấy chư thiên cùng hàng người ở trong đại chúng kia tư duy về 10 điều nghĩ tưởng trên. Lúc đó sẽ có 11 ức người dứt sạch các trần cấu và họ đắc Pháp nhãn thanh tịnh.

Chư Tăng chúng của Đức Di-lặc Như Lai trong 1.000 năm không có phạm lỗi lầm. Khi ấy Ngài thường dùng một bài kệ để làm giới cấm:



'Khẩu cùng ý không làm điều ác
Nghiệp từ thân cũng đừng sai phạm
Nếu dứt trừ ba nghiệp xấu này
Ải sanh tử sẽ mau ra khỏi'



Nhưng sau 1.000 năm sẽ có người phạm giới, khi đó Ngài mới lập giới luật. Đức Di-lặc Như Lai sẽ thọ 84.000 năm. Sau khi nhập Niết-bàn, giáo Pháp của Ngài sẽ trụ thế 84.000 năm. Vì sao? Bởi vì chúng sanh thời đó đều là những người có căn tánh lanh lợi.



Nếu có thiện nam tử thiện nữ nhân nào muốn thấy được Đức Phật Di-lặc và chư Thanh Văn ở ba hội, thành Diệu Tràng Tướng, thấy vua Nhương-khư cùng bốn đại bảo tàng trân bảo, muốn ăn lúa gạo tự nhiên, mặc y phục tự nhiên, và sau khi mạng chung muốn sanh lên trời, thì thiện nam tử thiện nữ nhân này phải nên tinh tấn, không sanh tâm lười biếng, phụng sự cúng dường các Pháp sư cùng lấy đủ mọi hương hoa để cúng dường và cũng đừng để thiếu hụt.



Này A-Nan! Phải nên học và thực hành như vậy."


Lúc bấy giờ, ngài A-Nan cùng đại chúng nghe Phật nói xong, họ hoan hỷ phụng hành.







Di Lặc cứu khổ chân kinh

Lúc bấy giờ, Kinh này vẫn chưa lưu truyền xuống, cũng là vì thời kỳ chưa tới. Mãi đến lúc Kim Công Tổ Sư vào năm Dân Quốc thứ 15, ngày 3 tháng 3 hiển hoá mượn khiếu thổ lộ ra. Kim Công Tổ Sư chính là Tổ Sư đời thứ 17, tức Bạch Dương Tổ Sư, Minh Sư Lộ Trung Nhất , người tỉnh Sơn Đông, huyện Tế Ninh, sinh vào năm thứ 29 Thanh Đạo Quang, tức là trước năm 63 ( năm 1849 ) Tuế Thứ Tị Dậu ngày 24 tháng 4 đản sinh vào giờ ngọ, là hoá thân của Di Lặc Cổ Phật, thánh hiệu “ Nho đồng Kim Công “, chúng ta gọi ngài là “ Kim Công Tổ Sư ”, đạo hiệu “ Nam Mô Thiên Nguyên Thái Bảo A Di Đà Phật “. Dân Quốc năm thứ 14 ngày 2 tháng 2 ngài thành đạo, Dân Quốc năm thứ 15 ngày 3 tháng 2, ngài mượn khiếu của Dương Xuân Linh ở Sơn Tây đến Sơn Đông hiển hoá 100 ngày. Trong vòng 100 ngày này không ăn gì hết, miệng nói “ Kim Công Diệu Điển “ và “ Di Lặc chân kinh “ , đấy là “ Kim Kê sơ xướng ( Gà vàng gáy lần đầu ), quyển “ Di Lặc Chân Kinh “ mới xuất hiện trên đời. Năm Dân Quốc thứ 18 lại mượn khiếu của Đỗ Ngọc Côn ở Hà Nam, hiển hoá 1 tháng trời, đấy là “ Kim Kê nhị xướng “. Còn khi “ Kim Kê tam xướng “, Lão Tổ Sư sẽ đích thân đến bình thu vạn giáo, tức là vạn pháp quy nhất, thiên hạ sẽ thái bình.



Phật thuyết Di Lặc cứu khổ kinh



Thời điểm Di Lặc Tổ Sư giáng sinh lần đầu tiên là 2500 năm về trước, xuất thân ở nước Ba La nại thuộc miền Bắc Ấn Độ. Cha của ngài là thừa tướng của nước Ba La Nại, Di Lặc là Sao Bắc Vương Chân Võ hạ phàm chuyển thế, cũng chính là giáo chủ của Vạn giáo quản trưởng thiên bàn trong tương lai. Quốc Sư của nước Ba La Nại ( Pháp sư Bà La môn giáo ) biết xem thiên văn, biết được sự việc này nên sinh lòng ghen ghét đố kị, ngụy tấu với Quốc Vương rằng : Trong số Những đứa trẻ sinh ra ở Nước ta hôm nay vào 3 canh giờ Tý Sửu Dần sẽ có một đứa là do sao Ác Ma đến đầu thai, sau này lớn lên sẽ tranh giành giang sơn với Quốc Vương, nên cần phải diệt trừ. Quốc Vương tin nghe lời nói của Quốc Sư, ngay lập tức hạ một đạo Thánh chỉ cho các Phủ Châu Huyện của cả nước phải giết chết tất cả những đứa trẻ sinh vào 3 giờ tý Sửu Dần của ngày hôm nay. Thế nhưng Thừa Tướng phu nhân cũng hạ sinh Di Lặc vào thời gian này cho nên sau khi nghe bẩm báo thì Thừa tướng và phu nhân đều rất lo lắng không yên. Phu nhân ngay lập tức kêu em trai mình đưa Di Lặc trốn ra nước ngoài, nhanh chóng nhắc Thừa Tướng hạ lệnh phái 16 vị Võ Tướng hộ pháp cả đêm xuất Quan ải đem trốn ra nước ngoài nuôi nấng. Đến khi 7 tuổi, dì của Di Lặc dẫn ngài và 16 vị tùy Tướng đi theo cùng đến tham bái đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Sau khi thọ ký xong, chỉ duy nhất ngài Di Lặc là không tính vào hàng đệ tử, bởi vì Phật Thích Ca Mâu Ni biết rằng ngài Di Lặc chính là vị Tổ sư 3000 năm sau sẽ hạ thế chưởng Thiên Bàn và thâu viên. Lúc bấy giờ, Phật Thích Ca bắt đầu giảng thuật lại 3000 năm sau Di lặc sẽ hạ thế cứu khổ cứu nạn, phổ độ 96 nguyên nhân phật tử. Tất cả mọi người vào thời điểm đó phải tái hạ thế chuyển sanh làm người để được ngài thọ ký mới có thể thật sự thoát khỏi phàm trần, miễn khỏi lưu lạc trong bể khổ sinh tử luân hồi lần nữa. Cái này rất quan trọng bởi vì sau 3000 năm nếu không chuyển thế hạ phàm để được Di Lặc Phật thọ ký thì chúng ta sẽ không có cách nào thoát ly sinh tử luân hồi. Cho nên đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã nói lúc bấy giờ để giải thích rõ vào thời Tam Kỳ Mạt Kiếp Di Lặc Tổ Sư sẽ quản chưởng Thiên bàn, tiếp nhận một đường Kim Tuyến đại đạo truyền trong thời Tam Kỳ Mạt Kiếp. Đấy gọi là bàn việc Mạt Hậu Nhất Trước Thâu viên đại sự, phụng thừa lệnh của Lão Mẫu mà đại khai phổ độ, bắt đầu từ trung Quốc phổ truyền các nước trên toàn cầu. Đoạn này là một đoạn mà 2500 năm về trước đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã nói đến, điều đó cũng chứng minh rằng 2500 năm về sau, Phật Di Lặc vào thời Tam Kỳ Mạt Kiếp sẽ đến nhân gian, trên trời thì quản chưởng Thiên bàn, nơi trần gian thì bàn chuyện Thâu Viên Đại sự, cho nên mới gọi là Phật nói. Cho nên bộ kinh này là bộ kinh do Phật nói, không phải lả người bình thường tùy tiện viết ra.



Ở trên là kinh do Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã nói đến 2500 năm về trước. Tiếp theo là Quyển Di Lặc Cứu Khổ Chân Kinh lại có một bối cảnh nhân duyên khác.



Đông Phương Tổ Sư đời thứ 17 là Kim Công Tổ Sư, tôn hiệu là Nam Mô thiên Nguyên Thái Bảo A Di Đà Phật, cũng có nghĩa rằng Đức Phật Di Lặc đã đến nhân gian rồi, cũng có nghĩa là thời điểm mà 2500 năm về trước Đức Phật thích Ca Mâu Ni từng nói đến nay đã tới rồi. Đông Phương Tổ Sư đời thứ 17 là Kim Công Tổ Sư chính là do đức Phật Di Lặc hóa thân chuyển thế vào sau công nguyên năm 1849, năm Tuế Thứ Kỷ Dậu tuổi gà, nên mới có câu nói là Kim Kê Tam Xướng.



Kim Kê Nhất Xướng năm 1926 sau công nguyên : ngày 2 tháng 2 năm 1925, Lộ Tổ Sư quy không, đến ngày 3 tháng 3 năm 1926 tức là 1 năm sau, Lộ Tổ mượn khiếu của cô Dương Xuân Linh ở Tỉnh Sơn Tây đến Sơn Đông Tế Ninh hiển hóa, tổng cộng 100 ngày không ăn không uống, miệng nói Kim Công Diệu Điển và quyển Di Lặc Cứu Khổ Chân Kinh này để truyền lại cho thế gian. Cho nên quyển Di Lặc cứu khổ chân kinh này không nằm trong bộ Đại tạng Kinh mà Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã từng nói. Cho nên trong Kinh Điển không thể tìm thấy bộ kinh nay. Nhưng lúc nãy chúng ta có đề cập đến 2500 năm trước đây đức Phật Thích Ca từng nói đến. Đồng thời, trong 100 ngày đó, hai tay của cô Dương Xuân Linh cầm 2 cây bút lông cùng một lúc viết nên 2 câu đối bằng chữ Triện. Cách viết thế này : 2 tay cầm 2 cây bút lông rời xa mặt giấy, mực rớt từ trên cao xuống, sau đó thì thành 2 câu đối :



Phong xúy Trúc Diệp long vũ trảo

Vũ đả hà hoa phụng điểm đầu.



Dương Xuân Linh 100 ngày sau thì được Kim Công Tổ Sư đưa về trời.

Đây gọi là kim Kê nhất xướng ( gà vàng gáy lần thứ 1 )



Trải qua 3 năm sau thì kim kê Nhị xướng : Năm 1930 sau côn nguyên, Tổ Sư lại mượn khiếu của một người ở Hà Nam tên là Đỗ Ngọc Khôn từ Hà Nam chạy đến Sơn Đông. Lúc bấy giờ không có máy bay hay xe để ngồi, ở Sơn Đông ngài lại độ hóa và thành toàn đạo thân, sau đó người này lại biệt tăm biệt tích, không một ai biết là đã đi đâu.

Như vậy, ở Trung Quốc Đại Lục lúc bấy giờ do có rất nhiều hiển hóa nên đã có rất nhiều người cầu Tam Bảo.



Sau này Kim Kê Tam xướng là phải đợi đến lúc Đại Đạo minh hiển, mọi người đều có đạo, Thế giới đại đồng thì những người tu đạo mà có công đức sẽ vừa được hưởng hồng phúc vừa được hưởng thanh phúc ( thành thánh hiền tiên phật ), lúc đó sẽ không còn địa ngục nữa, Sau khi ở nhân gian thì lại quay về Thiên Đàng. Cho nên chúng ta rất có Phật duyên mới gặp được Phật xuất thế, nghĩa là chúng ta đã theo kịp thời đại mà Phật Di Lặc đến thế gian để độ hóa chúng sanh. Bây giờ chúng ta bắt đầu đi sâu vào bài kinh.



Di Lặc hạ thế bất phi khinh



Vào thời Bạch Dương kỳ Di Lặc giáng thế, nghĩa là thời Tam Kỳ Mạt kiếp , vào thời này tại sao Di Lặc phải hạ thế ? vì tai kiếp của chúng ta ngày càng nhiều và nghiêm trọng, cho nên Phật từ bi muốn chúng ta nhanh chóng bình an về nhà, cho nên đây là một chuyện rất trọng đại chứ không phải là chuyện bình thường. Lúc chúng ta cầu tam bảo có lẽ chúng ta vẫn chưa chú ý đến, cái đoạn lúc mà điểm truyền sư bàn đạo có phó chúc :Mạt hậu nhất trước tích vị ngôn, Minh nhân tại thử tố nhất phiên. Ngu phu thức đắc hoàn hương đạo, sanh lai tử khứ kiến đương tiền.







Nghĩa là : trước đây chưa bao giờ nói đến chuyện đại sự sau này. Minh nhân chính là Sư Tôn và Sư Mẫu của chúng ta khi thỉnh đàn có đến nói rõ cho chúng ta : tuy chúng ta đều là những người bình thường, nhưng nếu chúng ta có cầu qua tam bảo thì biết được phải đi con đường như thế nào để có thể về trời. Chúng ta đã có cầu qua tam bảo đều biết được bảo thứ 1 chính là chỗ sống chết tức thì. Cho nên nếu những ai chưa cầu tam bảo thì dù chúng ta có nói với họ, họ cũng chẳng hiểu. Trong Kinh Di Lặc cứu khổ chân kinh đều nói về việc chúng ta làm thế nào để về trời, chúng ta phải cầu Tam Bảo. Trong đó đều có thiên cơ.



Lãnh bửu Tề Lỗ Linh Sơn Địa



Lãnh có nghĩa là Minh sư thọ lãnh lệnh của Lão Mẫu, truyền thụ khẩu truyền tâm ấn, Tam Bảo ( Quan, quyết, ấn ) , xuất thân ở Tề Lỗ, tức là Sơn Đông hiện nay, là thánh địa mà từ xưa có nhiều Thánh Nhân xuất hiện nhất, cho nên Tổ sư lãnh thiên mệnh truyền thọ mệnh cũng đều xuất thân ở Sơn Đông ( nhiều nhất ) , như Tổ sư đời thứ 17 , Lộ Tổ chính là xuất thân ở Sơn Đông huyện Tế Ninh. Tổ sư đời thứ 18, Sư Tôn của chúng ta cũng xuất thân ở Sơn Đông huyện Tế Ninh. Sư mẫu cũng xuất thân ở tỉnh Sơn Đông. Thế nhưng những người thọ mệnh thì ở Linh sơn địa của mỗi người.



Phật tại linh sơn mạc viễn cầu

Linh sơn chỉ tại nhữ tâm đầu

Nhân nhân hữu cá linh sơn tháp

Hảo hướng linh sơn tháp hạ tu



Cái này lúc chúng ta cầu tam bảo đã biết rồi. Linh sơn địa chính là huyền quan khiếu của mỗi người. Thông qua Minh sư nhất chỉ điểm mở ra chỉ cần tu thật tốt ở núi Linh Sơn ( chính là bổn tâm ), tu tâm luyện tính, hành công lập đức, khi tuổi thọ đã hết, linh tánh tự nhiên sẽ đi ra từ cửa chính, miễn được phải chịu nỗi khổ luân hồi, có thể quy căn phục mệnh . Đây là bài thơ ám chỉ của Quan Thế Âm Bồ Tát dùng để nói với tất cả những người tu hành, ý nói rằng tất cả mỗi người chúng ta đều có một núi Linh Sơn và không nhất thiết phải đi đến nơi xa xôi để cầu. Nhưng nếu mình chưa cầu qua tam bảo thì mình cũng không có cách nào biết được làm thế nào để tu ở dưới tháp Linh Sơn. Điều này cũng có nghĩa rằng Quan Thế Âm Bồ Tát trước đây cũng từng có cầu tam bảo do sư phụ truyền cho, nhưng do đây là thiên cơ bất khả lộ nên Quan Thế Âm Bồ Tát cũng không dám tiết lộ, nhưng Quan Thế Âm Bồ Tát từ bi rất muốn cho mọi người biết nên mới viết lưu lại bài thơ này, chỉ là xém một chút chút, nhưng tuy xém một chút chút mà không có Minh Sư nhất chỉ điểm thì cũng không có cách nào. Hiện nay là thời kỳ phổ độ nên chúng ta có thể lấy ra nghiên cứu.







Niêm hoa ấn chứng khảo tam thừa

Tam thừa bao gồm Thượng thừa, trung thừa và hạ thừa. Câu này nghĩa là thời xa xưa muốn đắc được đại đạo bảo quý đâu phải dễ dàng như vậy, phải thông qua tu tập từ Tiểu thừa lên đến Trung Thừa rồi đến đại thừa mới ngộ ra được huyền cơ, biết được nơi cư ngụ của linh tánh mới được Minh Sư thọ ký cho, đấy gọi là Thượng đẳng tu hành ngộ giác tính, trung đẳng tu hành chấp văn tự, Hạ đẳng tu hành trọng hiển hóa, Mạc chấp hình tượng quy tự nhiên. Nghĩa là đạo pháp tự nhiên. Cho nên lúc bấy giờ khi Đức Phật Thích Ca Mâu Ni truyền thụ là đơn truyền độc thụ. Trước tiên phải dùng phương pháp thăm dò, dùng pháp niêm hoa vi tiếu , tuyển chọn vật truyền thụ.



Đây là chỉ lúc đức Phật Thích Ca Mâu Ni đang giảng đạo ở núi Linh Khứu Sơn. Lúc bấy giờ có rất nhiều đệ tử đang nghe kinh trong lần mở pháp hội thứ 16, có hơn 3000 đệ tử và đức Phật cầm một đóa hoa mỉm cười. Cả hơn 3000 đệ tử đều không hiểu được ý của ngài, sau đó đại đệ tử là ngài Ma Ha Ca Diếp hiểu được ý bèn mỉm cười, cho nên đức Phật Thích Ca bèn truyền chánh pháp và y bát cho đại đệ tử Tôn giả Ma Ha Ca Diếp. Trong lúc truyền tam bảo, đức Thế Tôn nói : “ Ngô Hữu chánh pháp nhãn tàng, Niết Bàn diệu tâm, thực tướng vô tướng, vi diệu pháp môn, bất lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền , kim phó chúc Ma Ha Ca Diếp ...”



Chánh pháp ở đây chính là tam bảo. Chúng ta đều biết bảo thứ 1 là Huyền Quan Khiếu. Trong giáo gọi là giáo ngoại biệt truyền, trước đây giảng kinh thuyết pháp rất nhiều, nói rất nhiều các giáo pháp nhưng bên trong đó đều không có cách nào nói đến diệu pháp này. Do đó, xưa kia phải tu trước rồi ngộ ra được chỗ thiền cơ sau đó mới đắc chân truyền. Hôm nay, chúng ta đắc trước tu sau, nhẹ nhàng hơn nhiều rồI nên mới nói :



Đạp phá thiết hài vô mịch sứ,

đắc lai toàn bất phí công phu。



Đi mòn nát cả đôi giày thép cũng không có cách nào tìm thấy

Đắc được rồi nhưng hoàn toàn không phí tí công phu





Tuy rằng chúng ta dễ dàng mà đắc được nhưng chúng ta phải đi từng bước vững chắc, chăm chỉ tu luyện chứ không biếng lười, trước sau không ngừng, sau này nhất định có thể ấn chứng, từ công quả ít nhiều, trải qua khảo nghiệm thành công mà được liệt vào quả vị tam thừa cửu phẩm liên đài. Cho nên muốn có quả vị là chúng ta phải bắt đầu tu từ bây giờ. Tương lai liên phẩm của mình cao to như thế nào là phải xem mình kiếp này làm như thế nào



Lạc tại Trung Nguyên tam tinh địa



Niêm hoa ấn chứng sự chân truyền quý báu như vậy rơi vào chỗ nào ? rơi vào nơi Tam Tinh Địa. Tam Tinh Địa là ở Trung Ương Mậu Kỷ Thổ chính giữa thân người ( Trung Nguyên ) , nơi phương thôn bảo điền, còn gọi là Linh Sơn Địa, Huyền Quan Khiếu, cũng chính là 3 người đồng hành tất sẽ có người là thầy của chúng ta, chính là chỗ mà ta phải hạ công phu tu luyện, chính là chỗ mà ta có thể tương thông với trời. Chỗ mà trời tương thông với chúng ta chính là chỗ mà chúng ta bắt đầu có tinh, khí, thần. Từ phương thôn bảo địa này hướng lên trên thì là trời, hướng về cơ thể của chúng ta đi xuống thì là tinh, khí, thần. Trong kinh kim cang có nói : Như thị chú, như thị giáng phục kỳ tâm, vô sở trú nhi sinh kỳ tâm. Tất cả đều là quy ở Tam Tinh Địa. Thanh Tịnh Kinh viết : Tuy danh đắc đạo, thật vô sở đắc.





KINH DI LẶC CỨU ĐỜI 


Kinh Di Lạc Độ Thế

Đức Phật Truyền Rằng
Dám chuyền đại chúng nghe cho ký
Ăn chay niệm Phật khỏi tai nạn
Gái. Trai chẳng tin lời Phật dạy
ấy rồi nguy hiểm thấy vua Diêm
Ngày nay, ai có kinh này để tụng
niệm sẽ giúp cho gia quyến được an
lành thoát nạn.Khắp thiên hạ, già, trẻ
trai, gái đều nghe tin kinh này, đi
đường xá mang kinh này sẽ
không bị tai họa. Khuyên dân sự ai
cũng nên sao chép kinh này, đặt trai
cúng,đọc chân kinh,mọi tai khỏi hết.
Kẻ ngu si không tin thụ, phải phòng ác
Tật rức đầu óc, đau bụng dạ, khéo kẻo
chết toi,rồi sai cả các ôn thần hành tai
hành dịch.
Truyền kính Ngài, Cổ Phật hội trì,
Các hương ngôn lên cảnh giới,ai ai
cũng phải biết,những thiện tín tụng
kinh này và làm việc phúc, nhờ phật
độ cho, dẫu mười sầu cũng chẳng sợ.



MƯỜI SẦU



Một sầu nước lửa đao binh chết
Hai sầu hết tuyệt lửa nhân gian
Ba sầu đau ốm ôn hoàng chết
Bốn sầu trai, gái chẳng đoàn viên
Năm sầu thiên hạ nhân dân loạn
Sáu sầu có đường không ai đi
Bảy sầu đầy núi beo hùm chạy
Tám sầu ngày đêm chẳng ăn lành
Chín sầu cõi đất còn ai tốt
Mười sầu chẳng gặp đời thái bình
Nhà nào chẳng tin rồi ôn dịch
Những kẻ tin kinh được phúc nhiều
Đường xá chẳng còn ai đi lại
Chỉ nhà tích thiện được an toàn
Ai nghĩ tháng ba này rồi biết
Nhiều nhà tai nạn khóc kêu trời
Muốn qua tai nạn sao kinh đọc
Già, trẻ, gái, trai chẳng phiền lo
Những kẻ sao kinh, thêm Phúc, Thọ
Thoát qua kiếp – nản cả một nhà




CHÂN KINH
CỦA ĐỨC DI LẶC CỨU ĐỜI


BÀI TÁN DÂNG HƯƠNG




Hương vòng vật báu thắp lên
Ngát ngào thơm thấu đại thiên ba nghìn
Đàn đàn Chầm Nhũ dâng lên,
Khói hương nghi ngút, hoa sen phật đài
Mười phương Phật , chín phương Trời
Ruổi phăng hoan lạc, giáng nơi đàn tràng
Bầu trời cảnh phật thanh lương,
Phật, Tiên chứng thụ cúng dàng nhân gian
Nam vô hương cúng dàng Bồ Tát, ma ha tát
( đọc 3 lần )



KỆ KHAI KINH



Sáu muôn năm tới hội LONG HOA
Kinh hiện trong vùng đá nẩy ra
Vi diêu rất sâu kinh Phật dạy
Thụ trì rạng tỏ tấm lòng ta
Nam vô khai bảo tạng bồ tát , ma ha tát
( kinh đọc 3 lần )



BÀI TỤNG NIỆM KINH


DI LẶC ĐỘ THẾ



Nam mô vô cực giao trì vương mẫu
vô nguyên cổ phận tiêu kiếp cứu thế địa
từ tôn.
Nam mô nhị thập tứ vị kim tiên cổ
Phật liệt thiên tôn.
Nam mô tam thanh cảnh vô lượng
độ nhân nguyên thủy linh bảo giáng
sinh liệt thiên tôn.
Nam mô thập phương vô lượng
thường chụ tam bảo chư phật bồ tát
Nam mô vô vi thiên cung huyền
khung cao thượng đế thái hoàng đại thiên tôn.
Nam mô lăng tiêu ngọc diện huyền linh thượng
đế ngọc hoàng phả độ đại thiên tôn.
Nam mô cứu tiên tứ ngự thượng thánh cao chân
liệt thiên tôn.
Nam mô nho thích đạo tam giáo giác thế đại thiên tôn.
Nam mô đương lai hạ sinh độ nhân cứu kiếp thế tôn
NHƯ lai DI-LẶC tôn phật.
Nam mô tam thập lục thiên tận hư không biến pháp
giới chư thiên thiên chúa.
Nam mô thất thập nhị địa tam thiên thế giới vạn địa
chi mẫu thổ hoàng địa kỳ.
Nam mô tào tam giới tứ phủ vạn linh long thiên
thánh chung liệt thiên tôn.
Nam mô đạo kinh bảo ngọc quang hội chung nhất
thiết phả độ thiện nhân thánh chứng.

NAM MÔ ĐƯƠNG LAI ĐẠI SINH ĐỘ THẾ CỨU KIẾP NGỌC PHẬT CHƯ TÔN BỒ TÁT.

Nam mô nam thiên đạo tràng giáo chúa cứu khổ cứu nạn

Quan – Thế - Âm – Bồ - Tát.
Nam mô nam bang lịch đại nho thích đạo chư phật thánh tổ sư tiên hiền.
Nam mô nam bang lịch chiều thánh chúa Minh Vương
hà hải độc nhất thiết thần tiền chính khí.
Nam mô đương niên đương cảnh tư mệnh Táo Quân
lục phủ ngũ tự trụ trạch thổ thần liệt vị mãn thiên chân tể.




SỰ TÍCH
KINH QUÝ TRỌNG CỦA
ĐỨC DI – LẶC 




Đức phật dạy rằng bản kinh này hiện ra tại thôn trại nhà họ Vương thuộc huyện Nhạc Dương, huyện Bình Dương, tỉnh Sơn Tây , Trung Quốc.
Bỗng một hôm có tiếng nổ vang như sấm sét, trái núi đá tự nhiên nổ tung ra thì thấy một quyển kinh đức Phật Di – Lặc này. Người ở đó sao viết ra nhiều bản để cúng giàng, truyền rộng cho nhân dân thiên hạ chứ không dám dấu ở nhà, nếu ai chẳng truyền thời tội chẳng vừa, trời giáng tai nạn cũng như bị kiếp. Chính quyển chân kinh của Đức Di- Lặc này thực ra ở vùng đá, dưới gốc dâu, hiển hiện ra cõi diêm- phù để cứu cho chúng sinh nữa khi gặp hồi mạt kiếp, đã có vị tiên ở từng trời đại la xuống đời, nếu có người thiện nam, tín nữ phát tâm thành kinh sao chép rộng truyền thì người đó được cái lợi lớn, ai sao tả được một bản thời khỏi tai, tiếp được một nhân nếu người nào không tin tất phải phát sống mà còn bậc thương sĩ nào trí tuệ đã lòng thành sao chép lại giảng tụng Kinh này, có thể khỏi mười mạt kiếp và thoát khỏi khổ dịch lệ yếu đau.
Vậy nên dám khuyên người miệng chăm niệm phật thì tốt lắm, còn ai bất tín ấy rồi thấy tai nạn tới mình, hãy xem cữ tháng năm tháng một sau này có khi cơm không có người ăn, đường không có người đi, nơi sinh ra giặc cướp, nơi thì núi hổ lang, khi thì mưa to gió dữ, người phải âu sầu,còn những thiện nam, tín nữ phải lên thiết đàn tháp hương lễ bái tụng niệm kinh này mới khỏi tai kiếp, có khi tháng ba bị tai nạn. nước lửa tàn hại khó qua, nếu ai không có hồi lòng hướng thiện thì khó mà tránh khỏi.

ĐỨC PHẬT DI – LẶC dạy, người thiện tín nào chăm đọc kinh này lại khuyên cả nhà tin thụ thời khỏi kiếp tai, vì rằng sau này sẽ có mười vua Diêm Vương ra đời để tra xét các nhà thiện ác, hễ nhà nào có Kinh này thời khỏi không những khỏi tai nạn lại được cát lợi phúc lành.

Đức Phật lại dạy rằng đến năm Chó Vàng, giống ma trừ hết, năm Lợn Vàng hơi yên, Chuột Trắng ra đời thiên hạ đã hơi thái bình, trẻ già mất nửa, chín gái mới có một chồng đến năm Hổ Đen xuống đời liệu phương chủ trị, năm Rồng Xanh mới hiện giáng thế, đến năm Ngửa Đỏ trong thiên hạ mới được thái bình, hết thảy nhân dân rộng mở dậy đạo thời rộng mở dậy đạo nhiệm màu từ độ cho tuốt thảy thiện nam,
, tín nữ đều thành Phật cả, ai ai đều được sống lâu trường thọ giàu sang vui thỏa nhà nhà đều được sung sướng chẳng cấy cũng thóc ăn, các cây cối đều sinh quả ngon, đời ấy là đời vui thú, bấy giờ là thời kỳ đổi thay thiện ác thiên hạ thái bình cõi trần đều thành cực lạc.
Hết thảy chúng sinh tin lễ kinh này, làm nhà cửa, để mồ mả, động thổ hưng công, trăm phần không phải kiêng kị gì nữa, hết thảy tà ma đều tuyệt tích cả.
Nhà nào có chân kinh của Đức Di- Lặc Tôn Phật này chẳng khác nào như có một đạo bùa hộ mệnh nhiệm màu không lo sợ chi hết, hế ai chăm thụ trì cúng giàng thời ngài che chở cho cả nhà được an lành, nhưng phải nên biết ơn ngày mà rộng khuyên cho thiên hạ.









DI LẶC CỨU KHỔ CHÂN KINH

Khai Kinh Kệ


Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp
Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ
Ngã kim kiến văn đắc thọ trì
Nguyện giải Như Lai chân thực nghĩa

Sám Hối Văn

Ngã tích sở tạo chư ác nghiệp
Giai do vô thủy tham sân si
Tùng thân khẩu ý chi sở sinh
Nhất thiết ngã kim giai sám hối

Tứ Hoằng Thệ Nguyện Văn

Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ
Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn
Pháp môn vô lượng thệ nguyện học
Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành

Di Lặc Cứu Khổ Chân Kinh

Phật thuyết Di Lặc cứu khổ kinh
Di Lặc hạ thế bất phi khinh
Lãnh bửu tề lỗ linh sơn địa
Niêm hao ấn chứng khảo tam thừa
Lạc tại trung nguyên tam tinh địa
Đại chứng Tứ Xuyên Vương Đào Tâm
Thiên Chân thu viên quải thánh hiệu
Đẳng đãi thời chí điểm thần binh
Vân lôi chấn khai mậu kỷ thổ
Thiên hạ thần quỷ bất an ninh
Thân tại nhân thiên trung hoa mẫu
Cửu liên thánh giáo quy thượng thừa
Thiên hoa Lão Mẫu thùy ngọc tuyến
Thu viên hiển hóa tại cổ đông
Nam bắc lưỡng cực liên tông tự
Hỗn nguyên cổ sách tại trung ương
Lão Mẫu giáng hạ thông thiên khiếu
Vô ảnh sơn tiền đối hợp đồng
Anh nhi yếu tưởng quy gia khứ
Trì niệm đương lai Di Lặc kinh
Dụng tâm trì niệm phật lai cứu
Đóa đoá kim liên khứ siêu sinh
Thức đắc tây lai bạch dương tử
Hương nhi điểm thiết hóa thành kim
Mỗi nhật chí tâm thường trì niệm
Tam tai bát nạn bất lai xâm
Yếu tưởng thành phật cần lễ bái
Thường trì thông minh trí tuệ tâm
Hưu thính tà nhân hồ thuyết thoại
Lao thuyên ý mã niệm vô sinh
Lão Mẫu giáng hạ chân thiên chú
Dụng tâm trì niệm hữu thần thông
Mãn thiên tinh đẩu đô hạ thế
Ngũ phương liệt tiên hạ thiên cung
Các phương thành hoàng lai đối hiệu
Báo sự linh đồng sát đích thanh
Tam Quan từ bi Đại Đế chủ
Xá tội Tam Tào cứu chúng sinh
Cứu khổ thiên tôn lai cứu thế
Thân điểm văn bộ yết đế thần
Bát Đại Kim Cang lai hộ pháp
Tứ vị bồ tát cứu chúng sinh
Khẩn lãnh Tam thập lục viên tướng
Ngũ bách linh quan khẩn tùy cân
Phù trợ Di Lặc thành Đại Đạo
Bảo hựu hương nhi đắc an ninh
Bắc phương chân võ vi tướng soái
Thanh kiểm hồng phát hiển thần thông
Xả khởi tạo kỳ già nhật nguyệt
Đầu đỉnh sâm la thất bửu tinh
Oai trấn bắc phương vi soái thủ
Tốc thỉnh chư ác quải giáp binh
Đáp cứu nguyên nhân hương nhi nữ
Hỏa quang lạc địa hóa vi trần
Tứ Hải Long Vương lai trợ Đạo
Các giá tường vân khứ đằng không
Thập phương thiên binh hộ phật giá
Bảo hựu Di Lặc khứ thành công
Hồng dương liễu Đạo quy gia khứ
Chuyển đáo tam dương Di Lặc Tôn
Vô hoàng sắc lệnh ký hạ sinh
Thu phục nam diêm quy chánh tông
Lai vãng tạo hạ chân ngôn chú
Truyền hạ đương lai đại tạng kinh
Anh nhi xá nữ thường trì niệm
Tà thần bất cảm lai cận thân
Trì niệm nhất biến thần thông đại
Trì niệm lưỡng biến đắc siêu sinh
Trì niệm tam biến thần quỷ phạ
Võng lạng tà ma hóa vi trần
Tu trì kiếp nội tầm lộ kính
Niệm khởi chân ngôn quy phật lệnh
Nam Mô Thiên Nguyên Thái Bảo
A Di Đà Phật. Thập khấu thủ

Hồi Hướng Văn

Nguyện tiêu tam chướng chư phiền não
Nguyện đắc trí tuệ chân minh liễu
Phổ nguyện tôi chướng tức tiêu trừ
Thế thế thường hành bồ tát đạo






ÍCH LỢI CỦA VIỆC TRÌ TỤNG KINH




I. DẪN NHẬP

Trong đời sống tâm linh của mỗi anh chị em tín đồ Cao Đài chúng ta ai cũng hiểu được pháp môn Tam Công là rất cần thiết và giúp ích rất nhiều cho đời sống tu học và hành đạo của mỗi người.

Pháp môn Tam Công rất đa dạng và phong phú. Ai cảm thấy phù hợp với phương pháp nào thì áp dụng phương pháp ấy.

Ví dụ như Pháp môn Công Quả thì chúng ta có thể tích cực hàng ngày tìm ít nhất một vài việc thiện để làm như: giúp đỡ người tàn tật; vệ sinh Thánh Sở; dạy trẻ em khuyết tật; Nhặt đinh nhọn chông gai trên đường…



Pháp môn Công Trình thì có thể đề ra kế hoạch tự rèn luyện nhân cách cho bản thân hằng ngày như rèn tính kiên trì khi thực hiện một mục tiêu nào đó; làm việc đến nơi đến chốn với tinh thần trách nhiệm cao nhất; rèn tính nóng giận; trì thủ giới quy…

Về Pháp môn Công Phu chúng ta có thể Niệm Danh Hiệu Thầy hằng ngày; Quỳ hương cúng nước; Luyện Châu; Tịnh luyện…

Nói chung chúng ta có rất nhiều phương pháp để thực hiện pháp môn Tam Công, tuy nhiên theo Chánh Tuân thì chúng ta có một phương pháp thực hiện pháp môn tam công đơn giản nhưng rất hiệu quả. Đó là: Hằng Niệm Danh Hiệu Thầy và các đấng Thiêng Liêng và Trì Tụng một số bài kinh như: Di Lạc Chơn Kinh; Kinh Cứu Khổ và Bát Nhã Tâm Kinh.


II. NỘI DUNG:

1. Hằng Niệm Danh Hiệu Thầy và các Đấng Thiêng Liêng theo phương pháp sau:

Hằng ngày mỗi khi đi xe HonDa trên đường là Chánh Tuân niệm như sau:

* Nam Mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát. (3 lần)

* Nam Mô Diêu Trì Kim Mẫu Vô Cực Đại Từ Tôn. (3 lần)

* Nam Mô Hồng Quân Lão Tổ Chưởng Giáo Tam Nguơn Đại Tôn Sư. (3 lần)

* Nam Mô Tam Giáo Tổ Sư. (3 lần)

* Nam Mô Tam Trấn Oai Nghiêm. (3 lần)

* Nam Mô chư Phật, Chư Tiên, Chư Thánh, Chư Thần. (3 lần).


Ghi chú:

* Trong lúc niệm danh hiệu các đấng, chúng ta nên bắt ấn Tý hoặc bắt ấn Kiết Tường (Ấn Tam Muội) của Đức Quan Âm Bồ Tát.

* Khi niệm đến Hồng Danh của Đấng nào thì chúng ta nên quán tưởng đấng ấy đang hằng ngự nơi Tâm của mình. Nếu quý anh chị em chúng ta thường xuyên hồi hướng về Thầy Mẹ và các đấng Thiêng Liêng theo phương pháp này với lòng chí thành kiên trì thực hiện và với một Đức Tin dõng mãnh thì trong thời gian không dài chúng ta sẽ cảm nhận được giữa mình và các Đấng sẽ có một mối dây cảm ứng vô hình rất khó tả (chỉ mỗi người mới tự cảm nhận được mà thôi).


2. Ích lợi của việc trì tụng kinh “Di Lạc Chơn Kinh”; “Kinh Cứu Khổ”; “Bát Nhã Tâm Kinh” và phương pháp trì tụng kinh để mang lại hiệu quả cao nhất:


2.1 Những ích lợi:

Kỳ ba đại ân xá nên đạo Cao Đài được ơn trên ban kinh tận độ, đó là một ân phước vô cùng to lớn mà mỗi huynh đệ Cao Đài chúng ta được thọ hưởng từ Thầy Mẹ và các đấng Thiêng Liêng.

Mỗi một bài kinh trong quyển kinh tận độ đều có một ý nghĩa và hiệu dụng riêng biệt. Đặc biệt theo thiển ý của Chánh Tuân thì 3 bài kinh “Di Lạc Chơn Kinh”; “Kinh Cứu Khổ” và “Bát Nhã Tâm Kinh” có một hiệu dụng hết sức đặc biệt nếu chúng ta luôn trì tụng hàng ngày (Tụng càng nhiều càng tốt).

Bản thân Chánh Tuân đã trì tụng 3 bài kinh trên trong suốt gần 4 năm qua mỗi khi đi trên đường (vừa đi xe HonDa vừa tụng, tụng liên tục từ nơi đi tới nơi đến) và cảm nhận thấy việc trì tụng 3 bài kinh ấy như những món “bửu bối” hết sức hiệu nghiệm giúp người trì tụng giải trừ được các nghiệp chướng và tâm từ được mở rộng một cách đáng kể không thể nào ngờ đến được.

Trong toàn bộ bài “Di Lạc Chơn Kinh”, chúng ta thấy tất cả đều cầu siêu, hộ trì, tận độ cho tất cả vạn linh sanh chúng; Trong bài “Kinh Cứu Khổ” khi tụng đến cứu hộ đệ tử thì chúng ta cầu chung cho vạn linh sanh chúng; Trong toàn bộ bài “Bát Nhã Tâm Kinh” cho chúng ta thấy được chữ Không vốn không khác gì với chữ Sắc (Sắc bất dị Không, Không bất dị Sắc, Sắc tức thị Không, Không tức thị Sắc), qua đó sẽ cho giúp chúng ta dần dần phá chấp, giúp giảm bớt sự thị phi và giảm dần sự phân biệt hữu vi sắc tướng.

Dẫu biết nghiệp chướng của chúng sanh từ vô lượng kiếp đến nay dẫy đầy như biển cả mênh mông, việc trì tụng của chúng ta cầu nguyện giải nghiệp cho chúng sanh có lẽ chỉ bằng một giọt nước so với biển cả mênh mông ấy. Tuy nhiên có vẫn còn hơn không, nếu mỗi huynh đệ chúng ta đều chí thành kiên trì thành tâm cầu nguyện với một tình thương yêu chân thành nhất thì có cảm ắt có ứng, Ơn Trên không bao giờ phụ những ai có lòng chí thành.

Những ích lợi mà Chánh Tuân cảm nhận được sau thời gian trì tụng 3 bài kinh trên là:

* Tình thương yêu càng ngày càng mở rộng đến chúng sanh (Phát triển tâm từ).

* Bản ngã tư tâm dần dần được dứt bỏ và lộ dần Thuần Chơn Vô Ngã.

* Kết thúc mỗi bài kinh đều có niệm câu chú Thầy 03 lần. Nếu chúng ta kiên trì tụng niệm đến suốt đời thì câu chú Thầy chúng ta sẽ niệm được không biết bao nhiêu lần mà kể. Điều này rất tốt theo lời dạy của đức Di Lạc Thiên Tôn về việc hằng niệm danh hiệu Thầy.

* Tam nghiệp Thân, Khẩu, Ý giảm gây ra thêm một cách đáng kể.

* Thân tâm an lạc, nhẹ nhàng thư thái (Nghiệp chướng oan khiên được giải trừ dần dần) và ngày càng cảm nhận được cuộc đời là giả tạm vô thường, đức tin ngày một tăng trưởng.

* Luôn cảm nhận được sự hộ trì che chở rất mầu nhiệm của Ơn Trên trong nhiều lĩnh vực: Công việc, An toàn giao thông…

* Sau một thời gian trì tụng kinh thì Ơn Trên sẽ khai mở cho bản thân chúng ta tự khải ngộ dần dần về nhận thức tâm linh của chính mình (hoặc vô tình mình được Ơn Trên soi dẫn “tự nhận thức được” hoặc sẽ có Huynh Đệ Đồng Đạo khác mách bảo cho chúng ta biết).

* Luôn đón nhận được sự giao cảm rất khó tả giữa mình với Ơn Trên.

* Đây chính là pháp môn tam công (công phu, công quả, công trình) được thực hiện đơn giản, dễ làm và rất hiệu quả.

Và còn nhiều ích lợi nữa nếu mỗi huynh đệ chúng ta trì tụng đến suốt đời.


2.2 Phương Pháp Trì Tụng:

* Trong lúc đi xe HonDa trên đường hoặc đi bộ tập thể dục ở nhà, vừa trì tụng kinh chúng ta vừa bắt Ấn Tý hoặc Ấn Kiết Tường (Ấn Tam Muội). Chúng ta tụng xen kẻ hết bài “Di Lạc Chơn Kinh” đến bài “Kinh Cứu Khổ” sau đó đến bài “Bát Nhã Tâm Kinh” và cứ như vậy tụng tiếp nối càng nhiều càng tốt (Trì tụng thành tiếng hoặc trì tụng trong Tâm).

Nếu bài “Di Lạc Chơn Kinh” quá dài, khó học thuộc thì quý anh chị em chúng ta chỉ cần trì tụng “Kinh Cứu Khổ” và “Bát Nhã Tâm Kinh”. Còn quý anh chị em nào đang tu tâm pháp, sợ tụng kinh tổn nguyên khí thì có thể trì tụng trong tâm (tụng không thành tiếng) cũng rất tốt.

Quý anh chị em cũng có thể trì tụng thêm các bài kinh trên vào mỗi thời cúng tứ thời tại tư gia của mình để cầu nguyện chung cho bá tánh cũng rất tốt.


3. Chia xẻ những trải nghiệm thực tế và một số trở ngại tâm lý trong suốt quá trình trì tụng kinh của bản thân trong gần 4 năm qua:

* Lúc khởi đầu việc trì tụng kinh Chánh Tuân chỉ tụng bài “Kinh Cứu Khổ” (vì bài “Di Lạc Chơn Kinh” quá dài Chánh Tuân chưa thuộc hết). Trong khoản hơn 1 năm đầu trì tụng Kinh Cứu Khổ, Chánh Tuân chỉ cầu cứu khổ cứu nạn cho những người thân trong gia đình như: Cửu Huyền Thất Tổ; Cha Mẹ, Anh chị em ruột và một số bà con thân thuộc của mình mà thôi. Vì lúc bấy giờ Chánh Tuân nghĩ rằng trong gia quyến mình nghiệp chướng oan khiên còn dẫy đầy chưa chắc gì mình cầu giải khổ hết làm gì bao đồng cầu cho cả chúng sanh.

* Sau hơn một năm trì tụng “Kinh Cứu Khổ” như vậy, Chánh Tuân đã cố gắng học thuộc lòng được toàn bộ bài “Di Lạc Chơn Kinh”, thế là Chánh Tuân bắt đầu trì tụng thêm bài “Di Lạc Chơn Kinh” nữa. Thật là kỳ lạ, mỗi khi trì tụng xong một biến Di Lạc Chơn Kinh, Chánh Tuân cảm thấy thân tâm thật nhẹ nhàng thư thái, giảm hẳn sự bất an khó chịu xảy ra nơi nội tâm (bỡi vì bài “Di Lạc Chơn Kinh” này có hiệu dụng hết sức đặc biệt trong việc giải trừ nghiệp chướng cho bản thân người trì tụng và cho cả vạn linh sanh chúng nữa). Cũng chính vào thời điểm này Chánh Tuân cũng đã chuyển sang cầu nguyện chung cho tất cả vạn linh sanh chúng chứ không cầu nguyện riêng cho gia quyến mình nữa. Đây chính là một bước ngoặc rất quan trọng mang lại hiệu quả cho việc mở rộng Tâm Từ không thể nào ngờ đến được. Bỡi vì mỗi khi chúng ta chí thành cầu nguyện chung cho vạn linh sanh chúng (trong đó đã bao gồm cả toàn bộ gia quyến của mình rồi) sẽ giúp cho Tâm mình mở rộng không còn phân biệt và ích kỷ khi chỉ biết cầu nguyện riêng cho những người thân của mình. Hình tượng mở rộng tình thương yêu dành cho bá tánh ấy giống như hình ảnh 2 chú ếch, 1 chú thì ngồi dưới đáy giếng và 1 chú ếch thì ngồi trên thành giếng cùng nhìn lên bầu trời, chú ếch ngồi đáy giếng thì cho rằng bầu trời chỉ to bằng nắp vung nhưng chú ếch còn lại cho rằng bầu trời rộng lớn vĩ đại vô cùng.

Để vượt qua được cuộc “cách mạng tâm lý” cầu nguyện chung cho bá tánh, đòi hỏi mỗi chúng ta phải nhận thức được tất cả chúng sanh là huynh đệ của nhau, đều là con chung của Đức Thượng Đế Chí Tôn. Mỗi chúng sanh đều có một nghiệp duyên khác nhau, nhận thức đời sống tâm linh khác nhau, quá trình đầu thai khác nhau… do vậy tính cách và nghiệp quả cũng khác nhau. Suy cho cùng con đường tiến hóa của mỗi chúng sanh đều phải trở về nguồn cội ban đầu (Hòa cùng với khối Đại Linh Quang). Hành trình tiến hóa của mỗi chúng sanh trải qua nhiều bài học nhân quả trong mỗi kiếp mà chúng sanh đó đầu thai; do vậy số lượng chúng sanh còn đau khổ trên thế gian còn nhiều lắm. Chúng ta phải có một tình thương yêu chân thành và hiểu thấu nỗi đau Tứ Khổ (sanh, lão, bệnh, tử) của bá tánh mới có thể thành tâm cầu nguyện cứu khổ cứu nạn cho bá tánh được.

* Có một số anh em quan niệm rằng chúng ta trì tụng kinh như vậy sẽ làm cho mình thiếu tự tin vì chỉ dựa vào sự hộ trì của tha lực.

Chúng ta nên hiểu rằng cho dù mình thực hiện các pháp môn công phu khác như Luyện Châu, Tịnh Luyện hay Hằng Niệm Danh Hiệu Thầy… thì bước đầu vẫn phải cậy nhờ vào tha lực như Niệm Chú (Chú Kim Quang), Lần Chuỗi, Bắt Ấn, niệm danh hiệu Thầy… Để rồi đến mức độ chín muồi thì chúng ta mới có thể mời được vị “Chơn Sư” trong chính nội tâm của mình ra chỉ dạy.

Việc trì tụng kinh và hằng niệm danh hiệu các Đấng cũng không nằm ngoài ngoại lệ đó, bước đầu chúng ta cậy nhờ vào sự hộ trì của tha lực, sau thời gian chín muồi thì mỗi người sẽ đón nhận được cơ duyên khai mở để tìm gặp vị “Chơn Sư” trong Tâm của chính mình vậy (Có vô lượng Pháp Môn, tất cả các Pháp Môn cũng chỉ là phương tiện để giúp chúng ta đạt đến mục đích cuối cùng là giải thoát tâm linh, chúng ta đừng nên chấp tướng cho rằng Pháp Môn này hay còn Pháp Môn kia lại dở).

* Một số anh em khác lại cho rằng khi đi xe HonDa mà trì tụng kinh như thế sẽ thiếu tập trung và dễ gây tai nạn giao thông.

Nếu bị tai nạn do phân tâm thì gần 4 năm qua tại sao Chánh Tuân và một số anh chị em khác cũng đang trì tụng kinh trong lúc đi trên đường vẫn bình an vô sự, thậm chí chính bản thân Chánh Tuân cũng đã thoát khỏi 1 số vụ tai nạn tưởng chừng xảy ra trong gang tất một cách rất mầu nhiệm (bởi luôn có sự hộ trì của Ơn Trên).

Chúng ta biết rằng trong cõi Nhị Nguyên này vốn dĩ rất vô thường, thành trụ hoại không luôn biến đổi không có gì trường tồn mãi mãi (hễ hữu hình là hữu hoại); sống nay chết mai, bệnh tật nan y (như bệnh ung thư), bị rủi ro tai nạn (tai nạn giao thông hoặc nhiều tai nạn khác) luôn rình rập không chừa bất kỳ một ai. Do vậy việc thường xuyên trì tụng kinh chính là món “Bửu Bối” giúp chúng ta vượt qua được những tai nạn, bệnh tật, nghiệp quả một cách rất hiệu nghiệm.

Chúng ta thử nghĩ xem, nếu mỗi người biết tận dụng khoản thời gian “nhàn rỗi” của mình trong những lúc đi trên đường dành cho việc trì tụng kinh thì đến cuối cuộc đời của mình sẽ tích lũy được không biết bao nhiêu là công quả dành cho bá tánh và tự giải trừ dần dần oan khiên nghiệp chướng, tai nạn, bệnh tật… cho chính mình thay vì thông thường trong lúc đi trên đường chúng ta thường xuyên nghĩ ngợi lung tung hết chuyện nọ đến chuyện kia làm cho tâm chúng ta luôn bị phóng túng, chi bằng chúng ta luôn hồi hướng về Ơn Trên và cầu nguyện cho bá tánh sẽ tốt hơn biết chừng nào!

* Một số anh em khác lại tâm sự cho rằng tại sao mình cũng có trì tụng hàng ngày nhưng sao không thấy hiệu quả tí nào cả (nội tâm vẫn còn luôn cảm thấy bất an; vẫn còn nhiều đau khổ…).

Có 3 nguyên tắc rất quan trọng khi chúng ta muốn trì tụng kinh mang lại hiệu quả cao nhất là: Nguyên tắc thứ nhất, bản thân người trì tụng phải có một đức tin dõng mãnh về sự cảm ứng giữa mình với Ơn Trên, nghĩa là phải luôn tin rằng Ơn Trên luôn cứu khổ cứu nạn cho bá tánh sau mỗi lần cầu nguyện của chúng ta (Sở dĩ chúng ta vẫn thấy còn quá nhiều chúng sanh còn đau khổ bỡi vì từ vô lượng kiếp đến nay chúng sanh đã tự gây ra không biết bao nhiêu là nghiệp chướng, việc cầu nguyện giải nghiệp của chúng ta chỉ có tác dụng như một giọt nước nhỏ nhoi pha lẫn vào một biển cả mênh mông nghiệp chướng ấy thì chưa thể thấm vào đâu cả), nếu trong lúc trì tụng kinh mà chúng ta chỉ nữa tin nữa ngờ thì không thể mang lại hiệu quả nào cả; Nguyên tắc thứ 2 là phải dành một tình thương yêu chân thành cho cả vạn linh sanh chúng chứ không phải cầu nguyện cho có chiếu lệ mà thôi; Nguyên tắc thứ 3 là chúng ta phải thành tâm hồi hướng tất cả công đức sau quá trình trì tụng kinh về cho bá tánh chứ đừng nghĩ rằng mình trì tụng kinh nhiều mình sẽ được nhiều phước đức, sau này sẽ được hưởng giàu sang phú quý và may mắn thật nhiều (Đức Mẹ đã từng dạy: “Nghiệp lành dữ rốt rồi là nghiệp; Sắt hay Vàng đều xích xiềng thân; Chi bằng tâm chí lâng lâng; Nhổ mầm tình thức đoạn nhân tục phàm “). Tất cả hãy để tự nhiên, giữ tâm thật vô tư trống không đừng vọng tưởng lợi lộc gì riêng cho bản thân cả (Hễ tay phải chúng ta đem cho ai món quà gì thì tay trái đừng nên biết món quà đó có giá trị là bao nhiêu).

* Phân tích đến đây, chúng ta có thể khẳng định được rằng việc hằng niệm danh hiệu các Đấng và Trì Tụng Kinh chính là pháp môn Tam Công đơn giản nhưng rất hiệu quả và dễ thực hiện.

Đây chính là pháp môn Công quả rất hiệu nghiệm. Nhờ vào năng lực cầu nguyện của chúng ta sẽ giúp cho những chúng sanh hữu duyên sẽ có thêm trợ lực để vượt qua những nghiệp quả tiền khiên của bản thân chúng sanh đó đã từng gây ra.

Và, có một Công Quả vô hình mà chúng ta không nhìn thấy đó là góp phần phá tan điễn trược đang tích tụ dẫy đầy trên không trung, Chúng ta biết rằng, nếu có ai đó suy nghĩ làm điều xấu xa tội lỗi thì ngay lập tức xuất hiện một luồng điễn trược phóng lên không trung, và nhiều tư tưởng xấu ấy cùng phóng lên lâu ngày sẽ tích tụ thành một khối trược khí không lồ. Ở thế gian nếu có ai đó chỉ mới bắt đầu khởi Tâm làm điều ác, theo luật nhân quả thì khối trược khí khổng lồ ấy liền tác động đến khiến cho người ấy bắt tay vào thực hiện hành vi tội lỗi ngay lập tức. Chính vì điều này mà Ơn Trên đã từng dạy: Công Đức Tọa Thiền lớn biết bao. Tại sao việc Tọa Thiền chỉ ngồi một chỗ mà Ơn Trên cho là có công đức lớn quá vậy? Bỡi vì khi hành giả ngồi thiền sẽ giúp cho Tâm được thiện lành, trống không, đây chính là khối điễn lành (Thanh điễn) được phóng lên không trung để chống lại khối trược khí khổng lồ luôn đe dọa chi phối bất kỳ một ai phát khởi tà tâm. Việc trì tụng kinh của chúng ta cũng vậy, vì thấy bá tánh chúng sanh còn mãi chịu dập vùi đau khổ trong bể khổ trần ai, chúng ta mới phát tâm chí thành cầu nguyện giải khổ cho bá tánh với một tình yêu chân thành, chính những tình thương dành cho bá tánh ấy sẽ góp phần rất lớn trong việc tạo dựng thêm luồng điễn thanh chống lại khối điễn trược vốn dĩ rất lớn đang tích tụ nơi không trung.

Đây chính là pháp môn Công Phu vì khi trì tụng kinh, tâm của chúng ta luôn hồi hướng về Thầy Mẹ và các đấng Thiêng Liêng.

Đây cũng chính là pháp môn Công Trình nếu chúng ta tích cực kiên trì thực hiện đến suốt đời. Hơn nữa việc trì tụng kinh sẽ giúp cho Tâm của mình dần cải thiện theo chiều hướng tích cực theo thời gian (Bớt nóng giận; luôn cảm thấy an lạc thân tâm; giảm sự thị phi sắc tướng; Tứ vô lượng Tâm: Từ, Bi, Hỉ, Xả ngày một phát triển…).







Phật Di Lặc - Truyền Thống Cứu Khổ Ban Vui Của Phật Giáo


Mồng Một Tết, theo truyền thống dân tộc Việt nam, là ngày đầu tiên của một năm mới; theo truyền thống Phật giáo Bắc tông, là ngày lễ vía đức Phật Di Lặc. Ngài không phải là một nhân vật lịch sử như Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni, mà là một trong vô số chư Phật thuộc huyền thoại, hay đúng hơn thuộc vũ trụ quan hay siêu hình học Phật giáo.



Phật Di Lặc, -- tiếng Phạn gọi là Maitreya, Pali là Metteya, còn Tây tạng ngữ là Jhampa, có nghĩa là Từ Hữu --, được Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni thọ ký làm vị Phật sẽ xuất thế trong tương lai. Maitreya chuyển hóa từ chữ "Mairi", có nghĩa là tình thương, liên hệ đến "Matr" chỉ cho Mẹ và "Mitra", bạn; do đó mà dịch là Từ Hữu, bạn hiền. Ngài sẽ là vị thứ năm và cuối cùng trong năm vị Ðại Ðịnh Phật đắc quả chánh đẳng chánh giác trong hiện kiếp này. Năm vị Phật là: 1. Tì-lô-giá-na (Vairocana) dịch là Ðại Nhật, ngự ở trung tâm vũ trụ, dùng màu trắng, thuộc hành kim; 2. A-súc-bệ (Aksobhya), ngự phương Ðông, màu xanh đậm, hành thổ; 3. A-di-đà phương Tây, màu vàng, hành thủy; 4. Bảo Sanh (Ratnasambhava) hay Thích Ca Mâu Ni phương Nam, màu vàng, hành hỏa; và 5. Bất Không (Amoghasiddhi), sau này là Di Lặc, ngự ở phương Bắc, màu xanh lá cây, hành mộc.

Cả hai nguồn liệu thuộc văn hệ Nguyên Thủy và Bắc tông đều đồng ý là Phật Di Lặc hiện đang trú xứ tại Diệu Hỉ Túc Thiên, còn gọi là Tri Túc Thiên, tức cõi trời Ðâu Suất (Tusïita; Tạng ngữ là Ganden) mà các kinh điển, nhất là kinh Di Lặc hạ sanh thành Phật hay Quán Di Lặc bồ tát thượng sanh Ðâu suất đà thiên, thường nhắc tới. Ở thời vị lai, xa, rất xa, có thể là hàng chục ngàn năm nữa, khi mà giáo pháp của Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni đã đi đến giai đoạn chót hết của thời mạt pháp, thì Phật Di Lặc sẽ hạ sanh nơi cõi trần này và hoá thân cuối cùng làm người. Ngài sẽ tự tìm thấy con đường giác ngộ và sẽ chuyển pháp luân lần nữa để hóa độ trời người. Hiện tại, ngài đang bảo quản kiếp số của thế giới này cho đến khi ngài hạ sanh, còn hàng ngàn năm nữa. Một phần nhiệm vụ bảo quản này của ngài là thường xuyên xuất hiện trong thế gian để hướng dẫn chúng sanh đi theo đúng con đường chánh pháp; xuất hiện qua các hình trạng Bồ-tát, và được tôn thờ làm Di Lặc Bồ-tát. Trong vai trò Bồ tát, Di Lặc thường cùng Văn Thù (Manõjusri) vấn đạo Ðức Phật Thích Ca về các khái niệm Ðại thừa.

Phật Di Lặc được nhận diện qua cánh tay trái cầm một đóa sen, trong đó có một ngôi bảo tháp; hoặc tay cầm một pháp luân bằng vàng, đôi khi cầm một tịnh bình (kalasha) chứa cam lồ. Nước cam lồ này là pháp nhủ mà một ngày nào đó, khi ngài hóa thân, sẽ tưới mát lên toàn thế giới. Tịnh bình cũng là một biểu tượng là ngài sẽ hóa thân vào dòng Bà-la-môn, làm con của quốc sư Thiện Tịnh, trong khi Ðức Phật Thích Ca đã hóa thân vào dòng Sát-đế-lỵ. Di Lặc cũng sẽ từ bỏ vai trò đạo sư Bà-la-môn để tầm đạo, ngồi dưới cội cây long hoa và đạt giác ngộ chỉ trong một đêm, mà không cần phải tu khổ hạnh đến 6 năm như trường hợp Phật Thích Ca. Ngoài ra, Phật Di Lặc cũng được tạc khắc với hai tay trong ấn khế chuyển pháp luân đặt nơi trái tim, cầm hai cành hoa sen, trong mỗi hoa sen có bánh xe pháp, để chỉ định ngài sẽ là vị Chuyển Luân Pháp Vương của đời vị lai. Bên trên Ðức Di Lặc là một bảo cái, một trong tám biểu tượng cát tường của Phật giáo Tây tạng, để nói lên rằng Phật Di Lặc có khả năng bảo hộ chúng sanh thoát khỏi những ảnh hưởng bất thiện.

Tượng Phật Di Lặc được mô tả theo một cách thế ngồi gọi là bhadrasana, rất đặc biệt và độc đáo trong nghệ thuật tranh ảnh Phật giáo, trông giống như ngài ngồi theo kiểu Tây phương, trên một trường kỷ. Ðây là dấu hiệu Di Lặc đang chuẩn bị sẵn sàng để hạ sanh. Trong cách thế đặc biệt này, ngài đưa một tay lên trước mặt, với ba ngón tay chìa ra, biểu trưng cho Tam Bảo. Mặt ngài hơi cuối xuống, để nhìn xuống thế gian nơi mà ngài sẽ đến và mang ánh sáng từ bi của Phật Pháp vừa được khai mở lại, để một lần nữa phá tan màn đen tối vô minh của kiếp số chúng sanh, cùng là niềm hy vọng cho tương lai.

Tượng Phật Di Lặc cũng thường được thấy trên đỉnh đầu có bảo tháp tượng trưng sự tôn kính của ngài đối với Phật Thích Ca Mâu Ni, mặc dù ngài, theo Thích Ca, đã đắc quả trước. Khi Thích Ca giáng trần làm vị Phật thứ tư trong đời hiện thế này, thì Di Lặc cũng hóa thân làm Bồ tát, cùng với Quán Thế AÂm, Văn Thù, Phổ Hiền, v.v., làm một trong các đại Bồ tát của Phật, để hoá độ chúng sanh.

Tranh ảnh Tây tạng mô tả cảnh giới Phật với Ðức Thích Ca chính giữa, bên trái ngài là Văn Thù, biểu tượng cho trí tuệ, bên mặt là Di Lặc, biểutượng của tu hành. Bên dưới Di Lặc là Vô Trước và Thế Thân, hai nhà luận sư vĩ đại của đạo Phật thuộc lịch sử, dẫn đầu một loạt các triết học gia đại biểu nhiều học phái. Ðức Phật Thích Ca ngự ở giữa, biểu trưng cho sự nhất thống và trung dung của cả hai khuynh hướng, để chủ trì một sự quân bình giữa hai cực đoan, hoặc tâm linh và thần bí mà Di Lặc đề xướng, hoặc thuộc trí tuệ và nhất tâm để đạt đến vô ngã của Văn Thù.

Nhật Bản sử kyù và Quốc sử ký của Nhật có ghi một thông tin thú vị về một pho tượng Bồ tát Di Lặc. Vào hạ bán thế kỷ VI, Phật giáo bắt đầu ảnh hưởng sâu đậm vào văn hóa Nhật bản khiến nảy sanh hai khuynh hướng tại triều đình Mẫn Ðạt (572-586) : tiếp nhận và phản đối. Cho đến năm 587, dưới triều đại Dụng Minh (586-588) và nhất là triều nữ hoàng Thôi Cổ (tại ngôi 593-628) thì phái tiếp nhận chiếm ưu thế, và dưới tài nhiếp chính của Thánh Ðức thái tử (Shotoku Taishi), tư tưởng, nghệ thuật và minh triết Trung Hoa cùng là Phật giáo được nồng nhiệt xiển dương. Thánh Ðức thái tử, ngoài là một chánh khách đại tài, còn là một Phật tử thuần tín và lỗi lạc; chính thái tử đã diễn thuyết nhiều kinh điển Bắc tông Phật giáo, nhất là kinh Thắng Man, cho nữ hoàng Thôi Cổ nghe và từ đó, đưa Phật giáo lên hàng quốc giáo. Ngài viết nhiều luận giải, tạo dựng nhiều thiền đường và tự viện, cùng là sắc lịnh "Hiến pháp bảy điều" để khuyến khích và du nhập vào Nhật bản các ngành nghệ thuật, các sách phương thuật, thiên văn địa lý, và sử dụng lịch Trung hoa. Dưới thời nhiếp chính của ngài, năm 603, hai vị tăng Cao Ly (Triều Tiên) Tăng Long và Vân Thông đến, triều cống một tượng Bồ tát Di Lặc và được tôn thờ tại Quảng Long tự, nay thuộc vùng Tây Bắc của Ðông Kinh. Tượng này ngày nay được dùng như khuôn mẫu để tạc phần lớn các tượng Phật Di Lặc tôn thờ tại Nhật Bản.

Ðặc biệt, nghệ thuật điêu khắc tượng Bồ tát Di Lặc này không giống trường phái nào trước đó, tức trước thế kỷ VI. Tượng được tạc bằng gỗ đan tùng, một loại tùng thường thấy ở Cao Ly, nhưng đường nét trên gương mặt Bồ tát không giống diện mạo người Cao Ly hay Nhật Bản, cũng không giống Ấn Ðộ hay Trung Hoa, mà lại giống người Hy Lạp hoặc Ba Tư, hay một sắc tộc nào thuộc vùng Trung Á. Vùng này, xưa được gọi là Gandhàra, là địa danh bao gồm Taxila, Peshawar, Gilgit, Hadïdïa, Jalalabad, Kabul và Bamiyan (nơi mà hai tôn tượng Phật cao nhất và cổ xưa nhất thế giới vừa bị hủy diệt), nay là Peshawar, thuộc miền Bắc Punjab, gần biên giới giáp ranh phía bắc Pakistan và phía đông Afghanistan.

Gandhàra một thời là trung tâm văn hóa thiêng liêng của Phật giáo, là cái nôi của nghệ thuật, điêu khắc, văn hoá, triết lý và học thuật lừng danh thế giới. Những di liệu khảo cổ tìm thấy tại Taxila, Peshawar, Gilgit, Charsadda, Takht Bhai, Hadïdïa, Jalalabad, Swat và những thạch khắc (rock carvings) dọc theo Con Ðường Lụa cổ xưa (Silk Road) đều là những chứng tích cho lịch sử một thời phồn thịnh của Gandhàra. Gandhàra cũng chính là nơi mà tư tưởng Bắc tông Phật giáo bắt đầu manh nha, phát triển thành một truyền thống triết học và tu hành thâm sâu, phóng khoáng và phổ cập hơn truyền thống Nam tông, do nhờ sự hiện diện của các luận sư vĩ đại như Long Thọ, Thế Thân, Vô Trước, v.v.

Sự tích Phật Di Lặc bắt đầu từ ngàn muôn kiếp trước. Vào thời đức Phật Bảo Tràng có một đệ tử là tỳ kheo An Huệ thường hay lo lắng cho chúng sanh hơn là lo cho riêng ngài. Vị này có lời nguyện độ hoá chúng sanh trên đường tu giới, định và huệ. Nguyện lực mang an lạc của ngài vô cùng thâm sâu và lòng từ (Maitri) của ngài vô cùng sáng chói đến độ chư thiên ngợi ca, gọi bằng "Ðấng Từ Thị" (Maitreya). Phật Bảo Tràng bèn thọ ký rằng trong tất cả các hóa thân làm Bố tát ở đời vị lại, tỳ kheo An Huệ đều được tôn xưng như thế, và danh hiệu Từ Thị sẽ phổ biến khắp nơi.

Ngoài lòng từ, Di Lặc còn diễn thuyết 7 yếu pháp tu tập để phá trừ vô minh, diệt tiêu phiền não, thanh tịnh tâm ý và huân tập phước đức, từ đó đạt giác ngộ; đó là : i. tu Bát chánh đạo; ii. cúng dường Phật; iii. cúng dường tháp; iv. quy y Tam Bảo, tu thiện hạnh; v. tu học Phật Pháp; vi. cúng dường Tăng; và vii. thọ trì Bát quan trai giới. Bảy yếu pháp này được nhắc đến trong kinh Di Lặc hạ sanh thành Phật.

Theo truyền thống Bắc tông, khi mà thế giới này trãi qua một thời gian dài, ít nhất là vài mươi ngàn năm, trong đói khổ, bịnh tật và chiến tranh cho đến khi toàn cầu chỉ còn như là một bãi tha ma, thì Di Lặc sẽ hiện thân, chưa hẳn thành Phật, trong hình tướng vương giả, đoan nghiêm, đẹp trai và cao lớn hơn mọi người thường. Khi được hỏi sao ngài lại có sắc tướng trang nghiêm như thế, thì ngài trả lời rằng do nhiều kiếp tu hạnh nhẫn nhục, từ bi thương xót và không làm hại mọi loài chúng sanh; nếu chúng sanh nào cũng phát tín tâm tu các hạnh của ngài cũng sẽ được như thế, và sẽ huân tập phước đức vô lượng vô biên, tuổi thọ cũng sẽ tăng trưởng vô cùng. Kết quả là chúng sanh sẽ ít bịnh tật, tuổi già và cái chết sẽ không còn hiện hữu. Họ sẽ sống trong một thế giới quá sung sướng về vật chất khiến không còn biết giữ gìn đạo đức hay luân lý gì nữa. Thế là từ từ cuộc sống đạo đức của họ suy bại, tuổi thọ cũng giảm sút lần cho đến khi họ biết quay trở về lại con đường tâm linh, cho đến khi có vị chuyển luân vương hiền đức hiệu Thắng Khư, còn gọi là Hướng Khư (Shankha), cai trị thì đó là lúc Phật Di Lặc giáng sanh từ cung trời Ðâu Suất, đạt giác ngộ dưới cội cây long hoa để trở thành là đức Phật thứ năm và cuối cùng trong hiện kiếp này.

Thế gian bấy giờ không còn giai cấp Sát-đế-lỵ hay võ sĩ, như thời Phật Thích Ca, do vì thời đại Thích Ca thuyết pháp là thời nhiều bạo lực, chiến tranh, binh quyền, cho nên dức Phật Thích Ca phải dùng đến các đức tính của người võ sĩ, để tu khổ hạnh và tinh tấn trên đường tìm giác ngộ. Trái lại, Di Lặc sẽ giáng sanh trong giai cấp Bà-la-môn, được cho là giai cấp tri thức, và ngài sẽ mang giáo pháp từ bi để dạy dỗ chúng sanh. Giáo pháp của Phật Di Lặc cũng không sai khác với những gì chư Phật quá khứ giảng hóa; tuy nhiên điều duy nhất sai biệt là ngài sẽ không dùng đến mật ngữ thần chú đà la ni như thời đức Phật Thích Ca. Ðức Phật Thích Ca cũng thọ ký rằng những ai tinh tấn tu tập giáo pháp của ngài sẽ được tái sanh vào nhóm đệ tử đầu tiên và sẽ tiếp tục tu tập theo sự giáo hóa của Phật Di Lặc. Long Thọ (Nagarjuna), sáng tổ Trung Quán tông, mô tả sự sùng bái Di Lặc là một pháp môn dễ tu, dựa vào tha lực, để đạt giáo ngộ.

Danh hiệu Di Lặc xuất hiện trong nhiều kinh điển Bắc tông. Ngoài hai quyển nói riêng về ngài là kinh Di Lặc hạ sanh thành Phật và Quán Di Lặc bồ tát thượng sanh Ðâu suất đà thiên còn có Vô lượng thọ kinh, trong đó, Bồ tát Di Lặc, còn gọi là A-dật-đa hay Vô Năng Thắng, được đức Phật Thích Ca thuyết giảng cho nghe về cõi Tịnh độ của Phật Di-Ðà. Lục thập Hoa Nghiêm (Gandhavyùha sùtra) cũng nhắc đến Bồ tát Di Lặc. Di Lặc còn là đề tài cho bài tán ca vô cùng nồng nhiệt của Phật Minh (Buddhaghosha) diễn tả trong phần cuối của Thanh Tịnh đạo luận (Visuddhi Magga).




Truyền thống Tây Tạng, cũng như Trung Hoa và Nhật Bản, đều cho là Di Lặc là tác giả của 5 bộ luận lớn, truyền cho Vô Trước (Asanga) ghi chép lại, và làm cơ bản cho trường phái triết học Duy Tâm, còn được biết qua là Du-già tông, hay Duy thức tông. Các bộ luận này là:

i. Abhisamayàlankàra: Hiện chứng trang nghiêm luận.

ii. Mahàyàna-samparigraha-sàstra: Nhiếp đại thừa luận.

iii. Madhyànta-vibhàga-kàrika-sàstra: Biện trung biên luận

iv. Àrya-sàsana-prakarana-sàstra: Hiển dương thánh giáo luận.

v. Mahàyànasùtra-alankàra-sàstra: Ðại thừa trang nghiêm kinh luận.

Tuy nhiên, nhiều học giả đã nghiên cứu và chứng thực rằng tác giả của 5 bộ luận này là một nhân vật lịch sử, là một luận sư tài danh tên Maitreya-nàtha, có thể tạm dịch là Di Lặc thượng nhân hay đại sư, sống khoảng giữa thế kỷ IV-V. Một số học giả khác chủ trương trong các bộ luận này, một số là của Vô Trước. Sở dĩ có nhiều vấn đề về ai mới chính thực là tác giả của chúng do vì truyền thống tín ngưỡng cho rằng khi Vô Trước nhập đại định, ông quán thấy được lên cõi trời Ðâu Suất và được Di Lặc Phật truyền đạt cho 5 bộ luận này; nội dung chúng tóm lược và luận giải toàn bộ 25,000 câu của Ðại Bát Nhã kinh. Gần đây nhất, các học giả đã nhất trí cho rằng Hiện chứng trang nghiêm và Biện trung biên luận là của Di Lặc đại sư, các bộ còn lại là của Vô Trước.

Trên đây là một vài khái niệm về Di Lặc Phật và Di Lặc Bồ tát mà kinh điển và các nghiên cứu gần đây đề xướng. Theo đó, Di Lặc Phật khi hạ sanh, là một trượng phu thân tướng trang nghiêm, đẹp đẻ, cao lớn, có sức thu hút quần chúng khiến giáo hóa được hằng hà sa số chúng sanh. Chúng ta không hiểu tại sao ngày nay tượng Phật Di Lặc, hay đúng hơn là Bồ tát Di Lặc, được thờ trong các chùa chiền Trung hoa và Việt Nam lại mang sắc thái một vị rất mập, bụng to, miệng cười tít toát. Có phải chăng, cũng giống như trường hợp Quán AÂm Bồ tát, từ hình tướng một trượng phu được sùng bái tại Tây Tạng trước thế kỷ VII, ngài được nghệ thuật Trung Hoa chuyển hóa thành Mẹ Hiền Quán AÂm như ta tôn thờ ngày nay; theo đó, có lẽ Bồ tát Di Lặc cũng được mô phỏng theo chuyện Bố Ðại hoà thượng, được cho là một hóa thân của ngài vào khoảng thế kỷ XVI-XVII tại Trung Hoa, để trở thành là một vị béo phì cười tít toát như ta thấy ngày nay. Trong khi đó, tượng Phậ Di Lặc mà Nhật bản thờ phượng lại có thân hình thon nhỏ, dáng ngồi trang nghiêm, tư lự, gương mặt nhìn xuống với đôi mắt hiền từ, theo như mô tả về ngài ở đoạn trên.

Ngoài ra lại có có truyền thuyết về hội Long Hoa, mà hiện nay một số các thuật sĩ giả tá đã lợi dụng sự nhẹ dạ mê tín của một số Phật tử ít thông hiểu về giáo lý căn bản của Ðức Phật để trục lợi. Hội Long Hoa đã gây xáo trộn không ít trong lòng tin dễ dãi của dân gian, cho rằng thế giới sẽ bị diệt tận vào cuối năm 2000, hoặc cho rằng Ðức Di Lặc đã hạ sanh rồi, và đang thuyết pháp cứu đời, kêu gọi tất cả phải ăn chay niệm Phật để thoát kiếp số. Ấy vậy mà năm 2000 đã qua đi, không có biến chuyển nào đáng kể, và chúng ta đang chào đón mùa Xuân trong năm 2002, thì quả đã cho thấy tất cả những đồn đãi về một cuộc tận thế thật ra là ngoa truyền. Sự kiện đức Di Lặc đã ra đời lại càng không phù hợp về thời gian tính với những mô tả trong kinh "Hạ sanh", nên không cần dài dòng ở đây.

Ngoài ra, với chủ trương triệt hạ hay thôn tính đạo Phật, một số các nhà truyền giáo Tây phương gần đây đã tuyên truyền rằng kinh điển Phật giáo Bắc tông đều bị ảnh hưởng của các tôn giáo khác tại phương Bắc Ấn Ðộ. Ðây là một vài điển hình mà họ bới móc ra: Ðạo thờ thần lửa của Ba Tư (Zoroastrianism), chủ trương tôn thờ ánh sáng mặt trời, đã ảnh hưởng đến mô tả sự sùng bái Ðức Phật A Di Ðà như là Phật Vô Lượng Quang, do theo từ Phạn ngữ "Amitabha" có nghĩa là "Ánh sáng không đo lường được"; Ma-ni giáo (Manichaenism), một tôn giáo khác của Ba Tư, chủ trì một cuộc sống miên viễn, đã được kinh Pháp Hoa mô tả nhiệt thành qua sự xuất hiện thần thánh của Pháp thân Phật Thích Ca và Phật Ða Bảo; tôn giáo này còn có khái niệm về Manthula (Lời Thật, do vị cứu thế đã tuyên bố), và là nguồn cảm hứng cho kinh Ðại Nhật, bộ kinh lớn của Chân Ngôn tông, v.v. Các học giả này còn đi xa hơn nữa, cho rằng niềm tin nơi một vị cứu thế của các tôn giáo chịu ảnh hưởng Do Thái giáo đã chuyển thành đức tin nơi Phật Di Lặc sẽ hạ sanh độ đời nơi hội Long Hoa. Họ gò ép để cho rằng Maitreya là biến từ của tiếng Hy Lạp "Metatron " có nghĩa là "thời gian biến dịch", cũng có nghĩa đen là "khai mở một thời đại cứu tinh mới" để cho phù họp với sự hứa hẹn của vị giáo chủ bị đóng đinh của họ là sẽ trở lại trần gian này để làm một nhà cứu thế mới. Cố gắng đồng hóa Phật Di Lặc với khái niệm cứu thế này đã bị vạch trần trong quyển "AÂm mưu phá hoại Phật giáo..." do Giáo Hội Tăng Già Nguyên Thủy Thái Lan đã nghiêm chỉnh bài bác những dụng ý thâm độc của tôn giáo Tây phương và đã được dịch ra Việt ngữ.

Trên đây chỉ là một vài điều, rất nhỏ nhặt nếu tính theo số lưọng các kinh điển trong Ðại Tạng Kinh, mà những người muốn truyền bá tôn giáo Tây phương của họ đã cố tình gán ghép để biến Phật giáo, nhất là Phật giáo Bắc tông, thành là một chi nhánh của tôn giáo họ. Tuy nhiên, trong quá trình muốn triệt hạ Phật giáo như thế, họ đã bóp méo nhiều sự thật mà quên đi điều căn bản là Phật giáo không chấp nhận sự hiện hữu của một vị gọi là sáng thế (creator), bởi vì, theo nguyên lý nhân duyên, không có một sự hình thành nào chỉ do duy nhất một yếu tố mà có thể làm nên. Phật giáo lại càng không chấp nhận sự tồn tại của một vị gọi là cứu thế (messiah), bởi vì : "định nghiệp bất năng chuyển", không ai có thể cứu độ cho ai được, ngoài chính bản thân của người tạo nghiệp có biết ăn năn hối cải và tự mình biết tu tập để chuyển nghiệp hay không. Từ sự khác biệt trong căn bản như thế, không thể nào có được một cuộc giao lưu văn hóa giữa Phật giáo và tôn giáo ngoại lai Tây phương, bởi vì mục tiêu đã khác, nội dung đã khác, phương tiện đã khác, thì nước là nước, dầu là dầu, không thể trộn lẫn được. Những ai ôm ấp chủ trương hội nhập tôn giáo chỉ là những người người muốn thừa gió bẻ măng, ngu dốt căn bản tôn giáo, và xu thời dua nịnh mà thôi.

Gần đây nhất ta lại thấy có một vài nhà thờ bổng dưng có mái cong ba tầng, có cổng tam quan, như những ngôi chùa truyền thống muôn đời của dân tộc Việt Nam; vị thần thánh mà họ kinh sợ tôn thờ, sách kinh của họ ghi là sanh trong một máng cỏ tại vùng Cận Ðông, thình lình được cho mặc áo dài xanh chít khăn đống. Những nhà truyền giáo ngoại lai này có thể ngụy biện rằng đây là để đồng hoá, chứng minh giáo chủ của họ cũng là người Việt Nam và tôn giáo của họ là tôn giáo của người Việt Nam! Nhưng họ đã quên rằng, khi Phật giáo du nhập Việt Nam, hơn hai ngàn năm trước, Phật giáo đã đồng hóa với tín ngưỡng địa phương của các sắc tộc Việt Nam, tạo thành một nền Phật giáo quyền năng, để làm giàu thêm cho cuộc sống tâm linh của người dân Việt mà không hề làm mất mát hay tiêu hoại những yếu tố địa phương của các tín ngưỡng được hội nhập. Trong khi đó, tôn giáo Tây phương đã xâm lăng đất nước Việt Nam bằng súng đạn của thực dân, ngụy trang bằng những nhà tu áo đen mượn danh truyền giáo để dùng đủ mọi cách dã man và tàn bạo nhất để triệt hạ các tín ngưỡng địa phương, trong đó có đạo Phật, với câu hô hào bất hủ: "Thà mất nước chớ không thà mất chúa!" Ấy vậy mà sau 4-5 thế kỷ công dã tràng trong công cuộc biến nước Việt Nam thành một thừa sai cho lưỡi gươm thập tự xâm lược, nay lại chuyển hướng muốn hô hào xưng tụng giáo chủ tôn giáo của họ cũng là người Việt Nam, thì quả thật là điều "ngững mặt lên trời phun nước dãi".

Mùa Xuân một lần nữa lại trở về trên đất nước Việt Nam. Có phải chăng huyền thoại về Phật Di Lặc cười tít toát đã được thể hiện ngay trong kiếp sống này, khi ngày Mồng Một Tết hàng năm cũng là ngày lễ vía Ðức Phật tương lai đầy lòng từ bi hỉ xả?. Bởi vì, mùa xuân là mùa hy vọng, một hy vọng cho tương lai tươi sáng hơn, êm đẹp hơn, bình an hơn, vui vẻ hơn, giống như nụ cười tít toát đầy từ bi nhiều phóng khoáng của Ðức Phật Di Lặc. Cho nên không cần biết nguyên nhân hay lý do nào Phật Di Lặc được biểu trưng như vậy, một khi lòng sùng tín của Phật tử qua thể hiện đi chùa những ngày Tết, thắp nhang lạy Phật Di Lặc, phát nguyện tu hành thiện nghiệp cho tương lai, thì một hình thức tôn giáo với trọn vẹn đầy đủ ý nghĩa của nó đãhình thành và đưa Phật giáo đến với chúng sanh với lòng tin mãnh liệt nơi đức tánh từ bi của người bạn hiền hướng dẫn trong thời vị lai: Di Lặc, Từ Hữu.

Ðức Phật Thích Ca, khi quyết định khai mở giáo pháp của ngài sau hai mươi mốt ngày do dự, đi quanh cội Bồ đề để nghĩ suy (phẩm Phương tiện, kinh Pháp Hoa), đã biết triết lý mà ngài vừa khám phá để đạt đến chánh đẳng chánh giác quả thật thâm sâu, ít người thấu hiểu nổi, ít người tu trì nổi. Cho nên ngài đã phương tiện thuyết giảng về Ðức Phật Di-Ðà, vị Phật của quá khứ với lời nguyện tiếp độ chúng sanh về cõi Cực Lạc, và về Ðức Phật Di Lặc, vị Phật của tương lai với nguyện lực tiếp nối giáo pháp của ngài để độ hoá chúng sanh trong thời vị lai. Từ sự sùng bái Tam Tôn Phật – Thích Ca của thời hiện tại, Di-Ðà của quá khứ với thế giới Cực Lạc chờ đón chúng sanh, và Di Lặc với hứa hẹn cứu độ thời mạt kiếp – Phật giáo đã cống hiến cho văn minh thế giới hai dòng tư tưởng mà con người cần thiết: một, tư tưởng triết học với các nguyên lý căn bản và các luận giải mà ngày nay Tây phương đang cố công nghiên cứu và học tập; và một, tư tưởng tôn giáo với đức tin có một nơi tịnh độ để "sống gửi thác về", và có con đường trước mặt để đi theo làm người thiện tín thuần thành, chuyên tu giới-định-huệ để đạt giải thoát trong thời mạt pháp này. Nụ cười tít toát của Phật Di Lặc đã mang lại cho chúng sanh một niềm tin tích cực nơi một tương lai bớt đi nhiều đau khổ.



Lời tụng tôn kính đức Phật đương lai
HOÀ THƯỢNG Trí Quang viết
2544 (2000)

Kính lạy đức thích ca ,

đức phật bổn sư .
Kính lạy đức di lặc ,
đức phật đương lai .
Kính lạy phật pháp tăng ,
Vô thượng tam bảo .
đệ tử chúng con
Tôn kính đảnh lễ
Di lặc thế tôn ,
Giáo chủ đương lai
Của thế giớI này .
Chúng con thành tâm
Chiêm nghiệm những điều
đức phật bổn sư
Thích ca thế tôn
đã dạy về ngài .
Quan niệm tận thế
Nói rằng nhân loại
Có ngày tận diệt .
Ngày ấy nhân loại
Chỉ có hai nẻo :
Một là vĩnh viễn
được thưởng thiên đường ,
Hai là vĩnh viễn
Bị đày hỏa ngục .
Quan niệm như vậy
Nội chữ tận thế
Cũng đã gây ra
Bao sự chết chóc .
Phậ t không chấp nhận
Quan niệm như vậy .

Phật cho thấy rằng
Nhân loại cùng với
Thế giớI nhân loại
Toàn do hành vi
Mà cọng chuyển biến ,
Không là vĩnh viễn
Cũng không cố định .
Thế giới chúng ta
Có tên kham nhẫn ,
Là một ở trong
Vô lượng vô biên
Những thế giới khác .
Thế giớI kham nhẫn
Có hai hình lượng .
Hình lượng thứ nhất
GọI là đại thiên ,
Tạm coi chính là
Một thái dương hệ .
Hình lượng thứ hai
Gọi là tiểu thiên ,
Tạm coi chính là
Hành tinh chúng ta .
Thế giới đại thiên
Biến chuyển liên tục
Thành trú hoại không ,
Và không lại thành ...
Thế giới tiểu thiên
Biến chuyển liên tục
Qua hai mươi lần
Tăng giảm, giảm tăng
Thuộc giai đoạn trú .
Tăng giảm là gì ?
Tăng là yên vui
Thêm dần cao lên ,
Giảm là yên vui
Bớt dần thấp xuống .
Yên vui ở đây
Gồm đủ sắc thái
Thanh bình , phong phú ,
Tiến bộ , đạo hạnh ,
Sống lâu thật lâu ,
Mưa thuận , gió hòa ...

Yên vui mà giảm
- như hiện nay đây -
gọi là tam tai :
một là đao binh ,
là họa chinh chiến
đủ mọi trạng huống ;
Hai là tật dịch ,
Là họa truyền nhiễm
đủ loại bịnh tật ;
Ba là cơ cẩn ,
Là họa nhân mãn
Tạo bao vấn đề .
Tam tai như vậy
Là thời kỳ giảm ,
Nguồn gốc là do
Con người tham lam
Mà lại lo sợ ,
Sống hướng vào nhau
Bằng sự làm hại .
Hại nhau thì khiến
Yên vui giảm xuống .
Hại nhau cho đến
Thấy ra chết hết ,
Mới thật chân thành
Sống hướng vào nhau
Bằng sự bất hại .
Bất hại chính là
đức tính từ bi .

Bất hại tăng lên
Thì sự yên vui
Cũng tăng dần lên ,
Như thế gọi là
Giảm rồi lại tăng ...
Hiện nay là giảm
Của sự tăng giảm
Thuộc về trung diệp
Trong hai mươi lần
Của giai đoạn trú .
Khi giảm rồi tăng ,
Tăng đến cao độ ,
Thì đức di lặc ,
đức phật đương lai ,
Xuất hiện thế giới .
Phật có cái hiệu
Bậc lưỡng túc tôn
- đấng cao quí nhất
các loài hai chân .
các loài hai chân
quí nhất là người ,
vì lẽ sáng kiến ,
chịu khó , làm việc ,
đều là vượt bậc ,
Lại có cảnh ngộ
Không quá khổ vui .
Phật đã xuất hiện
ở trong loài người
là vì như vậy .

con người cần phải
tự ý thức lấy :
do những năng lực
đã nói ở trên ,
Con người có thể
Làm cho kỹ thuật
Ngày càng tinh hảo ,
Và đặc biệt nhất ,
Có thể chuyển hướng
Những kỹ thuật ấy
Xoáy vào cuộc sống
Tương quan sinh tồn .

Rằng giảm là do
Con người tự tạo ,
Rằng tăng cũng do
Con người tự tạo ;
VớI sự bất hại
Tương quan sinh tồn ,
Con người quyết chắc
Từ giảm lại tăng .
Nên ngay hiện tại
Mà đức di lặc
Thể hiện ở trong
đời sống con người ,
Và rồi tương lai
Thấy và gặp được
Thân người của ngài
Xuất hiện thế gian .
ThởI đức bổn sư
Thì đức di lặc
Là thân loài người ,
ở ba la nại .
trong một pháp thoại ,
đức phật bổn sư
Dùng một âm thanh
Mà nói hằng ức
đại tổng trì môn ,
Và đức di lặc
Tức thì đạt được .
Trong pháp thoại khác ,
Di lặc đại sĩ
Phát nguyện thành phật
Một cách thẳng tắt ,
Không qua mọI sự
Biểu hiện bình thường ,
Nên đức bổn sư
Thích ca thế tôn
Truyền trao pháp y ,
Và thọ ký cho
Thành phật đương lai
Của thế giớI này .
Khi thân loài người
Của đức di lặc
Kết thúc ở đây ,
Thì trong ánh sáng
Của cái thân ấy
Chữ nghĩa bát nhã
Và định lăng nghiêm
Rực rỡ rõ ràng ,
Và ngài sinh lên
đâu suất nội viện ,
Làm vị đại sĩ
Chỉ một đời nữa
Là thành phật đà .

Ai muốn sinh lên
đâu suất nội viện
Thấy đức di lặc ,
Thì hãy thực hành
Từ bi bất hại
Bằng các tịnh nghiệp ,
Trong đó đặc biệt
Là bát quan trai ,
Là phát đại nguyện ,
Là nhớ danh hiệu
Của đức di lặc ,
Rồi mộng thấy ngài
Qua hình chư thiên
Hay hình hoa sen .
Như thế không những
Sinh lên đâu suất ,
Mà còn được dự
Những hộI thuyết pháp
Của đức di lặc
Khi ngài thành phật
ở cõi người này .
bất hại là gì ?
bất hại chính là
đức tính từ bi .
Bất hại có hai .
Một là nói rộng :
Bất hại có nghĩa
Tương quan sinh tồn ,
Giúp nhau mà sống ,
Chứ không chủ trương
Sinh tồn cạnh tranh ,
Giành nhau mà còn .
Hai là nói hẹp :
Bất hại có nghĩa
Không hề sát sinh -
Không hề sử dụng
Khí giới , vũ khí .
Ngay trong pháp cú ,
Bất hại được phật
đưa lên ngang hàng
Với phật pháp tăng ,
Và là phật tử
Thì phải thường xuyên
Tưởng nhớ bất hại
Y như tưởng nhớ
đến chính đức phật .
Tại cung đâu suất ,
đức phật đương lai
Dạy cho các vị
Không còn thoái chuyển
Những sự huấn dụ
Theo trình độ này .
Ngài lại biến thể
Theo bao nhu cầu ,
Trong đó tương truyền
Có ngài định ứng ,
Hổn danh bố đãi
- Là tượng di lặc
Nay thường thờ phụng ;
Vị này mớI thật
Là bậc mở đầu
Cửa thiền trung hoa .
Khi mọI cơ duyên
đầy đủ cả rồi ,
Bấy giờ đức phật
đương lai xuất thế .
đức phật bổn sư
Thích ca mâu ni
Xuất thế vào lúc
Con người đủ cả
Năm loại vẩn đục
- Vào lúc yên vui
Giảm xuống rất thấp .
Khác vớI đức phật
Bổn sư thích ca ,
đức phật đương lai
Di lặc thế tôn
Xuất thế vào lúc
Giảm rồi đã tăng ,
Yên vui tăng lên ,
- Lúc mà nhân loại
Trình độ tăng cao
Mà lại tăng đều ,
Khí tượng thủy văn
Rất chi điều hòa .
Lúc ấy đức phật
Di lặc thế tôn
Xuất hiện thế giới,
Và xuất gia liền ,
Và ngày xuất gia
Cũng chính là ngày
Thành đạo dưới cây
Bồ đề long hoa ,
Thuyết pháp hóa độ
Cho bao đệ tử
Của đức bổn sư
- Những người sau khi
Ngài đã diệt độ
Mà biết y theo
Huấn dụ của ngài :
Quy y tam bảo ,
Nghiêm giữ ngũ giới ,
Tu bát quan trai ,
Thực thi đức tính
Từ bi bất hại ...

Di lặc thế tôn
Lại còn hóa độ
Vô lượng chủng loại
Nhân loại chư thiên ,
Những người chưa hết
Tập tính phiền não
Mà vẫn quảng phát
Hoằng thệ đại nguyện ,
Thực hiện bao loại
đại hạnh bất hại ,
Diệu dụng tính năng
Của đức từ bi .
MọI việc trên đây
Của đức di lặc
được chính ma vương
Cực kỳ hoan hỷ
Lớn tiếng rao lên .
Cũng chính ma vương
Phổ khuyến mọi người
Xuất gia theo ngài .
Phật tử chúng con
Chí thành kính lạy
đức phật đương lai ,
Nguyện theo huấn dụ
Của đức bổn sư ,
Mà sống đúng với
Từ bi bất hại .
Ngưỡng mong các ngài
Gia trì chúng con
Tinh tiến như vậy .
Nam mô bổn sư
Thích ca thế tôn .
Nam mô đương lai
Di lặc thế tôn .
Nam mô vô thượng
Phật pháp tăng bảo .
Ngày kỷ niệm Phật niết bàn
2544 (2000)

----------------------------

Ghi chú về lời tụng tôn kính đức Di Lặc



Lời tụng này lấy ở một số tài liệu khá đủ và đáng lấy, ghi theo số hiệu của đại tạng bản đại chính, như sau : 452-457 (cùng tập 14, các trang 418-435), 25 (tập 1, các trang 509-511). Ngoài ra, các kinh Pháp cú và Pháp hoa, các luận Tì bà sa và Câu xá cũng có tham chiếu.

Cũng qua những tài liệu trên đây, xin ghi chú thêm mấy chi tiết.

Thứ nhất là nghĩa của hồng danh Di Lặc. Hòng danh ấy ngài Huyền Trang dịch là Từ thị (họ Từ). Ngài Di Lặc chuyên tu hạnh bất hại, bất hại là từ, là từ bi, nên tên Ngài là Từ thị (Di lặc). Bất hại được Pháp cú (Hoa văn cũng như Pali) đưa lên ngang với Tam bảo và Phật tử thì phải thường tưởng nhớ.

Thứ hai, có thuyết nói Di Lặc còn gọi là A dật đa (Không gì hơn), có thuyết nói là hai vị. Tôi tán đồng thuyết trước.

Thứ ba, sự huyền ký về đức Di Lặc, ngoài việc đề cao đức tính bất hại, có vẻ còn chú ý những người chưa hết tập tính phiền não mà vẫn có đại nguyện và tu tịnh nghiệp. Tịnh nghiệp thì chú ý bát quan trai trong đó. Như thế cũng đủ để an ủi và nâng đỡ cho ta không ít.
Ngày kỷ niệm
Phật niết bàn 2544 (2000)
Tríquang

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét