Thứ Sáu, 15 tháng 1, 2021

NIỆM PHẬT


NAM MÔ TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC THẾ GIỚI 
ĐẠI TỪ ĐẠI BI A DI ĐÀ PHẬT



NAM MÔ ĐẠI TỪ ĐẠI BI TẦM THINH CỨU KHỔ CỨU NẠN 
LINH CẢM ỨNG QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT




NAM MÔ ĐẠI LỰC ĐẠI THẾ CHÍ BỒ TÁT




NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT




NAM MÔ NGŨ TRÍ NGHIÊM THÂN 
ĐẠI TRÍ VĂN THÙ SƯ LỢI BỒ TÁT




NAM MÔ THẬP ĐẠI NGUYỆN VƯƠNG 
ĐẠI HẠNH PHỔ HIỀN VƯƠNG BỒ TÁT




NAM MÔ LONG HOA GIÁO CHỦ ĐƯƠNG LAI HẠ SANH 
DI LẶC TỪ THỊ TÔN VƯƠNG PHẬT




NAM MÔ PHẬT MẪU KHỔNG TƯỚC MINH VƯƠNG




NAM MÔ HOA TẠNG GIÁO CHỦ TỲ LÔ GIÁ NA PHẬT




NAM MÔ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ VƯƠNG BỒ TÁT




NAM MÔ PHẬT MẪU QUÁN ÂM NGHÌN TAY NGHÌN MẮT




NAM MÔ ĐẠI BI, ĐẠI NGUYỆN, ĐẠI THÁNH, ĐẠI TỪ 
BỔN TÔN ĐỊA TẠNG VƯƠNG BỒ TÁT







1. NAM MÔ QUANG THẮNG THẾ GIỚI - 
Thiện Danh Xưng Cát Tường Như Lai



2. NAM MÔ DIỆU BẢO THẾ GIỚI -
Bảo Nguyệt Trí Nghiêm Quan Âm Tự Tại Vương Như Lai



3. NAM MÔ VIÊN MÃN HƯƠNG TÍCH THẾ GIỚI - 
Kim Sắc Bảo Quang Diệu Hạnh Thành Tựu Như Lai




4. NAM MÔ VÔ ƯU THẾ GIỚI - 
Vô Ưu Tối Thắng Cát Tường Như Lai




5. NAM MÔ PHÁP TRÀNG THẾ GIỚI - 
Pháp Hải Lôi Âm Như Lai



6. NAM MÔ THIỆN TRỤ BẢO HẢI THẾ GIỚI - 
Pháp Hải Thắng Huệ Du Hý Thần Thông Như Lai



7. NAM MÔ TỊNH LƯU LY THẾ GIỚI -
Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai




NIỆM DANH HIỆU BẢY 
ĐỨC PHẬT DƯỢC SƯ

Dược Sư Quang Phật
Bậc Đại Y Vương
Mười Hai Nguyện Lớn
Cứu Khổ Trầm Luân
Thành Tâm Quy Ngưỡng
Trang Nghiêm Đạo Trường
Niệm Trì Danh Hiệu
Đèn Hoa Cúng Dường
Đảnh Lễ Phật Tượng
Cung Kính Tán Dương
Làm Phan Tục Mạng
Tuổi Thọ Miên Trường
Diệt Trừ Tội Chướng
Oan Nghiệp Không Còn,
Phước Lộc Tăng Trưởng,
Quả Chứng Chân Thường. 



1. NAM MÔ QUANG THẮNG THẾ GIỚI - 
Thiện Danh Xưng Cát Tường Như Lai

2. NAM MÔ DIỆU BẢO THẾ GIỚI -
Bảo Nguyệt Trí Nghiêm Quan Âm Tự Tại Vương Như Lai

3. NAM MÔ VIÊN MÃN HƯƠNG TÍCH THẾ GIỚI - 
Kim Sắc Bảo Quang Diệu Hạnh Thành Tựu Như Lai

4. NAM MÔ VÔ ƯU THẾ GIỚI - 
Vô Ưu Tối Thắng Cát Tường Như Lai

5. NAM MÔ PHÁP TRÀNG THẾ GIỚI - 
Pháp Hải Lôi Âm Như Lai

6. NAM MÔ THIỆN TRỤ BẢO HẢI THẾ GIỚI - 
Pháp Hải Thắng Huệ Du Hý Thần Thông Như Lai

7. NAM MÔ TỊNH LƯU LY THẾ GIỚI -
Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai



Ý nghĩa đàn Dược Sư thất châu



Từ ngàn xưa người Việt Nam chúng ta đã được thấm nhuần tinh thần từ bi của đạo Phật, Tổ tiên ta đã Phật hóa gia đình, giáo dục con cháu phải biết chia sẻ hạnh phúc, ban rải tình thương đến mọi người, mọi loài, cỏ cây đất đá.


Cho nên ngày xuân mọi người chúc tụng những lời tốt đẹp, chia sẻ những thành quả của mình đến mọi người. Bày biện Tổ đường trang nghiêm cũng là để thể hiện tinh thần uống nước nhớ nguồn của con cháu. Hơn thế nữa, người ta còn đi trẩy hội ngoạn thủy du sơn, tham lễ, dâng hương các đạo tràng, các danh sách của chư vị Tổ sư, hầu thăm các bậc chân tu, đạo hạnh để được lắng nghe những kinh nghiệm tu tập, những lời dạy cao quý của các Ngài, để lấy đó làm kim chỉ nam định hướng cho con đường tu nhân học Phật.



Với truyền thống hộ quốc an dân của Phật giáo Việt Nam, ngày xuân các chùa thường tổ chức những lễ hội cầu cho mưa thuận gió hòa, nhân dân an lạc. Trên tinh thần cao quý đó, Chư tôn đức Ban Trị sự Thành hội Phật giáo Tp.HCM tổ chức Pháp hội Dược Sư diên thọ kỳ quốc thái dân an, nguyện phong điều vũ thuận.


Đàn tràng được thiết kế theo đồ hình Dược Sư Mạn đà la với hình ảnh như một hoa sen nở trọn tám cánh. Mỗi cánh sen có một đức Phật được bố trí theo chiều thuận nghịch như sau:

1. Đức Thiện Danh Xưng Kiết Tường Như Lai, ở quốc độ tên là Quang Thắng, cách thế giới Ta bà 4 hằng hà sa Phật độ;


2. Đức Bảo Nguyệt Trí Nghiêm Quang Âm Tự Tại Vương Như Lai, ở quốc độ tên là Diệu Bảo, cách thế giới Ta bà 5 hằng hà sa Phật độ;


3. Đức Kim Sắc Bảo Quang Diệu Hạnh Như Lai, ở quốc độ tên là Viên Mãn Hương Tích, cách thế giới Ta bà 6 hằng hà sa Phật độ;


4. Đức Vô Ưu Tối Thắng Kiết Tường Như Lai, ở quốc độ tên là Vô Ưu, cách thế giới Ta bà 7 hằng hà sa Phật độ;


5. Đức Pháp Hải Lôi Âm Như Lai, ở quốc độ tên là Pháp Tràng, cách thế giới Ta bà 8 hằng hà sa Phật độ;


6. Đức Pháp Hải Thắng Huệ Du Hý Thần Thông Như Lai, ở quốc độ tên là Thiện Trụ Bảo Hải, cách thế giới Ta bà 9 hằng hà sa Phật độ;


7. Đức Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Như Lai, ở quốc độ Tịnh Lưu Ly, cách thế giới Ta bà 10 hằng hà sa Phật độ.


Bảy đức Phật này đều ở về phương Đông.


Ngụ ý sâu xa ở Pháp hội Dược Sư thất châu này là đức Phật Bổn sư Thích Ca Mâu Ni muốn dạy cho chúng ta phải hướng về nẻo ánh giác mà tiến tu, quá trình tu tập phải trải qua bảy giai đoạn được tượng trưng mật nghĩa bằng bảy thế giới của bảy đức Phật ở phương Đông.


Phương Đông là nơi mặt trời xuất hiện, xua tan bóng tối đêm dài. Càng gần Ta bà bao nhiêu thì càng cách xa mặt trời bấy nhiêu. Trái lại, càng xa Ta bà bao nhiêu thì càng lại gần mặt trời bấy nhiêu. Đó là ý nghĩa vi diệu của Pháp hội Dược Sư mà chúng ta cần phải quán niệm:


Muốn gần ánh sáng giác ngộ thì phải tránh xa với hắc ám vô minh. Học Phật là bắt chước cách sống, cách làm, cách nghĩ, cách nói luôn tỉnh thức của đức Phật, để chuyển hóa cách sống, cách làm, cách nghĩ, cách nói thường mê lầm của chúng sinh. Tu tập theo đạo Phật là phải đem tuệ giác tỉnh thức của đức Thế Tôn để chiếu soi lại cuộc sống của phàm tình để thấy rõ mình là ai, mình đang bước đi trên con đường nào, con đường đó có đưa mình đến cung điện Niết bàn, an vui hạnh phúc không?


Dược Sư là thầy thuốc; Dược Sư cũng có thể hiểu là một phương thuốc.


Lưu Ly Quang là ánh sáng trong suốt như ngọc lưu ly, tượng trưng cho ba nghiệp thân khẩu ý hoàn toàn thanh tịnh.


Danh hiệu của bảy đức Phật chính là bảy phương thuốc để trị liệu thân bệnh, tâm bệnh, nghiệp bệnh của chúng sinh bằng sự thanh tịnh. Nói theo tinh thần Phật học thì hồng danh đức hiệu của mỗi đức Phật là một phương thuốc; là một pháp hành mà người học Phật phải ứng dụng trong sinh hoạt hàng ngày để chuyển hóa khổ đau đem lại an vui hạnh phúc.


Tu tập theo kinh Dược Sư, hành giả phải lắng lòng thanh tịnh trì niệm danh hiệu của từng đức Phật cho miên mật, nghĩa là phải thường xuyên uống thuốc (Dược Sư) để đào thải các chất phàm phu hắc ám ở trong mỗi chúng ta và làm cho ánh sáng lưu ly an lành xuất hiện, càng giảm vô minh si ái tăm tối, thì càng tăng ánh sáng lưu ly tươi đẹp.


Pháp môn xưng danh là một phương pháp tự kỷ ám thị, mà hiệu lực không thể đo lường, nếu chúng ta áp dụng một cách chí thành chí khẩn. Nhưng hiệu lực ấy có cùng không có, ít hay nhiều đều tùy thuộc vào sự hiểu biết của chúng ta đối với ý nghĩa nằm trong đức hiệu của chư Phật.


Có hiểu sâu ý nghĩa ấy mới thấm thía vào lòng ta, ám ảnh ta. Rồi thời gian sẽ khắng khít với ta và trở thành nguồn cảm hứng, từ đó sẽ lưu xuất ra những tư tưởng, ngôn ngữ và hành động tương xứng với ý nghĩa ấy.


Ba cõi do tâm tạo; Muôn pháp từ thức biến. Thiên đường địa ngục, đau khổ an vui đều do tâm ta quyết định.


Tu học theo Pháp môn Dược Sư là phải thắp đèn trí tuệ liên tục. Treo thần phan năm sắc (phong độ, cách sống luôn tươi đẹp) để trang nghiêm tự thân, trang nghiêm Pháp hội.


Đem chất liệu từ bi đượm thấm ba nghiệp để lời nói, hành động và ý nghĩa đều có tính dược, hầu chuyển hóa khổ đau của kiếp người và trị liệu những chứng bệnh trầm kha trong cuộc sống.


Giải kết giải kết giải oan kết
Nghiệp chướng bao đời đều giải hết
Rửa sạch lòng trần phát tâm thành kính
Đối trước Phật đài cầu xin giải kết.
Quy mạng đức Thế tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Vương.



Xin Ngài ban ánh sáng lưu ly thanh tịnh cho mọi người để được sống an lành trong tuệ giác từ bi của đức Phật.




TRÌ NIỆM THẦN CHÚ ĐẠI BI ĐÚNG CÁCH 



A. Những bước chuẩn bị trước khi trì niệm thần chú đại bi.

Bồ Tát Quán Thế Âm đã hứa với chúng ta: “Nếu hành giả có thể tụng trì đúng pháp, khởi lòng thương xót tất cả chúng sanh, lúc ấy ta sẽ sắc cho tất cả Thiện thần, Long vương, Kim Cang, Mật tích thường theo ủng hộ, không rời bên mình, như giữ gìn tròng con mắt hay thân mạng của chính họ“.

Như vậy, thế nào là tụng trì chú đại bi đúng pháp?

Trong phần hình trạng tướng mạo đã chỉ rõ mười đặc tính cốt yếu của Thần chú Đại Bi mà quan trọng hàng đầu là tâm Đại Từ Bi, cho nên mỗi lần trì tụng thần chú này hành giả phải bắt đầu hướng tâm vào việc quán tưởng khởi lòng thương xót tất cả chúng sanh. Một cách lý tưởng, để đạt được những công năng mà thần chú mang lại, trong thời gian trì tụng, hành giả phải giữ gìn giới hạnh, đặc biệt là sát, đạo, dâm, vọng. Phải kiêng cử rượu thịt, các thứ hành, hẹ, tỏi, cùng các thức ăn hôi hám. Tốt nhất là nên ăn chay.

Phải giữ vệ sinh thân thể, thường xuyên tắm gội, thay đổi y phục sạch sẽ, không nên để cho trong người có mùi hôi. Trước khi trì chú cũng phải đánh răng, súc miệng sạch sẽ, nếu trước đó có đi đại tiện, tiểu tiện thì phải rửa tay sạch sẽ trước khi trì tụng.Tóm lại, “Giữ gìn trai giới,ở nơi tịnh thất,tắm gội sạch sẽ, mặc y phục sạch, treo phan đốt đèn, dùng hương hoa cùng thực phẩm cúng dường, buộc tâm một chỗ”, đó là tất cả những điều kiện lý tưởng để hành giả trì chú Đại Bi. Tuy nhiên, như phần trên đã nói, Bồ Tát Quán Thế Âm chỉ yêu cầu chúng ta hai điều mỗi khi trì tụng chú Đại Bi, đó là thành tâm và không mưu cầu những việc bất thiện. Điều này cho phép hành giả có thể trì tụng bất cứ lúc nào mà điều kiện cho phép. Trên xe, trên tàu, trên máy bay, tại sở làm, tại nhà… Với tâm thành, tâm chúng ta lúc đó sẽ hòa nhập vào lời trì tụng đểø cùng thể nhập vào pháp giới, mười phương chư Phật. Bơỉ vì Bồ Tát đã cho chúng ta biết, mỗi lần trì tụng thần chú Đại Bi, thập phương chư Phật đều đến chứng minh.

Bàn thờ:

Hành giả nên có một phòng riêng yên tỉnh để lập bàn thờ Bồ tát. Bàn thờ nên có hình tượng Bồ Tát ngàn tay, ngàn mắt. Nếu không có thì có thể sử dụng bất cứ hình tượng Bồ Tát Quán Thế Âm nào mà mình hiện có. Hình tượng Bồ Tát nên để day mặt về hướng Tây. Trên bàn thờ tuy không bắt buộc nhưng nên có hoa tươi, trái cây, lư hương để cắm nhang, nước cúng. Nên để đèn sáng mỗi khi hành lễ. Có thể sử dụng chuỗi hạt gỗ để trợ lực khi trì tụng.




Cách thức ngồi, lạy :

Mỗi người nên có một tọa cụ, hoặc đơn giản hơn, một miếng vải sạch hay khăn bông xếp lại để làm chỗ tọa thiền. Hành giả nên ngồi theo cách thức kiết già nhưng nếu gặp khó khăn thì có thể ngồi theo cách thức bán già (ngồi xếp bằng, chân phải gác lên chân trái hay ngược lại), lòng bàn tay để ngữa hướng lên trên, bàn tay mặt để lên trên bàn tay trái, hai đầu ngón cái đụng vào nhau. Mắt nên mở hé, nếu nhắm hẵn thì dễ rơi vào trạng thái hôn trầm, nếu mở lớn thì khó định tâm.

Lạy là nghi thức biểu lộ sự cung kính, tôn trọng. Mỗi thời đại có một cung cách khác nhau để biểu lộ sự tôn trọng. Lối lạy kiểu cũ theo cách thức của người Trung Hoa có nhiều điểm rất bất tiện, không thích hợp cho không khí thiền đường. Trước hết, với kiểu lạy này, khi hành lễ mỗi người chiếm một khoảng diện tích đáng kể đủ để có thể đứng và qùy xuống lạy, gây trở ngại cho những thiền đường nhỏ. Việc đứng lên qùy xuống gây ra những tiếng động của động tác, tiếng sột soạt của quần áo, những động tác này cũng có thể làm phóng ra những bụi bặm, vi trùng mà ta mang trên quần áo, những mùi hôi của cơ thể – nhất là trong những xứ khí hậu nóng nực-, làm mất vệ sinh, gây ô nhiễm môi trường ta cần có để thở. Chưa kể là việc đứng lên qùy xuống lộn xộn trong những tư thế rất khó coi… Cho nên, chúng ta có thể thực hành một cách lạy tương đối đơn giản trong khi hành lễ, là thiền sinh cứ ngồi theo tư thế hành thiền, kiết già hay bán già, khi lạy chỉ cúi gập đầu xuống sàn phía trước, kéo dài tư thế này một khoảng thời gian ngắn đủ để niệm một câu “Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm BồTát”, xong ngồi dậy.

Cách thức tụng đọc chú đại bi :

Chú Đại Bi phải nên được trì tụng lớn tiếng, giọng điệu trầm hùng, nhanh và liên tục bằng cách lấy hơi từ bụng ra. Lớn tiếng ở đây không có nghĩa là ta phải la lớn lên, nhưng giọng đọc phải rõ ràng, nghe đủ tiếng, không lờ mờ, trại giọng.

KinhNghiệp Báo Sai Biệt” cho biết việc niệm Phật, tụng kinh, trì chú lớn tiếng có mười công đức sau đây :

Dẹp được sự buồn ngủ ám ảnh
Thiên ma hoảng sợ.
Tiếng vang khắp mười phương
Ba đường hết khổ
Tiếng đời chẳng lọt vào tai
Lòng không tán loạn
Dõng mãnh tinh tấn
Chư Phật vui mừng
Tam muội hiện ra trước mắt
Vãng sanh Tịnh Độ

Thật sự, ta cũng sẽ không lo ngại cơn buồn ngủ ám ảnh. Bởi vì khi trì tụng chú Đại Bi, các vị Thiên, Long, Hộ Pháp sẽ luôn ở bên cạnh ta, khi ta rơi vào cơn buồn ngủ, các Ngài sẽ giúp đánh thức ta -mà rồi qúy vị sẽ chứng nghiệm khi thực hành trì chú một cách nghiêm túc- bằng một âm thanh như tiếng sấm nổ ở trong đầu khiến ta hoảng hồn, giật mình tỉnh thức. Thông thường sau đó ta sẽ không còn (hoặc không dám) buồn ngủ nữa. Tuy nhiên, nếu việc này xảy ra một lần thứ hai trong buổi hành Thiền, điều này có nghĩa là thể xác ta quá mỏi mệt, ta nên xin phép được xả thiền để nghỉ ngơi.

Tuy nhiên trong một số trường hợp đặc biệt phải tụng thầm chỉ riêng cho mình nghe, hoặc chỉ nhép môi không ra tiếng như khi chúng ta đang làm việc, đi chung xe tàu với người khác, hoặc đi nằm trước khi ngủ.



B. Nghi thức hành lễ trì niệm chú đại bi:


Hành giả nên tự mình sắp xếp thời khoá biểu thích hợp và cố định cho việc hành thiền tu tập của mình hằng ngày, vào buổi sáng hoặc buổi tối hoặc cả sáng lẫn tối. Đức Phật dạy rằng mỗi người nên hành thiền ngày hai buổi, buổi sáng sớm lúc mới rạng đông và buổi hoàng hôn lúc ngày chuyển qua đêm, còn nữa đêm thì nên thức dậy để đọc kinh. Đó là thời khóa biểu lý tưởng cho người tu tập, tuy nhiên nếu ta không có điều kiện thì chọn một thời khóa trong ngày cũng được. Thời gian lựa chọn để thiền định vào buổi sáng hay buổi tối rất quan trọng đối với mỗi cá nhân bởi vì có người chỉ hành thiền kết quả vào buổi sáng hoặc ngược lại. Kinh nghiệm cho thấy những người còn sống đời sống thế tục thì hành Thiền vào buổi sáng sớm kết quả hơn, bởi vì buổi tối sau một ngày làm việc, thể xác còn mệt mỏi, tâm hồn lại bị vướng mắc bởi bao nhiêu chuyện lo nghĩ từ chuyện gia đình đến chuyện sở làm … rất khó định tâm.

Ngoài ra, mỗi cuối tuần nên có một buổi hành lễ chung của những người trong nhóm; đây cũng là dịp để tự sám hối, trao đổi kinh nghiệm tu tập. Việc tu học sẽ tăng tiến nhanh chóng nếu ta có những bạn đồng tu, những thiện trí thức đúng nghĩa.

Nghi thức hành thiền


Hành giả ngồi xuống theo tư thế kiết già hay bán già. Điều chỉnh thế ngồi, lắc vai, lay chuyển thân thể chừng 5 lần, sửa xương sống cho ngay, chuẩn bị cho mình một thế ngồi thoải mái.

Rải ba tiếng chuông.

Lắng lòng thanh tịnh theo tiếng chuông ngân, hành giả thanh lọc nội tâm, tiêu trừ các tội chướng thân khẩu ý để bắt đầu bước vào nghi thức hành Thiền.

1. Tịnh Pháp Giới và Tam Nghiệp Chơn Ngôn:

ÁN LAM (21lần)
Án ta phạ bà phạ, truật đà ta phạ, đạt ma ta phạ bà phạ, truật độ hám (3 lần)

2. Tác Bạch Cúng Hương:

(Có thể có những bài nguyện hương khác nhau, hành giả có thể tự chọn bài nguyện hương quen thuộc).

Hương thơm giăng bủa
Thánh đức tỏ tường
Bồ Đề Tâm rộng chẳng suy lường
Tùy chỗ phóng hào quang
Lành tốt phi thường
Dâng cúng Pháp trung vương


NAM MÔ HƯƠNG CÚNG DƯỜNG BỒ TÁT, MA HA TÁT. (3 lần).

3. Đãnh lễ chư PHẬT, BỒ TÁT

  • Nhất tâm đãnh lễ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn. (Chuông, 1 lạy).
  • Nhất tâm đãnh lễ Tây Phương Cực Lạc Thế Giới A-Di-Đà-Thế Tôn. (Chuông, 1 lạy).
  • Nhất tâm đãnh lễ Đương Lai Hạ Sanh Di Lặc Thế Tôn. (Chuông, 1 lạy).
  • Nhất tâm đãnh lễ Quá Khứ Vô Lượng Ức Kiếp, Thiên Quang Vương Tịnh Trụ Thế Tôn (Chuông, 1 lạy).
  • Nhất tâm đãnh lễ Quá Khứ Vô Lượng Kiếp, Chánh Pháp Minh Thế Tôn (Chuông, 1 lạy).
  • Nhất tâm đãnh lễ Thập Phương Nhứt Thiết, Chư Phật Thế Tôn (Chuông, 1 lạy).
  • Nhất tâm đãnh lễ Hiền Kiếp Thiên Phật, Tam Thế Nhứt Thiết Chư Phật Thế Tôn (Chuông, 1 lạy).
  • Nhất tâm đãnh lễ Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni Thần Diệu Chương Cú. (Chuông, niệm 3 lần, 3 lạy).
  • Nhất tâm đãnh lễ Quán Âm Sở Thuyết Chư Đà La Ni, Cập Thập Phương Tam Thế Nhứt Thiết Tôn Pháp.(Chuông, niệm 3 lần, 3 lạy).
  • Nhất tâm đãnh lễ Thiên Thủ Thiên Nhãn Đại Từ Đại Bi Quán Thế Âm Tự Tại Bồ Tát Ma Ha Tát.(Chuông, niệm 3 lần, 3 lạy).
  • Nhất tâm đãnh lễ Đại Lực Đại Thế Chí Bồ Tát Ma Ha Tát (Chuông, 1 lạy).
  • Nhất tâm đãnh lễ Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát Ma Ha Tát(Chuông, 1 lạy).
  • Nhất tâm đãnh lễ Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát Ma Ha Tát (Chuông, 1 lạy).
  • Nhất tâm đãnh lễ Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát Ma Ha Tát (Chuông, 1 lạy).
  • Nhất tâm đãnh lễ Tổng Trì Vương Bồ Tát Ma Ha Tát (Chuông, 1 lạy).
  • Nhất tâm đãnh lễ Thập Phưong Tam Thế, Nhứt Thiết Bồ Tát Ma Ha Tát (Chuông, 1 lạy).
  • Nhất tâm đãnh lễ Ma HA Ca Diếp Tôn Giả, Vô Lượng Vô Số Đại Thanh Văn Tăng, Chư Lịch Đại Tổ Sư (Chuông, 1 lạy).

4. Đại bi phát nguyện:

(Nếu một nhóm hành thiền chung, người chủ trì sẽ dâng lời phát nguyện này, các thiền giả chỉ nhẫm đọc theo và lắng lòng suy nghĩ theo lời nguyện.)

Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm,

Nguyện con mau biết tất cả Pháp.

Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm,

Nguyện con sớm được mắt trí huệ.

Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm,

Nguyện con mau độ các chúng sanh.

Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm,

Nguyện con sớm được phương tiện khéo.

Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm,

Nguyện con mau lên thuyền bát nhã.

Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm,

Nguyện con sớm được qua biển khổ.

Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm,

Nguyện con mau được giới định đạo.

Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm,

Nguyện con sớm lên non niết bàn.

Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm,

Nguyện con mau về nhà vô vi.

Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm,

Nguyện con sớm đồng thân pháp tánh.

Nếu con hướng về nơi non đao,

Non đao tức thời liền sụp đổ.

Nếu con hướng về lửa, nước sôi.

Nước sôi, lửa cháy tự khô tắt.

Nếu con hương về cõi địa ngục,

Địa ngục liền mau tự tiêu tan.

Nếu con hướng về loài ngã quỷ,

Ngã quỷ liền được tự no đủ.

Nếu con hướng về chúng Tu la,

Tu la tâm ác tự điều phục.

Nếu con hướng về các súc sanh,

Súc sanh tự được trí huệ lớn.

Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm (10 lần)
(chuông, lạy)

Xong tụng đọc:



CHÚ ĐẠI BI

Nam-mô Đại-bi Hội-Thượng Phật Bồ-tát (3 lần)
Thiên thủ thiên nhãn, vô ngại Đại-bi tâm đà-la-ni.

Nam-mô hắc ra đát na, đá ra dạ da. Nam-mô a rị da, bà lô Yết-đế, thước bát ra da, bồ đề tát đỏa bà da. Ma-ha-tát đỏa bà da, ma ha ca lô ni ca da. Án tát bàn ra phạt duệ, số đát na đát tỏa. Nam-mô tất kiết lật đỏa, y mông a rị da bà lô Yết-đế, thất Phật ra lăng đà bà. Nam-mô na ra cẩn trì hê rị, ma ha bàn đa sa mế, tát bà a tha đậu du bằng, a thệ dựng, tát bà tát đa, na ma bà đà, ma phạt đặc đậu, đát điệt tha. Án a bà lô hê, lô ca đế, ca ra đế, di hê rị, ma ha bồ đề tát đỏa, tát bà tát bà, ma ra ma ra, ma hê ma hê, rị đà dựng, câu lô câu lô kiết mông, độ lô độ lô phạt xà da đế, ma ha phạt xà da đế, đà la đà la, địa rị ni, thất Phật ra da, dá ra dá ra. Ma mạ phạt ma ra, mục đế lệ, y hê y hê, thất na thất na, a ra sâm Phật ra xá lợi, phạt sa phạt sâm, Phật ra xá da, hô lô hô lô ma ra, hô lô hô lô hê rị, ta ra ta ra, tất rị tất rị, tô rô tô rô, bồ đề dạ, bồ đề dạ, bồ đà dạ, bồ đà dạ, di đế rị dạ, na ra cẩn trì, địa rị sắt ni na, ba dạ ma na ta-bà ha, tất đà dạ ta-bà ha. Ma ha tất đà dạ ta-bà ha. Tất đà du nghệ thất bàn ra dạ ta-bà ha. Na ra cẩn trì ta-bà ha. Ma ra na ra ta-bà ha. Tất ra tăng a mục khư da, ta-bà ha. Ta-bà ma ha, a tất đà dạ ta-bà ha. Giả kiết ra a tất đà dạ ta-bà ha. Ba đà ma kiết tất đà dạ ta-bà ha. Na ra cẩn trì bàn dà ra dạ ta-bà ha. Ma bà rị thắng yết ra dạ, ta-bà ha. Nam-mô hắc ra đát na đa ra dạ da. Nam-mô a rị da bà lô Yết-đế thước bàn ra dạ, ta-bà ha.


Án tất điện đô mạn đa ra bạt đà dạ ta-bà ha. (3 lần)


Chú Đại Bi Từng Dòng:

Nam-mô Đại-bi Hội-Thượng Phật Bồ-tát (3 lần).
Thiên thủ thiên nhãn, vô ngại Đại-bi tâm đà-la-ni.

1. Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da
2. Nam mô a rị da
3. Bà lô yết đế thước bát ra da
4. Bồ Đề tát đỏa bà da
5. Ma ha tát đỏa bà da
6. Ma ha ca lô ni ca da
7. Án
8. Tát bàn ra phạt duệ
9. Số đát na đát tỏa
10.Nam mô tất kiết lật đỏa y mông a rị da
11.Bà lô kiết đế thất Phật ra lăng đà bà
12.Nam mô na ra cẩn trì
13.Hê rị, ma ha bàn đa sa mế
14.Tát bà a tha đậu du bằng
15.A thệ dựng
16.Tát bà tát đa (Na ma bà tát đa)
17.Na ma bà dà
18.Ma phạt đạt đậu đát điệt tha
19.Án. A bà lô hê
20.Lô ca đế
21.Ca ra đế
22.Di hê rị
23.Ma ha bồ đề tát đỏa
24.Tát bà tát bà
25.Ma ra ma ra
26.Ma hê ma hê rị đà dựng
27.Cu lô cu lô yết mông
28.Độ lô độ lô phạt xà da đế
29.Ma ha phạt xà da đế
30.Đà ra đà ra
31.Địa rị ni
32.Thất Phật ra da
33.Giá ra giá ra
34.Mạ mạ phạt ma ra
35.Mục đế lệ
36.Y hê di hê
37.Thất na thất na
38 A Ra sâm Phật ra xá lợi
39.Phạt sa phạt sâm
40.Phật ra xá da
41.Hô lô hô lô ma ra
42.Hô lô hô lô hê rị
43.Ta ra ta ra
44.Tất rị tất rị
45.Tô rô tô rô
46.Bồ Đề dạ Bồ Đề dạ
47.Bồ đà dạ bồ đà dạ
48.Di đế rị dạ
49.Na ra cẩn trì
50.Địa rị sắc ni na
51.Ba dạ ma na
52.Ta bà ha
53.Tất đà dạ
54.Ta bà ha
55.Ma ha tất đà dạ
56.Ta bà ha
57.Tất đà du nghệ
58.Thất bàn ra dạ
59.Ta bà ha
60.Na ra cẩn trì
61.Ta bà ha
62.Ma ra na ra
63.Ta bà ha
64.Tất ra tăng a mục khê da
65.Ta bà ha
66.Ta bà ma ha a tất đà dạ
67.Ta bà ha
68.Giả kiết ra a tất đà dạ
69.Ta bà ha
70.Ba đà ma kiết tất đà dạ
71.Ta bà ha
72.Na ra cẩn trì bàn đà ra dạ
73.Ta bà ha
74.Ma bà rị thắng yết ra dạ
75.Ta bà ha
76.Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da
77.Nam mô a rị da
78.Bà lô kiết đế
79.Thước bàn ra dạ
80.Ta bà ha
81.Án. Tất điện đô
82.Mạn đà ra
83.Bạt đà gia
84.Ta bà ha.

Nam Mô Đại Bi Quan Thế Âm Bồ Tát

Chúc mọi người an lạc và tinh tấn.



NAM MÔ ĐƯƠNG LAI HẠ SANH 
DI LẶC TÔN PHẬT 


Di Lặc Bồ tát: tiếng Phạm là Maitreya, còn gọi là Mai Hằng Lệ Dược, Vị Hằng Lý Dược, Di Đế Lễ, Di Đế Khang, hoặc là Mai Nhậm Lê, dịch là Từ Thị, là vị Bồ tát sẽ thành Phật trong tương lai sau Đức Phật Thích Ca, nên còn gọi là Nhứt Sanh bổ xứ Bồ tát, Bổ Xứ Tát Đỏa hoặc Di Lặc Như Lai.

Kinh Hiền Ngu chép rằng: Di Lặc Bồ tát thuộc dòng dõi Bà la môn, cha là Tu Phạm Ma, mẹ là Phạm Ma Đề Bạt, người nam Thiên Trúc. Vì mẹ của Bồ tát Di Lặc sau khi mang thai Ngài thì tính tình trở nên từ hòa bi mẫn, cho nên khi hạ sanh Ngài thì đặt tên là Từ Thị.

Theo Kinh Di Lặc Thượng Sanh và Di Lặc Hạ Sanh thuyết rằng: Di Lặc Bồ tát là đệ tử của Đức Phật Thích Ca, nhập diệt trước Đức Phật, Ngài sanh lên cung trời Đâu Suất ở đó thuyết pháp cho chư Thiên. 
Trong Kinh Nhứt Thiết Trí Quang Minh Tiên Nhân Từ Tâm Nhơn Duyên Bất Thực Nhục chép: Di Lặc Bồ tát phát tâm không ăn thịt, vì nhơn duyên này mà có tên là Từ Thị. Từ Thị Bồ tát còn có nghĩa là Từ đứng đầu trong Tứ Vô Lượng Tâm của Phật, Từ là hạt giống sinh ra chư Phật, khiến cho tất cả thế gian không đoạn mất hạt giống Phật nên gọi là Từ Thị.

Như vậy danh xưng Di Lặc Bồ tát được kiến lập trên căn bản bổn nguyện từ bi do nhiều đời nhiều kiếp Ngài tu tập Từ Bi Tam Muội, cũng chính là Đức hạnh từ bi cứu độ đem đến sự an lạc cho chúng sanh của Bồ tát. Ngài được Đức Phật thọ ký trong tương lai khoảng năm mươi bảy ức sáu ngàn vạn năm sẽ thành Phật hiệu là Di Lặc Phật, Di lặc Như Lai. Hình tượng Di Lặc Bồ tát mà chúng ta thấy là hình tượng của Bố Đại Hòa Thượng, vì khi thị tich Ngài có nói bài kệ: Di Lặc chơn Di Lặc, hóa thân thiên bá ức, thời thời thị thời nhơn, thời nhơn tự bất thức. Căn cứ vào bài kệ đó thế gian cho rằng Bố Đại Hòa Thượng là hóa thân của Đức Phật Di Lặc.



DI LẶC CỨU KHỔ CHÂN KINH


Phật thuyết Di Lặc cứu khổ kinh 
Di Lặc hạ thế bất phi khinh 
Lãnh bửu tề lỗ linh sơn địa
Niêm hoa ấn chứng khảo tam thừa
Lạc tại trung nguyên tam tinh địa
Đại chứng tứ xuyên vương đào tâm
Thiên chân thu viên quải thánh hiệu
Đẳng đãi thời chí điểm thần binh
Vân lôi chấn khai mậu kỷ thổ
Thiên hạ thần quỷ bất an ninh
Thân tại nhân thiên trung hoa mẫu
Cửu liên thánh giáo quy thượng thừa
Thiên hoa Lão Mẫu thùy ngọc tuyến
Thu viên hiển hóa tại cổ đông
Nam bắc lưỡng cực liên tông tự
Hỗn nguyên cổ sách tại trung ương
Lão Mẫu giáng hạ thông thiên khiếu
Vô ảnh sơn tiền đối hợp đồng
Anh nhi yếu tưởng quy gia khứ
Trì niệm đương lai Di Lặc Kinh
Dụng tâm trì niệm Phật lai cứu
Đóa đóa kim liên khứ siêu sinh
Thức đắc tây lai bạch dương
Hương nhi điểm thiết hóa thành kim
Mỗi nhật chí tâm thường trì niệm
Tam tai bát nạn bất lai xâm
Yếu tưởng thành Phật cần lễ bái
Thường trì thông minh trí tuệ tâm
Hưu thính tà nhân hồ thuyết thoại
Lao thuyên ý mã niệm vô sinh
Lão Mẫu giáng hạ chân thiên chú
Dụng tâm trì niệm hữu thần thông
Mãn thiên tinh đẩu đô hạ thế
Ngũ phương liệt tiên hạ thiên cung
Các phương thành hoàng lai đối hiệu
Báo sự linh đồng sát đích thanh
Tam Quan từ bi Đại Đế chủ
Xá tội tam tào cứu chúng sinh
Cứu khổ thiên tôn lai cứu thế
Thân điểm văn bộ yết đế thần
Bát đại Kim Cang lai hộ pháp
Tứ vị Bồ Tát cứu chúng sinh
Khẩn lãnh tam thập lục viên tướng
Ngũ bách linh quan khẩn tùy cân
Phù trợ Di Lặc thành đại đạo
Bảo hựu hương nhi đắc an ninh
Bắc phương chân võ vi tướng soái
Thanh kiểm hồng phát hiển thần thông
Xả khởi tạo kỳ già nhật nguyệt
Đầu đỉnh sâm la thất bửu tinh
Oai trấn bắc phương vi soái thủ
Tốc thỉnh chư ác quải giáp binh
Đáp cứu nguyên nhân hương nhi nữ
Hỏa quang lạc địa hóa vi trần
Tứ hải long vương lai trợ đạo
Các giá tường vân khứ đằng không
Thập phương thiên binh hộ phật giá
Bảo hựu Di Lặc khứ thành công
Hồng dương liễu đạo quy giá khứ
Chuyển đáo tam dương Di Lặc tôn
Vô hoàng sắc lệnh ký hạ sinh
Thu phục nam diêm quy chánh tông
Lai vãng tạo hạ chân ngôn chú
Truyền hạ đương lai đại tạng kinh
Anh nhi xá nữ thường trì niệm
Tà thần bất cảm lai cận thân
Trì niệm nhất biến thần thông đại
Trì niệm lưỡng biến đắc siêu sinh
Trì niệm tam biến thần quỷ phạ
Võng lạng tà ma hóa vi trần
Tu trì kiếp nội tầm lộ kính
Niệm khởi chân ngôn quy Phật lệnh
Nam Mô Thiên Nguyên Thái Bảo
A Di Đà Phật.
Thập khấu thủ

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét